SlideShare a Scribd company logo
1 of 56
Download to read offline
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là nguồn lực của mọi
nguồn lực. Vì vậy, việc phát triển nguồn nhân lực đã trở thành vị trí trung tâm
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Kinh nghệm ở một số nước cho thấy
muốn phát triển kinh tế nhanh và bền vững thì tất yếu phải phát triển nguồn
nhân lực - nhân tố con người.
Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới từ năm 1986 đã mở ra một trang
sử mới cho dân tộc. Nhưng khi Việt Nam đi lên xây dựng CNXH trong điều
kiện 80% lao động làm nghề nông nghiệp nên đời sống vật chất và đời sống
tinh thần của người dân gặp rất nhiều khó khăn. Để thoát khỏi tình trạng
nghèo nàn, lạc hậu, ai cũng có cơm ăn, ai cũng có áo mặc, ai cũng được học
hành và sánh vai với các cường quốc năm châu như tâm niệm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, thì việc làm đầu tiên và trước nhất là chúng ta phải tiến hành
CNH, HĐH đất nước mà trọng tâm đối với nông dân, nông nghiệp và nông
thôn là CNH, HĐH NN, NT. Nhận thức được tầm quan trọng của CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo đến phát triển
nguồn nhân lực, coi đây là động lực là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới. Như
Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định: “Lấy việc phát huy nguồn lực
con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Đến Đại hội
IX của Đảng cũng đã chỉ rõ: “Phát triển nguồn lực con người Việt Nam với
yêu cầu ngày càng cao nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cả về số lượng và chất
lượng đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH”.
Hưng Yên là một tỉnh nằm ở Đồng bằng sông Hồng với diện tích
không rộng, dân không đông nhưng dân số chủ yếu sống bằng nghề nông
nghiệp, trình độ người lao động chưa cao. Một thách thức lớn trong khu vực
này là diện tích đất nông nghiệp đang bị thu hẹp, tình trạng thất nghiệp, thiếu
2
việc làm của người lao động có xu hướng gia tăng. Điều đó trong giới hạn
nhất định sẽ ảnh hưởng đến tiến trình CNH, HĐH NN, NT của tỉnh.
Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ Hưng Yên lần thứ XVII đã chỉ rõ:
“Phát triển nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, gắn với xây dựng nông thôn
mới” [25, tr.103].
Để thực hiện chủ trương trên, một trong những vấn đề quan trọng là
phải phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đặc biệt là nguồn nhân
lực - nhân tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, công
nghiệp hóa NN, NT Hưng Yên nói riêng.
Với lý do đó, chúng tôi chọn vấn đề “Phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay” làm đề tài
luận văn thạc sĩ triết học - chuyên ngành triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển lịch sử, do
đó, vấn đề con người, nhân tố con người luôn luôn là đối tượng thu hút sự
quan tâm của nhiều ngành khoa học. Thực tiễn ngày càng chứng minh, sự
phát triển bền vững của mỗi quốc gia phụ thuộc vào việc đầu tư, khai thác,
phát huy có hiệu quả vai trò nhân tố con người.
Từ những nghiên cứu chung về con người, các nhà khoa học Xô viết
trước đây đã đi sâu nghiên cứu về nhân tố con người và phát huy vai trò của
nhân tố con người. Đã có nhiều đề tài và công trình của các nhà khoa học Xô
viết đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ giữa nhân tố con người với các nhân
tố kinh tế, vật chất, kĩ thuật trong cấu trúc nền sản xuất xã hội. Công trình
nghiên cứu của viện sĩ Giaxlapxkai về công bằng xã hội và nhân tố con người
những năm 1986 - 1987 là một ví dụ tiêu biểu. Hội nghị khoa học giữa các
nhà khoa học Xô viết và Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào năm 1988 đã tập
trung trao đổi ý kiến và thảo luận xoay quanh chủ đề về nhân tố con người và
phát triển kinh tế - xã hội.
3
Ở nước ta, các nhà khoa học đã có những hoạt động sôi nổi về nghiên
cứu vấn đề con người. Đặc biệt là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VIII, các nhà
khoa học đi sâu nghiên cứu về vấn đề nguồn lực con người, nguồn nhân lực
chất lượng cao trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nhiều công trình
nghiên cứu khoa học, nhiều bài viết đã thể hiện quan điểm coi con người là
nguồn tài nguyên vô giá, đã luận chứng cho sự cần thiết phải đầu tư vào việc
phát triển hoặc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, lấy đó làm đòn bẩy để
phát triển kinh tế, để CNH, HĐH đất nước. Những bài viết, những công trình
khoa học đó được đăng trên các sách báo, tạp chí, đó là những bài viết về:
"Xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa, tiếp tục thực hiện chiến lược
xây dựng và phát triển nguồn lực con người Việt Nam" của nguyên Tổng Bí
thư Lê Khả Phiêu (đăng trên Tạp chí Phát triển giáo dục 4/1998); "Tài nguyên
con người trong quá trình CNH, HĐH đất nước" của Nguyễn Quang Du (Tạp
chí Thông tin lý luận, số 11/1994); "Nguồn nhân lực trong CNH, HĐH đất
nước" của GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn (Tạp chí Triết học, số 2 - 1994);
"Nguồn lực con người, nhân tố quyết định của quá trình CNH, HĐH" của
Phạm Ngọc Anh (Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 2 - 1995); "Phát triển nguồn
nhân lực của Thanh Hóa đến năm 2010 theo hướng CNH, HĐH" của TS Bùi
Sĩ Lợi (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002); "Mối quan hệ giữa phát triển
nguồn nhân lực và đẩy mạnh CNH, HĐH" của Nguyễn Đình Hòa (Tạp chí
Triết học, số 1 - 2004); "Phát triển nguồn nhân lực kinh nghiệm thế giới và
kinh nghiệm nước ta" (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996); "Vấn đề con
người trong sự nghiệp CNH, HĐH" (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996);
"Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực"
(Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002)… Đặc biệt là công trình khoa học cấp Nhà
nước KX-05: "Nghiên cứu văn hóa, con người, nguồn nhân lực đầu thế kỷ
XXI" (2001 - 2005). Đề tài này có những công trình đáng chú ý như: "Ảnh
hưởng của tiến bộ khoa học, kĩ thuật và công nghệ đến việc nghiên cứu và
phát triển con người và nguồn nhân lực những năm đầu thế kỷ XXI" của PGS.
4
TSKH. Lương Việt Hải; "Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đầu thế kỷ
XXI" của TS. Nguyễn Hữu Dũng; "Một số những thay đổi của quản lý nguồn
nhân lực Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế trong cơ chế thị
trường" của TS. Vũ Hoàng Ngân…
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực trong
CNH, HĐH ở nước ta. Hầu hết các đề tài đã tập trung nghiên cứu các phương
diện khác nhau của sự phát triển con người Việt Nam và đề xuất những giải
pháp để phát huy nguồn lực con người, từ GD - ĐT đến giải quyết việc làm,
đổi mới cơ chế, chính sách nhằm phát huy nhân tố con người, phát triển
nguồn nhân lực ở nước ta. Ngoài những công trình đó còn rất nhiều tác giả
với những công trình nghiên cứu khác đã đề cập đến vấn đề nguồn nhân lực
cho CNH, HĐH ở nước ta bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau. Song, những
công trình đi sâu, phân tích nguồn nhân lực cho CNH, HĐH NN, NT ở Hưng
Yên chưa được đề cập nhiều, đặc biệt là phân tích những điều kiện khả năng
trong việc thực hiện nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Hưng Yên.
Qua luận văn này, chúng tôi hi vọng đóng góp một cố gắng nhỏ bé,
bước đầu của mình vào sự nghiên cứu, phát triển con người và nguồn nhân
lực cho sự nghiệp CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên, cũng như cả nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận về phát triển nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT luận văn đã phân tích thực trạng
của nguồn nhân lực Hưng Yên hiện nay để đề xuất một số giải pháp nhằm
phát triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH NN, NT ở tỉnh Hưng Yên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực và vai trò của nó
trong CNH, HĐH NN, NT.
5
Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực; đề
xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực cho thời kì đẩy
mạnh CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về nguồn nhân lực của Hưng Yên cả về số lượng
lẫn chất lượng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu việc nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, cùng các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, các quan điểm
khoa học về nguồn nhân lực.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật, luận văn sử dụng
phương pháp lịch sử và lô gíc, quy nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp,
trừu tượng hoá, khái quát hoá.
6. Đóng góp của luận văn
Làm rõ thực trạng nguồn nhân lực Hưng Yên trong thời kì CNH, HĐH
NN, NT hiện nay.
Làm rõ một số khía cạnh chủ yếu trong xu hướng biến đổi của nguồn
nhân lực trong thời kì CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên.
Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên.
Góp phần nâng cao nhận thức về việc nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực cho CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên.
6
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy
và học tập ở các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, các trung tâm đào
tạo, đồng thời làm tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý cấp tỉnh, cấp huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương, 10 tiết:
Chương 1: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở
nước ta và yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực.
Chương 2: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Hưng Yên hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hưng
Yên.
7
Chương 1
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
Ở NƯỚC TA VÀ YÊU CẦU VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
1.1. Bản chất và nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn ở Việt Nam
1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn
Việt Nam bước vào công cuộc xây dựng CNXH trong điều kiện 80% -
90% lao động sống trong ngành nông nghiệp, hơn nữa đất nước lại bị chiến
tranh tàn phá rất nặng nề. Do chiến tranh mà nhiều diện tích đất không thể
canh tác được, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống vật chất và đời
sống tinh thần của người dân Việt Nam. Để thực hiện được mục tiêu mà Đảng
và Nhà nước ta đặt ra trong thời kì quá độ là “Dân giầu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh” thì chúng ta không còn con đường nào khác là
phải đẩy mạnh CNH, HĐH, có như thế mới có thể đưa nước ta thoát khỏi tình
trạng nghèo nàn, kém phát triển, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Sự nghiệp công nghiệp hoá được
Đảng ta đặt ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (năm 1960). Đến Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và VIII, Đảng ta nhấn mạnh thêm nội dung
hiện đại hóa.
Sau hơn 20 năm đổi mới, sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta đã bước vào
giai đoạn phát triển mới - đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri
thức. Đây là tiếp nối đường lối và chiến lược CNH, HĐH được xác định trong
cương lĩnh xây dựng đất nước thời kì quá độ lên CNXH năm 1991 của Đảng.
Tuy vậy, trong những năm đầu thế kỉ XXI, CNH, HĐH nước ta trước hết và
chủ yếu là CNH, HĐH NN, NT.
CNH, HĐH NN, NT là vấn đề rộng và không hề đơn giản, vì thế cho
đến nay vẫn còn những quan niệm ít nhiều chưa thống nhất.
8
* Một số nhà nghiên cứu cho rằng: CNH, HĐH NN, NT là vấn đề khoa
học gồm 4 nội dung khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là:
Công nghiệp hóa nông nghiệp; công nghiệp hóa nông thôn; hiện đại hóa nông
nghiệp; hiện đại hóa nông thôn.
Công nghiệp hóa nông nghiệp, theo tác giả Chu Hữu Quýnh và Nguyễn
Kế Tuấn là: “quá trình chuyển biến từ nền nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, lạc
hậu, phân tán sang nền nông nghiệp sản xuất lớn với trình độ chuyên canh và
thâm canh cao, tiến hành sản xuất và quản lý sản xuất - kinh doanh với trình
độ trang bị công nghiệp và công nghệ tiên tiến, áp dụng rộng rãi thủy lợi hóa,
cơ khí hóa, hóa học hóa, sinh học hóa cao hơn và bước đầu áp dụng cả tin học
hóa, tự động hóa” [75, tr.26].
Với quan điểm của hai tác giả trên, sau khi đã phân tích đánh giá về
tiến trình thực hiện con đường CNH, HĐH NN, NT, Đảng ta đã đưa ra quan
điểm như sau:
* Quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn
Trong văn kiện Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kì khóa VII (01/1994),
Đảng ta đã xác định: Từ nay đến cuối thập kỉ, phải rất quan tâm đến CNH,
HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông - lâm - ngư
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy, hải sản, công nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Có thể nói, đây là lần đầu tiên trong văn kiện của Đảng đã đưa ra phạm
trù CNH, HĐH NN, NT và kinh tế nông thôn.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) đã cụ thể hóa thêm những
quan điểm, chủ chương CNH, HĐH ở nước ta. Văn kiện lần thứ VIII đã
khẳng định: “Đặc biệt coi trọng CNH, HĐH NN, NT và nông thôn; phát triển
toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm,
thủy sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”
[31, tr.86].
9
Đại hội IX của Đảng (tháng 4 - năm 2001) đã cụ thể hóa, bổ sung và
phát triển những quan điểm, đường lối về CNH, HĐH NN, NT.
Để tiếp tục hoàn thiện đường lối CNH, HĐH NN, NT, Hội nghị lần thứ
năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã ban hành nghị quyết về đẩy
mạnh CNH, HĐH NN, NT thời kì 2001 - 2010. Nghị quyết đã nêu lên những
nội dung tổng quát, quan điểm, mục tiêu phát triển, những chủ trương và giải
pháp lớn để đẩy nhanh CNH, HĐH NN, NT. Đó là “phát triển công nghiệp,
dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho CNH,
HĐH NN, NT. Vấn đề nữa là ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng
phát huy nguồn lực con người, ứng dụng rộng rãi thành tựu KH, CN, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với
thị trường để sản xuất quy mô lớn, chất lượng và hiệu quả cao, bảo vệ môi
trường, phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai, phát triển NN, NT bền
vững. Mặt khác, dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các
nguồn lực bên ngoài, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc; phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ sản xuất hàng hóa,
các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn.
Cần kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế - xã hội trong quá trình CNH, HĐH
NN, NT nhằm giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội và
phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của người dân nông
thôn, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; giữ gìn, phát
huy truyền thống văn hóa và thuần phong mỹ tục. Kết hợp chặt chẽ CNH,
HĐH NN, NT với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận
an ninh nhân dân, thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước, của các ngành, các địa phương. Đầu tư phát
tư phát triển kinh tế - xã hội, ổn định dân cư các vùng xung yếu, vùng biên
giới, cửa khẩu, hải đảo, phù hợp với chiến lược quốc phòng và chiến lược an
ninh quốc gia” [34].
10
Những quan điểm trên của Đảng ta đã mang tính chiến lược và phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể đất nước, không những thế, nó còn đảm bảo
cho kinh tế NN, NT phát triển bền vững mà còn đảm bảo cho sự phát triển hài
hòa giữa công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, giữa thành thị và nông thôn,
giữa đồng bằng và miền núi, giữa kinh tế và xã hội, an ninh, quốc phòng, môi
trường, tăng cường khối liên minh công - nông - trí thức, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đảm bảo cho kinh tế nước
ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới vấn đề CNH, HĐH
NN, NT. Người cho đó là con đường chúng ta phải đi để xây dựng đất nước
giàu mạnh. Vận dụng sáng tạo tư tưởng đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
đã từng bước thực hiện thành công sự nghiệp vĩ đại này.
Trong bài “Con đường phía trước” với bút danh C.K đăng trên báo
Nhân dân số 2143 ngày 20/1/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước ta
vốn là nước nông nghiệp lạc hậu, đó là chỗ bắt đầu đi của chúng ta… Đời
sống nhân chỉ có thể dồi dào khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một
cách rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp và nông nghiệp, máy sẽ
chắp thêm tay cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm
việc phi thường… đó là con đường phải đi của chúng ta”.
Phát biểu tại Đại hội Công đoàn tỉnh Thanh Hóa lần thứ sáu ngày
19/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định vai trò, tầm quan trọng của nông
nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa đất nước: “Nước ta là một nước nông
nghiệp,… muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy
nông nghiệp làm gốc. Nếu không phát triển nông nghiệp thì không có cơ sở
phát triển công nghiệp vì nông nghiệp cung cấp nguyên liệu, lương thực cho
công nghiệp và tiêu thụ hàng hóa của công nghiệp làm ra”.
11
Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh về CNH, HĐH NN, NT, Đảng
ta đã vận dụng sáng tạo vào thực tiễn và đã đạt được nhiều thành tựu. Ngay từ
Đại hội III (9/1960), Đảng ta đã quyết tâm: “Xây dựng một nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa cân đối và hiện đại kết hợp với nông nghiệp, lấy công nghiệp nặng
làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời
ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một
nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp và nông nghiệp hiện
đại”. Đến Đại hội VIII, Đảng ta lại tiếp tục khẳng định: “Phát triển toàn diện
nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, đổi
mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Đảm
bảo an toàn lương thực quốc gia trong mọi tình huống” [31, tr.34]. Đảng ta đã
căn cứ vào điều kiện và tình hình đất nước xuất phát từ nền kinh tế chủ yếu là
nông nghiệp, sản xuất nhỏ, lạc hậu đang ở trình độ thấp, đó là cơ sở vật chất
kĩ thuật lạc hậu, lao động đại bộ phận tập trung trong nông nghiệp, sản xuất
nông nghiệp còn mang nặng tính tự cấp tự túc và thu nhập của nông dân thấp,
đời sống mọi mặt của nông dân còn hết sức khó khăn. Trong khi đó đến nay
nhiều nước trên thế giới đã có nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao, mọi
hoạt động sản xuất nông nghiệp được cơ giới hóa, hiện đại hóa, thủy lợi hóa,
hóa học hóa. Nhờ đó ruộng đất phì nhiêu, năng suất lao động đạt rất cao, phân
công lao động sâu sắc trong nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Mặt khác, do yêu cầu về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhu
cầu về nâng cao đời sống con người nên lương thực và thực phẩm càng tăng
lên cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Như vậy, chỉ có nền nông
nghiệp phát triển ở trình độ cao mới hy vọng đáp ứng được nhu cầu đó.
Xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, đòi hỏi chúng ta phải đẩy
mạnh việc thực hiện CNH, HĐH NN, NT để chúng ta tận dụng vốn, KH, CN,
kinh nghiệm của thế giới vào quản lý đất nước nhằm khắc phục nguy cơ tụt
hậu về kinh tế.
12
Do vậy, đối với Việt Nam một đất nước chậm phát triển, để thúc đẩy
quá trình CNH, HĐH đất nước thì ta phải đặc biệt coi trọng CNH, HĐH NN,
NT.
Hơn nữa CNH, HĐH NN, NT còn là khâu đột phá quan trọng nhằm
giải phóng sức lao động của giai cấp nông dân, tạo điều kiện khai thác tốt
tiềm năng dồi dào về đất và lao động.
Với nguồn lao động dồi dào, đây là một lợi thế tương đối quan trọng để
tiến hành CNH, HĐH ở nông thôn. Ngược lại, khi quá trình đó diễn ra nó lại
giải phóng sức lao động ở nông thôn, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao
động. Quan trọng hơn là nước ta có nguồn tài nguyên về đất đai vô cùng
phong phú, trước đây mới chỉ khai thác bằng những kĩ thuật thô sơ lạc hậu. Vì
vậy thực hiện CNH, HĐH NN, NT là bước đi tất yếu của Đảng và Nhà nước
ta trong thời kì quá độ lên CNXH, nó phù hợp với xu thế khách quan của thế
giới và điều kiện đất nước.
1.1.3. Những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn
Trong Văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã nêu: “Phát triển toàn
diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình thành tập trung các vùng chuyên canh bảo
đảm an toàn về lương thực quốc gia, tạo ra nông sản hàng hóa phù hợp với
nhu cầu thị trường. Phát triển các làng nghề truyền thống và làng nghề mới và
thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, ứng dụng thành tựu sinh
học, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn mới văn
minh và hiện đại” [31, tr.87-88].
Tháng 11/1998, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành
Nghị quyết số 06/NQ-TW về một số vấn đề phát triển NN, NT đã khẳng định:
Đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kì
quan trọng cả trước mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định chính trị, kinh tế, xã
hội, củng cố liên minh giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức,
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
13
Sau 5 năm thực hiện, nội dung CNH, HĐH NN, NT đã được cụ thể hóa
từng bước. Văn kiện Đại hội IX của Đảng nêu rõ: “Tiếp tục phát triển và đưa
nông nghiệp, lâm nghiêp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng
KH, CN, nhất là công nghệ sinh học; đẩy mạnh thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện
khí hóa; quy hoạch sử dụng đất hợp lý; đổi mới cây trồng, vật nuôi, tăng giá
trị thu nhập trên đơn vị diện tích; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng
hóa. Đầu tư hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn.
Phát triển công nghiệp, dịch vụ các ngành nghề đa dạng, chú trọng công
nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ
phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệ và dịc vụ, tạo
nhiều việc làm mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống
nông dân và dân cư nông thôn” [33, tr.92-93].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Banh Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX đã xác định nội dung CNH, HĐH nông thôn. Về nội dung CNH, HĐH NN,
NT, Nghị quyết chỉ rõ: “CNH, HĐH NN, NT là quá trình chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến
và thị trường, thực hiện cơ khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng thành tựu KH, CN,
trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị kĩ thuật và công nghệ hiện đại
vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường” [34]. Nội dung
tổng quát của CNH, HĐH NN, NT, là “quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn theo hướng tăng nhanh tỉ trọng giá trị sản phẩm và lao động các
ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỉ trọng sản phẩm nông nghiệp; xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ
môi trường sinh thái, tổ chức sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp;
xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ở nông thôn” [34].
Đến Đại hội lần thứ X, Đảng ta chỉ rõ: “Đẩy mạnh CNH, HĐH NN,
NT, giải quyết đồng bộ các vấn đề NN, NT và nông dân. Chuyển dịch cơ cấu
14
nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng
cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường: thực hiện cơ khí hóa, điện
khí hóa, thủy lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ KH, CN và công nghệ sinh học vào
năng suất lao động, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù
hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương. Tăng nhanh giá trị sản phẩm
và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỉ trọng sản phẩm và
lao động nông nghiệp. Sớm khắc phục tình trạng manh mún về đất canh tác
của các hộ nông dân, khuyến khích việc dồn điền đổi thửa, cho thuê, góp vốn
cổ phần bằng đất; phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng
trọt và chăn nuôi tập trung, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình
thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản
phẩm có trị trường và hiệu quả kinh tế cao.
Thực hiện tốt chương trình bảo vệ và phát triển rừng; đổi mới chính
sách giao đất, giao rừng, bảo đảm cho người làm nghề rừng có cuộc sống ổn
định và được cải thiện. Phát triển rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế
biến lâm sản có công nghệ hiện đại.
Phát triển đồng bộ và có hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và bảo
vệ nguồn lợi thủy sản. Coi trọng khâu sản xuất và cung cấp giống tốt, bảo vệ
môi trường, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu.
Tăng cường các hoạt động khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm,
khuyến ngư, công tác thú y bảo vệ thực vật và các dịch vụ kĩ thuật khác ở
nông thôn. Chuyển giao nhanh và ứng dụng KH, CN, nhất là công nghệ sinh
học vào sản xuất nông nghiệp; chú trọng các khâu giống, kĩ thuật canh tác,
nuôi trồng, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến.
Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn. Thực hiện
chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có
cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh. Hình thành các khu dân
cư, đô thị hóa với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ như: thủy lợi, giao
thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện,
15
chợ. Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa,
nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín, dị đoan;
đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các
vùng sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ,
giao thông, các khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn
theo hướng giảm nhanh tỉ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao
động công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc
làm và ngoài khu vực nông thôn kể cả nước ngoài. Đầu tư mạnh hơn cho các
chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là các vùng sâu, vùng xa, biên giới,
hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số” [35, tr.88-90].
Đến Đại hội lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát triển nông
nghiệp toàn diện, hiệu quả, bền vững theo hướng CNH, HĐH, phát huy ưu thế
của nền nông nghiệp nhiệt đới gắn với giải quyết tốt các vấn đề nông dân,
nông thôn. Khuyến khích tập trung ruộng đất, áp dụng tiến bộ KH, CN, phát
triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả
cao. Gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, mở rộng xuất khẩu. Xây dựng
nông thôn mới theo hướng văn minh, giàu đẹp, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nông dân” [36, tr.38].
Từ những nội dung chủ yếu mà Đảng ta đã nêu trong các văn kiện của
Đại hội, ta có thể khái quát thành các nội dung sau:
* Đẩy mạnh phát triển hàng hóa trong NN, NT, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, phát triển kinh doanh theo cơ chế kinh tế thị trường, từ đó thúc đẩy
quá trình biến đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên cơ sở khai thác lợi thế so
sánh của từng vùng, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn, đặc biệt là
công nghiệp chế biến nông sản nhằm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế nông
thôn, cơ cấu lao động, quy mô và cơ cấu thu nhập.
* Thực hiện phân công mới lao động xã hội trong NN, NT trên cơ sở
phát triển các ngành nghề, nghề tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề truyền
16
thống và dịch vụ theo phương trâm “rời đồng, không rời làng” (ly nông, bất ly
hương) và “tiểu công nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo”, từng bước
xác lập cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ trên địa bàn nông thôn,
thúc đẩy phát triển nông nghiệp sinh thái và tạo nên bộ mặt nông thôn mới
theo diện mạo của công nghiệp và đô thị.
* Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ KH, CN và khoa học quản lý trong sản
xuất, kinh doanh, đẩy nhanh tiến độ thuỷ lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa, tự
động hóa, tin học hoá và ứng dụng những thành tựu hiện đại của công nghệ
sinh học, thay đổi căn bản phương thức quản lý sản xuất, kinh doanh ở nông
thôn theo hướng lấy cơ cấu quy mô, nhu cầu thị trường làm căn cứ quyết định
cơ cấu quy mô sản xuất và đổi mới cơ cấu sản phẩm nhằm kết hợp tốt sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm ngay từ trong sản xuất, kinh doanh.
* Nâng cao chất lượng nhân lực, kể cả nhân lực quản lý và đặc biệt là
người lao động sản xuất nông nghiệp có trình độ cao.
* Từng bước hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông nghiệp
và nông thôn, nâng cao trình độ văn minh của xã hội nông thôn, chuyển mạnh
lối sống ở nông thôn sang lối sống công nghiệp.
Đây là những điểm căn bản nói nên nội dung của CNH, HĐH NN, NT.
Vậy để thực hiện thành công đường lối này Đảng và Nhà nước ta coi trọng sự
nghiệp GD - ĐT là quốc sách hàng đầu nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trình
độ, có tay nghề đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH NN, NT ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Những yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam
a. Nguồn nhân lực
Có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề nguồn nhân lực. Trước hết, các
nhà khoa học, chính trị, xã hội… tập trung nghiên cứu vấn đề con người. Bàn
về vấn đề này cũng có không ít quan điểm khác nhau, các nhà triết học trước
Mác lại giải thích con người một cách phiến diện, họ chỉ coi con người tồn tại
17
dưới dạng là một thực thể sinh học hay xã hội, họ chưa lý giải được một khái
niệm hoàn chỉnh về con người. Chỉ đến khi C.Mác và Ph. Ăngghen tập trung
nghiên cứu về con người, hai ông mới đưa ra được định nghĩa khoa học và đầy
đủ hơn về khái niệm con người. Các ông đã nhìn nhận con người trên cả hai
lĩnh vực sinh học và xã hội. Các ông cho rằng, giữa mặt sinh học và mặt xã hội
của con người có mối quan hệ mật thiết với nhau trong đó mặt xã hội sẽ giữ vai
trò chi phối. C.Mác cho rằng: “Bản chất con người không phải là cái gì trừu
tượng, cố hữu của một cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của nó bản chất
con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” [53, tr.11].
Với quan niệm đúng đắn về bản chất con người thì con người là chủ thể
của tự nhiên và xã hội, thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người đã
dùng sức lao động tác động vào giới tự nhiên tạo ra của cải vật chất đáp ứng
nhu cầu bản thân và xã hội. Như vậy, con người đã tạo ra lịch sử, con người
phát triển tư chất, năng khiếu, tài năng, phẩm chất, ý chí đó là điều kiện để
mỗi cá nhân trở thành chủ thể của hoạt động sáng tạo, xây dựng thế giới mới.
Họ là người sản xuất trực tiếp, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải
vật chất, văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác quan niệm con người vừa là động lực vừa là
mục đích cuối cùng của sự phát triển.
Việt Nam luôn tự hào là dân tộc có hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước. Ngay trong kế sách đánh giặc của ông cha ta cũng đã phát huy được
nhân tố con người. Nguyễn Trãi đã từng đưa ra quan điểm “chở thuyền cũng
là dân và lật thuyền cũng là dân”. Lịch sử cũng đã đúc kết lại “Dễ trăm lần
không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Hồ Chí Minh là người thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác và đã
có những lý giải rất sâu sắc về vấn đề con người. Ông khẳng định trong sự
nghiệp giải phóng con người, giải phóng dân tộc, không tách rời nhau về mặt
mục đích đem lại tự do, hạnh phúc cho con người. Nhân tố quyết định cho sự
nghiệp giải phóng con người không phải là ai khác mà chính là con người,
18
quần chúng nhân dân, là lực lượng quý nhất, vĩ đại nhất, bởi vì “Vô luận việc
gì cũng do con người làm ra từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều như thế cả” [60,
tr.113].
Hồ Chí minh luôn coi việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát triển con
người, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội, là
nhân tố quyết định thành công của cách mạng. Do đó, Hồ Chí Minh luôn quan
tâm đến “sự nghiệp trồng người”, “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích
trăm trồng người”.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
ngay từ khi mới ra đời, tư tưởng giải phóng dân tộc của Đảng ta luôn gắn liền,
hòa quyện với tư tưởng giải phóng con người. Thời kì đó, vấn đề con người
được Đảng ta quan tâm trước hết là vấn đề giải phóng con người khỏi ách nô
lệ. Ngày nay, trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước vấn đề con người được
Đảng ta coi là động lực quan trọng nhất không thể thiếu được. Bởi vậy, trong
những năm qua việc GD - ĐT con người nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực và bồi dưỡng nhân tài được Đảng ta coi là quốc sách hàng đầu. Văn kiện
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tư khóa VII đã khẳng định: “Sự
phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong việc xếp
hạng các nước trên thế giới” [29, tr.6]. Nên vấn đề con người không phải đến
ngày nay ta mới chú ý mà là vấn đề xuyên suốt cả quá trình lịch sử. Trong bất
kì giai đoạn nào, vấn đề con người cũng được quan tâm vì con người là động
lực là mục đích cuối cùng của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Để con người trở thành động lực và mục đích cuối cùng của sự phát
triển kinh tế - xã hội, chúng ta cần phát triển được nguồn lực con. Nhưng,
trong điều kiện đặc thù của Việt Nam hiện nay, chúng ta cần quan tâm nhiều
hơn đến phát triển nguồn nhân lực cho NN, NT.
* Khái niệm nguồn nhân lực
Có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về nguồn nhân lực. Do
cách tiếp cận khác nhau, nên có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực.
19
Theo thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Bộ Lao động - Thương
binh - Xã hội thì: “Nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời kì
xác định của một quốc gia, suy rộng ra có thể được xác định trên một địa
phương, một ngành hay một vùng. Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát
triển kinh tế - xã hội” [5, tr.13].
Theo khái niệm này, nguồn nhân lực được xác định cả trên phương
diện về số lượng và chất lượng của một bộ phận dân số tham gia trực tiếp hay
gián tiếp vào quá trình sản xuất của một quốc gia, một địa phương, một ngành
hay một vùng trong một giai đoạn nhất định.
Theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam thì nguồn nhân lực có
thể được hiểu là:
Theo nghĩa rộng, “Nguồn nhân lực (Human Rersources) là tổng thể
các tiềm năng (lao động) của con người, của một quốc gia, một vùng lãnh thổ,
một địa phương đã được chuẩn bị ở mức độ nào đó khả năng huy động vào
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hoặc một vùng, một địa
phương cụ thể” [84, tr.22].
Với cách tiếp cận này, ta có thể hiểu để phát triển kinh tế - xã hội thì
phải cần đến tất cả các nguồn lực khác nhau như: nguồn lực tài chính, nguồn
lực vật chất, nguồn lực trí tuệ, khoa học và nguồn nhân lực được xem là một
bộ phận cấu thành nguồn lực của quốc gia. Trong các nguồn lực trên thì
nguồn nhân lực có vai trò quan trọng nhất, nó đứng ở vị trí trung tâm để khai
thác các nguồn lực khác. Nếu không có nguồn nhân lực thì các nguồn lực
khác chỉ ở dạng tiềm năng. Do đó, nguồn lực con người được coi là thứ tài
nguyên quý giá nhất, một nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi
nguồn lực. Vì vậy, thực chất chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là chiến
lược phát triển con người và vì con người.
Theo nghĩa hẹp, “Nguồn nhân lực là toàn bộ lực lượng lao động trong
nền kinh tế quốc dân (hay còn gọi là số dân hoạt động kinh tế) nghĩa là bao
20
gồm những người trong một độ tuổi nhất định nào đó, có khả năng lao động,
thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp” [84, tr.24].
Với khái niệm trên (theo nghĩa rộng) và căn cứ ở Việt Nam thì lực lượng
lao động ở Việt Nam bao gồm: những người trong độ tuổi lao động, đang có
việc làm; những người ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn có khả năng lao động
và cả những người thất nghiệp; còn ở khái niệm này (theo nghĩa hẹp) không
tính đến những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động mà đang đi
học, đang làm nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu làm việc. Theo Bộ luật
Lao động nước ta quy định, nguồn nhân lực theo nghĩa hẹp là độ tuổi lao động
là từ 15 tuổi đến 60 đối với nam, và từ 15 tuổi đến 55 đối với nữ.
Qua các khái niệm trên ta có thể hiểu nguồn nhân lực là tổng thể những
yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, phẩm chất đạo đức, trình độ tri thức, vị thế
xã hội… tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng
phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Khi chúng ta có thể nói tới
nguồn lực con người là ta nói tới tư cách là chủ thể hoạt động sáng tạo tham
gia vào tất cả các hoạt động làm cải biến tự nhiên, xã hội và chính cả chính
bản thân mình.
b. Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn
* Khái niệm phát triển nguồn nhân lực
Từ quan điểm coi con người là trung tâm của phát triển kinh tế - xã hội,
phát triển nguồn nhân lực là quá trình gia tăng về kiến thức, kĩ năng và năng
lực của mọi người trong xã hội.
Phát triển nguồn ngân lực được hiểu là “cả một quá trình quan trọng mà
qua đó có sự lớn mạnh của cá nhân hay tổ chức có thể đạt được những tiềm
năng đầy đủ nhất của họ theo thời gian” [69, tr.23-26]. Trong xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế, các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến sự phát triển
nguồn nhân lực, tạo đội ngũ nhân lực có chất lượng, có trình độ cao, có khả
năng nắm bắt KH, CN mới và ứng dụng vào sản xuất. Phát triển nguồn nhân
21
lực là một “quá trình biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân
lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của kinh tế - xã hội” [22, tr.13], đó là
tổng thể các hình thức, phương pháp chính sách và biện pháp nhằm hoàn
thiện và nâng cao chất lượng cho nguồn nhân lực nhằm đáp ứng đòi hỏi về
nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát
triển. Với quan niệm coi con người là động lực và đồng thời là mục tiêu của
sự phát triển thì phát triển nguồn nhân lực không chỉ có mục đích làm gia tăng
về thu nhập của cải vật chất mà là mở rộng và nâng cao khả năng lựa chọn
của con người đối với xung quanh; tạo cho họ cơ hội tiếp cận với điều kiện và
môi trường sống tốt hơn, đồng thời qua đó tăng cường năng lực và tiềm năng
của con người phù hợp với yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế - xã
hội. Quá trình phát triển nguồn nhân lực bao gồm phát triển cả về số lượng và
chất lượng.
- Phát triển nguồn nhân lực về số lượng: là sự gia tăng về số lượng và
cơ cấu của đội ngũ nhân lực theo hướng phù hợp với môi trường và điều kiện
hoạt động mới. Sự thay đổi về cơ cấu nhân lực của quốc gia diễn ra theo cơ
cấu tuổi, cơ cấu khu vực phân bố và cơ cấu về giới.
Phát triển nguồn nhân lực về chất lượng là khái niệm tổng hợp bao
gồm những nét đặc trưng về trạng thái, thể lực, ý chí, trí lực, kĩ năng, phong
cách đạo đức, lối sống và tinh thần của nguồn nhân lực. Hay nói cách khác
phát triển nguồn nhân lực về chất lượng là sự gia tăng mức sống, bản lĩnh,
trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kĩ thuật và sức khỏe của các thành
viên trong xã hội hoặc trong tổ chức. Thước đo để so sánh sự phát triển nguồn
nhân lực qua các thời kì phát triển của một quốc gia hoặc giữa các quốc gia
với nhau là chỉ số phát triển con người do Liên hợp quốc sử dụng. Từ năm
1990, UNDP đã đưa ra chỉ số HDI để đo đạc những khía cạnh cơ bản của
năng lực con người. HDI là một hệ tiêu chí có khoảng 100 chỉ số thể hiện chất
lượng cuộc sống. Trong đó 3 chỉ số quan trọng nhất là: 1) chỉ số kinh tế (phản
ánh sản phẩm xã hội bình quân đầu người - GDP/người); 2) năng lực sinh thể
22
(phản ánh qua chỉ số tuổi thọ bình quân của người dân) và 3) năng lực tinh
thần (phản ánh qua chỉ số giáo dục, xác định bằng tỉ lệ người lớn biết chữ và
tỉ lệ nhập học của các cấp giáo dục).
Căn cứ vào chỉ tiêu của Liên hợp quốc, thì chất lượng nguồn nhân lực
phải là nguồn lao động có chất lượng cao, có trình độ tay nghề, có lòng ham
mê hăng say lao động, có ý thức trách nhiệm của người lao động. Trong Đề
tài khoa học cấp nhà nước, Lương Việt Hải khẳng định: “Trong một thời đại
cách mạng khoa học, kĩ thuật và công nghệ, thể lực là một điều kiện tất yếu
và tối cần thiết, là điều kiện cần của mọi quá trình lao động, nhưng nó không
còn là điều kiện đủ. Trí tuệ với năng lực tinh thần và những phẩm chất tâm lý
đóng vai trò quyết định năng suất, hiệu quả và giá trị xã hội của lao động”
[40, tr.380]. Vì vậy, trình độ học vấn, tay nghề của người lao động là quan
trọng là quyết định; song cũng không thể thiếu được ý thức đạo đức và sức
khỏe của người lao động. Có thể nói chất lượng nguồn nhân lực được kết hợp
bởi 3 yếu tố: Thể lực, trí lực, và tâm lực. Thể lực là trạng thái sức khỏe của
con người biểu hiện ở sự phát triển sinh học, không có bệnh tật, có đủ sức
khỏe lao động trong lĩnh vực ngành nghề nào đó, có sức khỏe để học tập làm
việc lâu dài… thể lực yếu sẽ hạn chế rất lớn đến sự phát triển trí lực của cá
nhân và cộng đồng xã hội nói chung. Trí lực là năng lực trí tuệ, tinh thần, là
trình độ phát triển trí tuệ, là trình độ đáp ứng đầy đủ về chuyên môn, kĩ thuật,
là nghiệp vụ, tay nghề. Nó quyết định phần lớn khả năng sáng tạo của con
người, nó càng có vai trò quyết định trong phát triển nguồn lực con người, đặc
biệt trong thời đại ngày nay khi khoa học, kĩ thuật và công nghệ phát triển
như vũ bão. Tâm lực bao gồm ý chí, nghị lực, tình cảm… đối với công việc.
Làm việc gì cũng trọng mình, trọng người, cũng nghiêm túc với nó hay có
hồn đối với việc làm, không thờ ơ, lãnh cảm. Tâm lực chịu tác động của nhiều
yếu tố, nhưng cơ bản nhất vẫn là yếu tố nội tâm, yếu tố chủ quan. Nó được
hình thành và tự giác của mỗi cá nhân, nó cũng có thể là sự phản ánh những
chuẩn mực đạo đức xã hội, lý tưởng của đạo đức xã hội vươn tới, nhất là
23
trong hoạt động, lối sống, nếp sống hàng ngày. Lối sống đạo đức của con
người là thể hiện tính cách, tâm lý sự giác ngộ, các giá trị văn hóa được kết
tinh trong người lao động. Đạo đức gắn liền với năng lực tạo nên những giá
trị cơ bản của chất lượng người lao động, từ phương diện cá nhân đến phương
diện xã hội và biểu hiện ra ở ý thức lao động, thái độ lao động. Ngoài thể lực,
trí lực, đạo đức lối sống, cái làm nên chất lượng nguồn nhân lực là kinh
nghiệm sống, là nhu cầu thói quen vận dụng tri thức tổng hợp và kinh nghiệm
của mình vào các hoạt động sáng tạo, tạo ra các giải pháp mới đối với công
việc như một sáng tạo văn hóa. Xét theo ý nghĩa đó, chất lượng nguồn nhân
lực bao gồm trong đó toàn bộ sự phong phú, sâu sắc các năng lực trí tuệ, năng
lực thực hành, tổ chức và quản lý, tính tháo vát và sự uyển chuyển của những
phản ứng của con người trước hoàn cảnh dựa trên một trình độ học vấn, kinh
nghiệm, sự rộng mở các quan hệ xã hội, sự tiếp thu tinh tế các ảnh hưởng văn
hóa truyền thống từ gia đình đến xã hội.
Ở Việt Nam trong thời kì đổi mới, nguồn lực con người đã và đang
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm rất đúng mức nhằm phát huy sức mạnh
tối đa của nguồn lực đặc biệt này, góp phần tạo nên nhiều thành tựu quan
trọng, đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và chuyển sang
thời kì mới - thời kì CNH, HĐH đất nước, một trong những trọng tâm là
CNH, HĐH NN, NT.
Mặc dù Việt Nam ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nhưng
nhìn chung vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, năng suất lao động thấp,
trình độ tay nghề của người lao động chưa cao chủ yếu lao động phổ thông là
chính, sức khỏe của nhân dân chưa đảm bảo, đặc biệt nguồn nhân lực với tư
cách là động lực của CNH, HĐH đất nước chưa đáp ứng được nhu cầu. Đây
là một khó khăn rất lớn cho việc học hỏi, tiếp thu trình độ KH, CN và công
nghệ tiên tiến.
Tóm lại, khi bước vào sự nghiệp CNH, HĐH NN, NT ở nước ta nói
chung và CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên nói riêng, chỉ số phát triển con
24
người chưa phù hợp với yêu cầu. Vì vậy, cần phải phát triển nguồn nhân lực
phù hợp hơn nữa, phải đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu
cầu đặt ra.
1.3. Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
1.3.1. Nguồn nhân lực - nhân tố quyết định sự thắng lợi công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì sản xuất ra của
cải vật chất là cái gốc để cho xã hội tồn tại và phát triển. Trong quá trình sản
xuất, con người phải sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng lao
động tạo ra của cải vật chất nuôi sống xã hội. Mối quan hệ này được hình
thành như một tất yếu khách quan và phổ biến với tư cách con người là chủ
thể của mọi hoạt động sáng tạo. Với mối quan hệ này đã tạo nên lực lượng
sản xuất của xã hội được phát triển qua các chế độ xã hội khác nhau và thể
hiện sự chinh phục tự nhiên của con người. Theo C.Mác, lực lượng sản xuất
là một thể thống nhất giữa “một bên là con người và lao động của con người;
bên kia là tự nhiên và vật liệu của tự nhiên thế là đủ” [57, tr.271]. Nhưng với
tư cách là chủ thể của quá trình lao động, con người không thỏa mãn với
những gì đã có sẵn trong tự nhiên. Với năng lực và trình độ của mình, con
người luôn tìm tòi những cái mới để tạo ra những cái không sẵn có trong tự
nhiên nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình, lao động là hoạt động
đặc trưng và có tính mục đích của con người nhằm tạo ra các loại sản phẩm
vật chất và tinh thần cho xã hội.
Theo C.Mác: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con
người và tự nhiên, quá trình đó bằng hoạt động của mình con người làm trung
gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên” [61, tr.20]. Nói
đến sự tồn tại và phát triển của xã hội là nói đến sản xuất vật chất mà lao động
của con người là chủ thể của mọi hoạt động, nhưng con người ở đây phải là
người lao động; người lao động với thể lực, trí lực, tâm lực và kĩ năng kinh
25
nghiệm lao động của mình, họ đã tiến hành lao động để cải biến các dạng vật
chất trong tự nhiên để thực hiện những nhu cầu đáp ứng những lợi ích của
mình trong những điều kiện kinh tế - lịch sử nhất định. C.Mác khẳng định:
“Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người đã thay đổi phương
thức sản xuất của mình và do thay đổi phương thức sản xuất, cách làm của
mình, loài người đã thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình [60,
tr.125]. Như vậy, loài người làm nên lịch sử xã hội của mình bằng chính sức
lực của mình, bằng chính nguồn nhân lực.
V.I.Lênin cũng đã đánh giá: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể
nhân loại là công nhân, là người lao động” [48, tr.430]. Để thực hiện thành
công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, chúng ta phải kết hợp chặt chẽ và có
hiệu quả rất nhiều nguồn lực như nguồn nhân lực, nguồn vốn, nguồn tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kĩ thuật, vị trí địa lý... Các nguồn lực này
tác động trong một mối qua hệ tất yếu và cùng tham gia vào quá trình CNH,
HĐH nhưng tác động của chúng vào tiến trình này là hoàn toàn khác nhau,
trong đó, nguồn nhân lực được coi là nhân tố quan trọng nhất và quyết định
nhất. Vì, thực tế cho thấy bằng, bằng sức lao động của mình mà con người có
thể cải tạo được tự nhiên và xã hội. Và đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi
KH, CN phát triển như vũ bão, nó đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng
cao đáp ứng yêu cầu đặt ra. Bởi vậy, nguồn nhân lực có một vai trò cực kì
quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH nói chung và CNH, HĐH NN, NT
nông thôn nói riêng.
Trước hết, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí
địa lý, v.v… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác
dụng và có ý nghĩa xã hội tích cực khi được kết hợp với nguồn nhân lực,
thông qua hoạt động có ý thức của con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực
biết tư duy, có trí tuệ và có ý chí, biết phát huy các nguồn lực khác, gắn kết
chúng lại với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình
CNH, HĐH. Các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai
thác của con người và chúng đều phục vụ nhu cầu và lợi ích của con người.
26
Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố
quan trọng nhất.
Chúng ta đều biết rõ, muốn công nghiệp hóa phải có vốn, nhưng vốn
chỉ trở thành nguồn lực quan trọng và cấp thiết của sự phát triển khi nó nằm
trong tay những con người biết sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Ở một
số nước, điều kiện tự nhiên thuận lợi là nhân tố làm cho đất nước giầu mạnh,
bởi con người biết sử dụng và cải tạo tự nhiên; còn ở một số nước khác, điều
kiện tự nhiên cũng tương tự, hoặc còn thuận lợi hơn nhưng vẫn nghèo nàn và
ngày càng kiệt quệ về tài nguyên vì con người chỉ biết khai thác và sử dụng
chúng một cách vô ý thức. Qua thực tế cho thấy, vị trí địa lý, tài nguyên thiên
nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của đất nước, nhưng chúng có
phát huy được hết khả năng hay không đều phải phụ thuộc vào khả năng,
trình độ của con người. Còn vốn cũng là nhân tố quan trọng cho sự phát triển
của bất cứ quốc gia nào nhưng cũng cần phải có sự tác động quan trọng của
nhân tố con người.
Nguồn nhân lực có vai trò quyết định trong các nhân tố, các nguồn lực
phát triển lịch sử, trước hết là do năng lực sáng tạo, trí tuệ của bản thân con
người và cộng đồng người theo chiều hướng tiến bộ của lịch sử. Từ thế kỉ
XVI, nhà triết học Ph.Bêcơn đã đưa ra nhận định: Tri thức là sức mạnh, khoa
học tăng quyền lực của con người đối với tự nhiên. Đến thế kỉ XIX, trên cơ sở
phân tích vai trò của khoa học trong sự phát triển của xã hội, C.Mác kết luận:
Việc biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp là một quy luật khác
quan của sự phát triến xã hội. Điều đó đã trở thành hiện thực. Những năm đầu
thế kỉ XX tỉ lệ lao động chân tay trong sản phẩm là 9/10 đến những năm 90 tỉ
lệ đó giảm xuống còn 1/5 nhưng khối lượng sản phẩm gấp 50 lần so với 80
năm trước. Con người với trí tuệ lao động đã và đang là tài sản quý nhất, là
nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Vì vậy,
so với các nguồn lực khác thì “chỉ có con người là nguồn lực chủ yếu, lâu bền
trong sự phát triển của đất nước và cũng chỉ có tri thức con người là một
nguồn lực vô hạn có khả năng tái sinh và tự tái sinh không bao giờ cạn kiệt.
27
Nếu không có con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác thì các nguồn lực
khác cũng sẽ không được sử dụng có hiệu quả” [91, tr.75].
Mặt khác, vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với các nguồn lực
khác là do nguồn nhân lực mà cốt lõi trí tuệ là nguồn lực vô hạn, luôn đổi
mới, phát triển không ngừng về số lượng và chất lượng, còn các nguồn lực
khác như đất đai, tài nguyên, vốn thì có hạn, nếu chúng ta khai thác mà không
đi đôi với bảo vệ thì sẽ bị cạn kiệt. Vì vậy, ta có thể khẳng định nguồn nhân
lực hay chính nguồn lực con người có một vai trò cực kì quan trọng quyết
định đối với các nguồn lực khác, nên chúng ta phải chú trọng, bồi dưỡng, đào
tạo nguồn nhân lực nhằm phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
tạo điều kiện thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nói chung và CNH, HĐH NN,
NT nói riêng nhanh chóng đi đến thắng lợi.
Thứ nữa, con người với tất cả khả năng và phẩm chất tích cực của mình
gồm trí tuệ, kinh nghiệm, năng động, thích ứng sáng tạo thì tự mình có thể trở
thành động lực phát triển của toàn xã hội. Trí tuệ thông minh, tài năng sáng
tạo, nhạy cảm với cái mới, ý chí tự lực, tự cường là những tiềm năng to lớn
của dân tộc Việt Nam là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của dân tộc,
là nguồn lực to lớn cho sự phát triển đất nước. Những đức tính đó đã được thể
