Cơ sở lý luận về thời hiệu khởi kiện thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam. - Thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế được xác định theo khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 như sau: “Thời hiệu để người thừa kế chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Cũng tại khoản này, BLDS 2015 đã quy định rõ hướng giải quyết một cách triệt để di sản thừa kế trong trường hợp hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản: “Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Cơ sở lý luận về thời hiệu khởi kiện thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam.docx
1. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN THỪA KẾ
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1.Cơ sở pháp lý, khái niệm và một số vấn đề liên quan đến thời hiệu khởi kiện
về thừa kế
1.1.1.Cơ sở pháp lý
Bộ luật Dân sự 2015 quy định rõ 04 loại thời hiệu khởi kiện về thừa kế là thời hiệu
khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế, thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu xác
nhận quyền thừa kế của mình, thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu bác bỏ quyền
thừa kế của người khác và thời hiệu khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về
tài sản của người chết để lại (Điều 623).
- Thời hiệu khởi kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại được
xác định theo quy định tại khoản 3 Điều 623 BLDS 2015: “Thời hiệu yêu cầu người thừa
kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa
kế.”
- Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình
hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác được xác định theo khoản 2 Điều 623 BLDS
2015: “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình
hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”
- Thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế được xác định theo khoản 1 Điều
623 BLDS 2015 như sau: “Thời hiệu để người thừa kế chia di sản là 30 năm đối với bất
động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Cũng tại khoản này,
BLDS 2015 đã quy định rõ hướng giải quyết một cách triệt để di sản thừa kế trong trường
hợp hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản: “Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người
thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản
thì di sản được giải quyết như sau:
2. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
a. Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236
của Bộ luật này.
b. Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a
khoản này.”
1.1.2.Một số khái niệm
a. Thời hiệu
Theo quy định tại BLDS 2015 thì: “Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết
thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy
định.” Trong đó, thời hạn được hiểu là một khoảng thời gian xác định từ thời điểm này đến
thời điểm khác và được xác định bằng phút, giờ, ngày, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện
pháp lý xảy ra (Khoản 1 Điều 149).
Ngoài những khái niệm được quy định trong các văn bản pháp luật, thời hiệu còn
được diễn giải theo nhiều cách khác nhau bởi một số nhà nghiên cứu luật học mà theo tác
giả không có sự khác biệt lớn về nội hàm của những khái niệm này. Tiêu biểu là khái niệm
về thời hiệu của PGS.TS. Đỗ Văn Đại: “Thời hiệu là một cách thức, biện pháp làm chủ thể
có được hoặc bị mất đi quyền của mình, thông qua một khoảng thời gian nhất định với
những điều kiện do pháp luật quy định.”
b. Thời hiệu khởi kiện
Theo quy định tại Điều 150 BLDS 2015:“Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể
được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện”. Luật tố tụng
hành chính 2015 cũng có khái niệm tương tự, theo đó: “Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà
cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành
chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất
quyền khởi kiện”.
Trong dân sự, lợi ích của các bên là ngọn ngành dẫn đến việc tranh chấp. Tranh chấp
pháp lý sẽ không thể xảy ra nếu không có hành vi khởi kiện của các bên. Khởi kiện là cơ
3. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
sở pháp lý làm phát sinh quan hệ tố tụng dân sự. Quyền khởi kiện của chủ thể sẽ mất đi khi
hết thời hiệu mà pháp luật quy định và lúc này chủ thể không thể bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm.
c. Thời hiệu khởi kiện thừa kế
Hiện tại, pháp luật chỉ quy định về thời hiệu nói chung và thời hiệu khởi kiện trong
quan hệ dân sự, chưa có khái niệm cụ thể về thời hiệu khởi kiện thừa kế. Có thể hiểu thời
hiệu khởi kiện về thừa kế là thời hạn mà chủ thể được hưởng quyền khởi kiện để yêu cầu
tòa án giải quyết tranh chấp thừa kế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu
thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện.
d. Thời điểm mở thừa kế
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án
tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được Tòa án xác định là
ngày chết của người đó (Khoản 1 Điều 611 BLDS 2015).
e. Quyền thừa kế
Về mặt pháp lý, quyền thừa kế là quyền của chủ thể lập di chúc để định đoạt tài sản
của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật hoặc quyền được hưởng
di sản do người khác để lại (Điều 609 BLDS 2015).
f. Người quản lý di sản
Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc được những người
thừa kế thỏa thuận lựa chọn để quản lý di sản của người chết để lại. Trường hợp di chúc
không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý
di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến
khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản. Trong đó, người đang chiếm hữu
được hiểu là người đang nắm giữ, chi phối một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể
có quyền đối với tài sản (Điều 616 BLDS 2015).
