Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về áp dụng pháp luật trong lĩnh vực đăng ký kết hôn. Áp dụng pháp luật là loạt động thực hiện pháp luật mang tính tổ chức quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hoá quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể, đối với cá nhân, tổ chức cụ thể.
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về áp dụng pháp luật trong lĩnh vực đăng ký kết hôn.docx
1. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG LĨNH VỰC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
1.1.Khái niệm áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là loạt động thực hiện pháp luật mang tính tổ chức quyền lực nhà
nước, được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức
xã hội được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hoá quy phạm pháp luật vào các trường
hợp cụ thể, đối với cá nhân, tổ chức cụ thể.1
Áp dụng pháp luật được tiến hành trong các trường hợp sau:
1) Khi xảy ra tranh chấp giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật về quyền và nghĩa
vụ mà tự họ không thể giải quyết được, phải nhờ cơ quan nhà nước (hoặc cơ quan của tổ
chức xã hội) có thẩm quyền giải quyết;
2) Khi quyền và nghĩa vụ của các chủ thể không mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự
can thiệp của Nhà nước;
3) Khi cần áp dụng chế tài pháp luật đối với chủ thể vi phạm pháp luật; 4) Khi nhà
nước thấy cần kiểm tra, giám sát hoạt động của các chủ thể quan hệ pháp luật hoặc để xác
định sự tồn tại hay không tồn tại của sự kiện thực tế có ý nghĩa pháp lí như xác nhận di
chúc, xác nhận văn bằng, chứng chỉ, hợp đồng viết tay, chữ kí của người có thẩm quyền...
1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là hoạt động thể hiện tính tổ chức, quyền lực nhà nước, bởi vì:
– Hoạt động áp dụng chỉ do các cơ quan nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật tiến hành và mỗi chủ thể đó chỉ có thể áp dụng pháp
luật trong một phạm vi nhất định theo quy định của pháp luật.2
– Hoạt động áp dụng pháp luật là sự tiếp tục thể hiện ý chí của nhà nước, thông qua
hoạt động áp dụng pháp luật, ý chí nhà nước thể hiện trong các quy phạm pháp luật trở
thành hiện thực trong thực tế, đuợc thể hiện một cách cụ thể trong các trường hợp cụ thể.
1
Nguyễn Thị Hồi (2009), Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội, tr. 30.
2
https://unilaw.vn/vn/tranh-chap-hop-dong/khai-niem-dac-diem-ap-dung-phap-luat-trong-giai-quyet-an-hon-nhan-
va-gia-dinh-p1.html
2. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
– Khi áp dụng pháp luật, trên cơ sở các quy định của pháp luật, các chủ thể có thẩm
quyền áp dụng có thể ban hành những mệnh lệnh, quyết định có giá trị bắt buộc phải tôn
trọng hoặc thực hiện đối với đối tượng áp dụng. Các mệnh lệnh, quyết định này chủ yếu
thể hiện ý chí đơn phương của chủ thể có thẩm quyền áp dụng mà không phụ thuộc vào ý
chí của đối tượng áp dụng. Các mệnh lệnh, quyết định áp dụng pháp luật của các cơ quan,
tổ chức nhà nước sẽ được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó có
cả biện pháp cưỡng chế nhà nước.
Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức rất cao vì nó vừa là hình thức thực hiện
pháp luật vừa là hình thức chủ thể có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện
các quy định của pháp luật, do vậy, hoạt động này phải được tiến hành theo những điều
kiện, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ do pháp luật quy định.
Áp dụng pháp luật là hoạt động cá biệt hoá các quy phạm pháp luật hiện hành vào những
trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể. Vì thế, áp dụng pháp luật là hoạt
động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội.3
Áp dụng pháp luật là hoạt động thể hiện tính sáng tạo
Bởi vì, các quy định của pháp luật thường mang tính chất chung, khái quát, song các vụ
việc xảy ra trong thực tế vô cùng đa dạng, phong phú và phức tạp. Do vậy, muốn đưa ra
được một quyết định “thấu tình, đạt lý” để giải quyết vụ việc thì cần có sự sáng tạo của
người áp dụng.