hiện và nhân lên trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc
Việt Nam. Khi Đảng ta thực hiện đường lối đổi mới, nguồn nhân lực được
quan tâm đầu tư phát triển. Yêu cầu xây dựng nguồn nhân lực đủ số lượng và
chất lượng được đặt ra, đặc biệt là thời kì CNH - HĐH nói chung và CNH,
HĐH NN, NT nói riêng. Nói cách khác, chúng ta sớm đưa nước ta trở thành
một nước công nghiệp được hay không điều này đều phải phụ thuộc vào trí
thông minh và tài năng sáng tạo của con nười hay chính là chất lượng nguồn
nhân lực. Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: Những nguồn lực làm cơ sở
cho việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước là nguồn lực
con người. Trong Văn kiện của Ban chấp hành Trung ương lần thứ tư khoá
VII, Đảng ta khẳng định “Nguồn lao đồng dồi dào, con người Việt Nam có
truyền thống yêu nước cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hóa, giáo dục, có khả
28
năng nắm bắt nhanh nhạy KH, CN đó là nguồn lực quan trọng nhất” [29, tr.5].
Để sự nghiệp CNH, HĐH thành công chúng ta phải biết phát huy sức mạnh
tổng hợp của các nguồn lực, trong đó, “Lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” [33, tr.85].
Nguyên Phó thủ tướng Nguyễn Khánh cũng đã khẳng định: “Con người
là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa của mọi
quốc gia. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu bắt đầu đi vào CNH, HĐH ta
chưa có những chỉ số cao về phát triển con người như mong muốn. Vì vậy,
cùng với việc tạo ra nguồn lực vật chất, tài chính và phát huy nguồn lực đó,
điều quan trọng nhất hiện nay là chăm lo phát triển nguồn lực con người Việt
Nam, tạo ra lực lượng lao động với trình độ mới, khả năng mới phù hợp với
yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước” [46].
Tóm lại, trong các nguồn lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
thì nguồn nhân lực luôn giữ vị trí quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên con người
mà chúng ta cần đến để đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH đất nước phải là con
người khác biệt với con người trong xã hội trước đó, là con người phải có đủ
đức và tài tiếp cận nhanh với quá trình hội nhập. Có như vậy chúng ta mới có
thể hoàn thành mục tiêu đặt ra là đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp
vào năm 2020. Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế thế giới đang từng
bước chuyển sang nền kinh tế tri thức, vai trò của nguồn nhân lực được khẳng
định, vì thế, con người luôn phải được bồi dưỡng và nâng cao về trình độ
quản lý và năng lực sáng tạo cũng như phẩm chất đạo đức của mình và có như
thế chúng ta mới tránh được nguy cơ tụt hậu so với các nước.
1.3.2. Nguồn nhân lực - động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
Phát triển đất nước, CNH, HĐH nói chung và CNH, HĐH NN, NT nói
riêng phải hướng tới mục tiêu cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho mọi người dân trong nước, để trên cơ sở đó tạo ra một đội ngũ người
lao động có chất lượng. Chúng ta có thể đạt được mục tiêu đó khi có sự kết
hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế nhanh với việc nâng cao chất lượng cuộc
29
sống cho người lao động, “từng bước hiện đại hóa đất nước và đời sống xã
hội”, nâng cao trình độ học vấn văn hóa cho người lao động, chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe cho mọi gười. Nhất là trong thời đại ngày nay, sự phát triển
nhanh chóng của KH, CN góp phần đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Cách mạng KH, CN dẫn tới việc sử dụng những công cụ, phương tiện hiện
đại, phức tạp, sản phẩm làm ra phải kết tinh hàm lượng khoa học cao, như vậy
đòi hỏi người lao động phải có đầy đủ tri thức, tài lực và tâm lực để vận dụng
những thành tựu mới nhất của khoa học vào trong sự phát triển kinh tế - xã
hội nhất là trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Trong thời đại chúng ta, với xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa nền kinh
tế thế giới đòi hỏi các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển tất yếu phải đổi
mới chiến lược phát triển kinh tế. Việt Nam không nằm ngoài xu thế trên,
chúng ta đã và đang thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và
CNH, HĐH NN, NT nói riêng để tạo ra những tiền đề phát triển kinh tế trong
nước. Trong điều kiện đó chúng ta phải phát triển được nguồn lực con người
có trí tuệ cao với tư cách là nguồn lực của mọi nguồn lực. Ph.Ăngghen cho
rằng: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể
không có tư duy lý luận” [62, tr.489].
Đặc biệt trong thời đại mà khoa học, kĩ thuật trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, có một số quan điểm tầm thường hoá mới quan hệ giữa khoa
học và con người. Theo họ, chúng ta chỉ cần phát triển KH, CN là có thể phát
triển kinh tế - xã hội. Nhưng thực tế trong lực lượng sản xuất, con người mới
là nhân tố quan trọng nhất để sáng tạo ra KH, CN và ứng dụng KH, CN vào
sản xuất. Vì vậy, muốn cho khoa học cùng với GD - ĐT trở thành nền tảng và
động lực thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đất nước thì phải đầu tư vào nhân tố
con người hay chính là nguồn nhân lực có chất lượng cao. Chỉ có trên cơ sở
tạo ra một đội ngũ những người lao động phát triển cả về trí lực, thể lực, tâm
lực, có tính kỉ luật, nhiệt tình lao động, tích cực tham gia các hoạt động chính
trị, xã hội thì chúng ta mới có nguồn lực quan trọng nhất, bền vững nhất trong
CNH, HĐH đất nước. Song, với thực tiễn một đất nước phần đông lao động
30
vẫn làm nông nghiệp, cơ sở vật chất vẫn nghèo nàn, lạc hậu, đời sống của
người lao động vẫn rất khó khăn, chúng ta không thể đẩy nhanh quá trình
CNH, HĐH đất nước, mà trước tiên chúng ta phải tạo ra một lực lượng lao
động xã hội đáp ứng yêu cầu trước mắt cho nền kinh tế nói chung và CNH,
HĐH NN, NT nói riêng. Do đó, phải nhanh chóng bồi dưỡng, nâng cao chất
lượng lao động NN, NT, tạo ra được những người lao động vừa có thể lực, trí
lực và tâm lực để thực hiện mục tiêu chung là CNH, HĐH đất nước.
Xuất phát từ thực tế đó và do nhận thức được xu hướng của nền kinh tế
thế giới, bắt đầu từ Đại hội VI, đặc biệt là Đại hội VII, Đảng ta đã nhận thức
và ngày càng bổ sung đầy đủ hơn về vai trò của nguồn nhân lực trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: “Nâng cao
dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn con người Việt Nam là nhân
tố quyết định sự thắng lợi của CNH, HĐH” [32, tr.21] nhằm mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Không thể nói đến CNH, HĐH đất nước trong thời đại văn minh trí tuệ,
thời đại của cách mạng KH, CN, thời đại sinh thái hóa mà lại thiếu nguồn
nhân lực có trình độ chuyên môn cao, thiếu đội ngũ cán bộ khoa học giỏi. Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã khẳng định: “Con
người phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần,
trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng
thời là mục tiêu của CNXH” [29, tr.5].
Như vậy trong số các nguồn lực thì động lực chủ yếu của sự nghiệp
CNH, HĐH chính là nguồn nhân lực. CNH, HĐH chỉ có thể thành công một
khi chúng ta biết phát huy sức mạnh tổng hợp của các nguồn lực, trong đó
“lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cho sự phát triển nhanh và
bền vững”.
Tóm lại, con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể sáng tạo
ra lịch sử có ý nghĩa vô cùng to lớn. Phát huy vai trò chủ thể của con người là
nhằm phát huy tối đa nguồn lực con người, tạo ra động lực mạnh mẽ để thực
31
hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và CNH, HĐH NN,
NT nói riêng.
Đối với việc sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, nguồn nhân lực được
xem là một trong những nhân tố quyết định. Do đó, chỉ khi nào chúng ta tạo
ra được một nguồn nhân lực với những con người có thể lực, trí lực, tâm lực,
có năng lực phát triển toàn diện, nắm bắt nhanh KH, CN đáp ứng nhu cầu
khai thác và sử dụng các nguồn lực khác cho sự phát triển xã hội. Đây là một
luận điểm có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng cần được rút ra khi vận
dụng chủ nghĩa Mác-Lênin về phát triển con người, phát huy nhân tố con
người vào việc phát triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Chính vì vậy, ở Việt Nam nói chung và ở Hưng Yên nói riêng, chúng ta
phải đi vào nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực, phân tích mặt mạnh, mặt
yếu, thuận lợi, khó khăn, từ đó làm rõ sự cần thiết và cấp bách về việc phát
triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH ở nước ta cũng như Hưng Yên.
32
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CHO CÔNG NGHIÊP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP,
NÔNG THÔN HƯNG YÊN HIỆN NAY
2.1. Những nhân tố tác động đến việc phát triển nguồn nhân lực
trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Hưng Yên
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Hưng Yên có diện tích 923,1 km2
, là một tỉnh nhỏ nằm giữa đồng bằng
sông Hồng. Đây là một phần của đồng bằng châu thổ, không có đồi núi và
rừng rú. Phía bắc Hưng Yên giáp huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh, địa giới
dài 16km; phía Tây bắc, giáp huyện Gia Lâm, địa giới ngoằn nghèo dài 20km.
Phía bắc và Tây bắc không còn ranh giới tự nhiên. Phía Đông Hưng Yên giáp
với tỉnh Hải Dương, địa giới dài 46 km.
Hưng Yên nằm giữa đồng bằng châu thổ sông Hồng, với địa hình tương
đối đơn điệu. Nhìn chung địa hình của tỉnh nghiêng chênh chếch từ Tây bắc
xuống Đông nam và không thật bằng phẳng. Độ dốc trung bình là 8cm/1km.
Về phía bắc, nổi lên là địa hình cao, có hình vòng cung đi từ đông bắc
sang tây bắc rồi men theo phía tây, dọc sông Hồng, bao gồm địa phận các
huyện Văn Lâm, Văn Giang, Khoái Châu. Đây là vùng đất cao trong đê, có độ
cao tuyệt đối từ 4 đến 6m.
Liền kề với vùng đất cao là vùng đất thấp hơn, độ cao trung bình 3m,
phổ biến như huyện Ân Thi, Yên Mĩ, Mĩ Hào, nam Kim Động, Tiên Lữ và
kéo xuống phía Nam (như Phủ Cừ). Độ cao ở đây chỉ còn 2m.
Địa hình Hưng Yên ảnh hưởng rõ rệt đến việc canh tác. Trước kia
thường xuyên xảy ra hạn hán và úng ngập. Vùng cao không giữ được nước,
trong khi đó vùng thấp lại tiêu nước không kịp trong mùa mưa. Với từng vùng
cũng có sự phân hóa ít nhiều về địa hình. Hiện nay nhân dân tỉnh Hưng Yên
33
đã xây dựng một mạng lưới thủy lợi dầy đặc để kịp thời giải quyết những khó
khăn do địa hình gây ra, đảm bảo cho việc sản xuất quanh năm, hạn chế mức
thiệt hại do hạn hán và úng lụt.
Nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng sông Hồng, khí hậu Hưng Yên có
đầy đủ những nét chung của đồng bằng lớn này. Hưng Yên chịu ảnh hưởng
của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, nhiều nắng và có mùa Đông lạnh.
Với khí hậu như vậy rất thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp
thâm canh cao.
Hưng Yên có 3 mặt được bao bọc bởi sông, trong đó có sông Hồng,
con sông lớn nhất miền bắc, chảy qua. Ngoài sông tự nhiên, Hưng Yên còn có
nhiều sông đào nhằm phục vụ yêu cầu của sản xuất nông nghiệp. Những con
sông này thuộc hệ thống đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải.
Hưng Yên có nhiều sông, sông Hồng chảy qua Hưng Yên theo hướng
Tây Bắc - nam Đông Nam với chiều dài 67 km. Đây là đoạn sông lớn nhất
của Hưng Yên. Sông Hồng có chứa lượng phù sa khá lớn và chính vùng đất
Hưng Yên cũng do dòng sông này bồi tụ nên. Về đến lãnh thổ Hưng Yên,
sông Hồng chảy quanh có uốn khúc, tạo nên nhiều bãi bồi đất rộng (như Phú
Cường, Hùng Cường thuộc huyện Kim Động).
Sông Hồng làm ranh giới tự nhiên giữa Hưng Yên với Hà Nội, Hà Tây,
Hà Nam. Nó bắt đầu chảy vào địa phận Hưng Yên ở thôn Phi Liệt (xã Liên
Nghĩa, huyện Văn Giang), qua các huyện Văn Giang, Khoái Châu, Kim
Động, thị xã Hưng Yên từ Ung Lôi (xã Tân Hưng, huyện Tiên Lữ).
Sông Hồng đã đem lại nguồn nước phù sa cho đồng ruộng Hưng Yên.
Nó còn là con đường thuỷ quan trọng nối Hưng Yên với Hà Nội, thị xã Sơn
Tây, Việt Trì, Yên Bái, Thái Bình và Nam Định.
Sông Luộc là con sông lớn thứ hai chảy qua Hưng Yên, một nhánh lớn
của sông Hồng, nằm vắt ngang phía Nam của tỉnh, gần như vuông góc với
sông Hồng. Sông Luộc dài 70 km, rộng trung bình 200 mét, chảy qua địa
phận Hưng Yên với độ dài 26 km. Theo sông Luộc, từ Hưng Yên đến Ninh
34
Giang (Hải Dương) từ sông Luộc qua các hệ thống sông khác, có thể đến
Thành phố Hải Dương, Thành phố Hải Phòng.
Sông Kẻ Sặt nằm ở phía Đông của tỉnh, con sông này làm nên ranh giới
tự nhiên giữa Hưng Yên với Hải Dương, đoạn sông này dài 20 km từ Thịnh
Vạn (Mỹ Hào) đến Tông Hoá (Phủ Cừ). Nó có giá trị về mặt dẫn nước (khi có
hạn) và tiêu nước khi có úng, vì nhận nước từ sông Thái Bình (cửa sông ở
phía Nam Thành phố Hải Dương) và xuôi chiều tiêu thuỷ ra sông Luộc. Dựa
vào điều kiện tự nhiên thuận lợi này, Hưng Yên đã xây dựng hệ thống thuỷ lợi
để điều tiết nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Trong phạm vi lãnh thỗ
Hưng Yên còn có các sông ngang dọc nối với nhau hình thành một mạng lưới
dẫn thuỷ khắp từ bắc đến nam, như các sông Hoan Ái, Cửu Yên, Nghĩa Trụ…
Ngoài nguồn nước ngọt dồi dào, Hưng Yên còn có nguồn nước ngầm
phong phú, nhất là khu vực quốc lộ 5, từ Như Quỳnh đến phố Nối, thuận lợi
cho việc phát triển công nghiệp và đô thị.
Về đất đai, toàn tỉnh không có loại đất nào phát sinh và phát triển trên
đá mẹ. Các loại đất tuy khác nhau nhưng đều do phù sa bồi tụ. Gần hai rìa
sông là đất cát, cát pha tầng dày, rồi tiếp đến là cát pha tầng mỏng hoặc đất
thịt nhẹ, đi sâu vào trong đồng là vùng đất sét có phủ một lớp đất thịt rất
mỏng. Về đại thể, có thể chia thành hai vùng:
Vùng ngoài đê: đây là vùng đất phù sa trẻ nhất, hàng năm ít nhiều vẫn
được phù sa bồi đắp. Vùng đất này nằm chủ yếu ở ngoài đê thuộc các huyện
Văn Giang, Kim Động, Tiên Lữ. Ở vùng ngoài đê, có thể trồng màu xen canh,
gối vụ liên tiếp, trừ mùa mưa lũ.
Vùng trong đê, đất phù sa không được bồi, màu nâu tươi, trung tính, ít
chua, không glây hoặc glây yếu. Vùng này chiếm tỉ lệ 32 % diện tích đất canh
tác của tỉnh, tập trung nhiều nhất ở Yên Mỹ, Khoái Châu, Văn Giang, Kim
Động, Văn Lâm, Tiên Lữ, Ân Thi, Mỹ Hào. Loại đất này có độ phì cao, giàu
các chất đạm, lân, tương đối nhiều mùn, thích hợp với việc trồng lúa, các loại
35
hoa màu và cây công nghiệp như mía, đay, dâu, lạc. Đây là vùng trồng lúa tốt
nhất của tỉnh.
Đất phù sa không được bồi, màu nâu tươi, glây trung bình hoặc mặn, ít
chua. Chiếm 25% đất canh tác của tỉnh, loại đất này nằm ở miền trũng của các
huyện Kim Động, Tiên Lữ, Ân Thi, Yên Mỹ, Văn Giang, Khoái Châu, Phù
Cừ, Mỹ Hào. Đất thiếu không khí, quá trình hoá sét mạnh, có ảnh hưởng xấu
đến cây trồng; phải cày sâu, bón phân nhiều khi trồng lúa.
Vùng cà chua và bí đỏ, có tầng sét dày, bao gồm diện tích đất đai còn
lại của các huyện Ân Thi, Phù Cừ, Yên Mỹ, Văn Lâm… Đối với loại đất này,
phải chống chua, chống glây hoá và cải tạo thành phần cơ giới để đưa vào sử
dụng có hiệu quả trong nông nghiệp.
Về sinh vật, nằm giữa đồng bằng sông Hồng, lại được khai thác từ lâu
đời nên Hưng Yên hầu như không còn thảm thực vật tự nhiên. Về giới động
vật cũng tương tự như vậy. Các loài chim muông, cầm thú tự nhiên rất ít,
ngoài những loài cáo, cò, cuốc, ngỗng trời…
Về khoáng sản, nhìn chung, Hưng Yên có tiềm năng về tài nguyên
thiên nhiên, song tài nguyên khoáng sản lại rất hạn chế. Ngay cả nguyên liệu
thông thường như đá vôi cũng phải nhập ở tỉnh ngoài. Đây là một trong
những khó khăn trong quá trình phát triển công nghiệp hoá của tỉnh.
Hưng Yên có 3 mặt được bao bọc bởi sông, trong đó có sông Hồng,
con sông lớn nhất miền Bắc chảy qua. Ngoài sông tự nhiên, Hưng Yên còn có
nhiều sông đào nhằm phục vụ yêu cầu của sản xuất nông nghiệp. Những con
sông này thuộc hệ thống đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Do điều kiện thuận lợi, có quốc lộ 5 chạy qua nối Hà Nội - Hải Phòng,
Hưng Yên còn nằm trong khu vực trọng điểm tam giác kinh tế Bắc bộ. Hưng
Yên có nhiều ưu thế phát triển kinh tế công - nông nghiệp và dịch vụ. Hưng
Yên còn được ví như Bình Dương của miền Bắc. Hưng Yên là địa bàn có
nhiều khu công nghiệp lớn như khu công nghiệp Phố Nối A, Phố Nối B, Khu
36
công nghiệp Thăng Long II, Khu công nghiệp Như Quỳnh, Khu công nghiệp
Minh Đức, Khu công nghiệp Kim Động, Khu công nghiệp Quán Đỏ. Với ưu
thế phát triển công nghiệp và dịch vụ, Hưng Yên dần khắc phục lực lượng lao
động trong nông nghiệp cao (90%), diện tích đất nông nghiệp dần bị thu hẹp,
năng suất lao động chưa cao, người dân vẫn còn thói quen sản xuất manh
mún. Bởi vậy, đây là yếu tố tác động đến nguồn nhân lực của tỉnh, đặc biệt là
nguồn nhân lực trong nông nghiệp và nông thôn. Từ khi tái lập tỉnh đến nay,
kinh tế Hưng Yên liên tục phát triển, nhất là những năm gần đây. Theo báo
cáo của UBND tỉnh năm 2008, trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước
có nhiều biến động, khủng hoảng tài chính diễn ra trên phạm vi toàn thế giới...
song với sự chỉ đạo kịp thời của các cấp ủy Đảng, chính quyền và sự cố gắng
của nhân dân, kinh tế Hưng Yên vẫn đạt kết quả khá. Tốc độ tăng trưởng kinh
tế đạt 12,33%, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đạt 27,95%, công nghiệp xây dựng
đạt 42,17%, dịch vụ đạt 29,88%, thu ngân sách đạt 1.765 tỷ đồng, kim ngạch
suất khẩu 443 triệu USD, tổng vốn huy động toàn xã hội 9.100 tỷ đồng, thu
nhập bình quân đầu người đạt 12,8 triệu đồng, tỉ lệ hộ nghèo còn 7%, tỉ lệ
tăng dân số 0,998%, tạo thêm việc làm mới cho 2,4 vạn lao động, tỉ lệ làng,
khu văn hóa đạt 69%.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới dần được hồi phục, quan hệ giữa các
nước càng được tăng cường, kinh tế nước ta có bước phát triển, sản xuất ổn
định, dịch bệnh diễn biến ít phức tạp. Kinh tế tăng trưởng khá, sản xuất tiếp
tục phát triển, lĩnh vực văn hóa xã hội tiếp tục chuyển biến tích cực, chính trị
ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững, trận tự an toàn xã hội được đảm
bảo. Các chỉ tiêu được ước tính thực hiện như sau:
Tổng sản phẩm GDP tăng 12,11%
Giá trị sản xuất nông nghiệp và thủy sản tăng 5,78%
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14,65%
Giá trị các ngành dịch vụ tăng 15,54%
37
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng và dịch vụ 25% -
44% - 31%
Thu nhập bình quân đầu người đạt 20 triệu đồng
Kim ngạch suất khẩu dạt 530 triệu USD
Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh đạt 300 tỷ đồng, tỉ lệ dân số tự
nhiên 0,94%, tỉ lệ hộ nghèo còn 3% tạo việc làm mới cho 2,5 vạn lao động, tỉ
lệ chuẩn quốc gia về y tế đạt kế hoạch 90%, tỉ lệ làng, khu phố văn hóa đạt kế
hoạch 72% [89] (xem phụ lục 1). Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hưng Yên
gia tăng liên tục, tuy thấp hơn so với các tỉnh lân cận nhưng với tốc độ tăng
trưởng như hiện nay, Hưng Yên có thể phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao
hơn nữa.
Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Hưng Yên đã có sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo xu hướng chung của cả nước, làm giảm dần tỉ lệ ngành nông -
lâm nghiệp và thủy sản tăng dần tỉ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ.
Nhưng sự chuyển dịch này còn diễn ra rất chậm. Năm 2009 cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản của Hưng Yên là 27,4% so với năm
1997 là 51,87%, tuy có giảm nhưng vẫn chưa đáp ứng được sự phát triển kinh
tế - xã hội trong tỉnh, công nghiệp và xây dựng năm 1997 là 20,26% tăng lên
42,39 năm 2009, dịch vụ có tăng nhưng không đáng kể (xem phụ lục 2).
Như vậy từ năm 2007 đến năm 2009, tốc độ tăng trưởng trong công
nghiệp đã được năng lên, năm 2009 GDP đạt 42,39%, tăng 1,32% so với năm
2007, dịch vụ có tăng nhưng quá chậm.
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và dịch vụ của Hưng Yên tăng liên tục năm
2006 là 4.226 tỷ đồng năm 2007 là 5.271 tỷ đồng, năm 2008 là 6.645 tỷ đồng
năm 2009 là 7.843 tỷ đồng [16].
Việc thu chi ngân sách trên địa bàn Hưng Yên đạt gần 2 nghìn tỷ đổng
năm 2008 là 1.834 tỷ đồng, nhưng chi ngân sách lại nhiều hơn thu năm 2008
chi hết 1.979 tỷ đồng, thu không đủ chi.
38
2.2. Thực trạng nguồn nhân lực và xu hướng phát triển nguồn
nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn Hưng Yên hiện nay
2.2.1. Tình hình dân số
Hưng Yên là một tỉnh có diện tích không rộng, dân số không đông
nhưng là một tỉnh có dân số trẻ. Dân số Hưng Yên tăng lên khá nhanh, năm
1997 Hưng Yên có 1.051.420 người, năm 1999 là 1.071.400 người, đến năm
2004 là 1.120.300 người, năm 2009 là 1.131.185 người. Dân số Hưng Yên
chiếm 6,3% dân số đồng bằng Sông Hồng (xem phụ lục 3).
Như vậy, dân số Hưng Yên có mức độ tăng nhanh ở giai đoạn 1997 -
2004, và tăng chậm ở giai đoạn 2004 - 2009.
Năm 1997 đến năm 2004 tăng là 52.868 người, giai đoạn 2004 - 2009
dân số tăng 26.987 người. Vào thời điểm năm 2004 dân số Hưng Yên là
1.104,3 nghìn người bằng 5,87% dân số của đồng bằng Sông Hồng và bằng
1,35% dân số cả nước.
Năm 2009 dân số Hưng Yên tăng lên 79.765 người so với năm 1997,
bằng 6,6% dân số của đồng bằng Sông Hồng và bằng 1,31% dân số cả nước.
Qua sự phân tích trên, ta thấy quy mô dân số của Hưng Yên so với đồng bằng
Sông Hồng ngày càng có xu hường gia tăng nhưng so với quy mô dân số của
cả nước thì có xu hướng giảm.
Về dân số thành thị Hưng Yên không lớn hơn dân số nông thôn nhưng
tốc độ gia tăng ngày một lớn. Song, so với cả nước và đồng bằng sông Hồng
thì dân số thành thị của Hưng Yên tăng chậm hơn. So sánh năm 2009 và năm
2004 thì dân số thành thị của Hưng Yên tăng 1,26%, trong khi đó đồng bằng
Sông Hồng là 3,3%, cả nước là 2,50%.
Nhìn một cách tổng quát thì dân số Hưng Yên ngày càng tăng, nhưng
xét qua các thời kì, các năm thì có lúc tăng, lúc giảm.
Dân số Hưng Yên, năm 2009 so với năm 1999 tăng 59.785 người.
Trong năm năm cuối 2004-2009 Hưng Yên đã hạn chế được tốc độ tăng dân
số (xem phụ lục 4).
39
Qua phụ lục 4, ta thấy tỉ lệ tăng dân số tự nhiên của Hưng Yên mỗi năm
một khác, có năm tăng, có năm giảm, nhưng sự tăng lên hay giảm đi là không
đáng kể. Năm 2005, tỉ lệ tăng tự nhiên là 0,990% đến năm 2009 là 0,964%,
năm 2007 là 0,936% nhưng đến năm 2008 là 0,978%. Nhìn chung Hưng Yên
là tỉnh có quy mô dân số trung bình ở đồng bằng Sông Hồng. So sánh với các
tỉnh lân cận, năm 2008, dân số của Hải Dương là 1700,8 nghìn người, Thái
Bình là 1782,7 nghìn người, Hà Nam 791,3 nghìn người, Hưng Yên là 1126,2
nghìn người. Dân số Hưng Yên hiện tại và sau này có xu hướng gia tăng,
không những tăng mà Hưng Yên là tỉnh có dân số trẻ điều này thể hiện dân số
trong độ tuổi lao động sẽ nhiều (chiếm trên 50% dân số của tỉnh). Dân số trẻ
nên nguồn lao động tương đối dồi dào đồng nghĩa với nguồn nhân lực nhiều.
Hiện nay số người trong độ tuổi lao động của Hưng Yên là 679756 người, với
nguồn lao động như vậy Hưng Yên cần có sách lược sử dụng hợp lí, hiệu quả
nguồn nhân lực trong tiến trình CNH, HĐH NN, NT của tỉnh.
2.2.2. Chất lượng và số lượng ngồn nhân lực ở Hưng Yên hiện nay
Nguồn nhân lực thực chất là nguồn lao động và được hiểu là dân số đủ
15 tuổi trở lên có khả năng lao động, đang có việc làm hoặc chưa có việc làm
và không có nhu cầu làm việc
Theo số liệu của Cục Thống kê Hưng Yên năm 2009, những người
trong độ tuổi lao động của Hưng Yên là 679756 người. Số lao động nông thôn
là 603076 người, chiếm 88,71%, lao động thành thị là 76679 người chiếm
11,89%. Với tỉ lệ lao động thành thị và nông thôn như trên cho thấy nền kinh
kế Hưng Yên với đặc trưng chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Số lao động của
Hưng Yên không phải là đã có việc làm 100% mà số lao động có việc làm
chiếm 98,31%, thất nghiệp 1,69 %. Trong số lao động có việc làm này thì số
lao động giản đơn của Hưng Yên chiếm tỉ lệ cao (56,9%), điều này cho thấy
thị trường lao động của Hưng Yên đang ở mức thấp, vấn đề đào tạo nguồn lao
động có trình độ chuyên môn, kĩ thuật đang đặt ra hết sức cần thiết và cấp
bách. Vì vậy, đòi hỏi các cấp lãnh đạo, các nhà quản lý của tỉnh phải hoạch
40
định, phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động
và đào tạo họ có một trình độ nhất định để đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN,
NT của Hưng Yên.
Trong số lao động của Hưng Yên, lao động nam thấp hơn lao động nữ,
lao động nam là 332.529 người chiếm 48,91%, lao động nữ là 347.227 chiếm
51,09% (xem phụ lục 5).
Qua phụ lục 5, ta thấy lực lượng lao động nam giới có việc làm thấp
hơn số lao động nữ giới (nam là 326.102 bằng 48,77%, nữ chiếm 342.536
bằng 51,23 %) và ngược lại lao động nam thất nghiệp nhiều hơn nữ (nam
chiếm 57,83% nữ chiếm 42,17%) như vậy lực lượng lao động nam - một lực
lượng lao động có sức khỏe hơn nữ giới (theo cấu trúc sinh học) chưa được
phát huy hết. Số lao động thất nghiệp cả nam lẫn nữ đã làm mất đi một khối
lượng lớn thu nhập quốc dân. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN,
NT của tỉnh thì phải có kế hoạch đầu tư thích đáng trên nhiều phương diện
cho việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực.
Hưng Yên là tỉnh có dân số trẻ nên nguồn lao động rất dồi dào nhưng
lao động chủ yếu lại tập trung trong khu vực sản xuất nông nghiệp.
Theo kết quả điều tra dân số và nhà ở của Cục Thống kê Hưng Yên
năm 2009 thì lao động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản là 420.852 người và
lao động trong công nghiệp, xây dựng là 130.882 người. Song, tốc độ tăng
trưởng GDP của nông, lâm, thủy sản năm 2009 là 3,5%, GDP trong công
nghiệp là 23%, tốc độ tăng trong công nghiệp nhanh hơn nông, lâm, thủy sản
là 19,5%. Một thực tế, số lao động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản chiếm
phần lớn nhưng sản phẩm xã hội lại thấp. Vì vậy, chúng ta phải nhanh chóng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực giảm dần ở nhóm ngành nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, tăng nhanh nhóm ngành công nghiệp, xây dựng
và dịch vụ. Đại hội Đảng bộ Hưng Yên lần thứ XVII xác định: “Nông nghiệp
phát triển toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển nhanh cây, con
có giá trị kinh tế cao” [25, tr.14].
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf

More Related Content

Similar to Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf

LV: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hội
LV: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hộiLV: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hội
LV: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hộiDịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM - TẢI ...
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM - TẢI ...PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM - TẢI ...
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM - TẢI ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Luận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lựcLuận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Luận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lựcLuan van Viet
 
Tailieu.vncty.com thuc trang-nguon_nhan_luc_co_trinh_do_cao_o_dong_bang_son...
Tailieu.vncty.com   thuc trang-nguon_nhan_luc_co_trinh_do_cao_o_dong_bang_son...Tailieu.vncty.com   thuc trang-nguon_nhan_luc_co_trinh_do_cao_o_dong_bang_son...
Tailieu.vncty.com thuc trang-nguon_nhan_luc_co_trinh_do_cao_o_dong_bang_son...Trần Đức Anh
 
ĐẢNG LÃNH ĐẠO GIAI CẤP NÔNG DÂN THỰC HIỆN THÀNH CÔNG NHIỆM VỤ CÔNG NGHIỆP HÓ...
 ĐẢNG LÃNH ĐẠO GIAI CẤP NÔNG DÂN THỰC HIỆN THÀNH CÔNG NHIỆM VỤ CÔNG NGHIỆP HÓ... ĐẢNG LÃNH ĐẠO GIAI CẤP NÔNG DÂN THỰC HIỆN THÀNH CÔNG NHIỆM VỤ CÔNG NGHIỆP HÓ...
ĐẢNG LÃNH ĐẠO GIAI CẤP NÔNG DÂN THỰC HIỆN THÀNH CÔNG NHIỆM VỤ CÔNG NGHIỆP HÓ...Đinh Công Lượng
 
Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực tại UBND Huyện Kon Rẫy, Tỉnh Kon Tum.doc
Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực tại UBND Huyện Kon Rẫy, Tỉnh Kon Tum.docLuận Văn Phát triển nguồn nhân lực tại UBND Huyện Kon Rẫy, Tỉnh Kon Tum.doc
Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực tại UBND Huyện Kon Rẫy, Tỉnh Kon Tum.docsividocz
 
Luận Văn Quan điểm triết học Mác - Lê Nin về con người và sự vân dụng của Đản...
Luận Văn Quan điểm triết học Mác - Lê Nin về con người và sự vân dụng của Đản...Luận Văn Quan điểm triết học Mác - Lê Nin về con người và sự vân dụng của Đản...
Luận Văn Quan điểm triết học Mác - Lê Nin về con người và sự vân dụng của Đản...sividocz
 
Luận Văn Quan điểm triết học Mác Lê Nin về con người và sự vân dụng của Đảng ...
Luận Văn Quan điểm triết học Mác Lê Nin về con người và sự vân dụng của Đảng ...Luận Văn Quan điểm triết học Mác Lê Nin về con người và sự vân dụng của Đảng ...
Luận Văn Quan điểm triết học Mác Lê Nin về con người và sự vân dụng của Đảng ...sividocz
 
Những nhận thức chung về nguồn nhân lực
Những nhận thức chung về nguồn nhân lựcNhững nhận thức chung về nguồn nhân lực
Những nhận thức chung về nguồn nhân lựcdohaiyen0907
 

Similar to Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf (20)

LV: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hội
LV: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hộiLV: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hội
LV: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hội
 
Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực cho ngành in ở Tp Hà Nội
Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực cho ngành in ở Tp Hà NộiLuận văn: Phát triển nguồn nhân lực cho ngành in ở Tp Hà Nội
Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực cho ngành in ở Tp Hà Nội
 
Luận văn: Quản lý nguồn nhân lực trong các KCN tỉnh Vĩnh Phúc
Luận văn: Quản lý nguồn nhân lực trong các KCN tỉnh Vĩnh PhúcLuận văn: Quản lý nguồn nhân lực trong các KCN tỉnh Vĩnh Phúc
Luận văn: Quản lý nguồn nhân lực trong các KCN tỉnh Vĩnh Phúc
 
Luận án: Phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế ở Lào
Luận án: Phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế ở LàoLuận án: Phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế ở Lào
Luận án: Phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế ở Lào
 
Luận án: Phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên hiện nay, HAY
Luận án: Phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên hiện nay, HAYLuận án: Phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên hiện nay, HAY
Luận án: Phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên hiện nay, HAY
 
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM - TẢI ...
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM - TẢI ...PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM - TẢI ...
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM - TẢI ...
 