1.1.3.Một số vấn đề liên quan đến thời hiệu khởi kiện về thừa kế
4. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
a. Phân loại thời hiệu trong pháp luật về thừa kế
Về thời hiệu khởi kiện thừa kế, Điều 623 BLDS 2015 và Điều 645 BLDS 2005 có
cùng cách phân loại khi chia thời hiệu khởi kiện thừa kế thành 04 loại là thời hiệu khởi
kiện yêu cầu chia di sản thừa kế, thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu xác nhận
quyền thừa kế của mình, thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu bác bỏ quyền thừa
kế của người khác và thời hiệu khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài
sản do người chết để lại.
- Thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế
Di sản thừa kế bao gồm tài sản, các quyền tài sản được xác lập dựa trên những căn
cứ hợp pháp mà người chết để lại cho những người thừa kế.
Pháp luật thừa kế ràng buộc người có quyền thừa kế phải thực hiện quyền của mình
trong một khoảng thời gian nhất định, cụ thể tại khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 quy định
thời hiệu để người thừa kế chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động
sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Quá thời hạn này, những người thừa kế sẽ không thể thực
hiện được việc phân chia di sản nếu không thể thỏa thuận được với nhau.
- Thời hiệu yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình
Quyền thừa kế là một chế định của ngành luật dân sự bao gồm tổng hợp các quy phạm
pháp luật điều chỉnh quá trình dịch chuyển vật chất từ người chết cho những người còn
sống. Việc ghi nhận và xác định quyền này là quyền năng cụ thể của mỗi một cá nhân trong
việc để lại thừa kế, quyết định việc để lại thừa kế như thế nào, ai là người được hưởng di
sản, tước quyền hưởng di sản của ai,…
Quyền thừa kế của chủ thể không phải lúc nào cũng được bảo đảm, trong nhiều trường
hợp vì những lý khác nhau như do ý chí của người để lại di sản hoặc do việc xác định thiếu
sót của cơ quan có thẩm quyền,… mà quyền này không được thừa nhận. Để bảo vệ quyền
lợi của mình, chủ thể bị xâm phạm phải thực hiện hành vi khởi kiện yêu cầu tòa án xác
nhận quyền thừa kế của mình để có thể trở thành người thừa kế, được thừa hưởng di sản
do người chết để lại. Tương tự như việc phân chia di sản thừa kế, chủ thể sẽ phải thực hiện
5. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
quyền này trong khoảng thời gian luật định, mà cụ thể tại khoản 2 Điều 623 BLDS 2015:
“Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền
thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.” Như vậy, sau 10 năm kể
từ thời điểm mở thừa kế, chủ thể không thể thực hiện quyền yêu cầu của mình để có thể
trở thành người được hưởng di sản thừa kế.
- Thời hiệu yêu cầu bác bỏ quyền thừa kế của người khác
Về nguyên tắc, khi có càng nhiều người có quyền thừa kế thì phần di sản mà mỗi
người được hưởng sẽ càng ít đi, sẽ khó có thể chấp nhận khi di sản mà mình được hưởng
bị chia nhỏ hơn vì một người mà mình cho rằng không có quyền hoặc không đáng được
hưởng di sản thừa kế. Trong trường hợp này, có thể yêu cầu tòa án bác bỏ quyền thừa kế
của những người này. Thời hạn để một người có thể yêu cầu tòa án loại bỏ quyền thừa kế
của người khác là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Quá thời hạn nêu trên thì những
người có quyền thừa kế sẽ mất quyền yêu cầu của mình (Khoản 2 Điều 623 BLDS 2015).
- Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại
Nghĩa vụ tài sản của người chết để lại là món nợ của người đó phát sinh từ những
hành vi pháp lý của họ, các nghĩa vụ này phát sinh từ giao dịch dân sự, hành vi gây thiệt
hại hoặc từ quan hệ pháp luật khác mà khi chết người này chưa kịp thực hiện. Điều 615
BLDS 2015 quy định: “Những người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản
trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.” Quy định
này có nghĩa là việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết là trách nhiệm bắt buộc của
những người thừa kế dùng chính di sản của người chết để lại để thực hiện. Tuy nhiên, dù
cho nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại có lớn hơn di sản thừa kế thì những người
thừa kế cũng chỉ có trách nhiệm thực hiện trong phạm vi di sản này, trừ trường hợp những
người thừa kế tự nguyện thực hiện toàn bộ nghĩa vụ do người chết để lại, kể cả phần nghĩa
vụ vượt phạm vi di sản thừa kế.
6. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Thời hạn để người được thực hiện nghĩa vụ yêu cầu những người thừa kế thực hiện
nghĩa vụ đối với mình thay cho người quá cố là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế (Khoản
3 Điều 623 BLDS 2015).
b. Ý nghĩa của việc xác định thời hiệu
- Việc pháp luật quy định thời hiệu nói chung, thời hiệu thừa kế nói riêng có ý nghĩa
rất lớn trong việc ổn định, thúc đẩy các mối quan hệ dân sự diễn ra một cách thuận lợi,
minh bạch và nhanh chóng1
.
- Đối với các bên của quan hệ dân sự, họ phải chủ động tìm hiểu những quy định về
thời hiệu nếu muốn bảo vệ quyền lợi của mình. Việc làm này không những giúp tạo nên sự
yên tâm, tin tưởng cho chủ thể khi tham gia vào quan hệ dân sự mà còn tạo nên thói quen
tiếp cận, tìm hiểu pháp luật, một thói quen không thường thấy ở người Việt Nam.
- Việc pháp luật quy định thời hiệu thừa kế còn tạo điều kiện thuận lợi cho tòa án, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế. Một giao dịch dân
sự được xác lập, thực hiện trong một khoảng thời gian quá lâu sẽ gây không ít khó khăn
cho Tòa án trong việc xác minh, thu thập chứng cứ để giải quyết tranh chấp, dẫn đến có
thể đưa ra những quyết định thiếu chính xác, xâm phạm đến quyền lợi của đương sự.
c. Cách tính thời hiệu
Theo quy định tại Điều 151 BLDS 2015, thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu
ngày đầu tiên của thời hiệu và kết thúc vào thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu.
Riêng thời hiệu thừa kế thì tùy vào yêu cầu của những người thừa kế mà thời hiệu sẽ
là khác nhau. Cụ thể, đối với yêu cầu chia sản thừa kế, đương sự sẽ có thời hiệu yêu cầu là
30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời
hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa
kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu yêu cầu thực hiện
1
Nguyễn Hải An (2006), “Một số vấn đề về thời hiệu khởi kiện thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam”,
Đại học quốc gia Hà Nội, địa chỉ: http://text.123doc.org/document/2598020-mot-so-van-de-ve-thoi-hieu-
khoi-kien-ve-thua-ke-trong-phap-luat-dan-su-viet-nam.htm
7. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế (Điều 623
BLDS 2015).
Chúng ta có thể bắt gặp khái niệm về thời điểm mở thừa kế trong quy định nêu trên.
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm mà người để lại di sản qua đời. Trong trường hợp Tòa
án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được Tòa án xác định
là ngày chết của người đó. Vì vậy, khi muốn tòa án giải quyết các yêu cầu liên quan đến
thừa kế, chủ thể cần phải xuất trình các giấy tờ chứng minh rằng người để lại di sản đã chết
như giấy chứng tử, quyết định của tòa án tuyên bố một người đã chết. Lúc này, tòa án sẽ
xác định thời điểm mở thừa kế dựa vào thời điểm người để lại di sản chết được ghi nhận
trong những giấy tờ hợp pháp trên. Thời hiệu thừa kế bắt đầu vào thời điểm mở thừa kế
nên cũng sẽ kết thúc vào thời điểm tương ứng của ngày cuối cùng của thời hiệu. Với cách
xác định thời hiệu như vậy, việc cần làm của những người thừa kế là tìm hiểu quy định của
pháp luật và bảo đảm rằng yêu cầu của mình còn nằm trong thời hiệu được quy định.
d. Thời gian không tính vào thời hiệu
Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu có thể bị gián đoạn bởi những sự kiện pháp lý
được pháp luật dự liệu. Khi xảy ra những sự kiện này thì thời hiệu sẽ bị tạm dừng. Khoảng
thời gian xảy ra những sự kiện này sẽ không tính vào thời hiệu.
Theo quy định tại Điều 156 BLDS 2015, thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện
vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong
các sự kiện sau:
- Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi
kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong thời gian luật định.
Những sự kiện này là không thể lường trước và cũng không thể khắc phục được mặc
dù chủ thể đã thực hiện những biện pháp cần thiết trong khả năng của mình.
- Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, yêu cầu là người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
8. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Những chủ thể thuộc trường hợp nêu trên sẽ không thể nhận thức được quyền và lợi
ích của mình hoặc nhận thức một cách không đầy đủ. Vì vậy, pháp luật quy định phải có
người đại diện thay họ thực hiện quyền khởi kiện, yêu cầu cũng như tham gia vào quan hệ
tố tụng. Trong trường hợp chưa có người đại diện, pháp luật cho phép có một khoảng thời
gian để tìm người đại diện cho họ và khoảng thời gian này sẽ không tính vào thời hiệu khởi
kiện, thời hiệu yêu cầu.
- Người chưa thành niên2
, người mất năng lực hành vi dân sự3
, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế trong trường
hợp sau đây:
+ Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân.
+ Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được.
Sự kiện này xảy ra khi người đại diện của những đối tượng trên không thể tiếp tục
việc đại diện của mình vì những lý do được pháp luật quy định. Khi đó, sẽ phải tìm người
đại diện mới cho họ và khoảng thời gian tìm người đại diện mới sẽ không được tính vào
thời hiệu khởi kiện, thởi hiệu yêu cầu.
1.2.Thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế
1.2.1.Quy định của Bộ luật Dân sự 2005
Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 10 năm, kể từ thời điểm
mở thừa kế. Điều đó có nghĩa sau thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm
người để lại di sản chết), người thừa kế không còn quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản
(Điều 645 BLDS 2005).
2
Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên (Điều 21 BLDS 2015).
3
Người mất năng lực hành vi dân sự là một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình (Điều 22 BLDS 2015).
9. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Để giải quyết vấn đề về phân chi di sản thừa kế sau khi hết thời hiệu khởi kiện, điều
mà BLDS 2005 chưa có quy định, tòa án áp dụng Nghị quyết 02: “Trường hợp trong thời
hạn 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền
thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc khi kết thúc thời hạn 10 năm
mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều xác nhận di sản do người
chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có
tranh chấp và yêu cầu tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện thừa kế, mà
áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.”
Có sự chuyển hóa về quan hệ dân sự trong trường hợp giải quyết tranh chấp về chia
di sản thừa kế theo quy định của Nghị quyết 02, từ yêu cầu chia thừa kế sang yêu cầu chia
tài sản chung. Khi có tranh chấp và yêu cầu tòa án giải quyết, thì không áp dụng thời hiệu
khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung
để giải quyết. Cần phân biệt như sau:
- Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thỏa thuận việc
phân chia di sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia di sản.
- Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thỏa thuận về phần mỗi người
được hưởng khi có nhu cầu chia di sản thì việc chia di sản đó được thực hiện theo thỏa
thuận.
- Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thỏa thuận về phần mỗi
người được hưởng khi có nhu cầu chia di sản thì việc chia di sản đó sẽ được thực hiện theo
quy định về chia tài sản chung.4
Đối chiếu với quy định trên, có hai khả năng có thể xảy ra:
- Nếu các đồng thừa kế gửi đơn khởi kiện đến tòa án mà nội dung khởi kiện về thừa
kế thì tòa án sẽ từ chối thụ lý.
4
Nguyễn Đức Hoàng (13/11/2014), “Thời hiệu khởi kiện thừa kế”, Sài Gòn giải phóng online, địa chỉ:
http://www.sggp.org.vn/nhipcaubandoc/2014/11/366820/
10. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
- Nếu các đồng thừa kế gửi đơn khởi kiện đến tòa án mà nội dung khởi kiện là yêu
cầu giải quyết việc chia tài sản chung giữa các đồng thừa kế thì tòa án sẽ thụ lý đơn. Trong
trường hợp này, tòa án sẽ áp dụng quy định về chia tài sản chung để giải quyết.
Nhưng không phải lúc nào cũng có thể giải quyết việc chia di sản bằng quy định này.
Trên thực tế đã có không ít tranh chấp được giải quyết êm xui nhờ Nghị quyết 02. Tuy
nhiên, cũng có rất nhiều vụ việc không thể giải quyết được cũng từ quy định này, mà lý do
đơn giản là một bên đương sự (thông thường là người quản lý, chiếm hữu di sản) không
thừa nhận đây là tài sản chung và cũng không yêu cầu tòa án phân chia giúp. Để áp dụng
quy định về chia tài sản chung, phải đáp ứng được các điều kiện mà Nghị quyết 02 quy
định, mà một trong số đó là không có tranh chấp về quyền thừa kế, về hàng thừa kế giữa
các đồng thừa kế, đồng thời, những người này phải cùng xác nhận mình là những đồng
thừa kế hoặc xác nhận tài sản chung chưa chia. Những điều kiện trên khó được đáp ứng
một khi đã xảy ra tranh chấp. Chưa kể những di sản không thuộc trường hợp quy định tại
Nghị quyết 02 thì “số phận” vẫn còn bỏ ngỏ.
