TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
Các tôn giáo ở việt nam hiện nay
1. CÁC TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Tham khảo thêm tài liệu tại Luanvantot.com
Dịch vụ hỗ trợ viết luận văn – Zalo : 0934.573.149
1.1. Những vấn đề chung về tôn giáo
1.1.1. Khái niệm tôn giáo
Hiện nay córất nhiều khái niệm và nghiên cứu về tôn giáo. Đứng dưới những góc độ nghiên
cứu khác nhau sẽ đưa ra những khái niệm khác nhau đối với vấn đề tôn giáo nói chung.
“Tôn giáo” bắt nguồn từ thuật ngữ “religion” (Tiếng Anh) và“religion” lại xuất phát từ
thuật ngữ “legere” (Tiếng Latinh) có nghĩa là thu lượm thêm sức mạnh siêu nhiên. Vào đầu
công nguyên, sau khi đạo Kitô xuất hiện, đế chế Roma yêu cầu phải có một tôn giáo chung
và muốn xóa bỏ các tôn giáo trước đó cho nên lúc này khái niệm “religion” chỉ mới là riêng
của đạo Kitô. Bởi lẽ, đương thời những đạo khác Kitô đều bị coi là tà đạo. Đến thế kỷ XVI,
với sự ra đời của đạo Tin Lành - tách ra từ Công giáo – trên diễn đàn khoa học và thần học
châu Âu, “religion” mới trở thành một thuật ngữ chỉ hai tôn giáo thờ cùng một chúa. Với
sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản ra khỏi phạm vi châu Âu, với sự tiếp xúc với các tôn
giáo thuộc các nền văn minh khác Kitô giáo, biểu hiện rất đa dạng, thuật ngữ “religion”
được dùng nhằm chỉ các hình thức tôn giáo khác nhau trên thế giới”.
Quan điểm của các nhà thần học cho rằng, tôn giáo là một phương thức mà Chúa sáng tạo
ra cho con người để thông qua đó thượng đế tha thứ tội lỗi cho con người vì tôn giáo là
hiện thân của Chúa. Nhà triết học Ôguýtxtanh (354- 430) đã khẳng định chân lý của đạo
Cơ đốc cho rằng: “Thượng đế có sức mạnh vạn năng, có quyền lực tuyệt đối, quá trình
nhận thức của con người là quá trình nhận thức Thượng đế, nhận thức Chúa trời. Nhận thức
thượng đế - chân lý tối cao đó chỉ có thể đạt được bằng lòng tin tôn giáo”. Ăngghen đã
đưa ra một định nghĩa có tính chất kinh điển về tôn giáo dưới góc độ triết học duy vật về
2. lịch sử: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc của con người
- của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản
ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”.
Ngoài ra, ông cho rằng: Con người đã sáng tạo ra tôn giáo bằng phương thức hư ảo. Đặc
trưng của tôn giáo cũng chính là niềm tin vào thế giới hoang đường hư ảo của con người,
là sự phản ánh mang tính đảo hoá, chuyển hoá những gì mong muốn tốt đẹp nhất của con
người sang cái khác: “theo bản chất của nó, tôn giáo là sự rút hết toàn bộ nội dung của con
người và thế giới tự nhiên, là việc chuyển nội dung đó sang cái bóng ma thượng đế ở bên
kia thế giới thượng đế này, sau đó do lòng nhân từ, trả lại cho con người và giới tự nhiên
một chút ân huệ của mình”. V.I.Lênin khi bàn về tôn giáo đã viết: “Tôn giáo là một hình
thức áp bức về tinh thần, luôn luôn và bất cứ ở đâu cũng đè nặng lên quần chúng nhân dân
khốn khổ vì phải lao động suốt đời cho người khác hưởng, vì phải chịu cảnh bần cùng và
cô độc. Sự bất lực của giai cấp bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên
đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực
của người dã man trong cuộc đấu tranh chống tự nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma
quỷ vào những phép màu…”. Có thể nói rằng, “để tìm hiểu nguồn gốc nhận thức của tôn
giáo cần phải gắn với lịch sử và đặc điểm của quá trình nhận thức của con người. Tôn giáo
chỉ ra đời ở một trình độ nhận thức nhất định, và nó gắn với sự tự ý thức của con người về
bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài. Khi biết tự ý thức thì con người mới
nhận thấy được sự bất lực của mình trước sức mạnh tự nhiên ở bên ngoài nên nảy sinh ra
nhu cầu tôn giáo để bù đắp cho sự bất lực của mình”. Như vậy, chủ nghĩa Mác- Lênin đã
khẳng định: tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ảnh niềm tin của con người vào
lực lượng siêu nhiên và cho rằng lực lượng siêu nhiên này quyết định cuộc sống của họ.