Luận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Luận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lựcLuận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Luận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
 
Tailieu.vncty.com thuc trang-nguon_nhan_luc_co_trinh_do_cao_o_dong_bang_son...
Tailieu.vncty.com   thuc trang-nguon_nhan_luc_co_trinh_do_cao_o_dong_bang_son...Tailieu.vncty.com   thuc trang-nguon_nhan_luc_co_trinh_do_cao_o_dong_bang_son...
Tailieu.vncty.com thuc trang-nguon_nhan_luc_co_trinh_do_cao_o_dong_bang_son...
 
Luận văn: Nguồn nhân lực trong CNH, HĐH ở Hà Giang, HAY
Luận văn: Nguồn nhân lực trong CNH, HĐH ở Hà Giang, HAYLuận văn: Nguồn nhân lực trong CNH, HĐH ở Hà Giang, HAY
Luận văn: Nguồn nhân lực trong CNH, HĐH ở Hà Giang, HAY
 
ĐẢNG LÃNH ĐẠO GIAI CẤP NÔNG DÂN THỰC HIỆN THÀNH CÔNG NHIỆM VỤ CÔNG NGHIỆP HÓ...
 ĐẢNG LÃNH ĐẠO GIAI CẤP NÔNG DÂN THỰC HIỆN THÀNH CÔNG NHIỆM VỤ CÔNG NGHIỆP HÓ... ĐẢNG LÃNH ĐẠO GIAI CẤP NÔNG DÂN THỰC HIỆN THÀNH CÔNG NHIỆM VỤ CÔNG NGHIỆP HÓ...
ĐẢNG LÃNH ĐẠO GIAI CẤP NÔNG DÂN THỰC HIỆN THÀNH CÔNG NHIỆM VỤ CÔNG NGHIỆP HÓ...
 
Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực tại UBND Huyện Kon Rẫy, Tỉnh Kon Tum.doc
Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực tại UBND Huyện Kon Rẫy, Tỉnh Kon Tum.docLuận Văn Phát triển nguồn nhân lực tại UBND Huyện Kon Rẫy, Tỉnh Kon Tum.doc
Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực tại UBND Huyện Kon Rẫy, Tỉnh Kon Tum.doc
 
Luận Văn Quan điểm triết học Mác - Lê Nin về con người và sự vân dụng của Đản...
Luận Văn Quan điểm triết học Mác - Lê Nin về con người và sự vân dụng của Đản...Luận Văn Quan điểm triết học Mác - Lê Nin về con người và sự vân dụng của Đản...
Luận Văn Quan điểm triết học Mác - Lê Nin về con người và sự vân dụng của Đản...
 
Luận Văn Quan điểm triết học Mác Lê Nin về con người và sự vân dụng của Đảng ...
Luận Văn Quan điểm triết học Mác Lê Nin về con người và sự vân dụng của Đảng ...Luận Văn Quan điểm triết học Mác Lê Nin về con người và sự vân dụng của Đảng ...
Luận Văn Quan điểm triết học Mác Lê Nin về con người và sự vân dụng của Đảng ...
 
Luận văn: Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Luận văn: Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hộiLuận văn: Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Luận văn: Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
 
Luận văn: Nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế ở Đồng Nai, HOT
Luận văn: Nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế ở Đồng Nai, HOTLuận văn: Nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế ở Đồng Nai, HOT
Luận văn: Nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế ở Đồng Nai, HOT
 
Những nhận thức chung về nguồn nhân lực
Những nhận thức chung về nguồn nhân lựcNhững nhận thức chung về nguồn nhân lực
Những nhận thức chung về nguồn nhân lực
 
Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề truyền thống ở quận Hà Đông
Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề truyền thống ở quận Hà Đông Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề truyền thống ở quận Hà Đông
Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề truyền thống ở quận Hà Đông
 
Đề tài: Phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề quận Hà Đông
Đề tài: Phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề quận Hà ĐôngĐề tài: Phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề quận Hà Đông
Đề tài: Phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề quận Hà Đông
 
Phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội
Phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề truyền thống ở Hà NộiPhát triển nguồn nhân lực cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội
Phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề truyền thống ở Hà Nội
 
Luận án: Giáo dục giá trị văn hóa tinh thần cho sinh viên Việt Nam
Luận án: Giáo dục giá trị văn hóa tinh thần cho sinh viên Việt NamLuận án: Giáo dục giá trị văn hóa tinh thần cho sinh viên Việt Nam
Luận án: Giáo dục giá trị văn hóa tinh thần cho sinh viên Việt Nam
 

More from NuioKila

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfNuioKila
 
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...NuioKila
 
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...NuioKila
 
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...NuioKila
 
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...NuioKila
 
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNuioKila
 
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfKẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfNuioKila
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfNuioKila
 
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfQUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfNuioKila
 
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NuioKila
 
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...NuioKila
 
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...NuioKila
 
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...NuioKila
 
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...NuioKila
 
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfAn evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfNuioKila
 
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...NuioKila
 
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdfNuioKila
 
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfPhân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfNuioKila
 
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNgói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNuioKila
 
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...NuioKila
 

More from NuioKila (20)

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
 
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
 
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
 
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
 
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
 
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
 
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfKẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
 
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfQUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
 
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
 
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
 
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
 
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
 
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
 
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfAn evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
 
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
 
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
 
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfPhân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
 
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNgói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
 
