SlideShare a Scribd company logo
1 of 128
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HỒ THANH VINH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HỒ THANH VINH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt
HÀ NỘI - 2014
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
Hå Thanh Vinh
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM CHƢA HOÀN
THÀNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
8
1.1. Khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn thực hiện tội phạm 8
1.1.1. Khái niệm các giai đoạn thực hiện tội phạm 8
1.1.2. Cơ sở phân chia các giai đoạn thực hiện tội phạm 12
1.2. Khái niệm, nội dung và ý nghĩa của các giai đoạn trong tội
phạm chưa hoàn thành
16
1.2.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của tội phạm chưa hoàn thành 16
1.2.2. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và ý nghĩa của chuẩn bị phạm tội 18
1.2.3. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và ý nghĩa của phạm tội chưa đạt 23
1.3. Quy định trong Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới về
tội phạm chưa hoàn thành
30
1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga 30
1.3.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 33
1.3.3. Bộ luật hình sự Nhật Bản 35
Chương 2: TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM CHƢA
HOÀN THÀNH THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH
37
2.1. Một số vấn đề chung về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm
chưa hoàn thành
37
5
2.1.1. Khái niệm, cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm hình sự
đối với tội phạm chưa hoàn thành
37
2.1.2. Các nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm
chưa hoàn thành
45
2.2. Quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành 49
2.2.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quyết định hình phạt đối với tội
phạm chưa hoàn thành
49
2.2.2. Các căn cứ quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành 51
2.2.3. Các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa
hoàn thành
57
2.3. So sánh trách nhiệm hình sự của tội phạm chưa hoàn thành
với các dạng tội phạm khác
59
2.3.1. So sánh trách nhiệm hình sự của tội phạm chưa hoàn thành
đối với trách nhiệm hình sự của trường hợp tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội
59
2.3.2. So sánh trách nhiệm hình sự của tội phạm chưa hoàn thành
với trách nhiệm hình sự của tội phạm hoàn thành
61
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI PHẠM CHƢA HOÀN
THÀNH VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
64
3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
về tội phạm chưa hoàn thành
64
3.1.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
về chuẩn bị phạm tội
64
3.1.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
về phạm tội chưa đạt
69
3.2. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam về tội phạm chưa hoàn thành
80
6
3.2.1. Dưới góc độ chính trị - xã hội 80
3.2.2. Dưới góc độ lý luận - thực tiễn 82
3.3. Những kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam về tội phạm chưa hoàn thành
86
3.3.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về
chuẩn bị phạm tội
86
3.3.2. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về
phạm tội chưa đạt
87
KẾT LUẬN 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
PHỤ LỤC 102
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
3.1 So sánh tỷ lệ chuẩn bị phạm tội và tội phạm hoàn thành
thông qua 100 bản án hình sự sơ thẩm và 100 quyết định
giám đốc thẩm về hình sự
65
3.2 So sánh tỷ lệ phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành
thông qua 100 bản án hình sự sơ thẩm và 100 quyết định
giám đốc thẩm về hình sự
70
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, là một hiện tượng xã hội
tiêu cực gắn liền với đời sống của con người. Hiện tượng tiêu cực này xâm
hại tới lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân cho nên
chúng ta luôn phải đấu tranh để phát hiện, ngăn chặn nhanh chóng, kịp thời
hiện tượng này nhằm giảm bớt tác hại cho xã hội do nó gây ra.
Trong quá trình nghiên cứu tội phạm, thông thường hay chú tâm đến
tội phạm hoàn thành, do đó tội phạm chưa hoàn thành ít được đề cập, chú
trọng. Song, nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành sẽ giúp chúng ta rất
nhiều trong công tác phòng ngừa tội phạm, ngăn chặn tội phạm nguy hiểm có
thể xảy ra, là một trong những mục tiêu trong yêu cầu đấu tranh phòng, chống
tội phạm, bảo vệ các lợi ích của Nhà nước và của công dân, đặc biệt là ngăn
chặn từ "trứng nước" và ngăn ngừa những hậu quả (thiệt hại) đã gây ra cho
Nhà nước, xã hội, cho cơ quan, tổ chức và cho công dân, qua đó còn góp phần
phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt được công minh, chính
xác và đúng pháp luật [8, tr. 440].
Ngoài ra, nếu nắm vững về tội phạm chưa hoàn thành sẽ giúp chúng ta
hiểu rõ hơn về tội phạm, giúp cho công tác phòng ngừa tội phạm của Nhà
nước được tốt hơn. Vì tội phạm chưa hoàn thành xảy ra trước tội phạm hoàn
thành, nó là điều kiện, tiền đề của hoạt động tội phạm hoàn thành. Hơn nữa,
trong khoa học luật hình sự Việt Nam, xung quanh vấn đề tội phạm chưa hoàn
thành còn nhiều nội dung cần nhận thức thống nhất, cũng như cần làm sáng tỏ
vấn đề trách nhiệm hình sự trong từng giai đoạn của tội phạm chưa hoàn
thành. Bên cạnh đó, cũng chưa có công trình khoa học nào tổng kết lý luận,
đánh giá thực tiễn áp dụng về vấn đề tội phạm chưa hoàn thành, trong khi
chính sách hình sự trước yêu cầu mới của đất nước đòi hỏi cần điều chỉnh
9
theo phương châm "việc không để tội phạm xảy ra xét về hiệu quả kiểm soát
tội phạm luôn được đánh giá cao hơn là việc kịp thời phát hiện, xử lý tội
phạm" [53, tr. 24]. Đặc biệt, điểm 3.1. tiểu mục 3 phần IV - Định hướng cơ
bản sửa đổi Bộ luật hình sự trong Đề cương định hướng sửa đổi, bổ sung Bộ
luật hình sự số 7724/ĐC-BSTBLHS (SĐ) ngày 24/9/2012 quy định:
Sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự liên quan
đến khái niệm và phân loại tội phạm, cơ sở của trách nhiệm hình sự,
nguồn của luật hình sự, nguồn của luật hình, các giai đoạn phạm
tội, các chế định đồng phạm, phạm tội có tổ chức, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vấn đề quyết định hình phạt [1].
Hay gần đây, ngày 10/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 1236/QĐ-TTg về việc "Phê duyệt kế hoạch tổng kết thi hành
Bộ luật hình sự năm 1999". Theo đó, việc tổng kết này nhằm đánh giá một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ thực tiễn hơn mười năm thi hành Bộ
luật hình sự năm 1999, từ đó đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình
sự, trong đó có tội phạm chưa hoàn thành, góp phần đáp ứng yêu cầu mới của
đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo đảm ổn
định lâu dài, thúc đẩy phát triển đất nước.
Như vậy, vì các lý do trên mà chúng tôi đã lựa chọn đề tài: "Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự
Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, việc nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành đã có nhiều
công trình khoa học đề cập ở các mức độ khác nhau, tuy nhiên so với các chế
định khác, thì tội phạm chưa hoàn thành ít được quan tâm nghiên cứu hơn, vì
đa số tập trung vào tội phạm hoàn thành. Do những điều kiện nhất định, tội
phạm chưa hoàn thành cũng không được thống kê số liệu một cách đầy đủ
phục vụ cho công tác điều tra nghiên cứu của tác giả, các nhà nghiên cứu
10
cũng như các học viên. Qua tìm hiểu, đã có một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu, giáo trình, bài viết trực tiếp hoặc gián tiếp có liên quan đến vấn đề tội
phạm chưa hoàn thành như sau:
* Nhóm thứ nhất - sách chuyên khảo, sách tham khảo, giáo trình, bao
gồm: 1) GS. TSKH. Lê Văn Cảm: Mục V - Chế định về các giai đoạn thực
hiện tội phạm, Chương thứ tư - Tội phạm, Sách chuyên khảo Sau đại học:
Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2005; 2) ThS. Lâm Minh Hạnh, Chương VIII - Các giai đoạn
phạm tội, trong sách: Những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong luật
hình sự việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1986; 3) PGS.TS. Nguyễn
Ngọc Chí: Chương Các giai đoạn phạm tội, trong sách: Giáo trình Luật hình
sự Việt Nam (Phần chung), GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003, 2007; 4) PGS.TS. Lê Thị Sơn: Bài IV - Một
số vấn đề về các giai đoạn thực hiện tội phạm, trong sách: Luật hình sự Việt
Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1999;
5) PGS.TS. Lê Thị Sơn: Các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm và tổ
chức tội phạm với việc hoàn thiện cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự, Nxb
Tư pháp, Hà Nội, 2013; cũng như một số công trình của các nhà khoa học
Liên bang Nga trong phần tài liệu tham khảo của các sách chuyên khảo nói trên.
* Nhóm thứ hai - các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, bao gồm:
1) GS. TSKH. Lê Văn Cảm: Chế định về các giai đoạn thực hiện tội phạm và
mô hình lý luận của nó trong pháp luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, số 2/2002; 2) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản: Một số vấn đề về giai
đoạn phạm tội chưa đạt, Tạp chí Khoa học, chuyên san Kinh tế - Luật, số
4/2002; 3) TS. Trịnh Tiến Việt: Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội chưa
đạt, Tạp chí Khoa học, chuyên san Kinh tế - Luật, số 4/2002; 4) PGS.TS. Lê
Thị Sơn: Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm
chưa đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2007; 5) PGS.TS Trần Văn Độ: Hoàn thiện
các quy định của Bộ luật hình sự về giai đoạn thực hiện tội phạm, Tạp chí
11
Tòa án nhân dân, số 5/1999; 6) PGS.TS. Dương Tuyết Miên: Quyết định hình
phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, Tạp chí Luật
học, số 4/2001; v.v...
* Nhóm thứ ba - các luận văn, luận án, bao gồm: 1) Hoàng Đức Ngọc:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội, 2010; Bùi Thị Chinh Phương: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết
định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo
luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2011; v.v…
Tuy nhiên, các công trình trên đây mới chỉ đề cập giải quyết đến khái
niệm, các đặc điểm cơ bản, việc quyết định hình phạt trong một giai đoạn của
tội phạm chưa hoàn thành là chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt, mà
chưa có công trình nào đi sâu và tổng quan về tội phạm chưa hoàn thành, lý
giải cơ sở của việc phân chia tội phạm hoàn thành và tội phạm chưa hoàn
thành, các nguyên tắc và nội dung trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
trong giai đoạn này, cũng như phân tích và giải quyết các vấn đề cùng một lúc
xung quanh cả hai giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt.
3. Mục đích, phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, bản
chất và các đặc điểm cơ bản của tội phạm chưa hoàn thành nói chung, giai
đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt nói riêng, đánh giá thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự về tội phạm chưa hoàn thành, qua đó, đề xuất hoàn
thiện Bộ luật hình sự Việt Nam về tội phạm chưa hoàn thành.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu của luận văn gồm nghiên cứu, giải quyết một số
vấn đề xung quanh tội phạm chưa hoàn thành trong luật hình sự Việt Nam -
12
khái niệm, các dấu hiệu pháp lý và trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa
hoàn thành, kết hợp nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng pháp luật hình sự
trong thực tiễn đối với tội phạm chưa hoàn thành thông qua các báo cáo tổng
kết, chuyên đề của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, cũng như thông
qua một số bản án hình sự điển hình.
3.3. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự
Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, về công tác đấu
tranh, phòng chống các loại tội phạm, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện
trong các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI và Nghị quyết số 08/NQ-TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công
tác tư pháp trong thời gian tới", và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW
ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị "Về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020", Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/06/2005 của Bộ Chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020",
cũng như các công trình khoa học của các nhà khoa học, luật gia trong và