1.3. Qui trình áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là một quy trình tổng hợp bao gồm nhiều yếu tố có sự tương
tác lẫn nhau như con người, tổ chức, kỹ thuật, pháp lý. Dựa vào nội dung công việc cụ
thể được thực hiện, khoa học và thực tiễn pháp lý chia quá trình áp dụng pháp luật thành
bốn giai đoạn.
1.3.1.Phân tích tình huống
Trước tiên, cần đánh giá tính chất pháp lý của sự việc xảy ra, xem trong trường hợp
như vậy phải giải quyết bằng pháp luật hay có thể xử lý theo cách khác. Sự việc nằm trong
3
https://unilaw.vn/vn/tranh-chap-hop-dong/khai-niem-dac-diem-ap-dung-phap-luat-trong-giai-quyet-an-hon-nhan-
va-gia-dinh-p1.html
3. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
vùng điều chỉnh của pháp luật khi được các quy phạm pháp luật dự liệu trực tiếp hoặc được
dự đoán từ những nguyên tắc chung, tinh thần cơ bản của pháp luật. Nếu sự việc có tính
chất pháp lý, cần xác định chủ thể thẩm quyền áp dụng pháp luật – cơ quan, cá nhân nào
được pháp luật giao cho thẩm quyền áp dụng pháp luật.4
Cơ quan, cá nhân áp dụng pháp luật tiến hành thu thập, xem xét một cách toàn diện,
đầy đủ, khách quan tất cả các chứng cứ, tình tiết nhằm làm sáng tỏ bản chất, thực trạng của
sự việc.
Quá trình này phải được tiến hành đúng với những quy định của pháp luật về thủ tục.
Hoạt động áp dụng pháp luật là một trong những hình thức thực hiện quyền lực nhà nước,
cho nên các bước làm đều phải theo trình tự, phương thức xác định thống nhất và yêu cầu
phải tuân thủ nghiêm ngặt. Vì vậy, vấn đề quan tâm của chủ thể áp dụng pháp luật không
chỉ là kết quả nhận định sự việc mà còn là cách thức để đi đến kết quả đó. Ap dụng pháp
luật diễn ra trên nhiều lĩnh vực, đối với nhiều đối tượng khá nhau, tùy theo từng loại vụ
việc mà nhà nước quy định những loại thủ tục tương ứng.
1.3.2.Lựa chọn, làm sáng tỏ quy phạm pháp luật áp dụng
Quy phạm pháp luật được lựa chọn phải đáp ứng hai yêu cầu cơ bản. Thứ nhất, quy
phạm pháp luật được lựa chọn phải là quy phạm có hiệu lực, tức là được lựa chọn từ các
văn bản quy phạm pháp luật mà tại thời điểm xảy ra vụ việc cần áp dụng thì chúng đang
có hiệu lực. Thứ hai, quy phạm pháp luật được lựa chọn sát hợp với nội dung, tính chất của
trường hợp áp dụng pháp luật. 5
Các khả năng lựa chọn quy phạm pháp luật có thể xảy ra:
- Có một quy phạm pháp luật thỏa mãn các yêu cầu để áp dụng vào trong trường
hợp cụ thể cần giải quyết(pháp luật quy định rõ ràng).
- Có nhiều quy phạm pháp luật cùng dự liệu về trường hợp xảy ra với các cách thức
giải quyết khác nhau)xung đột pháp luật).
- Chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh về trường hợp xảy ra(lỗ hổng pháp luật).
Để đáp ứng các yêu cầu trên cần tiến hành các bước:
4
Học viện Hành chính Quốc gia, Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, NXB Giáo dục, H. 2007
4. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
- Trước hết, xác định vụ việc thuộc phạm vi điều chỉnh của mảng, ngành luật nào.
- Kế tiếp, lựa chọn quy phạm pháp luật tương ứng, dự liệu cho trường hợp cụ thể.
Ở đây cần phải hiểu, có hai loại quy phạm pháp luật cùng có liên quan đến việc đưa ra
quyết định áp dụng pháp luật, đó là quy phạm nội dung và quy phạm hình thức hay quy
phạm thủ tục.
Cần nắm vững những quy định hiệu lực pháp luật( về thời gian, không gian, theo
đối tượng áp dụng) của văn bản quy phạm pháp luật; nguyên tắc áp dụng; công khai văn
bản quy phạm pháp luật:6
+ Văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo; văn bản quy phạm pháp
luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành, trừ trường hợp văn bản quy phạm
pháp luật quy định các biện pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp, văn bản được ban
hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai, dịch bệnh. Văn bản quy phạm
pháp luật đăng trên Công báo là văn bản chính thức và có giá trị như văn bản gốc.
