SlideShare a Scribd company logo
1 of 73
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN NGHIÊN CỨU VĂN HÓA
HOÀNG CÔNG DỤNG
ĐỒNG DAO VÀ TRÒ CHƠI DÂN GIAN TRẺ EM
Ở HUYỆN KHOÁI CHÂU – HƯNG YÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI –
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN NGHIÊN CỨU VĂN HÓA
HOÀNG CÔNG DỤNG
ĐỒNG DAO VÀ TRÒ CHƠI DÂN GIAN TRẺ EM
Ở HUYỆN KHOÁI CHÂU – HƯNG YÊN
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
MÃ SỐ: 60 31 70
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. Nguyễn Xuân Kính
HÀ NỘI –
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo cùng toàn thể quý
thầy, cô của Viện Nghiên cứu Văn hóa, trường Đại học Văn hóa, trường Đại
học sư phạm Nghệ thuật TW, Vụ Giáo dục Mầm non – Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Ban Văn hóa huyện Khoái Châu – Hưng Yên đã tạo điều kiện cho tôi
trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới GS.TS. Nguyễn Xuân Kính, người
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận văn chắc chắn không tránh
khỏi thiếu sót, kính mong các nhà khoa học, quý thầy, cô giáo chỉ dạy thêm để
giúp tôi mở rộng kiến thức, tạo điều kiện thuận lợi cho thực tiễn nghiên cứu và
công tác sau này.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn.
Hà Nội, ngày …… tháng ……. năm 2010
Tác giả luận văn
Hoàng Công Dụng
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
LỜI CAM ĐOAN
Đây là kết quả công trình nghiên cứu, tổng hợp của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những ý kiến khoa học được
đề cập trong luận văn chưa có ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Nếu có gì sai sót, tôi xin chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày …… tháng ……. năm 2010
Tác giả luận văn
Hoàng Công Dụng
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
MỤC LỤC
Mở đầu 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 5
3. Tình hình nghiên cứu 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
5. Phương pháp nghiên cứu 8
6. Những đóng góp của luận văn 8
7. Bố cục luận văn 9
Chương 1: Khái quát về lịch sử, văn hóa và con người Khoái Châu 10
1.1. Tổng quan về lịch sử, thiên nhiên và môi trường của huyện Khoái Châu 10
1.1.1. Sự hình thành và phát triển 10
1.1.2. Thiên nhiên và môi trường địa lí 12
1.2. Văn hóa và con người Khoái Châu 16
1.2.1. Cư dân Khoái Châu 16
1.2.2. Khoái Châu – vùng phù sa văn hóa 19
Chương 2: Đồng dao 25
2.1. Phân loại đồng dao 25
2.2. Nội dung của đồng dao 31
2.2.1. Đồng dao có nội dung nhắc nhở, răn dạy điều hay lẽ phải 31
2.2.2. Đồng dao chứa đựng tri thức về hoàn cảnh, môi trường sống và quan hệ cộng
đồng 35
2.2.4. Đồng dao khôi hài, chế nhạo hay nhằm mục đích giải trí 38
2.3. Đồng dao trong trò chơi 43
2.3.1. Khái quát 43
2.3.2. Đồng dao phụ họa cho trò chơi 44
2.3.3. Đồng dao mô tả hành động của trò chơi 46
2.4. Hình thức của đồng dao 47
2.4.1. Cấu trúc, vần và lời của đồng dao 47
2.4.2. Dị bản trong đồng dao 60
2.5. Nhận xét 65
Chương 3: Trò chơi dân gian 67
3.1. Phân loại trò chơi dân gian 67
3.2. Khái quát về trò chơi dân gian ở huyện Khoái Châu 74
3.3. Nội dung của trò chơi dân gian 76
3.3.1. Trò chơi dân gian phản ánh môi trường sống của trẻ 77
3.3.2. Trò chơi dân gian thể hiện trí tuệ 85
3.3.3. Trò chơi dân gian thể hiện sự khéo léo 89
3.3.4. Trò chơi dân gian với mục đích giải trí 100
3.3.5. Trò chơi dân gian phát huy sức mạnh tập thể và quan hệ cộng đồng 102
3.4. Ý nghĩa của trò chơi dân gian 109
3.4.1. Giá trị của trò chơi dân gian trong văn hóa truyền thống 109
3.4.2. Trò chơi dân gian đối với việc giáo dục con trẻ 113
3.5. Nhận xét và đề xuất 116
Kết luận 121
Tài liệu tham khảo 124
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
BẢNG CHỮ TẮT VÀ NGHĨA CÁC KÍ HIỆU
GS : giáo sư
NCS : nghiên cứu sinh
Nxb : nhà xuất bản
PGS : phó giáo sư
sn : sinh năm
THCS : trung học cơ sở
TS : tiến sĩ
TSKH : tiến sĩ khoa học
TrCN : trước công nguyên
tr : trang
UNESCO : United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization
- Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc

:tiếp đến

Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Châu thổ Bắc Bộ là vùng văn hóa rất đặc trưng của nền nông nghiệp
lúa nước với lịch sử hình thành và phát triển từ rất sớm. Cư dân sống theo tổ
chức làng xã, tự nguyện chung sống với nhau từ nhiều đời tạo thành một thiết
chế xã hội, một đơn vị tổ chức của nông thôn trên cơ sở địa vực, địa bàn cư
trú. Bởi vậy, huyện Khoái Châu (tỉnh Hưng Yên), một vùng cộng cư và định
cư từ thời vua Hùng dựng nước với tổ chức xã hội mà đơn vị cơ sở làng xã, là
những tế bào sống là một phần của xã hội Việt rất sinh động và vững bền. Đời
sống văn hóa nông thôn liên quan, gắn bó với các yếu tố chính trị, kinh tế, xã
hội. Môi trường văn hóa là những thiết chế làng xã gắn với cảnh quan như
ruộng lúa, lũy tre xanh, bến nước, sân đình… Sức sống văn hóa chính là năng
lực tiếp nhận, thực hành và sáng tạo văn hóa của từng chủ thể và của cả cộng
đồng.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 của Đảng,
phần nói về văn hóa có đoạn viết: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Mọi
hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh
cho sự phát triển xã hội”.
Kể từ đó đến nay, song song với chính sách mở cửa nhằm thúc đẩy
nền kinh tế xã hội phát triển, Đảng và nhà nước đã luôn chú trọng tới việc
khôi phục, duy trì và phát triển nền văn hóa truyền thống đã có từ lâu đời của
dân tộc.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
2
Chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22/7/2008 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008-
2013 đã yêu cầu nhà trường “tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động
vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh”.
Tài liệu “Hướng dẫn nhiệm vụ năm học 2008 – 2009” đối với giáo dục
mầm non có nêu một trong ba vấn đề trọng tâm triển khai cuộc vận động là
“lựa chọn và đưa bài hát dân ca, trò chơi dân gian vào hoạt động vui chơi tích
cực cho trẻ”.
Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhiều tác giả dày công sưu tầm, biên
soạn và tìm hiểu những bài đồng dao, những trò chơi dân gian của nhiều vùng
miền trong cả nước. Đối với Hưng Yên, vùng quê cuả nhãn lồng - vùng phù
sa văn hóa, người ta thường biết đến một “thương cảng nổi tiếng ở Đàng
Ngoài”, với di tích đền Hóa Dạ Trạch thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung, với hát
trống quân, hát ả đào, hát chèo… Ngoài ra, đây cũng là nơi sản sinh, lan tỏa
và tiếp thu nhiều bài đồng dao, nhiều trò chơi dân gian gắn với lịch sử lâu đời,
với môi trường địa lý phong phú của địa phương.
Đối với hai thể loại “đồng dao” và “trò chơi dân gian” đã có nhiều
cách nhìn nhận khác nhau, nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau.
Đối với đồng dao, nhóm tác giả Nguyễn Thúy Loan, Đặng Diệu
Trang, Nguyễn Huy Hồng, Trần Hoàng trong cuốn Đồng dao và trò chơi trẻ
em người Việt của Viện Nghiên cứu Văn hóa (Nxb Văn hóa) đã nêu: “Đồng
dao là những bài hát truyền miệng của trẻ em lứa tuổi nhi đồng và thiếu niên.
Vốn là những sáng tác dân gian không rõ tên tác giả, về sau từ vần điệu của
loại hình này, một số người sáng tác những bài thơ cho trẻ em hát, có tên tác
giả cũng được các nhà nghiên cứu gọi là đồng dao”[16, tr.5]. Nguyễn Tấn
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
3
Long, Phan Canh trong “Đồng dao” (Thi ca bình dân tập IV, năm 1969) thì
đưa ra một khái niệm sơ giản “đồng dao tức là ca dao nhi đồng”[16, tr.683].
Có lẽ do tác giả tách hai chữ “đồng” và “dao” ra để giải thích nghĩa của cụm
từ đó chăng? Trong luận văn thạc sỹ văn hóa học với đề tài Từ đồng dao đến
những bài hát – đồng dao cho tuổi thơ trong nhà trường ngày nay (Viện
Nghiên cứu Văn hóa, 2007), tác giả Đỗ Thị Minh Chính đã quan niệm đồng
dao như sau: “đồng dao là những bài hát dân gian truyền miệng của trẻ em,
cho trẻ em, trên cơ sở những lời văn vần (của tác giả xác định hoặc vô danh),
có hình ảnh và nhịp điệu đơn giản, gắn với các trò chơi. Trẻ em là đối tượng
hưởng thụ, cũng có khi là chủ thể sáng tạo, nhưng dù ở cương vị nào thì các
em cũng luôn luôn là người giữ vai trò “diễn xướng” và đồng dao đã thấm sâu
vào đời sống tinh thần của chúng”[3, tr.12]. Trong cuốn Tìm hiểu đồng dao
người Việt do Nhà xuất bản Thuận Hóa công bố năm 2009, tác giả Triều
Nguyên đã bóc tách, tổng hợp về mặt ngôn ngữ đối với hình thức, nội dung
của đồng dao cũng như dùng biện pháp so sánh để phân biệt nó với các thể
loại khác như ca dao, vè, câu đố, thơ thiếu nhi và đưa ra một định nghĩa cho
thuật ngữ đồng dao như sau: “Đồng dao là một thể loại của văn học dân gian,
thuộc phương thức biểu đạt tự sự bằng văn vần, gồm phần lời của những bài
hát dân gian trẻ em (những bài hát ấy có thể kèm trò chơi hay không)”[17,
tr.51].
Chúng ta có thể thấy đồng dao là một hiện tượng văn hóa. Nó được
hình thành và phát triển từ đời sống, sinh hoạt dân gian và đối tượng sử dụng
chính là trẻ nhỏ. “Đồng dao” có thể hiểu là ca dao nhi đồng, nhưng có lẽ đó là
các bài ca dao, bài vè có nội dung phù hợp được chúng hát đồng thanh nhằm
bổ trợ cho các động tác, hình ảnh… trong khi chơi, lúc giúp cha mẹ làm
những việc nhà hay đồng áng nhẹ nhàng hoặc trông em. Có khi lúc đầu trẻ chỉ
đọc các bài đó độc lập với các nội dung miêu tả môi trường sống xung quanh,
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
4
đúc rút kinh nghiệm cuộc sống hoặc châm biếm, hài hước theo cách nhìn con
trẻ, rồi dần dà phát triển thêm các hình thức đọc, hát khác.
Chuyện vui chơi chẳng phải chỉ của trẻ em. Con người ở mọi lứa tuổi,
giới tính đều cần vui chơi, giải trí thích hợp để sinh tồn và phát triển. Bên
cạnh lao động, học tập, giao tiếp, đó cũng là một trong những hoạt động cơ
bản, có xu hướng ngày càng tăng trong cuộc sống của con người. Trong các
lứa tuổi, nếu trẻ càng nhỏ thì hoạt động vui chơi càng quan trọng. Thực ra,
những hoạt động cơ bản trên đan xen nhau. Cho đến bây giờ có ai đó bỏ lỡ
hoặc thậm chí cấm đoán thì cũng không dập bỏ được nhu cầu bẩm sinh này.
Trái lại bằng cách nào đấy, chúng vẫn cứ tự phát chơi. Và như thế sẽ nảy sinh
vấn đề hai chiều lợi và hại trong khi trẻ tham gia các cuộc chơi.
Trong bài viết “Lời đồng dao trong trò chơi cổ truyền của trẻ em”
đăng trên tạp chí Giáo dục Mầm non số 3/1992, GS.TSKH. Phan Đăng Nhật
quan niệm trò chơi cổ truyền của trẻ em được hình thành và lưu truyền theo
phương thức của văn hóa dân gian. Chủ thể thưởng thức, hưởng thụ và sử
dụng đồng thời cũng là chủ thể sáng tạo và lưu truyền sản phẩm. Việc sáng
tạo được thực hiện trong một quá trình lâu dài bao gồm sáng tạo – lưu truyền
– sử dụng – điều chỉnh. Trong quá trình đó thực tiễn là thước đo, là khuôn
đúc, đông đảo công chúng làm vai trò tái tạo.
Cũng nói về trò chơi trẻ em, trong cuốn Đồng dao và trò chơi trẻ em
người Việt [16, tr.5], các tác giả nêu khái niệm “Trò chơi trẻ em là những trò
vui có lời (bài hát) hoặc không có lời, những trò này cũng mang những tính
chất của sáng tác dân gian: tính tập thể, tính dị bản…”
Trò chơi dân gian nhìn từ góc độ quyền trẻ em, PGS.TS Nguyễn Thị
Bích Hà, Khoa Việt Nam học – Trường Đại học sư phạm Hà Nội cho rằng trò
chơi dân gian cũng là một loại của di sản văn hóa Việt Nam. “Nó được kết
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
5
thành từ quá trình lao động và sinh hoạt, trong đó tích tụ cả trí tuệ và niềm vui
sống của bao nhiêu thế hệ người Việt Nam xưa. Đặc biệt, đối với trẻ em, trò
chơi dân gian với những chức năng đặc biệt của nó đã mang lại cho thế giới
trẻ thơ nhiều điều thú vị và bổ ích, đồng thời thể hiện nhu cầu giải trí, vui
chơi, quyền được chia sẻ niềm vui của các em với bạn bè và cộng đồng.”[42]
Từ các quan niệm trên, chúng ta thấy trò chơi dân gian được nhìn nhận
theo các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, nó đều có điểm chung là trò chơi nảy
sinh từ cuộc sống lao động, sinh hoạt, từ nhu cầu vui chơi, giải trí của con
người và nó mang tính cộng đồng cao, cho dù có những trò chơi có ít người,
thậm chí chỉ một người. Bởi vậy, trò chơi dân gian mang đậm tính lịch sử,
tính xã hội và mỗi trò chơi lại biểu hiện tính nghệ thuật nhất định. Ngoài các
trò chơi có diễn biến, luật chơi, quá trình chơi, chúng tôi coi việc làm những
đồ chơi từ các vật liệu sẵn có trong tự nhiên, được trẻ khai thác, sáng tạo và
lưu truyền từ xưa cũng là những trò chơi dân gian.
Là chuyên viên công tác trong lĩnh vực quản lý nhà nước về giáo dục
mầm non, chúng tôi tìm hiểu, nghiên cứu một mảng văn hóa dân gian của
vùng quê xứ nhãn lồng - vùng phù sa văn hóa Hưng Yên; đó là những bài hát
đồng dao, những trò chơi dân gian với đời sống sinh hoạt của trẻ thơ ở huyện
Khoái Châu, nơi mang nhiều đặc tính của đồng bằng châu thổ sông Hồng với
các vùng bãi bồi, những cánh đồng trồng hoa màu và những cánh đồng lúa phì
nhiêu, với ao, hồ, sông ngòi, cừ, mương, máng; làng quê phủ một màu xanh
bát ngát của những lũy tre rậm rì. Qua đó, chúng tôi mong muốn đóng góp
một phần nhỏ vào việc bảo tồn và phát huy, ứng dụng vào đời sống sinh hoạt
cũng như bổ sung cho các hoạt động sinh hoạt vui chơi, giáo dục trong nhà
trường.
2. Mục đích nghiên cứu
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
6
- Tìm hiểu đặc điểm lịch sử, môi trường, địa lý ảnh hưởng sự ra đời,
lan tỏa, tiếp thu và tiếp biến của đồng dao, trò chơi dân gian ở huyện Khoái
Châu.
- Nêu và phân tích hình thức, nội dung một số bài đồng dao, trò chơi
tiêu biểu của địa phương.
- Nhận diện các giá trị văn hóa và giáo dục của đồng dao và những
trò chơi dân gian trong cuộc sống hiện nay.
- Đưa ra các đề xuất và giải pháp nhằm hệ thống hóa mảng văn hóa
dân gian này và đưa vào cuộc sống sinh hoạt trong xã hội cũng như trong nhà
trường nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa, xã hội cũng như ý nghĩa
giáo dục của đồng dao và trò chơi dân gian.
3. Tình hình nghiên cứu
Trên thực tế, việc bóc tách, tìm hiểu, nghiên cứu đồng dao và trò chơi
dân gian ở nước ta chưa được nhiều mà chủ yếu các tác giả sưu tầm, biên soạn
sách nhằm giới thiệu và sử dụng vào những mục đích nhất định.
Về lịch sử nghiên cứu, giới thiệu đồng dao, NCS Chu Thị Hà Thanh
đã có một tập hợp trong luận án tiến sĩ của mình những bài viết về đồng dao
mang tính chất giới thiệu và những công trình mang tính chất nghiên cứu. Tuy
nhiên tổng số công trình mà chị thu thập được trong hai mục này chỉ có bảy
bài giới thiệu và bốn bài nghiên cứu. Cuốn Đồng dao và trò chơi trẻ em người
Việt của nhóm tác giả Nguyễn Thúy Loan, Đặng Diệu Trang, Nguyễn Huy
Hồng và Trần Hoàng sưu tầm và biên soạn đã nêu định nghĩa và phân loại các
bài đồng dao, các trò chơi cụ thể. Bên cạnh đó, nhóm tác giả đã giới thiệu loạt
bài nghiên cứu, bình luận, cảm nhận và đánh giá, nhận xét hai thể loại này của
15 tác giả từ năm 1935 đến năm 1995. Trong đó đáng kể nhất là các bài của
các tác giả Doãn Quốc Sỹ trong Lời mở đầu cuốn Ca dao nhi đồng, Nxb Sáng
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
7
tạo xuất bản năm 1969; Nguyễn Tấn Long, Phan Canh trong “Đồng dao”, thi
ca bình dân cũng năm 1969; Tô Ngọc Thanh, Đồng dao với cuộc sống dân
tộc Thái ở Tây Bắc trong tạp chí Văn học số 4/1974; Vũ Ngọc Khánh với Mấy
điều ghi nhận về đồng dao Việt Nam, trong tạp chí Văn học số 4/1974.
Trong những năm gần đây, trò chơi dân gian, các bài đồng dao được
chú ý hơn. Tuy nhiên, như trên đã nói thì mới chủ yếu là sưu tầm, tuyển chọn.
Cuốn Trò chơi dân gian của tác giả Nguyễn Thanh Thảo [21] giới thiệu 75 trò
chơi nhưng hầu hết là những trò khá quen thuộc mà hoàn toàn không có biểu
hiện sắp xếp theo trật tự nào và cũng không có bất cứ nhận xét, đánh giá nào.
Trong 4 tập Tuyển chọn trò chơi, bài hát, thơ ca, truyện, câu đố của Viện
chiến lược và chương trình giáo dục tái bản năm 2008 cũng nêu một số trò
chơi nhưng chỉ hướng dẫn cách chơi là chủ yếu [29]. Một số trang web như
Văn hóa Việt, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam, Trung tâm
UNESCO giao lưu văn hóa quốc tế, hay thậm chí cả trang web nước ngoài(1)
cũng chỉ nêu, giới thiệu một số trò chơi dân gian, truyền thống hay cùng lắm
là một vài cảm nghĩ chứ không nghiên cứu sâu vấn đề này. Gần đây nhất,
cuốn Tìm hiểu đồng dao người Việt (Nxb Thuận Hóa, 2009) của tác giả Triều
Nguyên là một công trình nghiên cứu rất công phu về đồng dao người Việt.
Trong cuốn sách này, tác giả chủ yếu dựa trên phương diện phân tích về ngôn
ngữ để nhận diện hình thức, nội dung, cách phân loại đồng dao.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng chủ yếu của đề tài là các bài đồng dao và trò chơi dân gian
cho trẻ ở độ tuổi thiếu niên, nhi đồng tại huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Đề tài tập trung vào nghiên cứu các vấn đề sau:
(1)
Xem Tài liệu tham khảo
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
8
- Đặc điểm môi trường, địa lý của huyện Khoái Châu tác động, ảnh
hưởng tới sự ra đời, lan tỏa, tiếp thu và tiếp biến của đồng dao, trò chơi dân
gian.
- Phân tích đặc trưng của đồng dao và trò chơi dân gian của địa
phương.
- Giá trị văn hóa và ý nghĩa giáo dục của đồng dao và những trò chơi
dân gian trong cuộc sống hiện nay; việc bảo tồn và phát huy các giá trị đó.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Điền dã, thu thập tài liệu, chụp ảnh, ghi âm, ghi hình hoạt động sinh
hoạt đồng dao và các trò chơi thực tiễn của trẻ tại một số xã như Hồng Tiến,
Việt Hòa, Đại Hưng, Đông Tảo, thị trấn Khoái Châu thuộc huyện Khoái
Châu, Hưng Yên;
- Điều tra, phỏng vấn bằng phiếu và trực tiếp khoảng 50-60 người
lớn, cao tuổi và 200 trẻ ở độ tuổi thiếu niên, nhi đồng;
- Xử lý, tổng hợp, phân tích các dữ liệu;
- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành như văn học, âm
nhạc, folklore, tâm lý lứa tuổi, sư phạm…
6. Những đóng góp của luận văn
- Đây là công trình nghiên cứu nhằm tìm hiểu, khảo sát thực tiễn trẻ
em sử dụng đồng dao và tổ chức vui chơi các trò dân gian ở một vùng đặc
trưng của đồng bằng châu thổ sông Hồng;
- Là công trình nghiên cứu thực trạng lan tỏa, tiếp thu và tiếp biến
cũng như nội dung, ý nghĩa, tác động của đồng dao và trò chơi dân gian đối
với trẻ.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
9
- Việc nghiên cứu nhằm tham gia vào việc khôi phục, hệ thống hóa
mảng văn hóa dân gian này ứng dụng vào đời sống sinh hoạt cũng như bổ
sung cho các hoạt động sinh hoạt vui chơi, giáo dục trong nhà trường.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Khái quát lịch sử, văn hóa và con người Khoái Châu
Chương 2: Đồng dao
Chương 3: Trò chơi dân gian
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
10
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ, VĂN HÓA VÀ CON NGƯỜI KHOÁI CHÂU
1.1. Tổng quan về lịch sử, thiên nhiên và môi trường của huyện Khoái
Châu
1.1.1. Sự hình thành và phát triển
Khoái Châu là một vùng đất cổ xưa, được hình thành từ thời các Vua
Hùng (1289-258 TrCN). Lúc đó Khoái Châu thuộc bộ Dương Tuyền, nước
Văn Lang. Từ khi Triệu Đà diệt nước Âu Lạc (211 TrCN) đô hộ nước ta cho
tới thời thuộc Đông Hán, Tống, Tề, Lương, Trần đều thuộc huyện Chu Diên,
quận Giao Chỉ. Đến thời vua Đinh Tiên Hoàng (967-979) đổi là Châu Diên,
và Tiền Lê (979-1009) vua Lê Ngọa Triều đổi là Phủ Thái Bình. Thời nhà Lý
(1010-1225), vùng đất thuộc huyện Khoái Châu ngày nay đổi thành huyện
Đông Kết, thuộc Khoái Lộ. Thời Lý Cao Tông (1176-1210) tách Khoái Lộ
thành Châu Đằng và Châu Khoái thì Đông Kết thuộc Châu Khoái. Đến thời
Trần sau chiến thắng Nguyên Mông lần thứ ba (1288), vua Trần ban đất Châu
Khoái cho Nguyễn Khoái thì Châu Khoái đổi thành Khoái Châu.
Tới thời Lê, giữa niên hiệu Hồng Đức (1470-1497) vùng đất huyện
Khoái Châu ngày nay đổi là Đông Yên thuộc Sơn Nam thừa tuyên. Đời Lê
Trung Hưng chia Sơn Nam thành Sơn Nam thượng và Sơn Nam hạ thì Khoái
Châu thuộc Sơn Nam thượng. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), triều đình cho
thực hiện cải cách hành chính, bỏ các trấn lập ra tỉnh, chia cả nước thành 30
tỉnh. Khi ấy phủ Khoái Châu (trong đó có huyện Đông Yên) thuộc tỉnh Hưng
Yên. Tháng 12/1890, toàn quyền Piquet ký Nghị định thành lập đạo Bãi Sậy
có bốn huyện mới, đã cắt của huyện Đông Yên ba tổng là Khóa Nhu, Tử
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
11
Dương, Yên Phú để cùng với các tổng khác cắt từ Văn Giang (Bắc Ninh),
Đường Hào (Hải Dương), Ân Thi (Hưng Yên) để thành lập huyện Yên Mỹ.
Phủ Khoái Châu có 10 tổng (Đại Quan, Mễ Sở, Yên Cảnh, Yên Lạc, Yên
Vĩnh, Yên Lịch, Phú Khê, Đông Kết, Bình Dân, Ninh Tập), 76 xã. Như vậy,
từ thế kỉ thứ XV, phủ Khoái Châu là một đơn vị hành chính lớn hơn cấp
huyện, bao gồm đất huyện Khoái Châu hiện nay và một số huyện lân cận như
Kim Động, Tiên Lữ, Phù Cừ, Ân Thi; còn huyện Khoái Châu là một huyện
thuộc phủ, với tên gọi Đông Yên (Đông An).
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Chính phủ bỏ cấp phủ,
tổng thành lập các huyện, xã, thôn. Hưng Yên có 8 huyện và 116 xã. Tháng 8
năm 1946 thị xã Hưng Yên được thành lập. Đông Yên trở thành huyện Khoái
Châu từ đó. Ngày 14/4/1946, Chính phủ ra sắc lệnh số 63 về bầu cử Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh và xã, huyện Khoái Châu cũng tiến hành hợp nhất 76 xã
nhỏ thành 22 xã lớn, các xã đó tồn tại đến năm 1955. Sau nhiều lần chia tách,
hợp nhất, đổi tên, huyện Khoái Châu có 25 xã là: Bình Minh, Đông Tảo, Dạ
Trạch, Hàm Tử, Ông Đình, Tân Dân, Tứ Dân, Tân Châu, Đông Ninh, Đại
Tập, Chí Tân, Liên Khê, Phùng Hưng, Thuần Hưng, Đại Hưng, Thành Công,
Nhuế Dương, Việt Hòa, Hồng Tiến, Đồng Tiến, Dân Tiến, Bình Kiều, An Vĩ,
Đông Kết và Kim Ngưu (nay là thị trấn Khoái Châu).
Ngày 24 tháng 2 năm 1979, Chính phủ ra Quyết định số 70-QĐ/CP
thành lập huyện Châu Giang gồm 25 xã của huyện Khoái Châu, 9 xã của
huyện Văn Giang cũ và 5 xã của huyện Yên Mỹ (Hoàn Long, Yên Phú, Yên
Hòa, Việt Cường, Minh Châu).
Huyện Châu Giang tồn tại được 20 năm. Đến ngày 24 tháng 7 năm
1999, Chính phủ ra Nghị định số 60-NĐ/CP tách huyện Châu Giang làm hai
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
12
huyện Khoái Châu và Văn Giang như cũ, chuyển 5 xã về huyện Yên Mỹ.[1],
[14], [36].
1.1.2.Thiên nhiên và môi trường địa lí
Bản đồ hành chính huyện Khoái Châu, Hưng Yên năm 2009 [36]
Huyện Khoái Châu nằm ở tọa độ 200
45’45” – 200
54’05” vĩ tuyến Bắc
1050
55’30” – 1060
02’15” kinh độ đông. Phía bắc giáp huyện Văn Giang; phía
nam giáp huyện Kim Động; phía đông giáp huyện Yên Mỹ và Ân Thi; phía
Tây giáp Hà Nội (tỉnh Hà Tây cũ) ngăn cách bởi sông Hồng. Khoái Châu có
diện tích 13.086ha. Trong đó đất canh tác nông nghiệp chiếm diện tích tới
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
13
67.1% (8.779ha), còn lại 32.9% là đất thổ cư, đường xá, sông ngòi, công trình
công cộng, đình chùa, nhà thờ … Khoái Châu thuộc đồng bằng châu thổ sông
Hồng nên có địa hình tương đối bằng phẳng. Đồng đất Khoái Châu thích hợp
với cấy lúa, trồng rau màu, cây công nghiệp (chủ yếu là cây đay) và cây ăn
quả. Hưng Yên vốn là vùng đất nổi tiếng về cây nhãn và Khoái Châu cũng có
những vườn nhãn lớn, những hàng cây trồng nhãn dài dặc hai bên đường liên
xã, liên huyện.
Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch chảy quanh xóm làng
Trên bờ vải nhãn hai hàng
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.
Khí hậu Khoái Châu là khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm mưa nhiều.
Mùa nước to từ tháng 5 đến tháng 10. Có hai mùa mưa gió rõ rệt: Gió mùa
đông bắc từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau với cái rét ngọt và mưa phùn ẩm
ướt; từ tháng 6 đến tháng 10 thường có gió bão, mưa to. Đối với mùa này,
không thể không nói tới công trình trị thủy sông Hồng là con đê và những lần
vỡ đê, ngập lụt của người dân đồng bằng châu thổ sông Hồng mà Khoái Châu
là huyện có đoạn sông dài tới 21,4km chảy qua. Đê sông Hồng là một công
trình vĩ đại nhất của đất nước trong công cuộc phòng chống thiên tai bão lụt.
Việc đắp đê, hộ đê, rồi làm thủy lợi nội đồng chống hạn, chống úng ngập qua
hàng ngàn năm là cuộc vật lộn với thiên nhiên vô cùng gian khổ, là một nét
phẩm chất riêng của người nông dân đồng bằng châu thổ sông Hồng. Khởi
công từ thời Lý, đời Trần, thảm họa vỡ đê xảy ra nhiều nhất vào triều Nguyễn.
Công cuộc đắp đê trị thủy sông Hồng căn bản hoàn thành vào nửa sau thế kỷ
XX. Nếu chỉ tính từ năm 1831 (năm thành lập tỉnh Hưng Yên) đến năm 1945
đã có tới 32 trận hồng thủy – vỡ đê đã làm cho người dân dọc sông
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
14
Hồng nói chung và người dân huyện Khoái Châu nói riêng rất vất vả, điêu
đứng. Để chủ động trong việc chống úng, hạn, tưới tiêu cho ba tỉnh Hưng
Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Chính phủ quyết định xây dựng công trình đại
thủy nông Bắc-Hưng-Hải. Ngày 1/10/1958 khởi công xây dựng cống Xuân
Quan-đầu mối của công trình. Ngày 1/5/1959 thì hoàn thành công trình. Hai
hệ thống Kênh Đông và Kênh Tây đã chạy và tưới tiêu cho 17 xã thuộc huyện
Khoái Châu, góp phần không nhỏ vào việc canh nông cho địa phương.
Trên công trường thủy lợi Bắc-Hưng-Hải (ảnh tư liệu của tỉnh Hưng Yên)
Khoái Châu nằm trên trục đường Thăng Long – Phố Hiến nổi tiếng
phồn hoa cuối thế kỉ 17 đầu thế kỉ 18, nằm bên tả ngạn sông Hồng là đường
giao thông thủy quan trọng từ biển Đông qua cửa Ba Lạt để tới Thăng Long,
Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai.
Huyện có 21,4 km đê sông Hồng chảy qua 9 xã của huyện là Bình
Minh, Dạ Trạch, Hàm Tử, Tứ Dân, Tân Châu, Đông Ninh, Đại Tập, Chí Tân,
Nhuế Dương. Ngoài ra, Khoái Châu còn có một loạt các con sông nhỏ như
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
15
sông Cửu Yên đào năm Minh Mệnh thứ 16 (1835), sông tiêu Từ Hồ - Sài Thị,
sông Kim Ngưu, sông Tây Tân Hưng, sông Điện Biên, sông Mười, sông Cấp
Tiến – Tân Dân, sông Đồng Quê…
Hệ thống giao thông đường bộ của Khoái Châu khá thuận tiện. Phía
đông có đường 39A là đường nối từ quốc lộ 5 tới thị xã Hưng Yên (nay là
thành phố Hưng Yên), chạy qua bốn xã của huyện là Dân Tiến, Đồng Tiến,
Hồng Tiến và Việt Hòa. Ngoài ra còn có các đường liên xã là đường 199 là
đường được làm từ năm 1892 nên còn được gọi là đường Tây, chạy từ xã
Bình Minh qua Đông Tảo và một phần của vùng đất của huyện Yên Mỹ ra
đường 39A; đường 205 chạy xuyên dọc giữa huyện; đường 195 là đê sông
Hồng dài 21,4km chạy từ xã Bình minh qua Dạ Trạch, Hàm Tử, Tứ Dân, Tân
Châu, Đông Ninh, Đại Tập, Chí Tân, Nhuế Dương. Dọc đường này có tới 5-6
bến đò lớn nhỏ khác nhau. Ngoài ra còn có các đường 205C, đường 208,
đường 206, đường 209, đường 204, đường 199B, đường 199C và đường
209C.
Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, giao thông chủ yếu là thuyền
buồm chở khách và hàng hóa trên sông Hồng, ngược lên Hà Nội, xuôi phố
Hiến, Nam Định, Thái Bình, thuyền trên sông Cửu Yên từ Nghi Xuyên qua
Kim Động, Ân Thi sang huyện Thanh Miện (Hải Dương)… Hàng hóa chủ
yếu là lâm sản như gỗ, tre, nứa, lá gồi, củ nâu hoặc than đá, đá để nung vôi.
Đường bộ có xe ca chở khách từ phố Phủ đi Hà Nội, và xe ngựa chở khách đi
lại trong huyện và các huyện xung quanh. Từ năm 1955 có ô tô chở khách từ
phố Phủ đi Hà Nội và từ phố Phủ đi thị xã Hưng Yên. Trên sông Hồng có ca
nô chở khách từ phố Phủ đi Hà Nội đến thị xã Hưng Yên, Nam Định và
ngược lại. Từ năm 1990 theo sự phát triển chung của xã hội và theo cơ chế thị
trường, phương tiện giao thông đường bộ phát triển nhanh. Tại bến xe phố
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
16
huyện có nhiều ô tô chở khách đi lại khắp các tỉnh trong Nam, ngoài Bắc. [1],
[36].
1.2. Văn hóa và con người Khoái Châu
1.2.1. Cư dân Khoái Châu
Như trên đã nói, Khoái Châu là một vùng đất cổ. Người Việt cổ đã đến
cư trú sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt cá và khai hoang, thau chua, rửa
mặn, bắt đầu gieo cấy lúa nước. Việc phát hiện ra trống đồng Đông Sơn ở
Cửu Lao, Liên Nghĩa, huyện Văn Giang, giáp Khoái Châu chứng tỏ vùng đất
này thời đó đã có dân cư, có chung nền văn hóa Đông Sơn, như trong “Hùng
Vương dựng nước” tập I đã ghi “Trong thời Hùng Vương đồng bằng ở phía
Nam sông Hồng mở rộng mãi ra”.
Truyền thuyết Chử Đồng Tử-Tiên Dung đời Hùng Duệ Vương cho biết
thời đó Khoái Châu đã có nhiều trang trại và cư dân đông đúc mà truyền
thuyết nhắc đến các tên Đa Hòa, Dạ Trạch, Ông Đình, Đông Tảo. Thời Hai
Bà Trưng khởi nghĩa đã có nhiều tướng đóng quân ở Đa Hòa (xã Bình Minh).
Bà Bạt Kiếm hy sinh ở Tiểu Quan (xã Phùng Hưng). Năm 547, Đại tướng
quân Triệu Quang Phục đưa 20.000 quân về đóng ở đầm Dạ Trạch, năm 548
lên ngôi vua, xưng là Triệu Việt Vương, lập tiền đồn ở Đa Hòa, An Vĩ, Nhuế
Dương thực hiện kế hoạch “trì cửu chiến”. Nhân dân Khoái Châu đã đầu quân
và giúp Triệu Quang Phục xây đồn lũy, tiếp tế quân lương và trinh sát các
hoạt động của địch báo cho nghĩa quân. Đến thời nhà Lý, vua Lý Cao Tông
(1175-1210) đã ban cho tể tướng phụ chính Đỗ Anh Vũ 3.000 mẫu ruộng gọi
là “Tam thiên mẫu” nằm ở phía đông nam huyện Khoái Châu, tây bắc huyện
Ân Thi và bắc Kim Động. Tể tướng Đỗ Anh Vũ đã chiêu mộ dân nghèo lập
thêm hàng chục làng ấp mới. Đến đời Trần, đê sông Hồng được hoàn chỉnh.
Sau khi thắng giặc, vua nhà Trần ban đất Khoái Châu cho tướng Nguyễn
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
17
Khoái thì thôn ấp phát triển nhanh. Nhà Lê xóa bỏ chế độ điền trang, cấm
nuôi nô tỳ, nông dân nghèo được cấp ruộng, trở thành nông dân tự do. Vào
đầu triều Nguyễn (Gia Long Thiệu Trị, Minh Mệnh, đầu Tự Đức), so với các
huyện khác ở đồng bằng châu thổ sông Hồng thì Khoái Châu có tốc độ phát
triển kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhanh. Phố Phủ là
nơi dân cư đông đúc, cửa hàng san sát, cuộc sống của người dân khấm khá.
Điều này đã được sử sách ghi lại: “Trước năm 1870, nghĩa là trước những vụ
vỡ đê tàn khốc của huyện Văn Giang, Hưng Yên sống thịnh vượng lắm.
Ngoại thương và nội thương thật khả quan”.
Cuối năm 1891, cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy thất bại, Pháp và quan lại
Nam Triều chiếm đoạt ruộng đất của nông dân thành lập nhiều ấp trại mới
như ấp An Bình (Vân Trì), ấp Hàn Sắc, Bá Tôn (Phùng Hưng), ấp Cự Hiên
(thị trấn Khoái Châu)… chiêu mộ dân siêu bạt các nơi đến làm tá điền để thu
tô, tức. Các địa chủ, kỳ hào ở các xã chiếm đoạt nhiều ruộng đất, một số nông
dân tự do khai hoang, phục hóa biến Bãi Sậy thành ruộng canh tác.
Trong những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, huyện Khoái Châu đã
chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh và ách cai trị của Pháp. Đời sống văn
hóa, xã hội của nhân dân ít được quan tâm, chú ý. Trong khi đó các hủ tục ma
chay, cưới xin, khao vọng, bán quan, mua tước đặt ra nặng nề, tốn kém. Lệ
làng rất ngặt nghèo, bắt buộc mọi người phải tuân thủ. Ví dụ như ở xã Tân
Dân, con gái lấy chồng phải nộp cheo cho làng hai mâm đồng. Sau đó chức
dịch bán đấu giá để lấy tiền chè chén. Từ sau phong trào cải lương hương
chính thì bán mâm để mua gạch xây đường làng. Sau thành lệ, con gái đi lấy
chồng nộp cheo khao chức sắc, đóng lon cai, đội đều phải xây cho làng từ 1
đến 3 mét đường làng. Ở Đại Quan, Thuần Lễ, nếu không khao thì cả đời bị
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
18
bạch đinh1
. Nhiều người phải bán ruộng để khao, mang công mắc nợ. Trai lấy
vợ phải nộp ba đồng tiền (tương đương với 10 thùng thóc) treo lễ cho nhà gái.
Con gái đi lấy chồng phải nộp cho làng 2-3 đôi hoành phi, câu đối hoặc mâm
thau. Nạn cờ bạc, rượu chè, hát cô đầu ở làng, xã nào cũng có.
Đến năm 1933, dân số huyện Khoái Châu có 93.515 người, bằng 21%
dân số toàn tỉnh. Năm 1959 là 100.341 người. Đến năm 1965 thì tăng lên
thành 108.100 người. Dân số năm 1974 là 119.553 người. Năm 1999 chia
tách huyện Châu Giang trở về thành Khoái Châu thì dân số huyện Khoái Châu
là 180.105 người.
Khoái Châu có 23 nhà khoa bảng tính từ năm 1463 đến năm 1523,
trong đó có một Trạng nguyên là Nguyễn Kỳ ở xã Tân Dân thi đỗ Trạng
nguyên năm 1541.
Ai về qua xã Tân Dân
Có Đinh Ngô Tướng, có văn chỉ thờ
Có ông Đổng Quế tế cờ
Có ông Tán Thuật dựng cờ nghĩa quân
Có bà công chúa Từ Quang
Theo ông nghè Tố2
về làng kết duyên
Nhưng ông đã có vợ hiền
Bà bèn cắt tóc trụi thuyền qui y
Có Trạng nguyên Nguyễn Oăn Ri
Cho nên văn chỉ dựng về quê ta .[1]
1
Bạch đinh là những thanh niên không có chức vị gì trong làng, là đối tượng đàn áp của cường hào
2
Nguyễn Đình Tố xã Tân Dân đỗ tiến sĩ năm 1769
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
19
Ở Khoái Châu còn có các nhân vật không đỗ Đại khoa, nhưng tài giỏi
nức tiếng như Nguyễn Huy Lạc (tức Quán) hai lần thi Hội (1763 và 1766) đều
đậu Tam trường. Ông là một trong “Sơn Nam hạ xứ hữu tứ kiệt nhân” (bốn
người tài giỏi của Sơn Nam hạ). .[1], [14].
1.2.2. Khoái Châu - vùng phù sa văn hóa
Là vùng đất thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, Khoái Châu mang
đậm nét của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước với đầy đủ các thành tố tạo
lên, từ môi trường địa lí, lịch sử hình thành và phát triển cũng như sự giao
thoa văn hóa với các vùng lân cận và văn hóa ngoại bang du nhập.
Đồng bằng Bắc bộ là vùng văn hóa-lịch sử cổ, là cái nôi hình thành dân
tộc Việt, là quê hương của các nền văn hóa nổi tiếng, đó là văn hóa Đông Sơn
thời các vua Hùng; Thăng Long thời Đại Việt… Từ cái nôi của dân tộc, từ
quê hương của các nền văn hóa Việt Nam, trong quá trình Nam tiến mở mang
bờ cõi dọc bờ biển Đông (thế kỷ XI đến Quảng Trị, thế kỷ XVIII đến hết Nam
Bộ), văn hóa Việt Nam từ cái nôi ban đầu đã dần dần đón nhận những yếu tố
văn hóa Chăm, Khơme… đồng thời cũng tự thân thích ứng với môi trường
sinh thái mới của duyên hải Nam Trung bộ, tạo nên những sắc thái văn hóa
địa phương đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam. Là nguồn cội nhưng
cũng đồng thời là trung tâm của đời sống chính trị, xã hội và văn hóa của đất
nước, cư dân đồng bằng Bắc Bộ đã hình thành và định hình những truyền
thống văn hóa lâu đời, thể hiện trong đời sống sản xuất, sinh hoạt vật chất, các
quan hệ xã hội và đời sống tinh thần. Đó là kết tinh từ những tri thức và ứng
xử của con người đồng bằng Bắc Bộ, mà ngày nay, tùy theo từng trường hợp,
truyền thống ấy đã trở thành bản lĩnh và sức mạnh tạo đà cho con người đi
vào thế giới hiện đại, và cũng không ít trường hợp nó lại là gánh nặng níu kéo,
cản trở bước tiến bộ của cộng đồng.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
20
Đối với vùng châu thổ sông Hồng, người dân sống theo tổ chức làng xã
từ xưa và khá ổn định, bền vững với những thiết chế xã hội cộng đồng và thiết
chế tín ngưỡng, tôn giáo, có cổng làng với lũy tre bao bọc xung quanh. Lũy
tre bao bọc, gìn giữ “văn hóa làng” với những phong tục tập quán tốt đẹp
nhưng cũng vừa lưu giữ những tập quán, thói quen lạc hậu, cản trở sự giao lưu
hòa nhập với thế giới bên ngoài.
Hưng Yên nằm ở tiểu vùng văn hóa Sơn Nam mà trung tâm là ngã tư
sông Phủ Lý, sông Hồng, sông Luộc, nơi xưa là Phố Hiến, một đô thị cổ, một
thương điếm sầm uất xưa của nước ta mà chúng ta thường nghe nói “nhất
Kinh kỳ, nhì Phố Hiến”. Tiểu vùng này bao gồm phần đất từ tả ngạn sông
Hồng đến hữu ngạn sông Thái Bình. Vùng này được khai phá từ khá sớm,
khoảng sát sau công nguyên, nhưng phát triển nhất có lẽ từ thời Trần, chậm
hơn vùng Thăng Long một chút.
Với địa thế nằm bên bờ sông Hồng, người dân nơi đây đã biết tận dụng
điều kiện tự nhiên, sinh sống bằng nghề chài lưới. nghề trồng lúa nước cũng
có nhiều tiềm năng, dựa vào chất đất phù sa màu mỡ, nguồn nước dồi dào của
sông Hồng. Ở đoạn sông Hồng chảy qua khu đền thờ Chử Đồng Tử - Tiên
Dung, cứ vào dịp từ tháng Chạp đến tháng Ba (âm lịch) hàng năm, cá mòi tập
trung về đây khá nhiều. Cá mòi nổi tiếng đến mức có câu tục ngữ nói về con
cá này: “Thời ngư nhục mĩ hiềm đa cốt” (Cá mòi thịt ngon nhưng nhiều
xương). Đã có một thời, cá mòi trở thành thước đo để phân biệt bữa ăn của kẻ
giàu sang và người nghèo hèn:
Phú ông cơm trắng cá mòi
Bần nông cơm bột lại đòi rau dây.[14, tr.426]
Và nó cũng góp mặt trong lời hát giao duyên tình tứ:
Muốn ăn cơm trắng cá mòi
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
21
Trốn cha trốn mẹ về Gòi3
cùng anh.[14, tr.426]
Cho đến nay, nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản vẫn có vị trí quan
trọng trong lĩnh vực kinh tế của huyện Khoái Châu. Chăn nuôi chủ yếu là trâu
bò để cày kéo, số lượng không lớn lắm. Một số xã có nghề trồng dâu nuôi
tằm, thả cá. Các làng nghề thủ công ở Khoái Châu rất phát triển:
Mễ Nhạn có đất buôn nâu
Phú Trạch có đất trồng dâu nuôi tằm
Phú Thị nhuộm vải, bán chăn
Thiết Chu nấu rượu tế thần mọi nơi
Đa Hòa đập đá nung vôi
Bàng Nha dệt cửi là nơi thanh nhàn… [14, tr.64]
Đa Hòa có nghề dệt vải, nung vôi; Cốc Phong, Cao Quán, Hương Quất,
Bằng Nha có nghề dệt lụa; Quan Xuyên có nghề dệt sồi; Hoàng Vân Nội,
Hoàng Vân Ngoại có nghề rèn. Thợ rèn Hoàng Vân không những hoạt động
trong huyện mà còn đi nhiều tỉnh lập nghiệp; nhiều làng ven sông Hồng có
nghề nung gạch, ngói, vôi, nấu mật mía, làm đường phên.
Kênh Khê thì đi riu tôm
Bái Khê hàng xáo nói năng hay thề
Trung Châu thừng chão đã ghê
Mạo Xuyên bới lạc là nghề tinh nhanh
Tổng Mễ có đất trồng hành
Cửa sông chẻ nứa đan mành ta mua [14, tr.65]
3
Làng Gòi thuộc xã Tân Châu, huyện Khoái Châu
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
22
Làng Kênh Khê, làng Cửa Sông thuộc xã Liên Khê. Làng Bái Khê,
Trung Châu thuộc xã Đông Kết. Làng Mạo Xuyên thuộc xã Tứ Dân của
huyện Khoái Châu.
Làng Quan Xuyên nằm trên bờ sông Hồng có một thương cảng xuất
hiện cùng thời với cảng Phố Hiến, cho đến năm 1930 – 1935 vẫn còn những
thương gia lớn kinh doanh nhiều bè gỗ, tre, nứa, lá cùng nhiều hàng lâm sản
khác, có xưởng mộc, đại lí bán các loại hàng hải sản, mở cả lò sành sứ. Chợ
Phủ mỗi tháng họp 6 phiên để bán trâu, bò. Người các huyện khác cũng đến
mua bán rất đông.
Khoái Châu gần vùng Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) là trung tâm Phật
giáo từ thế kỉ thứ 3. Nhân dân còn thờ các vị thánh, thần là các thiên thần,
thủy thần. Theo thống kê, các vị thần được thờ ở Khoái Châu là Chử Đồng Tử
- Tiên Dung, một số tướng lĩnh của vua Hùng, Hai Bà Trưng; các vị vua,
quan, tướng lĩnh các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê.
Trên địa bàn Khoái Châu hiện nay có sự hiện diện của nhiều di tích lịch
sử-văn hóa, lưu giữ di vật quý với nhiều dấu ấn văn hóa và tín ngưỡng bản địa
gắn liền với các sự kiện lịch sử của quá khứ. Huyện có 74 di tích lịch sử-văn
hóa, trong đó có 20 di tích đã được xếp hạng. Khu vực Đa Hòa-Dạ Trạch với
nhiều di tích thờ Chử Đồng Tử-Tiên Dung là một trong ba cụm di tích lớn của
tỉnh Hưng Yên. Các di tích này năm dọc theo sông Hồng, cùng với một số di
tích năm bên kia bờ sông (thuộc địa phận tỉnh Hà Tây cũ, nay là Hà Nội) tạo
lên khu vực thờ tự chính của tín ngưỡng thờ Chử Đồng Tử - một trong Tứ Bất
tử được nhân dân ta tôn thờ từ bao đời nay. Truyền thuyết về Chử Đồng Tử
bao gồm nhiều lớp văn hóa lắng đọng, có sự gắn bó chặt chẽ với tâm thức của
cư dân vùng sông nước, đầm lầy. Ngoài ra còn có những di tích nổi tiếng như
đền Vua Rừng ở An Vĩ thờ Triệu Quang Phục (Triệu Việt Vương) chống giặc
