SlideShare a Scribd company logo
1 of 47
NGUYỄN BÍCH VÂN




TRÒ DIỄN VÀ TRÒ CHƠI DÂN GIAN
    TRONG LỄ HỘI LỒNG TỒNG
    CỦA NGƯỜI TÀY XÃ YÊN LỖ,
HUYỆN BÌNH GIA, TỈNH LẠNG SƠN
(Tiểu luận khoa học của sinh viên đại học)




                      1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………5
     1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………………….5
     2. Nghiên cứư đề tài……………………………………………5
     3. Mục đích nghiên cứư đề tài…………………………………6
     4. Nguồn tư liệu phục vụ đề tài………………………………..6
     5. Phương pháp thực hiện đề tài………………………………6
     6. Đóng góp khoa học của đề tài………………………………6
     7. Cấu trúc nội dung đề tài……………………………………6
CHƯƠNG I: Những nét khái quát về địa lý, kinh tế, xã hội của người
Tày xã Yên Lỗ, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn………………….7
1.1 Vị trí địa lý và con người……………………………………….7
1.1.1 Vị trí địa lý…………………………………………………….7
1.1.2 Con người và lịch sử cư trú…………………………………...               7
1.2 Sinh hoạt kinh tế và văn hoá vật chất………………………….8
1.3 Tổ chức gia đình, xã hội…………………………………………11
1.3.1 Gia đình và quan hệ gia đình………………………………...11
1.3.2 Về quan hệ xã hội……………………………………………..11
1.4 Văn hoá - phong tục……………………………………………..12
1.5 Văn hoá dân gian………………………………………………...
13
CHƯƠNG II: Các trò diễn & trò chơi dân gian trong lễ hội Lồng
Tồng…………………………………………………………………..15
2.1 Trò diễn…………………………………………………………..15
2.1.1 Trò sỹ, nông, công, thương (kén rể)…………………………..15
2.1.2 Loòng kỳ lằn, loòng phụ (trò múa sư tử)………………………17
2.1.3 Oóc quyền (trò múa võ)……………………………………….20
2.1.4 Trò hát then, sli, lượn………………………………………….22


                                2
2.2 Các trò chơi………………………………………………………24
2.2.1 Thọt còn (trò tung còn)………………………………………..24
2.2.2 Tức kỳ, tức cờ (chơi cờ tướng, cờ lài)…………………………25
2.2.3 Xẻ thỏi (kéo co)………………………………………………...
28
2.2.4 Thi nôộc tiêu tò tót (chọi chim hoạ mi)………………………29
2.2.5 Bắn nả (thi bắn nỏ)……………………………………………30
2.2.6 Tức yến, tức diến (thi đánh yến)………………………………31
2.2.7 Tức sáng (thi đánh sảng)………………………………………31
2.2.8 Tức lọ (đánh đáo)………………………………………………32
2.2.9 Tức bi (đánh bi)………………………………………………...
33
2.2.10 Tức khăng (đánh khăng)……………………………………..34
2.2.11 Tức của thầu…………………………………………………..34
2.2.12 Tức chẹt khum (ô ăn quan)…………………………………..36
2.2.13 Pây mạ điếng (đi cà kheo)…………………………………….37
CHƯƠNG III: Giá trị của trò diễn, trò chơi dân gian trong Lễ hội
Lồng Tồng và những vấn đề đặt ra………………………………….40
3.1 Các giá trị………………………………………………………….40
3.1.1 Giá trị văn hoá tinh thần……………………………………….40
3.1.2 Giá trị văn hoá xã hội…………………………………………...
40
3.1.3 Giá trị về nghệ thuật hát dân ca………………………………..41
3.1.4 Giá trị về bản sắc văn hoá dân tộc……………………………..41
3.1.5 Giá trị lịch sử……………………………………………………42
3.2 Những vấn đề đặt ra nhằm bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá……………………………………………………………...                                  42
Kết luận………………………………………………………………..45
Tài liệu tham khảo……………………………………………………47

                                 3
LỜI CẢM ƠN


        Để hoàn thành được bài viết tiểu luận khoa học này là do sự nỗ
lực của bản thân em dưới sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy giáo, TS
Phạm Việt Long, cùng với sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo trường Đại
học Văn hoá Hà Nội, khoa văn hoá dân tộc đã cung cấp tư liệu quý báu
giúp em hoàn thành bài viết.
        Đây là lần đầu làm quen với công việc nghiên cứu, dù cố gắng
nhiệt tình nhưng cũng không tránh khỏi những thiếu sót trong lúc thực
hiện bài viết. Vậy em kính mong các thầy, cô giáo góp ý để các bài viết
sau được tốt hơn.
       Em xin chân thành cảm ơn.




                                   4
MỞ ĐẦU


    1. Tính cấp thiết của đề tài
           Trong các dân tộc thiểu số Việt Nam, dân tộc Tày chiếm số lượng
dân cư khá lớn trong. Dân tộc Tày cư trú chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía
Bắc, có tập quán và trình độ sản xuất khá tiến bộ, có nền văn hoá lâu đời,
đặc sắc.
           Truyền thống văn hoá dân tộc Tày đang cú những biến đổi sâu
sắc bởi sự giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc trong nước và ngoài
nước. Đối với em là một sinh viên khoa văn hoá dân tộc, sự hiểu biết về
nét đẹp trong văn hoá dân gian còn rất hạn chế nên việc nghiên cứu về trò
chơi, trò diễn là việc làm cần thiết để góp một phần nhỏ bé vào việc
nghiên cứu bản sắc văn hoá dân tộc, qua đó thấy được những cái hay, cái
đẹp để có hướng giữ gìn và phát huy trong xã hội hiện đại, đồng thời
khắc phục những mặt hạn chế ở đời sống xã hội.
    2. Tình hình nghiên cứu đề tài
    Đã có một số anh chị khoá trước tìm hiểu về trò chơi dân gian, trò
diễn của người Tày, nhưng nhìn chung còn rất hạn hẹp, không bao quát
được các trò. Với việc nghiên cứu đề tài lần này của mình, em mong
muốn sẽ góp một phần nào đó vào việc gìn giữ và phát huy tiếng nói dân
tộc Tày thông qua các trò chơi.
   3. Mục đích nghiên cứu
    Tìm hiểu trò diễn, trò chơi dân gian trong lễ hội Lồng Tồng của
người Tày ở xã Yên Lỗ, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn để giup người
đọc hiểu thêm về một loại hình sinh hoạt văn hoá của nhân dân địa
phương và đề xuất một số giải pháp góp phần bảo tồn, phát huy vốn văn
hoá truyền thống của dân tộc.
    4. Nguồn tư liệu



                                      5
Thu thập từ các tài liệu, sách, báo, tạp chí và những người cung cấp
tư liệu trực tiếp trong dịp lễ hội Lồng Tồng xưa và nay của xã Yên Lỗ,
huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn.
    5. Phương pháp nghiên cứu
       Dựa vào phương pháp nghiên cứu mà em đã được học trong
trường, như thu thập tài liệu, khảo sát thực tế, phương pháp điền dã dân
tộc học, trao đổi, phỏng vấn, miêu tả so sánh…
    6. Đóng góp khoa học của đề tài
    Giới thiệu được trò chơi, trò diễn trong lễ hội Lồng Tồng của một
địa phương mà trước đây chưa được nhiều người quan tâm.
    Góp phần chứng minh được tính phong phú, đa dạng và giá trị đặc
sắc của văn hoá dân gian các dân tộc thiểu số ở nước ta.
    Đề xuất được biện pháp bảo tồn, phát huy một vốn quý trong di sản
văn hoá của người Tày.
   7. Kết cấu
       Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài có 3 chương:
         Chương I: Những nét khái quát về địa lý, kinh tế, xã hội của
người Tày xã Yên Lỗ, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn
        Chương II: Các trò diễn và trò chơi dân gian trong lễ hội Lồng
Tồng của người Tày ở xã Yên Lỗ, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn
        Chương III: Giá trị của trò diễn, trò chơi dân gian trong lễ hội
Lồng Tồng của người Tày ở đây và những vấn đề đặt ra


                                 CHƯƠNG I
        NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA LÝ, KINH TẾ, XÃ HỘI
   CỦA NGƯỜI TÀY XÃ YÊN LỖ, HUYỆN BÌNH GIA,TỈNH LẠNG SƠN


    1.1. Vị trí địa lý và con người
    1.1.1 Vị trí địa lý


                                      6
Yên Lỗ có một vị trí vô cùng thuận lợi của vùng Đông - Bắc
huyện Bình Gia. Dạng địa hình phổ biến ở xã Yên Lỗ là vùng đồi và núi
thấp. Toàn bộ xã Yên Lỗ nằm dọc theo một thung lũng khoảng 20 km
được bao bọc bởi các hệ thống dãy núi đất. Địa hình thể hiện khá rõ tính
chất phân bậc.
        Về đất: Chủ yếu là đất sét và đất thịt, không có đá vôi. Do đó, địa
chất Yên Lỗ cũng khác nhiều vùng khác trong huyện.
        Khí hậu: Nhiệt đới gió mùa, mùa đông tương đối dài và lạnh, nên
nhiệt độ thấp hơn các tỉnh đồng bằng 2-5 độ, lượng mưa trung bình 1400-
1500 mm trên một năm.
         Khoáng sản: Không có các mỏ kim loại, chỉ có đất sét và cát
vàng phục vụ cho sản xuất vật liệu xây dựng làm gạch ngói để làm các
công trình của đời sống xã hội. Các loại tài nguyên này tồn tại ở hầu hết
các địa bàn trong xã.
        Về thuỷ văn: Mạng lưới sông suối và khe rạch khá phát triển. Mật
độ suối và khe rạch dao động trung bình từ 0,6 đến 1,2 km2.
        1.1.2 Con người và lịch sử cư trú
     Xã Yên Lỗ có 1.359 khẩu thuộc 270 hộ, chiếm gần 50% tổng số hộ
trong toàn xã.
     Yên Lỗ là nơi tụ cư của đồng bào các dân tộc thiểu số như Tày,
Nùng, Dao. Họ khác nhau về nguồn gốc, ngôn ngữ, truyền thống, văn hoá
vật chất và văn hoá tinh thần. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài và phát
triển, cộng đồng các dân tôc xã Yên Lỗ đã đoàn kết gắn bó với nhau để
chinh phục thiên nhiên và bảo vệ quê hương, bản làng.
        Là thành viên trong cộng đồng các dân tộc nói ngôn ngữ Tày –
Thái, người Tày chiếm 38% dân số của tỉnh Lạng Sơn, đứng thứ hai so
với người Nùng ở tỉnh, là dân tộc đông nhất trong 53 dân tộc thiểu số của
cả nước. Người Tày là một trong những dân tộc sinh sống trên đất nước
ta sớm nhất, với trình độ phát triển tương đối hoàn chỉnh và hoàn thiện,

                                    7
làm chủ cả một vùng đất đai rộng lớn. Vốn là cư dân sinh sống chính
bằng kinh tế nông nghiệp lúa nước, địa bàn cư trú người Tày đa phần là ở
các thung lũng có nhiều ruộng. Người Tày là dân bản địa bao giờ cũng
lập làng, làm ruộng ở vị trí thuận lợi hơn so với dân tộc thiểu số khác.
Với truyền thống lâu đời lại thêm lao động cần cù, sáng tạo, có điều kiện
tự nhiên thuận lợi nên nông nghiệp ruộng nước người Tày phát triển
tương đối cao. Địa bàn định cư lâu đời của người Tày Lạng Sơn là các
cánh đồng tương đối lớn, nổi tiếng như lòng chảo Thất Khê, Bắc Sơn,
Bình Gia, Lộc Bình… Người Tày sống thành từng bản, ít thì có vài chục
hộ, nhiều thì hơn một trăm nóc nhà.
       Người Tày ở nhà sàn là chủ yếu và phổ biến. Quan hệ dòng họ và
gia đình tộc người Tày luôn gắn kết bền chặt. Quan hệ trong gia đình
cũng có những yếu tố riêng biệt như bố chồng, anh chồng không được
ngồi ăn cùng với con dâu, em dâu… Quyền lực trong gia đình người Tày
theo phụ hệ - ông, cha, con trưởng là cơ bản.
    1.2 Sinh hoạt kinh tế và văn hoá vật chất
       Người Tày xã Yên Lỗ nói riêng và người Tày cả nước nói chung
là một trong những cư dân làm ruộng nước sớm nhất trong khu vực Nam
Á và Đông nam Á. Họ biết dùng cày, biết sử dụng sức kéo của trâu, bò
vào việc canh tác. Đó là điều kiện thuận lợi cho cộng đồng tộc người Tày
sinh sống ở vùng núi, nhiều cánh đồng thung lũng rộng, nhiều vùng núi
rậm rạp khác. Trong lịch sử của mình, người Tày đã biết làm thuỷ lợi
phục vụ nghề trồng lúa nước như mương, phai. Ngoài làm ruộng, người
Tày ở Yên Lỗ còn làm nương rẫy với lối canh tác đơn giản: đao canh hoả
chủng, canh tác bằng dao cuốc, đốt bằng lửa, tra hạt bằng cây chọc lỗ.
Nghề chăn nuôi khá phát triển các loại vật nuôi như: trâu, bò, lợn, gà,
vịt…Trong cuộc sống gắn bó với ruộng đồng: con trâu, bò được người
Tày quý mến. Đây là loại gia súc vừa làm sức kéo vừa để ăn thịt. Gà, vịt,
ngan, ngỗng, lợn, dê…là nguồn thực phẩm tiện lợi được sử dụng hàng

                                      8
ngày và còn là một phương tiện biểu hiện tâm lý mến khách của người
Tày.
       Bên cạnh phát triển trồng cây lương thực và chăn nuôi, người Tày
còn trồng các loại cây công nghiệp có giá trị cao như: hồi, trẩu, sở… Đặc
biệt là cây hồi đã được cư dân Tày ở Yên Lỗ trồng hàng trăm năm nay,
cho sản lượng dầu rất lớn để bán và xuất khẩu.
        Người Tày xã Yên Lỗ có một số nghề thủ công truyền thống như
rèn, đan lát, mộc, đục đá, làm gạch ngói và dệt. Trong đó nghề dệt, đan
lát phát triển hơn cả. Nghề mộc cũng phát triển, tuy nhiên chủ yếu là vật
dụng gia đình, làm nhà cửa, đóng bàn ghế. Nghề rèn và đục đá tuy không
nhiều nhưng cũng đủ sản xuất lưỡi cuốc, dao, liềm, cối xay đá phục vụ
nhu cầu. Nghề sản xuất gạch ngói chủ yếu là ngói âm dương để lợp nhà
sàn của đồng bào dân tộc. Nghề dệt vải chàm, thổ cẩm được phát triển,
không chỉ đáp ứng nhu cầu của địa phương mà còn trao đổi buôn bán với
các cư dân sống xen kẽ bên cạnh. Ngoài ra còn có một số nghề thủ công
nhỏ lẻ khác như cất tinh dầu hồi, nấu cao động vật…Tuy nhiên các nghề
thủ công ở đây vẫn tiến hành theo mùa, tranh thủ lúc nhàn rỗi, chưa xuất
hiện các xưởng lớn với đội ngũ thợ lành nghề tách khỏi trồng trọt.
       Tóm lại kinh tế Lạng Sơn trong quá khứ và hiện tại phát triển khá
mạnh do có sự đóng góp tích cực của dân tộc Tày, một trong những chủ
thể chính của tỉnh. Bên cạnh trồng trọt, chăn nuôi, thủ công nghiệp thì
buôn bán giao lưu trao đổi hàng hoá trong nước và nước ngoài phát triển
rầm rộ nhất. Ngay từ thế kỷ XVI – XVII đã xuất hiện những thương
trường thuyền bè tấp nập buôn bán như chợ Kỳ Lừa, chợ Vân Mịt…
Trong thời kỳ kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, kinh tế
thương mại – du lịch là ngành mũi nhọn hàng đầu của tỉnh, được chú ý
đầu tư phát triển.
       Về văn hoá vật chất: Trong số các dân tộc ở Lạng Sơn, người Tày
xã Yên Lỗ nói riêng và cư dân Tày của cả tỉnh nói chung là cư dân bản

                                    9
địa sống lâu đời nhất, cùng sống trong một hệ sinh thái, có mối quan hệ
gần gũi lâu đời với các dân tộc khác. Vì vậy, trong một số mặt của đời
sống văn hoá, người Tày chịu ảnh hưởng văn hoá của nhiều dân tộc khác.
       Trước hết là món ăn cổ truyền: Có thể nói nguồn lương thực, thực
phẩm chính của người Tày xã Yên Lỗ là sản phẩm thu được từ hoạt động
sản xuất kinh tế của cư dân sống trong vùng sinh thái thung lũng có rừng
và sông suối bao quanh. Đó là gạo và hoa màu như ngô, khoai, sắn,
đậu… các loại rau quả do trồng và thu hái trong rừng, các loại thuỷ sản
tôm, cua, cá do nuôi và thu lượm ở sông, suối. Các loại thịt trâu, bò, lợn,
gà, vịt… do chăn nuôi gia đình hay chim thú săn bắn trong rừng. Từ các
nguồn lương thực thực phẩm trên, cơ cấu dinh dưỡng và bữa ăn hàng
ngày chủ yều là gạo – cá, tôm, rau, quả - thịt. Lạng Sơn là vùng chịu ảnh
hưởng của gió mùa đông bắc, nên thời tiết rất lạnh về mùa đông, vì thế
lượng thịt và mỡ dùng trong các bữa ăn hàng ngày nhiều hơn các địa
phương khác. Hơn nữa, người Tày vốn sống gần gũi với người Kinh,
người Hoa nên tiếp thu nhiều cách ăn uống của họ. Các món ăn như thịt
lợn quay, vịt quay, phở chua nổi tiếng của Lạng Sơn thu hút khách tham
quan du lịch trong nước và quốc tế.
        Về trang phục: Chủ yếu được cắt may bằng vải bông tự dệt có
nhuộm chàm. Quần áo nam nữ Tày màu đen xanh hoặc đen hồng, áo của
nam là áo ngắn được may ghép bốn thân, cúc vải, cổ tròn; áo của phụ nữ
gồm áo ngắn và áo dài năm thân. Cổ áo dài đứng, tròn, thấp, khuy cài
sang nách phải. Áo dài được sẻ ngay tận ngang hông, thuận tiện cho việc
đi làm, gấu áo dài quá gối. Bộ áo dài người Tày có thắt lưng màu đen
hồng đẹp, nền nã, dung dị, quý phái.
       Trang sức người Tày Yên Lỗ là các loại vòng cổ, vòng tay, trâm
cài tóc, dây chuyền, các loại hoa tai… Đồ trang sức bằng vàng, bạc,
không chỉ mang lại vẻ đẹp bên ngoài cho người phụ nữ mà còn có tác



                                      10
dụng bảo vệ sức khoẻ. Bởi vì theo quan niệm dân gian và kinh nghiệm
của người dân, nếu đeo bạc thì không bị cảm gió, cảm nắng.
        1.3 Tổ chức gia đình, xã hội
        1.3.1 Gia đình và quan hệ gia đình
         Với người Tày, gia đình thường đồng nghĩa với nhà vì mỗi gia
đình cư trú trong một nóc nhà. Gia đình Tày thuộc loại gia đình nhỏ, phụ
hệ, gia đình hai thế hệ là chủ yếu, tuy nhiên gia đình 3 – 4 thế hệ gồm ông
bà, cha mẹ, con cháu cũng không phải là ít. Trong gia đình người Tày,
chủ là người chồng, người cha nên gia đình mang tính phụ quyền. Người
chủ gia đình có vai trò quan trọng quyết định tổ chức sản xuất của gia
đình. Người ông, người cha là người điều hoà các mối quan hệ xã hội
trong và ngoài gia đình. Trong xã hội cổ truyền của người Tày, nền nếp
phân công lao động theo giới tính và theo lứa tuổi trong nội bộ gia đình
đã hình thành từ lâu. Tuy chủ gia đình là người chồng, người cha nhưng
người mẹ, người vợ cũng có vai trò quan trọng trong gia đình như sản
xuất, dựng vợ gả chồng, giỗ tết… người chồng người cha đều tham khảo
và coi trọng ý kiến của họ.
       1.3.2 Về quan hệ xã hội
        Từ lâu gia đình người Tày đã hình thành các nguyên tắc ứng xử
nhất định mà mọi người đều phải tuân theo. Trong gia đình, những nơi ăn
chốn nghỉ cho con trai, con gái, con dâu đều được quy định những kiêng
kị nhất định. Quan hệ giữa bố chồng, anh chồng, chị em dâu… được quy
định chặt chẽ. Quan hệ anh em con cháu trực hệ và bằng hệ trong gia
đình người Tày là: con chú con bác hoặc con cậu con dì xưng hô theo
ngành trưởng – thứ, nghĩa là anh là em không kể tuổi tác ít hay nhiều…
hoàn toàn giống người Kinh.
    1.4 Văn hoá - phong tục
        Trong bất kỳ tộc người nào, quan niệm “linh hồn”, “vạn vật hữu
linh” là cơ sở của toàn bộ hệ thống tín ngưỡng tôn giáo từ cổ sơ nguyên

                                    11
thuỷ đến phức tạp, hiện đại như ngày nay. Người Tày ở Yên Lỗ quan
niệm về phi, phi dịch ra tiếng Việt có nghĩa rất rộng, nó chỉ tất cả các
thánh thần, ma quỷ… Trong quan niệm dân gian của người Tày, phi có
hai loại: phi lành, phi dữ. Ma lành được thờ cúng trong gia đình, miếu,
đình, đền… còn ma dữ nói chung không được thờ. Các loại ma đều có ba
thế giới: trên trời, mặt đất, dưới mặt đất (âm phủ).
         Người Tày ở Yên Lỗ, Bình Gia cũng có quan niệm vạn vật hữu
linh, thiên đường, địa ngục. Sau khi chết, linh hồn bị đẩy xuống địa ngục
để xem xét kết tội nặng nhẹ. Sau một thời gian xem xét chịu cực hình thì
linh hồn được siêu thoát lên thiên đường, nơi mọi cái đều tươi đẹp, sống
sung sướng. Để coi sóc phần hồn, người Tày có một lớp người hành nghề
cúng bái, đó là các tào, mo, then, pựt…
         Hình thức thờ cúng tổ tiên là quan trọng nhất của người Tày.
Theo quan niệm của họ, ông bà, cha mẹ sau khi chết, linh hồn vẫn tồn tại
ở trên trời, do vậy con cháu phải lập bàn thờ để cúng trong nhà, hàng năm
phải cúng giỗ mời tổ tiên về chứng giám và phù hộ cho gia đình bình yên,
làm ăn phát đạt. Việc thờ cúng tổ tiên theo hệ chín đời. Người Tày cúng
tổ tiên vào dịp cúng giỗ. Bên cạnh đó, người Tày còn thờ Phật Bà Quan
Âm và Hắc hổ huyền đàn, thờ bà mụ hay mẹ hoa, thờ táo quân, thờ tổ sư
thầy tào, then. Ngoài ra trong mỗi bản còn lập miếu, là nơi thờ thổ thần,
ngôi đình thờ thành hoàng.
         Người Tày Yên Lỗ cho rằng trong sinh hoạt hàng ngày của con
người, nếu có những điều bất trắc, rủi ro… thì mọi người có thể thông
qua cúng lễ cầu khấn thần linh phù hộ hay giải thoát rủi ro cho mình khỏi
hoạn nạn. Tuy nhiên, trong các trường hợp như làm đám tang người chết,
trừ tà ma… thì không phải ai cũng làm được mà phải nhờ đến một lớp
người hành nghề cúng bái. Đó là các mo, then, tào… loại thày cúng mang
nặng tính chất đạo giáo và phải cúng theo sách mang tính chất bắt buộc,
không được bỏ qua công đoạn nào…

                                     12
Nói đến tín ngưỡng tôn giáo của người Tày Lạng Sơn, chúng ta
không thể không lưu ý tới những ảnh hưởng của Tam giáo. Đây không
phải là sự du nhập mà cơ bản vẫn trên nền tảng của các tín ngưỡng dân
gian. Ngoài những ảnh hưởng của Tam giáo đồng nguyên, thời Pháp xâm
lược còn có một số giáo sỹ Ki tô lên truyền đạo ở vùng người Tày Yên
Lỗ. Nhưng đồng bào không chấp nhận mà vẫn theo các tín ngưỡng cổ
truyền của mình.
    1.5 Văn hoá dân gian
         Người Tày Yên Lỗ có một nền văn hoá dân gian khá phong phú.
Ngày nay một số thần tích còn lưu giữ được trong đó truyện kể là chủ yếu
nhất trong cộng đồng tộc người. Đặc điểm của truyện cổ phản ánh đời
sống của cư dân nông nghiệp. Các truyện về thần nông, truyện Lục pjạ
(con mồ côi), truyện Dà Dìn, truyện Tài xì phòng, truyện về chàng Thám
Hoa… khẳng định sự phong phú trong kho tàng truyện cổ tích của người
Tày Yên Lỗ.
         Truyện kể về các hiện tượng tự nhiên cũng khá phong phú, ngày
nay vẫn còn lưu truyền.
          Vốn ca dao, tục ngữ, câu đố, những khúc hát đồng giao và trò
chơi của trẻ em Yên Lỗ khá phong phú, góp phần tạo nên diện mạo của
văn nghệ dân gian Xứ Lạng mà chủ yếu của nó là tộc người Tày.
         Bên cạnh văn học thì những bài dân ca giao duyên phát triển nhất
và tồn tại trong đời sống tinh thần của mọi người dân. Ta có thể thấy dân
ca Tày được chia thành hai loại lớn, đó là dân ca nghi lễ và dân ca giao
duyên.
    Dân ca giao duyên:
     Lượn: Là bộ phận dân ca Tày, lượn có vai trò quan trọng trong đời
sống tinh thần của người Tày. Lượn gồm có ba loại: lượn Cọi, lượn
Slương, lượn Nàng hai. Lượn Slương thường được tổ chức hát trong ngày



                                   13
hội Lồng Tồng mùa xuân hay vào những đêm trăng sáng vào dịp nông
nhàn.
        Phong Slư: Là những bức thư tình, một thể loại độc đáo của trai gái
Tày. Được hát trong giao duyên tỏ tình, trong lễ hội xuân, dịp cưới hoặc
trong lao động sản xuất.
    Những bài ca nghi lễ:
    Là kho tàng văn nghệ phong phú của người Tày Yên Lỗ. Có thể kể
đến quan làng, những bài then được hát trong các dịp cưới xin chúc tụng,
chữa bệnh, cấp sắc…
          Tóm lại, kho tàng văn hoá dân gian của người Tày Yên Lỗ vô
cùng phong phú, ngày nay được đồng bào coi như một món ăn tinh thần
không thể thiếu được trong đời sống xã hội của con người.