ngoài nước.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể của khoa học luật hình sự
như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, đối chiếu; v.v… Từ đó, có
13
sự tổng hợp kiến thức, rút ra những đánh giá, kết luận và đề xuất các kiến
nghị, giải pháp hoàn thiện liên quan đến tội phạm chưa hoàn thành để các nhà
làm luật nước ta có thêm tư liệu tham khảo sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự
Việt Nam.
5. Những điểm mới về mặt khoa học và đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu độc lập dựa trên kết quả tìm hiểu,
tra cứu, phân tích, lập luận, làm rõ về mặt lý luận một số vấn đề về tội phạm
chưa hoàn thành như: khái niệm, các dấu hiệu khách quan, chủ quan, làm rõ
các nội dung về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, để từ đó có thể đưa ra
những kiến giải lập pháp và mô hình khoa học về tội phạm chưa hoàn thành
(chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt).
Ngoài ra, về mặt thực tiễn, luận văn nghiên cứu, làm sáng tỏ bức
tranh khái quát về tình hình tội phạm chưa hoàn thành trong đời sống xã
hội thông qua các báo cáo tổng kết, chuyên đề của các cơ quan bảo vệ pháp
luật và Tòa án, cũng như thông qua đánh giá các bản án hình sự. Ngoài ra,
luận văn còn làm sáng tỏ một số tồn tại, bất cập trong quá trình áp dụng
pháp luật trong thực tiễn. Vì vậy, luận văn còn có ý nghĩa chính trị, xã hội
và pháp lý quan trọng trong việc đánh giá mức độ thực hiện tội phạm. Bởi vì
xác định đúng sự kiện thực hiện tội phạm do cố ý sẽ có cơ sở cho việc xác
định phạm vi mà mức độ trách nhiệm hình sự một cách có căn cứ và đúng
pháp luật. Từ đó, giúp cho cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án xác định
đúng trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt một cách có căn cứ đầy đủ,
đúng pháp luật.
Bên cạnh đó, luận văn là tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích cho các
nhà nghiên cứu, các nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên đại học ở
các cơ sở đào tạo về luật trong cả nước, cũng như phục vụ việc sửa đổi, bổ
sung Bộ luật hình sự Việt Nam sắp tới.
14
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội phạm chưa hoàn thành theo
luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành
theo Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam về tội phạm chưa hoàn thành và những kiến nghị hoàn thiện.
15
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ PHÂN CHIA CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN
TỘI PHẠM
1.1.1. Khái niệm các giai đoạn thực hiện tội phạm
Khoa học luật hình sự trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng,
đa phần đều phân biệt các giai đoạn phạm tội, như là cách thức để nhận biết
dấu hiệu của từng thời điểm mà tội phạm thực hiện.
Trong khoa học luật hình sự Liên bang Nga thể hiện qua các quan
điểm nổi bật đã được GS.TSKH. Lê Văn Cảm tổng kết trong Sách chuyên khảo
Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005 về khái niệm đang nghiên cứu như sau:
1) Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các giai đoạn chuẩn bị và trực tiếp thực
hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với nhau theo tính chất (nội dung) của
hành vi đã được thực hiện và thời điểm chấm dứt xử sự có tính chất tội phạm
(B.V.Zđravômưxlôv); 2) Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các giai đoạn
nhất định của việc chuẩn bị và thực hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với
nhau theo tính chất của những hành vi được thực hiện và thời điểm chấm dứt
hành vi ấy (X.G.Kelina); 3) Các giai đoạn của việc chuẩn bị và trực tiếp thực
hiện tội phạm được quy định trong luật và được phân biệt với nhau theo tính
chất và nội dung của hành vi người phạm tội thực hiện, cũng như mức độ kết
thúc hành vi phạm tội (Ê.F.Pobegailô)... [8, tr. 440-441].
Còn trong khoa học luật hình sự Việt Nam, các nhà khoa học luật hình
sự, về cơ bản, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu và đưa ra các quan điểm khác
nhau về tội phạm chưa hoàn thành và nói chung đều thừa nhận chỉ những tội
16
phạm do phạm tội cố ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó, bằng ý chí
chủ quan của mình quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng thì mới có các giai
đoạn phạm tội.
GS.TSKH. Lê Văn Cảm viết:
Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước phát triển theo
một trình tự nhất định mà tội phạm trải qua, được thể hiện bằng
việc thực hiện các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội
phạm tương ứng và bằng mức độ khác nhau của việc thể hiện sự cố
ý phạm tội của chủ thể [8, tr. 441].
Hay tác giả Trần Văn Đượm lại đưa ra quan điểm tương tự và liệt kê
các giai đoạn cố ý thực hiện tội phạm là "các bước trong quá trình thực hiện
tội phạm bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn
thành" [Dẫn theo 44, tr. 176].
Hay gần đây, TS. Trịnh Tiến Việt quan niệm: "Các giai đoạn phạm tội
được hiểu là những bước trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý, phản ánh
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ở từng thời điểm, bao gồm:
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [56, tr. 156]; v.v...
Nói chung, từ những quan điểm nêu trên, chúng ta có thể rút ra những
điểm chung cơ bản của các giai đoạn thực hiện tội phạm là chỉ ở các tội cố ý,
người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước được hậu quả của hành vi đó, người phạm tội bằng ý chí chủ quan của
mình quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng thì mới có các giai đoạn phạm
tội. Từ đó cũng có thể hiểu, các giai đoạn thực hiện tội phạm không có trong
tội phạm vô ý, bởi trong tội phạm vô ý người phạm tội không nhận thức được
hành vi nguy hiểm cho xã hội, không thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho
xã hội của hành vi đó và cũng không mong muốn cho hậu quả nguy hiểm cho
xã hội bởi hành vi đó.
17
Như vậy, trong phạm tội cố ý, có hai hình thức lỗi (hay còn gọi là hai
dạng) cố ý là cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Như vậy vấn đề đặt ra cho các
giai đoạn thực hiện tội phạm là hình thức lỗi cố ý trực tiếp hay hình thức lỗi
cố ý gián tiếp, hay chung cho cả hai hình thức lỗi cố ý. Hầu hết các nhà hình
sự học, luật gia cho rằng các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ đặt ra với tội
phạm thực hiện với hình thức lỗi cố ý trực tiếp... [3, tr. 223]. Lý giải cho quan
điểm này, các tác giả đều cho rằng, ở lỗi cố ý trực tiếp người phạm tội khi
thực hiện một loạt hành vi như chuẩn bị công cụ, phương tiện, vạch kế hoạch,
bàn bạc, rủ rê, lôi kéo người khác tham gia; v.v… và tiến hành thực hiện hành
vi phạm tội. Do đó, người phạm tội không thể không nhận thức được hậu quả
nguy hiểm cho xã hội của hành vi thực hiện, không thể không mong muốn
cho hậu quả xảy ra.
Cũng có trường hợp đối với những tội có cấu thành hình thức bằng
không hành động, mặc dù có lỗi cố ý trực tiếp cũng không có hành vi chuẩn bị
phạm tội và phạm tội chưa đạt. Ví dụ: Tội không tố giác tội phạm (Điều 314
Bộ luật hình sự); Tội cố ý không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy
hiểm đến tính mạng (Điều 107 Bộ luật hình sự); v.v...
Cũng có một số quan điểm cho rằng người phạm tội với hình thức lỗi
cố ý gián tiếp cũng trải qua các giai đoạn thực hiện tội phạm.
Cũng trường hợp phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, người
phạm tội có lỗi cố ý gián tiếp cũng có ý thức lựa chọn một xử sự
phạm tội. Những gì nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra ở trường hợp
phạm tội cố ý gián tiếp là những điều tuy chủ thể không nhằm tới
nhưng họ chấp nhận việc nó xảy ra. Khi điều đó chưa xảy ra, chúng
ta vẫn có thể và cần phải đặt vấn đề trách nhiệm hình sự đối với họ,
vì việc không xảy ra là do nguyên nhân khách quan, còn chủ quan
người phạm tội vẫn sẵn sàng chấp nhận việc nó xảy ra. Ngoài ra, về
mặt thực tiễn, hiện nay chúng ta đã gặp những vụ việc đòi hỏi cần
18
xét xử về hình sự và việc xét xử này chỉ có thể thực hiện được trên
cơ sở thừa nhận nguyên tắc: Các giai đoạn thực hiện tội phạm và
trách nhiệm hình sự đối với các giai đoạn phạm tội được đặt ra cho
cả trường hợp phạm tội cố ý gián tiếp [19, tr. 68-69].
Do đó, việc đặt ra cho các giai đoạn thực hiện tội phạm với hình thức
lỗi cố ý gián tiếp là chưa thật chính xác, bởi vì trong tội phạm do lỗi cố ý gián
tiếp, người phạm tội không nhận thức trước được hậu quả nguy hiểm cho xã
hội, không mong muốn hậu quả xảy ra, nên không thể có các giai đoạn chuẩn
bị phạm tội cũng như phạm tội chưa đạt.
Bộ luật hình sự Việt Nam quy định các giai đoạn thực hiện tội phạm
bao gồm: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Tuy
nhiên, Bộ luật hình sự cũng chỉ nêu chuẩn bị phạm tội tại Điều 17, phạm tội
chưa đại tại Điều 18, còn tội phạm hoàn thành không quy định thành một điều
luật cụ thể mà được phản ánh thông qua nội dung của 276 tội danh trong Phần
các tội phạm Bộ luật này. Trong đó, chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu tiên
của các giai đoạn thực hiện tội phạm và là giai đoạn có ảnh hưởng lớn đến kết
quả phạm tội. Các giai đoạn kế tiếp là phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn
thành. Có thể nói việc quy định cách phân chia các giai đoạn thực hiện tội
phạm như vậy, thể hiện tính hợp lý cao về khoa học và thực tiễn. Điều 2 Bộ
luật hình sự quy định: "Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự
quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự" [32]. Như vậy, việc quy định rõ
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt trong Bộ luật hình sự là cơ sở để xác
định mức độ và tính chất của hành vi nguy hiểm cho xã hội, từ đó làm cơ sở
cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự một cách chính xác, hợp tình, hợp lý,
bảo đảm sự chặt chẽ trong quyết định hình phạt, thể hiện được các nguyên tắc
pháp chế và công bằng, để Tòa án đưa ra được các quyết định hình phạt một
cách công minh, chính xác, không để lọt tội phạm và người phạm tội, nhưng
cũng không làm oan người vô tội.
19
Ngoài ra, thực tiễn xét xử ở nước ta từ trước đến nay hầu hết chỉ thừa
nhận các giai đoạn thực hiện tội phạm do lỗi cố ý mà không đặt ra vấn đề các
giai đoạn thực hiện tội phạm đối với lỗi cố ý trực tiếp, bởi vì trong tội phạm
do lỗi cố ý gián tiếp người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra, thờ ơ,
bàng quan với hậu quả xảy ra. Hậu quả xảy ra không phải là mục đích của
người phạm tội.
Như vậy, chúng ta có thể đưa ra khái niệm đang nghiên cứu như sau:
Các giai đoạn phạm tội là các bước của quá trình thực hiện tội phạm do cố ý
(trực tiếp) do luật hình sự quy định, phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội ở từng thời điểm khác nhau, bao gồm chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành.
Từ khái niệm nêu trên, chúng ta có thể nêu lên những đặc điểm chính
của các giai đoạn thực hiện tội phạm như sau:
- Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước, các giai đoạn phát
triển nhất định mà tội phạm trải qua gồm: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt và tội phạm hoàn thành.
- Các giai đoạn thực hiện tội phạm được quy định trong luật hình sự.
- Các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ được đặt ra đối với tội phạm
thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp.
- Các giai đoạn thực hiện tội phạm phản ánh tính chất và mức độ nguy
hiểm khác nhau của hành vi phạm tội ở từng thời điểm trong quá trình thực
hiện tội phạm (chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành).
1.1.2. Cơ sở phân chia các giai đoạn thực hiện tội phạm
Trên thế giới, khoa học luật hình sự vẫn còn nhiều quan điểm khác
nhau về sự phân chia các giai đoạn tội phạm. GS.TS. Nguyễn Niên trong cuốn
sách chủ biên "Những vấn đề cơ bản về tội phạm trong luật hình sự Việt
Nam", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1986 đã tổng kết như sau:
20
Trong khoa học luật hình sự Liên Xô cũ, A.A. Gertsendon
chỉ ra rằng, có 5 giai đoạn phạm tội: 1) Giai đoạn hình thành ý định;
2) Giai đoạn biểu lộ ý định; 3) Giai đoạn chuẩn bị phạm tội; 4) Giai
đoạn phạm tội chưa đạt; 5) Giai đoạn hoàn thành tội phạm. Trong
cuốn "Giáo trình luật hình sự Xô Viết", A.A Piontkovski không
công nhận hình thành ý định là một giai đoạn của quá trình phạm
tội, mà coi giai đoạn biểu lộ ý định là giai đoạn đầu tiên. Giáo sư
N.D.Durmanjev lại cho rằng chỉ có ba giai đoạn phạm tội: 1) Chuẩn
bị phạm tội; 2) Phạm tội chưa đạt; 3) Tội phạm hoàn thành. Hầu hết
các giáo trình luật hình sự của Liên Xô cũ đều chia ba giai đoạn như
vậy; v.v... [28, tr. 119].