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
23
Lương ở thế kỷ thứ VI, đền Cót thờ Linh Lang thời Lý, đền An Lạc thờ Đỗ
Anh Vũ thời Lý; các chùa Lạc Thủy, am Tự Thông xây dựng từ thời Lý. [1]
Bãi Tự Nhiên gắn với truyền thuyết Chử Đồng Tử - Tiên Dung [36]
Khoái Châu nằm ở trung tâm vùng văn minh sông Hồng lại tiếp giáp
với Thăng Long, Phố Hiến, Kinh Bắc nên có nền văn hóa phong phú, đa dạng.
Nơi đây có hát trống quân, hát đối đáp mà nổi tiếng là Dạ Trạch, Ông Đình,
Phùng Hưng, Đông Kết, Bình Minh… Khoái Châu cũng là đất có truyền
thống hát chèo từ lâu đời, có thời kỳ nhiều xã có 3-4 đội chèo. Ca dao, hò vè
nói về tình yêu lứa đôi, ca ngợi cảnh đẹp của quê hương, chống phong kiến,
đế quốc xuất hiện rất nhiều và còn lưu truyền đến ngày nay.
Đặc điểm địa lí và đời sống sinh hoạt của người dân nơi đây đã nảy
sinh nhiều trò chơi dân gian và các bài đồng dao mang đậm nét của văn hóa
làng xã với thiên nhiên, sông nước, ruộng đồng, làng quê trù phú cũng như
các thói hư tật xấu, sự hài hước, châm biếm…
Khoái Châu cũng là vùng đất có nhiều truyền thuyết như Chử Đồng
Tử-Tiên Dung; truyền thuyết về tướng Đỗ Mục đóng quân ở Bối Khê giúp
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
24
Hùng Duệ Vương đánh Thục; truyền thuyết về bà Bạt Kiếm thời Hai Bà
Trưng (năm 40-43) ở Tiểu Quan (Phùng Hưng); truyền thuyết về Dạ Trạch
Vương ở xã Dạ Trạch, xã An Vỹ; truyền thuyết về Nguyễn Siêu, một trong
mười hai sứ quân thế kỷ thứ X xã Đông Kết, truyền thuyết về công chúa Quế
Hoa con vua Lê Đại Hành ở Cót Ấp (Chí Tân)… [1], [14], [36].
Vài nét phác họa lịch sử, môi trường và con người huyện Khoái Châu
trên đây chính là những nhân tố có tầm quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến
sự hình thành bản sắc văn hóa dân gian nơi đây. Đó là mối quan hệ giữa một
bên là thực thể khách quan và một bên là sản phẩm sáng tạo của con người,
xét cho cùng là quan hệ giữa thiên nhiên và con người. Quan hệ ấy chịu sự tác
động của truyền thống tư duy, quan niệm thẩm mỹ, thế ứng xử của con người
trước thiên nhiên qua tiến trình lịch sử. Từ môi trường này đã ra đời nhiều câu
ca dao, vè, đồng dao miêu tả từng ngóc ngách, từng góc cạnh của đời sống
con người. Những trò chơi dân gian là những hành động tự phát từ môi trường
tự nhiên, từ sinh hoạt lao động với những đặc trưng về nghề nghiệp, công việc
của người lớn cũng như của con trẻ. Từ đó, nó phản ánh đậm nét thái độ của
con người đối với thiên nhiên, với môi trường sống xung quanh mình.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
25
CHƯƠNG 2
ĐỒNG DAO
2.1. Phân loại đồng dao
Đồng dao vốn là một thể loại văn hóa dân gian mà đối tượng sử dụng
chủ yếu là trẻ em. Hình thức, nội dung có thể rất rõ ràng, tập trung vào miêu
tả, nêu lên một vài vấn đề, nhưng cũng có thể đan xen, hòa trộn. Có những bài
lại dùng những phép ẩn dụ thật tinh tế, sâu sắc để biểu đạt một vấn đề nào đó.
Việc bóc tách, phân loại ở đây trở nên tương đối và mang tính chất khái lược,
tổng quát. Trong Trẻ con hát trẻ con chơi của Nguyễn Văn Vĩnh in trong Tứ
dân văn uyển năm 1935, tác giả có phân làm ba mục, “theo cái lẽ trước sau tự
nhiên của người mẹ người vú thường theo mà dạy con trẻ:
- Trước hết là những câu vừa hát vừa chơi, bởi vì đối với con trẻ, cái
nghĩa câu hát ở ngay trong cái trò chơi, không phải ai diễn giải nó cũng hiểu.
- Sau là đến những câu hát không phải có cuộc chơi, thì tất nó đã có cái
trừu tượng hơn một chút. Con trẻ đã hiểu được ít nhiều tiếng rồi thì mới thuộc
được.
- Thứ ba nữa là đến những câu ru trẻ ngủ. Mục này để về sau là vì hát
mà ru trẻ tùy người mẹ người vú thuộc ít hay thuộc nhiều, muốn hát câu gì
cũng được. Trong câu ru, cái nghĩa lý nhiều khi là để cho người ru nghe, duy
chỉ có cái giọng ru, và cái tiếng ề! A! hỡi hời hời! bống bông bông! Là để cho
tai nghe mà thôi. Tuy vậy cũng có nhiều câu ru có cái nghĩa riêng đối với đứa
trẻ ngủ” [16, tr.662].
Trong lời mở đầu của cuốn Ca dao nhi đồng, tác giả Doãn Quốc Sỹ đã
phân loại đồng dao theo các loại chính:
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
26
- Những bài hát luân lý: là những bài hát ru mộc mạc mà sâu sắc. Vào
những trưa hè oi nồng, hay trong đêm thanh tĩnh mịch có tiếng các bà mẹ, các
chị vừa đưa võng kẽo kẹt vừa cất tiếng hát ru êm ái ngọt ngào. Những lời
nhắn nhủ hiền hòa đó vang lên êm đềm, nỉ non, theo nhịp điệu, thật là cả một
phương pháp giáo dục tuyệt hảo. Em bé thoạt tuy không hiểu nhưng nghe mãi
dần dà thấm thía, nhất là khi em đã lớn, tới tuổi cắp sách đến trường, em vẫn
có thể nghe lại những bài đó hát ru em bé của mình, do đấy các em đã được
thấm nhuần tới tiềm thức những lời mẹ hay chị khuyên răn nhắc nhở.
- Những bài hát vui: Tối đại đa số những bài ca dao nhi đồng đều có
tính cách vui tươi ngộ nghĩnh để trẻ em đọc lên thấy thích thú ngay; có thể là
kể một câu chuyện vui hay kể một câu chuyện ngược đời để chọc cười hoặc là
bài hát không thành câu chuyện gì hết mà chỉ cốt có vần điệu một cách ngộ
nghĩnh, làm nở trên môi các em những nụ cười, gieo vào lòng các em cái vui
tươi.
- Con cò trong ca dao Việt Nam: Thực chất trong mục này, tác giả
không chỉ đề cập đến hình ảnh con cò mà còn nói đến các con vật gần gũi với
đời sống nông dân như con cá bống, con chuột, con ong, con cáo. Theo tác
giả, hình ảnh con cò trong ca dao Việt Nam được nhân cách hóa một cách gần
gũi, thân mật như một sự kiện độc đáo của riêng ca dao Việt Nam, khi thì
tượng trưng người mẹ quê, khi là cô gái quê, khi là em bé quê, khi thì làm một
hình ảnh khởi hứng.
- Những bài nói về nếp sống nông nghiệp và những tập tục xưa: những
bài này được giới thiệu để các em cảm thấy hết cái đẹp của nếp sống gần thiên
nhiên của nhà nông xưa cùng một số tập tục ngộ nghĩnh có thể là xa lạ với các
em ngày nay.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
27
- Linh tinh: gồm những bài ca dao không thuộc loại trên, nhưng lời và ý
ngộ nghĩnh đẹp vẫn thích hợp với các em [16, tr.673].
Trong bài viết Hát ru và hệ thống diễn xướng đồng dao, tác giả Nguyễn
Hữu Thu đã phân chia đồng dao theo các cấp độ dựa vào sự phát triển theo
lứa tuổi của trẻ như sau:
- Dưới một tuổi mẹ có thể tập cho con chơi “đi chợ”, trò làm xấu. Lớn
hơn, anh chị cho trẻ chơi “Chi chi chành chành”, rồi thi chân đẹp… qua các
bài đồng dao “Chi chi chành chành”, “Xỉa cá mè”…
- Những bài đồng dao không gắn liền với trò chơi. Đó là những bài hát
về những con vật, về hoa quả, chim muông… Trẻ tự hát, hoặc một số trẻ tụ
tập nhau lại đồng xướng về một bài nào đó.
- Những bài đồng dao gắn liền với trò chơi của lứa tuổi nhi đồng [16, tr.
744].
Trong cuốn Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt của Viện Nghiên
cứu văn hóa dân gian (nay là Viện Nghiên cứu văn hóa), nhóm tác giả nguyễn
Thúy Loan - Đặng Diệu Trang – Nguyễn Huy Hồng – Trần Hoàng đã phân
chia đồng dao thành ba mục lớn:
- Đồng dao (sắp xếp theo chủ đề): gồm các chủ đề về thế giới quanh ta
và cuộc sống; quan hệ gia đình và xã hội; lao động và nghệ nghiệp; châm
biếm và hài hước.
- Đồng dao – Chị ru em: Phần này gồm những bài mà các em lớn (từ 10
đến 12-13 tuổi) thường hát ru em.
- Đồng dao – Hát vui chơi: Phần này gồm những bài hát trong các trò
vui hoặc những bài hát vui, không kèm trò chơi.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
28
Ngoài ra cuốn sách còn giới thiệu một phần khá lý thú, đó là “Đồng dao
có tên tác giả” giới thiệu những bài thơ theo phong cách đồng dao cổ của các
tác giả như Nguyễn Khuyến (nửa cuối thế kỷ XIX), Nam Hương (nửa đầu thế
kỷ XX) và một số cây bút nghiệp dư sau Cách mạng tháng Tám [16].
Trong cuốn Đồng dao và trò chơi dân gian cho trẻ mầm non, chúng tôi
đã căn cứ vào mục đích sử dụng của cuốn sách theo chương trình giáo dục
mầm non mà phân chia thành các chủ đề như sau:
- Chủ đề động vật:
Gồm các bài đồng dao về các con vật như:
Chiều chiều én liệng trên trời
Rùa bò dưới nước, khỉ ngồi trên cây.
Hay:
Bê là bê vàng
Bê đừng rềnh ràng
Bê đi với mẹ
Bê đừng chạy xuống bể
Bê đừng chạy lên ngàn
Mà cọp mang
Mà sấu nuốt…
- Chủ đề thực vật:
Các bài đồng dao nói về một số rau, củ, quả và tính chất của nó như:
Khế với sung, khế chua, sung chát
Mật với gừng, mật ngọt, gừng cay
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
29
Hay:
Mít vàng, cam đỏ
Hồng chín, quýt xanh
Bốn anh đều lành
Thích ăn quả gì?
- Chủ đề bản thân, nhà trường:
Đề cập tới một số bài khuyên nhủ, răn dạy trẻ vệ sinh sạch sẽ, học hành
chăm ngoan.
Ếch tài, ếch giỏi
Ếch nói, ếch cười
Hễ anh nào lười
Phải về giải bét
Anh nào nhảy đẹp
Anh nào nhảy cao
Nhảy qua hàng rào
Chiếm ngay giải nhất.
- Chủ đề nghề nghiệp:
Đây là những bài đồng dao thường sử dụng trong các trò chơi mô
phỏng công việc đồng áng, trồng dâu nuôi tằm…
Ù à ù ập
Bắt chập lá tre
Bắt đè lá muống
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
30
Bắt cuống lên hoa
Bắt gà mổ thóc
Bắt học cho thông
Cày đồng cho sớm
Nuôi lợn cho chăm
Nuôi tằm cho rỗi
Dệt cửi cho mau
Nuôi trâu cho mập.
- Chủ đề gia đình:
Các bài đồng dao đề cập đến quan hệ, sinh hoạt, lối sống trong gia
đình:
Gánh gánh gồng gồng
Gánh sông gánh núi
Gánh củi gánh cành
Ta chạy cho nhanh
Về xây nhà bếp
Nấu nồi cơm nếp
Chia ra năm phần
Một phần cho mẹ
Một phần cho cha
Một phần cho bà
Một phần cho chị
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
31
Một phần cho anh…[5]
Ngoài một số cách phân loại trên, chúng ta còn thấy có cách phân loại
khác như phân loại đồng dao dựa vào mục đích hát; phân loại đồng dao theo
thể thơ; phân loại đồng dao theo kết cấu… Và nhằm mục đích dễ tra cứu, tác
giả Đặng Anh Tú trong cuốn Đồng dao Việt Nam đã lấy từ đầu tiên của các
bài đồng dao mà sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái (Alphabet) [27].
Về thực chất, việc phân loại nào cũng chỉ mang tính tương đối. Chúng
phụ thuộc vào từng mục đích phân loại của tác giả, vào các góc nhìn khác
nhau về đồng dao. Chẳng hạn như với các nhà ngữ văn, họ sẽ dựa vào cấu
trúc, hình thức, nội dung… của đồng dao. Với các nhà giáo dục, họ sẽ dựa
vào nội dung, sự tác động của các bài đồng dao đó như thế nào trong việc góp
phần phát triển nhân cách trẻ để phân loại.
Tuy nhiên, cho dù cách phân loại nào thì cũng chủ yếu căn cứ vào nội
dung và hình thức của đồng dao. Do đó, chúng ta có thể phân loại một cách
khái quát như sau:
- Đồng dao có nội dung nhắc nhở, răn dạy điều hay lẽ phải
- Đồng dao chứa đựng tri thức về hoàn cảnh, môi trường sống và quan
hệ cộng đồng
- Đồng dao khôi hài, chế nhạo hay nhằm mục đích giải trí.
2.2. Nội dung của đồng dao
2.2.1. Đồng dao có nội dung nhắc nhở, răn dạy điều hay lẽ phải
Trên thực tế, rất khó xác định đối tượng sáng tác đồng dao thuộc lứa
tuổi nào bởi không thể căn cứ vào cấu trúc của bài có chặt chẽ hay không, nội
dung đề cập đến vấn đề gì. Do đó, các bài đồng dao có nội dung nhắc nhở, răn
dạy điều hay lẽ phải chỉ có thể giả thiết là người lớn sáng tác cho trẻ hát, trẻ
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
32
chơi. Các bài dạng này có nội dung giản dị, lời lẽ đơn giản, dễ hiểu, sử dụng
ngôn ngữ không hoa mĩ mà vẫn toát lên được sự sâu sắc trong cuộc sống,
trong cách ứng xử và các quan hệ xã hội. Ở Khoái Châu, người ta thường biết
đến những bài đồng dao có nội dung đề cập đến những hình ảnh quen thuộc
như đồng ruộng, làng quê và những người lao động cần mẫn, chăm chỉ với
các nghề đặc trưng ở nơi đây như nông nghiệp, buôn bán và một số nghề phụ.
Thông qua đó mà truyền tải cho người nghe biết gìn giữ môi trường, trân
trọng lao động.
Ăn một bát cơm
Nhớ người cày ruộng
Ăn đĩa rau muống
Nhớ người đào ao
Ăn một quả đào
Nhớ người vun gốc
Ăn một con ốc
Nhớ người đi mò
Sang đò
Nhớ người chèo chống
Nằm võng
Nhớ người mắc dây
Đứng mát gốc cây
Nhớ người trồng trọt.
(Bà Nguyễn Thị Vui, sn 1957, Đại Hưng)
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
33
Những trò chơi vô cùng đơn giản, nhẹ nhàng kèm những lời đồng dao
dí dỏm, những hình ảnh quen thuộc mà làm cho trẻ thấm dần những điều hay
lẽ phải. Ví dụ như bài đồng dao trong trò chơi “Cò cưa kéo xẻ” chẳng hạn.
Chỉ có năm dòng, nhưng nó đã tạo nên một trò chơi mô phỏng sự lao động
của người lớn một cách sinh động. Những câu hát vừa hài hước, vui vẻ lại vừa
ghi nhận sự ứng xử rõ ràng, rành mạch với những người có công và kẻ lười
nhác. Điều rất đáng chú ý ở đây là sự thưởng, phạt theo hình thức rất ngộ
nghĩnh phù hợp lứa tuổi, không nặng nề mà vẫn có sức nhắc nhở, cảnh báo;
có tác động tích cực đối với chủ thể.
Cò cưa kéo xẻ
Thợ khỏe cơm vua
Thợ thua cơm làng
Thợ nào lang thang
Thì về bú mẹ.
(Cụ ông Nguyễn Đức Nghiên, sn 1938, Đại Hưng)
Đồng dao còn nhắc nhở, khuyên bảo con trẻ yêu lao động, sự tự giác,
tích cực trong cuộc sống, Quý trọng tình cảm và các mối quan hệ trong gia
đình.
…Lớn con xúc tép
Cho bà bát canh
Lớn đi trồng chanh
Cho bà bát dấm
Lớn con đi tắm
Đỡ phải phiền bà [16, tr.89], [27, tr.107]
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
34
Có những bài đồng dao ở Khoái Châu thông qua việc dùng những lời
lẽ giản dị, dễ hiểu để miêu tả, phản ánh diện mạo, tính cách của nhân vật
thông qua loài vật:
…Bồ nông cà mỏ chua ngoa
Lênh đênh mặt nước thế mà hiển vinh
Kìa như sơn thủy hữu tình
Gắt như tu hú ai khinh nỗi gì
Bìm bịp rủ rỉ rù rì
Bắt gà như chớp ai thì chẳng ưa
Anh mòng có tính say sưa
Móng cùi tốt dáng mà dơ cả đời…
(Cụ bà Nguyễn Thị Định, 85 tuổi, Thông Quan Hạ)
Bài này toát lên thái độ, quan điểm của con người (người sáng tác) đối
với hình thức và nội dung của đối tượng một cách rõ ràng. Việc nhận định này
có thể vượt lên trên cả tư duy trẻ thơ với lời lẽ khá trau chuốt, đay nghiến, chỉ
trích thói hư tật xấu của nhân vật. Đây là thủ pháp nhân cách hóa, mượn đặc
điểm của đối tượng là các con vật (loài chim – một loài vật rất gần gũi với trẻ
thơ Khoái Châu, thường có mặt ở đồng ruộng, ao hồ và các cây trồng quanh
nhà) mà một lúc đạt được hai mục đích: 1. hiểu thêm về con vật đó; 2. có thái
độ trước các đặc điểm, sự vật cụ thể, áp dụng vào phép ứng xử của loài người.
Bằng việc chỉ bảo, dạy dỗ trẻ thơ thông qua ngôn ngữ dí dỏm, hài
hước hay chỉ trích, đay nghiến, qua vần, nhịp điệu đặc trưng, đồng dao đã nhẹ
nhàng tiếp cận, chiếm lĩnh vị trí đáng kể trong tâm trí của trẻ, giúp chúng dần
nhận biết, thấu hiểu điều hay lẽ phải cũng như rèn luyện kĩ năng sống, thái độ
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
35
ứng xử xã hội, tích lũy kinh nghiệm về vốn kiến thức không những xung
quanh mình mà còn mở rộng ra thế giới bên ngoài như thế giới các loài vật,
chim muông, tôm cá, cây cối… Từ đó, đồng dao càng biểu hiện một cách rõ
nét hơn vai trò, tác động tích cực của nó đối với đời sống tinh thần của trẻ thơ.
2.2.2. Đồng dao chứa đựng tri thức về hoàn cảnh, môi trường sống và quan
hệ cộng đồng
Dưới góc nhìn của trẻ, việc nhận thức sự vật, hiện tượng thường chỉ
cần nhận biết một vài đặc điểm nào đó, vậy là đủ. Các bài đồng dao dù là do
trẻ nghĩ ra hay do người lớn sáng tác cho trẻ thì cũng không nằm ngoài mục
đích đó.
Cây tre mọc ở bên đường
Làm nhà nghỉ mát, đóng giường ngồi chơi
Trên rừng, cây quế chàng ơi
Để mà làm thuốc cứu người bình dân
…
Cây đa thì để bắc cầu
Cây mít tạc tượng, cây dâu chăn tằm
Cây dừa cây thị lâu năm
Ai ơi nhớ lấy kẻo nhầm làm chi…
(Cụ bà Đỗ Thị Goòng, 85 tuổi, Thông Quan Hạ)
Nếu như theo góc nhìn của nhà thực vật học chẳng hạn, họ sẽ xem xét
nghiên cứu cây cối về quá trình sinh trưởng, sinh sản, trao đổi chất, phát sinh
hình thái, bệnh học thực vật, tiến hóa… Hoặc với môi trường, có thể thấy cây
cối có những tác dụng điều hòa không khí, làm trong lành và sạch môi trường,
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
36
giữ đất khỏi bị lở, lụt lội… Còn bài đồng dao vừa dẫn đơn giản chỉ đề cập đến
những hiện tượng cực kỳ quen thuộc, nói đến một tác dụng cụ thể nào đó
“Cây tre (có nhiều tác dụng) – làm nhà”- mà nhà cũng có rất nhiều tác dụng,
vậy mà chỉ đề cập đến việc làm nhà để “nghỉ mát”; làm giường không phải để
ngủ như thông thường vẫn vậy mà để ngồi chơi! Cây mít chủ yếu trồng là để
ăn quả,vậy mà lại nói đến một tác dụng chẳng ăn nhập gì với luồng suy nghĩ
thông thường, biến hẳn thành một nguyên liệu để dùng … cho người nghệ
nhân.
Trong một bài về cây, đã có sự liên hệ rất rộng rãi không chỉ bó hẹp
trong một không gian hẹp mà còn mở rộng từ các cây rất quen thuộc ở vùng
đồng bằng, mà Khoái Châu cũng là nơi trồng nhiều (có cây ăn quả, cây lấy củ,
lấy thân…) rồi vượt xa hơn là cây ở trên rừng, thậm chí còn khai mở tới sự
tiếp biến tài tình, hóm hỉnh mà lại vẫn rất thuyết phục đối với cây ở tận nước
ngoài:
Su hào nó ở bên Tây
Nó sang rẽ nước bên này mới ưa
Rõ ràng việc nhìn nhận, bóc tách sự vật hiên tượng một cách chi tiết, cụ
thể, kỹ càng sẽ là chưa cần thiết đối với trẻ. Ngôn ngữ đồng dao đã bộc lộ tâm
hồn trẻ, con mắt thơ ngây, trong sáng của chúng và góc nhìn ngộ nghĩnh, đáng
yêu. Không có cớ gì để cho rằng “Không phải thế”, “Phải thế này”, Phải thế
kia” đối với các quan niệm trẻ đưa ra. Với trẻ, từng dữ liệu đơn lẻ sẽ được
chúng tiếp cận, tiếp thu và tổng hợp dần dần đến độ nào đó rồi mới có thể
nhận thức một cách chính xác, toàn diện. Có những bài đồng dao còn đưa ra
những phủ định để nhận diện sự vật qua một lăng kính dưới góc nhìn hài
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
37
hước, ngộ nghĩnh đến mức phải bật cười mà qua đó có thể còn dễ nhớ hơn,
gây ấn tượng sâu sắc hơn1
:
Chuột ra vồ mèo
Muỗi ra vồ dơi
Mỡ lợn thì hôi
Thơm tho tổ cú
Đàn ông có vú
Đàn bà có râu…
(Cụ ông Nguyễn Đức Nghiên, sn 1938, Đại Hưng)
Có thể nói, bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với thế giới trẻ thơ, những
câu ca, câu hát đồng dao đã chứa đựng trong đó nhiều kiến thức, tri thức của
cuộc sống, của môi trường xã hội loài người. Những tri thức đó không hề
được xây dựng bằng những khái niệm, định nghĩa rạch ròi, cụ thể hay sự phân
tích kĩ càng, sâu sắc mà nó được thể hiện dưới nhiều góc độ khác nhau, từ sự
hài hước, hóm hỉnh đến những nhận định nghiêm khắc; từ một vài chi tiết cụ
thể đến khái quát đặc điểm; tất cả đều ở dưới dạng đơn giản, dễ hình dung, dễ
hiểu để từ đó, trẻ em tiếp nhận dần dần một cách tự nhiên, bằng con đường,
cách thức rất phù hợp với chúng là thông qua chơi mà hiểu, mà tiếp thu được
những tri thức dân gian, có hiểu biết và có ứng xử đúng đắn với môi trường tự
nhiên và xã hội.
1
Ngụy biện toán học là một gợi ý cho sự liên tưởng này.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
38
2.2.3. Đồng dao khôi hài, chế nhạo hay nhằm mục đích giải trí
Khôi hài là một nét khá thú vị ở đồng dao; bởi ở đây, tiếng cười hoàn
toàn vô tư, trong sáng với góc nhìn ngộ nghĩnh của trẻ thơ. Người dân ở
huyện Khoái Châu thuộc nhiều và khá hứng thú với các bài đồng dao có nội
dung này. Điều này khẳng định thêm vai trò của đồng dao trong đời sống tinh
thần của người dân nói chung cũng như của Khoái Châu nói riêng:
Ông giẳng ông giăng
Ông giằng búi tóc
Ông khóc ông cười
Mười ông một cỗ
Đánh nhau vỡ đầu
Đi câu nhà kiến
Đi kiện nhà phủ
Một lũ ông già
Mười ba ông điếc
Ông thì điếc đông
Ông thì điếc đặc
Ông thì đặc điếc.
(Cụ ông Nguyễn Đức Nghiên, sn 1938, Đại Hưng)
Có thể nội dung bài không có gì nhiều, chỉ đơn giản là mấy người
tranh giành miếng ăn với nhau; nhưng tiếng cười ở đây không nhằm vào đối
tượng là những “ông” đó. Sự nhấn mạnh tăng dần mức độ “điếc” ở ba câu
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
39
cuối, đặc biệt là câu cuối cùng dùng thủ pháp đảo ngữ đã cho một kết quả bất
ngờ hơn và đây chính là điểm nhấn để cho ai nghe, ai đọc cũng phải bật cười.
Những câu nhẹ nhàng, vui vẻ xuất phát từ đặc điểm của đối tượng
cũng gây nhưng tiếng cười sảng khoái, mà lại là tiếng cười do sự phân tích,
nhận thức đúng về đối tượng:
Con chim mày ở trên cây
Tao đứng dưới gốc mày bay đường nào?
Con cá mày ở dưới ao
Tao tát nước vào mày sống được chăng?
(Bà Nguyễn Thị Vui, sn 1957, Đại Hưng)
Sự chế nhạo thói hư tật xấu nhiều khi lại không nằm ở chính cái sự
“xấu” mà lại ẩn nấp ở đâu đó trong những hành vi, cử chỉ, hành động hay sự
việc rất đời thường, ai nhìn vào cũng thấy không phải là mình mà vẫn thấy có
chút gì là “mình” trong đó. Sự “tinh tế” này có lẽ do sự tế nhị của con trẻ khi
có cái nhìn, cách nhận xét tác động ngược trở lại với thế giới của người lớn
mà với chúng, nhiều khi đó là nơi chỉ có chấp nhận “cho” chứ không có
“nhận”.
…Có anh bẩy vợ chẳng chê vợ nào
Một vợ rửa bát cầu ao
Gặp trận mưa rào chết dúi bụi tre
Một vợ thì đi buôn bè
Chẳng may bè thối nó đè xuống sông
Một vợ thì đi buôn bông
Gặp cơn cả gió nó bung lên giời (trời)
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
40
Một vợ thì đi buôn nồi
Chẳng may nồi méo, một nồi ba vung…
(Cụ ông Nguyễn Đức Nghiên, sn 1938, Đại Hưng)
Hay là:
Cái cò là cái cò quăm
Chửa ra đến chợ đã chăm ăn quà
Hàng bánh, hàng bún bầy la
Con mắt tỏm tẻm lướt qua mọi hàng
Bánh đúc cho lẫn bánh đàng
Củ từ, khoai nướng, lẫn hàng cháo kê
Ăn rồi lại trở ra về
Thấy hàng thịt chó lại lê chân vào.
(Bà Nguyễn Thị Vui, sn 1957, Đại Hưng)
Tìm hiểu những bài đồng dao, có thể gặp những câu đồng dao tưởng
chừng như vô nghĩa, thậm chí còn lung tung lộn xộn, các sự vật, sự việc
chẳng liên quan gì đến nhau ngoài việc câu cú có vần điệu. Liệu đây có phải
là lối tư duy vụn vặt, đơn lẻ, hay chỉ là lối tư duy tự do, hiếu động của con
trẻ?
…Ngủ ăn không hết
Để dành đến Tết mồng ba
Mèo già ăn trộm
Mèo ốm phải đòn
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
41
Mèo con phải vạ
Con quạ đứt đuôi
Con ruồi đứt cánh
Đòn gánh có mấu
Châu chấu có chân…
...Cái phản long đanh
Anh còn chữa được
Cái lược chải đầu
Con trâu cày ruộng
(Cụ ông Nguyễn Đức Nghiên, sn 1938, Đại Hưng)
Bài đồng dao này có 46 dòng, và có những bản khác biến hóa vô
cùng sang những nội dung khác nhau, thậm chí chính bản này cũng có thể
được phát triển rất xa về số lượng câu chữ. Bài này được viết ở thể 4 tiếng
với vần nhịp thay đổi liên tục; từ tiếng thứ 4 của câu trước với tiếng thứ
hai của câu sau (vần nhịp này chiếm số lượng nhiều nhất) đến liên kết vần
từ tiếng thứ tư xuống tiếng thứ nhất (“Cái phản long đanh – Anh còn chữa
được”, “Mày tát chuôm tao – Tao tát chuôm mày”), từ tiếng thứ tư cũng
xuống tiếng thứ tư (Ngủ ăn không hết – Để dành đến Tết mồng Ba), thậm
chí chỉ là theo nghĩa đối kháng, đối lập hoặc đối trọng:
Mày tát chuôm tao
Tao tát chuôm mày
Mày đầy rổ cá
Tao đầy rổ tôm
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
42
Mày bán chợ Hôm
Tao bán chợ Dền
Mày mở cửa đền
Tao mở của vua…
Xét về mặt nội dung xuyên suốt từ đầu đến cuối bài thì ở đây hoàn
toàn không ăn nhập gì với nhau về ngữ nghĩa. Có những nội dung chỉ nằm
trong 2-3 dòng rồi lại tiến thẳng sang một nội dung hoàn toàn khác.
Khoái Châu trước đây thường có hình thức sinh hoạt vui chơi tập thể
vào buổi tối. Những đêm trời trong xanh gió mát, trẻ chơi với nhau hoặc vui
chơi cùng người lớn ở đầu làng1
hoặc sân đình, bờ đê, bãi đất rộng. Cảnh vật
xung quanh thường thấy là hình ảnh trăng sao, cảnh vật mờ ảo. Đồng dao đã
xuất phát từ bối cảnh đó mà ra đời:
Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời ông Văn
Ông Văn mà lấy bà Văn
Đẻ ra con rắn thằn lằn cụt đuôi
Ông Văn bảo để mà nuôi
Bà Văn đập chết đem vùi bếp gio (tro)
Ông Văn bảo để mà kho
1
Các làng xã ở Khoái Châu bao giờ cũng có ít nhất là một hoặc hai phía tiếp giáp với ruộng đồng.
Người ta gọi chỗ đó là đầu làng. Một làng có thể có hai đầu làng.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
43
Bà Văn đập chết đem cho láng giềng.
(Cụ bà Nguyễn Thị Bấm, sn 1936, Hồng Tiến)
Bài đồng dao này có vẻ như lan man, nội dung thật khó chấp nhận.
Tuy nhiên, đây là một trong những bài đồng dao được cả trẻ em và người lớn
ở Khoái Châu khá thích thú và nhiều người thuộc nó. Xét về nội dung, bài này
đề cập đến những hình ảnh rất quen thuộc với họ như ông trăng (có chú Cuội),
cây lúa, bếp tro, việc chăn trâu, cắt cỏ… “ông Văn” có lẽ theo thông lệ nơi
đây thường đặt tên con trai thì đệm “Văn”, con gái thì đệm “Thị”, khi lấy
chồng thì mất luôn cả tên bởi vì người ta chỉ gọi theo tên chồng (ông Văn – bà
Văn), còn tên của vợ thì chỉ được dùng trong thủ tục hành chính hoặc sau khi
đã mất, người ta mới khấn tên cúng cơm mà thôi. Về hình thức, bài ở thể thơ
lục bát, gồm có 5 cặp. Hình thức đó là vừa phải, dễ nhớ, dễ thuộc bởi lục bát
là một thể thơ có luật bằng trắc rất thuận, uyển chuyển, phù hợp với tâm sinh
lí và khẩu ngữ của con người.
Trên đây cho thấy một phần bản chất của đồng dao – sản phẩm của trẻ
- chính là những hình ảnh gần gũi, biến đổi liên tục trong con mắt trẻ thơ, là
sự nối tiếp thành chuỗi các mối quan hệ mà sự gắn kết nhiều khi còn sơ khai
và rất mong manh. Tuy nhiên, nó lại trở thành nhân tố quan trọng, là phương
tiện hữu ích cho việc vui chơi giải trí của trẻ mà trong trường hợp này, trẻ lại
là chủ thể, là người đã tạo ra nó, chiếm lĩnh nó.
2.3. Đồng dao trong trò chơi
2.3.1. Khái quát
Nhiều bài đồng dao chiếm vị trí đáng kể trong các trò chơi, thậm chí
có những trò chơi bắt buộc phải có đồng dao mới chơi được. Theo thống kê
khi khảo sát 175 trẻ ở Khoái Châu (sinh trong khoảng từ 1994-2000), tỷ lệ sử
dụng đồng dao trong trò chơi chiếm tới 48,1%; khảo sát 50 người cao tuổi
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
44
(sinh trong khoảng từ năm 1915 đến 1945) thì tỷ lệ sử dụng đồng dao trong
trò chơi là 33,3%. Vì đồng dao là phương tiện, công cụ để chơi trò chơi, nên
về bản chất, quan hệ giữa đồng dao với trò chơi là quan hệ giữa công cụ với
đối tượng mà công cụ ấy tác động. Do đó, khi xét mối quan hệ này, có hai vấn
đề cần quan tâm: một là sự tương ứng, sự phù hợp giữa bản thân công cụ với
đối tượng sử dụng; và hai là khi đã đưa vào sử dụng thì công cụ ấy tác động
và tạo hiệu quả ra sao, tức là xét sự tương ứng giữa đồng dao với trò chơi và
vai trò của đồng dao với trò chơi.
Đồng dao trong trò chơi có nội dung, đồng thời là hai vai trò chính.
Thứ nhất, các câu đồng dao chỉ là những câu đọc vần, phụ họa, làm nền cho
các động tác chơi. Thứ hai, nội dung của câu hát đồng dao được hành động
của trò chơi thực hiện.
2.3.2. Đồng dao phụ họa cho trò chơi
Những câu đồng dao được đọc theo lối văn vần với những nội dung
nhiều khi không ăn nhập gì với các động tác trò chơi, hoặc cùng lắm chỉ có
câu cuối cùng biểu hiện một hành động báo hiệu, dứt điểm một động tác nào
đó mà thôi. Đây cũng chính là nét đặc biệt trong trò chơi dân gian mà nhiều
trò chơi khác không có. Đối với trường hợp này, đồng dao chỉ là chất xúc tác
cho trò chơi thêm phong phú chứ không đóng vai trò chủ đạo. Do đó, trong
một trò chơi, một động tác có thể có rất nhiều bản khác phụ họa cho nó, hoặc
có lúc trẻ chơi mà không cần đọc đồng dao cũng vẫn được. Ví dụ như trong
trò chơi đánh chuyền, một bàn chơi có thể có tới 2-3, thậm chí 4 bản khác
nhau1
.
1
Xem phần “Dị bản trong đồng dao”
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
45
Nhiều bài đồng dao trong trò chơi nhằm để xác định thời gian kết thúc
một quá trình, một hành động hay một ván chơi1
. Các bài ở dạng này thường
có câu kết thúc là hành động của trò chơi hay là câu tương ứng với hành động.
Có thể kể đến các bài như “Chi chi chành chành”, kết thúc bằng câu “Ù à ù
ập - Đóng sập cửa vào” đồng thời các em nắm chặt tay vào; “Rồng rồng mổ
rết” kết thúc bằng câu “Hỡi các bạn mến ơi - Chộp lấy thằng cuối cùng”
đồng thời các em ngồi thụp xuống, em nào ở trong phạm vi vòng vây sẽ bị
“chết”; “Thả đỉa ba ba” kết thúc bằng câu “Thả vào nhà nào – Nhà ấy phải
chịu” hay “Nu na nu nống” kết thúc bằng câu “Tè he chân rụt – Chẳng cụt
mất chân”… Những bài đồng dao như vậy thường là đọc theo lối văn vần, nội
dung là những sự vật, sự việc có thể là những hình ảnh mô phỏng, có liên hệ
với hành động đang diễn ra hoặc chắp nối chưa chắc đã theo quy luật, trật tự
nào, độ dài cũng có thể được thêm, bớt, tốc độ đọc hát có thể nhanh chậm
khác nhau tạo sự bất ngờ, kịch tính cho trò chơi.
Rồng rồng mổ rết
Bắt con rết qua sông
Bắt con rồng qua biển
Bắt con kiến bổ đôi
Hỡi các bạn mến ơi
Chộp lấy thằng cuối cùng.
(học sinh lớp 7 trường THCS Tân Dân, Khoái Châu)
1
Chương 3 sẽ trình bày chi tiết hơn về các trò chơi
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
46
Nội dung của bài đồng dao cho thấy 4 dòng trên biểu đạt một hành
động sắp xảy ra: Đối tượng này bắt chộp đối tượng khác, cụ thể bằng câu kết
thúc một quá trình chơi ở 2 dòng cuối.
2.3.3. Đồng dao mô tả hành động của trò chơi
Có những câu đồng dao nhằm để mô tả hành động của trò chơi. Nội
dung của nó gắn bó với cách chơi, động tác chơi một cách cụ thể, rõ ràng hơn.
Ví dụ như bài đồng dao trong trò chơi “Mèo đuổi chuột”:
Mời bạn ra đây
Tay nắm chặt tay
Đứng thành vòng rộng
Chuột luồn lỗ hổng
Mèo đuổi đằng sau
Chuột cố chạy mau
Trốn đâu cho thoát
Thế rồi chú chuột
Lại hóa vai mèo
Co cẳng đuổi theo
Bắt mèo hóa chuột.
(Bà Nguyễn Thị Vui, sn 1957, Đại Hưng)
Toàn bộ bài đồng dao này miêu tả khá chi tiết, cụ thể từng hành động
của trò chơi, luật chơi. Số lượng người chơi cần phải đông (đứng thành vòng
rộng), “chuột” và “mèo” chạy đuổi nhau luồn qua những người đứng thành
vòng tròn đó và khi bắt được thì kết thúc ván và đổi vai chơi.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
47
Ngoài những bài nêu rõ ràng như trên, có bài thì chỉ nêu ra một cách
tương đối về cách chơi, hành động chơi như “Oản tù tì”, “Tập tầm vông”:
Tập tầm vông
Tay không, tay có
Tập tầm vó
Tay có, tay không!
Một vật nhỏ được giấu ở một tay nào đó của một trẻ, trẻ vòng hai tay
ra sau, vừa đọc vừa đổi vật đó từ tay nọ qua tay kia hoặc không hề đổi, đọc
xong cho trẻ khác đoán xem vật đó ở tay nào.
Đồng dao chiếm giữ một vai trò đáng kể trong một số trò chơi dân
gian. Nó tham gia vào quá trình chơi như là một thành phần không thể thiếu,
hỗ trợ cho các hành động, thậm chí xác định hành động của trò chơi đó. Đồng
dao giúp cho trò chơi không bị đơn điệu và câm lặng bởi nó chính là âm thanh
giọng nói dưới dạng ca hát, hò reo với những vần điệu linh hoạt, phong phú,
phù hợp với tâm sinh lý của con người, nhất là với trẻ nhỏ, tạo lên sự phong
phú và nét khu biệt rất đặc trưng đối với trò chơi dân gian.
2.4. Hình thức của đồng dao
2.4.1. Cấu trúc, vần và lời của đồng dao
Xét về hình thức, đồng dao có thể là rất ngắn, chỉ hai dòng, có khi lại
có thể rất dài, đến hàng trăm dòng. Các tiếng trong một dòng cũng vậy, có khi
chỉ 2 tiếng, có khi tới 8-9, thậm chí 10-11 tiếng.
Bao giờ cho đến canh năm
Thổi nồi cơm nếp vừa nằm vừa ăn.
Hay:
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
48
Châu chấu đuổi cái chích chòe
Cỏ dày đồng nội cắn què mõm trâu.
(Cụ ông Nguyễn Đức Nghiên, sn 1938, Đại Hưng)
Thể loại tục ngữ thường hay sử dụng dạng cấu trúc ngắn mà vẫn diễn
đạt được những triết lí, những nội dung sâu sắc được đúc rút từ kinh nghiệm
cuộc sống lao động. Đối với đồng dao, những bài có cấu trúc ngắn như vậy
thường nêu được một chi tiết, một nét, một hiện tượng nào đó của cuộc sống.
Có thể coi đó là một mảnh ghép theo giác độ đặc biệt của thế giới tuổi thơ;
một hiện tượng, một nét ngẫu nhiên được xây dựng thành những câu hát vần
vè giúp trẻ vui chơi, giải trí một cách sinh động hơn.
Các bài đồng dao kéo dài, thậm chí tới gần một trăm dòng thường đề
cập tới một chủng loại gì đó theo chuyên đề nối tiếp nhau tưởng chừng như
không dứt. Trong quá trình sưu tầm ở Khoái Châu chúng tôi thấy người nhớ
bài dài nhất mới chỉ được 64 dòng nói về các thứ cây.
…Cây ngô, cây lúa ngoài đồng
Để cho thiên hạ vợ chồng đủ no
Đêm nằm mà nghĩ chả lo
Cây si mọc ở bến đò cũng xinh
Gỗ sen, gỗ sến làm đình
Trăm trai đổ lại gỗ đinh một màu…
(Cụ bà Đỗ thị Goòng, 82 tuổi, thị trấn Khoái Châu)
Nếu so sánh với tài liệu đã xuất bản, chẳng hạn trong cuốn Đồng dao
và trò chơi người Việt, thì chúng tôi thấy bài vè các thứ bánh có 94 dòng, bài
vè các loài cá có tới 96 dòng.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
49
Bà con cô bác
Lẳng lặng mà nghe
Tôi nói cái vè
Vè các thứ bánh
Mấy tay phong tình huê nguyệt
Thì sẵn có bánh trung thu
Mấy ông thầy tu
Bánh sen thơm ngát… [16, tr.19]
Nghe vẻ nghe ve
Vè các loại cá
Cá kình cá ngạc
Cá nác, cá dưa
Cá voi, cá ngựa… [16, tr.53]
Các bài này kéo dài tưởng chừng như bất tận, liệt kê đến bao giờ đủ
các loại mới có thể dừng. Đây cũng là một trong những đặc điểm của đồng
dao trẻ em: quan sát, liên hệ, liệt kê, nhận thức sự vật, hiện tượng xung quanh
mình rồi xây dựng nội dung bằng hệ thống câu hát đơn giản, ghép nối sự vật
bằng chính những đặc điểm phơi bày của đối tượng, đồng thời còn liên hệ với
những đối tượng tương tự ở các môi trường địa lí khác nhau, không gian khác
nhau.
Chúng ta khá quen thuộc với cụm từ “hát đồng dao”. Xét theo góc độ
âm nhạc thì diễn xướng đồng dao chưa hội đủ hết các yếu tố cơ bản của âm
nhạc (cao độ, trường độ, cường độ, âm sắc). Tuy nhiên, đồng dao lại chứa
đựng tính chất thơ ca có vần, có nhịp, tuy niêm luật còn lỏng lẻo.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
50
Như trên đã nêu, đồng dao được sử dụng trong các trò chơi khá nhiều.
Các câu hát này nhằm miêu tả hành động, các động tác của trò chơi như
những bước đi, đứng lên ngồi xuống, co đi kéo lại; hoặc từng cặp cùng chơi.
Do vậy, đồng dao theo cấu trúc thể 2 tiếng hoặc 4 tiếng (chẵn) là rất phù hợp.
Trong đó, thể hai tiếng ít hơn, ví dụ như trò giã gạo:
Giã gạo
Bì bọp
Cho cọp
Nó ăn.
Hay:
Giã gạo
Cơn trưa
Còn thừa
Bỏ cối
Ai vay
Nói dối
Nhà tôi
Hết rồi.
(Cụ bà Đỗ Thị Tiệm, 92 tuổi, Hồng Tiến)
Hoặc bản khác có cấu trúc 2-3 tiếng, các dòng có ba tiếng được đọc
ghép hai tiếng để vẫn có tiết tấu chẵn, cùng nhịp điệu với các dòng có 2 tiếng:
Giã gạo
Say sưa
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
51
Còn thừa
Để đến tối
Ai vay
Nói dối
Hết gạo rồi
Chống cối lên.
(Cụ bà Nguyễn Thị Bấm, sn 1936, Hồng Tiến)
Trong trò chơi Đánh chuyền cũng có loạt bài ở thể 2 tiếng, phù hợp
với 2 động tác tung – hứng quả chuyền, thí dụ:
Cái cột
Cái kèo
Thèo lèo
Búp măng
Thằng chăng
Con chít
Ngấm nga
Ngấm nguýt
Thít thịt
Lên đôi.
(Cụ bà Nguyễn Thị Bấm, sn 1936, Hồng Tiến)
Chúng ta bắt gặp rất nhiều bài đồng dao 4 tiếng trong trò chơi như
“Chi chi chành chành”, “Dung dăng dung dẻ”, “Rồng rắn lên mây”. Đây là
trường hợp phổ biến nhất bởi vần điệu của nó tạo thành nhịp đôi đều đặn, đọc
Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc
Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc
Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc
Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc
Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc
Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc
Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc
Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc
Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc
Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc
Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc
Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc
Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc
Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc
Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc
Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc

More Related Content

Similar to Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc

Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trƣờng Mẫu Giáo Minh ...
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trƣờng Mẫu Giáo Minh ...Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trƣờng Mẫu Giáo Minh ...
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trƣờng Mẫu Giáo Minh ...hieu anh
 
Don ca tai tu san pham du lich hap dan o nam bo
Don ca tai tu san pham du lich hap dan o nam boDon ca tai tu san pham du lich hap dan o nam bo
Don ca tai tu san pham du lich hap dan o nam boChau Duong
 
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Bài thi tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử đồng nai năm 2016
Bài thi tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử đồng nai năm 2016Bài thi tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử đồng nai năm 2016
Bài thi tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử đồng nai năm 2016nataliej4
 
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533jackjohn45
 

Similar to Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc (20)

Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đLuận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
 
Luận Văn Thạc Sĩ Dạy Học Sli, Lượn Trong Giờ Ngoại Khóa Cho Sinh Viên
Luận Văn Thạc Sĩ Dạy Học Sli, Lượn Trong Giờ Ngoại Khóa Cho Sinh ViênLuận Văn Thạc Sĩ Dạy Học Sli, Lượn Trong Giờ Ngoại Khóa Cho Sinh Viên
Luận Văn Thạc Sĩ Dạy Học Sli, Lượn Trong Giờ Ngoại Khóa Cho Sinh Viên
 
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trƣờng Mẫu Giáo Minh ...
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trƣờng Mẫu Giáo Minh ...Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trƣờng Mẫu Giáo Minh ...
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trƣờng Mẫu Giáo Minh ...
 
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đ
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đLễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đ
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đ
 
Luận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAYLuận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAY
 
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam TânLễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân
 
Luận Văn Đưa Hát Then Vào Dạy Học Tại Trường Cao Đẳng Sư Phạm.
Luận Văn Đưa Hát Then Vào Dạy Học Tại Trường Cao Đẳng Sư Phạm.Luận Văn Đưa Hát Then Vào Dạy Học Tại Trường Cao Đẳng Sư Phạm.
Luận Văn Đưa Hát Then Vào Dạy Học Tại Trường Cao Đẳng Sư Phạm.
 
Lễ hội đền hùng trong đời sống tâm linh người việt.docx
Lễ hội đền hùng trong đời sống tâm linh người việt.docxLễ hội đền hùng trong đời sống tâm linh người việt.docx
Lễ hội đền hùng trong đời sống tâm linh người việt.docx
 
Luận văn: Giáo dục phổ thông huyện Ứng Hòa, Hà Tây (1991-2008)
Luận văn: Giáo dục phổ thông huyện Ứng Hòa, Hà Tây (1991-2008)Luận văn: Giáo dục phổ thông huyện Ứng Hòa, Hà Tây (1991-2008)
Luận văn: Giáo dục phổ thông huyện Ứng Hòa, Hà Tây (1991-2008)
 
Luận văn lịch sử : Giáo dục phổ thông huyện Ứng Hòa
Luận văn lịch sử : Giáo dục phổ thông huyện Ứng HòaLuận văn lịch sử : Giáo dục phổ thông huyện Ứng Hòa
Luận văn lịch sử : Giáo dục phổ thông huyện Ứng Hòa
 
Âm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người Khmer, HAY
Âm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người Khmer, HAYÂm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người Khmer, HAY
Âm nhạc nghi lễ dân gian trong văn hóa của người Khmer, HAY
 
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trường Mẫu Giáo qua t...
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trường Mẫu Giáo qua t...Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trường Mẫu Giáo qua t...
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi trường Mẫu Giáo qua t...
 
Đề tài: Dạy học hát dân ca cho học sinh lớp 6 tại Hà Nội, HAY, 9đ
Đề tài: Dạy học hát dân ca cho học sinh lớp 6 tại Hà Nội, HAY, 9đĐề tài: Dạy học hát dân ca cho học sinh lớp 6 tại Hà Nội, HAY, 9đ
Đề tài: Dạy học hát dân ca cho học sinh lớp 6 tại Hà Nội, HAY, 9đ
 
Đề tài: Ca trù tại làng Đông Môn huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng
Đề tài: Ca trù tại làng Đông Môn huyện Thủy Nguyên, Hải PhòngĐề tài: Ca trù tại làng Đông Môn huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng
Đề tài: Ca trù tại làng Đông Môn huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng
 
Đề tài: Dạy học Sli, Lượn trong giờ ngoại khóa cho sinh viên, HAY
Đề tài: Dạy học Sli, Lượn trong giờ ngoại khóa cho sinh viên, HAYĐề tài: Dạy học Sli, Lượn trong giờ ngoại khóa cho sinh viên, HAY
Đề tài: Dạy học Sli, Lượn trong giờ ngoại khóa cho sinh viên, HAY
 
Nâng cao hiệu quả quản lý di tích lịch sử - văn hóa tại Vĩnh Cửu tỉnh Đồng Na...
Nâng cao hiệu quả quản lý di tích lịch sử - văn hóa tại Vĩnh Cửu tỉnh Đồng Na...Nâng cao hiệu quả quản lý di tích lịch sử - văn hóa tại Vĩnh Cửu tỉnh Đồng Na...
Nâng cao hiệu quả quản lý di tích lịch sử - văn hóa tại Vĩnh Cửu tỉnh Đồng Na...
 