                                  CHƯƠNG II
              CÁC TRÒ DIỄN VÀ TRÒ CHƠI DÂN GIAN
                     TRONG LỄ HỘI LỒNG TỒNG


    Lễ hội Lồng Tồng không những có nhiều nghi thức, nghi lễ mà còn
có rất nhiều trò diễn, trò vui. Lễ và hội tách bạch ra hai phần rõ rệt như
nhiều lễ hội tín ngưỡng dân gian khác. Tuy nhiên, cũng có một số phần lễ
và hội đan xen lẫn nhau. Song, trong một số lễ hội, phần hội hoàn toàn
không liên quan đến nghi lễ, mà chỉ là trò chơi vui hội, góp phần cho
không khí lễ hội thêm vui tươi, sôi nổi và trang nghiêm.
    2.1 Trò diễn
    2.1.1 Trò sỹ, nông, công, thương (kén rể)
    Sau khi nghi thức đón sư tử bạn xong, đúng 12 giờ trưa (giờ ngọ) Pú
mo đánh trống khai hội. Tiếng trống rộn rã được gióng lên ba hồi chín
tiếng như thúc giục mọi người đến dự hội. Dứt tiếng trống, Pú mo ra hiệu
cho phép trò sỹ, nông, công, thương (trò kén rể) bắt đầu. Trò này được tổ

                                     14
chức mở màn cho hội Lồng Tồng. Trò kén rể gồm 5 nhân vật: Anh sỹ đại
diện cho tầng lớp trí thức, những người có học. Anh nông đại diện cho
lớp người chân lấm tay bùn, lớp người sản xuất ra lúa gạo nuôi sống con
người. Anh công đại diện cho lớp người sản xuất thủ công nghiệp. Anh
thương đại diện cho lớp người buôn bán. Và cuối cùng là cô con gái xinh
đẹp kén chồng. Tiếng Tày gọi là Lạo Lai (bao gồm sỹ, nông, công,
thương và Mè Nàng). Trước khi trò diễn được thực hiện, các anh chị Lạo
Lai, Mè Nàng được dấu ở chỗ nào đó cách đình khá xa. Khi nghe được
hiệu lệnh của Pú mo, họ xuất hiện và bước vào khu vực dành cho tổ chức
hội. Đầu tiên là Mè Nàng (cô gái) đi ra trước, sau đó đến anh sỹ, anh
công, anh thương, và cuối cùng là anh nông. Như đã nói ở phần trên, đạo
cụ cho trò kén rể đã được chuẩn bị từ trước. Cô gái đeo mặt nạ, mặc áo
dài Tày màu đen hồng rất đẹp, đội nón mới, khoác Thầy ngàm (nải ngàm)
đi với điệu bộ dung giăng dung dẻ từ dưới lên, bước tới sân trước đình và
đi đi lại lại trước cửa đình như có ý chờ đón ai đó. Mè Nàng do người con
trai trong bản đóng. Sau đó là anh sỹ đeo mặt nạ mặc áo trắng vai khoác
túi sách vừa đi vừa hát “Ta là kẻ sỹ học hành quanh năm chân không lấm
đất tay không nhúng bùn, thân ta nhàn hạ đi qua đi lại trước mặt cô gái,
hát đi hát lại, nàng hãy lấy ta đi” nhưng cô gái vẫn không ưng. Tiếp theo
là anh công đeo mặt nạ trông khắc khổ như người công nhân mặc quần áo
xanh, vai vác chiếc búa bằng gỗ. Anh công vừa đi vừa hát vòng quanh cô
gái, hát rằng “Ta là kẻ công làm lụng quanh năm, ta có bàn tay vàng làm
ra của cải nuôi sống dân bản, nàng hãy lấy ta”. Sau anh công là anh
thương đeo mặt nạ trông có vẻ rất phong lưu, vai khoác túi vải trong đó
có nhiều đồ buôn bán vừa đi vừa hát “Ta là kẻ buôn, buôn bán khắp
vùng, nơi nào cũng có mặt ta, ta là người giàu có nhất vùng, nàng hãy
lấy ta”, nhưng cô gái vẫn không ưng. Cuối cùng là anh nông đeo mặt nạ,
đội nón mê, mặc áo rách, vai khoác cày và tay cầm vó, vừa đi vừa hát
“Tta là kẻ nông, chăm sóc cánh đồng, làm ra hạt gạo, nuôi mọi người no

                                   15
đủ”. Anh nông dân vừa hát vừa căng vó, kéo vó bắt cá. Chiếc vó bị rách
lung tung, anh nông dân úp chỗ này giả vờ úp chỗ kia, úp vào cả người
xem làm cho cả hội cười ngặt ngẽo sảng khoái. Người con gái (Mè Nàng)
gật đầu đồng ý lấy anh nông dân. Và người con gái chạy đến chỗ anh
nông dân và cùng anh nông dân cày ruộng. Người con gái giả vờ kéo cày.
Anh nông dân kéo cày được một đoạn thì cày gẫy, diệp cày. bắp cày mỗi
thứ một nơi, người xem lại được một trận cười sảng khoái. Sau đó 4 anh
sỹ, nông, công, thương vòng tay khoanh cô gái ở trong và cùng hát vui
vẻ.
        Trò sỹ, nông, công, thương là một trò vui rất đặc sắc của vùng
đồng bào Tày ở Lạng Sơn. Trò vui mang tính văn nghệ dân gian thể hiện
vai trò quan trọng của sản xuất nông nghiệp. Ngay từ xa xưa ông cha ta
đã coi nông nghiệp là rất quan trọng, không gì có thể thay thế được. Bằng
các diễn xướng giản đơn mộc mạc, thông qua hình thức kén rể của cô gái
khá đặc biệt, bao nhiêu anh con trai giàu có đẹp trai ướm hỏi nhưng cô
gái đều từ chối và chỉ chấp thuận lấy anh nông dân vừa xấu xí vừa nghèo
khó. Tất cả đều toát lên tính quan trọng của nghề nông và chỉ có nông
nghiệp mới nuôi sống được con người. Đây là nghi lễ cầu mùa màng,
thông qua nghi lễ này nhằm giáo dục con người hãy coi trọng sản xuất
nông nghiệp.
       2.1.2 Loòng kỳ lằn, lòng phụ (trò múa sư tử)
        Trò kén rể kết thúc thì chuyển sang phần múa sư tử. Đây là trò
múa chiếm thời gian chủ yếu của lễ hội Lồng Tồng. Lúc này cả sư tử chủ
nhà và sư tử bạn đều múa trước cửa đình. Người xem đứng xung quanh.
Tất cả các con sư tử dù bao nhiêu con tham gia hội đều múa quay mặt về
hướng đình. Các bộ gõ được tập trung ở phía sau. Tiết tấu chiêng trống,
chum choẹ được quy định thống nhất theo tiết tấu của sư tử chủ nhà, do
đoàn trưởng chủ nhà điều khiển.



                                   16
Đầu tiên, sư tử chủ nhà dẫn đầu múa vòng quanh chào khán giả,
động tác vừa đi vừa múa uyển chuyển, nhẹ nhàng. Con múa cao, con múa
thấp bằng các động tác như mèo vờn hổ phục. Sau khi múa một vòng và
quay về chỗ cũ, sư tử dàn hàng ngang quay mặt về phía đình chuẩn bị
múa chính thức.
         Động tác múa chào thần thánh: Đây là động tác bắt buộc đối
với hoạt động của sư tử. Tiếng chiêng trống vang, lên sư tử bắt đầu múa,
tất cả đồng loạt giơ cao đầu, dùng hai tay xoay tròn đầu, lúc nghiêng phải,
lúc nghiêng trái, lúc thì cúi xuống, trông tựa màn đồng diễn với đủ các
màu đỏ, xanh, đen, tím, vàng rực rỡ trông thật đẹp mắt. Màn múa chào
thần thánh khoảng 30 phút. Có những hội như ở Vân Mịt Bình Gia có
năm có tới 16 con sư tử hoặc như ở Bản Chu, Hưng Đạo, Bình Gia cũng
có lúc đông tới 10 con
    Động tác múa vui hội, các con sư tử bắt đầu múa chung để người
xem thưởng thức cảnh đua tài. Đây là trò múa phong phú nhất. Tất cả các
con sư tử đều múa thể hiện tài nghệ của mình. Con múa cao, con múa
thấp, đôi khi còn vờn lẫn nhau, xua đuổi nhau, không khí thật là vui nhộn.
Các động tác múa nhẹ nhàng nhưng dứt khoát. Lúc này chiêng, trống,
chũm choẹ gõ theo kiểu múa vui, nên tiếng nhạc cũng như tiết tấu của
nhạc dồn dập, hối thúc hơn, nhưng có lúc lại khoan thai, dịu dàng. Những
người múa sư tử luôn thay nhau múa làm cho không khí hội luôn luôn sôi
nổi nhịp nhàng. Ở động tác “hỏi slử” , sư tử vừa múa vừa dùng đầu gối
đẩy nhau – con nào bị chệch gối bật ra, lùi ngã hay chếnh choáng trong
động tác múa thì bị coi là thua. Do vậy muốn thắng phải biết miếng “hỏi
slử” múa hay, đẹp, dai sức.
         Trò múa của báo đông (đười ươi): Những con sư tử múa vui
được khoảng 1 tiếng, thì báo đông ra múa và làm các trò vui. Mỗi đội sư
tử có một con báo đông do người đóng. Báo đông làm các động tác múa
vui với sư tử, lúc thì doạ sư tử, lúc thì cầm cành cây chọc ghẹo sư tử, đè

                                    17
đầu đè cổ, đấm, đá sư tử… Mỗi lần báo đông nghịch như vậy, sư tử lại
đuổi đánh bằng các động tác giận giữ, nhưng báo đông vẫn thản nhiên coi
như không. Phải nói rằng báo đông rất nghịch làn đủ các trò với sư tử.
Những động tác báo đông và sư tử vờn nhau, chọc ghẹo nhau, đôi lúc báo
đông còn ngã lăn quay ra đất… gây những trận cười sảng khoái cho
người xem.
            Trò vui của khỉ: Khi báo đông múa được một thời gian nhất định
thì xuất hiện các trò vui của khỉ. Mỗi đội sư tử có hai con khỉ do người
đóng. Các trò của khỉ do báo đông chỉ huy. Đầu tiên họ đeo mặt nạ và ra
sân. Trước tiên phải tập đi đứng, do báo đông dạy, đi lắc lư toàn thân,
chân đi chếnh choáng, siêu vẹo, lúc quay sang trái, lúc quay sang phải,
hai tay vung cao, đầu nghiêng trái, nghiêng phải, có lúc còn quay ra đằng
sau. Con khỉ rất ngang bướng, không chịu nghe báo đông nên báo đông
đánh cho liên tục. Khi con khỉ tập đi và tập các động tác múa thì toàn bộ
chiêng, trống, chũm choẹ phải gõ theo nhịp riêng bằng các tiết tấu riêng.
Thông thường, khỉ tập đi đứng kéo dài khoảng 30 phút. Khi các động tác
của khỉ đã thành thạo, báo đông dẫn khỉ múa vui với sư tử. Báo đông bắt
khỉ múa vui đủ các trò, từ động tác nhảy lộn, nhai mía tượng trưng, cõng
báo đông, khiêng báo đông vứt xuống đất… đến các trò nghịch ngợm,
chọc ghẹo sư tử, vào hùa với báo đông đánh sư tử. Những động tác vui
nhộn của khỉ và báo đông làm cho mọi người cười nắc nẻ, gây không khí
tưng bừng náo nhiệt.
             Trò sư tử đẻ con: Trong quá trình múa vui, các con sư tử có
những động tác âu yếm nhau, vái lạy, bò lên lưng nhau. Lúc này, báo
đông và khỉ vẫn vui đùa nghịch ngợm. Thậm chí báo đông còn làm các
động tác phồn thực, một chân ngáng trước ngực sư tử, một tay vít cổ sư
tử xuống, một tay vỗ vào mông sư tử với những điệu cười hả hê, tay vung
lên trời.     Các động tác của sư tử múa khi đẻ con khoan thai, thư thái
nhưng rất hung dữ. Bằng sự giúp đỡ của báo đông và khỉ, sư tử đã đẻ con

                                     18
dễ dàng. Lúc này, sư tử con do người múa xuất hiện trước sư tử mẹ. Sư tử
con đi bằng những động tác rất yếu đuối, chỉ dám đi vòng quanh sư tử
mẹ. Sư tử mẹ múa bằng những động tác âu yếm sư tử con. Sư tử mẹ lúc
này rất hung dữ làm cho báo đông và khỉ không thể đùa nghịch được. Sau
một số động tác múa cơ bản, sư tử con đã trưởng thành và tham gia múa
với sư tử mẹ. Lúc này khỉ, báo đông và sư tử lại bắt đầu đùa nghịch và
múa vui. Trò sư tử đẻ con kéo dài khoảng 30 phút.
           Trò múa sư tử bị giết khả Kỳ Lằn: Đây là động tác cuối cùng của
múa sư tử. Khỉ và báo đông dùng hai cây gậy buộc chéo nhau cắm xuống
đất và xua đuổi sư tử, lừa sư tử vào tròng. Khi sư tử bị lừa vào tròng, báo
đông và khỉ đè cổ, chặt đầu sư tử. Qúa trình giết sư tử, tiết tấu của bộ gõ
được quy định riêng. “Kỳ Lằn hai dá dẹ, Kỳ Lằn hai dá dẹ, Kỳ Lằn hai
dá dẹ”… trở thành câu hát của đồng bào Tày – Nùng trong các dịp hội
Lồng Tồng. Trò giết sư tử kéo dài khoảng 30 phút.
            Trò tẳng giảo (trồng người): Khi thực hiện trò giết sư tử xong,
các thành viên của các đội sư tử kéo ra giữa sân hội xếp thành các vòng
tròn lớn và đứng vai chồng lên nhau. Vòng thứ nhất có 10 người, vòng
tay ôm vào nhau và ngồi xuống. Vòng thứ hai 8 người, đứng lên vai của
10 người vòng thứ nhất và cũng ngồi xuống. Vòng thứ ba 4 người trèo
lên đứng lên trên vai của 8 người vòng thứ hai và tất cả cùng đứng lên tạo
thành 3 vòng trồng lên nhau cao vút. Sau đó một con sư tử trèo lên trên 3
vòng người đó. Trước khi trèo, sư tử múa vòng quanh dưới đất 3 vòng rồi
mới trèo lên. Người trèo phải thật khéo léo, miệng ngậm vào lưới sư tử để
giữ đầu sư tử khỏi rơi, chân bước lên thắt lưng của người đứng làm vòng
tròn, hai tay bá vào vai và trèo lên đứng trên đầu của vòng thứ ba và múa
trên đó.
           Có thể nói đây cũng là một cuộc thi, nếu ai trèo lên được thì được
thưởng do ông Pú mo tặng. Cũng có nơi như vùng Cao Lộc, họ lại dùng
gậy đặt lên vai để cho người và sư tử trèo lên. Theo quan niệm của đồng

                                      19
bào, tẳng giảo là một hình thức thể hiện sức mạnh của cộng đồng phải có
sự đoàn kết nhất trí cao, thành một khối vừa bày tỏ lòng biết ơn thần linh,
vừa cố kết cộng đồng người trong bản. Toàn bộ cuộc tẳng giảo được diễn
ra trong vòng 5 phút. Đến đây trò múa sư tử cơ bản kết thúc và chuyển
sang phần múa võ.
    2.1.3 Oóc quyền (trò múa võ)
    Múa chào thần thánh:
    Đây là động tác múa tay không, có từ 5 – 6 người biểu diễn. Đầu tiên
làm động tác chào, tất cả đứng lên trước 3 bước, dạng chân xuống tấn, hai
tay giơ ra phía trước khuỷu tay khép vào hai bên sườn tạo thế vững chãi.
Khi tiếng nhạc của trống chiêng, chũm choẹ cất lên, động tác múa bắt
đầu. Trước các động tác khoa chân khoát tay uyển chuyển dứt khoát, mắt
long sòng sọc, mỗi động tác múa, đấm đá kèm theo tiếng hét, người xem
người nghe được một phen hoảng hồn khâm phục nhưng rất thích thú.
     Múa gậy: Như đã nói ở trên, mỗi đội sư tử mang theo từ 2 – 4 gậy
để tham gia múa hội. Đầu tiên múa hai người, rồi múa 4 người, 6 người, 8
ngườ. Tiếng gậy va vào nhau kêu chan chát, người xem hoa mắt sởn tóc
gáy. Trò múa gậy thể hiện bản lĩnh quả cảm phi thường, nhanh tay nhanh
mắt, các động tác chính xác đảm bảo đều đẹp, an toàn.
        Múa đoản đao: Có thể múa đôi, múa đơn. Người múa hai tay cầm
đao giơ lên giơ xuống, có lúc quay tít trên đầu tạo tiếng gió rít phần phật
vun vút. Các động tác quay trước, quay sau của người múa tạo thế uyển
chuyển liên hoàn.
        Múa slam sla (đinh 3 chạc): Người múa hai tay cầm hai đinh ba
múa bằng các động tác quay tròn hoặc nhào lộn tạo thế tiến thoái, phòng
thủ hoặc tiến công. Các động tác múa thoăn thoắt làm cho người xem rõi
mắt, cảm phục.
         Nhảy 4 góc bàn: Người ta đặt giữa ruộng một cái bàn vuông 4
góc và kê thật chắc chắn. Khi chơi, người tham gia tung người lên bàn,

                                    20
hai tay chống xuống 4 góc bàn, toàn thân lăng qua trên mặt bàn, tạo thế
song song với mặt bàn và nhảy xuống bên kia bàn, rơi xuống đất nhẹ
nhàng. Một người có thể nhảy liên tục 4 góc hoặc nhảy từng góc. Đây là
động tác khoẻ tay đều chân và khi thực hiện phải hết sức khéo léo, nếu
không mắt cá chân va vào bàn sẽ gây ra đau đớn.
        Nhảy búa tẹm (nhảy qua ống cót: Người ta dùng một tấm cót dài
một mét cuộn tròn lại, có đường kính một mét, đặt trên một khung gỗ
được đóng chắc chắn. Khi nhảy, người nhảy phải chạy lấy đà, hai tay giơ
ra đằng trước, toàn thân lao vút qua ống cót và rơi lộn sang bên kia. Khi
rơi, đầu phải gập lại, toàn thân cuộn tròn khi chạm đất khỏi đau.
        Nhảy quá tu pịa (nhảy qua cửa dao): Đây là động tác tương đối
nguy hiểm, đòi hỏi người nhảy phải hết sức khéo léo, nhanh nhẹn và có
lòng dũng cảm. Đạo cụ để phục vụ là tre được uốn thành vòng tròn,
đường kính một mét. Vòng tròn được đặt trên khung gỗ ở một bãi đất
giữa ruộng. Trên vòng tròn ngwời ta buộc bốn con dao nhọn, một con
buộc ở phần trên, mũi dao chúi xuống, cán dao ngược lên, một con dao
khác buộc ở vòng dưới, mũi dao dựng ngược lên và hai con buộc hai bên.
Như vậy, bốn mũi dao quay đầu vào trong ở giữa vòng. Khi nhảy, có hai
người đứng ở hai bên làm nhiệm vụ hỗ trợ, một người cầm chuôi dao
trên, một người cầm chuôi dao dưới, khi người nhảy chạy lấy đà, hai tay
duỗi thẳng lao qua trước và gập đầu lộn xuống đất. Trong trường hợp
người nhảy lúng túng hoặc có dấu hiệu nguy hiểm thì người cầm dao ở
vòng dưới lập tức nhanh chóng hạ con dao xuống, đảm bảo an toàn cho
người nhảy không bị thương.
        Nhảy qua tu phầy (nhảy vòng lửa): Người ta dùng thanh tre uốn
thành vòng tròn, lấy rẻ rách tẩm dầu mác bao (dầu quả dọc) và buộc xung
quanh vòng tre. Vòng lửa được treo dưới một khung gỗ đặt giữa ruộng.
Khi châm lửa vào rẻ rách, lửa cháy thành một vòng. Người nhảy chạy lấy
đà, giơ tay ra đằng trước và lao qua vòng lửa, lộn sang bên kia.

                                    21
2.1.4 Trò hát then, sli, lượn
    Thông thường, một lễ hội Lồng Tồng thu hút rất nhiều khách và các
thành phần tộc người tham gia, cho nên diễn ra nhiều hình thức hát rất
phong phú. Các lối hát diễn ra kéo dài từ lúc khai hội cho đến kết thúc,
sau đó người ta kéo về hát trong nhà… Nội dung hát chủ yếu là hát giao
duyên, hát chúc tụng, hát mừng xuân mới. Khi hội diễn ra, mọi người
trong bản, bản trong, bản ngoài và nhiều vùng khác kéo đến rất đông, tụ
tập theo từng nhóm hỏi han và làm quen nhau. Các nhóm nam nữ bắt đầu
hát đối đáp nhau.
         Hát chào hỏi: Đây là hình thức hát đầu tiên trong lễ hội, nhất là
khách phương xa đến dự hội. Các giọng hát sli, then, lượn tập trung chủ
yếu hỏi thăm tình hình sức khoẻ, làm ăn ra sao, chuẩn bị tết to hay nhỏ và
gia đình có vui vẻ hay không.
         Hát chúc tụng: Mọi người hát chúc nhau năm mới làm ăn phát
đạt, từ đây trở di mạnh khoẻ. Người ta chúc nhau từ sản xuất mùa màng,
chúc gia đình, chúc bản mường, chúc giao duyên hạnh phúc, chúc tình
làng nghĩa xóm.
    Hát giao duyên: Đây là lối hát phong phú nhất và chiếm nhiều thời
gian nhất. Đối tượng hát ở đây chủ yếu là thanh niên nam nữ chưa vợ
hoặc chưa có chồng. Họ hát đối đáp nhau, hỏi han nhau tình hình làm ăn,
cuộc sống và cơ bản xoáy sâu vào tâm tư tình cảm của nhau.
     Dùng những lời hát thăm dò nhau, đại loại như đã có người yêu
chưa, hoặc có rồi thì ở đâu và làm gì, quê quán ở đâu xa hay gần… lời hát
thật là thấm thía ngọt ngào. Trong trò hát giao duyên, thường là phái nam
đặt vấn đề trước, bên nữ nghe và trả lời. Thông thường, bên nữ không bao
giờ trả lời ngay mà hát đáp lại bằng lối véo von để thử tài bên nam và họ
cười rúc rích để nghe bên nam trả lời ra sao. Lúc này, bên nam phải trổ
tài thật sự của mình để chinh phục bên nữ. Nếu bên nữ ưng và nghe được
thì trả lời rất ý tứ bằng lối hát xa hát gần… và cũng hát lại hỏi bên nam

                                    22
quê quán ở đâu và làm gì, đã có ai chưa. Cũng có lúc họ hát kháy, chọc
tức nhau làm cho cả hai bên rất bực tức, và cũng từ sự bực tức đó họ làm
mọi cách để hiểu nhau hơn. Khi hai bên đã hiểu nhau, họ càng hăng say
hát bằng cả tâm tình, cảm tưởng như không thể rời nhau ra được.
          Trong các ngày hội Lồng Tồng của người Tày ở Lạng Sơn
thường xuất hiện các hình thức hát phổ biến như sau:
        Hát lượn: Gồm có lượn slương, lượn cọi, lượn nàng ới. Lượn là
của người Tày được hát theo lối cả văn vần, lẫn văn xuôi, chuyên dùng
những câu bóng gió nghe man mắc có lúc lại bùi ngùi, thỏ thẻ như tâm
sự, cũng có lúc lại sâu lắng nghe buồn não ruột, nhưng có lúc lại rộ lên
vui sướng hạnh phúc. Cho nên hát lượn làm cho các đôi trai gái quấn quýt
nhau không thể rời ra được.
        Hát then: Là làn điệu dân ca của dân tộc Tày. Hát then trong lễ
hội cũng như hát then trong nghi lễ thần linh, đồng bào đều dùng lối hát
theo thể văn vần, mỗi khổ bốn câu và mỗi câu 7 chữ, và hát truyền khẩu
là chính. Tuy nhiên, trong ngày hội cũng có cả hát ứng khẩu. Hát then
trong lễ hội Lồng Tồng là hát chúc tụng, ca ngợi, chúc phúc cầu mong là
chính. Khác với hát sli, hát lượn, trong hát then phải có nhạc cụ, đó là đàn
tính và sóc nhạc cả một chùm được làm bằng đồng thau.
     Hát sli: Của dân tộc Nùng. Sli gồm có hai loại, sli sloong hầu của
người Nùng Phàn Slình, sli slình làng của Nùng Cháo. Sli cũng được hát
theo lối văn vần là chính và cơ bản hát theo lối ứng khẩu. Khi hai bên
nam nữ gặp nhau, nhìn thấy hình tượng gì đó bên cạnh là họ có thể mượn
hình ảnh đó ví von hoặc thăm hỏi chúc tụng nhau…
        Nội dung hát sli, lượn, phong slư rất phong phú. Trò hát này đều
có bài quy định mà người hát phải thuộc. Trên cơ sở đó người hát mở
rộng ra, ứng tác kịp thời cho phù hợp nội dung chủ đề cuộc hát, đối tượng
hát trong hội. Vì vậy người hát không những giỏi nhớ mà nhanh trí, giỏi
ứng tác. Khác với hát then, hát sli, lượn, phong slư phải có đối tượng hát,

                                    23
tức là phải có bạn hát đối đáp. Hát sli mỗi bên bạn hát thường có hai
người cùng hát, một người hát giọng cao, một người hát giọng thấp (như
hát bè).
           Sau cuộc hát, các đôi có thể tách ra để tâm sự, tìm hiểu nhau ở
chỗ vắng nếu hai bên bạn hát đều ưng lòng nhau. Họ tâm tình rất tự nhiên
nhưng không sàm sỡ và cũng ít khi để xảy ra những điều không hay.
           Trò hát sli, then, lượn là nghi lễ không thể thiếu được trong ngày
hội Lồng Tồng của đồng bào Tày Lạng Sơn. Hát trong lễ hội chủ yếu là
nam thanh, nữ tú, những đôi trai gái chưa vợ chưa chồng. Họ đi hội ngoài
việc tìm hiểu vui chơi còn có việc tìm hiểu giao duyên. Quan niệm của
đồng bào trong ngày hội nhất thiết phải có trò hát giao duyên mà càng
nhiều người hát càng tốt. Như vậy năm đó dân bản mới làm ăn phát đạt.
Thông qua trò hát trong ngày hội, nhiều đôi trai gái đã trở nên vợ nên
chồng. Vì vậy các trò hát trong ngày hội Lồng Tồng được kéo dài từ đời
này sang đời khác.
           2.2 Các trò chơi
           2.2.1 Thọt còn (trò tung còn)
           Tung còn là một trong những trò chơi sôi nổi và hấp dẫn nhất của
lễ hội Lồng Tồng. Đây không chỉ là trò giải trí đơn thuần mà là một hình
thức giao duyên mang màu sắc nghi lễ, tín ngưỡng, cộng đồng tổ chức để
chúc một năm mới no đủ, trai gái thành đôi, gần gũi và phát triển giống
nòi.
       Người Tày Lạng Sơn, cứ sau ngày mùng 2 tết cho tới hết tháng
Giêng hàng năm, bản làng mở hội Lồng Tồng, đều tổ chức trò chơi tung
còn.
       Bãi chơi là một khu đất bằng phẳng ở cạnh đình hay trong Nà Thồng
(ruộng hội). Ở đó người ta đã cho dựng cây còn, phỏng còn và chuẩn bị
quả còn sẵn.



