CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
Mã giám sinh mua kiều
1. MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU
TRÍCH “TRUYỆN KIỀU” – NGUYỄN DU VĂN BẢN
Gần miền có một mụ nào, Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh. Hỏi tên rằng: “Mã Giám Sinh”, Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”. Quá niên trạc ngoại tứ tuần, Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao. Trước thầy sau tớ lao xao Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang. Ghế trên ngồi tót sỗ sàng, Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra. Nỗi mình thêm tức nỗi nhà, Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng! Ngại ngùng dợn gió e sương, Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày. Mối càng vén tóc bắt tay, Nét buồn như cúc điệu gầy như mai. Đắn đo cân sắc cân tài, Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ. Mặn nồng một vẻ một ưa, Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu. Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều, Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?” Mối rằng: “Giá đáng nghìn vàng, Gấp nhà nhờ lượng người thương dám nài!” Cò kè bớt một thêm hai, Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm.
2. 1. NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN A) VỊ TRÍ ĐOẠN TRÍCH
Đầu phần Hai: Gia biến và lưu lạc.
Hoàn cảnh: Cha và em bị vu oan, Kiều quyết định bán mình để lấy tiền cứu gia đình khỏi tai vạ. Đoạn trích nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều. B) BỐ CỤC ĐOẠN TRÍCH
2 câu đầu: giới thiệu hoàn cảnh buổi mua bán
8 câu tiếp: chân dung Mã Giám Sinh
6 câu tiếp: tâm trạng Thúy Kiều
10 câu cuối: diễn biến buổi mua bán C) BÚT PHÁP TẢ THỰC
Là bút pháp miêu tả người, vật như những gì vốn có. Nhân vật bộc lộ bản chất một cách trực tiếp qua hình dáng, cử chỉ, lời nói, hành động.
Trong “Truyện Kiều”, bút pháp này thường được dùng để miêu tả nhân vật phản diện.
So sánh với búp pháp miêu tả nhân vật chính diện:
Tiêu chí so sánh
Miêu tả nhân vật chính diện
Miêu tả nhân vật phản diện
Bút pháp
Ước lệ tượng trưng
Lý tưởng hóa
(Thủ pháp) chấm phá
Thân phận hóa nhân vật
Tả thực
Hiệu quả
Bức chân dung nhân vật đẹp hơn, gợi nhiều cảm xúc ở người đọc
Bản chất nhân vật được phơi bày rõ ràng với thái độ khinh bỉ, coi thường
3. 2. PHÂN TÍCH VĂN BẢN
Ở đây ta không phân tích văn bản theo chiều bổ ngang như bố cục đã nêu mà phân tích theo chiều bổ dọc, khám phá từng khía cạnh nội dung của văn bản. Bao gồm: (1) Chân dung Mã Giám Sinh; (2) Hình ảnh Thúy Kiều; (3) Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du. A) CHÂN DUNG MÃ GIÁM SINH
- CÁC YẾU TỐ BÊN NGOÀI
Tuổi: (ngoại tứ tuần) ngoài bốn mươi tuổi
Ăn mặc: (Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao) lịch sự nhưng có phần chải chuốt, chưng diện, không phù hợp với lứa tuổi
Lời nói: (Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”; Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”) cộc lốc, nhát gừng, không thưa gửi, không có đầu có đuôi
Hành động: (Ghế trên ngồi tót sỗ sàng) thô lỗ, trịch thượng, vô lễ
Khung cảnh xung quanh: (Trước thầy sau tớ lao xao) lộn xộn, nhốn nháo, không có tôn ti trật tự
- BẢN CHẤT CON BUÔN, LƯU MANH CỦA TÊN HỌ MÃ
Sự giả dối:
Lai lịch xuất thân mù mờ: là “khách ở viễn phương” (khách phương xa) mà lại xưng quê “cũng gần”. Thực tế quê Mã Giám Sinh không phải ở Lâm Thanh mà ở tận Lâm Tri.
Diện mạo của Mã Giám Sinh toát lên một vẻ lố bịch, thô lỗ, vô học.
Tác giả miêu tả cụ thể, chi tiết và chân thực
4. Những là lạ nước lạ non
Lâm Tri vừa một tháng tròn tới nơi
(Cảnh Kiều theo Mã Giám Sinh về sau cuộc mua bán)
Tướng mạo cũng giả dối vì đã đứng tuổi (ngoài bốn mươi) mà lại cố tô vẽ cho trẻ trung, ra vẻ thư sinh nho nhã. Nhưng bản chất nhốn nháo của kẻ vô học không sao dấu được qua cảnh “trước thầy sau tớ lao xao”.
So sánh với sự xuất hiện của Kim Trọng:
Trông chừng thấy một văn nhân
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng
Đề huề lưng túi gió trăng
Sau chân theo một vài thằng con con
Tuyết in sắc ngựa câu giòn
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời
Lời nói xảo quyệt, vờ vĩnh, sặc mùi con buôn: mặc dù cư xử thô lỗ và đối xử tàn nhẫn với Kiều trong cảnh mua bán nhưng đến lúc trả giá, Mã Giám Sinh lại đổi giọng lịch thiệp, vờ tôn vinh Thúy Kiều cốt đạt mục đích mua Kiều với giá rẻ nhất.
Sự bất nhân (thể hiện qua cảnh mua bán)
Đối xử với người con gái, với cái tài và cái đẹp hết sức phũ phàng, thô bỉ: “đắn đo”, “cân sắc cân tài”, “ép”, “thử”. Mã Giám Sinh coi Kiều chẳng khác nào một món hàng rẻ mạt.
Lạnh lùng, vô cảm trước gia cảnh của Kiều, tâm trạng của Kiều.