+ Chỉ trong những trường hợp cần thiết, văn bản quy phạm pháp luật mới được quy
định hiệu lực trở về trước. Không được quy định hiệu lực trở về trước đối với các trường
hợp quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực hiện hành vi
đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý; quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn.
Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách nhiệm pháp lý
hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra trước ngày văn bản có
hiệu lực thì áp dụng văn bản mới.
+ Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong các trường
hợp: hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản; được sửa đổi, bổ sung hoặc
thay thế bằng văn bản mới của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó; bị hủy bỏ
hoặc bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
+ Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước trung ương có hiệu lực
trong phạm vi cả nước và được áp dụng đối với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân, trừ trường
6
Học viện Hành chính Quốc gia, Giáo trình Hiến pháp và Luật tổ chức bộ máy nhà nước, NXB Giáo dục, H. 2007
5. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
hợp văn bản có quy định khác hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên có quy định khác.
+ Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng
một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Trong trường hợp các văn bản
quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau về cùng một
vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản được ban hành sau. Ở đây, không loại trừ các văn
bản có cùng cấp độ hiệu lực nhưng do các chủ thể khác nhau ban hành có các qui định trái
ngược nhau. Gặp trường hợp này, nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng pháp luật không
được lựa chọn qui định trong văn bản được ban hành sau để giải quyết, bởi vậy, rất có thể
vụ việc không thể giải quyết được mà cần kiến nghị cấp có thẩm quyền cao hơn yêu cầu
sửa đổi, bổ sung những qui định của cơ quan cấp dưới.7
+Các vấn đề liên quan đến áp dũng pháp luật theo cách tương tự.
- Tiếp theo, làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của quy phạm pháp luật được lựa chọn.
1.3.3. Ra quyết định áp dụng pháp luật
- Đây là giai đoạn quan trọng bởi nó phản ánh kết quả thực tế của quá trình áp dụng
pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền. Về bản chất, đây là giai đoạn chuyển hóa những
qui định chung được nêu ra trong các qui phạm pháp luật thành những qui định cụ thể, cá
biệt. Quyết định áp dụng pháp luật được hiểu là loại quyết định do cơ quan, tổ chức hoặc
cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp luật ban hành theo hình thức, thủ tục do pháp luật
quy định, nhằm cụ thể hóa các quy phạm pháp luật thành mệnh lệnh pháp luật áp dụng đối
với đối tượng xác định trong trường hợp cụ thể và được nhà nước bảo đảm thực hiện.8
- Quyết định áp dụng pháp luật có các đặc điểm sau đây:
* Quyết định áp dụng pháp luật được ban hành bởi cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
có thẩm quyền áp dụng pháp luật.
Khác với các hình thức thực hiện pháp luật khác, áp dụng pháp luật chỉ được thực
hiện bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Áp dụng pháp luật thực
7
Xem: Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay. Đề tài nghiên cứu khoa học Trường Đại học Luật Hà Nội, 2009.
8
Học viện Hành chính Quốc gia, Giáo trình Hiến pháp và Luật tổ chức bộ máy nhà nước, NXB Giáo dục, H. 2007
6. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
chất là việc cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân thực hiện thẩm quyền do pháp luật quy định để
giải quyết các công việc phát sinh trong quá trình hoạt động của các chủ thể đó. Vì thế, chỉ
có các chủ thể này mới có thể ban hành ra các quyết định áp dụng pháp luật để giải quyết
vụ việc thuộc thẩm quyền của mình. Pháp luật luôn quy định mỗi loại việc chỉ được giải
quyết bởi hay chủ yếu bởi một loại cơ quan, tổ chức nhất định và mỗi loại việc lại tùy theo
mức độ phức tạp hay đơn giản, quan trọng hay ít quan trọng mà được giải quyết bởi các cơ
quan, tổ chức ở các cấp khác nhau bằng loại quyết định phù hợp. Chủ thể ban hành quyết
định áp dụng pháp luật chủ yếu là các cơ quan, tổ chức nhà nước, song cũng có thể là cơ
quan, tổ chức được nhà nước trao quyền hoặc uỷ quyền. Ví dụ, tất cả các trường đại học,
dù là công lập hay dân lập cũng đều có quyền ban hành ra quyết định áp dụng pháp luật để
công nhận tốt nghiệp cho những sinh viên đủ điều kiện tốt nghiệp theo quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo.