                                      24
Mở đầu cuộc chơi, Pú mo ra chỗ cây còn cầm quả còn khấn vái cầu
yên cho bản, cầu lộc cho mọi người, cầu mùa cho mọi nơi… Sau phần
nghi lễ – quả còn coi như được ban phép – Pú mo tung quả còn lên cao để
mọi người tranh cướp mở màn cho cuộc vui. Các quả còn của mọi người
trong gia đình lúc này cũng mới được tung lên, bay gần bay xa quanh
phỏng còn trông như những cánh én mùa xuân. Gia đình nào cũng mong
cho con mình ném thủng được phỏng còn để cầu may. Ném còn, còn là
trò vui của đôi trai gái nhằm làm quen và tìm hiểu nhau. Đôi khi họ ném
còn không phải chỉ để qua phỏng còn, mà họ ném theo chủ đích nhất
định. Đó là họ ném cho người mà mình dự định tìm hiểu. Qua cuộc ném
còn, nhiều đôi trai gái đã tìm hiểu nhau và đi tới hôn nhân. Cuộc chơi cứ
thế kéo dài cho tới lúc quả còn xuyên qua phỏng còn. Thế là viên mãn,
biểu tượng của hành động tính giao đã trở thành hiện thực. Nếu tung cả
ngày mà phỏng còn không bị thủng thì cuối buổi Pú mo phải cầm đá ném
cho thủng. Đồng bào Tày quan niệm phải làm như vậy mùa làm ăn mới
suôn sẻ.
    Sau khi kết thúc, Pú mo dùng dao rạch quả còn và ban phát những
hạt giống (hạt thóc và hạt bông) cho mọi người. Theo quan niệm của
người Tày, những hạt giống này là hạt giống thiêng, sẽ đâm chồi nẩy lộc
nhanh chóng, vì nó được truyền hơi ấm của những bàn tay nam nữ (âm–
dương) trong hội Lồng Tồng. Ai ai cũng vui vẻ đón nhận những hạt giống
thiêng của trời đất – con người với niềm hi vọng rằng vụ mùa sắp tới sẽ
được bội thu, con người sẽ sinh sôi, bản làng sẽ no ấm, đông vui.
       2.2.2 Tức kỳ, tức cờ (chơi cờ tướng, cờ lài)
           Cờ người là tên gọi của cuộc chơi cờ tướng, gồm 32 quân, mỗi
phe có 16 quân. Trong mỗi phe có một tướng, tướng nam gọi là tướng
ông, trang phục đen hoặc xanh. Tướng nữ gọi là tướng bà, trang phục đỏ.
Chơi cờ tướng là chơi trên bàn cờ. Ba mươi quân cờ bằng gỗ, sừng hay
ngà tiện tròn, đường kính 2cm, dày 1cm. Chơi cờ người cũng vẫn theo

                                   25
luật lệ của cờ tướng, nhưng quân cờ là người thật, và bàn cờ là sân rộng,
đủ đường đi nước bước cho 32 người (quân cờ). Mỗi người đóng vai một
quân cờ (sĩ, tượng, mã, xe, pháo…) và mỗi bên có một tướng.
         Cuộc đấu cờ trong hội Lồng Tồng thường được tổ chức ở sân
đình, hay bãi ruộng ngô phẳng gần đình. Cuộc đấu cờ được chuẩn bị chu
đáo hàng tháng trời. Chuẩn bị bàn cờ, sân bãi, làm quân cờ là việc phụ.
Đầu tiên là việc tìm và tuyển người. Những người được chọn làm quân cờ
phải là những trai, gái thanh lịch, con cái của gia đình có nề nếp, được
dân làng quý trọng, đồng tình. Số lượng là 16 nam, 16 nữ. Trong số này
phải chọn ra hai tướng: một nam, một nữ - tức tướng ông, tướng bà.
Ngoài ra còn có ông tổng cờ (trọng tài) trực tiếp giúp giám khảo theo dõi
cuộc đấu. Tổng cờ và hai tướng là những người thuộc loại khá giả. Chọn
xong, tổng cờ họp hai đội nam, nữ thông báo về trang phục, dặn dò về
phong thái trong lúc làm nhiệm vụ “quân cờ”. Quần áo mỗi người tự sắm,
song phải đồng nhất trong từng phe (quân đen, quân đỏ) khi ra sân bãi,
bàn cờ tạo ra một cảnh sắc rực rỡ dưới trời hội. Mỗi quân cờ có ghế đẩu
ngồi, có thể đội nón nếu nắng to. Trước ngực mỗi “quân cờ” có treo tên
quân cờ bằng chữ Hán. Còn tướng mặc trang phục theo hai màu: màu
xanh - tướng ông, màu đỏ -tướng bà. Hai đấu thủ có chỗ ngồi riêng.
        Bước vào thi đấu, khi muốn đi quân nào thì gõ một tiếng trống và
báo cho người phục vụ, người phục vụ đến bên quân cờ truyền đạt.
“Quân cờ” đứng lên đi tới vị trí được xác định. Trong ngày hội, cuộc đấu
cờ có sức hấp dẫn đối với các khách lớn tuổi, nhất là đối với người biết
chơi cờ. Họ đến đây nhằm thoả mãn nhiều mặt: trí tuệ, thẩm mỹ và giải
trí. Cuộc chơi cờ tĩnh trí, trầm lặng.
         Tuy nhiên, hội Lồng Tồng ở Lạng Sơn cũng có nhiều kiểu loại
chơi cờ khác nhau. Có loại không dùng người làm quân cờ mà họ dùng
cót cắt thành từng miếng nhỏ mỗi chiều 50cm với 50cm, được cắm trên
cọc gỗ cao 1,5m. Đầu dưới cọc gỗ được vót nhọn, hai mặt cót dán giấy và

                                         26
vẽ hình quân cờ. Dùng những thanh tre đan xếp với nhau làm bàn cờ trên
bãi đất cạnh đình hoặc giữa thửa ruộng. Luật chơi cũng như cờ tướng, có
trọng tài, hai vị tướng và người giúp việc. Khi chơi họ hô đi quân nào thì
người giúp việc cầm quân cờ đi đặt vào vị trí đã định.
        Ngoài ra, người Tày còn chơi một loại cờ nhưng không phải cờ
tướng kiểu Trung Quốc hiện nay. Loại cờ này cũng có hai tướng và 18
quân (mỗi bên có 9 quân), quân này không có tên cụ thể, mà được gọi
chung là quân cờ. Luật chơi của cờ này, chỉ có tướng mới được ăn quân,
và kiểu ăn của tướng cơ bản như quân pháo trong cờ tướng Trung Quốc.
Nghĩa là mỗi khi ăn phải có một quân của mình đứng đằng trước mới
được ăn quân đối phương nằm trong ô liền kề. Cờ này cũng có hai loại
khác nhau: Một loại có tướng và quân pháo, quân pháo được quy định ăn
như tướng. Một loại chỉ có tướng mới được ăn. Luật chơi được quy định
cũng rất chặt chẽ, ăn một quân mới được ra hoa (quân mới được đi vào ô
trung tâm của bàn cờ), ăn ba quân thì mới được ăn tướng. Nếu loại cờ có
pháo cũng được quy định ăn một quân, thì pháo mới được ăn. Bàn cờ
hình “vuông, được kẻ ngang dọc tạo thành các góc chéo nhau. Quân cờ
được làm bằng gỗ theo kiểu hình thù vuông hay tròn, cao hay thấp nhưng
phải bằng nhau. Tướng, kích thước to hơn, có hình thù riêng không lẫn
lộn với quân. Khi chơi, người chơi đưa quân đi trước và bao vây quân đối
phương, sau đó tướng mới đến ăn. Hoặc cách khác, nếu quân đi trước
tướng, đi sau gặp thời cơ cũng có thể tiêu diệt đối phương ngay, không
cần bao vây hoặc phải tấn công dồn dập. Cuộc chơi được phân thắng bại
khi đối phương đã bị mất hết quân hoặc tướng bị bao vây, không có lối
thoát. Lúc đó cuộc chơi kết thúc.
        Ngoài ra còn có một loại cờ không có tướng, mà chỉ có toàn quân,
theo tiếng của đồng bào Tày gọi là cờ Lài. Loại cờ này có 28 quân, mỗi
bên có 14 quân. Khi chơi, các quân này gặp đối thủ đều ăn được, và cũng
có lúc gặp dịp có thể ăn xuyên táo hàng loạt. Luật chơi cờ này tương đối

                                    27
đơn giản, bàn cờ được vẽ thành các hình “vuông, “tam giác chi chít.
Trong bàn cờ có một hàng phân cách ở giữa, theo quy định, khi quân tiến
qua đó mới được ăn. Cách chơi loại cờ này chủ yếu tiến công, bao vây và
đón lõng, chỉ được ăn liền kề, không được ăn cách quãng.
         Hai loại cờ này, chủ yếu thanh thiếu niên hay chơi, vì nó rất thuận
lợi là ở đâu cũng có thể tổ chức chơi được. Qúa trình chơi có những ván
rất căng thẳng, kéo dài hàng tiếng đồng hồ mới kết thúc. Ngày nay loại cờ
này ít phổ biến, nó chỉ tồn tại ở các cháu chăn trâu và các cháu học sinh
lúc rỗi rãi.
     2.2.3 Xẻ thỏi (kéo co)
     Xẻ thỏi (kéo co) là một trò chơi khoẻ, mang tinh thần thượng võ và
tính tập thể cao, nên thanh niên rất ưa thích. Người ta dùng dây rừng, dây
mây, dây thừng để chơi. Có nơi không dùng dây, sau khi chia hai phe, họ
đứng đối mặt thành từng hàng một, rồi người sau choàng tay ôm chặt
bụng người trước, cứ thế thành một dây dài. Hai người đứng đầu hai phe
nắm tay nhau, lấy vạch vôi ở giữa làm ranh giới thắng bại, được thua.
Bãi chơi thường là sân đình, hoặc sân cỏ rộng và bằng phẳng
     Tuy nhiên trong hội Lồng Tồng, người ta tổ chức ngay trước sân
đình. Như đã nói ở trên, trước khi tổ chức hội, đồng bào đã chuẩn bị sẵn
dây khau Nựa để Xẻ thoi. Theo quan niệm của người Tày, khau Nựa là
loại dây tốt nhất, không những mềm dai mà còn là biểu tượng của dây
rừng sống lâu bền. Trước khi chơi, người ta dàn quân ra hai bên, cầm sẵn
hai đầu dây, mỗi bên 5 – 6 người, tuỳ theo số lượng người do bản quy
định. Pú mo ra khấn vài câu cho phép và cuộc chơi bắt đầu.
         Đầu tiên là hiệp chơi chào thần thánh. Nhóm bên này mặc trang
phục màu đen và nhóm bên kia mặc trang phục màu đỏ. Họ làm các động
tác kéo lần thứ nhất bên này thắng, bên kia thua, kéo lần thứ hai thì ngược
lại và kéo lần thứ ba, hoà. Lúc này Pú mo chứng kiến công nhận.



                                     28
Sau khi chào thần linh, cuộc thi bắt đầu. Tiếng trống lần thứ nhất
nổi lên báo hiệu bước chuẩn bị. Tiếng trống lần thứ hai là vào cuộc.
Tiếng trống dồn dập thôi thúc cả hai bên. Người chỉ huy của hai bên
miệng thì hô, tay phất cờ liên tục thúc giục đội mình phải giành chiến
thắng. Bên ngoài dân làng đứng xem chật ních cả sân đình, miệng hò reo
làm chấn động cả một góc làng, làm cho cuộc chơi thêm sôi động hào
hứng. Hễ bên nào kéo đối phương, dẫm vào vạch quy định hoặc đứt dây,
tuột tay thì coi như là thua cuộc.
        Động tác cuối cùng, chỉ còn hai đội vào chung kết và kéo đến lần
thứ ba thì Pú mo cầm dao chặt đứt dây khau Nựa, đội nào cầm dây chạy
vào đình nhanh hơn thì được thưởng.
        2.2.4 Thi nôộc tiêu tò tót (chọi chim hoạ mi)
        Trong các ngày hội Lồng Tồng của đồng bào Tày ở Lạng Sơn, trò
chọi chim hoạ mi tương đối nổi tiếng, đã trở thành thú vui dân gian từ
nhiều thế kỷ nay. Vì vậy, chọi chim không chỉ là một mục trong trò chơi
ngày hội, mà còn là thú vui thông thường của nhiều người, thu hút nhiều
người máu mê ăn thua cờ bạc.
         Để có được con chim hoạ mi chơi hay, người nuôi chim phải có
nhiều công phu và kinh nghiệm. Đầu tiên, họ phải vào rừng bẫy chim,
muốn vậy phải có con mồi trước. Khi vào rừng, họ chọn địa điểm ở
những nơi hay có chim, đặt con chim mồi dưới đất hoặc treo trên cây và
dùng lưới vây xung quanh. Khi con chim mồi cất tiếng hót, con chim
rừng nghe tiếng sẽ bay về chỗ con chim mồi và bị mắc bẫy. Cũng có nơi
người ta dùng lông đuôi ngựa buộc thành vòng xung quanh lồng chim
mồi, và chim rừng đến sẽ chui cổ vào thòng lọng.
     Bãi đất để chọi chim cũng ở xung quanh đình. Khi các bên đã bàn
bạc xong, họ bắt đầu tổ chức chọi. Đầu tiên họ mở cửa lồng chim, quay
hai cửa vào nhau. Con chim nhìn thấy đối thủ liền xông ra đấu, nó dùng



                                     29
mỏ để mổ, cánh đập và chân đạp đối phương. Con chim nào không chịu
đựng được, chạy về chuồng của mình coi như là thua cuộc.
    Chọi chim là thú vui dân gian có sức thu hút đông đảo quần chúng.
Chọi chim vừa mang tính chất giải trí, vừa là một hình thức nuôi dưỡng
tinh thần thượng võ, chất keo gắn kết tinh thần cộng đồng người đã từng
tồn tại trong một thời gian khá dài trong các hội Lồng Tồng xưa của cư
dân Tày – Nùng Lạng Sơn.
    2.2.5 Bắn nả (thi bắn nỏ)
    Là cư dân sống ở miền rừng núi, ngoài việc cầu mong thần linh phù
hộ, đồng bào Tày Lạng Sơn còn đoàn kết cộng đồng chống ngoại xâm,
chống giặc cuớp, săn bắn thú rừng bảo vệ mùa màng và cải thiện đời
sống. Vũ khí của họ ngoài giáo, mác, đoản đao, dao rựa còn có cung, nỏ.
Cung, nỏ trở thành công cụ quan trọng không thể thiếu được trong cộng
đồng dân tộc.
    Trong lễ hôị Lồng Tồng, bắn cung, nỏ, trở thành một cuộc thi tài đã
có từ lâu đời. Cứ đến mùa tết Nguyên đán, trước khi lễ hội diễn ra hàng
tháng, các cư dân trong bản chủ yếu là thanh niên đã tập luyện cung, nỏ
nhằm bắn thật trúng đích, đạt giải của hội.
    Như đã nói ở trên, đồng thời trong quá trình tập luyện, người ta đã
chuẩn bị cung, tên, nỏ và hình nộm. Khi tổ chức thi bắn, họ cắm hình
nộm cách vị trí điểm bắn từ 30 – 50m. Ban tổ chức lễ hội cử một người
làm thư ký ghi chép kiêm trọng tài. Nơi bắn nỏ cách đình khá xa. Để đảm
bảo an toàn trong khi bắn, ban tổ chức cử người cảnh giới hai bên. Hướng
bắn nỏ được chọn theo hướng đằng trước có đồi hoặc rừng cây, không có
người lai vãng tới đó. Luật bắn nỏ được ban tổ chức quy định, mỗi người
chỉ được bắn 3 mũi tên, mũi tên nào trúng hình nộm thì được thưởng. Tuy
nhiên cũng có nơi bắn không hạn chế, bắn theo kiểu rách áo ăn tiền.
Nghĩa là mũi tên chạm vào mép hình nộm là được thưởng. Nỏ và mũi tên,
do người dự thi chuẩn bị. Theo thông lệ mỗi gia đình có một cây nỏ. Khi

                                    30
được phép của ban tổ chức, các xạ thủ đứng thành hàng ngang trước bệ
bắn. Trang phục của xạ thủ, đầu và thắt lưng đeo vải đỏ, vai khoác ống
tre đựng mũi tên. Ban tổ chức gọi lần lượt từng người vào bắn. Khi bắn
có hai tư thế, quỳ một chân bắn hoặc đứng bắn. Khi ngắm và bật cần bắn,
mũi tên lao ra bay thẳng trúng hình nộm, coi như trúng đích và trọng tài
ghi chép báo cho Pú mo trao phần thưởng. Bắn nỏ là một thú vui thể hiện
tài nghệ săn bắn, nên thu hút được nhiều người chơi. Trong cuộc thi bắn
nỏ, dân bản tụ tập xem rất đông và cổ vũ khích lệ các xạ thủ.
      2.2.6 Tức yến, tức diến (thi đánh yến)
      Đồng bào Tày thi đánh yến bằng tay, không giống như một số dân
tộc khác chơi yến bằng chân. Đối tượng chơi yến chủ yếu là chị em phụ
nữ.
      Trước cuộc chơi, Pú mo cầm yến tung lên trời làm phép và uỷ quyền
cho thành viên ban tổ chức điều hành. Đánh yến chủ yếu được chơi từng
đôi một. Khi có hiệu lệnh của Pú mo, mọi người ùa ra sân đình hoặc
ruộng trước đình tung yến lên đánh. Có những cuộc chơi có hàng trăm
người tham gia. Những chiếc yến bay phần phật, vun vút, hoà vào sắc áo
chàm xanh, đen, hồng của các cô thiếu nữ xinh đẹp làm cho không khí
hội tưng bừng, vui nhộn, người xem cổ vũ rất đông.
      Đánh yến là trò chơi dân gian truyền thống của đồng bào Tày đã có
từ hàng ngàn đời nay. Đây là trò chơi vui, khoẻ, khéo léo, nhịp nhàng
nhưng hết sức vui nhộn, gây ấn tượng không bao giờ quên đối với người
đi xem hội.
      2.2.7 Tức sáng (thi đánh sảng)
      Sảng là một trò chơi dân gian được đồng bào rất ưa thích, nhất là
tầng lớp thanh thiếu niên. Trò chơi này đã xuất hiện từ lâu đời, hàng năm
cứ đến mùa gặt, thanh niên trai tráng thi nhau làm sảng. Như đã nói ở
trên, họ đẽo gọt rất cầu kỳ đến độ tinh xảo. Sân chơi của sảng là một bãi
đất rộng, bằng phẳng, đất cứng không gồ ghề và khô ráo, như vậy sảng

                                   31
mới quay được tốt. Cách thức chơi của sảng cũng rất đơn giản. Mỗi lần
chơi có ít nhất từ hai người trở lên. Đầu tiên, người chơi buộc dây vào
ngón tay, cũng có nơi không buộc mà cầm ở tay, đầu dây bên kia cuộn
vào cổ sảng cho đến hết dây, dây càng dài thì độ quay của sảng càng lớn.
Khi cuộn xong, họ giang tay tung ra sân, sảng quay tít thò lò. Họ cùng
tung ra một lúc, sảng nào quay lâu hơn thì người đó sẽ thắng cuộc. Cho
nên khi tung sảng ra, mọi người gập đầu dây lại đập túi bụi vào sảng để
cho nó quay lâu hơn. Đây là một trò rất vui mắt, nếu như cuộc chơi có
hàng chục người tham gia sẽ là một trò tỉ thí ngoạn mục.
    Sau khi tung sảng mở màn xong, người nào thắng cuộc sẽ là người
được đánh trước. Những người thua phải tung sảng ra, các con sảng phải
quay tít thò lò. Người được đánh trước giơ tay tung sảng đập vào đầu các
con sảng của người thua cuộc. Khi chạm vào sảng của người thua, con
sảng của người đánh cũng phải quay tít nếu không quay coi như ván đó
kết thúc và tổ chức ván khác. Có những lúc sảng tung mạnh làm cho sảng
của người thua vỡ làm đôi hoặc sứt sát. Những trận đánh như vậy thật là
vui vẻ. Cho nên khi làm sảng, họ còn dùng đinh sắt đóng vào đầu nhọn
của sảng để khi đánh làm cho đối phương hết cơ hội chơi lại.
    Hàng năm, cứ sau vụ gặt tháng 10 âm lịch, đặc biệt trong các dịp lễ
hội, ở khắp các bản làng đâu đâu cũng gặp trò chơi đánh sảng, tiếng va
đập chan chát của sảng cùng với tiếng hò reo thắng trận làm cho không
khí vui tươi tràn ngập khắp ngõ xóm. Đây cũng là trò chơi vui nhộn nhất
của các cháu thanh thiếu niên nam. Sau mỗi trận thắng, họ kéo về các nhà
vui vẻ và kể cho nhau nghe những kỷ niệm của mình.
       2.2.8 Tức lọ (đánh đáo)
        Tức lọ (đánh đáo) cũng là một trò chơi rất phổ biến của đồng bào
Tày Lạng Sơn. Đối tượng chơi rất rộng rãi bao gồm cả nam nữ trai gái,
già, trẻ. Bãi chơi không cần rộng như đánh sảng nhưng cũng phải tương
đối bằng phẳng. Các quân đáo chủ yếu là đồng xu bằng kẽm (một loại

                                   32
tiền kim loại trước đây), riêng quân cái được làm bằng đá nhưng cũng có
nơi làm bằng gỗ được đẽo tròn như đã mô tả ở trên.
    Giữa sân chơi, người ta đào một lỗ nhỏ bằng cái bát con, trông xa
như một cái lọ. Cho nên đồng bào mới gọi là tức lọ. Lỗ này dùng làm để
nơi dấu quân. Từ lỗ, người ta đo lấy 3m đến 4m, sau đó kẻ vạch xuất
phát, ranh giới quy định cho người chơi. Thể lệ chơi cũng giản đơn, mỗi
lần chơi có thể 3 – 4 hoặc trên chục người, miễn là người chơi có đồng xu
và khi thua hoặc mất hết quân không được thắc mắc, lại càng không được
phá đám.
    Từng tốp, sau khi bàn bạc thống nhất ai đánh trước, ai đánh sau theo
tuần tự xong, bắt đầu chơi. Đầu tiên tất cả những người chơi đứng vào
đúng vị trí và tung các đồng xu vào xung quanh lọ. Sau đó người đánh
đầu tiên cầm cái ném vào chỗ có đồng xu, nếu đồng xu rơi vào lọ sẽ được
ăn đồng xu đó và có quyền ném tiếp các đồng xu khác. Lúc này vị trí ném
không phải ở vạch ranh giới nữa mà được vào gần lọ để ném. Họ ném
cho đến lúc nào không trúng nữa thì hết quyền và chuyển sang người
khác. Cuộc chơi cứ thế kéo dài cho đến lúc kết thúc.
    Tức lọ (đánh đáo) cũng là một trò chơi dân gian không thể thiếu
được của đồng bào các dân tộc Việt Nam nói chung cũng như của dân tộc
Tày và Nùng nói riêng. Sau mỗi lần đánh, người thắng cuộc được rủng
rỉnh những đồng xu trong túi. Họ cho rằng đó là số may để năm đó làm
ăn tốt đẹp. Những người thua cuộc có buồn đôi chút nhưng họ lại quyết
tâm sang năm sẽ làm ăn tốt hơn. Trò tức lọ (đánh đáo) có sức thu hút lôi
cuốn mê hồn trong các lễ hội. Cho nên nó được truyền từ đời này sang
đời khác, tồn tại cho đến ngày nay.
    2.2.9 Tức bi (đánh bi)
    Trò chơi tức bi (đánh bi) cũng là một trò chơi dân gian được nhiều
tầng lớp thanh thiếu niên ưa thích. Để chuẩn bị đón tết hàng năm, họ đã
chuẩn bị các loại bi. Bi cái dùng đá xanh ghè đập, mài cho thật tròn. Bi