Còn ở Việt Nam, trước đây, vấn đề này đã được đặt ra từ thế kỷ XV
trong Bộ luật Hồng Đức của triều Lê. Tuy nhiên, do hạn chế về mặt kỹ thuật
lập pháp, vấn đề này không được đề cập một cách rõ ràng. Nó được thể hiện
qua các điều luật cụ thể và có thể rút ra bốn giai đoạn là: Âm mưu phạm tội;
chuẩn bị phạm tội; phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Ở Bộ luật
Hồng Đức, chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt được gọi bằng tên khác,
được quy định thành những tội phạm cụ thể, có cấu thành tội phạm cụ thể và
những hình phạt riêng.
Trong khi đó, hiện nay, ở nước ta có hai quan điểm chính về cách
phân chia số lượng các giai đoạn thực hiện tội phạm.
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, các giai đoạn thực hiện tội phạm bao
gồm: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Trong
đó, GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa cho rằng "Các giai đoạn thực hiện tội phạm là
các mức độ thực hiện tội phạm cố ý, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [19, tr. 66]. Có cùng quan điểm về cách
phân chia số lượng các giai đoạn thực hiện tội phạm, TS. Trịnh Tiến Việt
cũng đưa ra khái niệm như sau: "Các giai đoạn phạm tội là những bước trong
21
quá trình thực hiện tội phạm do cố ý và bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [55, tr. 25]; v.v... Quan điểm này cũng đã
được ghi nhận trong cả Phần chung và Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.
Ở Phần chung Bộ luật hình sự quy định các trường hợp tội phạm chưa hoàn
thành: Chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt (Điều 17 và Điều 18); trong
Phần các tội phạm quy định trường hợp tội phạm hoàn thành. Người phạm tội
nếu thực hiện hết các hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm ở Phần các
tội phạm thì khi đó tội phạm đã hoàn thành. Nếu khi người phạm tội chỉ thực
hiện được một hay một số hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm ở
Phần các tội phạm (hậu quả chưa xảy ra và việc không thực hiện được đến
cùng là do nguyên nhân khách quan), thì khi đó tội phạm được coi là chưa
hoàn thành.
- Quan điểm thứ hai lại cho rằng, các giai đoạn thực hiện tội phạm
gồm có hai giai đoạn là chuẩn bị phạm tội và thực hiện tội phạm. Còn phạm
tội chưa đạt và phạm tội hoàn thành chỉ là trường hợp riêng biệt của giai đoạn
thực hiện tội phạm, chứ không thể coi là những giai đoạn chính thức được.
Trong trường hợp phạm tội chưa đạt, người phạm tội chưa thực hiện được tội
phạm đến cùng hoặc có thể thực hiện tội phạm đến cùng nhưng kết quả mong
muốn không đạt được. Còn trong trường hợp tội phạm hoàn thành, người
phạm tội đã thực hiện được đầy đủ mọi hành vi phạm tội và đạt được kết quả
mong muốn. Như vậy, quan điểm này cho rằng, rõ ràng là phạm tội chưa đạt
và tội phạm hoàn thành chỉ là những trường hợp riêng biệt của quá trình thực
hiện tội phạm [16, tr. 117]; v.v...
Theo chúng tôi, quan điểm thứ nhất được ghi nhận trong Bộ luật hình
sự hiện hành, cụ thể hơn và sát thực tế hơn. Có thể nói đây là quan điểm phù
hợp với diễn biến khách quan của quá trình phạm tội; phù hợp với yêu cầu
đấu tranh chống tội phạm của Nhà nước; quan điểm này đồng thời đảm bảo sự
chính xác trong phân hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt, từ đó bảo vệ được
22
quyền tự do của công dân, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không
làm oan người vô tội.
Trong thực tiễn, không phải tất cả trường hợp người phạm tội đều tiến
hành tất cả các giai đoạn từ chuẩn bị phạm tội, đến phạm tội chưa đạt và tội
phạm hoàn thành. Nếu tội phạm được thực hiện tuần tự từ giai đoạn đầu đến
giai đoạn cuối thì có nghĩa tội phạm đã hoàn thành. Có những trường hợp sau
khi có ý định phạm tội, người phạm tội lập tức thực hiện ngay ý định mà
không có sự chuẩn bị gì hết (không trải qua giai đoạn chuẩn bị phạm tội).
Hoặc có trường hợp người phạm tội mới bắt tay vào chuẩn bị công cụ phương
tiện phạm tội hay tạo ra những điều kiện thuận lợi khác để thực hiện tội phạm
thì bị bắt giữ. Hoặc người phạm tội sau khi đã tạo ra được nhiều điều kiện cần
thiết để thực hiện tội phạm và đã bắt tay vào thực hiện tội phạm nhưng lại
không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân khách quan (hậu quả
không xảy ra); v.v...
Ở Việt Nam hiện nay, luật hình sự không quy định việc biểu lộ ý định
phạm tội là một giai đoạn phạm tội. Tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự quy
định: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội…" [32]. Như vậy, những gì
không phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội thì không phải là tội phạm. Ý
định phạm tội là những suy nghĩ, tính toán hình thành trong đầu óc con người.
Ý định phạm tội chỉ thể hiện ra bên ngoài và có khả năng gây ra nguy hiểm
cho xã hội khi người đó thực hiện hành vi. Khi ý định chưa thể hiện ra bằng
hành vi thì nó vẫn nằm trong đầu óc con người, chưa tác động đến thế giới
khách quan, vì vậy nó chưa có khả năng gây ra những nguy hiểm cho xã hội.
Biểu lộ ý định phạm tội là việc thể hiện ý định ra ngoài bằng lời nói, chữ viết,
cử chỉ, điệu bộ... có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp (như đe dọa). Ý định có thể
có hai chiều hướng: hoặc có thể được suy nghĩ, tính toán thêm để quyết định
thể hiện ra bên ngoài bằng hành động, hoặc có thể bị thay đổi, từ bỏ vì
nguyên nhân nào đó (khách quan hoặc chủ quan). Như vậy, ý định phạm tội
chưa biết có được thực hiện trong thực tế hay không. Tóm lại, ý định chưa
23
được thể hiệu ra ngoài bằng lời nói, chữ viết, cử chỉ, điệu bộ… thì không phải
là hành vi nguy hiểm cho xã hội, mà không phải là hành vi nguy hiểm cho xã
hội thì không phải là tội phạm. Tuy nhiên, trong thời kỳ chiến tranh ở nước ta,
cũng có những trường hợp đặc biệt, do yêu cầu đấu tranh chống tội phạm của
Nhà nước và do tính chất quan trọng của khách thể tội phạm nên có thời
điểm, Nhà nước ta quy định đối với các tội phản cách mạng thì chỉ cần có
"âm mưu phạm tội" cũng bị trừng trị, ví dụ: "Âm mưu phạm tội và hành động
phạm tội đều bị trừng trị" (Điều 2, Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng
ngày 30/6/1967) [39, tr. 25]. Bởi vì, các nhà làm luật cho rằng khi đã có âm
mưu thì ý thức chống đối của người phạm tội không nằm trong lĩnh vực tư
tưởng nữa. Trong giai đoạn hiện nay, do tình hình chính trị đã thay đổi nên
trong pháp luật hình sự Việt Nam, quy định này đã bị bãi bỏ và được thay
bằng quy định "hoạt động nhằm lật đổ" trong tội hoạt động nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân (Điều 79 Bộ luật hình sự), "đe dọa" trong tội đe dọa giết
người (Điều 103 Bộ luật hình sự).
Từ những quan điểm nêu trên và theo quy định trong Bộ luật hình sự
Việt Nam hiện hành, cũng như việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn, chúng
ta có thể nhận định: Cơ sở để phân chia các giai đoạn thực hiện tội phạm
chính là tính chất của những hành vi được thực hiện với hình thức lỗi cố ý và
thời điểm kết thúc những hành vi đó.
1.2. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC GIAI ĐOẠN
TRONG TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH
1.2.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của tội phạm chƣa hoàn thành
Cho đến nay, pháp luật hình sự Việt Nam chưa ghi nhận nội dung về
khái niệm về tội phạm chưa hoàn thành, mà chỉ đưa ra khái niệm pháp lý về
hai giai đoạn của tội phạm chưa hoàn thành là chuẩn bị phạm tội và phạm tội
chưa đạt (Điều 17, 18 Bộ luật hình sự) và là giai đoạn riêng, độc lập so với tội
phạm hoàn thành.
24
Ngoài ra, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, quan điểm của
GS.TSKH. Lê Văn Cảm đưa ra khá phù hợp với những giai đoạn thực hiện tội
phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam: "Tội phạm chưa hoàn
thành là hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt" [7, tr. 7], kèm theo
đó là trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành.
Chúng tôi cho rằng, việc ghi nhận khái niệm đầy đủ về tội phạm chưa
hoàn thành trong luật hình sự là điều cần thiết. Đó là cơ sở để phân biệt giữa
tội phạm chưa hoàn thành với tội phạm hoàn thành. Đồng thời qua đó còn làm
rõ cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội, cũng như việc quy định trách
nhiệm hình sự đối với từng giai đoạn thực hiện tội phạm.
Trên cơ sở đó, chúng ta có thể đưa ra khái niệm đang nghiên cứu như
sau: Tội phạm chưa hoàn thành là hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội
chưa đạt, diễn ra trước giai đoạn tội phạm hoàn thành và người phạm tội
phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự trên những
cơ sở chung.
Từ khái niệm nêu trên, chúng ta có thể chỉ ra các đặc điểm cơ bản của
tội phạm chưa hoàn thành như sau:
- Tội phạm chưa hoàn thành bao gồm hai giai đoạn phạm tội độc lập
nhưng có mối quan hệ gắn bó với nhau là giai đoạn chuẩn bị phạm tội và
phạm tội chưa đạt.
- Việc thực hiện tội phạm chưa hoàn thành là do những nguyên nhân
khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội.
- Tội phạm chưa hoàn thành chỉ đặt ra đối với các tội được thực hiện
với lỗi cố ý trực tiếp.
- Trách nhiệm hình sự đặt ra với giai đoạn phạm tội chưa hoàn thành
nhẹ hơn trách nhiệm hình sự áp dụng đối với trường hợp phạm tội hoàn thành.
- Tội phạm chưa hoàn thành phải diễn ra trước giai đoạn tội phạm
hoàn thành.
25
1.2.2. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và ý nghĩa của chuẩn bị
phạm tội
* Khái niệm
Điều 17 Bộ luật hình sự Việt Nam quy định như sau: "Chuẩn bị phạm
tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện
khác để thực hiện tội phạm" [32]. Như vậy, chuẩn bị phạm tội là giai đoạn
đầu tiên của quá trình thực hiện tội phạm do cố ý. Người phạm tội từ chỗ có ý
định phạm tội, bằng ý thức chủ quan của mình đã nẩy sinh ý định thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội, từ đó dẫn đến bước (hay còn gọi là giai đoạn)
chuẩn bị phạm tội. Có thể hiểu, chuẩn bị phạm tội là chuẩn bị sẵn những điều
kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm cụ thể. Các hành vi như tìm kiếm,
sửa soạn công cụ, phương tiện, tìm kiếm đồng phạm, cấu kết với nhau; v.v...
Như vậy, chuẩn bị phạm tội là chưa thực hiện hành vi cấu thành tội
phạm (trừ một số trường hợp đặc biệt), đó là hành vi chưa tác động trực tiếp
đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, do đó, nó chưa trực tiếp gây
nguy hại cho khách thể của luật hình sự, nhưng lại là tiền đề, điều kiện thuận
lợi để tội phạm xảy ra một cách dễ dàng.
Trong quy định tại Bộ luật hình sự, các nhà làm luật đã định nghĩa
ngắn gọn, tương đối rõ ràng về giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Tuy nhiên, dưới
góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm đang nghiên cứu có thể được định
nghĩa như sau: Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu tiên của quá trình thực
hiện tội phạm do cố ý trực tiếp, là khi một người tìm kiếm, sửa soạn công cụ,
phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm, tuy
nhiên vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội nên tội phạm
đã không được thực hiện đến cùng.
* Các đặc điểm cơ bản
Theo khái niệm trên đây, chúng ta thấy chuẩn bị phạm tội bao hàm cả
nội dung thể hiện các đặc điểm cơ bản trên phương diện khách quan và phương
diện chủ quan như sau.
26
Một là, về phương diện khách quan:
- Hành vi tìm kiếm công cụ, phương tiện để thực hiện tội phạm.
- Hành vi sửa soạn công cụ, phương tiện để thực hiện tội phạm.
- Tạo ra những điều kiện thuận lợi khác để thực hiện tội phạm.
Chúng ta có thể hiểu, lý giải cụ thể về mặt khách quan nêu trên như sau:
Công cụ phạm tội là bất kỳ vật gì, như súng, đạn, dao, kéo… mà các vật
này có thể dùng được để trực tiếp tác động vào khách thể hoặc đối tượng của
tội phạm. Còn phương tiện phạm tội là máy móc, đồ vật được sử dụng nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm như ô tô, xe máy, máy kéo…
Tìm kiếm công cụ, phương tiện phạm tội là dùng bất kỳ cách thức,
phương pháp, thủ đoạn như xin, mua, mượn, trộm cắp… để có được công cụ,
phương tiện cho việc thực hiện tội phạm.
Sửa soạn công cụ, phương tiện để thực hiện tội phạm là việc người
phạm tội tự chế tạo công cụ, phương tiện phạm tội, sửa sang, tân trang, thay
đổi hình dạng, kích thước công cụ, phương tiện nhằm giúp cho việc thực hiện
tội phạm được thuận lợi hoặc che giấu tội phạm, người phạm tội.
Tạo ra những điều kiện thuận lợi khác để thực hiện tội phạm là những
hành vi khác nhau (không phải là các hành vi đã nêu trên) như lôi kéo, rủ rê,
tạo băng nhóm, nghiên cứu địa hình, lập kế hoạch phạm tội…
Để chuẩn bị cho việc thực hiện tội phạm, người phạm tội có thể thực