Đồng thời với niềm tin của con người vào lực lượng siêu nhiên, nó thể hiện sự bất lực của
con người trước tồn tại xã hội đã sinh ra nó.
Trong di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh có một nội dung độc đáo là tư tưởng Hồ Chí Minh
về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo. Đây chính là sự vận dụng sáng tạo quan điểm
của Chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, phù hợp với điều kiện Việt Nam và đã đem lại
những hiệu quả to lớn. Trong các bài nói, bài viết, văn bản, Chủ Tịch Hồ Chí Minh luôn
3. khẳng định tư tưởng nhất quán lâu dài của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng của nhân dân. Ngay trong phiên họp đầu tiên của chính phủ lâm thời ngày
3/9/1945, Người đã đề nghị: “Chính phủ ta tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn
kết”. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc soạn thảo Hiến pháp. Ngày
9/11/1946 Quốc hội khoá I đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà trong đó ghi nhận: nhân dân có quyền tự do tín ngưỡng. Ngày 14/6/1955,
Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó nêu rõ nguyên tắc chủ
trương cụ thể đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng. Hồ Chí Minh luôn quan tâm giáo dục mọi
người cần tôn trọng tự do tín ngưỡng nhất là cán bộ Đảng viên. Người quan tâm công tác
tuyên truyền giáo dục cho cán bộ và cả đồng bào hiểu rõ và thực hiện tốt chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước ta. Người luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công
tác tôn giáo, khen thưởng kịp thời. Đồng thời Người cũng nghiêm khắc phê phán những
phần tử lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm phương hại đến quyền tự do tín ngưỡng của đồng
bào. Thực hiện tự do tín ngưỡng tôn giáo cũng đồng thời với việc xoá bỏ những mê tín dị
đoan và hủ tục lạc hậu khác.
“Từ góc độ khoa học tổ chức, tôn giáo được xem là tổ chức có cơ cấu chặt chẽ với hệ thống
chức sắc là những người lãnh đạo chuyên nghiệp, có lực lượng đông đảo tín đồ là những
người tin theo tôn giáo đó, có nơi để hành đạo, có hệ thống giáo lý, giáo luật, giáo lễ chặt
chẽ. Mỗi tôn giáo có tên riêng, gắn với các thần tượng có thật (hay tưởng tượng) để tôn thờ
như Phật giáo (Phật Thích Ca), Công giáo, Tin lành (Chúa Giê su), Phật giáo Hòa Hảo
(Đức Huỳnh Giáo chủ - Huỳnh Phú Sổ), Cao Đài (Ngọc Hoàng Thượng đế)... hoạt động
tôn giáo nhằm thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của người có đạo”.
Theo pháp luật Việt Nam, cụ thể được thể hiện tại khoản 5 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn
giáo nêu rõ: “5. Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt
động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức.”. Như vậy, với khái
niệm trên đã bao quát được hoạt động có liên quan đến tôn giáo nhằm thống nhất các quy
định và tạo điều kiện quan trọng trong quá trình áp dụng ở nước ta hiện nay.
1.1.2. Các tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Người dân Việt Nam có truyền thống
4. sinh hoạt, hoạt động tôn giáo từ lâu đời. Ở Việt Nam hiện có 06 tôn giáo lớn: Phật giáo,
Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hoà Hảo. Cụ thể:
“Phật giáo: Đạo Phật được truyền vào Việt Nam từ những năm đầu Công nguyên. Từ thế
kỷ X đến thế kỷ XV, Phật giáo Việt Nam có bước phát triển mới cùng với nền độc lập của
dân tộc. Thời Lý-Trần (từ đầu thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIV) là thời kỳ cực thịnh của Phật
giáo ở Việt Nam. Vua Trần Nhân Tông là người sáng lập ra Thiền phái Trúc lâm Yên tử
mang bản sắc Việt Nam với tinh thần sáng tạo, dung hợp và nhập thế. Phật giáo Nam Tông
truyền vào phía nam của Việt Nam từ thế kỷ IV sau Công nguyên. Tín đồ Phật giáo Nam
Tông chủ yếu là đồng bào Khơ-me, tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long nên gọi là Phật
giáo Nam Tông Khơ-me. Phật giáo hiện nay ở Việt Nam có khoảng hơn 11 triệu tín đồ,
trên 17.000 cơ sở thờ tự, gần 47.000 chức sắc, 04 Học viện Phật giáo, 09 lớp Cao đẳng
Phật học, 31 trường Trung cấp...”