                                      33
quân, người ta vào rừng chọn tìm những quả bồ hòn bóc lấy hạt. Hạt quả
bồ hòn đen bóng, tròn lẳn trông rất đẹp.
        Bãi để chơi bi, không cần rộng nhưng phải phẳng và nhẵn, không
có cỏ, không lồi lõm, đảm bảo khi đánh, bi phải lăn tròn được. Người ta
kẻ “để đặt bi và vạch xuất phát. Từ ô để bi đến vạch xuất phát khoảng 1 –
1,5m. Cách chơi, mỗi người đặt vào ô để bi 5 – 10 viên tuỳ theo sự thống
nhất của nhóm chơi. Sau đó họ ra đứng ở cạnh vạch xuất phát bắt đầu
thực hiện cuộc chơi. Họ nắm tay để hòn bi cái vào giữa hai ngón tay cái
và ngón tay trỏ. Ngón tay trỏ quặp vào lòng bàn tay, ngón tay trỏ ngả ra
để giữ viên bi. Khi bắn bi dùng tay trái chống xuống đất làm bệ tỳ, ngón
tay cái lấy đà bật viên bi ra, viên bi cái bay và đập vào viên bi quân, làm
cho nhóm bi quân ở trong “tản ra. Nếu bi cái không dính vào bi quân thì
tiếp tục bắn bi quân ăn cho kỳ hết. Nếu bi cái dính vào bi quân hoặc bắn
không vào bi quân thì dừng lại cho người tiếp theo và cứ thế cho đến kết
thúc cuộc chơi.
    2.2.10 Tức khăng (đánh khăng)
    Khăng là một loại trò chơi thể thao dân gian của đồng bào có từ lâu
đời. Đánh khăng là một thú vui của thanh thiếu niên trong các dịp lễ hội
xuân hoặc những ngày thanh nhàn. Khăng gồm có hai đoạn cây, một
ngắn 20cm, một dài 50cm. Bãi chơi tương đối rộng trong ruộng hoặc sân
đình. Người chơi đào một lỗ nhỏ làm nơi hất khăng và vạch phân định 20
– 30m từ nơi hất khăng đến nơi người đón khăng.
    Cách chơi, người ta đặt đoạn khăng ngắn ngang miệng lỗ, sau đó
dùng đoạn khăng dài hất đoạn khăng ngắn ra chỗ người đón, bên người
đón. Bên đón thi nhau bắt lấy đoạn khăng, nếu ai bắt được coi như là may
mắn và sẽ tung trở lại chỗ người hất khăng. Lúc này người hất khăng
dùng đoạn khăng dài quật trở lại, nếu trúng đoạn khăng ngắn bay xa đến
đâu thì sẽ dùng đoạn khăng dài của chính người hất khăng đo lấy. Sau đó
dùng tay cầm hai cây khăng thả đoạn khăng ngắn rơi xuống tự do và quật

                                    34
đoạn khăng đó bay đi xa bao nhiêu thì đo bấy nhiêu. Trong quá trình
đánh ai được nhiều khăng hơn người đó thắng. Mỗi lượt chơi chỉ được
một lần, dù được nhiều hay ít khăng vẫn phải dành cho người khác. Ai
thắng thua khi vãn cuộc chơi sẽ tính tổng xác định.
    Trò chơi khăng tương đối phong phú, các thanh thiếu niên nam nữ
tập trung chơi rất vui nhộn. Cuộc chơi khăng có thể kéo dài từ ngày này
sang ngày khác, kể cả trong lúc đi chăn trâu, các cháu nhỏ cũng có thể
chơi. Ngày nay, trò đánh khăng vẫn phổ biến ở khắp các vùng nông thôn
miền núi.
    2.2.11 Tức của thầu (chơi của thầu)
    Tức của thầu (chơi của thầu) là một trò chơi dân gian của đồng bào
Tày Lạng Sơn. Sân chơi là một bãi đất rộng bằng phẳng, diện tích tối
thiểu từ 10m2 trở lên. Đối tượng chơi chủ yếu là nữ thanh thiếu niên. Vật
dùng để chơi của thầu rất đơn giản, đồng bào thường dùng miếng ngói vỡ
hoặc miếng đá mỏng và que tre để kẻ “ruộng” (ruộng ở đây là ruộng
tượng trưng). Sân bãi được vẽ theo hình chữ nhật có vạch kẻ chia đôi hai
bên và chia làm 8 – 10 ô. Hai ô trên cùng gọi là “ruộng” quan được kẻ to
hơn. Ô dưới bên trái được vạch ký hiệu là “ruộng cấm”.
    Người chơi phải chuẩn bị mang theo đồ vật của mình. Một sân chơi
của thầu có thể tổ chức được rất nhiều người chơi. Mỗi lần chơi chỉ được
một người thực hiện, không có đối kháng. Kết quả ai thắng cuộc là người
được nhiều “ruộng” nhất và cuộc chơi kết thúc là lúc các “thửa ruộng”
trên sân đã hết, bằng cách họ kẻ những vạch báo hiệu.
    Luật chơi, được quy định như sau: khi ném mảnh ngói vào các ô
phải trúng giữa ô, nếu vật đè lên vạch hoặc sát mép của vạch coi như
phạm quy. Người đi phải nhảy lò cò một chân co lên, một chân đi. Vừa đi
vừa đá mảnh ngói và phải đá qua vạch, nếu chạm vào vạch thì dừng lại để
cho người khác đi. Nếu như các “ruộng” trên đường đi đã bị người ta ăn
thì phải nhảy vượt qua. Trong khi đá mảnh ngói vượt qua ranh giới đến

                                   35
“ruộng” của mình thì có quyền đứng cả hai chân xuống đất. Khi đá mảnh
ngói ra hết mới được làm động tác thứ hai là quay lưng cầm mảnh ngói
tung vào các thửa “ruộng”, nếu vật đó rơi vào “ruộng” nào thì được ruộng
đó. Nếu tung đúng vạch thì không được và dành cho người khác.
        Cách chơi, đầu tiên người chơi tung mảnh ngói vào ô và co chân
nhảy lò cò theo các “thửa ruộng” từ phải qua trái và ngược lại, và đá
mảnh ngói qua các “thửa ruộng”. Nếu đá qua chót lọt không phạm quy thì
xong bước một. Sau đó quay lưng làm động tác tung mảnh ngói xuống
“ruộng”, tiếng Tày – Nùng gọi là phào Nà. Đầu tiên họ tung lấy ruộng
gần nhất, ruộng đầu tiên và kẻ một ô nhỏ, vì “thửa ruộng” này phải chia
cho nhiều người, nếu như cuộc chơi có 10 người thì phải dành cho 10 ô.
Cho nên mỗi người được một mảnh. Sau khi được một mảnh trong ruộng
thứ nhất thì tiếp tục ném mảnh ngói vào các ruộng tiếp theo và co chân
nhảy lò cò như động tác ở trên, và quay lại đá mảnh ngói ra ngoài. Trong
quá trình đá phải hết sức khéo léo để mảnh ngói đi đúng hướng, không
chạm vào các vạch quy định và sau khi đá ra ngoài, lại quay lưng tung
mảnh ngói lấy “ruộng”. Cứ thế cuộc chơi kéo dài khi các “thửa ruộng” bị
lấy hết thì cuộc chơi kết thúc.
     Ngày nay trò chơi của thầu còn hết sức phổ biến trong các bản làng
của người Tày Lạng Sơn. Người ta có thể chơi cả ban ngày lẫn ban đêm,
nhất là đêm trăng sáng. Đặc biệt là trong các ngày lễ hội Lồng Tồng
thường được chơi sôi nổi nhất.
     2.2.12 Tức chẹt khum (ô ăn quan)
     Tức chẹt khum (ô ăn quan) là trò chơi dân gian của đồng bào Tày ở
Lạng Sơn. Vật chơi là những viên đá sỏi được nhặt ở dưới suối, rửa sạch
cho vào túi để dành.
     Sân chơi là một bãi đất nhỏ, họ dùng que vẽ thành hình bầu dục, có
một đường kẻ chia đôi ở giữa. Phía trong kẻ thành các ô bao gồm 10 ô
nhỏ và hai ô to ở hai đầu. Ô nhỏ gọi là ô “ruộng quân”, ô to gọi là ô

                                  36
“ruộng quan”. Tiếng Tày gọi là Nà quan, Nà dân. Sau khi kẻ xong và bắt
đầu chơi, họ bỏ hạt sỏi vào mỗi ô “ruộng quan” 10 viên, mỗi ô “ruộng
dân” 5 viên.
    Cách chơi và luật chơi cũng rất đơn giản, thông thường chỉ có hai
người chơi. Người chơi ngồi hai bên và quy định với nhau, mỗi bên đều
có một ô “ruộng quan” và năm ô “ruộng dân”. Người chơi bắt đầu lần
lượt đi. Người này đi không được thì đến lượt người khác. Người đi bên
tay phải cầm hạt sỏi của ô “ruộng quan” bên mình lần lượt bỏ xuống mỗi
ô “ruộng quan” một hạt và đi từ phải qua trái. Đi đến khi nào có ô trống
liền kề, thì được ăn toàn bộ hạt sỏi ở bên cạnh. Còn trong quá trình đi mà
không có ô trống thì không được ăn. Khi rắc viên sỏi đến ô thì hết sỏi mà
vẫn không có ô trống để ăn thì dừng lại để cho người khác đi. Người khác
đi lại bốc tiếp hạt sỏi ở ““ ruộng quan” của mình và tiếp tục đi cho đến
khi nào được ăn thì chơi tiếp. Nếu không được ăn thì thôi và nhường cho
người khác đi.
    Trên đây là cách chơi hai người, còn cách chơi ba người thì quy định
khác nhau về hình vẽ. Hình vẽ của sân chơi ba người được vẽ theo hình
tam giác, có ba ô “ruộng quan” và 15 ô “ruộng dân”. Như vậy mỗi người
đều có một ô “ruộng quan” và 5 “ruộng quân”. Cách chơi và luật chơi
giống như cách chơi của hai người.
    Trong quá trình chơi tất có bên thắng bên thua, bên thua có thể mua
lại ruộng của người thắng bằng cách tạm vay hoặc bên thắng bán cho bên
thua một số ruộng bằng cách để lại cho bên mua một số hạt sỏi, đủ để
mua một số ruộng. Khi thoả thuận giao kèo xong, họ lại tiếp tục chơi cho
đến khi nào không muốn chơi thì kết thúc cuộc chơi.
    Trò chơi Tức chẹt khum là một thú vui của các cháu thanh thiếu niên,
có lúc tập trung rất đông trong sân trường hoặc sân của lễ hội. Mỗi lần họ
chơi tạo cho không khí hội vô cùng phong phú, đông đảo về số lượng, rực



                                     37
rỡ về sắc mầu. Ngày nay trò chơi này càng ngày càng phát triển, nhất là
vùng sâu vùng xa.
    2.2.13 Pây mạ điếng (đi cà kheo)
    Xuất phát từ điều kiện sống ở miền núi, đường xá đi lại khó khăn,
khe suối nhiều, nhất là những lúc mùa đông giá lạnh, đi cà kheo trở thành
hiện tượng phổ biến của đồng bào Tày ở Lạng Sơn.
    Như đã nói ở phần trên, trong quá trình chuẩn bị đón tết, đồng bào
đã làm sẵn mạ điếng (cà kheo). Mỗi gia đình chuẩn bị một vài bộ và tập
các động tác đi, đứng, chạy…
    Thể lệ cuộc chơi này là người phải đứng chân trên cà kheo, hai tay
cầm hai bên, cà kheo cao so với mặt đất bao nhiêu thì tuỳ, nhưng đoạn
cây từ chỗ để chân trở lên phải cao bằng người để tay cầm. Khi đi, chân
nào tay ấy cùng phối hợp nhịp nhàng. Trong quá trình đi không được ngã.
    Cách thức thi, tuỳ nhiều địa phương có những hình thức khác nhau
nhưng cũng chỉ diễn ra theo một số hình thức như sau: Thi chạy nhanh cự
ly 50 – 100m, ai về đích trước sẽ giành phần thắng. Thi đi cà kheo hái
quả, cự ly từ 20 – 30m. Trước khi thi người ta đã dựng cột và treo chùm
quả vào sẵn. Ai đi nhanh hơn và hái được quả thì sẽ được thưởng do Pú
mo trao tặng tại bàn thờ của đình.
    Trò thi cà kheo thật là vui nhộn, nhất là trò thi hái quả. Đây là một
động tác rất khó vì khi đứng cà kheo rất dễ bị ngã. Cho nên người giữ
thăng bằng thật tốt mới có thể hái được quả. Trong quá trình thi, người thì
ngã người thì vấp, gây nên những trận cười sảng khoái cho người xem
không biết chán.
    Khoảng 4 – 5 giờ chiều, hội chuyển sang lễ cầu mùa. Người ta tập
trung quanh mâm Pú mo. Pú mo cầm chậu nước đứng trên bàn cao làm lễ
cầu trời xin nước tưới ruộng, lời khấn có đoạn: “Khấn trời cho nắng, hạn
lui đi, cho mưa tụ về, dồn nước đầy đồng thấp, tràn đồng cao, lúa xen bờ
trên lúa ngập bờ dưới, lúa tốt hơn năm ngoái, lúc nhiều hơn năm kia, lúa

                                     38
chắc hạt nặng gẫy gánh đòn, lúa chất ba gian nhà, lúa đầy trên giàn bếp,
lúa tẻ ăn không hết, lúa nếp ăn không chê.
        Anh em ơi được trời chấp thuận cho mưa gió thuận hoà rồi nhé…
ai cũng phải gắng sức làm công, ai siêng năng thì được, ai biếng thì
không nhé, đây này, đây này,… trời cho mưa thuận gió hoà này…”. Vừa
khấn, Pú mo vừa té nước ra xung quanh, người ta chú ý chen vào gần Pú
mo cho “nước mưa” rơi vào mình để được hưởng lộc xuân.
    Sau lễ cầu mùa, Pú mo làm lễ cúng lợn, con lợn này đã được các
thành viên trong bản thịt từ trước lúc làm lễ cầu mùa. Pú mo khấn vài
câu, con lợn được chia cắt thành từng phần và chia cho các gia đình trong
bản, mỗi gia đình được một phần thịt của mình. Gia đình nào cũng được
như nhau, không phân biệt và họ đem về nhà trong tâm trạng rất phấn
khởi vì họ cho rằng đây là lộc của thần.
    Hội tan, các đám sư tử đi chúc tết các gia đình trong bản, sau đó
chào thổ công rồi mới ra về. Tuy nhiên các đội sư tử đều được mời ở lại
ăn uống và trao đổi kinh nghiệm, đánh võ vui với dân bản. Thanh niên
thường được trai gái trong bản mời ở lại để đêm xuân còn sli, lượn đối
đáp thâu đêm, đến sáng mới tạm biệt ra về mà không quên hò hẹn cùng
nhau sang hội khác. Bởi vậy tình yêu trong sáng mặn mà cũng có thể nảy
nở qua các buổi hát đua tài này. Đêm xuân sli, lượn làm vui cả bản, người
trẻ hát người già thức nghe, cảm thấy tuổi xuân trẻ lại trong lòng, người
già giỏi hát còn chỉ dẫn cho bọn con trẻ nghệ thuật diễn xướng.
    Đến với lễ hội Lồng Tồng chúng ta không những được chứng kiến
sự giục dã, thôi thúc trong tiết tấu của tiếng chiêng trống, của sư tử với
các điệu khua rộn rã dồn dập, với những điệu múa uyển chuyển nhịp
nhàng, những động tác múa võ, múa gậy chan chát, những con sư tử rực
màu xanh đỏ múa vờn với khỉ và báo đông… mà chúng ta còn được
chứng kiến những cuộc thi tài của các trò chơi dân gian như đánh cờ, bắn
nỏ, đi cà kheo và nhiều trò vui khác.

                                    39
Ai đã đến với lễ hội Lồng Tồng Yên Lỗ dù chỉ một lần, sẽ khó mà
quên được cảnh trai gái hát giao duyên bằng những lời sli, lượn, phong
slư mượt mà, duyên dáng, dịu dàng đằm thắm, những lời chào hỏi, những
bữa cơm thân mật, những lời chúc tụng của khách thập phương.
    Đến với lễ hội Lồng Tồng Yên Lỗ, chúng ta sẽ được chứng kiến
những đôi trai gái thanh lịch với những bộ quần áo đẹp, màu sắc sặc sỡ
trổ tài tung những quả còn tình yêu, quả còn định mệnh. Quả còn bay đi
gửi gắm bao tình thương nỗi nhớ để rồi chia tay bịn rịn, không muốn rời
xa nhau.


                            CHƯƠNG III
           GIÁ TRỊ CỦA TRÒ DIỄN, TRÒ CHƠI DÂN GIAN
  TRONG LỄ HỘI LỒNG TỒNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA


    3.1 Các giá trị
    3.1.1 Giá trị văn hoá tinh thần
     Là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước và hái lượm từ lâu đời, người
Tày Yên Lỗ Lạng sơn có các sinh hoạt văn hoá tinh thần gắn chặt với chu
kỳ mùa vụ. Khi mùa xuân tới, trời đất giao hoà, con người cùng vạn vật
tràn đầy sức sống. Người Tày Lạng Sơn nói chung, người Tày yên Lỗ nói
riêng chuẩn bị bước vào một mùa vụ mới. Đây cũng là lúc lễ hội Lồng
Tồng được diễn ra, tô điểm, hoà nhập vào cảnh sắc mùa xuân. Con người
và vạn vật như được tiếp thêm sinh lực mới.
    Lễ hội Lồng Tồng mang đậm những biểu hiện tín ngưỡng dân gian
với tính chất cầu mùa của cư dân nông nghiệp. Nó thể hiện sự phong phú,
đa dạng của tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam.
    Lễ hội Lồng Tồng được tổ chức với mục đích ghi nhớ công lao của
người đã có công dựng bản, giữ làng và cái cơ bản nhất là lễ hội của cư
dân nông nghiệp.

                                  40
Lễ hội Lồng Tồng được mở còn để cho dân bản được vui chơi, thay
đổi không khí của một năm làm việc nặng nề, vất vả, quên đi những gì
không may mắn của năm cũ.
    Qua lễ hội, con người tin tưởng lạc quan vào một tương lai tốt đẹp,
và chăm chú vào công việc bằng sức mạnh của con người có niềm tin.
    3.1.2 Giá trị văn hoá xã hội
    Trong lễ hội Lồng Tồng, nét đặc trưng nổi bật nhất, cũng là nét văn
hoá tiêu biểu nhất, là tính cộng đồng và cố kết cộng đồng người. Hội
được mở ra hoặc chỉ là khâu chuẩn bị thôi cũng đủ làm cho tính cộng
dồng được biểu hiện một cách rõ rệt. Đó là sự hồ hởi, phấn khởi đón nhận
sự phân công của ban tổ chức hoặc người hành lễ mà ngày thường không
dễ dàng có được.
    Qua lễ hội Lồng Tồng, ta còn hiểu được các mối quan hệ dòng tộc,
hội phe, giáp. Bởi vì trong mỗi bản của người Tày, mối quan hệ thân tộc,
dòng họ tương đối bền chặt.
    Một điều nữa là khi đến với các cuộc chơi, con người luôn được
sống trong không khí cởi mở, dân chủ, bình đẳng.
    3.1.3 Giá trị về nghệ thuật hát dân ca
    Một trong những trò vui trong lễ hội Lồng Tồng là hát dân ca của
đồng bào Tày – Nùng. Đây là trò hát sôi nổi và vui nhộn nhất. Thanh niên
trai gái gặp nhau trong ngày hội có thể hát thâu đêm tới sáng và hát từ hội
này sang hội khác, từ ngày này sang ngày khác. Có những nơi hát cho
đến hết các ngày hội mới thôi.
    Các làn điệu ở đây chủ yếu là sli, then, lượn, phong slư. Họ hát bằng
giai điệu trữ tình, mượt mà, đối đáp tình yêu nam nữ.
    Đến với lễ hội, hoà trong không khí hìng tráng của múa sư tử và các
điệu võ cao cường thì tiếng hát đã làm cho ta xao xuyến lạ thường. Đó
cũng là một trong những yếu tố làm cho chúng ta không thể quên được



                                    41
dư âm khi hội kết thúc. Cũng qua hội, hát giao duyên là thời cơ để các cô
gái, chàng trai quen biết và tìm hiểu nhau tiến tới hôn nhân hạnh phúc.
    Lễ hội cũng là nơi để đồng bào sáng tạo những làn điệu dân ca mượt
mà, nơi thi tài thi sức giọng hát hay, đẹp, những lời đối đáp tài tình, hào
hoa, phong nhã.
    Vì thế, lễ hội Lồng Tồng đã tạo điều kiện cho vốn dân ca của người
Tày Yên Lỗ được bảo lưu, phát huy, góp phần làm đẹp cuộc sống.
    3.1.4 Giá trị về bản sắc văn hoá dân tộc
    Những trò diễn, trò chơi dân gian được giới thiệu trên đây là biểu
hiện cụ thể của bản sắc văn hoá dân tộc Tày. Thông qua lễ hội Lồng
Tồng, vốn quý đó được bảo lưu và truyền bá từ đời này qua đời khác.
Cũng nhờ vậy, các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của đồng bào Tày
được bảo tồn và phát huy. Đó là truyền thống đoàn kết cộng đồng, là
thuần phong mỹ tục, là các làn điệu dân ca mượt mà, phong phú của đồng
bào làm cho nó không thể lẫn lộn với dân ca của các dân tộc khác.
    Qua các trò diễn, cho chơi dân gian trong lễ hội Lồng Tồng, giá trị
con người được nâng cao hơn, tính thân thiện, tính nhân văn, nhân bản
của con người được phát huy hơn bao giờ hết. Lối ứng xử tế nhị nhẹ
nhàng, thưa gửi, hỏi han đúng mực làm cho con người trân trọng nhau
hơn. Đây là nét đẹp truyền thống cực kỳ quý giá, mà con người thông qua
lễ hội của mình được lưu truyền và giữ gìn cho đến ngày nay.
    3.1.5 Giá trị lịch sử
    Qua các trò diễn, trò chơi dân gian trong lễ hội Lồng Tồng, chúng ta
nghiên cứu rút ra được rất nhiều giá trị mang ý nghĩa lịch sử của cộng
đồng, của dân tộc, như lịch sử cư trú và phát triển các ngành nghề, phong
tục tập quán, các tôn giáo và tín ngưỡng, các công trình kiến trúc nghệ
thuật, sự giao thoa văn hoá giữa các vùng miền trong cả nước cũng như
với nước ngoài.



                                    42
Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng
Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng
Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng
Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng
Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng

More Related Content

What's hot

Giá trị Văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam (TS. Lê Trung Kiên)
Giá trị Văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam (TS. Lê Trung Kiên)Giá trị Văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam (TS. Lê Trung Kiên)
Giá trị Văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam (TS. Lê Trung Kiên)Kien Thuc
 
SỰ KHÁC BIỆT TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY VÀ ẢNH H...
SỰ KHÁC BIỆT TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY VÀ ẢNH H...SỰ KHÁC BIỆT TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY VÀ ẢNH H...
SỰ KHÁC BIỆT TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY VÀ ẢNH H...Sam Phuong
 
Đề tài văn hóa Tây Bắc.pptx
Đề tài văn hóa Tây Bắc.pptxĐề tài văn hóa Tây Bắc.pptx
Đề tài văn hóa Tây Bắc.pptxTuanPham84308
 
Phát triển kĩ năng tư duy phản biện qua dạy học đọc hiểu văn bản cho học sinh...
Phát triển kĩ năng tư duy phản biện qua dạy học đọc hiểu văn bản cho học sinh...Phát triển kĩ năng tư duy phản biện qua dạy học đọc hiểu văn bản cho học sinh...
Phát triển kĩ năng tư duy phản biện qua dạy học đọc hiểu văn bản cho học sinh...Man_Ebook
 
TS. BÙI QUANG XUÂN I. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
TS. BÙI QUANG XUÂN               I. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAMTS. BÙI QUANG XUÂN               I. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
TS. BÙI QUANG XUÂN I. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAMBùi Quang Xuân
 
Bài giảng môn CNXH KH - Chương 6.docx
Bài giảng môn CNXH KH - Chương 6.docxBài giảng môn CNXH KH - Chương 6.docx
Bài giảng môn CNXH KH - Chương 6.docxKhanhLinh716771
 
Cơ sở văn hóa việt nam
Cơ sở văn hóa việt namCơ sở văn hóa việt nam
Cơ sở văn hóa việt namNhi Lùn
 
Tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộc
Tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộcTư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộc
Tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộcAnh Dũng Phan
 
Tu tuong hcm ve van hoa dao duc xay dung xay dung con nguoi
Tu tuong hcm ve van hoa dao duc xay dung xay dung con nguoiTu tuong hcm ve van hoa dao duc xay dung xay dung con nguoi
Tu tuong hcm ve van hoa dao duc xay dung xay dung con nguoitrinhtien27a1
 
đề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minh
đề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minhđề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minh
đề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minhcongatrong82
 
Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí MinhĐề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí MinhSương Tuyết
 
NỀN TẢNG VĂN HÓA VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT NAM TS. BÙI QUANG ...
NỀN TẢNG VĂN HÓA VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT NAM  TS. BÙI QUANG ...NỀN TẢNG VĂN HÓA VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT NAM  TS. BÙI QUANG ...
NỀN TẢNG VĂN HÓA VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT NAM TS. BÙI QUANG ...Minh Chanh
 
Chương 1, tư tưởng hchinh
Chương 1, tư tưởng hchinhChương 1, tư tưởng hchinh
Chương 1, tư tưởng hchinhmai_mai_yb
 

What's hot (20)

Luận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai Châu
Luận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai ChâuLuận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai Châu
Luận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai Châu
 
Luận văn: Thực hiện chính sách Dân số và phát triển huyện Phú Ninh
Luận văn: Thực hiện chính sách Dân số và phát triển huyện Phú NinhLuận văn: Thực hiện chính sách Dân số và phát triển huyện Phú Ninh
Luận văn: Thực hiện chính sách Dân số và phát triển huyện Phú Ninh
 
Giá trị Văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam (TS. Lê Trung Kiên)
Giá trị Văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam (TS. Lê Trung Kiên)Giá trị Văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam (TS. Lê Trung Kiên)
Giá trị Văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam (TS. Lê Trung Kiên)
 
Đề tài: Thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
Đề tài: Thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới ở Việt NamĐề tài: Thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
Đề tài: Thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
 
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở quận ...
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở quận ...Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở quận ...
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở quận ...
 
SỰ KHÁC BIỆT TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY VÀ ẢNH H...
SỰ KHÁC BIỆT TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY VÀ ẢNH H...SỰ KHÁC BIỆT TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY VÀ ẢNH H...
SỰ KHÁC BIỆT TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY VÀ ẢNH H...
 
Đề tài văn hóa Tây Bắc.pptx
Đề tài văn hóa Tây Bắc.pptxĐề tài văn hóa Tây Bắc.pptx
Đề tài văn hóa Tây Bắc.pptx
 
Phát triển kĩ năng tư duy phản biện qua dạy học đọc hiểu văn bản cho học sinh...
Phát triển kĩ năng tư duy phản biện qua dạy học đọc hiểu văn bản cho học sinh...Phát triển kĩ năng tư duy phản biện qua dạy học đọc hiểu văn bản cho học sinh...
Phát triển kĩ năng tư duy phản biện qua dạy học đọc hiểu văn bản cho học sinh...
 