hiện một hay một số hành vi nêu trên, tùy thuộc vào từng loại tội phạm, từng
loại khách thể định xâm hại. Hành vi tìm kiếm sửa soạn công cụ, phương tiện
là hành vi chuẩn bị phổ biến nhất so với các hành vi chuẩn bị khác. Hầu hết
các hành vi tìm kiếm, sửa soạn được thực hiện dưới dạng hành động, chỉ một
số ít thực hiện dưới dạng không hành động.
Ví dụ: A đi xe máy ra đường va quệt với B, sau khi lời qua tiếng lại, A
đã về nhà chuẩn bị một con dao, mài sắc dự tính cho B một bài học. Để có
27
tiền tiêm chích ma túy, C đã nhiều lần thăm dò nhà hàng xóm để biết được
sinh hoạt của nhà hàng xóm, nhằm trộm cắp xe máy của nhà hàng xóm…
Những hành vi trên như là hành động nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc
phạm tội, chứ chưa trực tiếp xâm hại đến việc giết người hay trộm cắp tài sản.
Trong mặt khách quan, về nguyên tắc, hành vi chuẩn bị phạm tội là
hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, tính chất và mức độ nguy hiểm
không cao như giai đoạn phạm tội chưa đạt hay tội phạm hoàn thành. Hành vi
đó chưa tác động trực tiếp đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ,
chưa trực tiếp gây nguy hại cho khách thể của luật hình sự, nhưng lại là tiền
đề, điều kiện thuận lợi để tội phạm xảy ra một cách dễ dàng, nhanh chóng và
nó đã thực sự nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
chuẩn bị phạm tội được quyết định bởi khách thể của tội phạm, thời gian giữa
hành vi chuẩn bị phạm tội và thời điểm bắt đầu thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội được mô tả trong cấu thành tội phạm, mức độ chuẩn bị… Trên
thực tế, có những khách thể của tội phạm, do tính chất đặc biệt quan trọng cho
nên chỉ cần có hành vi chuẩn bị phạm tội sẽ gây nguy hại rất lớn cho xã hội.
Vì vậy, những trường hợp này pháp luật hình sự nước ta quy định nó hoàn
thành ngay khi có hành vi chuẩn bị phạm tội.
Ví dụ: Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79 Bộ
luật hình sự, theo đó, ở tội này chỉ cần có hành vi hoạt động thành lập tổ chức
được thực hiện bằng một số hành vi: đề xướng chủ trương, viết cương lĩnh,
điều lệ; v.v..., đường lối hoạt động của tổ chức, tuyên truyền lôi kéo, tập hợp
người vào tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân thì tội phạm hoàn thành.
Mặc dù, khi phân tích những hành vi thuộc mặt khách quan của tội này thì rõ
ràng đó là những hành vi chuẩn bị phạm tội, mang tính "chuẩn bị" chứ chưa
phải là tội phạm hoàn thành.
Hai là, về phương diện chủ quan:
Chuẩn bị phạm tội là hành vi chỉ được thể hiện dưới hình thức lỗi cố ý
trực tiếp. Khi đó, người phạm tội nhận thức được những hành vi đang tiến
28
hành nhằm chuẩn bị cho việc thực hiện tội phạm, biết được được hậu quả
nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra nếu tội phạm được thực hiện và mong
muốn cho hậu quả đó xảy ra. Động cơ, mục đích và hành vi của người thực
hiện hành vi chuẩn bị phạm tội là thống nhất và rõ ràng nhằm đi đến mục tiêu
là thực hiện trọn vẹn hành vi phạm tội sau đó.
Từ các dấu hiệu trên ta nhận thấy hành vi (giai đoạn) chuẩn bị phạm
tội có các đặc điểm sau:
- Chuẩn bị phạm tội là hành vi tạo điều kiện cần thiết cho việc thực
hiện tội phạm.
- Chuẩn bị phạm tội chưa chứa đựng dấu hiệu thuộc mặt khách quan
của tội phạm, chưa phải hành vi được quy định trong cấu thành tội phạm ở
phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.
- Hành vi đó chưa trực tiếp xâm hại khách thể hoặc đối tượng mà kẻ
phạm tội nhằm xâm hại tới.
- Hành vi chuẩn bị phạm tội bao giờ cũng diễn ra trước khi tội phạm
được thực hiện. Giai đoạn này diễn ra trong thời gian ngắn hay dài phụ thuộc
rất lớn vào khách thể của tội phạm mà người chuẩn bị phạm tội nhắm tới,
động cơ, mục đích của việc phạm tội, công cụ, phương tiện, phạm tội có phức
tạp hay không… Nếu công cụ, phương tiện phạm tội là những thứ dễ tìm kiếm
như dao, búa…, động cơ thôi thúc mãnh liệt thì hành vi chuẩn bị phạm tội diễn
ra trong thời gian rất ngắn. Nhưng nếu công cụ, phương tiện phạm tội là những
thứ khó tìm kiếm như súng đạn, dùi cui…, hay để tạo ra nó cần mất nhiều thời
gian, việc xâm phạm khách thể của tội định phạm cần có nhiều người cùng
tham gia thì hành vi chuẩn bị phạm tội diễn ra trong một thời gian dài hơn.
Lưu ý, hành vi chuẩn bị phạm tội khác với hành vi thực hiện tội phạm.
Có nhiều trường hợp rất dễ bị nhầm lẫn giữa hành vi chuẩn bị phạm tội và
hành vi thực hiện tội phạm vì ranh giới của nó rất nhỏ. Nếu việc tạo điều kiện
để thực hiện tội phạm được tiến hành trước khi thực hiện tội phạm một thời
29
gian dài thì đó là giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Nhưng nếu việc tạo điều kiện
để thực hiện tội phạm được tiến hành ngay trước khi tội phạm bắt đầu thì
hành vi đó chỉ được coi là một bước của giai đoạn thực hiện tội phạm.
Ví dụ: Hai người đi đường đâm vào nhau gây tai nạn giao thông, sau đó
tranh cãi, xô xát. Một trong hai người nhặt cục đá ven đường ném mạnh vào đầu
người kia dẫn đến bị thương nặng ở đầu. Hành vi đó phải tính là một bước của
giai đoạn thực hiện tội phạm, chứ không thể coi là hành vi chuẩn bị phạm tội.
Trên thực tế, có những hành vi chuẩn bị phạm tội không chỉ cấu thành
một tội phạm chưa hoàn thành, mà hành vi đó còn có đầy đủ các dấu hiệu của
một (hay nhiều) tội phạm hoàn thành khác.
Ví dụ: A có thù oán với B, nên có ý định giết B. Để chuẩn bị giết B, A đã
tìm mua trái phép súng quân dụng. Trong lúc chờ thời cơ giết B, tên này đã cất
giấu súng một thời gian. Như vậy, A đã phạm tội giết người ở giai đoạn chuẩn bị
phạm tội và đồng thời A còn phạm tội mua bán, vận chuyển, tàng trữ vũ khí quân
dụng ở giai đoạn hoàn thành. Trong trường hợp này, A phải chịu trách nhiệm
hình sự của tội giết người chưa hoàn thành, đồng thời phải chịu trách nhiệm hình sự
của tội mua bán, vận chuyển, tàng trữ vũ khí quân dụng ở giai đoạn hoàn thành.
* Ý nghĩa của giai đoạn chuẩn bị phạm tội
Chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn trong các giai đoạn thực hiện tội
phạm, nó xuất hiện sau khi người phạm tội nảy sinh ý định thực hiện tội
phạm. Chuẩn bị phạm tội cũng là giai đoạn đầu tiên của quá trình người phạm
tội trải qua việc thực hiện tội phạm.
Mặc dù chuẩn bị phạm tội chưa thực hiện hành vi được mô tả trong
cấu thành tội phạm (trừ một số trường hợp đặc biệt), chưa tác động trực tiếp
đến các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, nhưng đó là giai đoạn
chuẩn bị sẵn những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm cụ thể và
cũng là tiền đề để tội phạm xảy ra một cách dễ dàng, nhanh chóng, từ đó thực
hiện các bước tiếp theo của các giai đoạn thực hiện tội phạm.
30
Có thể nó, việc đi sâu nghiên cứu về chuẩn bị phạm tội là rất cần thiết
và có ý nghĩa vô cùng quan trọng, mà qua đó xác định giai đoạn chuẩn bị
phạm tội và phạm tội chưa đạt có ý nghĩa rất quan trọng trong việc truy cứu
trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt [40].
Trong Bộ luật hình sự hiện hành, nhà làm luật nước ta chỉ quy định các
cấu thành tội phạm tương ứng với các tội phạm đã hoàn thành, mà không quy
định các cấu thành tội phạm tương ứng với giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Do vậy,
việc xác định đúng giai đoạn chuẩn bị phạm tội là cơ sở cho việc định tội.
Việc xác định đúng giai đoạn chuẩn bị phạm tội là căn cứ để xác định
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội. Ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội thì
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội bao giờ cũng thấp hơn so với các giai
đoạn như phạm tội chưa đạt hay tội phạm hoàn thành.
Việc xác định đúng giai đoạn chuẩn bị phạm tội có ý nghĩa quan trọng
trong quyết định hình phạt, qua đó, đảm bảo cho các cơ quan xét xử quyết
định hình phạt một cách công minh, đưa ra được quyết định hình phạt tương
xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với người phạm tội.
Tóm lại, việc đi sâu nghiên cứu về giai đoạn chuẩn bị phạm tội có ý
nghĩa quan trọng để đánh giá mức độ thực hiện tội phạm, từ đó đưa ra cơ sở
xác định phạm vi và mức độ trách nhiệm hình sự ở lĩnh vực lập pháp và áp
dụng hình phạt đối với những trường hợp cụ thể của giai đoạn chuẩn bị phạm
tội, cũng như các bước khác nhau của các giai đoạn thực hiện tội phạm trong
luật hình sự Việt Nam.
1.2.3. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và ý nghĩa của phạm tội
chƣa đạt
* Khái niệm
Điều 18 Bộ luật hình sự Việt Nam quy định: "Phạm tội chưa đạt là cố
ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên
31
nhân bên ngoài ý muốn của người phạm tội" [32]. Như vậy, về mặt lý luận,
chúng ta có thể hiểu, phạm tội chưa đạt là giai đoạn tiếp theo sau của giai
đoạn chuẩn bị phạm tội. Trong giai đoạn phạm tội chưa đạt, người phạm tội
sử dụng những điều kiện thuận lợi cần thiết đã chuẩn bị để thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội (được quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội
phạm), tuy nhiên, vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội
nên tội phạm đã không được thực hiện đến cùng.
Khái niệm về phạm tội chưa đạt đã manh nha xuất hiện vào năm 1970
khi trong bản tổng kết số 452-HS2, ngày 10/08/1970 của Tòa án nhân dân tối
cao về thực tiễn xét xử loại tội giết người, có giải thích: "Tội giết người chưa
hoàn thành khi người bị nạn chết, đối với trường hợp giết người nhưng không
chết, nên thống nhất gọi là "giết người chưa đạt" [39, tr. 27]. Đến năm 1985
thì khái niệm này đã được nêu ra tại khoản 2, Điều 15 (Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1985).
Như vậy, khái niệm phạm tội chưa đạt đã xuất hiện khá lâu trong lịch
sử pháp luật Việt Nam, được quy định trong Bộ luật hình sự các thời kỳ và
cũng đã được định nghĩa khá rõ ràng, đầy đủ. Do đó, dưới góc độ khoa học
luật hình sự, theo chúng tôi, khái niệm đang nghiên cứu có thể được định
nghĩa như sau: Phạm tội chưa đạt một giai đoạn trong quá trình thực hiện tội
phạm do cố ý trực tiếp, là khi một người đã thực hiện tội phạm, nhưng tội
phạm đã không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân khách quan
ngoài ý muốn của người đó.
* Các đặc điểm cơ bản
Từ khái niệm trên, chúng ta có thể thấy nội dung của phạm tội chưa
đạt được phản ánh thông qua các đặc điểm cơ bản bao gồm cả phương diện
khách quan và phương diện chủ quan như sau.
Một là, về phương diện khách quan.
32
- Từ chuẩn bị phạm tội (ở giai đoạn trước), người phạm tội đã bắt đầu
thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm, khách thể của tội
phạm đã bị đe dọa và bị xâm hại một cách trực tiếp. Ví dụ: Người phạm tội đã
thực hiện hành vi lấy cắp tài sản từ kho hàng của công ty, nhưng khi chưa kịp
đem ra khỏi công ty thì bị bảo vệ phát hiện, bắt giữ.
- Phạm tội chưa đạt có thể là hành động hoặc không hành động, tuy
nhiên phần lớn là hành động. Hành vi phạm tội chưa đạt đã tác động trong chừng
mực nhất định đã làm biến đổi các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
- Tội phạm không thực hiện đến cùng: Về hình thức, hành vi chưa
thỏa mãn đầy đủ những dấu hiệu của một cấu thành tội phạm tương ứng được
quy định trong từng tội phạm cụ thể, hoặc đã thỏa mãn nội dung cấu thành tội
phạm nhưng hậu quả nguy hiểm cho xã hội theo ý muốn của người phạm tội
chưa xảy ra. Hành vi đó chưa thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội. Hậu
quả chưa xảy ra hoặc đã xảy ra nhưng không như người phạm tội mong
muốn. Hành vi chưa thỏa mãn đầy đủ những dấu hiệu của một cấu thành tội
phạm tương ứng là điểm cơ bản để phân biệt phạm tội chưa đạt với tội phạm
hoàn thành. Những khả năng có thể xảy ra như sau:
+ Người phạm tội chưa thực hiện được hành vi khách quan, mà mới
chỉ thực hiện được hành vi đi liền trước hành vi khách quan được mô tả trong
mặt khách quan của cấu thành tội phạm.
+ Người phạm tội chưa thực hiện được đầy đủ nội dung hành vi khách
quan được mô tả trong cấu thành tội phạm. Người phạm tội mới chỉ thực hiện
được một phần hành vi hoặc thực hiện được một hành vi trong số các hành vi
được quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm.
+ Hậu quả chưa xảy ra dù người phạm tội đã thực hiện hết hành vi
được quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Hoặc đã gây ra
hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa phù hợp với hậu quả được quy
định trong cấu thành tội phạm.
33
+ Dù hậu quả thiệt hại đã xảy ra, nhưng không có mối quan hệ nhân
quả với hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm mà người
phạm tội thực hiện.
- Tội phạm không được thực hiện đến cùng là do những nguyên nhân
khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội: Những nguyên nhân dẫn đến