“Công giáo: Nhiều nhà nghiên cứu sử học Công giáo lấy năm 1533 là thời mốc đánh dấu
việc truyền đạo Công giáo vào Việt Nam. Từ năm 1533 đến năm 1614, chủ yếu là các giáo
sĩ dòng Phan-xi-cô thuộc Bồ Đào Nha và dòng Đa minh thuộc Tây Ban Nha đi theo những
thuyền buôn vào Việt Nam. Từ năm 1615 đến năm 1665, các giáo sĩ dòng Tên thuộc Bồ
Đào Nha từ Ma-cao (Macau, Trung Quốc) vào Việt Nam hoạt động ở cả Đàng Trong (nam
sông Gianh), Đàng Ngoài (bắc sông Gianh). Hiện nay, Công giáo có khoảng 6,5 triệu tín
đồ; 42 Giám mục, khoảng 4.000 linh mục, hơn 100 dòng tu, tu hội, tu đoàn với hơn 17.000
tu sỹ; có 26 giáo phận, 07 Đại Chủng viện.”
“Tin Lành: Đạo Tin lành có mặt tại Việt Nam muộn hơn so với các tôn giáo du nhập từ
bên ngoài, vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, do tổ chức Liên hiệp Phúc âm
Truyền giáo (The Christian and Missionary Alliance-CMA) truyền vào. Năm 1911 được
xem là thời mốc xác nhận việc truyền đạo Tin lành vào Việt Nam. Hiện đạo Tin Lành có
khoảng 1,5 triệu tín đồ thuộc 10 tổ chức, hệ phái; khoảng 3.000 chức sắc; gần 400 cơ sở
thờ tự; 01 Viện Thánh kinh thần học và 01 trường Kinh thánh.”
“Đạo Hồi: Ở Việt Nam, tín đồ đạo Hồi chủ yếu là người Chăm. Theo tư liệu lịch sử, người
Chăm đã biết đến đạo Hồi từ thế kỷ X-XI. Có hai khối người Chăm theo đạo Hồi: một là,
khối người Chăm theo đạo Hồi ở Ninh Thuận, Bình Thuận là khối Hồi giáo cũ hay còn gọi
5. là Chăm Bà-ni; hai là, khối người Chăm theo đạo Hồi ở Châu Đốc (An Giang), thành phố
Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai là khối đạo Hồi mới hay còn gọi là Chăm Islam. Hiện
nay Đạo Hồi ở Việt Nam có khoảng trên 80.000 tín đồ, 89 cơ sở thờ tự, 1.062 chức sắc,
chức việc, 07 tổ chức Hồi giáo được Nhà nước công nhận”.
“Đạo Cao Đài: Là một tôn giáo bản địa. Giữa tháng 11/1926 (ngày 15/10 năm Bính Dần),
những chức sắc đầu tiên của đạo Cao đài tổ chức lễ khai đạo tại chùa Gò Kén-Tây Ninh
chính thức cho ra mắt đạo Cao đài. Hiện nay, đạo Cao Đài có khoảng 2,5 triệu tín đồ thuộc
10 hệ phái, 01 pháp môn tu hành, trên 10.000 chức sắc, hơn 1.200 cơ sở thờ tự hoạt động
ở 37 tỉnh, thành phố”.
“ Phật giáo Hòa Hảo: Là một tôn giáo bản địa do ông Huỳnh Phú Sổ làm lễ khai đạo vào
ngày 18/5 năm Kỷ Mão (ngày 4/7/1939) tại làng Hòa Hảo, tỉnh An Giang. Hiện nay Phật
giáo Hòa Hảo có khoảng 1,3 triệu tín đồ, trong đó có 2.528 chức việc, 94 chùa ở 20 tỉnh,
thành phố” .