TS. BÙI QUANG XUÂN I. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
TS. BÙI QUANG XUÂN               I. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAMTS. BÙI QUANG XUÂN               I. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
TS. BÙI QUANG XUÂN I. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
 
Bài giảng môn CNXH KH - Chương 6.docx
Bài giảng môn CNXH KH - Chương 6.docxBài giảng môn CNXH KH - Chương 6.docx
Bài giảng môn CNXH KH - Chương 6.docx
 
Cơ sở văn hóa việt nam
Cơ sở văn hóa việt namCơ sở văn hóa việt nam
Cơ sở văn hóa việt nam
 
Tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộc
Tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộcTư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộc
Tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộc
 
Đề tài: Phát huy giá trị làng nghề thêu ren Văn Lâm tỉnh Ninh Bình
Đề tài: Phát huy giá trị làng nghề thêu ren Văn Lâm tỉnh Ninh BìnhĐề tài: Phát huy giá trị làng nghề thêu ren Văn Lâm tỉnh Ninh Bình
Đề tài: Phát huy giá trị làng nghề thêu ren Văn Lâm tỉnh Ninh Bình
 
Tu tuong hcm ve van hoa dao duc xay dung xay dung con nguoi
Tu tuong hcm ve van hoa dao duc xay dung xay dung con nguoiTu tuong hcm ve van hoa dao duc xay dung xay dung con nguoi
Tu tuong hcm ve van hoa dao duc xay dung xay dung con nguoi
 
đề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minh
đề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minhđề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minh
đề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minh
 
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc GiaoLuận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
Luận văn: Nhân vật trong truyện Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao
 
Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí MinhĐề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh
 
Luận văn: Quản lý di tích lịch sử văn hóa đình Phùng Khoang, 9 ĐIỂM
Luận văn: Quản lý di tích lịch sử văn hóa đình Phùng Khoang, 9 ĐIỂMLuận văn: Quản lý di tích lịch sử văn hóa đình Phùng Khoang, 9 ĐIỂM
Luận văn: Quản lý di tích lịch sử văn hóa đình Phùng Khoang, 9 ĐIỂM
 
NỀN TẢNG VĂN HÓA VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT NAM TS. BÙI QUANG ...
NỀN TẢNG VĂN HÓA VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT NAM  TS. BÙI QUANG ...NỀN TẢNG VĂN HÓA VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT NAM  TS. BÙI QUANG ...
NỀN TẢNG VĂN HÓA VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT NAM TS. BÙI QUANG ...
 
Chương 1, tư tưởng hchinh
Chương 1, tư tưởng hchinhChương 1, tư tưởng hchinh
Chương 1, tư tưởng hchinh
 

Similar to Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng

Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Lễ hội đền Hả
Lễ hội đền HảLễ hội đền Hả
Lễ hội đền Hảlongvanhien
 
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạngVăn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạngPham Van Tam
 
La33.007 phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉn...
La33.007 phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉn...La33.007 phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉn...
La33.007 phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉn...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Lễ hội đình làng trung nghĩa   nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồngLễ hội đình làng trung nghĩa   nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồngttkhhanam
 
Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Lễ hội đình làng trung nghĩa   nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồngLễ hội đình làng trung nghĩa   nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồngttkhhanam
 
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533jackjohn45
 
Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang
Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà GiangDân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang
Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Gianglongvanhien
 

Similar to Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng (20)

Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
 
Lễ hội đền Hả
Lễ hội đền HảLễ hội đền Hả
Lễ hội đền Hả
 
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạngVăn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
 
Luận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAY
Luận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAYLuận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAY
Luận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAY
 
La33.007 phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉn...
La33.007 phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉn...La33.007 phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉn...
La33.007 phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉn...
 
Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Lễ hội đình làng trung nghĩa   nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồngLễ hội đình làng trung nghĩa   nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
 
Luận án: Tri thức bản địa của người Mnông khi sử dụng tài nguyên
Luận án: Tri thức bản địa của người Mnông khi sử dụng tài nguyênLuận án: Tri thức bản địa của người Mnông khi sử dụng tài nguyên
Luận án: Tri thức bản địa của người Mnông khi sử dụng tài nguyên
 
Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Lễ hội đình làng trung nghĩa   nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồngLễ hội đình làng trung nghĩa   nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
 
Đề tài: Quản lí lễ hội đình làng Ngọc Tân tỉnh Phú Thọ, HAY, 9đ
Đề tài: Quản lí lễ hội đình làng Ngọc Tân tỉnh Phú Thọ, HAY, 9đĐề tài: Quản lí lễ hội đình làng Ngọc Tân tỉnh Phú Thọ, HAY, 9đ
Đề tài: Quản lí lễ hội đình làng Ngọc Tân tỉnh Phú Thọ, HAY, 9đ
 
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
 
Cơ sở lý luận về văn hóa tộc người tày tại huyện bình liêu tỉnh Quảng Ninh.docx
Cơ sở lý luận về văn hóa tộc người tày tại huyện bình liêu tỉnh Quảng Ninh.docxCơ sở lý luận về văn hóa tộc người tày tại huyện bình liêu tỉnh Quảng Ninh.docx
Cơ sở lý luận về văn hóa tộc người tày tại huyện bình liêu tỉnh Quảng Ninh.docx
 
Luận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn La
Luận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn LaLuận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn La
Luận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn La
 
Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang
Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà GiangDân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang
Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang
 
Tập quán trong sinh đẻ và nuôi dạy trẻ nhỏ của người Hmông, 9đ
Tập quán trong sinh đẻ và nuôi dạy trẻ nhỏ của người Hmông, 9đTập quán trong sinh đẻ và nuôi dạy trẻ nhỏ của người Hmông, 9đ
Tập quán trong sinh đẻ và nuôi dạy trẻ nhỏ của người Hmông, 9đ
 
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoi
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoiluan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoi
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoi
 
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đLuận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
 
Luận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAYLuận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAY
 
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam TânLễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân
 
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đ
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đLễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đ
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đ
 
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và TháiLuận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
 

More from longvanhien

Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vnlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vnlongvanhien
 
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vn
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vnDiễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vn
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vnlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vnlongvanhien
 
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.longvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066longvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vnlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vnlongvanhien
 
Thực phẩm và sức khỏe
Thực phẩm và sức khỏeThực phẩm và sức khỏe
Thực phẩm và sức khỏelongvanhien
 
Cẩm nang người đi Miếu Bà
Cẩm nang người đi Miếu BàCẩm nang người đi Miếu Bà
Cẩm nang người đi Miếu Bàlongvanhien
 
Cẩm nang đi Núi Cấm
Cẩm nang đi Núi CấmCẩm nang đi Núi Cấm
Cẩm nang đi Núi Cấmlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vnlongvanhien
 
Những đồng tiền Cụ Hồ
Những đồng tiền Cụ HồNhững đồng tiền Cụ Hồ
Những đồng tiền Cụ Hồlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vnlongvanhien
 
Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014
Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014
Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014longvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vnlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vnlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vnlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vnlongvanhien
 

More from longvanhien (20)

Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vn
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vn
 
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vn
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vnDiễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vn
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vn
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vn
 
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vn
 
So 12
So 12So 12
So 12
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vn
 
Thực phẩm và sức khỏe
Thực phẩm và sức khỏeThực phẩm và sức khỏe
Thực phẩm và sức khỏe
 
Cẩm nang người đi Miếu Bà
Cẩm nang người đi Miếu BàCẩm nang người đi Miếu Bà
Cẩm nang người đi Miếu Bà
 
Cẩm nang đi Núi Cấm
Cẩm nang đi Núi CấmCẩm nang đi Núi Cấm
Cẩm nang đi Núi Cấm
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vn
 
Những đồng tiền Cụ Hồ
Những đồng tiền Cụ HồNhững đồng tiền Cụ Hồ
Những đồng tiền Cụ Hồ
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vn
 
Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014
Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014
Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vn
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vn
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vn
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vn
 

Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng

  • 1. NGUYỄN BÍCH VÂN TRÒ DIỄN VÀ TRÒ CHƠI DÂN GIAN TRONG LỄ HỘI LỒNG TỒNG CỦA NGƯỜI TÀY XÃ YÊN LỖ, HUYỆN BÌNH GIA, TỈNH LẠNG SƠN (Tiểu luận khoa học của sinh viên đại học) 1
  • 2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU……………………………………………………………5 1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………………….5 2. Nghiên cứư đề tài……………………………………………5 3. Mục đích nghiên cứư đề tài…………………………………6 4. Nguồn tư liệu phục vụ đề tài………………………………..6 5. Phương pháp thực hiện đề tài………………………………6 6. Đóng góp khoa học của đề tài………………………………6 7. Cấu trúc nội dung đề tài……………………………………6 CHƯƠNG I: Những nét khái quát về địa lý, kinh tế, xã hội của người Tày xã Yên Lỗ, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn………………….7 1.1 Vị trí địa lý và con người……………………………………….7 1.1.1 Vị trí địa lý…………………………………………………….7 1.1.2 Con người và lịch sử cư trú…………………………………... 7 1.2 Sinh hoạt kinh tế và văn hoá vật chất………………………….8 1.3 Tổ chức gia đình, xã hội…………………………………………11 1.3.1 Gia đình và quan hệ gia đình………………………………...11 1.3.2 Về quan hệ xã hội……………………………………………..11 1.4 Văn hoá - phong tục……………………………………………..12 1.5 Văn hoá dân gian………………………………………………... 13 CHƯƠNG II: Các trò diễn & trò chơi dân gian trong lễ hội Lồng Tồng…………………………………………………………………..15 2.1 Trò diễn…………………………………………………………..15 2.1.1 Trò sỹ, nông, công, thương (kén rể)…………………………..15 2.1.2 Loòng kỳ lằn, loòng phụ (trò múa sư tử)………………………17 2.1.3 Oóc quyền (trò múa võ)……………………………………….20 2.1.4 Trò hát then, sli, lượn………………………………………….22 2
  • 3. 2.2 Các trò chơi………………………………………………………24 2.2.1 Thọt còn (trò tung còn)………………………………………..24 2.2.2 Tức kỳ, tức cờ (chơi cờ tướng, cờ lài)…………………………25 2.2.3 Xẻ thỏi (kéo co)………………………………………………... 28 2.2.4 Thi nôộc tiêu tò tót (chọi chim hoạ mi)………………………29 2.2.5 Bắn nả (thi bắn nỏ)……………………………………………30 2.2.6 Tức yến, tức diến (thi đánh yến)………………………………31 2.2.7 Tức sáng (thi đánh sảng)………………………………………31 2.2.8 Tức lọ (đánh đáo)………………………………………………32 2.2.9 Tức bi (đánh bi)………………………………………………... 33 2.2.10 Tức khăng (đánh khăng)……………………………………..34 2.2.11 Tức của thầu…………………………………………………..34 2.2.12 Tức chẹt khum (ô ăn quan)…………………………………..36 2.2.13 Pây mạ điếng (đi cà kheo)…………………………………….37 CHƯƠNG III: Giá trị của trò diễn, trò chơi dân gian trong Lễ hội Lồng Tồng và những vấn đề đặt ra………………………………….40 3.1 Các giá trị………………………………………………………….40 3.1.1 Giá trị văn hoá tinh thần……………………………………….40 3.1.2 Giá trị văn hoá xã hội…………………………………………... 40 3.1.3 Giá trị về nghệ thuật hát dân ca………………………………..41 3.1.4 Giá trị về bản sắc văn hoá dân tộc……………………………..41 3.1.5 Giá trị lịch sử……………………………………………………42 3.2 Những vấn đề đặt ra nhằm bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá……………………………………………………………... 42 Kết luận………………………………………………………………..45 Tài liệu tham khảo……………………………………………………47 3
  • 4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được bài viết tiểu luận khoa học này là do sự nỗ lực của bản thân em dưới sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy giáo, TS Phạm Việt Long, cùng với sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo trường Đại học Văn hoá Hà Nội, khoa văn hoá dân tộc đã cung cấp tư liệu quý báu giúp em hoàn thành bài viết. Đây là lần đầu làm quen với công việc nghiên cứu, dù cố gắng nhiệt tình nhưng cũng không tránh khỏi những thiếu sót trong lúc thực hiện bài viết. Vậy em kính mong các thầy, cô giáo góp ý để các bài viết sau được tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn. 4
  • 5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong các dân tộc thiểu số Việt Nam, dân tộc Tày chiếm số lượng dân cư khá lớn trong. Dân tộc Tày cư trú chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc, có tập quán và trình độ sản xuất khá tiến bộ, có nền văn hoá lâu đời, đặc sắc. Truyền thống văn hoá dân tộc Tày đang cú những biến đổi sâu sắc bởi sự giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc trong nước và ngoài nước. Đối với em là một sinh viên khoa văn hoá dân tộc, sự hiểu biết về nét đẹp trong văn hoá dân gian còn rất hạn chế nên việc nghiên cứu về trò chơi, trò diễn là việc làm cần thiết để góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu bản sắc văn hoá dân tộc, qua đó thấy được những cái hay, cái đẹp để có hướng giữ gìn và phát huy trong xã hội hiện đại, đồng thời khắc phục những mặt hạn chế ở đời sống xã hội. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã có một số anh chị khoá trước tìm hiểu về trò chơi dân gian, trò diễn của người Tày, nhưng nhìn chung còn rất hạn hẹp, không bao quát được các trò. Với việc nghiên cứu đề tài lần này của mình, em mong muốn sẽ góp một phần nào đó vào việc gìn giữ và phát huy tiếng nói dân tộc Tày thông qua các trò chơi. 3. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu trò diễn, trò chơi dân gian trong lễ hội Lồng Tồng của người Tày ở xã Yên Lỗ, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn để giup người đọc hiểu thêm về một loại hình sinh hoạt văn hoá của nhân dân địa phương và đề xuất một số giải pháp góp phần bảo tồn, phát huy vốn văn hoá truyền thống của dân tộc. 4. Nguồn tư liệu 5
  • 6. Thu thập từ các tài liệu, sách, báo, tạp chí và những người cung cấp tư liệu trực tiếp trong dịp lễ hội Lồng Tồng xưa và nay của xã Yên Lỗ, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn. 5. Phương pháp nghiên cứu Dựa vào phương pháp nghiên cứu mà em đã được học trong trường, như thu thập tài liệu, khảo sát thực tế, phương pháp điền dã dân tộc học, trao đổi, phỏng vấn, miêu tả so sánh… 6. Đóng góp khoa học của đề tài Giới thiệu được trò chơi, trò diễn trong lễ hội Lồng Tồng của một địa phương mà trước đây chưa được nhiều người quan tâm. Góp phần chứng minh được tính phong phú, đa dạng và giá trị đặc sắc của văn hoá dân gian các dân tộc thiểu số ở nước ta. Đề xuất được biện pháp bảo tồn, phát huy một vốn quý trong di sản văn hoá của người Tày. 7. Kết cấu Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài có 3 chương: Chương I: Những nét khái quát về địa lý, kinh tế, xã hội của người Tày xã Yên Lỗ, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn Chương II: Các trò diễn và trò chơi dân gian trong lễ hội Lồng Tồng của người Tày ở xã Yên Lỗ, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn Chương III: Giá trị của trò diễn, trò chơi dân gian trong lễ hội Lồng Tồng của người Tày ở đây và những vấn đề đặt ra CHƯƠNG I NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA LÝ, KINH TẾ, XÃ HỘI CỦA NGƯỜI TÀY XÃ YÊN LỖ, HUYỆN BÌNH GIA,TỈNH LẠNG SƠN 1.1. Vị trí địa lý và con người 1.1.1 Vị trí địa lý 6
  • 7. Yên Lỗ có một vị trí vô cùng thuận lợi của vùng Đông - Bắc huyện Bình Gia. Dạng địa hình phổ biến ở xã Yên Lỗ là vùng đồi và núi thấp. Toàn bộ xã Yên Lỗ nằm dọc theo một thung lũng khoảng 20 km được bao bọc bởi các hệ thống dãy núi đất. Địa hình thể hiện khá rõ tính chất phân bậc. Về đất: Chủ yếu là đất sét và đất thịt, không có đá vôi. Do đó, địa chất Yên Lỗ cũng khác nhiều vùng khác trong huyện. Khí hậu: Nhiệt đới gió mùa, mùa đông tương đối dài và lạnh, nên nhiệt độ thấp hơn các tỉnh đồng bằng 2-5 độ, lượng mưa trung bình 1400- 1500 mm trên một năm. Khoáng sản: Không có các mỏ kim loại, chỉ có đất sét và cát vàng phục vụ cho sản xuất vật liệu xây dựng làm gạch ngói để làm các công trình của đời sống xã hội. Các loại tài nguyên này tồn tại ở hầu hết các địa bàn trong xã. Về thuỷ văn: Mạng lưới sông suối và khe rạch khá phát triển. Mật độ suối và khe rạch dao động trung bình từ 0,6 đến 1,2 km2. 1.1.2 Con người và lịch sử cư trú Xã Yên Lỗ có 1.359 khẩu thuộc 270 hộ, chiếm gần 50% tổng số hộ trong toàn xã. Yên Lỗ là nơi tụ cư của đồng bào các dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Dao. Họ khác nhau về nguồn gốc, ngôn ngữ, truyền thống, văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài và phát triển, cộng đồng các dân tôc xã Yên Lỗ đã đoàn kết gắn bó với nhau để chinh phục thiên nhiên và bảo vệ quê hương, bản làng. Là thành viên trong cộng đồng các dân tộc nói ngôn ngữ Tày – Thái, người Tày chiếm 38% dân số của tỉnh Lạng Sơn, đứng thứ hai so với người Nùng ở tỉnh, là dân tộc đông nhất trong 53 dân tộc thiểu số của cả nước. Người Tày là một trong những dân tộc sinh sống trên đất nước ta sớm nhất, với trình độ phát triển tương đối hoàn chỉnh và hoàn thiện, 7
  • 8. làm chủ cả một vùng đất đai rộng lớn. Vốn là cư dân sinh sống chính bằng kinh tế nông nghiệp lúa nước, địa bàn cư trú người Tày đa phần là ở các thung lũng có nhiều ruộng. Người Tày là dân bản địa bao giờ cũng lập làng, làm ruộng ở vị trí thuận lợi hơn so với dân tộc thiểu số khác. Với truyền thống lâu đời lại thêm lao động cần cù, sáng tạo, có điều kiện tự nhiên thuận lợi nên nông nghiệp ruộng nước người Tày phát triển tương đối cao. Địa bàn định cư lâu đời của người Tày Lạng Sơn là các cánh đồng tương đối lớn, nổi tiếng như lòng chảo Thất Khê, Bắc Sơn, Bình Gia, Lộc Bình… Người Tày sống thành từng bản, ít thì có vài chục hộ, nhiều thì hơn một trăm nóc nhà. Người Tày ở nhà sàn là chủ yếu và phổ biến. Quan hệ dòng họ và gia đình tộc người Tày luôn gắn kết bền chặt. Quan hệ trong gia đình cũng có những yếu tố riêng biệt như bố chồng, anh chồng không được ngồi ăn cùng với con dâu, em dâu… Quyền lực trong gia đình người Tày theo phụ hệ - ông, cha, con trưởng là cơ bản. 1.2 Sinh hoạt kinh tế và văn hoá vật chất Người Tày xã Yên Lỗ nói riêng và người Tày cả nước nói chung là một trong những cư dân làm ruộng nước sớm nhất trong khu vực Nam Á và Đông nam Á. Họ biết dùng cày, biết sử dụng sức kéo của trâu, bò vào việc canh tác. Đó là điều kiện thuận lợi cho cộng đồng tộc người Tày sinh sống ở vùng núi, nhiều cánh đồng thung lũng rộng, nhiều vùng núi rậm rạp khác. Trong lịch sử của mình, người Tày đã biết làm thuỷ lợi phục vụ nghề trồng lúa nước như mương, phai. Ngoài làm ruộng, người Tày ở Yên Lỗ còn làm nương rẫy với lối canh tác đơn giản: đao canh hoả chủng, canh tác bằng dao cuốc, đốt bằng lửa, tra hạt bằng cây chọc lỗ. Nghề chăn nuôi khá phát triển các loại vật nuôi như: trâu, bò, lợn, gà, vịt…Trong cuộc sống gắn bó với ruộng đồng: con trâu, bò được người Tày quý mến. Đây là loại gia súc vừa làm sức kéo vừa để ăn thịt. Gà, vịt, ngan, ngỗng, lợn, dê…là nguồn thực phẩm tiện lợi được sử dụng hàng 8
  • 9. ngày và còn là một phương tiện biểu hiện tâm lý mến khách của người Tày. Bên cạnh phát triển trồng cây lương thực và chăn nuôi, người Tày còn trồng các loại cây công nghiệp có giá trị cao như: hồi, trẩu, sở… Đặc biệt là cây hồi đã được cư dân Tày ở Yên Lỗ trồng hàng trăm năm nay, cho sản lượng dầu rất lớn để bán và xuất khẩu. Người Tày xã Yên Lỗ có một số nghề thủ công truyền thống như rèn, đan lát, mộc, đục đá, làm gạch ngói và dệt. Trong đó nghề dệt, đan lát phát triển hơn cả. Nghề mộc cũng phát triển, tuy nhiên chủ yếu là vật dụng gia đình, làm nhà cửa, đóng bàn ghế. Nghề rèn và đục đá tuy không nhiều nhưng cũng đủ sản xuất lưỡi cuốc, dao, liềm, cối xay đá phục vụ nhu cầu. Nghề sản xuất gạch ngói chủ yếu là ngói âm dương để lợp nhà sàn của đồng bào dân tộc. Nghề dệt vải chàm, thổ cẩm được phát triển, không chỉ đáp ứng nhu cầu của địa phương mà còn trao đổi buôn bán với các cư dân sống xen kẽ bên cạnh. Ngoài ra còn có một số nghề thủ công nhỏ lẻ khác như cất tinh dầu hồi, nấu cao động vật…Tuy nhiên các nghề thủ công ở đây vẫn tiến hành theo mùa, tranh thủ lúc nhàn rỗi, chưa xuất hiện các xưởng lớn với đội ngũ thợ lành nghề tách khỏi trồng trọt. Tóm lại kinh tế Lạng Sơn trong quá khứ và hiện tại phát triển khá mạnh do có sự đóng góp tích cực của dân tộc Tày, một trong những chủ thể chính của tỉnh. Bên cạnh trồng trọt, chăn nuôi, thủ công nghiệp thì buôn bán giao lưu trao đổi hàng hoá trong nước và nước ngoài phát triển rầm rộ nhất. Ngay từ thế kỷ XVI – XVII đã xuất hiện những thương trường thuyền bè tấp nập buôn bán như chợ Kỳ Lừa, chợ Vân Mịt… Trong thời kỳ kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, kinh tế thương mại – du lịch là ngành mũi nhọn hàng đầu của tỉnh, được chú ý đầu tư phát triển. Về văn hoá vật chất: Trong số các dân tộc ở Lạng Sơn, người Tày xã Yên Lỗ nói riêng và cư dân Tày của cả tỉnh nói chung là cư dân bản 9
  • 10. địa sống lâu đời nhất, cùng sống trong một hệ sinh thái, có mối quan hệ gần gũi lâu đời với các dân tộc khác. Vì vậy, trong một số mặt của đời sống văn hoá, người Tày chịu ảnh hưởng văn hoá của nhiều dân tộc khác. Trước hết là món ăn cổ truyền: Có thể nói nguồn lương thực, thực phẩm chính của người Tày xã Yên Lỗ là sản phẩm thu được từ hoạt động sản xuất kinh tế của cư dân sống trong vùng sinh thái thung lũng có rừng và sông suối bao quanh. Đó là gạo và hoa màu như ngô, khoai, sắn, đậu… các loại rau quả do trồng và thu hái trong rừng, các loại thuỷ sản tôm, cua, cá do nuôi và thu lượm ở sông, suối. Các loại thịt trâu, bò, lợn, gà, vịt… do chăn nuôi gia đình hay chim thú săn bắn trong rừng. Từ các nguồn lương thực thực phẩm trên, cơ cấu dinh dưỡng và bữa ăn hàng ngày chủ yều là gạo – cá, tôm, rau, quả - thịt. Lạng Sơn là vùng chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc, nên thời tiết rất lạnh về mùa đông, vì thế lượng thịt và mỡ dùng trong các bữa ăn hàng ngày nhiều hơn các địa phương khác. Hơn nữa, người Tày vốn sống gần gũi với người Kinh, người Hoa nên tiếp thu nhiều cách ăn uống của họ. Các món ăn như thịt lợn quay, vịt quay, phở chua nổi tiếng của Lạng Sơn thu hút khách tham quan du lịch trong nước và quốc tế. Về trang phục: Chủ yếu được cắt may bằng vải bông tự dệt có nhuộm chàm. Quần áo nam nữ Tày màu đen xanh hoặc đen hồng, áo của nam là áo ngắn được may ghép bốn thân, cúc vải, cổ tròn; áo của phụ nữ gồm áo ngắn và áo dài năm thân. Cổ áo dài đứng, tròn, thấp, khuy cài sang nách phải. Áo dài được sẻ ngay tận ngang hông, thuận tiện cho việc đi làm, gấu áo dài quá gối. Bộ áo dài người Tày có thắt lưng màu đen hồng đẹp, nền nã, dung dị, quý phái. Trang sức người Tày Yên Lỗ là các loại vòng cổ, vòng tay, trâm cài tóc, dây chuyền, các loại hoa tai… Đồ trang sức bằng vàng, bạc, không chỉ mang lại vẻ đẹp bên ngoài cho người phụ nữ mà còn có tác 10
  • 11. dụng bảo vệ sức khoẻ. Bởi vì theo quan niệm dân gian và kinh nghiệm của người dân, nếu đeo bạc thì không bị cảm gió, cảm nắng. 1.3 Tổ chức gia đình, xã hội 1.3.1 Gia đình và quan hệ gia đình Với người Tày, gia đình thường đồng nghĩa với nhà vì mỗi gia đình cư trú trong một nóc nhà. Gia đình Tày thuộc loại gia đình nhỏ, phụ hệ, gia đình hai thế hệ là chủ yếu, tuy nhiên gia đình 3 – 4 thế hệ gồm ông bà, cha mẹ, con cháu cũng không phải là ít. Trong gia đình người Tày, chủ là người chồng, người cha nên gia đình mang tính phụ quyền. Người chủ gia đình có vai trò quan trọng quyết định tổ chức sản xuất của gia đình. Người ông, người cha là người điều hoà các mối quan hệ xã hội trong và ngoài gia đình. Trong xã hội cổ truyền của người Tày, nền nếp phân công lao động theo giới tính và theo lứa tuổi trong nội bộ gia đình đã hình thành từ lâu. Tuy chủ gia đình là người chồng, người cha nhưng người mẹ, người vợ cũng có vai trò quan trọng trong gia đình như sản xuất, dựng vợ gả chồng, giỗ tết… người chồng người cha đều tham khảo và coi trọng ý kiến của họ. 1.3.2 Về quan hệ xã hội Từ lâu gia đình người Tày đã hình thành các nguyên tắc ứng xử nhất định mà mọi người đều phải tuân theo. Trong gia đình, những nơi ăn chốn nghỉ cho con trai, con gái, con dâu đều được quy định những kiêng kị nhất định. Quan hệ giữa bố chồng, anh chồng, chị em dâu… được quy định chặt chẽ. Quan hệ anh em con cháu trực hệ và bằng hệ trong gia đình người Tày là: con chú con bác hoặc con cậu con dì xưng hô theo ngành trưởng – thứ, nghĩa là anh là em không kể tuổi tác ít hay nhiều… hoàn toàn giống người Kinh. 1.4 Văn hoá - phong tục Trong bất kỳ tộc người nào, quan niệm “linh hồn”, “vạn vật hữu linh” là cơ sở của toàn bộ hệ thống tín ngưỡng tôn giáo từ cổ sơ nguyên 11
  • 12. thuỷ đến phức tạp, hiện đại như ngày nay. Người Tày ở Yên Lỗ quan niệm về phi, phi dịch ra tiếng Việt có nghĩa rất rộng, nó chỉ tất cả các thánh thần, ma quỷ… Trong quan niệm dân gian của người Tày, phi có hai loại: phi lành, phi dữ. Ma lành được thờ cúng trong gia đình, miếu, đình, đền… còn ma dữ nói chung không được thờ. Các loại ma đều có ba thế giới: trên trời, mặt đất, dưới mặt đất (âm phủ). Người Tày ở Yên Lỗ, Bình Gia cũng có quan niệm vạn vật hữu linh, thiên đường, địa ngục. Sau khi chết, linh hồn bị đẩy xuống địa ngục để xem xét kết tội nặng nhẹ. Sau một thời gian xem xét chịu cực hình thì linh hồn được siêu thoát lên thiên đường, nơi mọi cái đều tươi đẹp, sống sung sướng. Để coi sóc phần hồn, người Tày có một lớp người hành nghề cúng bái, đó là các tào, mo, then, pựt… Hình thức thờ cúng tổ tiên là quan trọng nhất của người Tày. Theo quan niệm của họ, ông bà, cha mẹ sau khi chết, linh hồn vẫn tồn tại ở trên trời, do vậy con cháu phải lập bàn thờ để cúng trong nhà, hàng năm phải cúng giỗ mời tổ tiên về chứng giám và phù hộ cho gia đình bình yên, làm ăn phát đạt. Việc thờ cúng tổ tiên theo hệ chín đời. Người Tày cúng tổ tiên vào dịp cúng giỗ. Bên cạnh đó, người Tày còn thờ Phật Bà Quan Âm và Hắc hổ huyền đàn, thờ bà mụ hay mẹ hoa, thờ táo quân, thờ tổ sư thầy tào, then. Ngoài ra trong mỗi bản còn lập miếu, là nơi thờ thổ thần, ngôi đình thờ thành hoàng. Người Tày Yên Lỗ cho rằng trong sinh hoạt hàng ngày của con người, nếu có những điều bất trắc, rủi ro… thì mọi người có thể thông qua cúng lễ cầu khấn thần linh phù hộ hay giải thoát rủi ro cho mình khỏi hoạn nạn. Tuy nhiên, trong các trường hợp như làm đám tang người chết, trừ tà ma… thì không phải ai cũng làm được mà phải nhờ đến một lớp người hành nghề cúng bái. Đó là các mo, then, tào… loại thày cúng mang nặng tính chất đạo giáo và phải cúng theo sách mang tính chất bắt buộc, không được bỏ qua công đoạn nào… 12
  • 13. Nói đến tín ngưỡng tôn giáo của người Tày Lạng Sơn, chúng ta không thể không lưu ý tới những ảnh hưởng của Tam giáo. Đây không phải là sự du nhập mà cơ bản vẫn trên nền tảng của các tín ngưỡng dân gian. Ngoài những ảnh hưởng của Tam giáo đồng nguyên, thời Pháp xâm lược còn có một số giáo sỹ Ki tô lên truyền đạo ở vùng người Tày Yên Lỗ. Nhưng đồng bào không chấp nhận mà vẫn theo các tín ngưỡng cổ truyền của mình. 1.5 Văn hoá dân gian Người Tày Yên Lỗ có một nền văn hoá dân gian khá phong phú. Ngày nay một số thần tích còn lưu giữ được trong đó truyện kể là chủ yếu nhất trong cộng đồng tộc người. Đặc điểm của truyện cổ phản ánh đời sống của cư dân nông nghiệp. Các truyện về thần nông, truyện Lục pjạ (con mồ côi), truyện Dà Dìn, truyện Tài xì phòng, truyện về chàng Thám Hoa… khẳng định sự phong phú trong kho tàng truyện cổ tích của người Tày Yên Lỗ. Truyện kể về các hiện tượng tự nhiên cũng khá phong phú, ngày nay vẫn còn lưu truyền. Vốn ca dao, tục ngữ, câu đố, những khúc hát đồng giao và trò chơi của trẻ em Yên Lỗ khá phong phú, góp phần tạo nên diện mạo của văn nghệ dân gian Xứ Lạng mà chủ yếu của nó là tộc người Tày. Bên cạnh văn học thì những bài dân ca giao duyên phát triển nhất và tồn tại trong đời sống tinh thần của mọi người dân. Ta có thể thấy dân ca Tày được chia thành hai loại lớn, đó là dân ca nghi lễ và dân ca giao duyên. Dân ca giao duyên: Lượn: Là bộ phận dân ca Tày, lượn có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người Tày. Lượn gồm có ba loại: lượn Cọi, lượn Slương, lượn Nàng hai. Lượn Slương thường được tổ chức hát trong ngày 13
  • 14. hội Lồng Tồng mùa xuân hay vào những đêm trăng sáng vào dịp nông nhàn. Phong Slư: Là những bức thư tình, một thể loại độc đáo của trai gái Tày. Được hát trong giao duyên tỏ tình, trong lễ hội xuân, dịp cưới hoặc trong lao động sản xuất. Những bài ca nghi lễ: Là kho tàng văn nghệ phong phú của người Tày Yên Lỗ. Có thể kể đến quan làng, những bài then được hát trong các dịp cưới xin chúc tụng, chữa bệnh, cấp sắc… Tóm lại, kho tàng văn hoá dân gian của người Tày Yên Lỗ vô cùng phong phú, ngày nay được đồng bào coi như một món ăn tinh thần không thể thiếu được trong đời sống xã hội của con người. CHƯƠNG II CÁC TRÒ DIỄN VÀ TRÒ CHƠI DÂN GIAN TRONG LỄ HỘI LỒNG TỒNG Lễ hội Lồng Tồng không những có nhiều nghi thức, nghi lễ mà còn có rất nhiều trò diễn, trò vui. Lễ và hội tách bạch ra hai phần rõ rệt như nhiều lễ hội tín ngưỡng dân gian khác. Tuy nhiên, cũng có một số phần lễ và hội đan xen lẫn nhau. Song, trong một số lễ hội, phần hội hoàn toàn không liên quan đến nghi lễ, mà chỉ là trò chơi vui hội, góp phần cho không khí lễ hội thêm vui tươi, sôi nổi và trang nghiêm. 2.1 Trò diễn 2.1.1 Trò sỹ, nông, công, thương (kén rể) Sau khi nghi thức đón sư tử bạn xong, đúng 12 giờ trưa (giờ ngọ) Pú mo đánh trống khai hội. Tiếng trống rộn rã được gióng lên ba hồi chín tiếng như thúc giục mọi người đến dự hội. Dứt tiếng trống, Pú mo ra hiệu cho phép trò sỹ, nông, công, thương (trò kén rể) bắt đầu. Trò này được tổ 14
  • 15. chức mở màn cho hội Lồng Tồng. Trò kén rể gồm 5 nhân vật: Anh sỹ đại diện cho tầng lớp trí thức, những người có học. Anh nông đại diện cho lớp người chân lấm tay bùn, lớp người sản xuất ra lúa gạo nuôi sống con người. Anh công đại diện cho lớp người sản xuất thủ công nghiệp. Anh thương đại diện cho lớp người buôn bán. Và cuối cùng là cô con gái xinh đẹp kén chồng. Tiếng Tày gọi là Lạo Lai (bao gồm sỹ, nông, công, thương và Mè Nàng). Trước khi trò diễn được thực hiện, các anh chị Lạo Lai, Mè Nàng được dấu ở chỗ nào đó cách đình khá xa. Khi nghe được hiệu lệnh của Pú mo, họ xuất hiện và bước vào khu vực dành cho tổ chức hội. Đầu tiên là Mè Nàng (cô gái) đi ra trước, sau đó đến anh sỹ, anh công, anh thương, và cuối cùng là anh nông. Như đã nói ở phần trên, đạo cụ cho trò kén rể đã được chuẩn bị từ trước. Cô gái đeo mặt nạ, mặc áo dài Tày màu đen hồng rất đẹp, đội nón mới, khoác Thầy ngàm (nải ngàm) đi với điệu bộ dung giăng dung dẻ từ dưới lên, bước tới sân trước đình và đi đi lại lại trước cửa đình như có ý chờ đón ai đó. Mè Nàng do người con trai trong bản đóng. Sau đó là anh sỹ đeo mặt nạ mặc áo trắng vai khoác túi sách vừa đi vừa hát “Ta là kẻ sỹ học hành quanh năm chân không lấm đất tay không nhúng bùn, thân ta nhàn hạ đi qua đi lại trước mặt cô gái, hát đi hát lại, nàng hãy lấy ta đi” nhưng cô gái vẫn không ưng. Tiếp theo là anh công đeo mặt nạ trông khắc khổ như người công nhân mặc quần áo xanh, vai vác chiếc búa bằng gỗ. Anh công vừa đi vừa hát vòng quanh cô gái, hát rằng “Ta là kẻ công làm lụng quanh năm, ta có bàn tay vàng làm ra của cải nuôi sống dân bản, nàng hãy lấy ta”. Sau anh công là anh thương đeo mặt nạ trông có vẻ rất phong lưu, vai khoác túi vải trong đó có nhiều đồ buôn bán vừa đi vừa hát “Ta là kẻ buôn, buôn bán khắp vùng, nơi nào cũng có mặt ta, ta là người giàu có nhất vùng, nàng hãy lấy ta”, nhưng cô gái vẫn không ưng. Cuối cùng là anh nông đeo mặt nạ, đội nón mê, mặc áo rách, vai khoác cày và tay cầm vó, vừa đi vừa hát “Tta là kẻ nông, chăm sóc cánh đồng, làm ra hạt gạo, nuôi mọi người no 15
  • 16. đủ”. Anh nông dân vừa hát vừa căng vó, kéo vó bắt cá. Chiếc vó bị rách lung tung, anh nông dân úp chỗ này giả vờ úp chỗ kia, úp vào cả người xem làm cho cả hội cười ngặt ngẽo sảng khoái. Người con gái (Mè Nàng) gật đầu đồng ý lấy anh nông dân. Và người con gái chạy đến chỗ anh nông dân và cùng anh nông dân cày ruộng. Người con gái giả vờ kéo cày. Anh nông dân kéo cày được một đoạn thì cày gẫy, diệp cày. bắp cày mỗi thứ một nơi, người xem lại được một trận cười sảng khoái. Sau đó 4 anh sỹ, nông, công, thương vòng tay khoanh cô gái ở trong và cùng hát vui vẻ. Trò sỹ, nông, công, thương là một trò vui rất đặc sắc của vùng đồng bào Tày ở Lạng Sơn. Trò vui mang tính văn nghệ dân gian thể hiện vai trò quan trọng của sản xuất nông nghiệp. Ngay từ xa xưa ông cha ta đã coi nông nghiệp là rất quan trọng, không gì có thể thay thế được. Bằng các diễn xướng giản đơn mộc mạc, thông qua hình thức kén rể của cô gái khá đặc biệt, bao nhiêu anh con trai giàu có đẹp trai ướm hỏi nhưng cô gái đều từ chối và chỉ chấp thuận lấy anh nông dân vừa xấu xí vừa nghèo khó. Tất cả đều toát lên tính quan trọng của nghề nông và chỉ có nông nghiệp mới nuôi sống được con người. Đây là nghi lễ cầu mùa màng, thông qua nghi lễ này nhằm giáo dục con người hãy coi trọng sản xuất nông nghiệp. 2.1.2 Loòng kỳ lằn, lòng phụ (trò múa sư tử) Trò kén rể kết thúc thì chuyển sang phần múa sư tử. Đây là trò múa chiếm thời gian chủ yếu của lễ hội Lồng Tồng. Lúc này cả sư tử chủ nhà và sư tử bạn đều múa trước cửa đình. Người xem đứng xung quanh. Tất cả các con sư tử dù bao nhiêu con tham gia hội đều múa quay mặt về hướng đình. Các bộ gõ được tập trung ở phía sau. Tiết tấu chiêng trống, chum choẹ được quy định thống nhất theo tiết tấu của sư tử chủ nhà, do đoàn trưởng chủ nhà điều khiển. 16