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
 

Recently uploaded

Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay.pdf

  • 1. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời đại ngày nay, con người được coi là nguồn lực của mọi nguồn lực. Vì vậy, việc phát triển nguồn nhân lực đã trở thành vị trí trung tâm nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Kinh nghệm ở một số nước cho thấy muốn phát triển kinh tế nhanh và bền vững thì tất yếu phải phát triển nguồn nhân lực - nhân tố con người. Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới từ năm 1986 đã mở ra một trang sử mới cho dân tộc. Nhưng khi Việt Nam đi lên xây dựng CNXH trong điều kiện 80% lao động làm nghề nông nghiệp nên đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người dân gặp rất nhiều khó khăn. Để thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, ai cũng có cơm ăn, ai cũng có áo mặc, ai cũng được học hành và sánh vai với các cường quốc năm châu như tâm niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì việc làm đầu tiên và trước nhất là chúng ta phải tiến hành CNH, HĐH đất nước mà trọng tâm đối với nông dân, nông nghiệp và nông thôn là CNH, HĐH NN, NT. Nhận thức được tầm quan trọng của CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo đến phát triển nguồn nhân lực, coi đây là động lực là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới. Như Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Đến Đại hội IX của Đảng cũng đã chỉ rõ: “Phát triển nguồn lực con người Việt Nam với yêu cầu ngày càng cao nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH”. Hưng Yên là một tỉnh nằm ở Đồng bằng sông Hồng với diện tích không rộng, dân không đông nhưng dân số chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp, trình độ người lao động chưa cao. Một thách thức lớn trong khu vực này là diện tích đất nông nghiệp đang bị thu hẹp, tình trạng thất nghiệp, thiếu
  • 2. 2 việc làm của người lao động có xu hướng gia tăng. Điều đó trong giới hạn nhất định sẽ ảnh hưởng đến tiến trình CNH, HĐH NN, NT của tỉnh. Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ Hưng Yên lần thứ XVII đã chỉ rõ: “Phát triển nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, gắn với xây dựng nông thôn mới” [25, tr.103]. Để thực hiện chủ trương trên, một trong những vấn đề quan trọng là phải phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đặc biệt là nguồn nhân lực - nhân tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, công nghiệp hóa NN, NT Hưng Yên nói riêng. Với lý do đó, chúng tôi chọn vấn đề “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học - chuyên ngành triết học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển lịch sử, do đó, vấn đề con người, nhân tố con người luôn luôn là đối tượng thu hút sự quan tâm của nhiều ngành khoa học. Thực tiễn ngày càng chứng minh, sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia phụ thuộc vào việc đầu tư, khai thác, phát huy có hiệu quả vai trò nhân tố con người. Từ những nghiên cứu chung về con người, các nhà khoa học Xô viết trước đây đã đi sâu nghiên cứu về nhân tố con người và phát huy vai trò của nhân tố con người. Đã có nhiều đề tài và công trình của các nhà khoa học Xô viết đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ giữa nhân tố con người với các nhân tố kinh tế, vật chất, kĩ thuật trong cấu trúc nền sản xuất xã hội. Công trình nghiên cứu của viện sĩ Giaxlapxkai về công bằng xã hội và nhân tố con người những năm 1986 - 1987 là một ví dụ tiêu biểu. Hội nghị khoa học giữa các nhà khoa học Xô viết và Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào năm 1988 đã tập trung trao đổi ý kiến và thảo luận xoay quanh chủ đề về nhân tố con người và phát triển kinh tế - xã hội.
  • 3. 3 Ở nước ta, các nhà khoa học đã có những hoạt động sôi nổi về nghiên cứu vấn đề con người. Đặc biệt là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VIII, các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu về vấn đề nguồn lực con người, nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều bài viết đã thể hiện quan điểm coi con người là nguồn tài nguyên vô giá, đã luận chứng cho sự cần thiết phải đầu tư vào việc phát triển hoặc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, lấy đó làm đòn bẩy để phát triển kinh tế, để CNH, HĐH đất nước. Những bài viết, những công trình khoa học đó được đăng trên các sách báo, tạp chí, đó là những bài viết về: "Xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa, tiếp tục thực hiện chiến lược xây dựng và phát triển nguồn lực con người Việt Nam" của nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu (đăng trên Tạp chí Phát triển giáo dục 4/1998); "Tài nguyên con người trong quá trình CNH, HĐH đất nước" của Nguyễn Quang Du (Tạp chí Thông tin lý luận, số 11/1994); "Nguồn nhân lực trong CNH, HĐH đất nước" của GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn (Tạp chí Triết học, số 2 - 1994); "Nguồn lực con người, nhân tố quyết định của quá trình CNH, HĐH" của Phạm Ngọc Anh (Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 2 - 1995); "Phát triển nguồn nhân lực của Thanh Hóa đến năm 2010 theo hướng CNH, HĐH" của TS Bùi Sĩ Lợi (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002); "Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và đẩy mạnh CNH, HĐH" của Nguyễn Đình Hòa (Tạp chí Triết học, số 1 - 2004); "Phát triển nguồn nhân lực kinh nghiệm thế giới và kinh nghiệm nước ta" (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996); "Vấn đề con người trong sự nghiệp CNH, HĐH" (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996); "Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực" (Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002)… Đặc biệt là công trình khoa học cấp Nhà nước KX-05: "Nghiên cứu văn hóa, con người, nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI" (2001 - 2005). Đề tài này có những công trình đáng chú ý như: "Ảnh hưởng của tiến bộ khoa học, kĩ thuật và công nghệ đến việc nghiên cứu và phát triển con người và nguồn nhân lực những năm đầu thế kỷ XXI" của PGS.
  • 4. 4 TSKH. Lương Việt Hải; "Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đầu thế kỷ XXI" của TS. Nguyễn Hữu Dũng; "Một số những thay đổi của quản lý nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế trong cơ chế thị trường" của TS. Vũ Hoàng Ngân… Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực trong CNH, HĐH ở nước ta. Hầu hết các đề tài đã tập trung nghiên cứu các phương diện khác nhau của sự phát triển con người Việt Nam và đề xuất những giải pháp để phát huy nguồn lực con người, từ GD - ĐT đến giải quyết việc làm, đổi mới cơ chế, chính sách nhằm phát huy nhân tố con người, phát triển nguồn nhân lực ở nước ta. Ngoài những công trình đó còn rất nhiều tác giả với những công trình nghiên cứu khác đã đề cập đến vấn đề nguồn nhân lực cho CNH, HĐH ở nước ta bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau. Song, những công trình đi sâu, phân tích nguồn nhân lực cho CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên chưa được đề cập nhiều, đặc biệt là phân tích những điều kiện khả năng trong việc thực hiện nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Hưng Yên. Qua luận văn này, chúng tôi hi vọng đóng góp một cố gắng nhỏ bé, bước đầu của mình vào sự nghiên cứu, phát triển con người và nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên, cũng như cả nước. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận về phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT luận văn đã phân tích thực trạng của nguồn nhân lực Hưng Yên hiện nay để đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH NN, NT ở tỉnh Hưng Yên. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Làm rõ nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực và vai trò của nó trong CNH, HĐH NN, NT.
  • 5. 5 Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực; đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực cho thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về nguồn nhân lực của Hưng Yên cả về số lượng lẫn chất lượng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, các quan điểm khoa học về nguồn nhân lực. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật, luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và lô gíc, quy nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá. 6. Đóng góp của luận văn Làm rõ thực trạng nguồn nhân lực Hưng Yên trong thời kì CNH, HĐH NN, NT hiện nay. Làm rõ một số khía cạnh chủ yếu trong xu hướng biến đổi của nguồn nhân lực trong thời kì CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên. Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên. Góp phần nâng cao nhận thức về việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho CNH, HĐH NN, NT ở Hưng Yên.
  • 6. 6 Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy và học tập ở các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, các trung tâm đào tạo, đồng thời làm tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý cấp tỉnh, cấp huyện. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 10 tiết: Chương 1: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta và yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực. Chương 2: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Hưng Yên hiện nay. Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hưng Yên.
  • 7. 7 Chương 1 CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA VÀ YÊU CẦU VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC 1.1. Bản chất và nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam 1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam bước vào công cuộc xây dựng CNXH trong điều kiện 80% - 90% lao động sống trong ngành nông nghiệp, hơn nữa đất nước lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề. Do chiến tranh mà nhiều diện tích đất không thể canh tác được, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Để thực hiện được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra trong thời kì quá độ là “Dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” thì chúng ta không còn con đường nào khác là phải đẩy mạnh CNH, HĐH, có như thế mới có thể đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, kém phát triển, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Sự nghiệp công nghiệp hoá được Đảng ta đặt ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (năm 1960). Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và VIII, Đảng ta nhấn mạnh thêm nội dung hiện đại hóa. Sau hơn 20 năm đổi mới, sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta đã bước vào giai đoạn phát triển mới - đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đây là tiếp nối đường lối và chiến lược CNH, HĐH được xác định trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kì quá độ lên CNXH năm 1991 của Đảng. Tuy vậy, trong những năm đầu thế kỉ XXI, CNH, HĐH nước ta trước hết và chủ yếu là CNH, HĐH NN, NT. CNH, HĐH NN, NT là vấn đề rộng và không hề đơn giản, vì thế cho đến nay vẫn còn những quan niệm ít nhiều chưa thống nhất.
  • 8. 8 * Một số nhà nghiên cứu cho rằng: CNH, HĐH NN, NT là vấn đề khoa học gồm 4 nội dung khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là: Công nghiệp hóa nông nghiệp; công nghiệp hóa nông thôn; hiện đại hóa nông nghiệp; hiện đại hóa nông thôn. Công nghiệp hóa nông nghiệp, theo tác giả Chu Hữu Quýnh và Nguyễn Kế Tuấn là: “quá trình chuyển biến từ nền nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, lạc hậu, phân tán sang nền nông nghiệp sản xuất lớn với trình độ chuyên canh và thâm canh cao, tiến hành sản xuất và quản lý sản xuất - kinh doanh với trình độ trang bị công nghiệp và công nghệ tiên tiến, áp dụng rộng rãi thủy lợi hóa, cơ khí hóa, hóa học hóa, sinh học hóa cao hơn và bước đầu áp dụng cả tin học hóa, tự động hóa” [75, tr.26]. Với quan điểm của hai tác giả trên, sau khi đã phân tích đánh giá về tiến trình thực hiện con đường CNH, HĐH NN, NT, Đảng ta đã đưa ra quan điểm như sau: * Quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Trong văn kiện Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kì khóa VII (01/1994), Đảng ta đã xác định: Từ nay đến cuối thập kỉ, phải rất quan tâm đến CNH, HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy, hải sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Có thể nói, đây là lần đầu tiên trong văn kiện của Đảng đã đưa ra phạm trù CNH, HĐH NN, NT và kinh tế nông thôn. Đại hội lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) đã cụ thể hóa thêm những quan điểm, chủ chương CNH, HĐH ở nước ta. Văn kiện lần thứ VIII đã khẳng định: “Đặc biệt coi trọng CNH, HĐH NN, NT và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu” [31, tr.86].
  • 9. 9 Đại hội IX của Đảng (tháng 4 - năm 2001) đã cụ thể hóa, bổ sung và phát triển những quan điểm, đường lối về CNH, HĐH NN, NT. Để tiếp tục hoàn thiện đường lối CNH, HĐH NN, NT, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã ban hành nghị quyết về đẩy mạnh CNH, HĐH NN, NT thời kì 2001 - 2010. Nghị quyết đã nêu lên những nội dung tổng quát, quan điểm, mục tiêu phát triển, những chủ trương và giải pháp lớn để đẩy nhanh CNH, HĐH NN, NT. Đó là “phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho CNH, HĐH NN, NT. Vấn đề nữa là ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực con người, ứng dụng rộng rãi thành tựu KH, CN, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường để sản xuất quy mô lớn, chất lượng và hiệu quả cao, bảo vệ môi trường, phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai, phát triển NN, NT bền vững. Mặt khác, dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc; phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ sản xuất hàng hóa, các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Cần kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế - xã hội trong quá trình CNH, HĐH NN, NT nhằm giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của người dân nông thôn, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa và thuần phong mỹ tục. Kết hợp chặt chẽ CNH, HĐH NN, NT với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của các ngành, các địa phương. Đầu tư phát tư phát triển kinh tế - xã hội, ổn định dân cư các vùng xung yếu, vùng biên giới, cửa khẩu, hải đảo, phù hợp với chiến lược quốc phòng và chiến lược an ninh quốc gia” [34].
  • 10. 10 Những quan điểm trên của Đảng ta đã mang tính chiến lược và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể đất nước, không những thế, nó còn đảm bảo cho kinh tế NN, NT phát triển bền vững mà còn đảm bảo cho sự phát triển hài hòa giữa công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa kinh tế và xã hội, an ninh, quốc phòng, môi trường, tăng cường khối liên minh công - nông - trí thức, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đảm bảo cho kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.1.2. Tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới vấn đề CNH, HĐH NN, NT. Người cho đó là con đường chúng ta phải đi để xây dựng đất nước giàu mạnh. Vận dụng sáng tạo tư tưởng đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã từng bước thực hiện thành công sự nghiệp vĩ đại này. Trong bài “Con đường phía trước” với bút danh C.K đăng trên báo Nhân dân số 2143 ngày 20/1/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước ta vốn là nước nông nghiệp lạc hậu, đó là chỗ bắt đầu đi của chúng ta… Đời sống nhân chỉ có thể dồi dào khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp và nông nghiệp, máy sẽ chắp thêm tay cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm việc phi thường… đó là con đường phải đi của chúng ta”. Phát biểu tại Đại hội Công đoàn tỉnh Thanh Hóa lần thứ sáu ngày 19/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định vai trò, tầm quan trọng của nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa đất nước: “Nước ta là một nước nông nghiệp,… muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy nông nghiệp làm gốc. Nếu không phát triển nông nghiệp thì không có cơ sở phát triển công nghiệp vì nông nghiệp cung cấp nguyên liệu, lương thực cho công nghiệp và tiêu thụ hàng hóa của công nghiệp làm ra”.
  • 11. 11 Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh về CNH, HĐH NN, NT, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo vào thực tiễn và đã đạt được nhiều thành tựu. Ngay từ Đại hội III (9/1960), Đảng ta đã quyết tâm: “Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại kết hợp với nông nghiệp, lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp và nông nghiệp hiện đại”. Đến Đại hội VIII, Đảng ta lại tiếp tục khẳng định: “Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Đảm bảo an toàn lương thực quốc gia trong mọi tình huống” [31, tr.34]. Đảng ta đã căn cứ vào điều kiện và tình hình đất nước xuất phát từ nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, sản xuất nhỏ, lạc hậu đang ở trình độ thấp, đó là cơ sở vật chất kĩ thuật lạc hậu, lao động đại bộ phận tập trung trong nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính tự cấp tự túc và thu nhập của nông dân thấp, đời sống mọi mặt của nông dân còn hết sức khó khăn. Trong khi đó đến nay nhiều nước trên thế giới đã có nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao, mọi hoạt động sản xuất nông nghiệp được cơ giới hóa, hiện đại hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa. Nhờ đó ruộng đất phì nhiêu, năng suất lao động đạt rất cao, phân công lao động sâu sắc trong nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, do yêu cầu về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhu cầu về nâng cao đời sống con người nên lương thực và thực phẩm càng tăng lên cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Như vậy, chỉ có nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao mới hy vọng đáp ứng được nhu cầu đó. Xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh việc thực hiện CNH, HĐH NN, NT để chúng ta tận dụng vốn, KH, CN, kinh nghiệm của thế giới vào quản lý đất nước nhằm khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế.
  • 12. 12 Do vậy, đối với Việt Nam một đất nước chậm phát triển, để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đất nước thì ta phải đặc biệt coi trọng CNH, HĐH NN, NT. Hơn nữa CNH, HĐH NN, NT còn là khâu đột phá quan trọng nhằm giải phóng sức lao động của giai cấp nông dân, tạo điều kiện khai thác tốt tiềm năng dồi dào về đất và lao động. Với nguồn lao động dồi dào, đây là một lợi thế tương đối quan trọng để tiến hành CNH, HĐH ở nông thôn. Ngược lại, khi quá trình đó diễn ra nó lại giải phóng sức lao động ở nông thôn, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Quan trọng hơn là nước ta có nguồn tài nguyên về đất đai vô cùng phong phú, trước đây mới chỉ khai thác bằng những kĩ thuật thô sơ lạc hậu. Vì vậy thực hiện CNH, HĐH NN, NT là bước đi tất yếu của Đảng và Nhà nước ta trong thời kì quá độ lên CNXH, nó phù hợp với xu thế khách quan của thế giới và điều kiện đất nước. 1.1.3. Những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Trong Văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã nêu: “Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình thành tập trung các vùng chuyên canh bảo đảm an toàn về lương thực quốc gia, tạo ra nông sản hàng hóa phù hợp với nhu cầu thị trường. Phát triển các làng nghề truyền thống và làng nghề mới và thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, ứng dụng thành tựu sinh học, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn mới văn minh và hiện đại” [31, tr.87-88]. Tháng 11/1998, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 06/NQ-TW về một số vấn đề phát triển NN, NT đã khẳng định: Đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kì quan trọng cả trước mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định chính trị, kinh tế, xã hội, củng cố liên minh giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
  • 13. 13 Sau 5 năm thực hiện, nội dung CNH, HĐH NN, NT đã được cụ thể hóa từng bước. Văn kiện Đại hội IX của Đảng nêu rõ: “Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiêp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng KH, CN, nhất là công nghệ sinh học; đẩy mạnh thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa; quy hoạch sử dụng đất hợp lý; đổi mới cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hóa. Đầu tư hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệ và dịc vụ, tạo nhiều việc làm mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư nông thôn” [33, tr.92-93]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Banh Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã xác định nội dung CNH, HĐH nông thôn. Về nội dung CNH, HĐH NN, NT, Nghị quyết chỉ rõ: “CNH, HĐH NN, NT là quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, thực hiện cơ khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng thành tựu KH, CN, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị kĩ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường” [34]. Nội dung tổng quát của CNH, HĐH NN, NT, là “quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỉ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỉ trọng sản phẩm nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ở nông thôn” [34]. Đến Đại hội lần thứ X, Đảng ta chỉ rõ: “Đẩy mạnh CNH, HĐH NN, NT, giải quyết đồng bộ các vấn đề NN, NT và nông dân. Chuyển dịch cơ cấu
  • 14. 14 nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường: thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ KH, CN và công nghệ sinh học vào năng suất lao động, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương. Tăng nhanh giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỉ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp. Sớm khắc phục tình trạng manh mún về đất canh tác của các hộ nông dân, khuyến khích việc dồn điền đổi thửa, cho thuê, góp vốn cổ phần bằng đất; phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm có trị trường và hiệu quả kinh tế cao. Thực hiện tốt chương trình bảo vệ và phát triển rừng; đổi mới chính sách giao đất, giao rừng, bảo đảm cho người làm nghề rừng có cuộc sống ổn định và được cải thiện. Phát triển rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến lâm sản có công nghệ hiện đại. Phát triển đồng bộ và có hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Coi trọng khâu sản xuất và cung cấp giống tốt, bảo vệ môi trường, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu. Tăng cường các hoạt động khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư, công tác thú y bảo vệ thực vật và các dịch vụ kĩ thuật khác ở nông thôn. Chuyển giao nhanh và ứng dụng KH, CN, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp; chú trọng các khâu giống, kĩ thuật canh tác, nuôi trồng, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến. Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh. Hình thành các khu dân cư, đô thị hóa với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ như: thủy lợi, giao thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện,
  • 15. 15 chợ. Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín, dị đoan; đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội. Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các vùng sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao thông, các khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỉ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm và ngoài khu vực nông thôn kể cả nước ngoài. Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số” [35, tr.88-90]. Đến Đại hội lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát triển nông nghiệp toàn diện, hiệu quả, bền vững theo hướng CNH, HĐH, phát huy ưu thế của nền nông nghiệp nhiệt đới gắn với giải quyết tốt các vấn đề nông dân, nông thôn. Khuyến khích tập trung ruộng đất, áp dụng tiến bộ KH, CN, phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, mở rộng xuất khẩu. Xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, giàu đẹp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân” [36, tr.38]. Từ những nội dung chủ yếu mà Đảng ta đã nêu trong các văn kiện của Đại hội, ta có thể khái quát thành các nội dung sau: * Đẩy mạnh phát triển hàng hóa trong NN, NT, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh doanh theo cơ chế kinh tế thị trường, từ đó thúc đẩy quá trình biến đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh của từng vùng, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản nhằm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế nông thôn, cơ cấu lao động, quy mô và cơ cấu thu nhập. * Thực hiện phân công mới lao động xã hội trong NN, NT trên cơ sở phát triển các ngành nghề, nghề tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề truyền