Các quyết định áp dụng pháp luật được ban hành ra phải đảm bảo tính khách quan,
hợp pháp cũng như sự phù hợp cả về nội dung và hình thức. Sự phù hợp của quyết định áp
dụng pháp luật được đưa ra cần phải xem xét ở cả hai khía cạnh là pháp lý và thực tế. Theo
đó, mức độ cá thể hóa càng chi tiết, sát thực về nội dung, yêu cầu và đảm bảo khách quan
thì quyết định áp dụng pháp luật càng chính xác, hiệu quả.
Quyết định áp dụng pháp luật có thể được thể hiện bằng lời nói hoặc bằng văn bản.
Việc các quyết định áp dụng pháp luật được thể hiện bằng lời nói trên thực tế không phổ
biến mà chỉ được dùng trong một số trường hợp do điều kiện thực tế không cho phép hoặc
không cần ban hành quyết định bằng văn bản. Chẳng hạn, người chỉ huy các tàu chiến hoặc
máy bay chiến đấu đưa ra quyết định trong trường hợp khẩn cấp.
Ở nước ta hiện nay, quyết định áp dụng pháp luật chủ yếu được thể hiện bằng văn
bản và nó được gọi là văn bản áp dụng pháp luật. Có thể hiểu, văn bản áp dụng pháp luật
là văn bản do các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp luật ban hành
theo trình tự, thủ tục, tên gọi luật định, trong đó có chứa đựng các mệnh lệnh pháp lý cá
biệt hoặc xác định rõ quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể hoặc các hình thức khen thưởng cụ
thể hoặc các biện pháp cưỡng chế nhà nước cụ thể đối với các chủ thể cụ thể và được Nhà
nước đảm bảo thực hiện.
7. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
* Quyết định áp dụng pháp luật được ban hành theo hình thức, thủ tục pháp luật
quy định.
Quyết định áp dụng pháp luật thường trực tiếp làm phát sinh những quyền và nghĩa
vụ của các đối tượng có liên quan. Vì vậy, quyết định áp dụng pháp luật nếu được ban hành
kịp thời, đúng đắn thì sẽ bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích chính đáng đã, đang bị xâm
hại hoặc đang bị đe dọa xâm hại, hay tạo điều kiện đầy đủ cho các đối tượng tác động của
quyết định thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình. Ngược lại, quyết định áp dụng pháp
luật sai trái cũng có khả năng gây tổn hại các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức và cộng đồng. Chính vì vậy, Nhà nước đưa ra nhiều yêu cầu nhằm đảm bảo chất lượng
của quyết định áp dụng pháp luật trong đó có yêu cầu đúng hình thức, thủ tục pháp luật
quy định. Tùy theo loại việc và tính chất, mức độ của công việc cần ban hành quyết định
áp dụng pháp luật để giải quyết, pháp luật quy định những loại quyết định được sử dụng
và thủ tục ban hành các quyết định đó. Chẳng hạn, để quyết định thanh tra việc thực hiện
pháp luật của một đơn vị thì quyết định cần ban hành là quyết định thanh tra và quyết định
này được ban hành theo thủ tục quy định trong Luật thanh tra… Những trường hợp quyết
định áp dụng pháp luật ban hành không đúng hình thức có thể gây hiểu lầm về nội dung,
tính chất vụ việc, ban hành không đúng thủ tục có thể làm cho nội dung quyết định không
chính xác, thiếu khách quan nên không ít trường hợp quyết định áp dụng pháp luật được
ban hành không đúng thủ tục, không có hiệu lực pháp lí.
* Quyết định áp dụng pháp luật có nội dung là các mệnh lệnh cụ thể hóa quy phạm
pháp luật vào những trường hợp cụ thể, áp dụng đối với đối tượng xác định.