hậu quả chưa xảy ra hoặc không xảy ra là những nguyên nhân ngoài ý muốn
của người phạm tội. Trong giai đoạn phạm tội chưa đạt cũng có thời điểm bắt
đầu và thời điểm kết thúc. Thời điểm bắt đầu của hành vi phạm tội chưa đạt là
từ khi người phạm tội bắt đầu thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành
tội phạm hoặc hành vi đi liền trước đó. Thời điểm kết thúc là thời điểm người
phạm tội đang thực hiện hành vi phạm tội thì bị phát hiện, ngăn chặn hoặc đã
thực hiện xong hết hành vi nhưng hậu quả không xảy ra hoặc đã xảy ra nhưng
không đúng như mong muốn.
Việc xác định xem tội phạm đã bắt đầu thực hiện hay chưa cần dựa
vào khách thể của tội phạm, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, loại
hành vi, ý thức chủ quan của người phạm tội và từng loại cấu thành tội phạm.
Trong loại cấu thành tội phạm hình thức, hành vi đi liền trước hành vi khách
quan đã được quy định là hành vi bắt đầu thực hiện tội phạm được quy định
trong các cấu thành tội phạm tương ứng.
Hai là, về phương diện chủ quan.
- Phạm tội chưa đạt là hành vi được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp.
Mỗi hành vi được thực hiện đều có động cơ, mục đích riêng. Người phạm tội
nhận thức được hành vi mà mình thực hiện nguy hiểm cho xã hội, nhìn thấy
trước khả năng xảy ra hậu quả và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra nhưng
hậu quả đó đã không xảy ra như mong muốn.
Ví dụ: A đi làm về ban đêm, trên một đoạn đường vắng, nhìn thấy B
bị tai nạn giao thông do ngã xe máy, chấn thương rất nặng, nằm bất động. Do
sợ bị liên lụy, A không dừng xe để đưa B đi cấp cứu và để mặc B nằm đấy.
34
Trong trường hợp này, nếu B chết thì A sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo Điều 102 Bộ luật hình sự về tội không cứu giúp người khác đang ở trong
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, nhưng nếu sau đó B được một người tốt
bụng khác đưa đi cấp cứu thì B lại không phạm tội, vì điều luật quy định là
phải xảy ra hậu quả chết người.
* Các dạng phạm tội chưa đạt
Trong giai đoạn phạm tội chưa đạt, tùy từng trường hợp, tính chất,
mức độ phạm tội chưa đạt không giống nhau, vì thế, cần phân loại các dạng
phạm tội chưa đạt. Việc phân loại tội phân loại phạm tội chưa đạt có ý nghĩa
xác định mức độ nguy hiểm của phạm tội chưa đạt, làm cơ sở cho việc áp
dụng trách nhiệm hình sự đối với từng trường hợp cụ thể. Việc phân loại
phạm tội chưa đạt dựa trên những căn cứ khác nhau. Căn cứ vào mức độ thực
hiện hành vi mà người phạm tội dự định thực hiện, chúng ta có thể phân chia
thành hai dạng phạm tội chưa đạt là: phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và
phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.
Một là, phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Đây là trường hợp chưa
đạt về hành vi và cả chưa đạt về hậu quả. Là dạng phạm tội (chưa đạt) mà
người phạm tội cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện đến cùng do
những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội cũng
chưa thực hiện hết những hành vi dự định làm. Việc chấm dứt hành vi nằm
ngoài dự tính và trái với mong muốn của người phạm tội. Trường hợp này,
người phạm tội nhận thức rõ ràng rằng mình đã không thực hiện được tất cả
những hành vi cần thiết để hậu quả xảy ra.
Hai là, phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Ở trường hợp này, người
phạm tội đã thực hiện tất cả những hành vi mà họ cho là cần thiết để đạt được
mục đích mà họ dự định và mong muốn từ trước. Hành vi của người phạm tội
đã thỏa mãn đầy đủ nội dung của hành vi khách quan được mô tả trong cấu
thành tội phạm, nhưng do những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm
tội mà hậu quả của tội phạm chưa xảy ra.
35
Đây là dạng phạm tội chưa đạt mà người phạm tội cố ý thực hiện tội
phạm nhưng không thực hiện được đến cùng do những nguyên nhân ngoài
ý muốn của người phạm tội. Tuy nhiên, khác với dạng phạm tội chưa đạt
chưa hoàn thành, thì ở dạng này người phạm tội đã thực hiện hết hành vi dự
định làm.
Như vậy, có thể nói, dạng phạm tội chưa đạt đã hoàn thành có hành vi
rất gần với tội phạm hoàn thành, do vậy nó cũng mang tính nguy hiểm cho xã
hội cao hơn dạng phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Về mặt chủ quan, phạm
tội chưa đạt đã thành là cố ý thực hiện hành vi đến cùng. Về mặt khách quan,
phạm tội chưa đạt đã hoàn thành cũng đã thực hiện đầy đủ hành vi thỏa mãn
cấu thành tội phạm tương ứng trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự,
nó chỉ khác tội phạm hoàn thành ở hậu quả chưa xảy ra, hoặc đã xảy ra nhưng
không như mong muốn của người phạm tội.
* Ý nghĩa của giai đoạn phạm tội chưa đạt
Phạm tội chưa đạt là một giai đoạn trong các giai đoạn thực hiện tội
phạm, Đây là giai đoạn tiếp theo sau của giai đoạn chuẩn bị phạm tội và xảy
ra trước giai đoạn tội phạm hoàn thành. Trong giai đoạn này, người phạm tội
sử dụng những điều kiện thuận lợi cần thiết đã chuẩn bị (ở giai đoạn chuẩn
bị phạm tội có trước) để cố ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và đã
thực hiện các hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm (được quy định
trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm), tuy nhiên, vì những nguyên
nhân ngoài ý muốn của người phạm tội nên tội phạm đã không được thực
hiện đến cùng.
Việc đi sâu nghiên cứu về giai đoạn phạm tội chưa đạt là rất cần thiết
và có ý nghĩa vô cùng quan trọng, qua đó:
- Xác định đúng việc thực hiện tội phạm ở giai đoạn phạm tội chưa đạt
là căn cứ xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội. Hành vi ở giai
36
đoạn phạm tội chưa đạt bao giờ cũng nặng hơn giai đoạn chuẩn bị phạm tội và
nhẹ hơn giai đoạn tội phạm hoàn thành.
- Xác định giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và quyết định
hình phạt [40]. Do trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự không quy
định cụ thể về phạm tội chưa đạt nên việc xác định đúng giai đoạn này là cơ
sở cho việc định tội.
- Xác định đúng việc thực hiện tội phạm ở giai đoạn phạm tội chưa đạt
có ý nghĩa quan trọng trong quyết định hình phạt, đảm bảo cho các cơ quan
xét xử quyết định hình phạt một cách công minh, đưa ra được quyết định hình
phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội.
- Xác phân chia để xác định các dạng phạm tội chưa đạt chưa hoàn
thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành (trong giai đoạn phạm tội chưa đạt)
có ý nghĩa quan trọng trong quyết định hình phạt, đảm bảo cho các cơ quan
xét xử quyết định hình phạt một cách công minh, đưa ra được quyết định hình
phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, đúng người,
đúng tội.
Như vậy, có thể nói, việc nghiên cứu giai đoạn phạm tội chưa đạt có ý
nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Về mặt lý luận, giúp
chúng ta bổ sung thêm, làm rõ về mặt lý luận những vấn đề về tội phạm chưa
hoàn thành để từ đó có thể đưa ra một mô hình lý luận hoàn chỉnh về chế định
này. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu chế định phạm tội chưa đạt giúp cho những
người làm công tác áp dụng pháp luật có thể đánh giá mức độ thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội để áp dụng pháp luật một cách chính xác, bảo đảm
truy tố, xét xử đúng người đúng tội và phù hợp với tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội. Ngoài ra, việc nghiên cứu chế định phạm tội chưa
đạt, giúp ích rất nhiều trong nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, ngăn
ngừa việc xảy ra các tội phạm nguy hiểm.
37
1.3. QUY ĐỊNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ
GIỚI VỀ TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH
Pháp luật hình sự Việt Nam và pháp luật hình sự trên thế giới đều có
chung mục đích là bảo vệ công lý, giữ vững chế độ chính trị, bảo vệ đất nước,
đảm bảo quyền con người. Tuy nhiên, ở mỗi nước lại có cách nhìn nhận riêng,
quy định riêng, có phần giống và cũng có phần khác nhau trong mỗi điều luật.
Về dạng tội phạm chưa hoàn thành, hầu hết các nước đều có quy định. Để có nhận
thức toàn diện và bao quát hơn, qua đó có thể đánh giá, đối chiếu với pháp
luật hình sự ở Việt Nam, chúng tôi đi sâu nghiên cứu pháp luật của các nước và
nhận thấy sự đa dạng trong pháp luật về tội phạm chưa hoàn thành trên thế giới.
1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga
Liên bang Nga là quốc gia có lịch sử pháp luật hình sự lâu đời với
nhiều quan điểm phong phú. Bộ luật hình sự Liên bang Nga, được Đuma quốc
gia thông qua ngày 24/05/1996, sửa đổi năm 2010 (sau đây gọi tắt là Bộ luật
hình sự Liên bang Nga). Khoa học luật hình sự Liên bang Nga từ trước đến
nay có nhiều quan điểm khác nhau về các giai đoạn phạm tội. Điểm đáng ghi
nhận là trong Bộ luật hình sự nước này có một chương riêng về Tội phạm
chưa hoàn thành (Chương 6) với các điều luật cụ thể như:
- Điều 29 quy định về tội phạm hoàn thành và chưa hoàn thành;
- Điều 30 quy định về chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt;
- Điều 31 quy định về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
* Giai đoạn chuẩn bị phạm tội
Theo Bộ luật hình sự Liên bang Nga tại khoản 1 Điều 30 quy định
khái niệm:
Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn phương tiện, công
cụ phạm tội, tìm kiếm những người đồng phạm, bàn bạc thực hiện
việc tội phạm hoặc cố ý tạo ra những điều kiện khác để thực hiện
38
tội phạm nhưng tội phạm không thực hiện được đến cùng vì những
nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội [46].
Khái niệm về chuẩn bị phạm tội mà Bộ luật hình sự Liên bang Nga
quy định, cũng giống như khái niệm về chuẩn bị phạm tội của Bộ luật hình sự
Việt Nam quy định tại Điều 17. Các dấu hiệu giống nhau như: tìm kiếm, sửa
soạn hoặc chuẩn bị phương tiện hoặc công cụ phạm tội; hay tạo ra những điều
kiện khác để thực hiện tội phạm. Trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga còn
thêm phần sau của khái niệm là các dấu hiệu như: Tìm kiếm những người
đồng phạm, bàn bạc việc thực hiện tội phạm. Khái niệm này cũng làm rõ ý:
Tội phạm không thực hiện được do hoàn cảnh khách quan. Như vậy, nội dung
cơ bản của khái niệm chuẩn bị phạm tội của Bộ luật hình sự Việt Nam và
Liên bang Nga là tương đối giống nhau, dù câu chữ có khác nhau, nhưng mục
đích, quan điểm của nhà làm luật là cơ bản giống nhau.
Khái niệm về chuẩn bị phạm tội của luật hình sự Liên bang Nga nêu
trên đã thể hiện được đầy đủ ý như "tìm kiếm đồng phạm"; "bàn bạc thực hiện
tội phạm"; hay "tội phạm nhưng tội phạm không thực hiện được do hoàn cảnh
khách quan". Như vậy, khái niệm đã làm rõ được giai đoạn chuẩn bị phạm
tội, và là giai đoạn đầu của hoạt động phạm tội sơ bộ. Khái niệm cũng đã thể
hiện được phần "lý do khách quan" mà tội phạm không được thực hiện. Đây
là những dấu hiệu cần được làm rõ mà hiện nay trong Bộ luật hình sự Việt
Nam chưa được ghi nhận. Chúng tôi cho rằng, nhà làm luật nước ta cần ghi
nhận những dấu hiệu này trong Bộ luật hình sự sửa đổi tới đây.
Về trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành
ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, khoản 2 Điều 30 của Bộ luật hình sự Liên bang
Nga quy định: "Chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng" [46]. Theo đó, các tội có mức hình
phạt cao nhất từ 5 năm tù trở lên hoặc hình phạt nghiêm khắc hơn. So với quy
định này của Bộ luật hình sự Liên bang Nga thì Bộ luật hình sự Việt Nam có
39
phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người chuẩn bị phạm tội hẹp hơn, vì theo
Bộ luật hình sự Việt Nam, hành vi chuẩn bị phạm tội có mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội đó từ trên 7 năm tù trở lên, tù chung thân hoặc tử
hình thì phải chịu trách nhiệm hình sự, còn hành vi chuẩn bị phạm tội ở một
tội có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội đó là không quá 7 năm tù
thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Ngoài ra, Điều 66 Bộ luật hình sự Liên bang Nga có quy định về
quyết định hình phạt đối với phạm tội chưa đạt, trong đó quy định về trường
hợp chuẩn bị phạm tội như sau: 1) Khi quyết định hình phạt đối với phạm tội
chưa đạt phải cân nhắc các tình tiết làm cho tội phạm không được thực hiện
đến cùng; 2) Thời hạn và mức hình phạt đối với việc chuẩn bị phạm tội không
vượt quá 1/2 thời hạn mức hình phạt [46].
* Giai đoạn phạm tội chưa đạt
Tương tự, tại khoản 3 Điều 30 Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy
định: "Phạm tội chưa đạt là những hành động (hoặc không hành động) cố ý
của một người trực tiếp nhằm thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được
đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội" [46]. Như