  • 17. Đầu tiên, sư tử chủ nhà dẫn đầu múa vòng quanh chào khán giả, động tác vừa đi vừa múa uyển chuyển, nhẹ nhàng. Con múa cao, con múa thấp bằng các động tác như mèo vờn hổ phục. Sau khi múa một vòng và quay về chỗ cũ, sư tử dàn hàng ngang quay mặt về phía đình chuẩn bị múa chính thức. Động tác múa chào thần thánh: Đây là động tác bắt buộc đối với hoạt động của sư tử. Tiếng chiêng trống vang, lên sư tử bắt đầu múa, tất cả đồng loạt giơ cao đầu, dùng hai tay xoay tròn đầu, lúc nghiêng phải, lúc nghiêng trái, lúc thì cúi xuống, trông tựa màn đồng diễn với đủ các màu đỏ, xanh, đen, tím, vàng rực rỡ trông thật đẹp mắt. Màn múa chào thần thánh khoảng 30 phút. Có những hội như ở Vân Mịt Bình Gia có năm có tới 16 con sư tử hoặc như ở Bản Chu, Hưng Đạo, Bình Gia cũng có lúc đông tới 10 con Động tác múa vui hội, các con sư tử bắt đầu múa chung để người xem thưởng thức cảnh đua tài. Đây là trò múa phong phú nhất. Tất cả các con sư tử đều múa thể hiện tài nghệ của mình. Con múa cao, con múa thấp, đôi khi còn vờn lẫn nhau, xua đuổi nhau, không khí thật là vui nhộn. Các động tác múa nhẹ nhàng nhưng dứt khoát. Lúc này chiêng, trống, chũm choẹ gõ theo kiểu múa vui, nên tiếng nhạc cũng như tiết tấu của nhạc dồn dập, hối thúc hơn, nhưng có lúc lại khoan thai, dịu dàng. Những người múa sư tử luôn thay nhau múa làm cho không khí hội luôn luôn sôi nổi nhịp nhàng. Ở động tác “hỏi slử” , sư tử vừa múa vừa dùng đầu gối đẩy nhau – con nào bị chệch gối bật ra, lùi ngã hay chếnh choáng trong động tác múa thì bị coi là thua. Do vậy muốn thắng phải biết miếng “hỏi slử” múa hay, đẹp, dai sức. Trò múa của báo đông (đười ươi): Những con sư tử múa vui được khoảng 1 tiếng, thì báo đông ra múa và làm các trò vui. Mỗi đội sư tử có một con báo đông do người đóng. Báo đông làm các động tác múa vui với sư tử, lúc thì doạ sư tử, lúc thì cầm cành cây chọc ghẹo sư tử, đè 17
  • 18. đầu đè cổ, đấm, đá sư tử… Mỗi lần báo đông nghịch như vậy, sư tử lại đuổi đánh bằng các động tác giận giữ, nhưng báo đông vẫn thản nhiên coi như không. Phải nói rằng báo đông rất nghịch làn đủ các trò với sư tử. Những động tác báo đông và sư tử vờn nhau, chọc ghẹo nhau, đôi lúc báo đông còn ngã lăn quay ra đất… gây những trận cười sảng khoái cho người xem. Trò vui của khỉ: Khi báo đông múa được một thời gian nhất định thì xuất hiện các trò vui của khỉ. Mỗi đội sư tử có hai con khỉ do người đóng. Các trò của khỉ do báo đông chỉ huy. Đầu tiên họ đeo mặt nạ và ra sân. Trước tiên phải tập đi đứng, do báo đông dạy, đi lắc lư toàn thân, chân đi chếnh choáng, siêu vẹo, lúc quay sang trái, lúc quay sang phải, hai tay vung cao, đầu nghiêng trái, nghiêng phải, có lúc còn quay ra đằng sau. Con khỉ rất ngang bướng, không chịu nghe báo đông nên báo đông đánh cho liên tục. Khi con khỉ tập đi và tập các động tác múa thì toàn bộ chiêng, trống, chũm choẹ phải gõ theo nhịp riêng bằng các tiết tấu riêng. Thông thường, khỉ tập đi đứng kéo dài khoảng 30 phút. Khi các động tác của khỉ đã thành thạo, báo đông dẫn khỉ múa vui với sư tử. Báo đông bắt khỉ múa vui đủ các trò, từ động tác nhảy lộn, nhai mía tượng trưng, cõng báo đông, khiêng báo đông vứt xuống đất… đến các trò nghịch ngợm, chọc ghẹo sư tử, vào hùa với báo đông đánh sư tử. Những động tác vui nhộn của khỉ và báo đông làm cho mọi người cười nắc nẻ, gây không khí tưng bừng náo nhiệt. Trò sư tử đẻ con: Trong quá trình múa vui, các con sư tử có những động tác âu yếm nhau, vái lạy, bò lên lưng nhau. Lúc này, báo đông và khỉ vẫn vui đùa nghịch ngợm. Thậm chí báo đông còn làm các động tác phồn thực, một chân ngáng trước ngực sư tử, một tay vít cổ sư tử xuống, một tay vỗ vào mông sư tử với những điệu cười hả hê, tay vung lên trời. Các động tác của sư tử múa khi đẻ con khoan thai, thư thái nhưng rất hung dữ. Bằng sự giúp đỡ của báo đông và khỉ, sư tử đã đẻ con 18
  • 19. dễ dàng. Lúc này, sư tử con do người múa xuất hiện trước sư tử mẹ. Sư tử con đi bằng những động tác rất yếu đuối, chỉ dám đi vòng quanh sư tử mẹ. Sư tử mẹ múa bằng những động tác âu yếm sư tử con. Sư tử mẹ lúc này rất hung dữ làm cho báo đông và khỉ không thể đùa nghịch được. Sau một số động tác múa cơ bản, sư tử con đã trưởng thành và tham gia múa với sư tử mẹ. Lúc này khỉ, báo đông và sư tử lại bắt đầu đùa nghịch và múa vui. Trò sư tử đẻ con kéo dài khoảng 30 phút. Trò múa sư tử bị giết khả Kỳ Lằn: Đây là động tác cuối cùng của múa sư tử. Khỉ và báo đông dùng hai cây gậy buộc chéo nhau cắm xuống đất và xua đuổi sư tử, lừa sư tử vào tròng. Khi sư tử bị lừa vào tròng, báo đông và khỉ đè cổ, chặt đầu sư tử. Qúa trình giết sư tử, tiết tấu của bộ gõ được quy định riêng. “Kỳ Lằn hai dá dẹ, Kỳ Lằn hai dá dẹ, Kỳ Lằn hai dá dẹ”… trở thành câu hát của đồng bào Tày – Nùng trong các dịp hội Lồng Tồng. Trò giết sư tử kéo dài khoảng 30 phút. Trò tẳng giảo (trồng người): Khi thực hiện trò giết sư tử xong, các thành viên của các đội sư tử kéo ra giữa sân hội xếp thành các vòng tròn lớn và đứng vai chồng lên nhau. Vòng thứ nhất có 10 người, vòng tay ôm vào nhau và ngồi xuống. Vòng thứ hai 8 người, đứng lên vai của 10 người vòng thứ nhất và cũng ngồi xuống. Vòng thứ ba 4 người trèo lên đứng lên trên vai của 8 người vòng thứ hai và tất cả cùng đứng lên tạo thành 3 vòng trồng lên nhau cao vút. Sau đó một con sư tử trèo lên trên 3 vòng người đó. Trước khi trèo, sư tử múa vòng quanh dưới đất 3 vòng rồi mới trèo lên. Người trèo phải thật khéo léo, miệng ngậm vào lưới sư tử để giữ đầu sư tử khỏi rơi, chân bước lên thắt lưng của người đứng làm vòng tròn, hai tay bá vào vai và trèo lên đứng trên đầu của vòng thứ ba và múa trên đó. Có thể nói đây cũng là một cuộc thi, nếu ai trèo lên được thì được thưởng do ông Pú mo tặng. Cũng có nơi như vùng Cao Lộc, họ lại dùng gậy đặt lên vai để cho người và sư tử trèo lên. Theo quan niệm của đồng 19
  • 20. bào, tẳng giảo là một hình thức thể hiện sức mạnh của cộng đồng phải có sự đoàn kết nhất trí cao, thành một khối vừa bày tỏ lòng biết ơn thần linh, vừa cố kết cộng đồng người trong bản. Toàn bộ cuộc tẳng giảo được diễn ra trong vòng 5 phút. Đến đây trò múa sư tử cơ bản kết thúc và chuyển sang phần múa võ. 2.1.3 Oóc quyền (trò múa võ) Múa chào thần thánh: Đây là động tác múa tay không, có từ 5 – 6 người biểu diễn. Đầu tiên làm động tác chào, tất cả đứng lên trước 3 bước, dạng chân xuống tấn, hai tay giơ ra phía trước khuỷu tay khép vào hai bên sườn tạo thế vững chãi. Khi tiếng nhạc của trống chiêng, chũm choẹ cất lên, động tác múa bắt đầu. Trước các động tác khoa chân khoát tay uyển chuyển dứt khoát, mắt long sòng sọc, mỗi động tác múa, đấm đá kèm theo tiếng hét, người xem người nghe được một phen hoảng hồn khâm phục nhưng rất thích thú. Múa gậy: Như đã nói ở trên, mỗi đội sư tử mang theo từ 2 – 4 gậy để tham gia múa hội. Đầu tiên múa hai người, rồi múa 4 người, 6 người, 8 ngườ. Tiếng gậy va vào nhau kêu chan chát, người xem hoa mắt sởn tóc gáy. Trò múa gậy thể hiện bản lĩnh quả cảm phi thường, nhanh tay nhanh mắt, các động tác chính xác đảm bảo đều đẹp, an toàn. Múa đoản đao: Có thể múa đôi, múa đơn. Người múa hai tay cầm đao giơ lên giơ xuống, có lúc quay tít trên đầu tạo tiếng gió rít phần phật vun vút. Các động tác quay trước, quay sau của người múa tạo thế uyển chuyển liên hoàn. Múa slam sla (đinh 3 chạc): Người múa hai tay cầm hai đinh ba múa bằng các động tác quay tròn hoặc nhào lộn tạo thế tiến thoái, phòng thủ hoặc tiến công. Các động tác múa thoăn thoắt làm cho người xem rõi mắt, cảm phục. Nhảy 4 góc bàn: Người ta đặt giữa ruộng một cái bàn vuông 4 góc và kê thật chắc chắn. Khi chơi, người tham gia tung người lên bàn, 20
  • 21. hai tay chống xuống 4 góc bàn, toàn thân lăng qua trên mặt bàn, tạo thế song song với mặt bàn và nhảy xuống bên kia bàn, rơi xuống đất nhẹ nhàng. Một người có thể nhảy liên tục 4 góc hoặc nhảy từng góc. Đây là động tác khoẻ tay đều chân và khi thực hiện phải hết sức khéo léo, nếu không mắt cá chân va vào bàn sẽ gây ra đau đớn. Nhảy búa tẹm (nhảy qua ống cót: Người ta dùng một tấm cót dài một mét cuộn tròn lại, có đường kính một mét, đặt trên một khung gỗ được đóng chắc chắn. Khi nhảy, người nhảy phải chạy lấy đà, hai tay giơ ra đằng trước, toàn thân lao vút qua ống cót và rơi lộn sang bên kia. Khi rơi, đầu phải gập lại, toàn thân cuộn tròn khi chạm đất khỏi đau. Nhảy quá tu pịa (nhảy qua cửa dao): Đây là động tác tương đối nguy hiểm, đòi hỏi người nhảy phải hết sức khéo léo, nhanh nhẹn và có lòng dũng cảm. Đạo cụ để phục vụ là tre được uốn thành vòng tròn, đường kính một mét. Vòng tròn được đặt trên khung gỗ ở một bãi đất giữa ruộng. Trên vòng tròn ngwời ta buộc bốn con dao nhọn, một con buộc ở phần trên, mũi dao chúi xuống, cán dao ngược lên, một con dao khác buộc ở vòng dưới, mũi dao dựng ngược lên và hai con buộc hai bên. Như vậy, bốn mũi dao quay đầu vào trong ở giữa vòng. Khi nhảy, có hai người đứng ở hai bên làm nhiệm vụ hỗ trợ, một người cầm chuôi dao trên, một người cầm chuôi dao dưới, khi người nhảy chạy lấy đà, hai tay duỗi thẳng lao qua trước và gập đầu lộn xuống đất. Trong trường hợp người nhảy lúng túng hoặc có dấu hiệu nguy hiểm thì người cầm dao ở vòng dưới lập tức nhanh chóng hạ con dao xuống, đảm bảo an toàn cho người nhảy không bị thương. Nhảy qua tu phầy (nhảy vòng lửa): Người ta dùng thanh tre uốn thành vòng tròn, lấy rẻ rách tẩm dầu mác bao (dầu quả dọc) và buộc xung quanh vòng tre. Vòng lửa được treo dưới một khung gỗ đặt giữa ruộng. Khi châm lửa vào rẻ rách, lửa cháy thành một vòng. Người nhảy chạy lấy đà, giơ tay ra đằng trước và lao qua vòng lửa, lộn sang bên kia. 21
  • 22. 2.1.4 Trò hát then, sli, lượn Thông thường, một lễ hội Lồng Tồng thu hút rất nhiều khách và các thành phần tộc người tham gia, cho nên diễn ra nhiều hình thức hát rất phong phú. Các lối hát diễn ra kéo dài từ lúc khai hội cho đến kết thúc, sau đó người ta kéo về hát trong nhà… Nội dung hát chủ yếu là hát giao duyên, hát chúc tụng, hát mừng xuân mới. Khi hội diễn ra, mọi người trong bản, bản trong, bản ngoài và nhiều vùng khác kéo đến rất đông, tụ tập theo từng nhóm hỏi han và làm quen nhau. Các nhóm nam nữ bắt đầu hát đối đáp nhau. Hát chào hỏi: Đây là hình thức hát đầu tiên trong lễ hội, nhất là khách phương xa đến dự hội. Các giọng hát sli, then, lượn tập trung chủ yếu hỏi thăm tình hình sức khoẻ, làm ăn ra sao, chuẩn bị tết to hay nhỏ và gia đình có vui vẻ hay không. Hát chúc tụng: Mọi người hát chúc nhau năm mới làm ăn phát đạt, từ đây trở di mạnh khoẻ. Người ta chúc nhau từ sản xuất mùa màng, chúc gia đình, chúc bản mường, chúc giao duyên hạnh phúc, chúc tình làng nghĩa xóm. Hát giao duyên: Đây là lối hát phong phú nhất và chiếm nhiều thời gian nhất. Đối tượng hát ở đây chủ yếu là thanh niên nam nữ chưa vợ hoặc chưa có chồng. Họ hát đối đáp nhau, hỏi han nhau tình hình làm ăn, cuộc sống và cơ bản xoáy sâu vào tâm tư tình cảm của nhau. Dùng những lời hát thăm dò nhau, đại loại như đã có người yêu chưa, hoặc có rồi thì ở đâu và làm gì, quê quán ở đâu xa hay gần… lời hát thật là thấm thía ngọt ngào. Trong trò hát giao duyên, thường là phái nam đặt vấn đề trước, bên nữ nghe và trả lời. Thông thường, bên nữ không bao giờ trả lời ngay mà hát đáp lại bằng lối véo von để thử tài bên nam và họ cười rúc rích để nghe bên nam trả lời ra sao. Lúc này, bên nam phải trổ tài thật sự của mình để chinh phục bên nữ. Nếu bên nữ ưng và nghe được thì trả lời rất ý tứ bằng lối hát xa hát gần… và cũng hát lại hỏi bên nam 22
  • 23. quê quán ở đâu và làm gì, đã có ai chưa. Cũng có lúc họ hát kháy, chọc tức nhau làm cho cả hai bên rất bực tức, và cũng từ sự bực tức đó họ làm mọi cách để hiểu nhau hơn. Khi hai bên đã hiểu nhau, họ càng hăng say hát bằng cả tâm tình, cảm tưởng như không thể rời nhau ra được. Trong các ngày hội Lồng Tồng của người Tày ở Lạng Sơn thường xuất hiện các hình thức hát phổ biến như sau: Hát lượn: Gồm có lượn slương, lượn cọi, lượn nàng ới. Lượn là của người Tày được hát theo lối cả văn vần, lẫn văn xuôi, chuyên dùng những câu bóng gió nghe man mắc có lúc lại bùi ngùi, thỏ thẻ như tâm sự, cũng có lúc lại sâu lắng nghe buồn não ruột, nhưng có lúc lại rộ lên vui sướng hạnh phúc. Cho nên hát lượn làm cho các đôi trai gái quấn quýt nhau không thể rời ra được. Hát then: Là làn điệu dân ca của dân tộc Tày. Hát then trong lễ hội cũng như hát then trong nghi lễ thần linh, đồng bào đều dùng lối hát theo thể văn vần, mỗi khổ bốn câu và mỗi câu 7 chữ, và hát truyền khẩu là chính. Tuy nhiên, trong ngày hội cũng có cả hát ứng khẩu. Hát then trong lễ hội Lồng Tồng là hát chúc tụng, ca ngợi, chúc phúc cầu mong là chính. Khác với hát sli, hát lượn, trong hát then phải có nhạc cụ, đó là đàn tính và sóc nhạc cả một chùm được làm bằng đồng thau. Hát sli: Của dân tộc Nùng. Sli gồm có hai loại, sli sloong hầu của người Nùng Phàn Slình, sli slình làng của Nùng Cháo. Sli cũng được hát theo lối văn vần là chính và cơ bản hát theo lối ứng khẩu. Khi hai bên nam nữ gặp nhau, nhìn thấy hình tượng gì đó bên cạnh là họ có thể mượn hình ảnh đó ví von hoặc thăm hỏi chúc tụng nhau… Nội dung hát sli, lượn, phong slư rất phong phú. Trò hát này đều có bài quy định mà người hát phải thuộc. Trên cơ sở đó người hát mở rộng ra, ứng tác kịp thời cho phù hợp nội dung chủ đề cuộc hát, đối tượng hát trong hội. Vì vậy người hát không những giỏi nhớ mà nhanh trí, giỏi ứng tác. Khác với hát then, hát sli, lượn, phong slư phải có đối tượng hát, 23
  • 24. tức là phải có bạn hát đối đáp. Hát sli mỗi bên bạn hát thường có hai người cùng hát, một người hát giọng cao, một người hát giọng thấp (như hát bè). Sau cuộc hát, các đôi có thể tách ra để tâm sự, tìm hiểu nhau ở chỗ vắng nếu hai bên bạn hát đều ưng lòng nhau. Họ tâm tình rất tự nhiên nhưng không sàm sỡ và cũng ít khi để xảy ra những điều không hay. Trò hát sli, then, lượn là nghi lễ không thể thiếu được trong ngày hội Lồng Tồng của đồng bào Tày Lạng Sơn. Hát trong lễ hội chủ yếu là nam thanh, nữ tú, những đôi trai gái chưa vợ chưa chồng. Họ đi hội ngoài việc tìm hiểu vui chơi còn có việc tìm hiểu giao duyên. Quan niệm của đồng bào trong ngày hội nhất thiết phải có trò hát giao duyên mà càng nhiều người hát càng tốt. Như vậy năm đó dân bản mới làm ăn phát đạt. Thông qua trò hát trong ngày hội, nhiều đôi trai gái đã trở nên vợ nên chồng. Vì vậy các trò hát trong ngày hội Lồng Tồng được kéo dài từ đời này sang đời khác. 2.2 Các trò chơi 2.2.1 Thọt còn (trò tung còn) Tung còn là một trong những trò chơi sôi nổi và hấp dẫn nhất của lễ hội Lồng Tồng. Đây không chỉ là trò giải trí đơn thuần mà là một hình thức giao duyên mang màu sắc nghi lễ, tín ngưỡng, cộng đồng tổ chức để chúc một năm mới no đủ, trai gái thành đôi, gần gũi và phát triển giống nòi. Người Tày Lạng Sơn, cứ sau ngày mùng 2 tết cho tới hết tháng Giêng hàng năm, bản làng mở hội Lồng Tồng, đều tổ chức trò chơi tung còn. Bãi chơi là một khu đất bằng phẳng ở cạnh đình hay trong Nà Thồng (ruộng hội). Ở đó người ta đã cho dựng cây còn, phỏng còn và chuẩn bị quả còn sẵn. 24
  • 25. Mở đầu cuộc chơi, Pú mo ra chỗ cây còn cầm quả còn khấn vái cầu yên cho bản, cầu lộc cho mọi người, cầu mùa cho mọi nơi… Sau phần nghi lễ – quả còn coi như được ban phép – Pú mo tung quả còn lên cao để mọi người tranh cướp mở màn cho cuộc vui. Các quả còn của mọi người trong gia đình lúc này cũng mới được tung lên, bay gần bay xa quanh phỏng còn trông như những cánh én mùa xuân. Gia đình nào cũng mong cho con mình ném thủng được phỏng còn để cầu may. Ném còn, còn là trò vui của đôi trai gái nhằm làm quen và tìm hiểu nhau. Đôi khi họ ném còn không phải chỉ để qua phỏng còn, mà họ ném theo chủ đích nhất định. Đó là họ ném cho người mà mình dự định tìm hiểu. Qua cuộc ném còn, nhiều đôi trai gái đã tìm hiểu nhau và đi tới hôn nhân. Cuộc chơi cứ thế kéo dài cho tới lúc quả còn xuyên qua phỏng còn. Thế là viên mãn, biểu tượng của hành động tính giao đã trở thành hiện thực. Nếu tung cả ngày mà phỏng còn không bị thủng thì cuối buổi Pú mo phải cầm đá ném cho thủng. Đồng bào Tày quan niệm phải làm như vậy mùa làm ăn mới suôn sẻ. Sau khi kết thúc, Pú mo dùng dao rạch quả còn và ban phát những hạt giống (hạt thóc và hạt bông) cho mọi người. Theo quan niệm của người Tày, những hạt giống này là hạt giống thiêng, sẽ đâm chồi nẩy lộc nhanh chóng, vì nó được truyền hơi ấm của những bàn tay nam nữ (âm– dương) trong hội Lồng Tồng. Ai ai cũng vui vẻ đón nhận những hạt giống thiêng của trời đất – con người với niềm hi vọng rằng vụ mùa sắp tới sẽ được bội thu, con người sẽ sinh sôi, bản làng sẽ no ấm, đông vui. 2.2.2 Tức kỳ, tức cờ (chơi cờ tướng, cờ lài) Cờ người là tên gọi của cuộc chơi cờ tướng, gồm 32 quân, mỗi phe có 16 quân. Trong mỗi phe có một tướng, tướng nam gọi là tướng ông, trang phục đen hoặc xanh. Tướng nữ gọi là tướng bà, trang phục đỏ. Chơi cờ tướng là chơi trên bàn cờ. Ba mươi quân cờ bằng gỗ, sừng hay ngà tiện tròn, đường kính 2cm, dày 1cm. Chơi cờ người cũng vẫn theo 25
  • 26. luật lệ của cờ tướng, nhưng quân cờ là người thật, và bàn cờ là sân rộng, đủ đường đi nước bước cho 32 người (quân cờ). Mỗi người đóng vai một quân cờ (sĩ, tượng, mã, xe, pháo…) và mỗi bên có một tướng. Cuộc đấu cờ trong hội Lồng Tồng thường được tổ chức ở sân đình, hay bãi ruộng ngô phẳng gần đình. Cuộc đấu cờ được chuẩn bị chu đáo hàng tháng trời. Chuẩn bị bàn cờ, sân bãi, làm quân cờ là việc phụ. Đầu tiên là việc tìm và tuyển người. Những người được chọn làm quân cờ phải là những trai, gái thanh lịch, con cái của gia đình có nề nếp, được dân làng quý trọng, đồng tình. Số lượng là 16 nam, 16 nữ. Trong số này phải chọn ra hai tướng: một nam, một nữ - tức tướng ông, tướng bà. Ngoài ra còn có ông tổng cờ (trọng tài) trực tiếp giúp giám khảo theo dõi cuộc đấu. Tổng cờ và hai tướng là những người thuộc loại khá giả. Chọn xong, tổng cờ họp hai đội nam, nữ thông báo về trang phục, dặn dò về phong thái trong lúc làm nhiệm vụ “quân cờ”. Quần áo mỗi người tự sắm, song phải đồng nhất trong từng phe (quân đen, quân đỏ) khi ra sân bãi, bàn cờ tạo ra một cảnh sắc rực rỡ dưới trời hội. Mỗi quân cờ có ghế đẩu ngồi, có thể đội nón nếu nắng to. Trước ngực mỗi “quân cờ” có treo tên quân cờ bằng chữ Hán. Còn tướng mặc trang phục theo hai màu: màu xanh - tướng ông, màu đỏ -tướng bà. Hai đấu thủ có chỗ ngồi riêng. Bước vào thi đấu, khi muốn đi quân nào thì gõ một tiếng trống và báo cho người phục vụ, người phục vụ đến bên quân cờ truyền đạt. “Quân cờ” đứng lên đi tới vị trí được xác định. Trong ngày hội, cuộc đấu cờ có sức hấp dẫn đối với các khách lớn tuổi, nhất là đối với người biết chơi cờ. Họ đến đây nhằm thoả mãn nhiều mặt: trí tuệ, thẩm mỹ và giải trí. Cuộc chơi cờ tĩnh trí, trầm lặng. Tuy nhiên, hội Lồng Tồng ở Lạng Sơn cũng có nhiều kiểu loại chơi cờ khác nhau. Có loại không dùng người làm quân cờ mà họ dùng cót cắt thành từng miếng nhỏ mỗi chiều 50cm với 50cm, được cắm trên cọc gỗ cao 1,5m. Đầu dưới cọc gỗ được vót nhọn, hai mặt cót dán giấy và 26
  • 27. vẽ hình quân cờ. Dùng những thanh tre đan xếp với nhau làm bàn cờ trên bãi đất cạnh đình hoặc giữa thửa ruộng. Luật chơi cũng như cờ tướng, có trọng tài, hai vị tướng và người giúp việc. Khi chơi họ hô đi quân nào thì người giúp việc cầm quân cờ đi đặt vào vị trí đã định. Ngoài ra, người Tày còn chơi một loại cờ nhưng không phải cờ tướng kiểu Trung Quốc hiện nay. Loại cờ này cũng có hai tướng và 18 quân (mỗi bên có 9 quân), quân này không có tên cụ thể, mà được gọi chung là quân cờ. Luật chơi của cờ này, chỉ có tướng mới được ăn quân, và kiểu ăn của tướng cơ bản như quân pháo trong cờ tướng Trung Quốc. Nghĩa là mỗi khi ăn phải có một quân của mình đứng đằng trước mới được ăn quân đối phương nằm trong ô liền kề. Cờ này cũng có hai loại khác nhau: Một loại có tướng và quân pháo, quân pháo được quy định ăn như tướng. Một loại chỉ có tướng mới được ăn. Luật chơi được quy định cũng rất chặt chẽ, ăn một quân mới được ra hoa (quân mới được đi vào ô trung tâm của bàn cờ), ăn ba quân thì mới được ăn tướng. Nếu loại cờ có pháo cũng được quy định ăn một quân, thì pháo mới được ăn. Bàn cờ hình “vuông, được kẻ ngang dọc tạo thành các góc chéo nhau. Quân cờ được làm bằng gỗ theo kiểu hình thù vuông hay tròn, cao hay thấp nhưng phải bằng nhau. Tướng, kích thước to hơn, có hình thù riêng không lẫn lộn với quân. Khi chơi, người chơi đưa quân đi trước và bao vây quân đối phương, sau đó tướng mới đến ăn. Hoặc cách khác, nếu quân đi trước tướng, đi sau gặp thời cơ cũng có thể tiêu diệt đối phương ngay, không cần bao vây hoặc phải tấn công dồn dập. Cuộc chơi được phân thắng bại khi đối phương đã bị mất hết quân hoặc tướng bị bao vây, không có lối thoát. Lúc đó cuộc chơi kết thúc. Ngoài ra còn có một loại cờ không có tướng, mà chỉ có toàn quân, theo tiếng của đồng bào Tày gọi là cờ Lài. Loại cờ này có 28 quân, mỗi bên có 14 quân. Khi chơi, các quân này gặp đối thủ đều ăn được, và cũng có lúc gặp dịp có thể ăn xuyên táo hàng loạt. Luật chơi cờ này tương đối 27
  • 28. đơn giản, bàn cờ được vẽ thành các hình “vuông, “tam giác chi chít. Trong bàn cờ có một hàng phân cách ở giữa, theo quy định, khi quân tiến qua đó mới được ăn. Cách chơi loại cờ này chủ yếu tiến công, bao vây và đón lõng, chỉ được ăn liền kề, không được ăn cách quãng. Hai loại cờ này, chủ yếu thanh thiếu niên hay chơi, vì nó rất thuận lợi là ở đâu cũng có thể tổ chức chơi được. Qúa trình chơi có những ván rất căng thẳng, kéo dài hàng tiếng đồng hồ mới kết thúc. Ngày nay loại cờ này ít phổ biến, nó chỉ tồn tại ở các cháu chăn trâu và các cháu học sinh lúc rỗi rãi. 2.2.3 Xẻ thỏi (kéo co) Xẻ thỏi (kéo co) là một trò chơi khoẻ, mang tinh thần thượng võ và tính tập thể cao, nên thanh niên rất ưa thích. Người ta dùng dây rừng, dây mây, dây thừng để chơi. Có nơi không dùng dây, sau khi chia hai phe, họ đứng đối mặt thành từng hàng một, rồi người sau choàng tay ôm chặt bụng người trước, cứ thế thành một dây dài. Hai người đứng đầu hai phe nắm tay nhau, lấy vạch vôi ở giữa làm ranh giới thắng bại, được thua. Bãi chơi thường là sân đình, hoặc sân cỏ rộng và bằng phẳng Tuy nhiên trong hội Lồng Tồng, người ta tổ chức ngay trước sân đình. Như đã nói ở trên, trước khi tổ chức hội, đồng bào đã chuẩn bị sẵn dây khau Nựa để Xẻ thoi. Theo quan niệm của người Tày, khau Nựa là loại dây tốt nhất, không những mềm dai mà còn là biểu tượng của dây rừng sống lâu bền. Trước khi chơi, người ta dàn quân ra hai bên, cầm sẵn hai đầu dây, mỗi bên 5 – 6 người, tuỳ theo số lượng người do bản quy định. Pú mo ra khấn vài câu cho phép và cuộc chơi bắt đầu. Đầu tiên là hiệp chơi chào thần thánh. Nhóm bên này mặc trang phục màu đen và nhóm bên kia mặc trang phục màu đỏ. Họ làm các động tác kéo lần thứ nhất bên này thắng, bên kia thua, kéo lần thứ hai thì ngược lại và kéo lần thứ ba, hoà. Lúc này Pú mo chứng kiến công nhận. 28
  • 29. Sau khi chào thần linh, cuộc thi bắt đầu. Tiếng trống lần thứ nhất nổi lên báo hiệu bước chuẩn bị. Tiếng trống lần thứ hai là vào cuộc. Tiếng trống dồn dập thôi thúc cả hai bên. Người chỉ huy của hai bên miệng thì hô, tay phất cờ liên tục thúc giục đội mình phải giành chiến thắng. Bên ngoài dân làng đứng xem chật ních cả sân đình, miệng hò reo làm chấn động cả một góc làng, làm cho cuộc chơi thêm sôi động hào hứng. Hễ bên nào kéo đối phương, dẫm vào vạch quy định hoặc đứt dây, tuột tay thì coi như là thua cuộc. Động tác cuối cùng, chỉ còn hai đội vào chung kết và kéo đến lần thứ ba thì Pú mo cầm dao chặt đứt dây khau Nựa, đội nào cầm dây chạy vào đình nhanh hơn thì được thưởng. 2.2.4 Thi nôộc tiêu tò tót (chọi chim hoạ mi) Trong các ngày hội Lồng Tồng của đồng bào Tày ở Lạng Sơn, trò chọi chim hoạ mi tương đối nổi tiếng, đã trở thành thú vui dân gian từ nhiều thế kỷ nay. Vì vậy, chọi chim không chỉ là một mục trong trò chơi ngày hội, mà còn là thú vui thông thường của nhiều người, thu hút nhiều người máu mê ăn thua cờ bạc. Để có được con chim hoạ mi chơi hay, người nuôi chim phải có nhiều công phu và kinh nghiệm. Đầu tiên, họ phải vào rừng bẫy chim, muốn vậy phải có con mồi trước. Khi vào rừng, họ chọn địa điểm ở những nơi hay có chim, đặt con chim mồi dưới đất hoặc treo trên cây và dùng lưới vây xung quanh. Khi con chim mồi cất tiếng hót, con chim rừng nghe tiếng sẽ bay về chỗ con chim mồi và bị mắc bẫy. Cũng có nơi người ta dùng lông đuôi ngựa buộc thành vòng xung quanh lồng chim mồi, và chim rừng đến sẽ chui cổ vào thòng lọng. Bãi đất để chọi chim cũng ở xung quanh đình. Khi các bên đã bàn bạc xong, họ bắt đầu tổ chức chọi. Đầu tiên họ mở cửa lồng chim, quay hai cửa vào nhau. Con chim nhìn thấy đối thủ liền xông ra đấu, nó dùng 29