Don ca tai tu san pham du lich hap dan o nam bo
Don ca tai tu san pham du lich hap dan o nam boDon ca tai tu san pham du lich hap dan o nam bo
Don ca tai tu san pham du lich hap dan o nam bo
 
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
 
Bài thi tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử đồng nai năm 2016
Bài thi tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử đồng nai năm 2016Bài thi tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử đồng nai năm 2016
Bài thi tìm hiểu giá trị văn hóa – lịch sử đồng nai năm 2016
 
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
 

More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍

More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍 (20)

Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến lòng trung thành của nhân viên tại khách s...
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến lòng trung thành của nhân viên tại khách s...Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến lòng trung thành của nhân viên tại khách s...
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến lòng trung thành của nhân viên tại khách s...
 
Nghiên cứu về phát triển hệ thống kênh phân phối sản phẩm của các doanh nghiệ...
Nghiên cứu về phát triển hệ thống kênh phân phối sản phẩm của các doanh nghiệ...Nghiên cứu về phát triển hệ thống kênh phân phối sản phẩm của các doanh nghiệ...
Nghiên cứu về phát triển hệ thống kênh phân phối sản phẩm của các doanh nghiệ...
 
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG HIỆU.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG HIỆU.docxCƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG HIỆU.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG HIỆU.docx
 
Cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng phục vụ tại bộ phận đón tiếp của k...
Cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng phục vụ tại bộ phận đón tiếp của k...Cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng phục vụ tại bộ phận đón tiếp của k...
Cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng phục vụ tại bộ phận đón tiếp của k...
 
Cơ sở lý luận về phát triển thị trƣờng khách inbound dưới góc độ marketing củ...
Cơ sở lý luận về phát triển thị trƣờng khách inbound dưới góc độ marketing củ...Cơ sở lý luận về phát triển thị trƣờng khách inbound dưới góc độ marketing củ...
Cơ sở lý luận về phát triển thị trƣờng khách inbound dưới góc độ marketing củ...
 
Cơ sở lý luận về thị trường và sử dụng marketing nhằm mở rộng thị trường của ...
Cơ sở lý luận về thị trường và sử dụng marketing nhằm mở rộng thị trường của ...Cơ sở lý luận về thị trường và sử dụng marketing nhằm mở rộng thị trường của ...
Cơ sở lý luận về thị trường và sử dụng marketing nhằm mở rộng thị trường của ...
 
Tính toán thiết kế chế tạo và vận hành thử nghiệm hệ thống cấp đông I-Q-F thẳ...
Tính toán thiết kế chế tạo và vận hành thử nghiệm hệ thống cấp đông I-Q-F thẳ...Tính toán thiết kế chế tạo và vận hành thử nghiệm hệ thống cấp đông I-Q-F thẳ...
Tính toán thiết kế chế tạo và vận hành thử nghiệm hệ thống cấp đông I-Q-F thẳ...
 
Tính toán, thiết kế máy sấy bơm nhiệt sấy thanh long cắt lát với năng suất 20...
Tính toán, thiết kế máy sấy bơm nhiệt sấy thanh long cắt lát với năng suất 20...Tính toán, thiết kế máy sấy bơm nhiệt sấy thanh long cắt lát với năng suất 20...
Tính toán, thiết kế máy sấy bơm nhiệt sấy thanh long cắt lát với năng suất 20...
 
Nghiên cứu nhiệt phân gỗ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm than hoa.doc
Nghiên cứu nhiệt phân gỗ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm than hoa.docNghiên cứu nhiệt phân gỗ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm than hoa.doc
Nghiên cứu nhiệt phân gỗ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm than hoa.doc
 
Hoàn thiện quy trình sản xuất thanh long sấy bằng phương pháp sấy đối ...
Hoàn thiện quy trình sản xuất thanh long sấy bằng phương pháp sấy đối ...Hoàn thiện quy trình sản xuất thanh long sấy bằng phương pháp sấy đối ...
Hoàn thiện quy trình sản xuất thanh long sấy bằng phương pháp sấy đối ...
 
Nghiên cứu ứng dụng hệ điều khiển dự báo để điều khiển mức nước bao hơi của n...
Nghiên cứu ứng dụng hệ điều khiển dự báo để điều khiển mức nước bao hơi của n...Nghiên cứu ứng dụng hệ điều khiển dự báo để điều khiển mức nước bao hơi của n...
Nghiên cứu ứng dụng hệ điều khiển dự báo để điều khiển mức nước bao hơi của n...
 
ĐỒ ÁN - BÁO CÁO MÔ HÌNH KHO LẠNH DÀN TRẢI.doc
ĐỒ ÁN - BÁO CÁO MÔ HÌNH KHO LẠNH DÀN TRẢI.docĐỒ ÁN - BÁO CÁO MÔ HÌNH KHO LẠNH DÀN TRẢI.doc
ĐỒ ÁN - BÁO CÁO MÔ HÌNH KHO LẠNH DÀN TRẢI.doc
 
ĐỒ ÁN - Tính toán thiết kế máy sấy khoai lang năng suất 100 kg mẻ.doc
ĐỒ ÁN - Tính toán thiết kế máy sấy khoai lang năng suất 100 kg mẻ.docĐỒ ÁN - Tính toán thiết kế máy sấy khoai lang năng suất 100 kg mẻ.doc
ĐỒ ÁN - Tính toán thiết kế máy sấy khoai lang năng suất 100 kg mẻ.doc
 
Đồ án tốt nghiệp - Sấy bã mía, 9 điểm.doc
Đồ án tốt nghiệp - Sấy bã mía, 9 điểm.docĐồ án tốt nghiệp - Sấy bã mía, 9 điểm.doc
Đồ án tốt nghiệp - Sấy bã mía, 9 điểm.doc
 
Hoàn thiện quy trình sản xuất thanh long sấy bằng phương pháp sấy đối lưu.doc
Hoàn thiện quy trình sản xuất thanh long sấy bằng phương pháp sấy đối lưu.docHoàn thiện quy trình sản xuất thanh long sấy bằng phương pháp sấy đối lưu.doc
Hoàn thiện quy trình sản xuất thanh long sấy bằng phương pháp sấy đối lưu.doc
 
ĐỒ ÁN - Điều khiển lưu lượng không khí trong phòng sạch thông qua biến tần.doc
ĐỒ ÁN - Điều khiển lưu lượng không khí trong phòng sạch thông qua biến tần.docĐỒ ÁN - Điều khiển lưu lượng không khí trong phòng sạch thông qua biến tần.doc
ĐỒ ÁN - Điều khiển lưu lượng không khí trong phòng sạch thông qua biến tần.doc
 
ĐỒ ÁN - Tính toán thiết bị sấy nấm kểu sấy hầm, năng suất nhập liệu 650kgmẻ.doc
ĐỒ ÁN - Tính toán thiết bị sấy nấm kểu sấy hầm, năng suất nhập liệu 650kgmẻ.docĐỒ ÁN - Tính toán thiết bị sấy nấm kểu sấy hầm, năng suất nhập liệu 650kgmẻ.doc
ĐỒ ÁN - Tính toán thiết bị sấy nấm kểu sấy hầm, năng suất nhập liệu 650kgmẻ.doc
 
Thiết kế nhà máy sản xuất bia năng suất 91,8 triệu lít sản phẩm năm.docx
Thiết kế nhà máy sản xuất bia năng suất 91,8 triệu lít sản phẩm năm.docxThiết kế nhà máy sản xuất bia năng suất 91,8 triệu lít sản phẩm năm.docx
Thiết kế nhà máy sản xuất bia năng suất 91,8 triệu lít sản phẩm năm.docx
 
Tính toán thiết kế hệ thống sấy thùng quay sấy cà phê nhân theo năng suất nhậ...
Tính toán thiết kế hệ thống sấy thùng quay sấy cà phê nhân theo năng suất nhậ...Tính toán thiết kế hệ thống sấy thùng quay sấy cà phê nhân theo năng suất nhậ...
Tính toán thiết kế hệ thống sấy thùng quay sấy cà phê nhân theo năng suất nhậ...
 
Thiết kế hệ thống sấy thùng quay sấy bắp với năng suất 800 kgh.docx
Thiết kế hệ thống sấy thùng quay sấy bắp với năng suất 800 kgh.docxThiết kế hệ thống sấy thùng quay sấy bắp với năng suất 800 kgh.docx
Thiết kế hệ thống sấy thùng quay sấy bắp với năng suất 800 kgh.docx
 