vậy, khái niệm phạm tội chưa đạt trên tương tự như quy định về phạm tội
chưa đạt trong Bộ luật hình sự Việt Nam, nhưng trong đó chỉ ra hai dạng của
hành vi là hành động hoặc không hành động.
Quy định về trách nhiệm hình sự đối với phạm tội chưa đạt của Bộ
luật hình sự Liên bang Nga khá giống như Bộ luật hình sự Việt Nam khi
không đặt ra vấn đề giới hạn những trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự
mà quy định mọi trường hợp phạm tội chưa đạt đều phải chịu trách nhiệm
hình sự, không kể tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm
rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Điều 66 Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định mức hình phạt quyết
định đối với hành vi phạm tội chưa đạt không vượt quá 3/4 mức hình phạt trong
40
khung hình phạt đối với tội phạm đã hoàn thành, không áp dụng hình phạt tử
hình và tù chung thân đối với người phạm tội chưa đạt (tại khoản 3 và khoản 4).
Như vậy, về cơ bản, Bộ luật hình sự Liên bang Nga giống với Bộ luật
hình sự Việt Nam ở mức hình phạt quyết định đối với hành vi phạm tội chưa
đạt áp dụng cho hình phạt tù có thời hạn là không vượt quá 3/4 mức hình phạt
mà điều luật quy định. Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga lại
không áp dụng hai hình phạt nghiêm khắc nhất là hình phạt tử hình và hình
phạt tù chung thân đối với người có hành vi phạm tội chưa đạt. Theo Bộ luật
hình sự Việt Nam thì trường hợp điều luật được áp dụng có quy định hình
phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì có thể áp dụng các hình phạt
này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng.
Ngoài ra, Bộ luật hình sự Liên bang Nga cũng có quy định trách
nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành tại một khoản riêng: "Trách
nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành được quy định trong điều
luật quy định trách nhiệm hình sự đối với phạm tội hoàn thành và viện dẫn
Điều 30 Bộ luật hình sự này" [46, khoản 3 Điều 66].
1.3.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Pháp luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có quy
định về tội phạm chưa hoàn thành, tuy nhiên khái niệm khá ngắn gọn. Bộ luật
hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được Quốc hội thông qua tại kỳ
họp thứ II, ngày 01/7/1979, có hiệu lực từ ngày 01/01/1980. Luật sửa đổi, bổ
sung Bộ luật hình sự này được sửa đổi vào năm 1997, có hiệu lực từ ngày
01/10/1997. Từ sau năm 1997, Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
được sửa đổi, bổ sung vào năm 1999, 2001, 2002, 2005 và gần đây là 2009 tại
Hội nghị lần thứ 16 của Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn
quốc (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa).
Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thể hiện nội dung về
tội phạm chưa hoàn thành như sau:
41
* Giai đoạn chuẩn bị phạm tội
Bộ luật hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định ngắn gọn
về chuẩn bị phạm tội như sau: "Chuẩn bị phạm tội là sửa soạn công cụ, tạo ra
những điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm" [15, tr. 46]. So với khái niệm về
chuẩn bị phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam thì Bộ luật hình sự của Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa không nói đến các từ "tìm kiếm" và "phương tiện".
Về trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành
của Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định việc chuẩn bị phạm
tội bị xử lý nhẹ hơn phạm tội chưa đạt và phạm tội chưa đạt bị xử lý nhẹ hơn tội
phạm hoàn thành. Quy định nhẹ nhất là có thể miễn hình phạt và có thể quyết
định hình phạt cho chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt dưới mức thấp nhất
của khung hình phạt cho trường hợp tội phạm hoàn thành. Điều 22 Bộ luật hình
sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: "Đối với những hành vi chuẩn bị
phạm tội có thể quyết định hình phạt giảm nhẹ, giảm khung hình phạt hoặc miễn
hình phạt" [15]. Theo đó, Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa coi
chuẩn bị phạm tội là các tình tiết có tính chất giảm nhẹ, giảm khung hình phạt,
hoặc miễn hình phạt theo quy định của Điều 63 Bộ luật hình sự này là quyết định
hình phạt nhẹ hơn mức tối thiểu của khung hình phạt. Trong khi đó, Bộ luật hình
sự Việt Nam không coi chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt là tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và khi quyết định hình phạt, Tòa án không được
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự (Điều 47) khi có ít
nhất hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự Việt Nam.
Như vậy quy định trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với chuẩn bị
phạm tội của Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là khác hẳn so
với Bộ luật hình sự Việt Nam.
* Giai đoạn phạm tội chưa đạt
Tương tự, Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định về
khái niệm đối với phạm tội chưa đạt như sau: "Phạm tội chưa đạt là đã thực
42
hiện hành vi phạm tội nhưng chưa thực hiện đến cùng vì những nguyên nhân
ngoài ý muốn của người phạm tội" [15, tr. 46].
Điều 23 Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: "... đối
với phạm tội chưa đạt có thể quy định hình phạt nhẹ hơn so với tội phạm hoàn
thành hoặc quyết định hình phạt nhẹ hơn" [46]. Quyết định một hình phạt nhẹ
tại Điều 23 Bộ luật hình sự là quyết định hình phạt nhẹ hơn mức tối thiểu của
khung hình phạt.
Như vậy, về trách nhiệm hình sự và hình phạt, Bộ luật hình sự Cộng
hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa không quy định cụ thể về mức độ giảm nhẹ
của hình phạt áp dụng cho các trường hợp phạm tội chưa hoàn thành, nhưng
cũng có quy định cụ thể về hành vi hành vi phạm tội chưa đạt là bị xử lý nặng
hơn chuẩn bị phạm tội và bị xử lý nhẹ hơn so với tội phạm hoàn thành. Bộ
luật hình sự này quy định hình phạt cho phạm tội chưa đạt có thể ở dưới mức
thấp nhất của khung hình phạt quy định cho tội phạm hoàn thành.
Tóm lại, Bộ luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa coi
phạm tội chưa đạt là một trong hai trường hợp phạm tội có tình tiết giảm nhẹ
nên cũng được xử lý, thể hiện ở quy định có thể xử lý nhẹ cho trường hợp này
dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định cho tội phạm hoàn thành.
Tuy nhiên, cụ thể hóa trách nhiệm hình sự đối với phạm tội chưa đạt lại chưa
thật rõ ràng so với Bộ luật hình sự Việt Nam.
1.3.3. Bộ luật hình sự Nhật Bản
Tại Nhật Bản, pháp luật hình sự có ghi nhận về tội phạm chưa hoàn
thành, tuy nhiên nó chỉ được quy định ngay trong điều khoản cụ thể về hình
phạt mà không nêu rõ nội dung các khái niệm của tội phạm chưa hoàn thành.
Bộ luật hình sự Nhật Bản năm 2001, sửa đổi bổ sung năm 2009 (sau
đây gọi tắt là Bộ luật hình sự Nhật Bản) quy định trách nhiệm hình sự đối với
hành vi chuẩn bị phạm tội, mức giảm nhẹ hoặc miễn hình phạt được quy định
43
ngay tại điều khoản nói về hành vi chuẩn bị phạm tội cụ thể. Tuy nhiên, chỉ
trong những trường hợp điều khoản về tội phạm cụ thể quy định hình phạt đối
với chuẩn bị phạm tội.
Ví dụ: Trong Điều 113 Bộ luật hình sự Nhật Bản quy định: "Người
nào chuẩn bị nhằm phạm các tội được quy định tại Điều 107 hoặc khoản 1
Điều 109 thì phạt tù có lao động bắt buộc đến 2 năm. Tuy nhiên trong trường
hợp giảm nhẹ thì có thể được miễn hình phạt" [17].
Trong Bộ luật hình sự Nhật Bản, các tội liên quan đến chuẩn bị phạm
tội gồm: Chương 2, các tội liên quan đến nổi loạn nhằm lật đổ chính quyền
(Điều 78 - Chuẩn bị và bày mưu tính kế nổi loạn); Chương 3, các tội liên quan
đến ngoại xâm (Điều 88 - Chuẩn bị và bày mưu tính kế); Chương 4, các tội
liên quan đến quan hệ đối ngoại (Điều 93 - Chuẩn bị bày mưu tính kế gây
chiến tranh); Chương 9, các tội liên quan đến hỏa hoạn và vô ý gây cháy
(Điều 113 - Chuẩn bị gây hỏa hoạn); Chương 16, các tội làm tiền giả (Điều 153 -
Chuẩn bị phạm tội); Chương 26, các tội giết người (Điều 201 - Chuẩn bị
phạm tội giết người); Chương 36, các tội trộm cắp và cướp tài sản (Điều 237 -
Chuẩn bị cướp tài sản); v.v...
Còn phạm tội chưa đạt quy định chung ở Điều 44 Bộ luật hình sự
Nhật Bản chỉ dẫn "Trường hợp xét xử phạm tội chưa đạt thì có quy định riêng
từng điều khoản" [17]; điều này khác với Bộ luật hình sự các nước.
Như vậy, so với Bộ luật hình sự Việt Nam thì Bộ luật hình sự Nhật
Bản không nêu cụ thể nội dung khái niệm về tội phạm hoàn thành (chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt), mà chỉ ghi nhận gián tiếp thông qua các quy
định về trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội. Bên cạnh đó,
Bộ luật hình sự Nhật Bản quy định trong chuẩn bị phạm tội những trường hợp
giảm nhẹ có thể được miễn hình phạt. Qua so sánh, đối chiếu và phân tích,
chúng ta có thể nhận thấy những điểm khác nhau giữa luật hình sự của Việt
Nam và Nhật Bản về tội phạm chưa hoàn thành.
44
Chương 2
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM CHƢA HOÀN
THÀNH THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH
2.1.1. Khái niệm, cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm hình
sự đối với tội phạm chƣa hoàn thành
* Khái niệm
Để có nhận thức đầy đủ về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa
hoàn thành, chúng ta cần tìm hiểu về khái niệm trách nhiệm hình sự nói chung.
Trách nhiệm là một thuật ngữ chỉ mối quan hệ qua lại giữa cá nhân,
công dân với cộng đồng, với người khác, với xã hội.
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ "trách nhiệm" được hiểu đơn
giản là: "điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình" [58, tr. 1621].
Còn trong thực tiễn đời sống xã hội, chính trị và pháp lý, "trách nhiệm"
thường được hiểu theo hai nghĩa và tương đối thống nhất như sau:
Một là, trách nhiệm là bổn phận, nghĩa vụ, việc phải làm của một người
trước người khác, trước Nhà nước hay trước cộng đồng xã hội. Theo đó,
mỗi cá nhân, mỗi con người cụ thể bên cạnh những quyền được thừa nhận và
bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật, thì cũng cần có trách nhiệm trước
người khác, trước Nhà nước hay trước cộng đồng xã hội. Chỉ có như vậy,
"mới tạo nên sự đồng thuận, phát triển hài hòa và bền vững của xã hội với tư
cách là một chỉnh thể thống nhất. Sự phát triển trách nhiệm của con người không
chỉ là một tiêu chí quan trọng thể hiện trình độ phát triển của xã hội, mà hơn thế,
còn là nền tảng, là cơ sở và là động lực của sự phát triển xã hội..." [51, tr. 12].
45
Hai là, trách nhiệm là hậu quả bất lợi của một người đã thực hiện
hành vi vi phạm bổn phận, nghĩa vụ phải gánh chịu trước người khác, trước
Nhà nước hay trước cộng đồng xã hội.
Trách nhiệm hình sự là một thuật ngữ được dùng với nghĩa thứ hai và
sử dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, đồng thời là một
dạng của trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý được đặt ra tùy theo tính
chất vi phạm của hành vi đối với từng nhóm quan hệ xã hội khác nhau được
pháp luật bảo vệ, mà nội dung bao gồm các loại như: trách nhiệm hình sự,
trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật; v.v...
Với tư cách là một dạng của trách nhiệm pháp lý, dưới góc độ khoa
học luật hình sự cũng có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm trách
nhiệm hình sự.
Trước hết, dưới góc độ lịch sử, có quan điểm cho rằng, định nghĩa
chính xác về "trách nhiệm hình sự" đã có nhiều thay đổi và nhìn nhận giữa
các quốc gia, Nhà nước, tuy nhiên, bản chất các quan điểm đều thống nhất ở
chỗ - "một người phải chịu trách nhiệm về một hành vi phạm tội, khi họ hiểu
được (nhận thức được) những gì họ đang làm và cho rằng đó là sai, vi phạm
pháp luật. Một cá nhân có thể cũng không phải chịu trách nhiệm về tội phạm
do họ gây ra vì lý do mắc các bệnh rối loạn tâm thần" [62]. Như vậy, quan
điểm này đã phản ánh trực tiếp nội dung của trách nhiệm hình sự, đồng thời
loại trừ - thể hiện tính nhân đạo và không cần thiết phải xử lý đối với trường
hợp một người đã thực hiện tội phạm vì lý do mắc các bệnh rối loạn tâm thần.
Quan điểm khác nêu: "Trách nhiệm hình sự là mức độ mà chủ thể
(một người đàn ông hay người phụ nữ) phải chịu hoàn toàn, một phần hoặc
không chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của họ do có các căn cứ pháp
luật tương ứng điều chỉnh" [63]. Tương tự, quan điểm này tập trung làm rõ
mức độ của trách nhiệm hình sự - phải chịu hoàn toàn, phải chịu một phần
hoặc không phải chịu trách nhiệm hình sự trên các căn cứ tương ứng do pháp
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAYLuận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện BiênLuận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
 
