xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
CHÍ PHÈO THA HOÁ.docx
1. 1
CHÍ PHÈO
-Nam Cao-
BI KỊCH BỊ THA HOÁ
Trong xã hội cũ, nơi mà bọn giai cấp thống trị bốc lột, chì chiết nhân dân
một cách dã man, những người nông dân nghèo phải chịu đựng kiếp sống lầm
than với hàng tấn bi kịch trải dài cuộc đời. Nếu với “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, ta
bắt gặp hình ảnh chị Dậu với bi kịch phải bán chó, bán sữa và bán cả con của
mình vì vấn nạn sưu thuế thì khi đến với truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao -
một cây bút hiện thực xuất sắc, độc giả lại được khám phá hiện thực đương thời
ở góc độ khác, đó là bi kịch bị tha hoá được thể hiện nổi bật qua nhân vật Chí
Phèo trong đoạn trích: “…”
Truyện ngắn “Chí Phèo” được viết vào năm 1941, lấy cảm hứng từ người
tật việc thật ở làng Đại Hoàng và được nhà văn hư cấu thêm, được in trong tập
“Luống Cày” (1946). Sau hai lần đổi tên, truyện có tên là “Chí Phèo”. Việc lấy
tên nhân vật chính đặt làm nhan đề đã góp phần khắc hoạ rõ nét hơn hình tượng
nhân vật Chí Phèo. Qua đoạn trích, nhà văn muốn truyền tải giá trị hiện thực và
giá trị nhân đạo lớn lao đến với độc giả.
Trước hết ta phải hiểu thế nào là bi kịch? Bi kịch là sự mâu thuẫn giữa thực
tại và khát vọng con người. Hiện thực đời sống không đủ điều kiện để cá nhân
thực hiện được khát vọng của mình dẫn đến cá nhân rơi vào hoàn cảnh bi đát. Nổi
bật trong tác phẩm là bi kịch bị tha hoá của nhân vật Chí Phèo. Tha hoá là sự biến
đổi theo chiều hướng tiêu cực của con người. Nam Cao đã diễn tả quá trình tha
hoá ấy đầy chua xót khi từ một anh nông dân hiền lành, lương thiện, Chí Phèo trở
thành tên lưu manh, càng đau đớn hơn khi tên lưu manh ấy một lần nữa bị tha hoá
và biến thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.
Tấn bi kịch của Chí bắt đầu từ thuở lọt lòng. Anh là đứa trẻ bị bỏ rơi bên
cái lò gạch cũ, tình cờ được một anh thả ống lươn nhặt được trong bộ dạng “trần
truồng và xám ngắt”, sau đó lớn lên trong sự nuôi nấng của dân làng Vũ Đại. Hoá
ra Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi đáng thương, chưa một lần cảm nhận được tình
yêu, sự ấm áp của một gia đình thực sự. nói như Chu Văn Sơn: “Chí là một con
số không tròn trĩnh, thậm chí không còn là con số không, Chí là một con số
âm”. Dẫu bị đời vùi dập ngay từ bé, dẫu phải chịu đựng cái khốn đốn mồ côi
nhưng may thay, Chí được lớn lên trong vòng tay ấm áp của những người nông
dân nghèo làng Vũ Đại. Vì vậy khi lớn lên, anh đã trở thành một người nông dân
cần cù, làm canh điền để tự kiếm sống bằng chính sức lao động của mình với
mong muốn đổi đời như bao người nông dân nghèo khác. Anh ước ao “có một
gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con
lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Những ước
mơ ấy tuy bình dị, đơn sơ nhưng đó là những ước nguyện đáng quý, đáng trân
trọng vì nó không hảo huyền mà nó được xây dựng trên cơ sở lao động và thiên
lương của con người. Nhưng đời nào có để yên cho Chí được sống hạnh phúc.