Quy phạm pháp luật là những khuôn mẫu hành vi cho dù có mức độ cụ thể nhất định
nhưng không tránh khỏi tính phổ quát để có thể thích ứng với những điều kiện thực tiễn
phức tạp và thường xuyên thay đổi. Áp dụng pháp luật chính là hoạt động lấy cái chung để
áp dụng vào cái riêng biệt, cái cụ thể. Giá trị của hoạt động áp dụng pháp luật thể hiện ở
chỗ vụ việc được giải quyết hoàn toàn phù hợp với những đặc điểm, điều kiện cụ thể của
nó trong giới hạn chung mà pháp luật quy định. Hoạt động áp dụng pháp luật mang tính
sáng tạo rõ rệt, nhưng là sự sáng tạo trong khuôn khổ pháp luật. Nội dung quyết định áp
dụng pháp luật không được vượt quá phạm vi các quy phạm pháp luật được chọn để áp
8. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
dụng. Vì vậy, một vụ việc xảy ra ở những thời điểm khác nhau, đối với các đối tượng khác
nhau thì nội dung quyết định áp dụng có thể khác nhau. Chẳng hạn, hai người đều thực
hiện hành vi vi phạm hành chính cùng loại nhưng một người thực hiện hành vi với một số
tình tiết tăng nặng và một người thực hiện hành vi không có tình tiết tăng nặng hay giảm
nhẹ thì mức phạt tiền dành cho hai người sẽ khác nhau. Do nội dung quyết định phải phù
hợp với những tình tiết cụ thể của vụ việc được áp dụng nên mỗi quyết định chỉ được áp
dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng nhất định trong một trường hợp nhất định
mà thôi.
* Quyết định áp dụng pháp luật là cơ sở pháp lí để tổ chức thực hiện pháp luật, là
căn cứ để đánh giá năng lực của cơ quan, tổ chức, cá nhân ban hành quyết định, để kiểm
tra, giám sát sự tuân thủ pháp luật của các đối tượng có liên quan.
Đối với các cá nhân, tổ chức không sử dụng quyền lực nhà nước, mặc dù có tới ba
hình thức thực hiện pháp luật (chỉ trừ hình thức áp dụng pháp luật) như đã nói ở trên nhưng
trong nhiều trường hợp các cá nhân, tổ chức không thể trực tiếp thực hiện pháp luật được
mà cần đến sự can thiệp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp này,
các cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng pháp luật đóng vai trò người tổ chức cho các
cá nhân, tổ chức đó thực hiện pháp luật. Trong một số trường hợp khác, cơ quan, người có
thẩm quyền phải áp dụng pháp luật để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp hay giải quyết
các tranh chấp giữa các cá nhân, tổ chức, cơ quan. Bằng việc ban hành quyết định áp dụng
pháp luật, cơ quan, người áp dụng pháp luật quy định các cá nhân, tổ chức có liên quan có
những quyền và nghĩa vụ gì, thời hạn và cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó,
hậu quả của việc không thực hiện các nghĩa vụ đã được xác định là gì, phương thức bảo vệ
các quyền và lợi ích liên quan đến nội dung quyết định áp dụng pháp luật. Ví dụ, nội dung
quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải ghi rõ hình thức xử phạt chính, hình thức xử
phạt bổ sung (nếu có), thời hạn, nơi thi hành quyết định xử phạt, quyền khiếu nại, khởi kiện
đối với quyết định xử phạt hành chính, quyết định cũng ghi rõ cá nhân, tổ chức bị xử phạt
nếu không tự nguyện chấp hành thì bị cưỡng chế thi hành9
. Như vậy, quyết định áp dụng
9
Điều 68 Luật Xử lí vi phạm hành chính
9. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
pháp luật là cơ sở để các cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều quy định của pháp luật mà nếu
không có các quyết định áp dụng này thì họ không thể thực hiện được. Cũng chính vì thế,
quyết định áp dụng pháp luật là căn cứ để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát,
kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của các đối tượng có liên quan. Chẳng hạn, căn cứ quyết
định thanh tra, cơ quan có thẩm quyền có thể xác định được cơ quan thanh tra đã tiến hành
hoạt động thanh tra đúng thủ tục, đúng thời hạn, đúng phạm vi thanh tra hay không; căn cứ
quyết định giải quyết khiếu nại, cơ quan có thẩm quyền có thể kiểm tra, giám sát được hoạt
động khôi phục các quyền và lợi ích chính đáng của người khiếu nại đã bị xâm hại bởi
quyết định hành chính bị khiếu nại hay kiểm tra, giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại
lần hai, kiểm tra hoạt động xét xử vụ án hành chính trong trường hợp người khiếu nại khiếu
nại tiếp hay kiện ra tòa hành chính. Bên cạnh đó, thông qua quyết định áp dụng pháp luật