  • 30. mỏ để mổ, cánh đập và chân đạp đối phương. Con chim nào không chịu đựng được, chạy về chuồng của mình coi như là thua cuộc. Chọi chim là thú vui dân gian có sức thu hút đông đảo quần chúng. Chọi chim vừa mang tính chất giải trí, vừa là một hình thức nuôi dưỡng tinh thần thượng võ, chất keo gắn kết tinh thần cộng đồng người đã từng tồn tại trong một thời gian khá dài trong các hội Lồng Tồng xưa của cư dân Tày – Nùng Lạng Sơn. 2.2.5 Bắn nả (thi bắn nỏ) Là cư dân sống ở miền rừng núi, ngoài việc cầu mong thần linh phù hộ, đồng bào Tày Lạng Sơn còn đoàn kết cộng đồng chống ngoại xâm, chống giặc cuớp, săn bắn thú rừng bảo vệ mùa màng và cải thiện đời sống. Vũ khí của họ ngoài giáo, mác, đoản đao, dao rựa còn có cung, nỏ. Cung, nỏ trở thành công cụ quan trọng không thể thiếu được trong cộng đồng dân tộc. Trong lễ hôị Lồng Tồng, bắn cung, nỏ, trở thành một cuộc thi tài đã có từ lâu đời. Cứ đến mùa tết Nguyên đán, trước khi lễ hội diễn ra hàng tháng, các cư dân trong bản chủ yếu là thanh niên đã tập luyện cung, nỏ nhằm bắn thật trúng đích, đạt giải của hội. Như đã nói ở trên, đồng thời trong quá trình tập luyện, người ta đã chuẩn bị cung, tên, nỏ và hình nộm. Khi tổ chức thi bắn, họ cắm hình nộm cách vị trí điểm bắn từ 30 – 50m. Ban tổ chức lễ hội cử một người làm thư ký ghi chép kiêm trọng tài. Nơi bắn nỏ cách đình khá xa. Để đảm bảo an toàn trong khi bắn, ban tổ chức cử người cảnh giới hai bên. Hướng bắn nỏ được chọn theo hướng đằng trước có đồi hoặc rừng cây, không có người lai vãng tới đó. Luật bắn nỏ được ban tổ chức quy định, mỗi người chỉ được bắn 3 mũi tên, mũi tên nào trúng hình nộm thì được thưởng. Tuy nhiên cũng có nơi bắn không hạn chế, bắn theo kiểu rách áo ăn tiền. Nghĩa là mũi tên chạm vào mép hình nộm là được thưởng. Nỏ và mũi tên, do người dự thi chuẩn bị. Theo thông lệ mỗi gia đình có một cây nỏ. Khi 30
  • 31. được phép của ban tổ chức, các xạ thủ đứng thành hàng ngang trước bệ bắn. Trang phục của xạ thủ, đầu và thắt lưng đeo vải đỏ, vai khoác ống tre đựng mũi tên. Ban tổ chức gọi lần lượt từng người vào bắn. Khi bắn có hai tư thế, quỳ một chân bắn hoặc đứng bắn. Khi ngắm và bật cần bắn, mũi tên lao ra bay thẳng trúng hình nộm, coi như trúng đích và trọng tài ghi chép báo cho Pú mo trao phần thưởng. Bắn nỏ là một thú vui thể hiện tài nghệ săn bắn, nên thu hút được nhiều người chơi. Trong cuộc thi bắn nỏ, dân bản tụ tập xem rất đông và cổ vũ khích lệ các xạ thủ. 2.2.6 Tức yến, tức diến (thi đánh yến) Đồng bào Tày thi đánh yến bằng tay, không giống như một số dân tộc khác chơi yến bằng chân. Đối tượng chơi yến chủ yếu là chị em phụ nữ. Trước cuộc chơi, Pú mo cầm yến tung lên trời làm phép và uỷ quyền cho thành viên ban tổ chức điều hành. Đánh yến chủ yếu được chơi từng đôi một. Khi có hiệu lệnh của Pú mo, mọi người ùa ra sân đình hoặc ruộng trước đình tung yến lên đánh. Có những cuộc chơi có hàng trăm người tham gia. Những chiếc yến bay phần phật, vun vút, hoà vào sắc áo chàm xanh, đen, hồng của các cô thiếu nữ xinh đẹp làm cho không khí hội tưng bừng, vui nhộn, người xem cổ vũ rất đông. Đánh yến là trò chơi dân gian truyền thống của đồng bào Tày đã có từ hàng ngàn đời nay. Đây là trò chơi vui, khoẻ, khéo léo, nhịp nhàng nhưng hết sức vui nhộn, gây ấn tượng không bao giờ quên đối với người đi xem hội. 2.2.7 Tức sáng (thi đánh sảng) Sảng là một trò chơi dân gian được đồng bào rất ưa thích, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên. Trò chơi này đã xuất hiện từ lâu đời, hàng năm cứ đến mùa gặt, thanh niên trai tráng thi nhau làm sảng. Như đã nói ở trên, họ đẽo gọt rất cầu kỳ đến độ tinh xảo. Sân chơi của sảng là một bãi đất rộng, bằng phẳng, đất cứng không gồ ghề và khô ráo, như vậy sảng 31
  • 32. mới quay được tốt. Cách thức chơi của sảng cũng rất đơn giản. Mỗi lần chơi có ít nhất từ hai người trở lên. Đầu tiên, người chơi buộc dây vào ngón tay, cũng có nơi không buộc mà cầm ở tay, đầu dây bên kia cuộn vào cổ sảng cho đến hết dây, dây càng dài thì độ quay của sảng càng lớn. Khi cuộn xong, họ giang tay tung ra sân, sảng quay tít thò lò. Họ cùng tung ra một lúc, sảng nào quay lâu hơn thì người đó sẽ thắng cuộc. Cho nên khi tung sảng ra, mọi người gập đầu dây lại đập túi bụi vào sảng để cho nó quay lâu hơn. Đây là một trò rất vui mắt, nếu như cuộc chơi có hàng chục người tham gia sẽ là một trò tỉ thí ngoạn mục. Sau khi tung sảng mở màn xong, người nào thắng cuộc sẽ là người được đánh trước. Những người thua phải tung sảng ra, các con sảng phải quay tít thò lò. Người được đánh trước giơ tay tung sảng đập vào đầu các con sảng của người thua cuộc. Khi chạm vào sảng của người thua, con sảng của người đánh cũng phải quay tít nếu không quay coi như ván đó kết thúc và tổ chức ván khác. Có những lúc sảng tung mạnh làm cho sảng của người thua vỡ làm đôi hoặc sứt sát. Những trận đánh như vậy thật là vui vẻ. Cho nên khi làm sảng, họ còn dùng đinh sắt đóng vào đầu nhọn của sảng để khi đánh làm cho đối phương hết cơ hội chơi lại. Hàng năm, cứ sau vụ gặt tháng 10 âm lịch, đặc biệt trong các dịp lễ hội, ở khắp các bản làng đâu đâu cũng gặp trò chơi đánh sảng, tiếng va đập chan chát của sảng cùng với tiếng hò reo thắng trận làm cho không khí vui tươi tràn ngập khắp ngõ xóm. Đây cũng là trò chơi vui nhộn nhất của các cháu thanh thiếu niên nam. Sau mỗi trận thắng, họ kéo về các nhà vui vẻ và kể cho nhau nghe những kỷ niệm của mình. 2.2.8 Tức lọ (đánh đáo) Tức lọ (đánh đáo) cũng là một trò chơi rất phổ biến của đồng bào Tày Lạng Sơn. Đối tượng chơi rất rộng rãi bao gồm cả nam nữ trai gái, già, trẻ. Bãi chơi không cần rộng như đánh sảng nhưng cũng phải tương đối bằng phẳng. Các quân đáo chủ yếu là đồng xu bằng kẽm (một loại 32
  • 33. tiền kim loại trước đây), riêng quân cái được làm bằng đá nhưng cũng có nơi làm bằng gỗ được đẽo tròn như đã mô tả ở trên. Giữa sân chơi, người ta đào một lỗ nhỏ bằng cái bát con, trông xa như một cái lọ. Cho nên đồng bào mới gọi là tức lọ. Lỗ này dùng làm để nơi dấu quân. Từ lỗ, người ta đo lấy 3m đến 4m, sau đó kẻ vạch xuất phát, ranh giới quy định cho người chơi. Thể lệ chơi cũng giản đơn, mỗi lần chơi có thể 3 – 4 hoặc trên chục người, miễn là người chơi có đồng xu và khi thua hoặc mất hết quân không được thắc mắc, lại càng không được phá đám. Từng tốp, sau khi bàn bạc thống nhất ai đánh trước, ai đánh sau theo tuần tự xong, bắt đầu chơi. Đầu tiên tất cả những người chơi đứng vào đúng vị trí và tung các đồng xu vào xung quanh lọ. Sau đó người đánh đầu tiên cầm cái ném vào chỗ có đồng xu, nếu đồng xu rơi vào lọ sẽ được ăn đồng xu đó và có quyền ném tiếp các đồng xu khác. Lúc này vị trí ném không phải ở vạch ranh giới nữa mà được vào gần lọ để ném. Họ ném cho đến lúc nào không trúng nữa thì hết quyền và chuyển sang người khác. Cuộc chơi cứ thế kéo dài cho đến lúc kết thúc. Tức lọ (đánh đáo) cũng là một trò chơi dân gian không thể thiếu được của đồng bào các dân tộc Việt Nam nói chung cũng như của dân tộc Tày và Nùng nói riêng. Sau mỗi lần đánh, người thắng cuộc được rủng rỉnh những đồng xu trong túi. Họ cho rằng đó là số may để năm đó làm ăn tốt đẹp. Những người thua cuộc có buồn đôi chút nhưng họ lại quyết tâm sang năm sẽ làm ăn tốt hơn. Trò tức lọ (đánh đáo) có sức thu hút lôi cuốn mê hồn trong các lễ hội. Cho nên nó được truyền từ đời này sang đời khác, tồn tại cho đến ngày nay. 2.2.9 Tức bi (đánh bi) Trò chơi tức bi (đánh bi) cũng là một trò chơi dân gian được nhiều tầng lớp thanh thiếu niên ưa thích. Để chuẩn bị đón tết hàng năm, họ đã chuẩn bị các loại bi. Bi cái dùng đá xanh ghè đập, mài cho thật tròn. Bi 33
  • 34. quân, người ta vào rừng chọn tìm những quả bồ hòn bóc lấy hạt. Hạt quả bồ hòn đen bóng, tròn lẳn trông rất đẹp. Bãi để chơi bi, không cần rộng nhưng phải phẳng và nhẵn, không có cỏ, không lồi lõm, đảm bảo khi đánh, bi phải lăn tròn được. Người ta kẻ “để đặt bi và vạch xuất phát. Từ ô để bi đến vạch xuất phát khoảng 1 – 1,5m. Cách chơi, mỗi người đặt vào ô để bi 5 – 10 viên tuỳ theo sự thống nhất của nhóm chơi. Sau đó họ ra đứng ở cạnh vạch xuất phát bắt đầu thực hiện cuộc chơi. Họ nắm tay để hòn bi cái vào giữa hai ngón tay cái và ngón tay trỏ. Ngón tay trỏ quặp vào lòng bàn tay, ngón tay trỏ ngả ra để giữ viên bi. Khi bắn bi dùng tay trái chống xuống đất làm bệ tỳ, ngón tay cái lấy đà bật viên bi ra, viên bi cái bay và đập vào viên bi quân, làm cho nhóm bi quân ở trong “tản ra. Nếu bi cái không dính vào bi quân thì tiếp tục bắn bi quân ăn cho kỳ hết. Nếu bi cái dính vào bi quân hoặc bắn không vào bi quân thì dừng lại cho người tiếp theo và cứ thế cho đến kết thúc cuộc chơi. 2.2.10 Tức khăng (đánh khăng) Khăng là một loại trò chơi thể thao dân gian của đồng bào có từ lâu đời. Đánh khăng là một thú vui của thanh thiếu niên trong các dịp lễ hội xuân hoặc những ngày thanh nhàn. Khăng gồm có hai đoạn cây, một ngắn 20cm, một dài 50cm. Bãi chơi tương đối rộng trong ruộng hoặc sân đình. Người chơi đào một lỗ nhỏ làm nơi hất khăng và vạch phân định 20 – 30m từ nơi hất khăng đến nơi người đón khăng. Cách chơi, người ta đặt đoạn khăng ngắn ngang miệng lỗ, sau đó dùng đoạn khăng dài hất đoạn khăng ngắn ra chỗ người đón, bên người đón. Bên đón thi nhau bắt lấy đoạn khăng, nếu ai bắt được coi như là may mắn và sẽ tung trở lại chỗ người hất khăng. Lúc này người hất khăng dùng đoạn khăng dài quật trở lại, nếu trúng đoạn khăng ngắn bay xa đến đâu thì sẽ dùng đoạn khăng dài của chính người hất khăng đo lấy. Sau đó dùng tay cầm hai cây khăng thả đoạn khăng ngắn rơi xuống tự do và quật 34
  • 35. đoạn khăng đó bay đi xa bao nhiêu thì đo bấy nhiêu. Trong quá trình đánh ai được nhiều khăng hơn người đó thắng. Mỗi lượt chơi chỉ được một lần, dù được nhiều hay ít khăng vẫn phải dành cho người khác. Ai thắng thua khi vãn cuộc chơi sẽ tính tổng xác định. Trò chơi khăng tương đối phong phú, các thanh thiếu niên nam nữ tập trung chơi rất vui nhộn. Cuộc chơi khăng có thể kéo dài từ ngày này sang ngày khác, kể cả trong lúc đi chăn trâu, các cháu nhỏ cũng có thể chơi. Ngày nay, trò đánh khăng vẫn phổ biến ở khắp các vùng nông thôn miền núi. 2.2.11 Tức của thầu (chơi của thầu) Tức của thầu (chơi của thầu) là một trò chơi dân gian của đồng bào Tày Lạng Sơn. Sân chơi là một bãi đất rộng bằng phẳng, diện tích tối thiểu từ 10m2 trở lên. Đối tượng chơi chủ yếu là nữ thanh thiếu niên. Vật dùng để chơi của thầu rất đơn giản, đồng bào thường dùng miếng ngói vỡ hoặc miếng đá mỏng và que tre để kẻ “ruộng” (ruộng ở đây là ruộng tượng trưng). Sân bãi được vẽ theo hình chữ nhật có vạch kẻ chia đôi hai bên và chia làm 8 – 10 ô. Hai ô trên cùng gọi là “ruộng” quan được kẻ to hơn. Ô dưới bên trái được vạch ký hiệu là “ruộng cấm”. Người chơi phải chuẩn bị mang theo đồ vật của mình. Một sân chơi của thầu có thể tổ chức được rất nhiều người chơi. Mỗi lần chơi chỉ được một người thực hiện, không có đối kháng. Kết quả ai thắng cuộc là người được nhiều “ruộng” nhất và cuộc chơi kết thúc là lúc các “thửa ruộng” trên sân đã hết, bằng cách họ kẻ những vạch báo hiệu. Luật chơi, được quy định như sau: khi ném mảnh ngói vào các ô phải trúng giữa ô, nếu vật đè lên vạch hoặc sát mép của vạch coi như phạm quy. Người đi phải nhảy lò cò một chân co lên, một chân đi. Vừa đi vừa đá mảnh ngói và phải đá qua vạch, nếu chạm vào vạch thì dừng lại để cho người khác đi. Nếu như các “ruộng” trên đường đi đã bị người ta ăn thì phải nhảy vượt qua. Trong khi đá mảnh ngói vượt qua ranh giới đến 35
  • 36. “ruộng” của mình thì có quyền đứng cả hai chân xuống đất. Khi đá mảnh ngói ra hết mới được làm động tác thứ hai là quay lưng cầm mảnh ngói tung vào các thửa “ruộng”, nếu vật đó rơi vào “ruộng” nào thì được ruộng đó. Nếu tung đúng vạch thì không được và dành cho người khác. Cách chơi, đầu tiên người chơi tung mảnh ngói vào ô và co chân nhảy lò cò theo các “thửa ruộng” từ phải qua trái và ngược lại, và đá mảnh ngói qua các “thửa ruộng”. Nếu đá qua chót lọt không phạm quy thì xong bước một. Sau đó quay lưng làm động tác tung mảnh ngói xuống “ruộng”, tiếng Tày – Nùng gọi là phào Nà. Đầu tiên họ tung lấy ruộng gần nhất, ruộng đầu tiên và kẻ một ô nhỏ, vì “thửa ruộng” này phải chia cho nhiều người, nếu như cuộc chơi có 10 người thì phải dành cho 10 ô. Cho nên mỗi người được một mảnh. Sau khi được một mảnh trong ruộng thứ nhất thì tiếp tục ném mảnh ngói vào các ruộng tiếp theo và co chân nhảy lò cò như động tác ở trên, và quay lại đá mảnh ngói ra ngoài. Trong quá trình đá phải hết sức khéo léo để mảnh ngói đi đúng hướng, không chạm vào các vạch quy định và sau khi đá ra ngoài, lại quay lưng tung mảnh ngói lấy “ruộng”. Cứ thế cuộc chơi kéo dài khi các “thửa ruộng” bị lấy hết thì cuộc chơi kết thúc. Ngày nay trò chơi của thầu còn hết sức phổ biến trong các bản làng của người Tày Lạng Sơn. Người ta có thể chơi cả ban ngày lẫn ban đêm, nhất là đêm trăng sáng. Đặc biệt là trong các ngày lễ hội Lồng Tồng thường được chơi sôi nổi nhất. 2.2.12 Tức chẹt khum (ô ăn quan) Tức chẹt khum (ô ăn quan) là trò chơi dân gian của đồng bào Tày ở Lạng Sơn. Vật chơi là những viên đá sỏi được nhặt ở dưới suối, rửa sạch cho vào túi để dành. Sân chơi là một bãi đất nhỏ, họ dùng que vẽ thành hình bầu dục, có một đường kẻ chia đôi ở giữa. Phía trong kẻ thành các ô bao gồm 10 ô nhỏ và hai ô to ở hai đầu. Ô nhỏ gọi là ô “ruộng quân”, ô to gọi là ô 36
  • 37. “ruộng quan”. Tiếng Tày gọi là Nà quan, Nà dân. Sau khi kẻ xong và bắt đầu chơi, họ bỏ hạt sỏi vào mỗi ô “ruộng quan” 10 viên, mỗi ô “ruộng dân” 5 viên. Cách chơi và luật chơi cũng rất đơn giản, thông thường chỉ có hai người chơi. Người chơi ngồi hai bên và quy định với nhau, mỗi bên đều có một ô “ruộng quan” và năm ô “ruộng dân”. Người chơi bắt đầu lần lượt đi. Người này đi không được thì đến lượt người khác. Người đi bên tay phải cầm hạt sỏi của ô “ruộng quan” bên mình lần lượt bỏ xuống mỗi ô “ruộng quan” một hạt và đi từ phải qua trái. Đi đến khi nào có ô trống liền kề, thì được ăn toàn bộ hạt sỏi ở bên cạnh. Còn trong quá trình đi mà không có ô trống thì không được ăn. Khi rắc viên sỏi đến ô thì hết sỏi mà vẫn không có ô trống để ăn thì dừng lại để cho người khác đi. Người khác đi lại bốc tiếp hạt sỏi ở ““ ruộng quan” của mình và tiếp tục đi cho đến khi nào được ăn thì chơi tiếp. Nếu không được ăn thì thôi và nhường cho người khác đi. Trên đây là cách chơi hai người, còn cách chơi ba người thì quy định khác nhau về hình vẽ. Hình vẽ của sân chơi ba người được vẽ theo hình tam giác, có ba ô “ruộng quan” và 15 ô “ruộng dân”. Như vậy mỗi người đều có một ô “ruộng quan” và 5 “ruộng quân”. Cách chơi và luật chơi giống như cách chơi của hai người. Trong quá trình chơi tất có bên thắng bên thua, bên thua có thể mua lại ruộng của người thắng bằng cách tạm vay hoặc bên thắng bán cho bên thua một số ruộng bằng cách để lại cho bên mua một số hạt sỏi, đủ để mua một số ruộng. Khi thoả thuận giao kèo xong, họ lại tiếp tục chơi cho đến khi nào không muốn chơi thì kết thúc cuộc chơi. Trò chơi Tức chẹt khum là một thú vui của các cháu thanh thiếu niên, có lúc tập trung rất đông trong sân trường hoặc sân của lễ hội. Mỗi lần họ chơi tạo cho không khí hội vô cùng phong phú, đông đảo về số lượng, rực 37
  • 38. rỡ về sắc mầu. Ngày nay trò chơi này càng ngày càng phát triển, nhất là vùng sâu vùng xa. 2.2.13 Pây mạ điếng (đi cà kheo) Xuất phát từ điều kiện sống ở miền núi, đường xá đi lại khó khăn, khe suối nhiều, nhất là những lúc mùa đông giá lạnh, đi cà kheo trở thành hiện tượng phổ biến của đồng bào Tày ở Lạng Sơn. Như đã nói ở phần trên, trong quá trình chuẩn bị đón tết, đồng bào đã làm sẵn mạ điếng (cà kheo). Mỗi gia đình chuẩn bị một vài bộ và tập các động tác đi, đứng, chạy… Thể lệ cuộc chơi này là người phải đứng chân trên cà kheo, hai tay cầm hai bên, cà kheo cao so với mặt đất bao nhiêu thì tuỳ, nhưng đoạn cây từ chỗ để chân trở lên phải cao bằng người để tay cầm. Khi đi, chân nào tay ấy cùng phối hợp nhịp nhàng. Trong quá trình đi không được ngã. Cách thức thi, tuỳ nhiều địa phương có những hình thức khác nhau nhưng cũng chỉ diễn ra theo một số hình thức như sau: Thi chạy nhanh cự ly 50 – 100m, ai về đích trước sẽ giành phần thắng. Thi đi cà kheo hái quả, cự ly từ 20 – 30m. Trước khi thi người ta đã dựng cột và treo chùm quả vào sẵn. Ai đi nhanh hơn và hái được quả thì sẽ được thưởng do Pú mo trao tặng tại bàn thờ của đình. Trò thi cà kheo thật là vui nhộn, nhất là trò thi hái quả. Đây là một động tác rất khó vì khi đứng cà kheo rất dễ bị ngã. Cho nên người giữ thăng bằng thật tốt mới có thể hái được quả. Trong quá trình thi, người thì ngã người thì vấp, gây nên những trận cười sảng khoái cho người xem không biết chán. Khoảng 4 – 5 giờ chiều, hội chuyển sang lễ cầu mùa. Người ta tập trung quanh mâm Pú mo. Pú mo cầm chậu nước đứng trên bàn cao làm lễ cầu trời xin nước tưới ruộng, lời khấn có đoạn: “Khấn trời cho nắng, hạn lui đi, cho mưa tụ về, dồn nước đầy đồng thấp, tràn đồng cao, lúa xen bờ trên lúa ngập bờ dưới, lúa tốt hơn năm ngoái, lúc nhiều hơn năm kia, lúa 38
  • 39. chắc hạt nặng gẫy gánh đòn, lúa chất ba gian nhà, lúa đầy trên giàn bếp, lúa tẻ ăn không hết, lúa nếp ăn không chê. Anh em ơi được trời chấp thuận cho mưa gió thuận hoà rồi nhé… ai cũng phải gắng sức làm công, ai siêng năng thì được, ai biếng thì không nhé, đây này, đây này,… trời cho mưa thuận gió hoà này…”. Vừa khấn, Pú mo vừa té nước ra xung quanh, người ta chú ý chen vào gần Pú mo cho “nước mưa” rơi vào mình để được hưởng lộc xuân. Sau lễ cầu mùa, Pú mo làm lễ cúng lợn, con lợn này đã được các thành viên trong bản thịt từ trước lúc làm lễ cầu mùa. Pú mo khấn vài câu, con lợn được chia cắt thành từng phần và chia cho các gia đình trong bản, mỗi gia đình được một phần thịt của mình. Gia đình nào cũng được như nhau, không phân biệt và họ đem về nhà trong tâm trạng rất phấn khởi vì họ cho rằng đây là lộc của thần. Hội tan, các đám sư tử đi chúc tết các gia đình trong bản, sau đó chào thổ công rồi mới ra về. Tuy nhiên các đội sư tử đều được mời ở lại ăn uống và trao đổi kinh nghiệm, đánh võ vui với dân bản. Thanh niên thường được trai gái trong bản mời ở lại để đêm xuân còn sli, lượn đối đáp thâu đêm, đến sáng mới tạm biệt ra về mà không quên hò hẹn cùng nhau sang hội khác. Bởi vậy tình yêu trong sáng mặn mà cũng có thể nảy nở qua các buổi hát đua tài này. Đêm xuân sli, lượn làm vui cả bản, người trẻ hát người già thức nghe, cảm thấy tuổi xuân trẻ lại trong lòng, người già giỏi hát còn chỉ dẫn cho bọn con trẻ nghệ thuật diễn xướng. Đến với lễ hội Lồng Tồng chúng ta không những được chứng kiến sự giục dã, thôi thúc trong tiết tấu của tiếng chiêng trống, của sư tử với các điệu khua rộn rã dồn dập, với những điệu múa uyển chuyển nhịp nhàng, những động tác múa võ, múa gậy chan chát, những con sư tử rực màu xanh đỏ múa vờn với khỉ và báo đông… mà chúng ta còn được chứng kiến những cuộc thi tài của các trò chơi dân gian như đánh cờ, bắn nỏ, đi cà kheo và nhiều trò vui khác. 39
  • 40. Ai đã đến với lễ hội Lồng Tồng Yên Lỗ dù chỉ một lần, sẽ khó mà quên được cảnh trai gái hát giao duyên bằng những lời sli, lượn, phong slư mượt mà, duyên dáng, dịu dàng đằm thắm, những lời chào hỏi, những bữa cơm thân mật, những lời chúc tụng của khách thập phương. Đến với lễ hội Lồng Tồng Yên Lỗ, chúng ta sẽ được chứng kiến những đôi trai gái thanh lịch với những bộ quần áo đẹp, màu sắc sặc sỡ trổ tài tung những quả còn tình yêu, quả còn định mệnh. Quả còn bay đi gửi gắm bao tình thương nỗi nhớ để rồi chia tay bịn rịn, không muốn rời xa nhau. CHƯƠNG III GIÁ TRỊ CỦA TRÒ DIỄN, TRÒ CHƠI DÂN GIAN TRONG LỄ HỘI LỒNG TỒNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1 Các giá trị 3.1.1 Giá trị văn hoá tinh thần Là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước và hái lượm từ lâu đời, người Tày Yên Lỗ Lạng sơn có các sinh hoạt văn hoá tinh thần gắn chặt với chu kỳ mùa vụ. Khi mùa xuân tới, trời đất giao hoà, con người cùng vạn vật tràn đầy sức sống. Người Tày Lạng Sơn nói chung, người Tày yên Lỗ nói riêng chuẩn bị bước vào một mùa vụ mới. Đây cũng là lúc lễ hội Lồng Tồng được diễn ra, tô điểm, hoà nhập vào cảnh sắc mùa xuân. Con người và vạn vật như được tiếp thêm sinh lực mới. Lễ hội Lồng Tồng mang đậm những biểu hiện tín ngưỡng dân gian với tính chất cầu mùa của cư dân nông nghiệp. Nó thể hiện sự phong phú, đa dạng của tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam. Lễ hội Lồng Tồng được tổ chức với mục đích ghi nhớ công lao của người đã có công dựng bản, giữ làng và cái cơ bản nhất là lễ hội của cư dân nông nghiệp. 40
  • 41. Lễ hội Lồng Tồng được mở còn để cho dân bản được vui chơi, thay đổi không khí của một năm làm việc nặng nề, vất vả, quên đi những gì không may mắn của năm cũ. Qua lễ hội, con người tin tưởng lạc quan vào một tương lai tốt đẹp, và chăm chú vào công việc bằng sức mạnh của con người có niềm tin. 3.1.2 Giá trị văn hoá xã hội Trong lễ hội Lồng Tồng, nét đặc trưng nổi bật nhất, cũng là nét văn hoá tiêu biểu nhất, là tính cộng đồng và cố kết cộng đồng người. Hội được mở ra hoặc chỉ là khâu chuẩn bị thôi cũng đủ làm cho tính cộng dồng được biểu hiện một cách rõ rệt. Đó là sự hồ hởi, phấn khởi đón nhận sự phân công của ban tổ chức hoặc người hành lễ mà ngày thường không dễ dàng có được. Qua lễ hội Lồng Tồng, ta còn hiểu được các mối quan hệ dòng tộc, hội phe, giáp. Bởi vì trong mỗi bản của người Tày, mối quan hệ thân tộc, dòng họ tương đối bền chặt. Một điều nữa là khi đến với các cuộc chơi, con người luôn được sống trong không khí cởi mở, dân chủ, bình đẳng. 3.1.3 Giá trị về nghệ thuật hát dân ca Một trong những trò vui trong lễ hội Lồng Tồng là hát dân ca của đồng bào Tày – Nùng. Đây là trò hát sôi nổi và vui nhộn nhất. Thanh niên trai gái gặp nhau trong ngày hội có thể hát thâu đêm tới sáng và hát từ hội này sang hội khác, từ ngày này sang ngày khác. Có những nơi hát cho đến hết các ngày hội mới thôi. Các làn điệu ở đây chủ yếu là sli, then, lượn, phong slư. Họ hát bằng giai điệu trữ tình, mượt mà, đối đáp tình yêu nam nữ. Đến với lễ hội, hoà trong không khí hìng tráng của múa sư tử và các điệu võ cao cường thì tiếng hát đã làm cho ta xao xuyến lạ thường. Đó cũng là một trong những yếu tố làm cho chúng ta không thể quên được 41
  • 42. dư âm khi hội kết thúc. Cũng qua hội, hát giao duyên là thời cơ để các cô gái, chàng trai quen biết và tìm hiểu nhau tiến tới hôn nhân hạnh phúc. Lễ hội cũng là nơi để đồng bào sáng tạo những làn điệu dân ca mượt mà, nơi thi tài thi sức giọng hát hay, đẹp, những lời đối đáp tài tình, hào hoa, phong nhã. Vì thế, lễ hội Lồng Tồng đã tạo điều kiện cho vốn dân ca của người Tày Yên Lỗ được bảo lưu, phát huy, góp phần làm đẹp cuộc sống. 3.1.4 Giá trị về bản sắc văn hoá dân tộc Những trò diễn, trò chơi dân gian được giới thiệu trên đây là biểu hiện cụ thể của bản sắc văn hoá dân tộc Tày. Thông qua lễ hội Lồng Tồng, vốn quý đó được bảo lưu và truyền bá từ đời này qua đời khác. Cũng nhờ vậy, các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của đồng bào Tày được bảo tồn và phát huy. Đó là truyền thống đoàn kết cộng đồng, là thuần phong mỹ tục, là các làn điệu dân ca mượt mà, phong phú của đồng bào làm cho nó không thể lẫn lộn với dân ca của các dân tộc khác. Qua các trò diễn, cho chơi dân gian trong lễ hội Lồng Tồng, giá trị con người được nâng cao hơn, tính thân thiện, tính nhân văn, nhân bản của con người được phát huy hơn bao giờ hết. Lối ứng xử tế nhị nhẹ nhàng, thưa gửi, hỏi han đúng mực làm cho con người trân trọng nhau hơn. Đây là nét đẹp truyền thống cực kỳ quý giá, mà con người thông qua lễ hội của mình được lưu truyền và giữ gìn cho đến ngày nay. 3.1.5 Giá trị lịch sử Qua các trò diễn, trò chơi dân gian trong lễ hội Lồng Tồng, chúng ta nghiên cứu rút ra được rất nhiều giá trị mang ý nghĩa lịch sử của cộng đồng, của dân tộc, như lịch sử cư trú và phát triển các ngành nghề, phong tục tập quán, các tôn giáo và tín ngưỡng, các công trình kiến trúc nghệ thuật, sự giao thoa văn hoá giữa các vùng miền trong cả nước cũng như với nước ngoài. 42