Recently uploaded

Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 

Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu - Hưng Yên.doc

  • 1. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM VIỆN NGHIÊN CỨU VĂN HÓA HOÀNG CÔNG DỤNG ĐỒNG DAO VÀ TRÒ CHƠI DÂN GIAN TRẺ EM Ở HUYỆN KHOÁI CHÂU – HƯNG YÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC HÀ NỘI –
  • 2. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM VIỆN NGHIÊN CỨU VĂN HÓA HOÀNG CÔNG DỤNG ĐỒNG DAO VÀ TRÒ CHƠI DÂN GIAN TRẺ EM Ở HUYỆN KHOÁI CHÂU – HƯNG YÊN CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC MÃ SỐ: 60 31 70 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Xuân Kính HÀ NỘI –
  • 3. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo cùng toàn thể quý thầy, cô của Viện Nghiên cứu Văn hóa, trường Đại học Văn hóa, trường Đại học sư phạm Nghệ thuật TW, Vụ Giáo dục Mầm non – Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban Văn hóa huyện Khoái Châu – Hưng Yên đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới GS.TS. Nguyễn Xuân Kính, người giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận văn chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, kính mong các nhà khoa học, quý thầy, cô giáo chỉ dạy thêm để giúp tôi mở rộng kiến thức, tạo điều kiện thuận lợi cho thực tiễn nghiên cứu và công tác sau này. Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn. Hà Nội, ngày …… tháng ……. năm 2010 Tác giả luận văn Hoàng Công Dụng
  • 4. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 LỜI CAM ĐOAN Đây là kết quả công trình nghiên cứu, tổng hợp của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những ý kiến khoa học được đề cập trong luận văn chưa có ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Nếu có gì sai sót, tôi xin chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày …… tháng ……. năm 2010 Tác giả luận văn Hoàng Công Dụng
  • 5. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 MỤC LỤC Mở đầu 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 5 3. Tình hình nghiên cứu 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7 5. Phương pháp nghiên cứu 8 6. Những đóng góp của luận văn 8 7. Bố cục luận văn 9 Chương 1: Khái quát về lịch sử, văn hóa và con người Khoái Châu 10 1.1. Tổng quan về lịch sử, thiên nhiên và môi trường của huyện Khoái Châu 10 1.1.1. Sự hình thành và phát triển 10 1.1.2. Thiên nhiên và môi trường địa lí 12 1.2. Văn hóa và con người Khoái Châu 16 1.2.1. Cư dân Khoái Châu 16 1.2.2. Khoái Châu – vùng phù sa văn hóa 19 Chương 2: Đồng dao 25 2.1. Phân loại đồng dao 25 2.2. Nội dung của đồng dao 31 2.2.1. Đồng dao có nội dung nhắc nhở, răn dạy điều hay lẽ phải 31 2.2.2. Đồng dao chứa đựng tri thức về hoàn cảnh, môi trường sống và quan hệ cộng đồng 35 2.2.4. Đồng dao khôi hài, chế nhạo hay nhằm mục đích giải trí 38 2.3. Đồng dao trong trò chơi 43 2.3.1. Khái quát 43 2.3.2. Đồng dao phụ họa cho trò chơi 44 2.3.3. Đồng dao mô tả hành động của trò chơi 46 2.4. Hình thức của đồng dao 47 2.4.1. Cấu trúc, vần và lời của đồng dao 47 2.4.2. Dị bản trong đồng dao 60 2.5. Nhận xét 65 Chương 3: Trò chơi dân gian 67 3.1. Phân loại trò chơi dân gian 67 3.2. Khái quát về trò chơi dân gian ở huyện Khoái Châu 74 3.3. Nội dung của trò chơi dân gian 76 3.3.1. Trò chơi dân gian phản ánh môi trường sống của trẻ 77 3.3.2. Trò chơi dân gian thể hiện trí tuệ 85 3.3.3. Trò chơi dân gian thể hiện sự khéo léo 89 3.3.4. Trò chơi dân gian với mục đích giải trí 100 3.3.5. Trò chơi dân gian phát huy sức mạnh tập thể và quan hệ cộng đồng 102 3.4. Ý nghĩa của trò chơi dân gian 109 3.4.1. Giá trị của trò chơi dân gian trong văn hóa truyền thống 109 3.4.2. Trò chơi dân gian đối với việc giáo dục con trẻ 113 3.5. Nhận xét và đề xuất 116 Kết luận 121 Tài liệu tham khảo 124
  • 6. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 BẢNG CHỮ TẮT VÀ NGHĨA CÁC KÍ HIỆU GS : giáo sư NCS : nghiên cứu sinh Nxb : nhà xuất bản PGS : phó giáo sư sn : sinh năm THCS : trung học cơ sở TS : tiến sĩ TSKH : tiến sĩ khoa học TrCN : trước công nguyên tr : trang UNESCO : United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization - Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc  :tiếp đến 
  • 7. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Châu thổ Bắc Bộ là vùng văn hóa rất đặc trưng của nền nông nghiệp lúa nước với lịch sử hình thành và phát triển từ rất sớm. Cư dân sống theo tổ chức làng xã, tự nguyện chung sống với nhau từ nhiều đời tạo thành một thiết chế xã hội, một đơn vị tổ chức của nông thôn trên cơ sở địa vực, địa bàn cư trú. Bởi vậy, huyện Khoái Châu (tỉnh Hưng Yên), một vùng cộng cư và định cư từ thời vua Hùng dựng nước với tổ chức xã hội mà đơn vị cơ sở làng xã, là những tế bào sống là một phần của xã hội Việt rất sinh động và vững bền. Đời sống văn hóa nông thôn liên quan, gắn bó với các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội. Môi trường văn hóa là những thiết chế làng xã gắn với cảnh quan như ruộng lúa, lũy tre xanh, bến nước, sân đình… Sức sống văn hóa chính là năng lực tiếp nhận, thực hành và sáng tạo văn hóa của từng chủ thể và của cả cộng đồng. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 của Đảng, phần nói về văn hóa có đoạn viết: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội”. Kể từ đó đến nay, song song với chính sách mở cửa nhằm thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển, Đảng và nhà nước đã luôn chú trọng tới việc khôi phục, duy trì và phát triển nền văn hóa truyền thống đã có từ lâu đời của dân tộc.
  • 8. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 2 Chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22/7/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008- 2013 đã yêu cầu nhà trường “tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh”. Tài liệu “Hướng dẫn nhiệm vụ năm học 2008 – 2009” đối với giáo dục mầm non có nêu một trong ba vấn đề trọng tâm triển khai cuộc vận động là “lựa chọn và đưa bài hát dân ca, trò chơi dân gian vào hoạt động vui chơi tích cực cho trẻ”. Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhiều tác giả dày công sưu tầm, biên soạn và tìm hiểu những bài đồng dao, những trò chơi dân gian của nhiều vùng miền trong cả nước. Đối với Hưng Yên, vùng quê cuả nhãn lồng - vùng phù sa văn hóa, người ta thường biết đến một “thương cảng nổi tiếng ở Đàng Ngoài”, với di tích đền Hóa Dạ Trạch thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung, với hát trống quân, hát ả đào, hát chèo… Ngoài ra, đây cũng là nơi sản sinh, lan tỏa và tiếp thu nhiều bài đồng dao, nhiều trò chơi dân gian gắn với lịch sử lâu đời, với môi trường địa lý phong phú của địa phương. Đối với hai thể loại “đồng dao” và “trò chơi dân gian” đã có nhiều cách nhìn nhận khác nhau, nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau. Đối với đồng dao, nhóm tác giả Nguyễn Thúy Loan, Đặng Diệu Trang, Nguyễn Huy Hồng, Trần Hoàng trong cuốn Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt của Viện Nghiên cứu Văn hóa (Nxb Văn hóa) đã nêu: “Đồng dao là những bài hát truyền miệng của trẻ em lứa tuổi nhi đồng và thiếu niên. Vốn là những sáng tác dân gian không rõ tên tác giả, về sau từ vần điệu của loại hình này, một số người sáng tác những bài thơ cho trẻ em hát, có tên tác giả cũng được các nhà nghiên cứu gọi là đồng dao”[16, tr.5]. Nguyễn Tấn
  • 9. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 3 Long, Phan Canh trong “Đồng dao” (Thi ca bình dân tập IV, năm 1969) thì đưa ra một khái niệm sơ giản “đồng dao tức là ca dao nhi đồng”[16, tr.683]. Có lẽ do tác giả tách hai chữ “đồng” và “dao” ra để giải thích nghĩa của cụm từ đó chăng? Trong luận văn thạc sỹ văn hóa học với đề tài Từ đồng dao đến những bài hát – đồng dao cho tuổi thơ trong nhà trường ngày nay (Viện Nghiên cứu Văn hóa, 2007), tác giả Đỗ Thị Minh Chính đã quan niệm đồng dao như sau: “đồng dao là những bài hát dân gian truyền miệng của trẻ em, cho trẻ em, trên cơ sở những lời văn vần (của tác giả xác định hoặc vô danh), có hình ảnh và nhịp điệu đơn giản, gắn với các trò chơi. Trẻ em là đối tượng hưởng thụ, cũng có khi là chủ thể sáng tạo, nhưng dù ở cương vị nào thì các em cũng luôn luôn là người giữ vai trò “diễn xướng” và đồng dao đã thấm sâu vào đời sống tinh thần của chúng”[3, tr.12]. Trong cuốn Tìm hiểu đồng dao người Việt do Nhà xuất bản Thuận Hóa công bố năm 2009, tác giả Triều Nguyên đã bóc tách, tổng hợp về mặt ngôn ngữ đối với hình thức, nội dung của đồng dao cũng như dùng biện pháp so sánh để phân biệt nó với các thể loại khác như ca dao, vè, câu đố, thơ thiếu nhi và đưa ra một định nghĩa cho thuật ngữ đồng dao như sau: “Đồng dao là một thể loại của văn học dân gian, thuộc phương thức biểu đạt tự sự bằng văn vần, gồm phần lời của những bài hát dân gian trẻ em (những bài hát ấy có thể kèm trò chơi hay không)”[17, tr.51]. Chúng ta có thể thấy đồng dao là một hiện tượng văn hóa. Nó được hình thành và phát triển từ đời sống, sinh hoạt dân gian và đối tượng sử dụng chính là trẻ nhỏ. “Đồng dao” có thể hiểu là ca dao nhi đồng, nhưng có lẽ đó là các bài ca dao, bài vè có nội dung phù hợp được chúng hát đồng thanh nhằm bổ trợ cho các động tác, hình ảnh… trong khi chơi, lúc giúp cha mẹ làm những việc nhà hay đồng áng nhẹ nhàng hoặc trông em. Có khi lúc đầu trẻ chỉ đọc các bài đó độc lập với các nội dung miêu tả môi trường sống xung quanh,
  • 10. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 4 đúc rút kinh nghiệm cuộc sống hoặc châm biếm, hài hước theo cách nhìn con trẻ, rồi dần dà phát triển thêm các hình thức đọc, hát khác. Chuyện vui chơi chẳng phải chỉ của trẻ em. Con người ở mọi lứa tuổi, giới tính đều cần vui chơi, giải trí thích hợp để sinh tồn và phát triển. Bên cạnh lao động, học tập, giao tiếp, đó cũng là một trong những hoạt động cơ bản, có xu hướng ngày càng tăng trong cuộc sống của con người. Trong các lứa tuổi, nếu trẻ càng nhỏ thì hoạt động vui chơi càng quan trọng. Thực ra, những hoạt động cơ bản trên đan xen nhau. Cho đến bây giờ có ai đó bỏ lỡ hoặc thậm chí cấm đoán thì cũng không dập bỏ được nhu cầu bẩm sinh này. Trái lại bằng cách nào đấy, chúng vẫn cứ tự phát chơi. Và như thế sẽ nảy sinh vấn đề hai chiều lợi và hại trong khi trẻ tham gia các cuộc chơi. Trong bài viết “Lời đồng dao trong trò chơi cổ truyền của trẻ em” đăng trên tạp chí Giáo dục Mầm non số 3/1992, GS.TSKH. Phan Đăng Nhật quan niệm trò chơi cổ truyền của trẻ em được hình thành và lưu truyền theo phương thức của văn hóa dân gian. Chủ thể thưởng thức, hưởng thụ và sử dụng đồng thời cũng là chủ thể sáng tạo và lưu truyền sản phẩm. Việc sáng tạo được thực hiện trong một quá trình lâu dài bao gồm sáng tạo – lưu truyền – sử dụng – điều chỉnh. Trong quá trình đó thực tiễn là thước đo, là khuôn đúc, đông đảo công chúng làm vai trò tái tạo. Cũng nói về trò chơi trẻ em, trong cuốn Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt [16, tr.5], các tác giả nêu khái niệm “Trò chơi trẻ em là những trò vui có lời (bài hát) hoặc không có lời, những trò này cũng mang những tính chất của sáng tác dân gian: tính tập thể, tính dị bản…” Trò chơi dân gian nhìn từ góc độ quyền trẻ em, PGS.TS Nguyễn Thị Bích Hà, Khoa Việt Nam học – Trường Đại học sư phạm Hà Nội cho rằng trò chơi dân gian cũng là một loại của di sản văn hóa Việt Nam. “Nó được kết
  • 11. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 5 thành từ quá trình lao động và sinh hoạt, trong đó tích tụ cả trí tuệ và niềm vui sống của bao nhiêu thế hệ người Việt Nam xưa. Đặc biệt, đối với trẻ em, trò chơi dân gian với những chức năng đặc biệt của nó đã mang lại cho thế giới trẻ thơ nhiều điều thú vị và bổ ích, đồng thời thể hiện nhu cầu giải trí, vui chơi, quyền được chia sẻ niềm vui của các em với bạn bè và cộng đồng.”[42] Từ các quan niệm trên, chúng ta thấy trò chơi dân gian được nhìn nhận theo các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, nó đều có điểm chung là trò chơi nảy sinh từ cuộc sống lao động, sinh hoạt, từ nhu cầu vui chơi, giải trí của con người và nó mang tính cộng đồng cao, cho dù có những trò chơi có ít người, thậm chí chỉ một người. Bởi vậy, trò chơi dân gian mang đậm tính lịch sử, tính xã hội và mỗi trò chơi lại biểu hiện tính nghệ thuật nhất định. Ngoài các trò chơi có diễn biến, luật chơi, quá trình chơi, chúng tôi coi việc làm những đồ chơi từ các vật liệu sẵn có trong tự nhiên, được trẻ khai thác, sáng tạo và lưu truyền từ xưa cũng là những trò chơi dân gian. Là chuyên viên công tác trong lĩnh vực quản lý nhà nước về giáo dục mầm non, chúng tôi tìm hiểu, nghiên cứu một mảng văn hóa dân gian của vùng quê xứ nhãn lồng - vùng phù sa văn hóa Hưng Yên; đó là những bài hát đồng dao, những trò chơi dân gian với đời sống sinh hoạt của trẻ thơ ở huyện Khoái Châu, nơi mang nhiều đặc tính của đồng bằng châu thổ sông Hồng với các vùng bãi bồi, những cánh đồng trồng hoa màu và những cánh đồng lúa phì nhiêu, với ao, hồ, sông ngòi, cừ, mương, máng; làng quê phủ một màu xanh bát ngát của những lũy tre rậm rì. Qua đó, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc bảo tồn và phát huy, ứng dụng vào đời sống sinh hoạt cũng như bổ sung cho các hoạt động sinh hoạt vui chơi, giáo dục trong nhà trường. 2. Mục đích nghiên cứu
  • 12. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 6 - Tìm hiểu đặc điểm lịch sử, môi trường, địa lý ảnh hưởng sự ra đời, lan tỏa, tiếp thu và tiếp biến của đồng dao, trò chơi dân gian ở huyện Khoái Châu. - Nêu và phân tích hình thức, nội dung một số bài đồng dao, trò chơi tiêu biểu của địa phương. - Nhận diện các giá trị văn hóa và giáo dục của đồng dao và những trò chơi dân gian trong cuộc sống hiện nay. - Đưa ra các đề xuất và giải pháp nhằm hệ thống hóa mảng văn hóa dân gian này và đưa vào cuộc sống sinh hoạt trong xã hội cũng như trong nhà trường nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa, xã hội cũng như ý nghĩa giáo dục của đồng dao và trò chơi dân gian. 3. Tình hình nghiên cứu Trên thực tế, việc bóc tách, tìm hiểu, nghiên cứu đồng dao và trò chơi dân gian ở nước ta chưa được nhiều mà chủ yếu các tác giả sưu tầm, biên soạn sách nhằm giới thiệu và sử dụng vào những mục đích nhất định. Về lịch sử nghiên cứu, giới thiệu đồng dao, NCS Chu Thị Hà Thanh đã có một tập hợp trong luận án tiến sĩ của mình những bài viết về đồng dao mang tính chất giới thiệu và những công trình mang tính chất nghiên cứu. Tuy nhiên tổng số công trình mà chị thu thập được trong hai mục này chỉ có bảy bài giới thiệu và bốn bài nghiên cứu. Cuốn Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt của nhóm tác giả Nguyễn Thúy Loan, Đặng Diệu Trang, Nguyễn Huy Hồng và Trần Hoàng sưu tầm và biên soạn đã nêu định nghĩa và phân loại các bài đồng dao, các trò chơi cụ thể. Bên cạnh đó, nhóm tác giả đã giới thiệu loạt bài nghiên cứu, bình luận, cảm nhận và đánh giá, nhận xét hai thể loại này của 15 tác giả từ năm 1935 đến năm 1995. Trong đó đáng kể nhất là các bài của các tác giả Doãn Quốc Sỹ trong Lời mở đầu cuốn Ca dao nhi đồng, Nxb Sáng
  • 13. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 7 tạo xuất bản năm 1969; Nguyễn Tấn Long, Phan Canh trong “Đồng dao”, thi ca bình dân cũng năm 1969; Tô Ngọc Thanh, Đồng dao với cuộc sống dân tộc Thái ở Tây Bắc trong tạp chí Văn học số 4/1974; Vũ Ngọc Khánh với Mấy điều ghi nhận về đồng dao Việt Nam, trong tạp chí Văn học số 4/1974. Trong những năm gần đây, trò chơi dân gian, các bài đồng dao được chú ý hơn. Tuy nhiên, như trên đã nói thì mới chủ yếu là sưu tầm, tuyển chọn. Cuốn Trò chơi dân gian của tác giả Nguyễn Thanh Thảo [21] giới thiệu 75 trò chơi nhưng hầu hết là những trò khá quen thuộc mà hoàn toàn không có biểu hiện sắp xếp theo trật tự nào và cũng không có bất cứ nhận xét, đánh giá nào. Trong 4 tập Tuyển chọn trò chơi, bài hát, thơ ca, truyện, câu đố của Viện chiến lược và chương trình giáo dục tái bản năm 2008 cũng nêu một số trò chơi nhưng chỉ hướng dẫn cách chơi là chủ yếu [29]. Một số trang web như Văn hóa Việt, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam, Trung tâm UNESCO giao lưu văn hóa quốc tế, hay thậm chí cả trang web nước ngoài(1) cũng chỉ nêu, giới thiệu một số trò chơi dân gian, truyền thống hay cùng lắm là một vài cảm nghĩ chứ không nghiên cứu sâu vấn đề này. Gần đây nhất, cuốn Tìm hiểu đồng dao người Việt (Nxb Thuận Hóa, 2009) của tác giả Triều Nguyên là một công trình nghiên cứu rất công phu về đồng dao người Việt. Trong cuốn sách này, tác giả chủ yếu dựa trên phương diện phân tích về ngôn ngữ để nhận diện hình thức, nội dung, cách phân loại đồng dao. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng chủ yếu của đề tài là các bài đồng dao và trò chơi dân gian cho trẻ ở độ tuổi thiếu niên, nhi đồng tại huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Đề tài tập trung vào nghiên cứu các vấn đề sau: (1) Xem Tài liệu tham khảo
  • 14. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 8 - Đặc điểm môi trường, địa lý của huyện Khoái Châu tác động, ảnh hưởng tới sự ra đời, lan tỏa, tiếp thu và tiếp biến của đồng dao, trò chơi dân gian. - Phân tích đặc trưng của đồng dao và trò chơi dân gian của địa phương. - Giá trị văn hóa và ý nghĩa giáo dục của đồng dao và những trò chơi dân gian trong cuộc sống hiện nay; việc bảo tồn và phát huy các giá trị đó. 5. Phương pháp nghiên cứu - Điền dã, thu thập tài liệu, chụp ảnh, ghi âm, ghi hình hoạt động sinh hoạt đồng dao và các trò chơi thực tiễn của trẻ tại một số xã như Hồng Tiến, Việt Hòa, Đại Hưng, Đông Tảo, thị trấn Khoái Châu thuộc huyện Khoái Châu, Hưng Yên; - Điều tra, phỏng vấn bằng phiếu và trực tiếp khoảng 50-60 người lớn, cao tuổi và 200 trẻ ở độ tuổi thiếu niên, nhi đồng; - Xử lý, tổng hợp, phân tích các dữ liệu; - Sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành như văn học, âm nhạc, folklore, tâm lý lứa tuổi, sư phạm… 6. Những đóng góp của luận văn - Đây là công trình nghiên cứu nhằm tìm hiểu, khảo sát thực tiễn trẻ em sử dụng đồng dao và tổ chức vui chơi các trò dân gian ở một vùng đặc trưng của đồng bằng châu thổ sông Hồng; - Là công trình nghiên cứu thực trạng lan tỏa, tiếp thu và tiếp biến cũng như nội dung, ý nghĩa, tác động của đồng dao và trò chơi dân gian đối với trẻ.
  • 15. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 9 - Việc nghiên cứu nhằm tham gia vào việc khôi phục, hệ thống hóa mảng văn hóa dân gian này ứng dụng vào đời sống sinh hoạt cũng như bổ sung cho các hoạt động sinh hoạt vui chơi, giáo dục trong nhà trường. 7. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm ba chương: Chương 1: Khái quát lịch sử, văn hóa và con người Khoái Châu Chương 2: Đồng dao Chương 3: Trò chơi dân gian
  • 16. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 10 CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT LỊCH SỬ, VĂN HÓA VÀ CON NGƯỜI KHOÁI CHÂU 1.1. Tổng quan về lịch sử, thiên nhiên và môi trường của huyện Khoái Châu 1.1.1. Sự hình thành và phát triển Khoái Châu là một vùng đất cổ xưa, được hình thành từ thời các Vua Hùng (1289-258 TrCN). Lúc đó Khoái Châu thuộc bộ Dương Tuyền, nước Văn Lang. Từ khi Triệu Đà diệt nước Âu Lạc (211 TrCN) đô hộ nước ta cho tới thời thuộc Đông Hán, Tống, Tề, Lương, Trần đều thuộc huyện Chu Diên, quận Giao Chỉ. Đến thời vua Đinh Tiên Hoàng (967-979) đổi là Châu Diên, và Tiền Lê (979-1009) vua Lê Ngọa Triều đổi là Phủ Thái Bình. Thời nhà Lý (1010-1225), vùng đất thuộc huyện Khoái Châu ngày nay đổi thành huyện Đông Kết, thuộc Khoái Lộ. Thời Lý Cao Tông (1176-1210) tách Khoái Lộ thành Châu Đằng và Châu Khoái thì Đông Kết thuộc Châu Khoái. Đến thời Trần sau chiến thắng Nguyên Mông lần thứ ba (1288), vua Trần ban đất Châu Khoái cho Nguyễn Khoái thì Châu Khoái đổi thành Khoái Châu. Tới thời Lê, giữa niên hiệu Hồng Đức (1470-1497) vùng đất huyện Khoái Châu ngày nay đổi là Đông Yên thuộc Sơn Nam thừa tuyên. Đời Lê Trung Hưng chia Sơn Nam thành Sơn Nam thượng và Sơn Nam hạ thì Khoái Châu thuộc Sơn Nam thượng. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), triều đình cho thực hiện cải cách hành chính, bỏ các trấn lập ra tỉnh, chia cả nước thành 30 tỉnh. Khi ấy phủ Khoái Châu (trong đó có huyện Đông Yên) thuộc tỉnh Hưng Yên. Tháng 12/1890, toàn quyền Piquet ký Nghị định thành lập đạo Bãi Sậy có bốn huyện mới, đã cắt của huyện Đông Yên ba tổng là Khóa Nhu, Tử
  • 17. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 11 Dương, Yên Phú để cùng với các tổng khác cắt từ Văn Giang (Bắc Ninh), Đường Hào (Hải Dương), Ân Thi (Hưng Yên) để thành lập huyện Yên Mỹ. Phủ Khoái Châu có 10 tổng (Đại Quan, Mễ Sở, Yên Cảnh, Yên Lạc, Yên Vĩnh, Yên Lịch, Phú Khê, Đông Kết, Bình Dân, Ninh Tập), 76 xã. Như vậy, từ thế kỉ thứ XV, phủ Khoái Châu là một đơn vị hành chính lớn hơn cấp huyện, bao gồm đất huyện Khoái Châu hiện nay và một số huyện lân cận như Kim Động, Tiên Lữ, Phù Cừ, Ân Thi; còn huyện Khoái Châu là một huyện thuộc phủ, với tên gọi Đông Yên (Đông An). Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Chính phủ bỏ cấp phủ, tổng thành lập các huyện, xã, thôn. Hưng Yên có 8 huyện và 116 xã. Tháng 8 năm 1946 thị xã Hưng Yên được thành lập. Đông Yên trở thành huyện Khoái Châu từ đó. Ngày 14/4/1946, Chính phủ ra sắc lệnh số 63 về bầu cử Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và xã, huyện Khoái Châu cũng tiến hành hợp nhất 76 xã nhỏ thành 22 xã lớn, các xã đó tồn tại đến năm 1955. Sau nhiều lần chia tách, hợp nhất, đổi tên, huyện Khoái Châu có 25 xã là: Bình Minh, Đông Tảo, Dạ Trạch, Hàm Tử, Ông Đình, Tân Dân, Tứ Dân, Tân Châu, Đông Ninh, Đại Tập, Chí Tân, Liên Khê, Phùng Hưng, Thuần Hưng, Đại Hưng, Thành Công, Nhuế Dương, Việt Hòa, Hồng Tiến, Đồng Tiến, Dân Tiến, Bình Kiều, An Vĩ, Đông Kết và Kim Ngưu (nay là thị trấn Khoái Châu). Ngày 24 tháng 2 năm 1979, Chính phủ ra Quyết định số 70-QĐ/CP thành lập huyện Châu Giang gồm 25 xã của huyện Khoái Châu, 9 xã của huyện Văn Giang cũ và 5 xã của huyện Yên Mỹ (Hoàn Long, Yên Phú, Yên Hòa, Việt Cường, Minh Châu). Huyện Châu Giang tồn tại được 20 năm. Đến ngày 24 tháng 7 năm 1999, Chính phủ ra Nghị định số 60-NĐ/CP tách huyện Châu Giang làm hai
  • 18. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 12 huyện Khoái Châu và Văn Giang như cũ, chuyển 5 xã về huyện Yên Mỹ.[1], [14], [36]. 1.1.2.Thiên nhiên và môi trường địa lí Bản đồ hành chính huyện Khoái Châu, Hưng Yên năm 2009 [36] Huyện Khoái Châu nằm ở tọa độ 200 45’45” – 200 54’05” vĩ tuyến Bắc 1050 55’30” – 1060 02’15” kinh độ đông. Phía bắc giáp huyện Văn Giang; phía nam giáp huyện Kim Động; phía đông giáp huyện Yên Mỹ và Ân Thi; phía Tây giáp Hà Nội (tỉnh Hà Tây cũ) ngăn cách bởi sông Hồng. Khoái Châu có diện tích 13.086ha. Trong đó đất canh tác nông nghiệp chiếm diện tích tới
  • 19. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 13 67.1% (8.779ha), còn lại 32.9% là đất thổ cư, đường xá, sông ngòi, công trình công cộng, đình chùa, nhà thờ … Khoái Châu thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng nên có địa hình tương đối bằng phẳng. Đồng đất Khoái Châu thích hợp với cấy lúa, trồng rau màu, cây công nghiệp (chủ yếu là cây đay) và cây ăn quả. Hưng Yên vốn là vùng đất nổi tiếng về cây nhãn và Khoái Châu cũng có những vườn nhãn lớn, những hàng cây trồng nhãn dài dặc hai bên đường liên xã, liên huyện. Làng tôi có lũy tre xanh Có sông Tô Lịch chảy quanh xóm làng Trên bờ vải nhãn hai hàng Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng. Khí hậu Khoái Châu là khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm mưa nhiều. Mùa nước to từ tháng 5 đến tháng 10. Có hai mùa mưa gió rõ rệt: Gió mùa đông bắc từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau với cái rét ngọt và mưa phùn ẩm ướt; từ tháng 6 đến tháng 10 thường có gió bão, mưa to. Đối với mùa này, không thể không nói tới công trình trị thủy sông Hồng là con đê và những lần vỡ đê, ngập lụt của người dân đồng bằng châu thổ sông Hồng mà Khoái Châu là huyện có đoạn sông dài tới 21,4km chảy qua. Đê sông Hồng là một công trình vĩ đại nhất của đất nước trong công cuộc phòng chống thiên tai bão lụt. Việc đắp đê, hộ đê, rồi làm thủy lợi nội đồng chống hạn, chống úng ngập qua hàng ngàn năm là cuộc vật lộn với thiên nhiên vô cùng gian khổ, là một nét phẩm chất riêng của người nông dân đồng bằng châu thổ sông Hồng. Khởi công từ thời Lý, đời Trần, thảm họa vỡ đê xảy ra nhiều nhất vào triều Nguyễn. Công cuộc đắp đê trị thủy sông Hồng căn bản hoàn thành vào nửa sau thế kỷ XX. Nếu chỉ tính từ năm 1831 (năm thành lập tỉnh Hưng Yên) đến năm 1945 đã có tới 32 trận hồng thủy – vỡ đê đã làm cho người dân dọc sông