cũng có thể đánh giá phần nào năng lực hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền như
đánh giá về tinh thần trách nhiệm trong việc tuân thủ các thời hạn trong khi áp dụng pháp
luật, về khả năng nhìn nhận, đánh giá, giải quyết vụ việc trên cơ sở các tình huống thực tế
và các quy định của pháp luật. Từ đó có thể tìm ra các giải pháp hợp lí nâng cao năng lực
hoạt động của cơ quan nhà nước và chất lượng của quyết định áp dụng pháp luật.10
1.4. Pháp luật về hộ tịch
1.4.1. Khái niệm pháp luật về hộ tịch
Thứ nhất, hộ tịch là một giá trị nhân thân, gắn chặt với cá nhân con người, bởi vì,
mỗi người chỉ có một thời điểm sinh, một thời điểm chết. Các dấu hiệu về cha đẻ, mẹ đẻ,
dân tộc, giới tính là những dấu hiệu giúp người ta phân biệt từng cá nhân con người. Do
đó, đây là các giá trị nhân thân gắn với một con người cụ thể từ khi sinh ra đến khi chết
Thứ hai, hộ tịch là những giá trị, về nguyên tắc không chuyển đổi cho người khác.
Đặc điểm này là hệ quả của của đặc điểm thứ nhất. Do đó, việc thực hiện các sự kiện hộ
tịch phải do trực tiếp cá nhân người đó thực hiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác (như: khai sinh có thể do bố, mẹ đi đăng ký kết hôn; khai tử do người thân của người
chết đăng ký khai tử).
10
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, NXB ĐHQG Hà Nội,
2005
10. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Thứ ba, hộ tịch là những sự kiện nhân thân không lượng hoá được thành tiền. Chính
vì vậy, hộ tịch không phải là một loại hàng hóa có thể trao đổi trên thị trường.
1.4.2.Pháp luật hộ tịch về đăng ký kết hôn
Những quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn
Điều kiện kết hôn theo pháp luật quy định được ghi nhận ở Điều 7 và Điều 10 của
Luật hôn nhân và gia đình (Luật HN&GĐ) năm 2014
Điều 9 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quy định về các điều kiện kết hôn
như sau :11
“ Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;
2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối
bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;
3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 10
của Luật này.”
Các trường hợp bị cấm kết hôn theo Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình là các trường
hợp sau :
“1. Người đang có vợ hoặc có chồng;
2. Người mất năng lực hành vi dân sự;
3. Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi
ba đời;
4. Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố
chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng
của chồng;
5. Giữa những người cùng giới tính.”
Những hạn chế của pháp luật về điều kiện kết hôn
a. Điều kiện kết hôn được quy định trong Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình
11
Điều 9 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014
11. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Điều kiện về tuổi kết hôn : Theo quy định về khoản 1 Điều 9 luật HN&GĐ năm
2014, tuổi kết hôn là “nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên”. Theo quy
định này thì “không bắt buộc nam phải đủ từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổI trở
lên mới được kết hôn; do đó nam đã bước sang tuổi hai mươi, nữ đã bước sang tuổi mười
tám mà kết hôn là không vi phạm điều kiện về độ tuổi kết hôn” (mục 1 điểm a Nghị quyết
số 02/2014/NQ-HDTP ngày 23/12/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 2014). Ví dụ: chị Nguyễn Thị
A sinh ngày 26/3/1993 thì đến ngày 26/3/2014 chị A tròn 17 tuổI. Từ sau ngày 26/3/2014
coi như chị A bước sang tuổi mười tám và được phép kết hôn.
Luật HN&GĐ quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu như vậy là phù hợp với sự phát triển tâm
sinh lý của con người, phù hợp với thực tiễn đời sống HN&GĐ của xã hội Việt Nam. Quy
định này thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với sức khỏe của nam và nữ, đảm bảo
cho nam nữ có thể đảm đương được trách nhiệm của mình đối với gia đình, đồng thời còn
đảm bảo cho con cái sinh ra được khỏe mạnh về thể lực lẫn trí tuệ.Tuy nhiên, cách quy
định độ tuổi kết hôn như hiện nay đã dẫn tới những cách tính tuổi không thống nhất trong
thực tiễn xét xử. Trên thực tế có hai cách tính tuổi:
+ Một là tính theo tuổi tròn: nghĩa là khi đủ 12 tháng mới được tính là một tuổi, căn
cứ vào ngày, tháng, năm sinh ghi trong giấy tờ hộ tịch để tính.