2. 2
Trong thời gian làm thuê cho nhà lí Kiến, chính dáng vẻ trẻ khoẻ, sung sức cùng
sự tốt tính của Chí đã vô tình khiến anh “được” lọt vào “mắt xanh” của bà ba là
vợ lí Kiến nên anh thường bị bà ấy gạ gẫm, bắt bóp chân nhưng mỗi lần như vậy,
anh “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Bởi dù có tuổi thơ bất hạnh, không được
ai dạy dỗ nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai và quan trọng hơn hết, anh
có ý thức sâu sắc về nhân phẩm và lòng tự trọng của mình. Thế nhưng, với cơn
ghen mù quáng của Bá Kiến, hắn đã tống anh vào ngục tù tăm tối. Ấy rồi mầm
thiện trong Chí đã bị quật ngã, không sao gượng dậy được. Bi kịch bị tha hoá của
Chí cũng bắt đầu từ đây.
Sống trong cảnh tù không biết đâu là tội, không tìm được ánh sáng của
lương tri, Chí đâu còn là Chí nữa. Chính nhà tù thực dân – một ngục tù ăn thịt
người không bỏ lại xương, nó đã nuốt chửng tâm hồn lương thiện, đẹp đẽ của anh
Chí rồi trả lại cho đời một thằng Chí Phèo mang theo sự biến đổi nhân hình lẫn
nhân tính đến méo mó, dị dạng. Giờ đây trông hắn “đặc như thằng săng đá” với
bộ dạng khác hẳn: “cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen mà
rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết!”. Không chỉ vậy, “hắn mặc
quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng
phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế”. Nhìn hắn “trông
gớm chết”. Thật khó để hình dung mức độ khủng khiếp của nhà tù thực dân khi
có thể biến một anh nông dân hiền lành, tốt bụng thành bộ dạng dữ dội của một
tên lưu manh, côn đồ đầu đường xó chợ như thế. Không chỉ cướp đi hình hài con
người mà nhà tù kia còn làm biến dạng cả tâm tính của Chí Phèo. Trước đây, Chí
chỉ biết chăm chỉ làm lụng kiếm sống nhưng giờ vừa đi tù về, hắn đã chạy thẳng
ra chợ để “uống rượu với ăn thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều”, “cứ rượu xong là
hắn chửi”, “hắn vừa đi vừa chửi”. Hắn chửi trời đến chửi đời rồi lại chửi tất cả
người làng Vũ Đại và chửi cả “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn” khiến hắn phải
khổ thế này đây. Hắn cứ rống lên mà chửi nhưng lại chẳng ai thèm đếm xỉa và
chửi lại hắn vì mọi người đều kì thị và né tránh hắn. Thứ hắn nhận được chỉ là sự
im lặng đến đáng sợ. Trong tiếng chửi lảm nhảm của Chí là nỗi cô độc bao trùm
khi bản thân đã bị đá ra ngoài rìa của xã hội, là nỗi khát khao được giao tiếp với
đời, với người nhưng chẳng ai đáp lại hắn, chấp nhận hắn. Đó là nỗi đau của
người nông dân tốt tính bị chế độ ngục tù thay hình đổi dạng đến ra nông nỗi thế
kia. Nối đau ấy khiến ngòi bút của Nam Cao cũng phải chao đảo vì xót thương
cho bi kịch đời Chí và phẫn nộ trước sự tàn bạo của nhà tù thực dân.