  • 20. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 14 Hồng nói chung và người dân huyện Khoái Châu nói riêng rất vất vả, điêu đứng. Để chủ động trong việc chống úng, hạn, tưới tiêu cho ba tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Chính phủ quyết định xây dựng công trình đại thủy nông Bắc-Hưng-Hải. Ngày 1/10/1958 khởi công xây dựng cống Xuân Quan-đầu mối của công trình. Ngày 1/5/1959 thì hoàn thành công trình. Hai hệ thống Kênh Đông và Kênh Tây đã chạy và tưới tiêu cho 17 xã thuộc huyện Khoái Châu, góp phần không nhỏ vào việc canh nông cho địa phương. Trên công trường thủy lợi Bắc-Hưng-Hải (ảnh tư liệu của tỉnh Hưng Yên) Khoái Châu nằm trên trục đường Thăng Long – Phố Hiến nổi tiếng phồn hoa cuối thế kỉ 17 đầu thế kỉ 18, nằm bên tả ngạn sông Hồng là đường giao thông thủy quan trọng từ biển Đông qua cửa Ba Lạt để tới Thăng Long, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai. Huyện có 21,4 km đê sông Hồng chảy qua 9 xã của huyện là Bình Minh, Dạ Trạch, Hàm Tử, Tứ Dân, Tân Châu, Đông Ninh, Đại Tập, Chí Tân, Nhuế Dương. Ngoài ra, Khoái Châu còn có một loạt các con sông nhỏ như
  • 21. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 15 sông Cửu Yên đào năm Minh Mệnh thứ 16 (1835), sông tiêu Từ Hồ - Sài Thị, sông Kim Ngưu, sông Tây Tân Hưng, sông Điện Biên, sông Mười, sông Cấp Tiến – Tân Dân, sông Đồng Quê… Hệ thống giao thông đường bộ của Khoái Châu khá thuận tiện. Phía đông có đường 39A là đường nối từ quốc lộ 5 tới thị xã Hưng Yên (nay là thành phố Hưng Yên), chạy qua bốn xã của huyện là Dân Tiến, Đồng Tiến, Hồng Tiến và Việt Hòa. Ngoài ra còn có các đường liên xã là đường 199 là đường được làm từ năm 1892 nên còn được gọi là đường Tây, chạy từ xã Bình Minh qua Đông Tảo và một phần của vùng đất của huyện Yên Mỹ ra đường 39A; đường 205 chạy xuyên dọc giữa huyện; đường 195 là đê sông Hồng dài 21,4km chạy từ xã Bình minh qua Dạ Trạch, Hàm Tử, Tứ Dân, Tân Châu, Đông Ninh, Đại Tập, Chí Tân, Nhuế Dương. Dọc đường này có tới 5-6 bến đò lớn nhỏ khác nhau. Ngoài ra còn có các đường 205C, đường 208, đường 206, đường 209, đường 204, đường 199B, đường 199C và đường 209C. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, giao thông chủ yếu là thuyền buồm chở khách và hàng hóa trên sông Hồng, ngược lên Hà Nội, xuôi phố Hiến, Nam Định, Thái Bình, thuyền trên sông Cửu Yên từ Nghi Xuyên qua Kim Động, Ân Thi sang huyện Thanh Miện (Hải Dương)… Hàng hóa chủ yếu là lâm sản như gỗ, tre, nứa, lá gồi, củ nâu hoặc than đá, đá để nung vôi. Đường bộ có xe ca chở khách từ phố Phủ đi Hà Nội, và xe ngựa chở khách đi lại trong huyện và các huyện xung quanh. Từ năm 1955 có ô tô chở khách từ phố Phủ đi Hà Nội và từ phố Phủ đi thị xã Hưng Yên. Trên sông Hồng có ca nô chở khách từ phố Phủ đi Hà Nội đến thị xã Hưng Yên, Nam Định và ngược lại. Từ năm 1990 theo sự phát triển chung của xã hội và theo cơ chế thị trường, phương tiện giao thông đường bộ phát triển nhanh. Tại bến xe phố
  • 22. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 16 huyện có nhiều ô tô chở khách đi lại khắp các tỉnh trong Nam, ngoài Bắc. [1], [36]. 1.2. Văn hóa và con người Khoái Châu 1.2.1. Cư dân Khoái Châu Như trên đã nói, Khoái Châu là một vùng đất cổ. Người Việt cổ đã đến cư trú sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt cá và khai hoang, thau chua, rửa mặn, bắt đầu gieo cấy lúa nước. Việc phát hiện ra trống đồng Đông Sơn ở Cửu Lao, Liên Nghĩa, huyện Văn Giang, giáp Khoái Châu chứng tỏ vùng đất này thời đó đã có dân cư, có chung nền văn hóa Đông Sơn, như trong “Hùng Vương dựng nước” tập I đã ghi “Trong thời Hùng Vương đồng bằng ở phía Nam sông Hồng mở rộng mãi ra”. Truyền thuyết Chử Đồng Tử-Tiên Dung đời Hùng Duệ Vương cho biết thời đó Khoái Châu đã có nhiều trang trại và cư dân đông đúc mà truyền thuyết nhắc đến các tên Đa Hòa, Dạ Trạch, Ông Đình, Đông Tảo. Thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa đã có nhiều tướng đóng quân ở Đa Hòa (xã Bình Minh). Bà Bạt Kiếm hy sinh ở Tiểu Quan (xã Phùng Hưng). Năm 547, Đại tướng quân Triệu Quang Phục đưa 20.000 quân về đóng ở đầm Dạ Trạch, năm 548 lên ngôi vua, xưng là Triệu Việt Vương, lập tiền đồn ở Đa Hòa, An Vĩ, Nhuế Dương thực hiện kế hoạch “trì cửu chiến”. Nhân dân Khoái Châu đã đầu quân và giúp Triệu Quang Phục xây đồn lũy, tiếp tế quân lương và trinh sát các hoạt động của địch báo cho nghĩa quân. Đến thời nhà Lý, vua Lý Cao Tông (1175-1210) đã ban cho tể tướng phụ chính Đỗ Anh Vũ 3.000 mẫu ruộng gọi là “Tam thiên mẫu” nằm ở phía đông nam huyện Khoái Châu, tây bắc huyện Ân Thi và bắc Kim Động. Tể tướng Đỗ Anh Vũ đã chiêu mộ dân nghèo lập thêm hàng chục làng ấp mới. Đến đời Trần, đê sông Hồng được hoàn chỉnh. Sau khi thắng giặc, vua nhà Trần ban đất Khoái Châu cho tướng Nguyễn
  • 23. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 17 Khoái thì thôn ấp phát triển nhanh. Nhà Lê xóa bỏ chế độ điền trang, cấm nuôi nô tỳ, nông dân nghèo được cấp ruộng, trở thành nông dân tự do. Vào đầu triều Nguyễn (Gia Long Thiệu Trị, Minh Mệnh, đầu Tự Đức), so với các huyện khác ở đồng bằng châu thổ sông Hồng thì Khoái Châu có tốc độ phát triển kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhanh. Phố Phủ là nơi dân cư đông đúc, cửa hàng san sát, cuộc sống của người dân khấm khá. Điều này đã được sử sách ghi lại: “Trước năm 1870, nghĩa là trước những vụ vỡ đê tàn khốc của huyện Văn Giang, Hưng Yên sống thịnh vượng lắm. Ngoại thương và nội thương thật khả quan”. Cuối năm 1891, cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy thất bại, Pháp và quan lại Nam Triều chiếm đoạt ruộng đất của nông dân thành lập nhiều ấp trại mới như ấp An Bình (Vân Trì), ấp Hàn Sắc, Bá Tôn (Phùng Hưng), ấp Cự Hiên (thị trấn Khoái Châu)… chiêu mộ dân siêu bạt các nơi đến làm tá điền để thu tô, tức. Các địa chủ, kỳ hào ở các xã chiếm đoạt nhiều ruộng đất, một số nông dân tự do khai hoang, phục hóa biến Bãi Sậy thành ruộng canh tác. Trong những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, huyện Khoái Châu đã chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh và ách cai trị của Pháp. Đời sống văn hóa, xã hội của nhân dân ít được quan tâm, chú ý. Trong khi đó các hủ tục ma chay, cưới xin, khao vọng, bán quan, mua tước đặt ra nặng nề, tốn kém. Lệ làng rất ngặt nghèo, bắt buộc mọi người phải tuân thủ. Ví dụ như ở xã Tân Dân, con gái lấy chồng phải nộp cheo cho làng hai mâm đồng. Sau đó chức dịch bán đấu giá để lấy tiền chè chén. Từ sau phong trào cải lương hương chính thì bán mâm để mua gạch xây đường làng. Sau thành lệ, con gái đi lấy chồng nộp cheo khao chức sắc, đóng lon cai, đội đều phải xây cho làng từ 1 đến 3 mét đường làng. Ở Đại Quan, Thuần Lễ, nếu không khao thì cả đời bị
  • 24. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 18 bạch đinh1 . Nhiều người phải bán ruộng để khao, mang công mắc nợ. Trai lấy vợ phải nộp ba đồng tiền (tương đương với 10 thùng thóc) treo lễ cho nhà gái. Con gái đi lấy chồng phải nộp cho làng 2-3 đôi hoành phi, câu đối hoặc mâm thau. Nạn cờ bạc, rượu chè, hát cô đầu ở làng, xã nào cũng có. Đến năm 1933, dân số huyện Khoái Châu có 93.515 người, bằng 21% dân số toàn tỉnh. Năm 1959 là 100.341 người. Đến năm 1965 thì tăng lên thành 108.100 người. Dân số năm 1974 là 119.553 người. Năm 1999 chia tách huyện Châu Giang trở về thành Khoái Châu thì dân số huyện Khoái Châu là 180.105 người. Khoái Châu có 23 nhà khoa bảng tính từ năm 1463 đến năm 1523, trong đó có một Trạng nguyên là Nguyễn Kỳ ở xã Tân Dân thi đỗ Trạng nguyên năm 1541. Ai về qua xã Tân Dân Có Đinh Ngô Tướng, có văn chỉ thờ Có ông Đổng Quế tế cờ Có ông Tán Thuật dựng cờ nghĩa quân Có bà công chúa Từ Quang Theo ông nghè Tố2 về làng kết duyên Nhưng ông đã có vợ hiền Bà bèn cắt tóc trụi thuyền qui y Có Trạng nguyên Nguyễn Oăn Ri Cho nên văn chỉ dựng về quê ta .[1] 1 Bạch đinh là những thanh niên không có chức vị gì trong làng, là đối tượng đàn áp của cường hào 2 Nguyễn Đình Tố xã Tân Dân đỗ tiến sĩ năm 1769
  • 25. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 19 Ở Khoái Châu còn có các nhân vật không đỗ Đại khoa, nhưng tài giỏi nức tiếng như Nguyễn Huy Lạc (tức Quán) hai lần thi Hội (1763 và 1766) đều đậu Tam trường. Ông là một trong “Sơn Nam hạ xứ hữu tứ kiệt nhân” (bốn người tài giỏi của Sơn Nam hạ). .[1], [14]. 1.2.2. Khoái Châu - vùng phù sa văn hóa Là vùng đất thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, Khoái Châu mang đậm nét của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước với đầy đủ các thành tố tạo lên, từ môi trường địa lí, lịch sử hình thành và phát triển cũng như sự giao thoa văn hóa với các vùng lân cận và văn hóa ngoại bang du nhập. Đồng bằng Bắc bộ là vùng văn hóa-lịch sử cổ, là cái nôi hình thành dân tộc Việt, là quê hương của các nền văn hóa nổi tiếng, đó là văn hóa Đông Sơn thời các vua Hùng; Thăng Long thời Đại Việt… Từ cái nôi của dân tộc, từ quê hương của các nền văn hóa Việt Nam, trong quá trình Nam tiến mở mang bờ cõi dọc bờ biển Đông (thế kỷ XI đến Quảng Trị, thế kỷ XVIII đến hết Nam Bộ), văn hóa Việt Nam từ cái nôi ban đầu đã dần dần đón nhận những yếu tố văn hóa Chăm, Khơme… đồng thời cũng tự thân thích ứng với môi trường sinh thái mới của duyên hải Nam Trung bộ, tạo nên những sắc thái văn hóa địa phương đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam. Là nguồn cội nhưng cũng đồng thời là trung tâm của đời sống chính trị, xã hội và văn hóa của đất nước, cư dân đồng bằng Bắc Bộ đã hình thành và định hình những truyền thống văn hóa lâu đời, thể hiện trong đời sống sản xuất, sinh hoạt vật chất, các quan hệ xã hội và đời sống tinh thần. Đó là kết tinh từ những tri thức và ứng xử của con người đồng bằng Bắc Bộ, mà ngày nay, tùy theo từng trường hợp, truyền thống ấy đã trở thành bản lĩnh và sức mạnh tạo đà cho con người đi vào thế giới hiện đại, và cũng không ít trường hợp nó lại là gánh nặng níu kéo, cản trở bước tiến bộ của cộng đồng.
  • 26. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 20 Đối với vùng châu thổ sông Hồng, người dân sống theo tổ chức làng xã từ xưa và khá ổn định, bền vững với những thiết chế xã hội cộng đồng và thiết chế tín ngưỡng, tôn giáo, có cổng làng với lũy tre bao bọc xung quanh. Lũy tre bao bọc, gìn giữ “văn hóa làng” với những phong tục tập quán tốt đẹp nhưng cũng vừa lưu giữ những tập quán, thói quen lạc hậu, cản trở sự giao lưu hòa nhập với thế giới bên ngoài. Hưng Yên nằm ở tiểu vùng văn hóa Sơn Nam mà trung tâm là ngã tư sông Phủ Lý, sông Hồng, sông Luộc, nơi xưa là Phố Hiến, một đô thị cổ, một thương điếm sầm uất xưa của nước ta mà chúng ta thường nghe nói “nhất Kinh kỳ, nhì Phố Hiến”. Tiểu vùng này bao gồm phần đất từ tả ngạn sông Hồng đến hữu ngạn sông Thái Bình. Vùng này được khai phá từ khá sớm, khoảng sát sau công nguyên, nhưng phát triển nhất có lẽ từ thời Trần, chậm hơn vùng Thăng Long một chút. Với địa thế nằm bên bờ sông Hồng, người dân nơi đây đã biết tận dụng điều kiện tự nhiên, sinh sống bằng nghề chài lưới. nghề trồng lúa nước cũng có nhiều tiềm năng, dựa vào chất đất phù sa màu mỡ, nguồn nước dồi dào của sông Hồng. Ở đoạn sông Hồng chảy qua khu đền thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung, cứ vào dịp từ tháng Chạp đến tháng Ba (âm lịch) hàng năm, cá mòi tập trung về đây khá nhiều. Cá mòi nổi tiếng đến mức có câu tục ngữ nói về con cá này: “Thời ngư nhục mĩ hiềm đa cốt” (Cá mòi thịt ngon nhưng nhiều xương). Đã có một thời, cá mòi trở thành thước đo để phân biệt bữa ăn của kẻ giàu sang và người nghèo hèn: Phú ông cơm trắng cá mòi Bần nông cơm bột lại đòi rau dây.[14, tr.426] Và nó cũng góp mặt trong lời hát giao duyên tình tứ: Muốn ăn cơm trắng cá mòi
  • 27. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 21 Trốn cha trốn mẹ về Gòi3 cùng anh.[14, tr.426] Cho đến nay, nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản vẫn có vị trí quan trọng trong lĩnh vực kinh tế của huyện Khoái Châu. Chăn nuôi chủ yếu là trâu bò để cày kéo, số lượng không lớn lắm. Một số xã có nghề trồng dâu nuôi tằm, thả cá. Các làng nghề thủ công ở Khoái Châu rất phát triển: Mễ Nhạn có đất buôn nâu Phú Trạch có đất trồng dâu nuôi tằm Phú Thị nhuộm vải, bán chăn Thiết Chu nấu rượu tế thần mọi nơi Đa Hòa đập đá nung vôi Bàng Nha dệt cửi là nơi thanh nhàn… [14, tr.64] Đa Hòa có nghề dệt vải, nung vôi; Cốc Phong, Cao Quán, Hương Quất, Bằng Nha có nghề dệt lụa; Quan Xuyên có nghề dệt sồi; Hoàng Vân Nội, Hoàng Vân Ngoại có nghề rèn. Thợ rèn Hoàng Vân không những hoạt động trong huyện mà còn đi nhiều tỉnh lập nghiệp; nhiều làng ven sông Hồng có nghề nung gạch, ngói, vôi, nấu mật mía, làm đường phên. Kênh Khê thì đi riu tôm Bái Khê hàng xáo nói năng hay thề Trung Châu thừng chão đã ghê Mạo Xuyên bới lạc là nghề tinh nhanh Tổng Mễ có đất trồng hành Cửa sông chẻ nứa đan mành ta mua [14, tr.65] 3 Làng Gòi thuộc xã Tân Châu, huyện Khoái Châu
  • 28. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 22 Làng Kênh Khê, làng Cửa Sông thuộc xã Liên Khê. Làng Bái Khê, Trung Châu thuộc xã Đông Kết. Làng Mạo Xuyên thuộc xã Tứ Dân của huyện Khoái Châu. Làng Quan Xuyên nằm trên bờ sông Hồng có một thương cảng xuất hiện cùng thời với cảng Phố Hiến, cho đến năm 1930 – 1935 vẫn còn những thương gia lớn kinh doanh nhiều bè gỗ, tre, nứa, lá cùng nhiều hàng lâm sản khác, có xưởng mộc, đại lí bán các loại hàng hải sản, mở cả lò sành sứ. Chợ Phủ mỗi tháng họp 6 phiên để bán trâu, bò. Người các huyện khác cũng đến mua bán rất đông. Khoái Châu gần vùng Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) là trung tâm Phật giáo từ thế kỉ thứ 3. Nhân dân còn thờ các vị thánh, thần là các thiên thần, thủy thần. Theo thống kê, các vị thần được thờ ở Khoái Châu là Chử Đồng Tử - Tiên Dung, một số tướng lĩnh của vua Hùng, Hai Bà Trưng; các vị vua, quan, tướng lĩnh các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê. Trên địa bàn Khoái Châu hiện nay có sự hiện diện của nhiều di tích lịch sử-văn hóa, lưu giữ di vật quý với nhiều dấu ấn văn hóa và tín ngưỡng bản địa gắn liền với các sự kiện lịch sử của quá khứ. Huyện có 74 di tích lịch sử-văn hóa, trong đó có 20 di tích đã được xếp hạng. Khu vực Đa Hòa-Dạ Trạch với nhiều di tích thờ Chử Đồng Tử-Tiên Dung là một trong ba cụm di tích lớn của tỉnh Hưng Yên. Các di tích này năm dọc theo sông Hồng, cùng với một số di tích năm bên kia bờ sông (thuộc địa phận tỉnh Hà Tây cũ, nay là Hà Nội) tạo lên khu vực thờ tự chính của tín ngưỡng thờ Chử Đồng Tử - một trong Tứ Bất tử được nhân dân ta tôn thờ từ bao đời nay. Truyền thuyết về Chử Đồng Tử bao gồm nhiều lớp văn hóa lắng đọng, có sự gắn bó chặt chẽ với tâm thức của cư dân vùng sông nước, đầm lầy. Ngoài ra còn có những di tích nổi tiếng như đền Vua Rừng ở An Vĩ thờ Triệu Quang Phục (Triệu Việt Vương) chống giặc
  • 29. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 23 Lương ở thế kỷ thứ VI, đền Cót thờ Linh Lang thời Lý, đền An Lạc thờ Đỗ Anh Vũ thời Lý; các chùa Lạc Thủy, am Tự Thông xây dựng từ thời Lý. [1] Bãi Tự Nhiên gắn với truyền thuyết Chử Đồng Tử - Tiên Dung [36] Khoái Châu nằm ở trung tâm vùng văn minh sông Hồng lại tiếp giáp với Thăng Long, Phố Hiến, Kinh Bắc nên có nền văn hóa phong phú, đa dạng. Nơi đây có hát trống quân, hát đối đáp mà nổi tiếng là Dạ Trạch, Ông Đình, Phùng Hưng, Đông Kết, Bình Minh… Khoái Châu cũng là đất có truyền thống hát chèo từ lâu đời, có thời kỳ nhiều xã có 3-4 đội chèo. Ca dao, hò vè nói về tình yêu lứa đôi, ca ngợi cảnh đẹp của quê hương, chống phong kiến, đế quốc xuất hiện rất nhiều và còn lưu truyền đến ngày nay. Đặc điểm địa lí và đời sống sinh hoạt của người dân nơi đây đã nảy sinh nhiều trò chơi dân gian và các bài đồng dao mang đậm nét của văn hóa làng xã với thiên nhiên, sông nước, ruộng đồng, làng quê trù phú cũng như các thói hư tật xấu, sự hài hước, châm biếm… Khoái Châu cũng là vùng đất có nhiều truyền thuyết như Chử Đồng Tử-Tiên Dung; truyền thuyết về tướng Đỗ Mục đóng quân ở Bối Khê giúp
  • 30. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 24 Hùng Duệ Vương đánh Thục; truyền thuyết về bà Bạt Kiếm thời Hai Bà Trưng (năm 40-43) ở Tiểu Quan (Phùng Hưng); truyền thuyết về Dạ Trạch Vương ở xã Dạ Trạch, xã An Vỹ; truyền thuyết về Nguyễn Siêu, một trong mười hai sứ quân thế kỷ thứ X xã Đông Kết, truyền thuyết về công chúa Quế Hoa con vua Lê Đại Hành ở Cót Ấp (Chí Tân)… [1], [14], [36]. Vài nét phác họa lịch sử, môi trường và con người huyện Khoái Châu trên đây chính là những nhân tố có tầm quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành bản sắc văn hóa dân gian nơi đây. Đó là mối quan hệ giữa một bên là thực thể khách quan và một bên là sản phẩm sáng tạo của con người, xét cho cùng là quan hệ giữa thiên nhiên và con người. Quan hệ ấy chịu sự tác động của truyền thống tư duy, quan niệm thẩm mỹ, thế ứng xử của con người trước thiên nhiên qua tiến trình lịch sử. Từ môi trường này đã ra đời nhiều câu ca dao, vè, đồng dao miêu tả từng ngóc ngách, từng góc cạnh của đời sống con người. Những trò chơi dân gian là những hành động tự phát từ môi trường tự nhiên, từ sinh hoạt lao động với những đặc trưng về nghề nghiệp, công việc của người lớn cũng như của con trẻ. Từ đó, nó phản ánh đậm nét thái độ của con người đối với thiên nhiên, với môi trường sống xung quanh mình.
  • 31. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 25 CHƯƠNG 2 ĐỒNG DAO 2.1. Phân loại đồng dao Đồng dao vốn là một thể loại văn hóa dân gian mà đối tượng sử dụng chủ yếu là trẻ em. Hình thức, nội dung có thể rất rõ ràng, tập trung vào miêu tả, nêu lên một vài vấn đề, nhưng cũng có thể đan xen, hòa trộn. Có những bài lại dùng những phép ẩn dụ thật tinh tế, sâu sắc để biểu đạt một vấn đề nào đó. Việc bóc tách, phân loại ở đây trở nên tương đối và mang tính chất khái lược, tổng quát. Trong Trẻ con hát trẻ con chơi của Nguyễn Văn Vĩnh in trong Tứ dân văn uyển năm 1935, tác giả có phân làm ba mục, “theo cái lẽ trước sau tự nhiên của người mẹ người vú thường theo mà dạy con trẻ: - Trước hết là những câu vừa hát vừa chơi, bởi vì đối với con trẻ, cái nghĩa câu hát ở ngay trong cái trò chơi, không phải ai diễn giải nó cũng hiểu. - Sau là đến những câu hát không phải có cuộc chơi, thì tất nó đã có cái trừu tượng hơn một chút. Con trẻ đã hiểu được ít nhiều tiếng rồi thì mới thuộc được. - Thứ ba nữa là đến những câu ru trẻ ngủ. Mục này để về sau là vì hát mà ru trẻ tùy người mẹ người vú thuộc ít hay thuộc nhiều, muốn hát câu gì cũng được. Trong câu ru, cái nghĩa lý nhiều khi là để cho người ru nghe, duy chỉ có cái giọng ru, và cái tiếng ề! A! hỡi hời hời! bống bông bông! Là để cho tai nghe mà thôi. Tuy vậy cũng có nhiều câu ru có cái nghĩa riêng đối với đứa trẻ ngủ” [16, tr.662]. Trong lời mở đầu của cuốn Ca dao nhi đồng, tác giả Doãn Quốc Sỹ đã phân loại đồng dao theo các loại chính:
  • 32. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 26 - Những bài hát luân lý: là những bài hát ru mộc mạc mà sâu sắc. Vào những trưa hè oi nồng, hay trong đêm thanh tĩnh mịch có tiếng các bà mẹ, các chị vừa đưa võng kẽo kẹt vừa cất tiếng hát ru êm ái ngọt ngào. Những lời nhắn nhủ hiền hòa đó vang lên êm đềm, nỉ non, theo nhịp điệu, thật là cả một phương pháp giáo dục tuyệt hảo. Em bé thoạt tuy không hiểu nhưng nghe mãi dần dà thấm thía, nhất là khi em đã lớn, tới tuổi cắp sách đến trường, em vẫn có thể nghe lại những bài đó hát ru em bé của mình, do đấy các em đã được thấm nhuần tới tiềm thức những lời mẹ hay chị khuyên răn nhắc nhở. - Những bài hát vui: Tối đại đa số những bài ca dao nhi đồng đều có tính cách vui tươi ngộ nghĩnh để trẻ em đọc lên thấy thích thú ngay; có thể là kể một câu chuyện vui hay kể một câu chuyện ngược đời để chọc cười hoặc là bài hát không thành câu chuyện gì hết mà chỉ cốt có vần điệu một cách ngộ nghĩnh, làm nở trên môi các em những nụ cười, gieo vào lòng các em cái vui tươi. - Con cò trong ca dao Việt Nam: Thực chất trong mục này, tác giả không chỉ đề cập đến hình ảnh con cò mà còn nói đến các con vật gần gũi với đời sống nông dân như con cá bống, con chuột, con ong, con cáo. Theo tác giả, hình ảnh con cò trong ca dao Việt Nam được nhân cách hóa một cách gần gũi, thân mật như một sự kiện độc đáo của riêng ca dao Việt Nam, khi thì tượng trưng người mẹ quê, khi là cô gái quê, khi là em bé quê, khi thì làm một hình ảnh khởi hứng. - Những bài nói về nếp sống nông nghiệp và những tập tục xưa: những bài này được giới thiệu để các em cảm thấy hết cái đẹp của nếp sống gần thiên nhiên của nhà nông xưa cùng một số tập tục ngộ nghĩnh có thể là xa lạ với các em ngày nay.
  • 33. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 27 - Linh tinh: gồm những bài ca dao không thuộc loại trên, nhưng lời và ý ngộ nghĩnh đẹp vẫn thích hợp với các em [16, tr.673]. Trong bài viết Hát ru và hệ thống diễn xướng đồng dao, tác giả Nguyễn Hữu Thu đã phân chia đồng dao theo các cấp độ dựa vào sự phát triển theo lứa tuổi của trẻ như sau: - Dưới một tuổi mẹ có thể tập cho con chơi “đi chợ”, trò làm xấu. Lớn hơn, anh chị cho trẻ chơi “Chi chi chành chành”, rồi thi chân đẹp… qua các bài đồng dao “Chi chi chành chành”, “Xỉa cá mè”… - Những bài đồng dao không gắn liền với trò chơi. Đó là những bài hát về những con vật, về hoa quả, chim muông… Trẻ tự hát, hoặc một số trẻ tụ tập nhau lại đồng xướng về một bài nào đó. - Những bài đồng dao gắn liền với trò chơi của lứa tuổi nhi đồng [16, tr. 744]. Trong cuốn Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt của Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian (nay là Viện Nghiên cứu văn hóa), nhóm tác giả nguyễn Thúy Loan - Đặng Diệu Trang – Nguyễn Huy Hồng – Trần Hoàng đã phân chia đồng dao thành ba mục lớn: - Đồng dao (sắp xếp theo chủ đề): gồm các chủ đề về thế giới quanh ta và cuộc sống; quan hệ gia đình và xã hội; lao động và nghệ nghiệp; châm biếm và hài hước. - Đồng dao – Chị ru em: Phần này gồm những bài mà các em lớn (từ 10 đến 12-13 tuổi) thường hát ru em. - Đồng dao – Hát vui chơi: Phần này gồm những bài hát trong các trò vui hoặc những bài hát vui, không kèm trò chơi.
  • 34. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 28 Ngoài ra cuốn sách còn giới thiệu một phần khá lý thú, đó là “Đồng dao có tên tác giả” giới thiệu những bài thơ theo phong cách đồng dao cổ của các tác giả như Nguyễn Khuyến (nửa cuối thế kỷ XIX), Nam Hương (nửa đầu thế kỷ XX) và một số cây bút nghiệp dư sau Cách mạng tháng Tám [16]. Trong cuốn Đồng dao và trò chơi dân gian cho trẻ mầm non, chúng tôi đã căn cứ vào mục đích sử dụng của cuốn sách theo chương trình giáo dục mầm non mà phân chia thành các chủ đề như sau: - Chủ đề động vật: Gồm các bài đồng dao về các con vật như: Chiều chiều én liệng trên trời Rùa bò dưới nước, khỉ ngồi trên cây. Hay: Bê là bê vàng Bê đừng rềnh ràng Bê đi với mẹ Bê đừng chạy xuống bể Bê đừng chạy lên ngàn Mà cọp mang Mà sấu nuốt… - Chủ đề thực vật: Các bài đồng dao nói về một số rau, củ, quả và tính chất của nó như: Khế với sung, khế chua, sung chát Mật với gừng, mật ngọt, gừng cay
  • 35. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 29 Hay: Mít vàng, cam đỏ Hồng chín, quýt xanh Bốn anh đều lành Thích ăn quả gì? - Chủ đề bản thân, nhà trường: Đề cập tới một số bài khuyên nhủ, răn dạy trẻ vệ sinh sạch sẽ, học hành chăm ngoan. Ếch tài, ếch giỏi Ếch nói, ếch cười Hễ anh nào lười Phải về giải bét Anh nào nhảy đẹp Anh nào nhảy cao Nhảy qua hàng rào Chiếm ngay giải nhất. - Chủ đề nghề nghiệp: Đây là những bài đồng dao thường sử dụng trong các trò chơi mô phỏng công việc đồng áng, trồng dâu nuôi tằm… Ù à ù ập Bắt chập lá tre Bắt đè lá muống
  • 36. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 30 Bắt cuống lên hoa Bắt gà mổ thóc Bắt học cho thông Cày đồng cho sớm Nuôi lợn cho chăm Nuôi tằm cho rỗi Dệt cửi cho mau Nuôi trâu cho mập. - Chủ đề gia đình: Các bài đồng dao đề cập đến quan hệ, sinh hoạt, lối sống trong gia đình: Gánh gánh gồng gồng Gánh sông gánh núi Gánh củi gánh cành Ta chạy cho nhanh Về xây nhà bếp Nấu nồi cơm nếp Chia ra năm phần Một phần cho mẹ Một phần cho cha Một phần cho bà Một phần cho chị