+ Hai là tính tuổi theo ngày đầu năm dương lịch: nghĩa là chỉ căn cứ vào năm sinh,
cứ qua ngày 1 tháng 1 đầu năm dương lịch được tính thêm một tuổi.
Lâu nay các cơ quan hộ tịch ở nước ta thường hiểu theo cách thứ nhất. Trong khi đó, Nghị
quyết số 02/2014NQ-HĐTP ngày 23-12-2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 quy định như sau
“ nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên không bắt buộc nam phải từ đủ 20 tuổi trở
lên, nữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn”. Bên cạnh đó, theo quy định tại Bộ
luật dân sự (BLDS) năm 2015, nếu nữ chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, khi xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý (Điều 20).
Người vợ 17 tuổi 1 ngày theo Luật HN&GĐ có các quyền và nghĩa vụ về tài sản như quyền
có tài sản riêng, quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng...Nhưng theo BLDS thì
12. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
người vợ này vẫn là chưa thành niên khi thực hiện các quyền về tài sản của mình. Khi họ
xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được sự đồng ý của cha mẹ là người đại diện
theo pháp luật (Điều 22 BLDS 2015). Pháp luật mới chỉ đề cập đến năng lực pháp luật mà
chưa đề cập đến năng lực hành vi của người vợ 17 tuổi 1 ngày này. Mặt khác, quy định về
tuổi trong Luật HN&GĐ sẽ mâu thuẫn với với Bộ luật hình sự năm 2015 về tội tảo hôn (
Điều 148 ). Vì vậy, luật HN&GĐ cần xem xét lại việc quy định độ tuổi kết hôn này cho
phù hợp, tránh những vấn đề phức tạp xảy ra trong việc sở hữu và quản lý tài sản trong hôn
nhân.
Điều kiện về sự tự nguyện của các bên: Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ là một trong
những nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ. Thực hiện hôn nhân tự nguyện Luật HN&GĐ
năm 2014 cấm “lừa dối để kết hôn”. Nghị quyết số 02/2014/NQ-HĐTP cũng đã hướng dẫn
về những trường hợp được coi là “một bên lừa dối”. Nhưng khi hướng dẫn về vấn đề này,
Hội đồng thẩm phán chỉ liệt kê một số hành vi thể hiện sự lừa dối: “ví dụ: lừa dối là nếu
kết hôn sẽ xin việc làm phù hợp, hoặc nếu kết hôn sẽ bảo lãnh ra nước ngoài..” mà không
đưa ra những tiêu chí để xác định như thế nào là “lừa dối”. Việc hướng dẫn như vậy không
khái quát hết được những hành vi lừa dối để kết hôn xảy ra trong thực tiễn, trong khi các
mối quan hệ trong thực tế đời sống rất đa dạng. Đồng thời, cũng theo hướng dẫn này, ngoài
những trường hợp đã được nêu ví dụ, nhiều trường hợp khác tương tự cũng được coi là
hành vi lừa dối vi phạm nguyên tắc tự nguyện trong việc kết hôn. Điều này sẽ dẫn đến
những cách hiểu không thống nhất khi đánh giá những hành vi có tính chất tương tự, hành
vi nào là lừa dối hay không phải là lừa dối. Vì vậy, Luật HN&GĐ cần quy định rõ vấn đề
này.
b. Những trường hợp bị cấm kết hôn theo quy định của Điều 10 Luật hôn nhân
và gia đình
Luật hôn nhân và gia đình cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn. Nếu vào
thời điểm đăng kí kết hôn, quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự của tòa án có
hiệu lực pháp luật thì việc kết hôn của họ là trái pháp luật. Việc quy định như vậy là cần
thiết bởi trong trường hợp này, người mất năng lực hành vi dân sự không thể nhận thức và
thực hiện được các nghĩa vụ của mình, không có khả năng gánh vác những nghĩa vụ chung
13. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
trong đời sống gia đình. Quy định này nhằm đảm bảo hạnh phúc của vợ chồng, con cái
trong quan hệ gia đình. Song thực tiễn ở nước ta hiện nay, với truyền thống đạo đức tốt đẹp
của người Việt, có những người vì tình yêu thương chân thành và trách nhiệm sẵn sàng
chia sẻ cuộc sống với những người mất khả năng nhận thức, tự nguyện gắn bó với họ để
bù đắp phần nào những tổn thất cho họ. Trong hoàn cảnh này, người bị mất năng lực hành
vi dân sự cũng rất cần có người yêu thương, chăm sóc, ở bên và giúp đỡ trong cuộc sống.