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOTLuận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
 
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
 
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOTLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam, HAY
Luận văn: Tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam, HAYLuận văn: Tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam, HAY
Luận văn: Tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam, HAY
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà NẵngLuận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
 
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAYLuận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạtLuận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễnLỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
 

Similar to Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY

Similar to Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY (20)

Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt NamLuận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sựBiện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt namLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
 
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAYLuận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
 
Luận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Luận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tếLuận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Luận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạmLuận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Giải Quyết Vấn Đề Dân Sự Trong Vụ Án Hình Sự, HAY.docx
Giải Quyết Vấn Đề Dân Sự Trong Vụ Án Hình Sự, HAY.docxGiải Quyết Vấn Đề Dân Sự Trong Vụ Án Hình Sự, HAY.docx
Giải Quyết Vấn Đề Dân Sự Trong Vụ Án Hình Sự, HAY.docx
 
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con ngườiThẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
 
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đLuận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
 
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAYĐề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
 
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luậtLuận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
 
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdfdong92356
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11zedgaming208
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
 

Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HỒ THANH VINH MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HỒ THANH VINH MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt HÀ NỘI - 2014
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Hå Thanh Vinh
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 8 1.1. Khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn thực hiện tội phạm 8 1.1.1. Khái niệm các giai đoạn thực hiện tội phạm 8 1.1.2. Cơ sở phân chia các giai đoạn thực hiện tội phạm 12 1.2. Khái niệm, nội dung và ý nghĩa của các giai đoạn trong tội phạm chưa hoàn thành 16 1.2.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của tội phạm chưa hoàn thành 16 1.2.2. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và ý nghĩa của chuẩn bị phạm tội 18 1.2.3. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và ý nghĩa của phạm tội chưa đạt 23 1.3. Quy định trong Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới về tội phạm chưa hoàn thành 30 1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga 30 1.3.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 33 1.3.3. Bộ luật hình sự Nhật Bản 35 Chương 2: TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH 37 2.1. Một số vấn đề chung về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành 37
  • 5. 5 2.1.1. Khái niệm, cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành 37 2.1.2. Các nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành 45 2.2. Quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành 49 2.2.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành 49 2.2.2. Các căn cứ quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành 51 2.2.3. Các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành 57 2.3. So sánh trách nhiệm hình sự của tội phạm chưa hoàn thành với các dạng tội phạm khác 59 2.3.1. So sánh trách nhiệm hình sự của tội phạm chưa hoàn thành đối với trách nhiệm hình sự của trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội 59 2.3.2. So sánh trách nhiệm hình sự của tội phạm chưa hoàn thành với trách nhiệm hình sự của tội phạm hoàn thành 61 Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN 64 3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội phạm chưa hoàn thành 64 3.1.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về chuẩn bị phạm tội 64 3.1.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về phạm tội chưa đạt 69 3.2. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội phạm chưa hoàn thành 80
  • 6. 6 3.2.1. Dưới góc độ chính trị - xã hội 80 3.2.2. Dưới góc độ lý luận - thực tiễn 82 3.3. Những kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội phạm chưa hoàn thành 86 3.3.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về chuẩn bị phạm tội 86 3.3.2. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về phạm tội chưa đạt 87 KẾT LUẬN 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97 PHỤ LỤC 102
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 3.1 So sánh tỷ lệ chuẩn bị phạm tội và tội phạm hoàn thành thông qua 100 bản án hình sự sơ thẩm và 100 quyết định giám đốc thẩm về hình sự 65 3.2 So sánh tỷ lệ phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành thông qua 100 bản án hình sự sơ thẩm và 100 quyết định giám đốc thẩm về hình sự 70
  • 8. 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, là một hiện tượng xã hội tiêu cực gắn liền với đời sống của con người. Hiện tượng tiêu cực này xâm hại tới lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân cho nên chúng ta luôn phải đấu tranh để phát hiện, ngăn chặn nhanh chóng, kịp thời hiện tượng này nhằm giảm bớt tác hại cho xã hội do nó gây ra. Trong quá trình nghiên cứu tội phạm, thông thường hay chú tâm đến tội phạm hoàn thành, do đó tội phạm chưa hoàn thành ít được đề cập, chú trọng. Song, nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành sẽ giúp chúng ta rất nhiều trong công tác phòng ngừa tội phạm, ngăn chặn tội phạm nguy hiểm có thể xảy ra, là một trong những mục tiêu trong yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ các lợi ích của Nhà nước và của công dân, đặc biệt là ngăn chặn từ "trứng nước" và ngăn ngừa những hậu quả (thiệt hại) đã gây ra cho Nhà nước, xã hội, cho cơ quan, tổ chức và cho công dân, qua đó còn góp phần phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt được công minh, chính xác và đúng pháp luật [8, tr. 440]. Ngoài ra, nếu nắm vững về tội phạm chưa hoàn thành sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tội phạm, giúp cho công tác phòng ngừa tội phạm của Nhà nước được tốt hơn. Vì tội phạm chưa hoàn thành xảy ra trước tội phạm hoàn thành, nó là điều kiện, tiền đề của hoạt động tội phạm hoàn thành. Hơn nữa, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, xung quanh vấn đề tội phạm chưa hoàn thành còn nhiều nội dung cần nhận thức thống nhất, cũng như cần làm sáng tỏ vấn đề trách nhiệm hình sự trong từng giai đoạn của tội phạm chưa hoàn thành. Bên cạnh đó, cũng chưa có công trình khoa học nào tổng kết lý luận, đánh giá thực tiễn áp dụng về vấn đề tội phạm chưa hoàn thành, trong khi chính sách hình sự trước yêu cầu mới của đất nước đòi hỏi cần điều chỉnh
  • 9. 9 theo phương châm "việc không để tội phạm xảy ra xét về hiệu quả kiểm soát tội phạm luôn được đánh giá cao hơn là việc kịp thời phát hiện, xử lý tội phạm" [53, tr. 24]. Đặc biệt, điểm 3.1. tiểu mục 3 phần IV - Định hướng cơ bản sửa đổi Bộ luật hình sự trong Đề cương định hướng sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự số 7724/ĐC-BSTBLHS (SĐ) ngày 24/9/2012 quy định: Sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự liên quan đến khái niệm và phân loại tội phạm, cơ sở của trách nhiệm hình sự, nguồn của luật hình sự, nguồn của luật hình, các giai đoạn phạm tội, các chế định đồng phạm, phạm tội có tổ chức, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vấn đề quyết định hình phạt [1]. Hay gần đây, ngày 10/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1236/QĐ-TTg về việc "Phê duyệt kế hoạch tổng kết thi hành Bộ luật hình sự năm 1999". Theo đó, việc tổng kết này nhằm đánh giá một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ thực tiễn hơn mười năm thi hành Bộ luật hình sự năm 1999, từ đó đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, trong đó có tội phạm chưa hoàn thành, góp phần đáp ứng yêu cầu mới của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo đảm ổn định lâu dài, thúc đẩy phát triển đất nước. Như vậy, vì các lý do trên mà chúng tôi đã lựa chọn đề tài: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Hiện nay, việc nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành đã có nhiều công trình khoa học đề cập ở các mức độ khác nhau, tuy nhiên so với các chế định khác, thì tội phạm chưa hoàn thành ít được quan tâm nghiên cứu hơn, vì đa số tập trung vào tội phạm hoàn thành. Do những điều kiện nhất định, tội phạm chưa hoàn thành cũng không được thống kê số liệu một cách đầy đủ phục vụ cho công tác điều tra nghiên cứu của tác giả, các nhà nghiên cứu
  • 10. 10 cũng như các học viên. Qua tìm hiểu, đã có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu, giáo trình, bài viết trực tiếp hoặc gián tiếp có liên quan đến vấn đề tội phạm chưa hoàn thành như sau: * Nhóm thứ nhất - sách chuyên khảo, sách tham khảo, giáo trình, bao gồm: 1) GS. TSKH. Lê Văn Cảm: Mục V - Chế định về các giai đoạn thực hiện tội phạm, Chương thứ tư - Tội phạm, Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; 2) ThS. Lâm Minh Hạnh, Chương VIII - Các giai đoạn phạm tội, trong sách: Những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong luật hình sự việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1986; 3) PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí: Chương Các giai đoạn phạm tội, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003, 2007; 4) PGS.TS. Lê Thị Sơn: Bài IV - Một số vấn đề về các giai đoạn thực hiện tội phạm, trong sách: Luật hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1999; 5) PGS.TS. Lê Thị Sơn: Các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm và tổ chức tội phạm với việc hoàn thiện cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2013; cũng như một số công trình của các nhà khoa học Liên bang Nga trong phần tài liệu tham khảo của các sách chuyên khảo nói trên. * Nhóm thứ hai - các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, bao gồm: 1) GS. TSKH. Lê Văn Cảm: Chế định về các giai đoạn thực hiện tội phạm và mô hình lý luận của nó trong pháp luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2002; 2) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản: Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội chưa đạt, Tạp chí Khoa học, chuyên san Kinh tế - Luật, số 4/2002; 3) TS. Trịnh Tiến Việt: Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội chưa đạt, Tạp chí Khoa học, chuyên san Kinh tế - Luật, số 4/2002; 4) PGS.TS. Lê Thị Sơn: Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm chưa đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2007; 5) PGS.TS Trần Văn Độ: Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về giai đoạn thực hiện tội phạm, Tạp chí