  • 16. 16 thống và dịch vụ theo phương trâm “rời đồng, không rời làng” (ly nông, bất ly hương) và “tiểu công nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo”, từng bước xác lập cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ trên địa bàn nông thôn, thúc đẩy phát triển nông nghiệp sinh thái và tạo nên bộ mặt nông thôn mới theo diện mạo của công nghiệp và đô thị. * Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ KH, CN và khoa học quản lý trong sản xuất, kinh doanh, đẩy nhanh tiến độ thuỷ lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa, tự động hóa, tin học hoá và ứng dụng những thành tựu hiện đại của công nghệ sinh học, thay đổi căn bản phương thức quản lý sản xuất, kinh doanh ở nông thôn theo hướng lấy cơ cấu quy mô, nhu cầu thị trường làm căn cứ quyết định cơ cấu quy mô sản xuất và đổi mới cơ cấu sản phẩm nhằm kết hợp tốt sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ngay từ trong sản xuất, kinh doanh. * Nâng cao chất lượng nhân lực, kể cả nhân lực quản lý và đặc biệt là người lao động sản xuất nông nghiệp có trình độ cao. * Từng bước hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông nghiệp và nông thôn, nâng cao trình độ văn minh của xã hội nông thôn, chuyển mạnh lối sống ở nông thôn sang lối sống công nghiệp. Đây là những điểm căn bản nói nên nội dung của CNH, HĐH NN, NT. Vậy để thực hiện thành công đường lối này Đảng và Nhà nước ta coi trọng sự nghiệp GD - ĐT là quốc sách hàng đầu nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trình độ, có tay nghề đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH NN, NT ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 1.2. Những yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam a. Nguồn nhân lực Có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề nguồn nhân lực. Trước hết, các nhà khoa học, chính trị, xã hội… tập trung nghiên cứu vấn đề con người. Bàn về vấn đề này cũng có không ít quan điểm khác nhau, các nhà triết học trước Mác lại giải thích con người một cách phiến diện, họ chỉ coi con người tồn tại
  • 17. 17 dưới dạng là một thực thể sinh học hay xã hội, họ chưa lý giải được một khái niệm hoàn chỉnh về con người. Chỉ đến khi C.Mác và Ph. Ăngghen tập trung nghiên cứu về con người, hai ông mới đưa ra được định nghĩa khoa học và đầy đủ hơn về khái niệm con người. Các ông đã nhìn nhận con người trên cả hai lĩnh vực sinh học và xã hội. Các ông cho rằng, giữa mặt sinh học và mặt xã hội của con người có mối quan hệ mật thiết với nhau trong đó mặt xã hội sẽ giữ vai trò chi phối. C.Mác cho rằng: “Bản chất con người không phải là cái gì trừu tượng, cố hữu của một cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” [53, tr.11]. Với quan niệm đúng đắn về bản chất con người thì con người là chủ thể của tự nhiên và xã hội, thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người đã dùng sức lao động tác động vào giới tự nhiên tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu bản thân và xã hội. Như vậy, con người đã tạo ra lịch sử, con người phát triển tư chất, năng khiếu, tài năng, phẩm chất, ý chí đó là điều kiện để mỗi cá nhân trở thành chủ thể của hoạt động sáng tạo, xây dựng thế giới mới. Họ là người sản xuất trực tiếp, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất, văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia. Tóm lại, chủ nghĩa Mác quan niệm con người vừa là động lực vừa là mục đích cuối cùng của sự phát triển. Việt Nam luôn tự hào là dân tộc có hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Ngay trong kế sách đánh giặc của ông cha ta cũng đã phát huy được nhân tố con người. Nguyễn Trãi đã từng đưa ra quan điểm “chở thuyền cũng là dân và lật thuyền cũng là dân”. Lịch sử cũng đã đúc kết lại “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Hồ Chí Minh là người thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác và đã có những lý giải rất sâu sắc về vấn đề con người. Ông khẳng định trong sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng dân tộc, không tách rời nhau về mặt mục đích đem lại tự do, hạnh phúc cho con người. Nhân tố quyết định cho sự nghiệp giải phóng con người không phải là ai khác mà chính là con người,
  • 18. 18 quần chúng nhân dân, là lực lượng quý nhất, vĩ đại nhất, bởi vì “Vô luận việc gì cũng do con người làm ra từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều như thế cả” [60, tr.113]. Hồ Chí minh luôn coi việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát triển con người, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội, là nhân tố quyết định thành công của cách mạng. Do đó, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến “sự nghiệp trồng người”, “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm trồng người”. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ khi mới ra đời, tư tưởng giải phóng dân tộc của Đảng ta luôn gắn liền, hòa quyện với tư tưởng giải phóng con người. Thời kì đó, vấn đề con người được Đảng ta quan tâm trước hết là vấn đề giải phóng con người khỏi ách nô lệ. Ngày nay, trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước vấn đề con người được Đảng ta coi là động lực quan trọng nhất không thể thiếu được. Bởi vậy, trong những năm qua việc GD - ĐT con người nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài được Đảng ta coi là quốc sách hàng đầu. Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tư khóa VII đã khẳng định: “Sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong việc xếp hạng các nước trên thế giới” [29, tr.6]. Nên vấn đề con người không phải đến ngày nay ta mới chú ý mà là vấn đề xuyên suốt cả quá trình lịch sử. Trong bất kì giai đoạn nào, vấn đề con người cũng được quan tâm vì con người là động lực là mục đích cuối cùng của sự phát triển kinh tế - xã hội. Để con người trở thành động lực và mục đích cuối cùng của sự phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta cần phát triển được nguồn lực con. Nhưng, trong điều kiện đặc thù của Việt Nam hiện nay, chúng ta cần quan tâm nhiều hơn đến phát triển nguồn nhân lực cho NN, NT. * Khái niệm nguồn nhân lực Có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về nguồn nhân lực. Do cách tiếp cận khác nhau, nên có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực.
  • 19. 19 Theo thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội thì: “Nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời kì xác định của một quốc gia, suy rộng ra có thể được xác định trên một địa phương, một ngành hay một vùng. Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội” [5, tr.13]. Theo khái niệm này, nguồn nhân lực được xác định cả trên phương diện về số lượng và chất lượng của một bộ phận dân số tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào quá trình sản xuất của một quốc gia, một địa phương, một ngành hay một vùng trong một giai đoạn nhất định. Theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam thì nguồn nhân lực có thể được hiểu là: Theo nghĩa rộng, “Nguồn nhân lực (Human Rersources) là tổng thể các tiềm năng (lao động) của con người, của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương đã được chuẩn bị ở mức độ nào đó khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hoặc một vùng, một địa phương cụ thể” [84, tr.22]. Với cách tiếp cận này, ta có thể hiểu để phát triển kinh tế - xã hội thì phải cần đến tất cả các nguồn lực khác nhau như: nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực trí tuệ, khoa học và nguồn nhân lực được xem là một bộ phận cấu thành nguồn lực của quốc gia. Trong các nguồn lực trên thì nguồn nhân lực có vai trò quan trọng nhất, nó đứng ở vị trí trung tâm để khai thác các nguồn lực khác. Nếu không có nguồn nhân lực thì các nguồn lực khác chỉ ở dạng tiềm năng. Do đó, nguồn lực con người được coi là thứ tài nguyên quý giá nhất, một nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực. Vì vậy, thực chất chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là chiến lược phát triển con người và vì con người. Theo nghĩa hẹp, “Nguồn nhân lực là toàn bộ lực lượng lao động trong nền kinh tế quốc dân (hay còn gọi là số dân hoạt động kinh tế) nghĩa là bao
  • 20. 20 gồm những người trong một độ tuổi nhất định nào đó, có khả năng lao động, thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp” [84, tr.24]. Với khái niệm trên (theo nghĩa rộng) và căn cứ ở Việt Nam thì lực lượng lao động ở Việt Nam bao gồm: những người trong độ tuổi lao động, đang có việc làm; những người ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn có khả năng lao động và cả những người thất nghiệp; còn ở khái niệm này (theo nghĩa hẹp) không tính đến những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động mà đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu làm việc. Theo Bộ luật Lao động nước ta quy định, nguồn nhân lực theo nghĩa hẹp là độ tuổi lao động là từ 15 tuổi đến 60 đối với nam, và từ 15 tuổi đến 55 đối với nữ. Qua các khái niệm trên ta có thể hiểu nguồn nhân lực là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, phẩm chất đạo đức, trình độ tri thức, vị thế xã hội… tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Khi chúng ta có thể nói tới nguồn lực con người là ta nói tới tư cách là chủ thể hoạt động sáng tạo tham gia vào tất cả các hoạt động làm cải biến tự nhiên, xã hội và chính cả chính bản thân mình. b. Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn * Khái niệm phát triển nguồn nhân lực Từ quan điểm coi con người là trung tâm của phát triển kinh tế - xã hội, phát triển nguồn nhân lực là quá trình gia tăng về kiến thức, kĩ năng và năng lực của mọi người trong xã hội. Phát triển nguồn ngân lực được hiểu là “cả một quá trình quan trọng mà qua đó có sự lớn mạnh của cá nhân hay tổ chức có thể đạt được những tiềm năng đầy đủ nhất của họ theo thời gian” [69, tr.23-26]. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến sự phát triển nguồn nhân lực, tạo đội ngũ nhân lực có chất lượng, có trình độ cao, có khả năng nắm bắt KH, CN mới và ứng dụng vào sản xuất. Phát triển nguồn nhân
  • 21. 21 lực là một “quá trình biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của kinh tế - xã hội” [22, tr.13], đó là tổng thể các hình thức, phương pháp chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng cho nguồn nhân lực nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Với quan niệm coi con người là động lực và đồng thời là mục tiêu của sự phát triển thì phát triển nguồn nhân lực không chỉ có mục đích làm gia tăng về thu nhập của cải vật chất mà là mở rộng và nâng cao khả năng lựa chọn của con người đối với xung quanh; tạo cho họ cơ hội tiếp cận với điều kiện và môi trường sống tốt hơn, đồng thời qua đó tăng cường năng lực và tiềm năng của con người phù hợp với yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội. Quá trình phát triển nguồn nhân lực bao gồm phát triển cả về số lượng và chất lượng. - Phát triển nguồn nhân lực về số lượng: là sự gia tăng về số lượng và cơ cấu của đội ngũ nhân lực theo hướng phù hợp với môi trường và điều kiện hoạt động mới. Sự thay đổi về cơ cấu nhân lực của quốc gia diễn ra theo cơ cấu tuổi, cơ cấu khu vực phân bố và cơ cấu về giới. Phát triển nguồn nhân lực về chất lượng là khái niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc trưng về trạng thái, thể lực, ý chí, trí lực, kĩ năng, phong cách đạo đức, lối sống và tinh thần của nguồn nhân lực. Hay nói cách khác phát triển nguồn nhân lực về chất lượng là sự gia tăng mức sống, bản lĩnh, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kĩ thuật và sức khỏe của các thành viên trong xã hội hoặc trong tổ chức. Thước đo để so sánh sự phát triển nguồn nhân lực qua các thời kì phát triển của một quốc gia hoặc giữa các quốc gia với nhau là chỉ số phát triển con người do Liên hợp quốc sử dụng. Từ năm 1990, UNDP đã đưa ra chỉ số HDI để đo đạc những khía cạnh cơ bản của năng lực con người. HDI là một hệ tiêu chí có khoảng 100 chỉ số thể hiện chất lượng cuộc sống. Trong đó 3 chỉ số quan trọng nhất là: 1) chỉ số kinh tế (phản ánh sản phẩm xã hội bình quân đầu người - GDP/người); 2) năng lực sinh thể
  • 22. 22 (phản ánh qua chỉ số tuổi thọ bình quân của người dân) và 3) năng lực tinh thần (phản ánh qua chỉ số giáo dục, xác định bằng tỉ lệ người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học của các cấp giáo dục). Căn cứ vào chỉ tiêu của Liên hợp quốc, thì chất lượng nguồn nhân lực phải là nguồn lao động có chất lượng cao, có trình độ tay nghề, có lòng ham mê hăng say lao động, có ý thức trách nhiệm của người lao động. Trong Đề tài khoa học cấp nhà nước, Lương Việt Hải khẳng định: “Trong một thời đại cách mạng khoa học, kĩ thuật và công nghệ, thể lực là một điều kiện tất yếu và tối cần thiết, là điều kiện cần của mọi quá trình lao động, nhưng nó không còn là điều kiện đủ. Trí tuệ với năng lực tinh thần và những phẩm chất tâm lý đóng vai trò quyết định năng suất, hiệu quả và giá trị xã hội của lao động” [40, tr.380]. Vì vậy, trình độ học vấn, tay nghề của người lao động là quan trọng là quyết định; song cũng không thể thiếu được ý thức đạo đức và sức khỏe của người lao động. Có thể nói chất lượng nguồn nhân lực được kết hợp bởi 3 yếu tố: Thể lực, trí lực, và tâm lực. Thể lực là trạng thái sức khỏe của con người biểu hiện ở sự phát triển sinh học, không có bệnh tật, có đủ sức khỏe lao động trong lĩnh vực ngành nghề nào đó, có sức khỏe để học tập làm việc lâu dài… thể lực yếu sẽ hạn chế rất lớn đến sự phát triển trí lực của cá nhân và cộng đồng xã hội nói chung. Trí lực là năng lực trí tuệ, tinh thần, là trình độ phát triển trí tuệ, là trình độ đáp ứng đầy đủ về chuyên môn, kĩ thuật, là nghiệp vụ, tay nghề. Nó quyết định phần lớn khả năng sáng tạo của con người, nó càng có vai trò quyết định trong phát triển nguồn lực con người, đặc biệt trong thời đại ngày nay khi khoa học, kĩ thuật và công nghệ phát triển như vũ bão. Tâm lực bao gồm ý chí, nghị lực, tình cảm… đối với công việc. Làm việc gì cũng trọng mình, trọng người, cũng nghiêm túc với nó hay có hồn đối với việc làm, không thờ ơ, lãnh cảm. Tâm lực chịu tác động của nhiều yếu tố, nhưng cơ bản nhất vẫn là yếu tố nội tâm, yếu tố chủ quan. Nó được hình thành và tự giác của mỗi cá nhân, nó cũng có thể là sự phản ánh những chuẩn mực đạo đức xã hội, lý tưởng của đạo đức xã hội vươn tới, nhất là
  • 23. 23 trong hoạt động, lối sống, nếp sống hàng ngày. Lối sống đạo đức của con người là thể hiện tính cách, tâm lý sự giác ngộ, các giá trị văn hóa được kết tinh trong người lao động. Đạo đức gắn liền với năng lực tạo nên những giá trị cơ bản của chất lượng người lao động, từ phương diện cá nhân đến phương diện xã hội và biểu hiện ra ở ý thức lao động, thái độ lao động. Ngoài thể lực, trí lực, đạo đức lối sống, cái làm nên chất lượng nguồn nhân lực là kinh nghiệm sống, là nhu cầu thói quen vận dụng tri thức tổng hợp và kinh nghiệm của mình vào các hoạt động sáng tạo, tạo ra các giải pháp mới đối với công việc như một sáng tạo văn hóa. Xét theo ý nghĩa đó, chất lượng nguồn nhân lực bao gồm trong đó toàn bộ sự phong phú, sâu sắc các năng lực trí tuệ, năng lực thực hành, tổ chức và quản lý, tính tháo vát và sự uyển chuyển của những phản ứng của con người trước hoàn cảnh dựa trên một trình độ học vấn, kinh nghiệm, sự rộng mở các quan hệ xã hội, sự tiếp thu tinh tế các ảnh hưởng văn hóa truyền thống từ gia đình đến xã hội. Ở Việt Nam trong thời kì đổi mới, nguồn lực con người đã và đang được Đảng và Nhà nước ta quan tâm rất đúng mức nhằm phát huy sức mạnh tối đa của nguồn lực đặc biệt này, góp phần tạo nên nhiều thành tựu quan trọng, đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và chuyển sang thời kì mới - thời kì CNH, HĐH đất nước, một trong những trọng tâm là CNH, HĐH NN, NT. Mặc dù Việt Nam ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nhưng nhìn chung vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, năng suất lao động thấp, trình độ tay nghề của người lao động chưa cao chủ yếu lao động phổ thông là chính, sức khỏe của nhân dân chưa đảm bảo, đặc biệt nguồn nhân lực với tư cách là động lực của CNH, HĐH đất nước chưa đáp ứng được nhu cầu. Đây là một khó khăn rất lớn cho việc học hỏi, tiếp thu trình độ KH, CN và công nghệ tiên tiến. Tóm lại, khi bước vào sự nghiệp CNH, HĐH NN, NT ở nước ta nói chung và CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên nói riêng, chỉ số phát triển con
  • 24. 24 người chưa phù hợp với yêu cầu. Vì vậy, cần phải phát triển nguồn nhân lực phù hợp hơn nữa, phải đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu đặt ra. 1.3. Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn 1.3.1. Nguồn nhân lực - nhân tố quyết định sự thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì sản xuất ra của cải vật chất là cái gốc để cho xã hội tồn tại và phát triển. Trong quá trình sản xuất, con người phải sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động tạo ra của cải vật chất nuôi sống xã hội. Mối quan hệ này được hình thành như một tất yếu khách quan và phổ biến với tư cách con người là chủ thể của mọi hoạt động sáng tạo. Với mối quan hệ này đã tạo nên lực lượng sản xuất của xã hội được phát triển qua các chế độ xã hội khác nhau và thể hiện sự chinh phục tự nhiên của con người. Theo C.Mác, lực lượng sản xuất là một thể thống nhất giữa “một bên là con người và lao động của con người; bên kia là tự nhiên và vật liệu của tự nhiên thế là đủ” [57, tr.271]. Nhưng với tư cách là chủ thể của quá trình lao động, con người không thỏa mãn với những gì đã có sẵn trong tự nhiên. Với năng lực và trình độ của mình, con người luôn tìm tòi những cái mới để tạo ra những cái không sẵn có trong tự nhiên nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình, lao động là hoạt động đặc trưng và có tính mục đích của con người nhằm tạo ra các loại sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội. Theo C.Mác: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, quá trình đó bằng hoạt động của mình con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên” [61, tr.20]. Nói đến sự tồn tại và phát triển của xã hội là nói đến sản xuất vật chất mà lao động của con người là chủ thể của mọi hoạt động, nhưng con người ở đây phải là người lao động; người lao động với thể lực, trí lực, tâm lực và kĩ năng kinh
  • 25. 25 nghiệm lao động của mình, họ đã tiến hành lao động để cải biến các dạng vật chất trong tự nhiên để thực hiện những nhu cầu đáp ứng những lợi ích của mình trong những điều kiện kinh tế - lịch sử nhất định. C.Mác khẳng định: “Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người đã thay đổi phương thức sản xuất của mình và do thay đổi phương thức sản xuất, cách làm của mình, loài người đã thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình [60, tr.125]. Như vậy, loài người làm nên lịch sử xã hội của mình bằng chính sức lực của mình, bằng chính nguồn nhân lực. V.I.Lênin cũng đã đánh giá: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động” [48, tr.430]. Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, chúng ta phải kết hợp chặt chẽ và có hiệu quả rất nhiều nguồn lực như nguồn nhân lực, nguồn vốn, nguồn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kĩ thuật, vị trí địa lý... Các nguồn lực này tác động trong một mối qua hệ tất yếu và cùng tham gia vào quá trình CNH, HĐH nhưng tác động của chúng vào tiến trình này là hoàn toàn khác nhau, trong đó, nguồn nhân lực được coi là nhân tố quan trọng nhất và quyết định nhất. Vì, thực tế cho thấy bằng, bằng sức lao động của mình mà con người có thể cải tạo được tự nhiên và xã hội. Và đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi KH, CN phát triển như vũ bão, nó đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu đặt ra. Bởi vậy, nguồn nhân lực có một vai trò cực kì quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH nói chung và CNH, HĐH NN, NT nông thôn nói riêng. Trước hết, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, v.v… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa xã hội tích cực khi được kết hợp với nguồn nhân lực, thông qua hoạt động có ý thức của con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực biết tư duy, có trí tuệ và có ý chí, biết phát huy các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình CNH, HĐH. Các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con người và chúng đều phục vụ nhu cầu và lợi ích của con người.
  • 26. 26 Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất. Chúng ta đều biết rõ, muốn công nghiệp hóa phải có vốn, nhưng vốn chỉ trở thành nguồn lực quan trọng và cấp thiết của sự phát triển khi nó nằm trong tay những con người biết sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Ở một số nước, điều kiện tự nhiên thuận lợi là nhân tố làm cho đất nước giầu mạnh, bởi con người biết sử dụng và cải tạo tự nhiên; còn ở một số nước khác, điều kiện tự nhiên cũng tương tự, hoặc còn thuận lợi hơn nhưng vẫn nghèo nàn và ngày càng kiệt quệ về tài nguyên vì con người chỉ biết khai thác và sử dụng chúng một cách vô ý thức. Qua thực tế cho thấy, vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của đất nước, nhưng chúng có phát huy được hết khả năng hay không đều phải phụ thuộc vào khả năng, trình độ của con người. Còn vốn cũng là nhân tố quan trọng cho sự phát triển của bất cứ quốc gia nào nhưng cũng cần phải có sự tác động quan trọng của nhân tố con người. Nguồn nhân lực có vai trò quyết định trong các nhân tố, các nguồn lực phát triển lịch sử, trước hết là do năng lực sáng tạo, trí tuệ của bản thân con người và cộng đồng người theo chiều hướng tiến bộ của lịch sử. Từ thế kỉ XVI, nhà triết học Ph.Bêcơn đã đưa ra nhận định: Tri thức là sức mạnh, khoa học tăng quyền lực của con người đối với tự nhiên. Đến thế kỉ XIX, trên cơ sở phân tích vai trò của khoa học trong sự phát triển của xã hội, C.Mác kết luận: Việc biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp là một quy luật khác quan của sự phát triến xã hội. Điều đó đã trở thành hiện thực. Những năm đầu thế kỉ XX tỉ lệ lao động chân tay trong sản phẩm là 9/10 đến những năm 90 tỉ lệ đó giảm xuống còn 1/5 nhưng khối lượng sản phẩm gấp 50 lần so với 80 năm trước. Con người với trí tuệ lao động đã và đang là tài sản quý nhất, là nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Vì vậy, so với các nguồn lực khác thì “chỉ có con người là nguồn lực chủ yếu, lâu bền trong sự phát triển của đất nước và cũng chỉ có tri thức con người là một nguồn lực vô hạn có khả năng tái sinh và tự tái sinh không bao giờ cạn kiệt.
  • 27. 27 Nếu không có con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác thì các nguồn lực khác cũng sẽ không được sử dụng có hiệu quả” [91, tr.75]. Mặt khác, vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với các nguồn lực khác là do nguồn nhân lực mà cốt lõi trí tuệ là nguồn lực vô hạn, luôn đổi mới, phát triển không ngừng về số lượng và chất lượng, còn các nguồn lực khác như đất đai, tài nguyên, vốn thì có hạn, nếu chúng ta khai thác mà không đi đôi với bảo vệ thì sẽ bị cạn kiệt. Vì vậy, ta có thể khẳng định nguồn nhân lực hay chính nguồn lực con người có một vai trò cực kì quan trọng quyết định đối với các nguồn lực khác, nên chúng ta phải chú trọng, bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực nhằm phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tạo điều kiện thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nói chung và CNH, HĐH NN, NT nói riêng nhanh chóng đi đến thắng lợi. Thứ nữa, con người với tất cả khả năng và phẩm chất tích cực của mình gồm trí tuệ, kinh nghiệm, năng động, thích ứng sáng tạo thì tự mình có thể trở thành động lực phát triển của toàn xã hội. Trí tuệ thông minh, tài năng sáng tạo, nhạy cảm với cái mới, ý chí tự lực, tự cường là những tiềm năng to lớn của dân tộc Việt Nam là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của dân tộc, là nguồn lực to lớn cho sự phát triển đất nước. Những đức tính đó đã được thể hiện và nhân lên trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Khi Đảng ta thực hiện đường lối đổi mới, nguồn nhân lực được quan tâm đầu tư phát triển. Yêu cầu xây dựng nguồn nhân lực đủ số lượng và chất lượng được đặt ra, đặc biệt là thời kì CNH - HĐH nói chung và CNH, HĐH NN, NT nói riêng. Nói cách khác, chúng ta sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp được hay không điều này đều phải phụ thuộc vào trí thông minh và tài năng sáng tạo của con nười hay chính là chất lượng nguồn nhân lực. Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: Những nguồn lực làm cơ sở cho việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước là nguồn lực con người. Trong Văn kiện của Ban chấp hành Trung ương lần thứ tư khoá VII, Đảng ta khẳng định “Nguồn lao đồng dồi dào, con người Việt Nam có truyền thống yêu nước cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hóa, giáo dục, có khả