Rõ ràng việc áp dụng quy định về chia tài sản chung chỉ có thể giải quyết một phần
những tranh chấp về chia di sản sau khi hết thời hiệu khởi kiện, bấy nhiêu là chưa đủ để
khắc phục những thiếu sót trong quy định về thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế của
BLDS 2005, khi mà Bộ luật này quy định còn nhiều thiếu sót và không có văn bản hướng
dẫn thi hành.
1.2.2.Quy định của Bộ luật Dân sự 2015
Có thể nói những thiếu sót trong BLDS 2005 phần lớn đã được sửa đổi, bổ sung trong
BLDS 2015 vừa mới được ban hành. Quy định tại khoản 1 Điều 623 của BLDS 2015 về
thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế: “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là
30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết
thời hạn này thì di sản thuộc về người đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người
thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
11. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
- Di sản thuộc sở hữu của người đang chiếm hữu di sản theo quy định tại Điều 236
của Bộ luật này;
- Di sản thuộc về nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản
này.”
Hai điểm khác biệt lớn có thể thấy ở quy định của BLDS 2015 về thời hiệu thừa kế
đó là chia di thừa kế thành 02 loại, bao gồm động sản và bất động sản với thời hiệu yêu
cầu chia thừa kế khác nhau đối với từng loại và điểm khác biệt thứ hai là hậu quả pháp lý
đối với việc hết thời hiệu thừa kế.
Việc chia di sản thừa kế thành động sản và bất động sản, trong đó bất động sản có
thời hiệu thừa kế dài hơn, theo tác giả có thể do một số lý do nhất định. Thực tế, trong
nhiều trường hợp sau khi người có di sản là bất động sản chết, những người thừa kế vẫn
đang sử dụng chung di sản này (ví dụ như anh em ruột sống chung trong một ngôi nhà là
di sản thừa kế của cha mẹ để lại). Vì vậy, thường thì việc phân chia di sản thừa kế là bất
động sản cần nhiều thời gian hơn so với động sản, nên tác giả cho rằng việc quy định thời
hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản là
hợp lý đứng trên góc độ vừa phân tích.
Với điểm mới thứ hai của quy định về thời hiệu yêu cầu chia di sản, hệ quả của việc
hết thời hiệu khởi kiện sẽ được giải quyết một cách dứt điểm. Theo quy định tại khoản 1
Điều 623 BLDS 2015, sau khi hết thời hiệu khởi kiện, di sản sẽ thuộc về một trong ba chủ
thể sau: người thừa kế đang quản lý di sản, người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều
236 của BLDS 2015 hoặc là nhà nước, tùy từng trường hợp luật định. Đối với di sản chưa
chia, thông thường nếu không có điều kiện cùng nhau quản lý, những người thừa kế có thể
giao lại cho một người trong số họ quản lý di sản. Với quy định mới này, những người thừa
kế phải yêu cầu chia di sản thừa kế trong thời hiệu luật định. Quá thời hiệu trên, di sản thừa
kế đương nhiên thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Nếu di sản không do những
người thừa kế quản lý mà do người không có quyền thừa kế chiếm hữu theo quy định tại
Điều 236 BLDS 2015, tức chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình,
liên tục công khai trong thời hạn 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản,
12. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu di sản thì sau khi hết thời hiệu thừa kế người này sẽ trở
thành chủ sở hữu đối với di sản đang chiếm hữu. Ngoài hai trường hợp trên, khi hết thời
hiệu thừa kế, di sản sẽ thuộc về nhà nước.
Tóm tắt chương 1
Qua lý giải và phân tích như trên có thể đi đến kết luận:
Thừa kế là một bộ phận không thể thiếu được đối với pháp luật của mọi quốc gia,
nên nghiên cứu về thừa kế đã được các nhà khoa học ở Việt Nam và nhiều nước trên
thế giới quan tâm. Ở chương 1 báo cáo đã nêu khái niệm đặc điểm pháp luật về thừa
kế cũng như vai trò của nó, đồng thời báo cáo chỉ ra các nguyên tắc, thời hiệu khởi
kiện thừa kế theo pháp luật Việt Nam, từ đó làm cơ sở đánh giá thực trạng thời hiệu
khởi kiện thừa kế theo pháp luật Việt Nam tại tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi, tỉnh
Kon Tum.