“Các tôn giáo khác ở Việt Nam gồm Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, Cộng đồng Tôn
giáo Baha’i Việt Nam, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Minh Sư đạo, Minh Lý
đạo, Bàlamôn với tổng số gần 1.3 triệu tín đồ; ngoài ra, còn có khoảng 20 tổ chức Cao đài
độc lập, khoảng 40 nhóm, hệ phái Tin lành…”
Ở nước ta Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo của công dân Việt Nam được quy định trong
Hiến pháp và được bảo đảm trên thực tế. Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi) của nước
CHXHCN Việt Nam (điều 24) ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà
nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự
do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân đã được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp quy
khác như Bộ luật Dân sự, Bộ Luật Tố tụng Hình sự, Luật Đất đai, Luật Giáo dục, Bộ luật
Hình sự sửa đổi (có hiệu lực từ ngày 01/7/2016)...để áp dụng trong thực tế nhằm đảm bảo
quyền tự do tôn giáo của các tín đồ.
6. 1.1.3. Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội
Trong quá trình vận động khách quan của sự phát triển của loài người thì vai trò của tôn
giáo đóng một vị trí rất quan trọng. Các giáo lý tôn giáo đều chứa đựng một số giá trị đạo
đức nhân bản rất hữu ích cho việc xây dựng nền đạo đức mới và nhân cách con người Việt
Nam hiện nay. Giá trị lớn nhất của đạo đức tôn giáo là góp phần duy trì đạo đức xã hội,
hoàn thiện nhân cách cá nhân, hướng con người đến Chân – Thiện – Mỹ.
Các tôn giáo chỉ có những tín lý giáo điều chú trọng vào linh hồn, và sự sống của đời sau,
còn những giáo lý từ bi bác ái và những lý tưởng cao đẹp do đạo giáo đề ra thì chỉ là những
điều trừu tượng hão huyền không thể thực hiện được, nó không giúp ích gì được cho con
người khi họ phải cật lực mưu sinh kiếm sống, cũng như không ai có thời gian hay điều
kiện để đọc kinh sách hay tìm hiểu về đạo. Tuy tôn giáo có những giới luật như Ngũ giới
cấm của nhà Phật hay Mười điều răn của Thiên chúa giáo nhưng đó chỉ là kêu gọi con
người tự nguyện, tự giác mà không có hình phạt cụ thể nên không thể giúp được cho xã
hội có được trật tự kỷ cương. Xã hội được trật tự là nhờ có luật pháp chứ không nhờ vào
luật đạo.
Nhà vật lý học Steven Weinberg, "Có hay không có tôn giáo người thiện làm việc thiện,
kẻ ác làm điều ác. Nhưng để cho người thiện làm điều ác cần phải có tôn giáo."
Điều này cho thấy các tôn giáo có tổ chức đôi khi còn có hại cho xã hội khi đưa tín đồ tham
chiến để tranh giành ảnh hưởng, hay dạy cho tín đồ những điều trái tự nhiên như ăn chay,
tuyệt dục, hay thể hiện lòng từ bi bằng cách hy sinh thân mạng của mình cho thú, thậm chí
dạy cho họ trở nên cuồng tín sẳn sàng tử vì đạo để được đạo vinh danh.
Ngoài ra, các tôn giáo ngày nay ngày càng suy thoái trong những xã hội văn minh là do tu
sĩ không chịu học hỏi thêm mà cứ giậm chân tại chỗ với những tín điều của cả ngàn năm
trước trong khi khoa học và kỹ thuật mọi ngành thì ngày càng tiến bộ vượt bực.
Các tu sĩ cần phải đối diện với sự thật này để cắp sách đến trường học như mọi người thay
vì tự cho mình là Chân lý thì mới có thể theo kịp đà tiến hóa của nhân loại để trở thành
những nhà khoa học có thực nghiệm tâm linh, có những phát kiến về đạo thật sự hữu ích
cho đời sống tâm linh của con người, nếu không thì tôn giáo chỉ là liều thuốc an thần, hay
tệ hơn là 'thuốc phiện của nhân loại" (KMarx) sớm muộn cũng sẽ bị đào thải theo quy luật
7. thiên nhiên.
Tóm lại dù xã hội không có tổ chức tôn giáo hay nhà thờ, chùa chiền nhưng nếu con người
biết sống theo quy luật tự nhiên, có tinh thần thượng tôn pháp luật, và giữ đúng đạo làm
người thì cũng đã đủ để có một đời sống tốt.