  • 28. 28 năng nắm bắt nhanh nhạy KH, CN đó là nguồn lực quan trọng nhất” [29, tr.5]. Để sự nghiệp CNH, HĐH thành công chúng ta phải biết phát huy sức mạnh tổng hợp của các nguồn lực, trong đó, “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” [33, tr.85]. Nguyên Phó thủ tướng Nguyễn Khánh cũng đã khẳng định: “Con người là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa của mọi quốc gia. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu bắt đầu đi vào CNH, HĐH ta chưa có những chỉ số cao về phát triển con người như mong muốn. Vì vậy, cùng với việc tạo ra nguồn lực vật chất, tài chính và phát huy nguồn lực đó, điều quan trọng nhất hiện nay là chăm lo phát triển nguồn lực con người Việt Nam, tạo ra lực lượng lao động với trình độ mới, khả năng mới phù hợp với yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước” [46]. Tóm lại, trong các nguồn lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội thì nguồn nhân lực luôn giữ vị trí quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên con người mà chúng ta cần đến để đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH đất nước phải là con người khác biệt với con người trong xã hội trước đó, là con người phải có đủ đức và tài tiếp cận nhanh với quá trình hội nhập. Có như vậy chúng ta mới có thể hoàn thành mục tiêu đặt ra là đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế thế giới đang từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức, vai trò của nguồn nhân lực được khẳng định, vì thế, con người luôn phải được bồi dưỡng và nâng cao về trình độ quản lý và năng lực sáng tạo cũng như phẩm chất đạo đức của mình và có như thế chúng ta mới tránh được nguy cơ tụt hậu so với các nước. 1.3.2. Nguồn nhân lực - động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam Phát triển đất nước, CNH, HĐH nói chung và CNH, HĐH NN, NT nói riêng phải hướng tới mục tiêu cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người dân trong nước, để trên cơ sở đó tạo ra một đội ngũ người lao động có chất lượng. Chúng ta có thể đạt được mục tiêu đó khi có sự kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế nhanh với việc nâng cao chất lượng cuộc
  • 29. 29 sống cho người lao động, “từng bước hiện đại hóa đất nước và đời sống xã hội”, nâng cao trình độ học vấn văn hóa cho người lao động, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho mọi gười. Nhất là trong thời đại ngày nay, sự phát triển nhanh chóng của KH, CN góp phần đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Cách mạng KH, CN dẫn tới việc sử dụng những công cụ, phương tiện hiện đại, phức tạp, sản phẩm làm ra phải kết tinh hàm lượng khoa học cao, như vậy đòi hỏi người lao động phải có đầy đủ tri thức, tài lực và tâm lực để vận dụng những thành tựu mới nhất của khoa học vào trong sự phát triển kinh tế - xã hội nhất là trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong thời đại chúng ta, với xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đòi hỏi các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển tất yếu phải đổi mới chiến lược phát triển kinh tế. Việt Nam không nằm ngoài xu thế trên, chúng ta đã và đang thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và CNH, HĐH NN, NT nói riêng để tạo ra những tiền đề phát triển kinh tế trong nước. Trong điều kiện đó chúng ta phải phát triển được nguồn lực con người có trí tuệ cao với tư cách là nguồn lực của mọi nguồn lực. Ph.Ăngghen cho rằng: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận” [62, tr.489]. Đặc biệt trong thời đại mà khoa học, kĩ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, có một số quan điểm tầm thường hoá mới quan hệ giữa khoa học và con người. Theo họ, chúng ta chỉ cần phát triển KH, CN là có thể phát triển kinh tế - xã hội. Nhưng thực tế trong lực lượng sản xuất, con người mới là nhân tố quan trọng nhất để sáng tạo ra KH, CN và ứng dụng KH, CN vào sản xuất. Vì vậy, muốn cho khoa học cùng với GD - ĐT trở thành nền tảng và động lực thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đất nước thì phải đầu tư vào nhân tố con người hay chính là nguồn nhân lực có chất lượng cao. Chỉ có trên cơ sở tạo ra một đội ngũ những người lao động phát triển cả về trí lực, thể lực, tâm lực, có tính kỉ luật, nhiệt tình lao động, tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội thì chúng ta mới có nguồn lực quan trọng nhất, bền vững nhất trong CNH, HĐH đất nước. Song, với thực tiễn một đất nước phần đông lao động
  • 30. 30 vẫn làm nông nghiệp, cơ sở vật chất vẫn nghèo nàn, lạc hậu, đời sống của người lao động vẫn rất khó khăn, chúng ta không thể đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước, mà trước tiên chúng ta phải tạo ra một lực lượng lao động xã hội đáp ứng yêu cầu trước mắt cho nền kinh tế nói chung và CNH, HĐH NN, NT nói riêng. Do đó, phải nhanh chóng bồi dưỡng, nâng cao chất lượng lao động NN, NT, tạo ra được những người lao động vừa có thể lực, trí lực và tâm lực để thực hiện mục tiêu chung là CNH, HĐH đất nước. Xuất phát từ thực tế đó và do nhận thức được xu hướng của nền kinh tế thế giới, bắt đầu từ Đại hội VI, đặc biệt là Đại hội VII, Đảng ta đã nhận thức và ngày càng bổ sung đầy đủ hơn về vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn con người Việt Nam là nhân tố quyết định sự thắng lợi của CNH, HĐH” [32, tr.21] nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Không thể nói đến CNH, HĐH đất nước trong thời đại văn minh trí tuệ, thời đại của cách mạng KH, CN, thời đại sinh thái hóa mà lại thiếu nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, thiếu đội ngũ cán bộ khoa học giỏi. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã khẳng định: “Con người phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của CNXH” [29, tr.5]. Như vậy trong số các nguồn lực thì động lực chủ yếu của sự nghiệp CNH, HĐH chính là nguồn nhân lực. CNH, HĐH chỉ có thể thành công một khi chúng ta biết phát huy sức mạnh tổng hợp của các nguồn lực, trong đó “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Tóm lại, con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể sáng tạo ra lịch sử có ý nghĩa vô cùng to lớn. Phát huy vai trò chủ thể của con người là nhằm phát huy tối đa nguồn lực con người, tạo ra động lực mạnh mẽ để thực
  • 31. 31 hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và CNH, HĐH NN, NT nói riêng. Đối với việc sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, nguồn nhân lực được xem là một trong những nhân tố quyết định. Do đó, chỉ khi nào chúng ta tạo ra được một nguồn nhân lực với những con người có thể lực, trí lực, tâm lực, có năng lực phát triển toàn diện, nắm bắt nhanh KH, CN đáp ứng nhu cầu khai thác và sử dụng các nguồn lực khác cho sự phát triển xã hội. Đây là một luận điểm có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng cần được rút ra khi vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin về phát triển con người, phát huy nhân tố con người vào việc phát triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. Chính vì vậy, ở Việt Nam nói chung và ở Hưng Yên nói riêng, chúng ta phải đi vào nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực, phân tích mặt mạnh, mặt yếu, thuận lợi, khó khăn, từ đó làm rõ sự cần thiết và cấp bách về việc phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở nước ta cũng như Hưng Yên.
  • 32. 32 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÔNG NGHIÊP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN HƯNG YÊN HIỆN NAY 2.1. Những nhân tố tác động đến việc phát triển nguồn nhân lực trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Hưng Yên 2.1.1. Điều kiện tự nhiên Hưng Yên có diện tích 923,1 km2 , là một tỉnh nhỏ nằm giữa đồng bằng sông Hồng. Đây là một phần của đồng bằng châu thổ, không có đồi núi và rừng rú. Phía bắc Hưng Yên giáp huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh, địa giới dài 16km; phía Tây bắc, giáp huyện Gia Lâm, địa giới ngoằn nghèo dài 20km. Phía bắc và Tây bắc không còn ranh giới tự nhiên. Phía Đông Hưng Yên giáp với tỉnh Hải Dương, địa giới dài 46 km. Hưng Yên nằm giữa đồng bằng châu thổ sông Hồng, với địa hình tương đối đơn điệu. Nhìn chung địa hình của tỉnh nghiêng chênh chếch từ Tây bắc xuống Đông nam và không thật bằng phẳng. Độ dốc trung bình là 8cm/1km. Về phía bắc, nổi lên là địa hình cao, có hình vòng cung đi từ đông bắc sang tây bắc rồi men theo phía tây, dọc sông Hồng, bao gồm địa phận các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Khoái Châu. Đây là vùng đất cao trong đê, có độ cao tuyệt đối từ 4 đến 6m. Liền kề với vùng đất cao là vùng đất thấp hơn, độ cao trung bình 3m, phổ biến như huyện Ân Thi, Yên Mĩ, Mĩ Hào, nam Kim Động, Tiên Lữ và kéo xuống phía Nam (như Phủ Cừ). Độ cao ở đây chỉ còn 2m. Địa hình Hưng Yên ảnh hưởng rõ rệt đến việc canh tác. Trước kia thường xuyên xảy ra hạn hán và úng ngập. Vùng cao không giữ được nước, trong khi đó vùng thấp lại tiêu nước không kịp trong mùa mưa. Với từng vùng cũng có sự phân hóa ít nhiều về địa hình. Hiện nay nhân dân tỉnh Hưng Yên
  • 33. 33 đã xây dựng một mạng lưới thủy lợi dầy đặc để kịp thời giải quyết những khó khăn do địa hình gây ra, đảm bảo cho việc sản xuất quanh năm, hạn chế mức thiệt hại do hạn hán và úng lụt. Nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng sông Hồng, khí hậu Hưng Yên có đầy đủ những nét chung của đồng bằng lớn này. Hưng Yên chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, nhiều nắng và có mùa Đông lạnh. Với khí hậu như vậy rất thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp thâm canh cao. Hưng Yên có 3 mặt được bao bọc bởi sông, trong đó có sông Hồng, con sông lớn nhất miền bắc, chảy qua. Ngoài sông tự nhiên, Hưng Yên còn có nhiều sông đào nhằm phục vụ yêu cầu của sản xuất nông nghiệp. Những con sông này thuộc hệ thống đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải. Hưng Yên có nhiều sông, sông Hồng chảy qua Hưng Yên theo hướng Tây Bắc - nam Đông Nam với chiều dài 67 km. Đây là đoạn sông lớn nhất của Hưng Yên. Sông Hồng có chứa lượng phù sa khá lớn và chính vùng đất Hưng Yên cũng do dòng sông này bồi tụ nên. Về đến lãnh thổ Hưng Yên, sông Hồng chảy quanh có uốn khúc, tạo nên nhiều bãi bồi đất rộng (như Phú Cường, Hùng Cường thuộc huyện Kim Động). Sông Hồng làm ranh giới tự nhiên giữa Hưng Yên với Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam. Nó bắt đầu chảy vào địa phận Hưng Yên ở thôn Phi Liệt (xã Liên Nghĩa, huyện Văn Giang), qua các huyện Văn Giang, Khoái Châu, Kim Động, thị xã Hưng Yên từ Ung Lôi (xã Tân Hưng, huyện Tiên Lữ). Sông Hồng đã đem lại nguồn nước phù sa cho đồng ruộng Hưng Yên. Nó còn là con đường thuỷ quan trọng nối Hưng Yên với Hà Nội, thị xã Sơn Tây, Việt Trì, Yên Bái, Thái Bình và Nam Định. Sông Luộc là con sông lớn thứ hai chảy qua Hưng Yên, một nhánh lớn của sông Hồng, nằm vắt ngang phía Nam của tỉnh, gần như vuông góc với sông Hồng. Sông Luộc dài 70 km, rộng trung bình 200 mét, chảy qua địa phận Hưng Yên với độ dài 26 km. Theo sông Luộc, từ Hưng Yên đến Ninh
  • 34. 34 Giang (Hải Dương) từ sông Luộc qua các hệ thống sông khác, có thể đến Thành phố Hải Dương, Thành phố Hải Phòng. Sông Kẻ Sặt nằm ở phía Đông của tỉnh, con sông này làm nên ranh giới tự nhiên giữa Hưng Yên với Hải Dương, đoạn sông này dài 20 km từ Thịnh Vạn (Mỹ Hào) đến Tông Hoá (Phủ Cừ). Nó có giá trị về mặt dẫn nước (khi có hạn) và tiêu nước khi có úng, vì nhận nước từ sông Thái Bình (cửa sông ở phía Nam Thành phố Hải Dương) và xuôi chiều tiêu thuỷ ra sông Luộc. Dựa vào điều kiện tự nhiên thuận lợi này, Hưng Yên đã xây dựng hệ thống thuỷ lợi để điều tiết nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Trong phạm vi lãnh thỗ Hưng Yên còn có các sông ngang dọc nối với nhau hình thành một mạng lưới dẫn thuỷ khắp từ bắc đến nam, như các sông Hoan Ái, Cửu Yên, Nghĩa Trụ… Ngoài nguồn nước ngọt dồi dào, Hưng Yên còn có nguồn nước ngầm phong phú, nhất là khu vực quốc lộ 5, từ Như Quỳnh đến phố Nối, thuận lợi cho việc phát triển công nghiệp và đô thị. Về đất đai, toàn tỉnh không có loại đất nào phát sinh và phát triển trên đá mẹ. Các loại đất tuy khác nhau nhưng đều do phù sa bồi tụ. Gần hai rìa sông là đất cát, cát pha tầng dày, rồi tiếp đến là cát pha tầng mỏng hoặc đất thịt nhẹ, đi sâu vào trong đồng là vùng đất sét có phủ một lớp đất thịt rất mỏng. Về đại thể, có thể chia thành hai vùng: Vùng ngoài đê: đây là vùng đất phù sa trẻ nhất, hàng năm ít nhiều vẫn được phù sa bồi đắp. Vùng đất này nằm chủ yếu ở ngoài đê thuộc các huyện Văn Giang, Kim Động, Tiên Lữ. Ở vùng ngoài đê, có thể trồng màu xen canh, gối vụ liên tiếp, trừ mùa mưa lũ. Vùng trong đê, đất phù sa không được bồi, màu nâu tươi, trung tính, ít chua, không glây hoặc glây yếu. Vùng này chiếm tỉ lệ 32 % diện tích đất canh tác của tỉnh, tập trung nhiều nhất ở Yên Mỹ, Khoái Châu, Văn Giang, Kim Động, Văn Lâm, Tiên Lữ, Ân Thi, Mỹ Hào. Loại đất này có độ phì cao, giàu các chất đạm, lân, tương đối nhiều mùn, thích hợp với việc trồng lúa, các loại
  • 35. 35 hoa màu và cây công nghiệp như mía, đay, dâu, lạc. Đây là vùng trồng lúa tốt nhất của tỉnh. Đất phù sa không được bồi, màu nâu tươi, glây trung bình hoặc mặn, ít chua. Chiếm 25% đất canh tác của tỉnh, loại đất này nằm ở miền trũng của các huyện Kim Động, Tiên Lữ, Ân Thi, Yên Mỹ, Văn Giang, Khoái Châu, Phù Cừ, Mỹ Hào. Đất thiếu không khí, quá trình hoá sét mạnh, có ảnh hưởng xấu đến cây trồng; phải cày sâu, bón phân nhiều khi trồng lúa. Vùng cà chua và bí đỏ, có tầng sét dày, bao gồm diện tích đất đai còn lại của các huyện Ân Thi, Phù Cừ, Yên Mỹ, Văn Lâm… Đối với loại đất này, phải chống chua, chống glây hoá và cải tạo thành phần cơ giới để đưa vào sử dụng có hiệu quả trong nông nghiệp. Về sinh vật, nằm giữa đồng bằng sông Hồng, lại được khai thác từ lâu đời nên Hưng Yên hầu như không còn thảm thực vật tự nhiên. Về giới động vật cũng tương tự như vậy. Các loài chim muông, cầm thú tự nhiên rất ít, ngoài những loài cáo, cò, cuốc, ngỗng trời… Về khoáng sản, nhìn chung, Hưng Yên có tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, song tài nguyên khoáng sản lại rất hạn chế. Ngay cả nguyên liệu thông thường như đá vôi cũng phải nhập ở tỉnh ngoài. Đây là một trong những khó khăn trong quá trình phát triển công nghiệp hoá của tỉnh. Hưng Yên có 3 mặt được bao bọc bởi sông, trong đó có sông Hồng, con sông lớn nhất miền Bắc chảy qua. Ngoài sông tự nhiên, Hưng Yên còn có nhiều sông đào nhằm phục vụ yêu cầu của sản xuất nông nghiệp. Những con sông này thuộc hệ thống đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải. 2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội Do điều kiện thuận lợi, có quốc lộ 5 chạy qua nối Hà Nội - Hải Phòng, Hưng Yên còn nằm trong khu vực trọng điểm tam giác kinh tế Bắc bộ. Hưng Yên có nhiều ưu thế phát triển kinh tế công - nông nghiệp và dịch vụ. Hưng Yên còn được ví như Bình Dương của miền Bắc. Hưng Yên là địa bàn có nhiều khu công nghiệp lớn như khu công nghiệp Phố Nối A, Phố Nối B, Khu
  • 36. 36 công nghiệp Thăng Long II, Khu công nghiệp Như Quỳnh, Khu công nghiệp Minh Đức, Khu công nghiệp Kim Động, Khu công nghiệp Quán Đỏ. Với ưu thế phát triển công nghiệp và dịch vụ, Hưng Yên dần khắc phục lực lượng lao động trong nông nghiệp cao (90%), diện tích đất nông nghiệp dần bị thu hẹp, năng suất lao động chưa cao, người dân vẫn còn thói quen sản xuất manh mún. Bởi vậy, đây là yếu tố tác động đến nguồn nhân lực của tỉnh, đặc biệt là nguồn nhân lực trong nông nghiệp và nông thôn. Từ khi tái lập tỉnh đến nay, kinh tế Hưng Yên liên tục phát triển, nhất là những năm gần đây. Theo báo cáo của UBND tỉnh năm 2008, trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động, khủng hoảng tài chính diễn ra trên phạm vi toàn thế giới... song với sự chỉ đạo kịp thời của các cấp ủy Đảng, chính quyền và sự cố gắng của nhân dân, kinh tế Hưng Yên vẫn đạt kết quả khá. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 12,33%, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đạt 27,95%, công nghiệp xây dựng đạt 42,17%, dịch vụ đạt 29,88%, thu ngân sách đạt 1.765 tỷ đồng, kim ngạch suất khẩu 443 triệu USD, tổng vốn huy động toàn xã hội 9.100 tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người đạt 12,8 triệu đồng, tỉ lệ hộ nghèo còn 7%, tỉ lệ tăng dân số 0,998%, tạo thêm việc làm mới cho 2,4 vạn lao động, tỉ lệ làng, khu văn hóa đạt 69%. Trong bối cảnh kinh tế thế giới dần được hồi phục, quan hệ giữa các nước càng được tăng cường, kinh tế nước ta có bước phát triển, sản xuất ổn định, dịch bệnh diễn biến ít phức tạp. Kinh tế tăng trưởng khá, sản xuất tiếp tục phát triển, lĩnh vực văn hóa xã hội tiếp tục chuyển biến tích cực, chính trị ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững, trận tự an toàn xã hội được đảm bảo. Các chỉ tiêu được ước tính thực hiện như sau: Tổng sản phẩm GDP tăng 12,11% Giá trị sản xuất nông nghiệp và thủy sản tăng 5,78% Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14,65% Giá trị các ngành dịch vụ tăng 15,54%
  • 37. 37 Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng và dịch vụ 25% - 44% - 31% Thu nhập bình quân đầu người đạt 20 triệu đồng Kim ngạch suất khẩu dạt 530 triệu USD Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh đạt 300 tỷ đồng, tỉ lệ dân số tự nhiên 0,94%, tỉ lệ hộ nghèo còn 3% tạo việc làm mới cho 2,5 vạn lao động, tỉ lệ chuẩn quốc gia về y tế đạt kế hoạch 90%, tỉ lệ làng, khu phố văn hóa đạt kế hoạch 72% [89] (xem phụ lục 1). Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hưng Yên gia tăng liên tục, tuy thấp hơn so với các tỉnh lân cận nhưng với tốc độ tăng trưởng như hiện nay, Hưng Yên có thể phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn nữa. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Hưng Yên đã có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng chung của cả nước, làm giảm dần tỉ lệ ngành nông - lâm nghiệp và thủy sản tăng dần tỉ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Nhưng sự chuyển dịch này còn diễn ra rất chậm. Năm 2009 cơ cấu kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản của Hưng Yên là 27,4% so với năm 1997 là 51,87%, tuy có giảm nhưng vẫn chưa đáp ứng được sự phát triển kinh tế - xã hội trong tỉnh, công nghiệp và xây dựng năm 1997 là 20,26% tăng lên 42,39 năm 2009, dịch vụ có tăng nhưng không đáng kể (xem phụ lục 2). Như vậy từ năm 2007 đến năm 2009, tốc độ tăng trưởng trong công nghiệp đã được năng lên, năm 2009 GDP đạt 42,39%, tăng 1,32% so với năm 2007, dịch vụ có tăng nhưng quá chậm. Tổng mức hàng hóa bán lẻ và dịch vụ của Hưng Yên tăng liên tục năm 2006 là 4.226 tỷ đồng năm 2007 là 5.271 tỷ đồng, năm 2008 là 6.645 tỷ đồng năm 2009 là 7.843 tỷ đồng [16]. Việc thu chi ngân sách trên địa bàn Hưng Yên đạt gần 2 nghìn tỷ đổng năm 2008 là 1.834 tỷ đồng, nhưng chi ngân sách lại nhiều hơn thu năm 2008 chi hết 1.979 tỷ đồng, thu không đủ chi.
  • 38. 38 2.2. Thực trạng nguồn nhân lực và xu hướng phát triển nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn Hưng Yên hiện nay 2.2.1. Tình hình dân số Hưng Yên là một tỉnh có diện tích không rộng, dân số không đông nhưng là một tỉnh có dân số trẻ. Dân số Hưng Yên tăng lên khá nhanh, năm 1997 Hưng Yên có 1.051.420 người, năm 1999 là 1.071.400 người, đến năm 2004 là 1.120.300 người, năm 2009 là 1.131.185 người. Dân số Hưng Yên chiếm 6,3% dân số đồng bằng Sông Hồng (xem phụ lục 3). Như vậy, dân số Hưng Yên có mức độ tăng nhanh ở giai đoạn 1997 - 2004, và tăng chậm ở giai đoạn 2004 - 2009. Năm 1997 đến năm 2004 tăng là 52.868 người, giai đoạn 2004 - 2009 dân số tăng 26.987 người. Vào thời điểm năm 2004 dân số Hưng Yên là 1.104,3 nghìn người bằng 5,87% dân số của đồng bằng Sông Hồng và bằng 1,35% dân số cả nước. Năm 2009 dân số Hưng Yên tăng lên 79.765 người so với năm 1997, bằng 6,6% dân số của đồng bằng Sông Hồng và bằng 1,31% dân số cả nước. Qua sự phân tích trên, ta thấy quy mô dân số của Hưng Yên so với đồng bằng Sông Hồng ngày càng có xu hường gia tăng nhưng so với quy mô dân số của cả nước thì có xu hướng giảm. Về dân số thành thị Hưng Yên không lớn hơn dân số nông thôn nhưng tốc độ gia tăng ngày một lớn. Song, so với cả nước và đồng bằng sông Hồng thì dân số thành thị của Hưng Yên tăng chậm hơn. So sánh năm 2009 và năm 2004 thì dân số thành thị của Hưng Yên tăng 1,26%, trong khi đó đồng bằng Sông Hồng là 3,3%, cả nước là 2,50%. Nhìn một cách tổng quát thì dân số Hưng Yên ngày càng tăng, nhưng xét qua các thời kì, các năm thì có lúc tăng, lúc giảm. Dân số Hưng Yên, năm 2009 so với năm 1999 tăng 59.785 người. Trong năm năm cuối 2004-2009 Hưng Yên đã hạn chế được tốc độ tăng dân số (xem phụ lục 4).
  • 39. 39 Qua phụ lục 4, ta thấy tỉ lệ tăng dân số tự nhiên của Hưng Yên mỗi năm một khác, có năm tăng, có năm giảm, nhưng sự tăng lên hay giảm đi là không đáng kể. Năm 2005, tỉ lệ tăng tự nhiên là 0,990% đến năm 2009 là 0,964%, năm 2007 là 0,936% nhưng đến năm 2008 là 0,978%. Nhìn chung Hưng Yên là tỉnh có quy mô dân số trung bình ở đồng bằng Sông Hồng. So sánh với các tỉnh lân cận, năm 2008, dân số của Hải Dương là 1700,8 nghìn người, Thái Bình là 1782,7 nghìn người, Hà Nam 791,3 nghìn người, Hưng Yên là 1126,2 nghìn người. Dân số Hưng Yên hiện tại và sau này có xu hướng gia tăng, không những tăng mà Hưng Yên là tỉnh có dân số trẻ điều này thể hiện dân số trong độ tuổi lao động sẽ nhiều (chiếm trên 50% dân số của tỉnh). Dân số trẻ nên nguồn lao động tương đối dồi dào đồng nghĩa với nguồn nhân lực nhiều. Hiện nay số người trong độ tuổi lao động của Hưng Yên là 679756 người, với nguồn lao động như vậy Hưng Yên cần có sách lược sử dụng hợp lí, hiệu quả nguồn nhân lực trong tiến trình CNH, HĐH NN, NT của tỉnh. 2.2.2. Chất lượng và số lượng ngồn nhân lực ở Hưng Yên hiện nay Nguồn nhân lực thực chất là nguồn lao động và được hiểu là dân số đủ 15 tuổi trở lên có khả năng lao động, đang có việc làm hoặc chưa có việc làm và không có nhu cầu làm việc Theo số liệu của Cục Thống kê Hưng Yên năm 2009, những người trong độ tuổi lao động của Hưng Yên là 679756 người. Số lao động nông thôn là 603076 người, chiếm 88,71%, lao động thành thị là 76679 người chiếm 11,89%. Với tỉ lệ lao động thành thị và nông thôn như trên cho thấy nền kinh kế Hưng Yên với đặc trưng chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Số lao động của Hưng Yên không phải là đã có việc làm 100% mà số lao động có việc làm chiếm 98,31%, thất nghiệp 1,69 %. Trong số lao động có việc làm này thì số lao động giản đơn của Hưng Yên chiếm tỉ lệ cao (56,9%), điều này cho thấy thị trường lao động của Hưng Yên đang ở mức thấp, vấn đề đào tạo nguồn lao động có trình độ chuyên môn, kĩ thuật đang đặt ra hết sức cần thiết và cấp bách. Vì vậy, đòi hỏi các cấp lãnh đạo, các nhà quản lý của tỉnh phải hoạch
  • 40. 40 định, phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động và đào tạo họ có một trình độ nhất định để đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT của Hưng Yên. Trong số lao động của Hưng Yên, lao động nam thấp hơn lao động nữ, lao động nam là 332.529 người chiếm 48,91%, lao động nữ là 347.227 chiếm 51,09% (xem phụ lục 5). Qua phụ lục 5, ta thấy lực lượng lao động nam giới có việc làm thấp hơn số lao động nữ giới (nam là 326.102 bằng 48,77%, nữ chiếm 342.536 bằng 51,23 %) và ngược lại lao động nam thất nghiệp nhiều hơn nữ (nam chiếm 57,83% nữ chiếm 42,17%) như vậy lực lượng lao động nam - một lực lượng lao động có sức khỏe hơn nữ giới (theo cấu trúc sinh học) chưa được phát huy hết. Số lao động thất nghiệp cả nam lẫn nữ đã làm mất đi một khối lượng lớn thu nhập quốc dân. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT của tỉnh thì phải có kế hoạch đầu tư thích đáng trên nhiều phương diện cho việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực. Hưng Yên là tỉnh có dân số trẻ nên nguồn lao động rất dồi dào nhưng lao động chủ yếu lại tập trung trong khu vực sản xuất nông nghiệp. Theo kết quả điều tra dân số và nhà ở của Cục Thống kê Hưng Yên năm 2009 thì lao động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản là 420.852 người và lao động trong công nghiệp, xây dựng là 130.882 người. Song, tốc độ tăng trưởng GDP của nông, lâm, thủy sản năm 2009 là 3,5%, GDP trong công nghiệp là 23%, tốc độ tăng trong công nghiệp nhanh hơn nông, lâm, thủy sản là 19,5%. Một thực tế, số lao động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản chiếm phần lớn nhưng sản phẩm xã hội lại thấp. Vì vậy, chúng ta phải nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực giảm dần ở nhóm ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, tăng nhanh nhóm ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Đại hội Đảng bộ Hưng Yên lần thứ XVII xác định: “Nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển nhanh cây, con có giá trị kinh tế cao” [25, tr.14].