  • 37. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 31 Một phần cho anh…[5] Ngoài một số cách phân loại trên, chúng ta còn thấy có cách phân loại khác như phân loại đồng dao dựa vào mục đích hát; phân loại đồng dao theo thể thơ; phân loại đồng dao theo kết cấu… Và nhằm mục đích dễ tra cứu, tác giả Đặng Anh Tú trong cuốn Đồng dao Việt Nam đã lấy từ đầu tiên của các bài đồng dao mà sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái (Alphabet) [27]. Về thực chất, việc phân loại nào cũng chỉ mang tính tương đối. Chúng phụ thuộc vào từng mục đích phân loại của tác giả, vào các góc nhìn khác nhau về đồng dao. Chẳng hạn như với các nhà ngữ văn, họ sẽ dựa vào cấu trúc, hình thức, nội dung… của đồng dao. Với các nhà giáo dục, họ sẽ dựa vào nội dung, sự tác động của các bài đồng dao đó như thế nào trong việc góp phần phát triển nhân cách trẻ để phân loại. Tuy nhiên, cho dù cách phân loại nào thì cũng chủ yếu căn cứ vào nội dung và hình thức của đồng dao. Do đó, chúng ta có thể phân loại một cách khái quát như sau: - Đồng dao có nội dung nhắc nhở, răn dạy điều hay lẽ phải - Đồng dao chứa đựng tri thức về hoàn cảnh, môi trường sống và quan hệ cộng đồng - Đồng dao khôi hài, chế nhạo hay nhằm mục đích giải trí. 2.2. Nội dung của đồng dao 2.2.1. Đồng dao có nội dung nhắc nhở, răn dạy điều hay lẽ phải Trên thực tế, rất khó xác định đối tượng sáng tác đồng dao thuộc lứa tuổi nào bởi không thể căn cứ vào cấu trúc của bài có chặt chẽ hay không, nội dung đề cập đến vấn đề gì. Do đó, các bài đồng dao có nội dung nhắc nhở, răn dạy điều hay lẽ phải chỉ có thể giả thiết là người lớn sáng tác cho trẻ hát, trẻ
  • 38. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 32 chơi. Các bài dạng này có nội dung giản dị, lời lẽ đơn giản, dễ hiểu, sử dụng ngôn ngữ không hoa mĩ mà vẫn toát lên được sự sâu sắc trong cuộc sống, trong cách ứng xử và các quan hệ xã hội. Ở Khoái Châu, người ta thường biết đến những bài đồng dao có nội dung đề cập đến những hình ảnh quen thuộc như đồng ruộng, làng quê và những người lao động cần mẫn, chăm chỉ với các nghề đặc trưng ở nơi đây như nông nghiệp, buôn bán và một số nghề phụ. Thông qua đó mà truyền tải cho người nghe biết gìn giữ môi trường, trân trọng lao động. Ăn một bát cơm Nhớ người cày ruộng Ăn đĩa rau muống Nhớ người đào ao Ăn một quả đào Nhớ người vun gốc Ăn một con ốc Nhớ người đi mò Sang đò Nhớ người chèo chống Nằm võng Nhớ người mắc dây Đứng mát gốc cây Nhớ người trồng trọt. (Bà Nguyễn Thị Vui, sn 1957, Đại Hưng)
  • 39. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 33 Những trò chơi vô cùng đơn giản, nhẹ nhàng kèm những lời đồng dao dí dỏm, những hình ảnh quen thuộc mà làm cho trẻ thấm dần những điều hay lẽ phải. Ví dụ như bài đồng dao trong trò chơi “Cò cưa kéo xẻ” chẳng hạn. Chỉ có năm dòng, nhưng nó đã tạo nên một trò chơi mô phỏng sự lao động của người lớn một cách sinh động. Những câu hát vừa hài hước, vui vẻ lại vừa ghi nhận sự ứng xử rõ ràng, rành mạch với những người có công và kẻ lười nhác. Điều rất đáng chú ý ở đây là sự thưởng, phạt theo hình thức rất ngộ nghĩnh phù hợp lứa tuổi, không nặng nề mà vẫn có sức nhắc nhở, cảnh báo; có tác động tích cực đối với chủ thể. Cò cưa kéo xẻ Thợ khỏe cơm vua Thợ thua cơm làng Thợ nào lang thang Thì về bú mẹ. (Cụ ông Nguyễn Đức Nghiên, sn 1938, Đại Hưng) Đồng dao còn nhắc nhở, khuyên bảo con trẻ yêu lao động, sự tự giác, tích cực trong cuộc sống, Quý trọng tình cảm và các mối quan hệ trong gia đình. …Lớn con xúc tép Cho bà bát canh Lớn đi trồng chanh Cho bà bát dấm Lớn con đi tắm Đỡ phải phiền bà [16, tr.89], [27, tr.107]
  • 40. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 34 Có những bài đồng dao ở Khoái Châu thông qua việc dùng những lời lẽ giản dị, dễ hiểu để miêu tả, phản ánh diện mạo, tính cách của nhân vật thông qua loài vật: …Bồ nông cà mỏ chua ngoa Lênh đênh mặt nước thế mà hiển vinh Kìa như sơn thủy hữu tình Gắt như tu hú ai khinh nỗi gì Bìm bịp rủ rỉ rù rì Bắt gà như chớp ai thì chẳng ưa Anh mòng có tính say sưa Móng cùi tốt dáng mà dơ cả đời… (Cụ bà Nguyễn Thị Định, 85 tuổi, Thông Quan Hạ) Bài này toát lên thái độ, quan điểm của con người (người sáng tác) đối với hình thức và nội dung của đối tượng một cách rõ ràng. Việc nhận định này có thể vượt lên trên cả tư duy trẻ thơ với lời lẽ khá trau chuốt, đay nghiến, chỉ trích thói hư tật xấu của nhân vật. Đây là thủ pháp nhân cách hóa, mượn đặc điểm của đối tượng là các con vật (loài chim – một loài vật rất gần gũi với trẻ thơ Khoái Châu, thường có mặt ở đồng ruộng, ao hồ và các cây trồng quanh nhà) mà một lúc đạt được hai mục đích: 1. hiểu thêm về con vật đó; 2. có thái độ trước các đặc điểm, sự vật cụ thể, áp dụng vào phép ứng xử của loài người. Bằng việc chỉ bảo, dạy dỗ trẻ thơ thông qua ngôn ngữ dí dỏm, hài hước hay chỉ trích, đay nghiến, qua vần, nhịp điệu đặc trưng, đồng dao đã nhẹ nhàng tiếp cận, chiếm lĩnh vị trí đáng kể trong tâm trí của trẻ, giúp chúng dần nhận biết, thấu hiểu điều hay lẽ phải cũng như rèn luyện kĩ năng sống, thái độ
  • 41. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 35 ứng xử xã hội, tích lũy kinh nghiệm về vốn kiến thức không những xung quanh mình mà còn mở rộng ra thế giới bên ngoài như thế giới các loài vật, chim muông, tôm cá, cây cối… Từ đó, đồng dao càng biểu hiện một cách rõ nét hơn vai trò, tác động tích cực của nó đối với đời sống tinh thần của trẻ thơ. 2.2.2. Đồng dao chứa đựng tri thức về hoàn cảnh, môi trường sống và quan hệ cộng đồng Dưới góc nhìn của trẻ, việc nhận thức sự vật, hiện tượng thường chỉ cần nhận biết một vài đặc điểm nào đó, vậy là đủ. Các bài đồng dao dù là do trẻ nghĩ ra hay do người lớn sáng tác cho trẻ thì cũng không nằm ngoài mục đích đó. Cây tre mọc ở bên đường Làm nhà nghỉ mát, đóng giường ngồi chơi Trên rừng, cây quế chàng ơi Để mà làm thuốc cứu người bình dân … Cây đa thì để bắc cầu Cây mít tạc tượng, cây dâu chăn tằm Cây dừa cây thị lâu năm Ai ơi nhớ lấy kẻo nhầm làm chi… (Cụ bà Đỗ Thị Goòng, 85 tuổi, Thông Quan Hạ) Nếu như theo góc nhìn của nhà thực vật học chẳng hạn, họ sẽ xem xét nghiên cứu cây cối về quá trình sinh trưởng, sinh sản, trao đổi chất, phát sinh hình thái, bệnh học thực vật, tiến hóa… Hoặc với môi trường, có thể thấy cây cối có những tác dụng điều hòa không khí, làm trong lành và sạch môi trường,
  • 42. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 36 giữ đất khỏi bị lở, lụt lội… Còn bài đồng dao vừa dẫn đơn giản chỉ đề cập đến những hiện tượng cực kỳ quen thuộc, nói đến một tác dụng cụ thể nào đó “Cây tre (có nhiều tác dụng) – làm nhà”- mà nhà cũng có rất nhiều tác dụng, vậy mà chỉ đề cập đến việc làm nhà để “nghỉ mát”; làm giường không phải để ngủ như thông thường vẫn vậy mà để ngồi chơi! Cây mít chủ yếu trồng là để ăn quả,vậy mà lại nói đến một tác dụng chẳng ăn nhập gì với luồng suy nghĩ thông thường, biến hẳn thành một nguyên liệu để dùng … cho người nghệ nhân. Trong một bài về cây, đã có sự liên hệ rất rộng rãi không chỉ bó hẹp trong một không gian hẹp mà còn mở rộng từ các cây rất quen thuộc ở vùng đồng bằng, mà Khoái Châu cũng là nơi trồng nhiều (có cây ăn quả, cây lấy củ, lấy thân…) rồi vượt xa hơn là cây ở trên rừng, thậm chí còn khai mở tới sự tiếp biến tài tình, hóm hỉnh mà lại vẫn rất thuyết phục đối với cây ở tận nước ngoài: Su hào nó ở bên Tây Nó sang rẽ nước bên này mới ưa Rõ ràng việc nhìn nhận, bóc tách sự vật hiên tượng một cách chi tiết, cụ thể, kỹ càng sẽ là chưa cần thiết đối với trẻ. Ngôn ngữ đồng dao đã bộc lộ tâm hồn trẻ, con mắt thơ ngây, trong sáng của chúng và góc nhìn ngộ nghĩnh, đáng yêu. Không có cớ gì để cho rằng “Không phải thế”, “Phải thế này”, Phải thế kia” đối với các quan niệm trẻ đưa ra. Với trẻ, từng dữ liệu đơn lẻ sẽ được chúng tiếp cận, tiếp thu và tổng hợp dần dần đến độ nào đó rồi mới có thể nhận thức một cách chính xác, toàn diện. Có những bài đồng dao còn đưa ra những phủ định để nhận diện sự vật qua một lăng kính dưới góc nhìn hài
  • 43. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 37 hước, ngộ nghĩnh đến mức phải bật cười mà qua đó có thể còn dễ nhớ hơn, gây ấn tượng sâu sắc hơn1 : Chuột ra vồ mèo Muỗi ra vồ dơi Mỡ lợn thì hôi Thơm tho tổ cú Đàn ông có vú Đàn bà có râu… (Cụ ông Nguyễn Đức Nghiên, sn 1938, Đại Hưng) Có thể nói, bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với thế giới trẻ thơ, những câu ca, câu hát đồng dao đã chứa đựng trong đó nhiều kiến thức, tri thức của cuộc sống, của môi trường xã hội loài người. Những tri thức đó không hề được xây dựng bằng những khái niệm, định nghĩa rạch ròi, cụ thể hay sự phân tích kĩ càng, sâu sắc mà nó được thể hiện dưới nhiều góc độ khác nhau, từ sự hài hước, hóm hỉnh đến những nhận định nghiêm khắc; từ một vài chi tiết cụ thể đến khái quát đặc điểm; tất cả đều ở dưới dạng đơn giản, dễ hình dung, dễ hiểu để từ đó, trẻ em tiếp nhận dần dần một cách tự nhiên, bằng con đường, cách thức rất phù hợp với chúng là thông qua chơi mà hiểu, mà tiếp thu được những tri thức dân gian, có hiểu biết và có ứng xử đúng đắn với môi trường tự nhiên và xã hội. 1 Ngụy biện toán học là một gợi ý cho sự liên tưởng này.
  • 44. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 38 2.2.3. Đồng dao khôi hài, chế nhạo hay nhằm mục đích giải trí Khôi hài là một nét khá thú vị ở đồng dao; bởi ở đây, tiếng cười hoàn toàn vô tư, trong sáng với góc nhìn ngộ nghĩnh của trẻ thơ. Người dân ở huyện Khoái Châu thuộc nhiều và khá hứng thú với các bài đồng dao có nội dung này. Điều này khẳng định thêm vai trò của đồng dao trong đời sống tinh thần của người dân nói chung cũng như của Khoái Châu nói riêng: Ông giẳng ông giăng Ông giằng búi tóc Ông khóc ông cười Mười ông một cỗ Đánh nhau vỡ đầu Đi câu nhà kiến Đi kiện nhà phủ Một lũ ông già Mười ba ông điếc Ông thì điếc đông Ông thì điếc đặc Ông thì đặc điếc. (Cụ ông Nguyễn Đức Nghiên, sn 1938, Đại Hưng) Có thể nội dung bài không có gì nhiều, chỉ đơn giản là mấy người tranh giành miếng ăn với nhau; nhưng tiếng cười ở đây không nhằm vào đối tượng là những “ông” đó. Sự nhấn mạnh tăng dần mức độ “điếc” ở ba câu
  • 45. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 39 cuối, đặc biệt là câu cuối cùng dùng thủ pháp đảo ngữ đã cho một kết quả bất ngờ hơn và đây chính là điểm nhấn để cho ai nghe, ai đọc cũng phải bật cười. Những câu nhẹ nhàng, vui vẻ xuất phát từ đặc điểm của đối tượng cũng gây nhưng tiếng cười sảng khoái, mà lại là tiếng cười do sự phân tích, nhận thức đúng về đối tượng: Con chim mày ở trên cây Tao đứng dưới gốc mày bay đường nào? Con cá mày ở dưới ao Tao tát nước vào mày sống được chăng? (Bà Nguyễn Thị Vui, sn 1957, Đại Hưng) Sự chế nhạo thói hư tật xấu nhiều khi lại không nằm ở chính cái sự “xấu” mà lại ẩn nấp ở đâu đó trong những hành vi, cử chỉ, hành động hay sự việc rất đời thường, ai nhìn vào cũng thấy không phải là mình mà vẫn thấy có chút gì là “mình” trong đó. Sự “tinh tế” này có lẽ do sự tế nhị của con trẻ khi có cái nhìn, cách nhận xét tác động ngược trở lại với thế giới của người lớn mà với chúng, nhiều khi đó là nơi chỉ có chấp nhận “cho” chứ không có “nhận”. …Có anh bẩy vợ chẳng chê vợ nào Một vợ rửa bát cầu ao Gặp trận mưa rào chết dúi bụi tre Một vợ thì đi buôn bè Chẳng may bè thối nó đè xuống sông Một vợ thì đi buôn bông Gặp cơn cả gió nó bung lên giời (trời)
  • 46. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 40 Một vợ thì đi buôn nồi Chẳng may nồi méo, một nồi ba vung… (Cụ ông Nguyễn Đức Nghiên, sn 1938, Đại Hưng) Hay là: Cái cò là cái cò quăm Chửa ra đến chợ đã chăm ăn quà Hàng bánh, hàng bún bầy la Con mắt tỏm tẻm lướt qua mọi hàng Bánh đúc cho lẫn bánh đàng Củ từ, khoai nướng, lẫn hàng cháo kê Ăn rồi lại trở ra về Thấy hàng thịt chó lại lê chân vào. (Bà Nguyễn Thị Vui, sn 1957, Đại Hưng) Tìm hiểu những bài đồng dao, có thể gặp những câu đồng dao tưởng chừng như vô nghĩa, thậm chí còn lung tung lộn xộn, các sự vật, sự việc chẳng liên quan gì đến nhau ngoài việc câu cú có vần điệu. Liệu đây có phải là lối tư duy vụn vặt, đơn lẻ, hay chỉ là lối tư duy tự do, hiếu động của con trẻ? …Ngủ ăn không hết Để dành đến Tết mồng ba Mèo già ăn trộm Mèo ốm phải đòn
  • 47. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 41 Mèo con phải vạ Con quạ đứt đuôi Con ruồi đứt cánh Đòn gánh có mấu Châu chấu có chân… ...Cái phản long đanh Anh còn chữa được Cái lược chải đầu Con trâu cày ruộng (Cụ ông Nguyễn Đức Nghiên, sn 1938, Đại Hưng) Bài đồng dao này có 46 dòng, và có những bản khác biến hóa vô cùng sang những nội dung khác nhau, thậm chí chính bản này cũng có thể được phát triển rất xa về số lượng câu chữ. Bài này được viết ở thể 4 tiếng với vần nhịp thay đổi liên tục; từ tiếng thứ 4 của câu trước với tiếng thứ hai của câu sau (vần nhịp này chiếm số lượng nhiều nhất) đến liên kết vần từ tiếng thứ tư xuống tiếng thứ nhất (“Cái phản long đanh – Anh còn chữa được”, “Mày tát chuôm tao – Tao tát chuôm mày”), từ tiếng thứ tư cũng xuống tiếng thứ tư (Ngủ ăn không hết – Để dành đến Tết mồng Ba), thậm chí chỉ là theo nghĩa đối kháng, đối lập hoặc đối trọng: Mày tát chuôm tao Tao tát chuôm mày Mày đầy rổ cá Tao đầy rổ tôm
  • 48. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 42 Mày bán chợ Hôm Tao bán chợ Dền Mày mở cửa đền Tao mở của vua… Xét về mặt nội dung xuyên suốt từ đầu đến cuối bài thì ở đây hoàn toàn không ăn nhập gì với nhau về ngữ nghĩa. Có những nội dung chỉ nằm trong 2-3 dòng rồi lại tiến thẳng sang một nội dung hoàn toàn khác. Khoái Châu trước đây thường có hình thức sinh hoạt vui chơi tập thể vào buổi tối. Những đêm trời trong xanh gió mát, trẻ chơi với nhau hoặc vui chơi cùng người lớn ở đầu làng1 hoặc sân đình, bờ đê, bãi đất rộng. Cảnh vật xung quanh thường thấy là hình ảnh trăng sao, cảnh vật mờ ảo. Đồng dao đã xuất phát từ bối cảnh đó mà ra đời: Thằng Cuội ngồi gốc cây đa Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời Cha còn cắt cỏ trên trời Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời ông Văn Ông Văn mà lấy bà Văn Đẻ ra con rắn thằn lằn cụt đuôi Ông Văn bảo để mà nuôi Bà Văn đập chết đem vùi bếp gio (tro) Ông Văn bảo để mà kho 1 Các làng xã ở Khoái Châu bao giờ cũng có ít nhất là một hoặc hai phía tiếp giáp với ruộng đồng. Người ta gọi chỗ đó là đầu làng. Một làng có thể có hai đầu làng.
  • 49. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 43 Bà Văn đập chết đem cho láng giềng. (Cụ bà Nguyễn Thị Bấm, sn 1936, Hồng Tiến) Bài đồng dao này có vẻ như lan man, nội dung thật khó chấp nhận. Tuy nhiên, đây là một trong những bài đồng dao được cả trẻ em và người lớn ở Khoái Châu khá thích thú và nhiều người thuộc nó. Xét về nội dung, bài này đề cập đến những hình ảnh rất quen thuộc với họ như ông trăng (có chú Cuội), cây lúa, bếp tro, việc chăn trâu, cắt cỏ… “ông Văn” có lẽ theo thông lệ nơi đây thường đặt tên con trai thì đệm “Văn”, con gái thì đệm “Thị”, khi lấy chồng thì mất luôn cả tên bởi vì người ta chỉ gọi theo tên chồng (ông Văn – bà Văn), còn tên của vợ thì chỉ được dùng trong thủ tục hành chính hoặc sau khi đã mất, người ta mới khấn tên cúng cơm mà thôi. Về hình thức, bài ở thể thơ lục bát, gồm có 5 cặp. Hình thức đó là vừa phải, dễ nhớ, dễ thuộc bởi lục bát là một thể thơ có luật bằng trắc rất thuận, uyển chuyển, phù hợp với tâm sinh lí và khẩu ngữ của con người. Trên đây cho thấy một phần bản chất của đồng dao – sản phẩm của trẻ - chính là những hình ảnh gần gũi, biến đổi liên tục trong con mắt trẻ thơ, là sự nối tiếp thành chuỗi các mối quan hệ mà sự gắn kết nhiều khi còn sơ khai và rất mong manh. Tuy nhiên, nó lại trở thành nhân tố quan trọng, là phương tiện hữu ích cho việc vui chơi giải trí của trẻ mà trong trường hợp này, trẻ lại là chủ thể, là người đã tạo ra nó, chiếm lĩnh nó. 2.3. Đồng dao trong trò chơi 2.3.1. Khái quát Nhiều bài đồng dao chiếm vị trí đáng kể trong các trò chơi, thậm chí có những trò chơi bắt buộc phải có đồng dao mới chơi được. Theo thống kê khi khảo sát 175 trẻ ở Khoái Châu (sinh trong khoảng từ 1994-2000), tỷ lệ sử dụng đồng dao trong trò chơi chiếm tới 48,1%; khảo sát 50 người cao tuổi
  • 50. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 44 (sinh trong khoảng từ năm 1915 đến 1945) thì tỷ lệ sử dụng đồng dao trong trò chơi là 33,3%. Vì đồng dao là phương tiện, công cụ để chơi trò chơi, nên về bản chất, quan hệ giữa đồng dao với trò chơi là quan hệ giữa công cụ với đối tượng mà công cụ ấy tác động. Do đó, khi xét mối quan hệ này, có hai vấn đề cần quan tâm: một là sự tương ứng, sự phù hợp giữa bản thân công cụ với đối tượng sử dụng; và hai là khi đã đưa vào sử dụng thì công cụ ấy tác động và tạo hiệu quả ra sao, tức là xét sự tương ứng giữa đồng dao với trò chơi và vai trò của đồng dao với trò chơi. Đồng dao trong trò chơi có nội dung, đồng thời là hai vai trò chính. Thứ nhất, các câu đồng dao chỉ là những câu đọc vần, phụ họa, làm nền cho các động tác chơi. Thứ hai, nội dung của câu hát đồng dao được hành động của trò chơi thực hiện. 2.3.2. Đồng dao phụ họa cho trò chơi Những câu đồng dao được đọc theo lối văn vần với những nội dung nhiều khi không ăn nhập gì với các động tác trò chơi, hoặc cùng lắm chỉ có câu cuối cùng biểu hiện một hành động báo hiệu, dứt điểm một động tác nào đó mà thôi. Đây cũng chính là nét đặc biệt trong trò chơi dân gian mà nhiều trò chơi khác không có. Đối với trường hợp này, đồng dao chỉ là chất xúc tác cho trò chơi thêm phong phú chứ không đóng vai trò chủ đạo. Do đó, trong một trò chơi, một động tác có thể có rất nhiều bản khác phụ họa cho nó, hoặc có lúc trẻ chơi mà không cần đọc đồng dao cũng vẫn được. Ví dụ như trong trò chơi đánh chuyền, một bàn chơi có thể có tới 2-3, thậm chí 4 bản khác nhau1 . 1 Xem phần “Dị bản trong đồng dao”
  • 51. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 45 Nhiều bài đồng dao trong trò chơi nhằm để xác định thời gian kết thúc một quá trình, một hành động hay một ván chơi1 . Các bài ở dạng này thường có câu kết thúc là hành động của trò chơi hay là câu tương ứng với hành động. Có thể kể đến các bài như “Chi chi chành chành”, kết thúc bằng câu “Ù à ù ập - Đóng sập cửa vào” đồng thời các em nắm chặt tay vào; “Rồng rồng mổ rết” kết thúc bằng câu “Hỡi các bạn mến ơi - Chộp lấy thằng cuối cùng” đồng thời các em ngồi thụp xuống, em nào ở trong phạm vi vòng vây sẽ bị “chết”; “Thả đỉa ba ba” kết thúc bằng câu “Thả vào nhà nào – Nhà ấy phải chịu” hay “Nu na nu nống” kết thúc bằng câu “Tè he chân rụt – Chẳng cụt mất chân”… Những bài đồng dao như vậy thường là đọc theo lối văn vần, nội dung là những sự vật, sự việc có thể là những hình ảnh mô phỏng, có liên hệ với hành động đang diễn ra hoặc chắp nối chưa chắc đã theo quy luật, trật tự nào, độ dài cũng có thể được thêm, bớt, tốc độ đọc hát có thể nhanh chậm khác nhau tạo sự bất ngờ, kịch tính cho trò chơi. Rồng rồng mổ rết Bắt con rết qua sông Bắt con rồng qua biển Bắt con kiến bổ đôi Hỡi các bạn mến ơi Chộp lấy thằng cuối cùng. (học sinh lớp 7 trường THCS Tân Dân, Khoái Châu) 1 Chương 3 sẽ trình bày chi tiết hơn về các trò chơi
  • 52. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 46 Nội dung của bài đồng dao cho thấy 4 dòng trên biểu đạt một hành động sắp xảy ra: Đối tượng này bắt chộp đối tượng khác, cụ thể bằng câu kết thúc một quá trình chơi ở 2 dòng cuối. 2.3.3. Đồng dao mô tả hành động của trò chơi Có những câu đồng dao nhằm để mô tả hành động của trò chơi. Nội dung của nó gắn bó với cách chơi, động tác chơi một cách cụ thể, rõ ràng hơn. Ví dụ như bài đồng dao trong trò chơi “Mèo đuổi chuột”: Mời bạn ra đây Tay nắm chặt tay Đứng thành vòng rộng Chuột luồn lỗ hổng Mèo đuổi đằng sau Chuột cố chạy mau Trốn đâu cho thoát Thế rồi chú chuột Lại hóa vai mèo Co cẳng đuổi theo Bắt mèo hóa chuột. (Bà Nguyễn Thị Vui, sn 1957, Đại Hưng) Toàn bộ bài đồng dao này miêu tả khá chi tiết, cụ thể từng hành động của trò chơi, luật chơi. Số lượng người chơi cần phải đông (đứng thành vòng rộng), “chuột” và “mèo” chạy đuổi nhau luồn qua những người đứng thành vòng tròn đó và khi bắt được thì kết thúc ván và đổi vai chơi.
  • 53. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 47 Ngoài những bài nêu rõ ràng như trên, có bài thì chỉ nêu ra một cách tương đối về cách chơi, hành động chơi như “Oản tù tì”, “Tập tầm vông”: Tập tầm vông Tay không, tay có Tập tầm vó Tay có, tay không! Một vật nhỏ được giấu ở một tay nào đó của một trẻ, trẻ vòng hai tay ra sau, vừa đọc vừa đổi vật đó từ tay nọ qua tay kia hoặc không hề đổi, đọc xong cho trẻ khác đoán xem vật đó ở tay nào. Đồng dao chiếm giữ một vai trò đáng kể trong một số trò chơi dân gian. Nó tham gia vào quá trình chơi như là một thành phần không thể thiếu, hỗ trợ cho các hành động, thậm chí xác định hành động của trò chơi đó. Đồng dao giúp cho trò chơi không bị đơn điệu và câm lặng bởi nó chính là âm thanh giọng nói dưới dạng ca hát, hò reo với những vần điệu linh hoạt, phong phú, phù hợp với tâm sinh lý của con người, nhất là với trẻ nhỏ, tạo lên sự phong phú và nét khu biệt rất đặc trưng đối với trò chơi dân gian. 2.4. Hình thức của đồng dao 2.4.1. Cấu trúc, vần và lời của đồng dao Xét về hình thức, đồng dao có thể là rất ngắn, chỉ hai dòng, có khi lại có thể rất dài, đến hàng trăm dòng. Các tiếng trong một dòng cũng vậy, có khi chỉ 2 tiếng, có khi tới 8-9, thậm chí 10-11 tiếng. Bao giờ cho đến canh năm Thổi nồi cơm nếp vừa nằm vừa ăn. Hay:
  • 54. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 48 Châu chấu đuổi cái chích chòe Cỏ dày đồng nội cắn què mõm trâu. (Cụ ông Nguyễn Đức Nghiên, sn 1938, Đại Hưng) Thể loại tục ngữ thường hay sử dụng dạng cấu trúc ngắn mà vẫn diễn đạt được những triết lí, những nội dung sâu sắc được đúc rút từ kinh nghiệm cuộc sống lao động. Đối với đồng dao, những bài có cấu trúc ngắn như vậy thường nêu được một chi tiết, một nét, một hiện tượng nào đó của cuộc sống. Có thể coi đó là một mảnh ghép theo giác độ đặc biệt của thế giới tuổi thơ; một hiện tượng, một nét ngẫu nhiên được xây dựng thành những câu hát vần vè giúp trẻ vui chơi, giải trí một cách sinh động hơn. Các bài đồng dao kéo dài, thậm chí tới gần một trăm dòng thường đề cập tới một chủng loại gì đó theo chuyên đề nối tiếp nhau tưởng chừng như không dứt. Trong quá trình sưu tầm ở Khoái Châu chúng tôi thấy người nhớ bài dài nhất mới chỉ được 64 dòng nói về các thứ cây. …Cây ngô, cây lúa ngoài đồng Để cho thiên hạ vợ chồng đủ no Đêm nằm mà nghĩ chả lo Cây si mọc ở bến đò cũng xinh Gỗ sen, gỗ sến làm đình Trăm trai đổ lại gỗ đinh một màu… (Cụ bà Đỗ thị Goòng, 82 tuổi, thị trấn Khoái Châu) Nếu so sánh với tài liệu đã xuất bản, chẳng hạn trong cuốn Đồng dao và trò chơi người Việt, thì chúng tôi thấy bài vè các thứ bánh có 94 dòng, bài vè các loài cá có tới 96 dòng.
  • 55. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 49 Bà con cô bác Lẳng lặng mà nghe Tôi nói cái vè Vè các thứ bánh Mấy tay phong tình huê nguyệt Thì sẵn có bánh trung thu Mấy ông thầy tu Bánh sen thơm ngát… [16, tr.19] Nghe vẻ nghe ve Vè các loại cá Cá kình cá ngạc Cá nác, cá dưa Cá voi, cá ngựa… [16, tr.53] Các bài này kéo dài tưởng chừng như bất tận, liệt kê đến bao giờ đủ các loại mới có thể dừng. Đây cũng là một trong những đặc điểm của đồng dao trẻ em: quan sát, liên hệ, liệt kê, nhận thức sự vật, hiện tượng xung quanh mình rồi xây dựng nội dung bằng hệ thống câu hát đơn giản, ghép nối sự vật bằng chính những đặc điểm phơi bày của đối tượng, đồng thời còn liên hệ với những đối tượng tương tự ở các môi trường địa lí khác nhau, không gian khác nhau. Chúng ta khá quen thuộc với cụm từ “hát đồng dao”. Xét theo góc độ âm nhạc thì diễn xướng đồng dao chưa hội đủ hết các yếu tố cơ bản của âm nhạc (cao độ, trường độ, cường độ, âm sắc). Tuy nhiên, đồng dao lại chứa đựng tính chất thơ ca có vần, có nhịp, tuy niêm luật còn lỏng lẻo.
  • 56. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 50 Như trên đã nêu, đồng dao được sử dụng trong các trò chơi khá nhiều. Các câu hát này nhằm miêu tả hành động, các động tác của trò chơi như những bước đi, đứng lên ngồi xuống, co đi kéo lại; hoặc từng cặp cùng chơi. Do vậy, đồng dao theo cấu trúc thể 2 tiếng hoặc 4 tiếng (chẵn) là rất phù hợp. Trong đó, thể hai tiếng ít hơn, ví dụ như trò giã gạo: Giã gạo Bì bọp Cho cọp Nó ăn. Hay: Giã gạo Cơn trưa Còn thừa Bỏ cối Ai vay Nói dối Nhà tôi Hết rồi. (Cụ bà Đỗ Thị Tiệm, 92 tuổi, Hồng Tiến) Hoặc bản khác có cấu trúc 2-3 tiếng, các dòng có ba tiếng được đọc ghép hai tiếng để vẫn có tiết tấu chẵn, cùng nhịp điệu với các dòng có 2 tiếng: Giã gạo Say sưa
  • 57. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 51 Còn thừa Để đến tối Ai vay Nói dối Hết gạo rồi Chống cối lên. (Cụ bà Nguyễn Thị Bấm, sn 1936, Hồng Tiến) Trong trò chơi Đánh chuyền cũng có loạt bài ở thể 2 tiếng, phù hợp với 2 động tác tung – hứng quả chuyền, thí dụ: Cái cột Cái kèo Thèo lèo Búp măng Thằng chăng Con chít Ngấm nga Ngấm nguýt Thít thịt Lên đôi. (Cụ bà Nguyễn Thị Bấm, sn 1936, Hồng Tiến) Chúng ta bắt gặp rất nhiều bài đồng dao 4 tiếng trong trò chơi như “Chi chi chành chành”, “Dung dăng dung dẻ”, “Rồng rắn lên mây”. Đây là trường hợp phổ biến nhất bởi vần điệu của nó tạo thành nhịp đôi đều đặn, đọc