Dù bị biến dạng về nhân hình và nhân tính nhưng Chí Phèo vẫn nhận thức
được đâu là nguồn cơn đẩy hắn vào tấn bi kịch. Vì vậy trong cơn say, hắn đã tìm
đến nhà Bá Kiến để ăn vạ, để tuyên bố “liều chết” với bố con nhà cụ bá. Trước
hành động của Chí, Bá Kiến với thủ đoạn của một tên thống trị già đời, hắn đã dễ
dàng mua chuộc Chí Phèo trở thành tay sai đắc lực cho mình. Còn bản thân Chí
thì ngu ngơ, quên hết tất cả tội ác của Bá Kiến năm xưa, chấp nhận dấn thân vào
con đường tội lỗi chỉ để kiếm lấy vài đồng tiền lẻ mà uống rượu. Hắn đã bán đi
nhân hình lẫn nhân tính và trượt dài trên con đường tha hoá. Từ ngày ấy trở đi,
3. 3
người ta không còn thấy một Chí Phèo lưu manh nữa, mà họ còn thấy một thứ
khủng khiếp hơn, đó là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Hắn ngày càng hung hãn,
ngang ngược. Hắn sống trong cơn say triền miên bất tận, sống bằng rượu, bằng
máu và nước mắt của biết bao người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao
nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao người dân lương
thiện”. Hắn làm mọi việc trong lúc say: “ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức
dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi chìm vào
trong cơn say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời, bởi lẽ
“những cơn say của hắn cứ tràn từ cơn say này sang cơn say khác, thành những
cơn dài mênh mang”. Nam Cao đã vẽ nên cho ta thấy một hiện thực đau lòng,
một cuộc sống bóp nghẹt lấy ước mơ, khát vọng của người nông dân bần cùng,
dẫn đến con đường tha hoá. Ông thương xót cho những con người bị xã hội ném
vào hố đen không lối thoát, không biết đâu là đường ra, đâu mới là sợi dây níu
giữ thiên lương trong họ.
Cũng viết về số phận người nông dân nhưng Nam Cao không đi theo lối
mòn cũ là khai thác nỗi khổ vì vấn nạn sưu cao thuế nặng và tình trạng đói nghèo
mà ông xoáy sâu vào tấn bi kịch tinh thần của con người. Đó là bi kịch phải bán
cả linh hồn cho quỷ dữ để tồn tại như Chí Phèo. Còn gì đớn đau hơn khi nhân
cách không còn, con người giống như thứ phế thải, bị “sa xuống thành con vật”
(Nguyên Hồng). Nhưng cũng chính từ bi kịch ấy, ta mới nhìn thấy được bản chất
của một xã hội vô nhân tính mà ở đó có những tên cường hào ác bá như Bá Kiến
nắm mọi quyền lực, có thể tuyệt đường sống của người nông dân bất cứ lúc nào
và có một nhà tù thực dân làm cho con người hiền lành biến thành con quỷ dữ.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu nhận định: “Văn học
và cuộc sống là hai đường tròn đồng tâm mà tâm điểm chính là con người”.
Thật vậy, với cách xây dựng hình tượng nhân vật điển hình, biệt tài miêu tả nội
tâm nhân vật đặc sắc cùng cốt truyện, các tình tiết và nghệ thuật trần thuật hấp
dẫn, ngôn từ mộc mạc, giản dị nhưng có đôi chỗ lạnh lùng, Nam Cao đã thành
công khắc hoạ một Chí Phèo là điển hình cho một bộ phận nông dân lao động
lương thiện bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá. Khi viết về người nông
dân, Nam Cao không cố ý bôi nhọ họ mà ông cố gắng phát hiện ra vẻ đẹp tâm
hồn đáng trân trọng bị cuộc đời vùi lấp mà phần sau câu chuyện sẽ tiếp nối – sự
thức tỉnh của Chí Phèo.
Nhà văn Nam Cao đã “lấy bản thân mình ra để mà kiểm nghiệm”
(Nguyễn Minh Châu) và gửi gắm nỗi lòng vào trong trang viết một cách tự
nhiên, khiến người đọc không khỏi xót xa khi chứng kiến bi kịch bị tha hoá của
nhân vật Chí Phèo. Qua tác phẩm, ông không chỉ cất lên tiếng nói xót thương,
bênh vực cho số phận của những người nông dân trước Cách mạng, mà ông còn
lên án, tố cáo mạnh mẽ chế độ nhà tù thực dân và bọn giai cấp thống trị bất lương
đã đẩy họ vào vòng xoáy tội ác, cùng với đó là sự ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của
những người dân lương thiện. Tất cả đã hội tụ và kết tinh nên giá trị nhân đạo và
hiện thực sâu sắc cho truyện ngắn “Chí Phèo”. Áng văn xuất sắc ấy đã dấy lên
4. 4
trong tôi bao cảm xúc mãnh liệt và khi gấp lại những trang văn, tôi vẫn sẽ cảm
nhận rõ từng mạch đời đập theo từng con chữ tựa mạch máu chảy dưới làn da.