Tất cả vì tiền: hành động mặc cả keo kiệt và đê tiện: “Cò kè bớt một thêm hai”. Câu thơ gợi cảnh kẻ mua người bán đưa đẩy món hàng, túi tiền được cởi ra, thắt vào, nâng lên, đặt xuống.
5. - NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ NHÂN VẬT
Bút pháp tả thực. Miêu tả trực diện, chân thực.
Từ ngữ thuần Việt rất giàu giá trị gợi tả: “nhẵn nhụi” (gợi sự trơ lì), “tót”, “sỗ sàng”, “cò kè”, “ép”. B) HÌNH ẢNH THÚY KIỀU
- HOÀN CẢNH CỦA NÀNG
Nỗi nhà: cảnh gia biến đầy loạn lạc, đau khổ. Số phận của cả gia đình lúc này đang phụ thuộc vào Kiều.
Nỗi mình: vì gia đình, Kiều phải hy sinh tuổi trẻ, tình yêu. Lúc này đây, nàng đang phải tự đẩy mình vào cảnh mua bán hết sức nhục nhã, rẻ rúng.
- TÂM TRẠNG NHÂN VẬT THÚY KIỀU
Tức: Kiều cảm thấy bất công, oan khuất vì nỗi gia biến, nàng không chịu đồng nhất mình với cảnh ngộ mua bán nhuốc nhơ này. Nhưng Kiều đành bất lực và bởi vậy, bao nhiêu nỗi niềm dồn lại thành nỗi “tức” nghẹn ngào trong lồng ngực.
Đau khổ: thể hiện qua những giọt nước mắt lã chã rơi theo bước chân Kiều. Tác giả dùng từ “lệ hoa” có nghĩa là giọt nước mắt của người đẹp khiến người đọc càng thương tiếc, xót xa hơn cho thân phận nàng Kiều.
E sợ: “Gió”, “sương” là từ dùng để chỉ cuộc sống bên ngoài tự do, vô lối, đầy những bất trắc. “Dợn gió e sương” là trạng thái e sợ gió sương cuộc đời. Là người con gái khuê các, Kiều chưa từng phải đặt mình vào thế giới của những kẻ bán mua tấp nập, sỗ sàng này. Nàng càng e sợ hơn khi biết rằng mình sắp phải làm vợ của một kẻ mà bấy giờ mình còn chưa biết mặt.
Xấu hổ, nhục nhã: thể hiện qua từ “ngừng”, “thẹn”, “mặt dày”. Kiều có ý thức rất cao về giá trị và nhân phẩm của bản thân. Nàng biết lựa chọn con đường này là hy sinh phẩm giá, tự hạ thấp mình nhưng nàng không còn cách nào khác. Nỗi “thẹn” này rất đáng quý. Chính vì biết “thẹn”, nên suốt 15 năm, bị cuộc đời nhấn xuống bùn nhơ bao lần nhưng Kiều không buông xuôi, sa ngã, không bao giờ đánh mất tấm lòng trong sáng.
6. Buồn bã, thẫn thờ: nỗi buồn của Kiều trong suốt cuộc mua bán được miêu tả thoảng qua, nhẹ nhàng mà ám ảnh: “Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”. Đó là trạng thái buồn bã đến thẫn thờ, phờ phạc. Sử dụng hình ảnh thiên nhiên ước lệ “cúc”, “mai”, Nguyễn Du cho thấy Thúy Kiều trong đau buồn thì vẫn đẹp, vẫn giữ cốt cách thanh cao, không ngã gục.
So sánh nàng Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân:
Kiều rằng: 300 thì thực không đủ, mang tiếng bán mình mà chẳng đủ việc thì bán làm chi.
…
Kiều nói: Khốn nạn tôi đã nói thực là việc của tôi phi 500 lạng không đủ cơ mà.
…
Nói xong nàng quay lại bảo mụ mối: Mụ ơi, vấn đề tiền bạc như thế cũng đã tạm xong, tôi muốn phiền mụ đến nhà Chung công báo cho ông biết, và xin ông cho cha với em tôi về…
C) TẤM LÒNG NHÂN ĐẠO CỦA NGUYỄN DU
- KHINH BỈ VÀ CĂM PHẪN BỌN BUÔN NGƯỜI:
Diện mạo của Mã Giám Sinh bộc lộ cái nhìn khinh bỉ, căm tức của tác giả Nguyễn Du. Nhà thơ đã dùng những từ ngữ hết sức đắt giá để không nói trực tiếp mà vẫn bộc lộ được thái độ của mình.
Số phận đáng thương của nàng Kiều
Tấm lòng trong sáng, ý thức về phẩm giá
Nghệ thuật ước lệ
7. - TỐ CÁO THẾ LỰC ĐỒNG TIỀN
Vì tiền mà Thúy Kiều bị đẩy vào cảnh bán mua, trở thành món hang rẻ mạt. Những kẻ như Mã Giám Sinh thì dựa vào tiền, cho rằng “Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”, và vì thế mà hắn hợm hĩnh, phũ phàng trước cái đẹp, cái tài.
- CẢM THƯƠNG SÂU SẮC TRƯỚC THỰC TRẠNG CON NGƯỜI BỊ CHÀ ĐẠP TRONG XH ĐƯƠNG THỜI
Nguyễn Du đau đớn vì cái tài, cái đẹp phải trở thành món đồ chơi của tạo hóa, bị vùi dập không thương tiếc trong một thời cuộc tàn nhẫn, phũ phàng. Nguyễn Du như hóa thân vào nhân vật, “đi một bước đường một đau”. TỔNG KẾT
- Bức tranh hiện thực xã hội đương thời
- Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du
- Nghệ thuật tả thực đặc sắc