Đây là một vấn đề nhân đạo mà thực tiễn đặt ra, đòi hỏi pháp luật cần giải quyết sao cho
hợp với đạo lý.
Một vấn đề gây tranh cãi và đang có nhiều cách giải quyết khác nhau trên thế giới
đó là việc kết hôn giữa những người cùng giới tính. Ở nước ta, quan hệ đồng giới tính
không còn là hiện tượng mới mẻ, đã xuất hiện những trường hợp các cặp nam nữ đồng giới
tính chung sống như vợ chồng một cách công khai. Đây là hiện tượng trái với thuần phong
mỹ tục của nước ta, hơn nữa, xét về mặt khoa học nó không đảm bảo được chức năng gia
đình là tái sản xuất ra con người để duy trì nòi giống. Trong trường hợp họ đã được đăng
kí kết hôn, sau đó mới có chứng cứ cho rằng họ cùng giới tính thì có thể hủy việc kết hôn
trái pháp luật của họ theo yêu cầu của các cá nhân hoặc các cơ quan nhà nước. Trên thực
tế, có người ngay từ lúc sinh ra đã bị xác định nhầm giới tính. Thông thường, khi mới sinh
ra, việc ghi nhận giới tính được xác định theo cảm quan của viên chức hộ tịch (bằng quan
sát). Bên cạnh đó, y học hiện đại cũng có thể phẫu thuật chuyển đổi giởi tính. Vậy, Nhà
nước sẽ công nhận hay không công nhận giới tính mới của họ và việc kết hôn đổng giới
tính? Vấn đề này cần được hoàn thiện trong Luật hôn nhân và gia đình.
Tiểukếtchương 1
Hoạt động đăng ký kết hôn là một chế định pháp lý quan trọng trong quá trình phát
triển của đất nước trong tình hình mới. Chế định này ra đời và phát triển cùng với sự hình
thành và phát triển của nhà nước. Trải qua quá trình sửa đổi, bổ sung, các quy định của nhà
nước đối với vấn đề này đã được hệ thống hóa trong các văn bản quản lý nhà nước nói
chung và thực sự khẳng định vai trò quan trọng của các quy định này trong hoạt động quản
lý nhà nước về vấn đề này nói chung.
14. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Trên cơ sở tuân thủ quy định của sự vận động khách quan của đất nước trong tình
hình mới, Việt Nam đã xây dựng và ban hành những quy định nhằm điều chỉnh vấn đề
quản lý NN về thủ tục ĐKKH phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn ở nước ta. Hình thành nền
tảng pháp lý cơ bản trong việc thực thi pháp luật về ĐKKH ở Việt Nam, góp phần không
nhỏ trong quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện
nay. Như vậy, có thể thấy pháp luật quy định khá thống nhất và xuyên suốt về vấn đề thủ
tục đăng ký kết hôn. Điều này tạo điều kiện để công tác quản lý về thủ tục đăng ký kết hôn
đã thể hiện sự quan tâm thường xuyên và ý nghĩa của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề
này ở nước ta khi khẳng định vai trò quan trọng của ngân sách khi xây dựng đất nước.
Đồng thời, cùng với hoạt động ban hành các văn bản hướng dẫn nêu trên đã giúp cho quá
trình áp dụng những quy định của pháp luật về thủ tục đăng ký kết hôn ở Việt Nam thực
hiện một cách hoàn thiện hơn. Từ đó hình thành nền tảng pháp lý cơ bản trong việc thực
thi pháp luật về ĐKKH trong tiến trình phát triển đất nước, góp phần không nhỏ nhằm ngăn
chặn những hành vi vi phạm pháp luật cũng như đề cao vai trò của ĐKKH trong quá trình
hội nhập kinh tế - quốc tế hiện nay