  • 11. 11 Tòa án nhân dân, số 5/1999; 6) PGS.TS. Dương Tuyết Miên: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2001; v.v... * Nhóm thứ ba - các luận văn, luận án, bao gồm: 1) Hoàng Đức Ngọc: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2010; Bùi Thị Chinh Phương: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; v.v… Tuy nhiên, các công trình trên đây mới chỉ đề cập giải quyết đến khái niệm, các đặc điểm cơ bản, việc quyết định hình phạt trong một giai đoạn của tội phạm chưa hoàn thành là chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt, mà chưa có công trình nào đi sâu và tổng quan về tội phạm chưa hoàn thành, lý giải cơ sở của việc phân chia tội phạm hoàn thành và tội phạm chưa hoàn thành, các nguyên tắc và nội dung trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong giai đoạn này, cũng như phân tích và giải quyết các vấn đề cùng một lúc xung quanh cả hai giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. 3. Mục đích, phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, bản chất và các đặc điểm cơ bản của tội phạm chưa hoàn thành nói chung, giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt nói riêng, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội phạm chưa hoàn thành, qua đó, đề xuất hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam về tội phạm chưa hoàn thành. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Phạm vi nghiên cứu của luận văn gồm nghiên cứu, giải quyết một số vấn đề xung quanh tội phạm chưa hoàn thành trong luật hình sự Việt Nam -
  • 12. 12 khái niệm, các dấu hiệu pháp lý và trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành, kết hợp nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn đối với tội phạm chưa hoàn thành thông qua các báo cáo tổng kết, chuyên đề của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, cũng như thông qua một số bản án hình sự điển hình. 3.3. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu đề tài 4.1. Cơ sở lý luận Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, về công tác đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI và Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp trong thời gian tới", và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị "Về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020", Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", cũng như các công trình khoa học của các nhà khoa học, luật gia trong và ngoài nước. 4.2. Các phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, đối chiếu; v.v… Từ đó, có
  • 13. 13 sự tổng hợp kiến thức, rút ra những đánh giá, kết luận và đề xuất các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện liên quan đến tội phạm chưa hoàn thành để các nhà làm luật nước ta có thêm tư liệu tham khảo sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự Việt Nam. 5. Những điểm mới về mặt khoa học và đóng góp của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu độc lập dựa trên kết quả tìm hiểu, tra cứu, phân tích, lập luận, làm rõ về mặt lý luận một số vấn đề về tội phạm chưa hoàn thành như: khái niệm, các dấu hiệu khách quan, chủ quan, làm rõ các nội dung về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, để từ đó có thể đưa ra những kiến giải lập pháp và mô hình khoa học về tội phạm chưa hoàn thành (chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt). Ngoài ra, về mặt thực tiễn, luận văn nghiên cứu, làm sáng tỏ bức tranh khái quát về tình hình tội phạm chưa hoàn thành trong đời sống xã hội thông qua các báo cáo tổng kết, chuyên đề của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, cũng như thông qua đánh giá các bản án hình sự. Ngoài ra, luận văn còn làm sáng tỏ một số tồn tại, bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Vì vậy, luận văn còn có ý nghĩa chính trị, xã hội và pháp lý quan trọng trong việc đánh giá mức độ thực hiện tội phạm. Bởi vì xác định đúng sự kiện thực hiện tội phạm do cố ý sẽ có cơ sở cho việc xác định phạm vi mà mức độ trách nhiệm hình sự một cách có căn cứ và đúng pháp luật. Từ đó, giúp cho cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án xác định đúng trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt một cách có căn cứ đầy đủ, đúng pháp luật. Bên cạnh đó, luận văn là tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích cho các nhà nghiên cứu, các nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên đại học ở các cơ sở đào tạo về luật trong cả nước, cũng như phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự Việt Nam sắp tới.
  • 14. 14 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành theo Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành. Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội phạm chưa hoàn thành và những kiến nghị hoàn thiện.
  • 15. 15 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ PHÂN CHIA CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN TỘI PHẠM 1.1.1. Khái niệm các giai đoạn thực hiện tội phạm Khoa học luật hình sự trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, đa phần đều phân biệt các giai đoạn phạm tội, như là cách thức để nhận biết dấu hiệu của từng thời điểm mà tội phạm thực hiện. Trong khoa học luật hình sự Liên bang Nga thể hiện qua các quan điểm nổi bật đã được GS.TSKH. Lê Văn Cảm tổng kết trong Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005 về khái niệm đang nghiên cứu như sau: 1) Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các giai đoạn chuẩn bị và trực tiếp thực hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với nhau theo tính chất (nội dung) của hành vi đã được thực hiện và thời điểm chấm dứt xử sự có tính chất tội phạm (B.V.Zđravômưxlôv); 2) Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các giai đoạn nhất định của việc chuẩn bị và thực hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với nhau theo tính chất của những hành vi được thực hiện và thời điểm chấm dứt hành vi ấy (X.G.Kelina); 3) Các giai đoạn của việc chuẩn bị và trực tiếp thực hiện tội phạm được quy định trong luật và được phân biệt với nhau theo tính chất và nội dung của hành vi người phạm tội thực hiện, cũng như mức độ kết thúc hành vi phạm tội (Ê.F.Pobegailô)... [8, tr. 440-441]. Còn trong khoa học luật hình sự Việt Nam, các nhà khoa học luật hình sự, về cơ bản, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu và đưa ra các quan điểm khác nhau về tội phạm chưa hoàn thành và nói chung đều thừa nhận chỉ những tội
  • 16. 16 phạm do phạm tội cố ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó, bằng ý chí chủ quan của mình quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng thì mới có các giai đoạn phạm tội. GS.TSKH. Lê Văn Cảm viết: Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước phát triển theo một trình tự nhất định mà tội phạm trải qua, được thể hiện bằng việc thực hiện các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm tương ứng và bằng mức độ khác nhau của việc thể hiện sự cố ý phạm tội của chủ thể [8, tr. 441]. Hay tác giả Trần Văn Đượm lại đưa ra quan điểm tương tự và liệt kê các giai đoạn cố ý thực hiện tội phạm là "các bước trong quá trình thực hiện tội phạm bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [Dẫn theo 44, tr. 176]. Hay gần đây, TS. Trịnh Tiến Việt quan niệm: "Các giai đoạn phạm tội được hiểu là những bước trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý, phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ở từng thời điểm, bao gồm: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [56, tr. 156]; v.v... Nói chung, từ những quan điểm nêu trên, chúng ta có thể rút ra những điểm chung cơ bản của các giai đoạn thực hiện tội phạm là chỉ ở các tội cố ý, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó, người phạm tội bằng ý chí chủ quan của mình quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng thì mới có các giai đoạn phạm tội. Từ đó cũng có thể hiểu, các giai đoạn thực hiện tội phạm không có trong tội phạm vô ý, bởi trong tội phạm vô ý người phạm tội không nhận thức được hành vi nguy hiểm cho xã hội, không thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó và cũng không mong muốn cho hậu quả nguy hiểm cho xã hội bởi hành vi đó.
  • 17. 17 Như vậy, trong phạm tội cố ý, có hai hình thức lỗi (hay còn gọi là hai dạng) cố ý là cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Như vậy vấn đề đặt ra cho các giai đoạn thực hiện tội phạm là hình thức lỗi cố ý trực tiếp hay hình thức lỗi cố ý gián tiếp, hay chung cho cả hai hình thức lỗi cố ý. Hầu hết các nhà hình sự học, luật gia cho rằng các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ đặt ra với tội phạm thực hiện với hình thức lỗi cố ý trực tiếp... [3, tr. 223]. Lý giải cho quan điểm này, các tác giả đều cho rằng, ở lỗi cố ý trực tiếp người phạm tội khi thực hiện một loạt hành vi như chuẩn bị công cụ, phương tiện, vạch kế hoạch, bàn bạc, rủ rê, lôi kéo người khác tham gia; v.v… và tiến hành thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, người phạm tội không thể không nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi thực hiện, không thể không mong muốn cho hậu quả xảy ra. Cũng có trường hợp đối với những tội có cấu thành hình thức bằng không hành động, mặc dù có lỗi cố ý trực tiếp cũng không có hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Ví dụ: Tội không tố giác tội phạm (Điều 314 Bộ luật hình sự); Tội cố ý không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 107 Bộ luật hình sự); v.v... Cũng có một số quan điểm cho rằng người phạm tội với hình thức lỗi cố ý gián tiếp cũng trải qua các giai đoạn thực hiện tội phạm. Cũng trường hợp phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội có lỗi cố ý gián tiếp cũng có ý thức lựa chọn một xử sự phạm tội. Những gì nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra ở trường hợp phạm tội cố ý gián tiếp là những điều tuy chủ thể không nhằm tới nhưng họ chấp nhận việc nó xảy ra. Khi điều đó chưa xảy ra, chúng ta vẫn có thể và cần phải đặt vấn đề trách nhiệm hình sự đối với họ, vì việc không xảy ra là do nguyên nhân khách quan, còn chủ quan người phạm tội vẫn sẵn sàng chấp nhận việc nó xảy ra. Ngoài ra, về mặt thực tiễn, hiện nay chúng ta đã gặp những vụ việc đòi hỏi cần
  • 18. 18 xét xử về hình sự và việc xét xử này chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở thừa nhận nguyên tắc: Các giai đoạn thực hiện tội phạm và trách nhiệm hình sự đối với các giai đoạn phạm tội được đặt ra cho cả trường hợp phạm tội cố ý gián tiếp [19, tr. 68-69]. Do đó, việc đặt ra cho các giai đoạn thực hiện tội phạm với hình thức lỗi cố ý gián tiếp là chưa thật chính xác, bởi vì trong tội phạm do lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội không nhận thức trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội, không mong muốn hậu quả xảy ra, nên không thể có các giai đoạn chuẩn bị phạm tội cũng như phạm tội chưa đạt. Bộ luật hình sự Việt Nam quy định các giai đoạn thực hiện tội phạm bao gồm: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự cũng chỉ nêu chuẩn bị phạm tội tại Điều 17, phạm tội chưa đại tại Điều 18, còn tội phạm hoàn thành không quy định thành một điều luật cụ thể mà được phản ánh thông qua nội dung của 276 tội danh trong Phần các tội phạm Bộ luật này. Trong đó, chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu tiên của các giai đoạn thực hiện tội phạm và là giai đoạn có ảnh hưởng lớn đến kết quả phạm tội. Các giai đoạn kế tiếp là phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Có thể nói việc quy định cách phân chia các giai đoạn thực hiện tội phạm như vậy, thể hiện tính hợp lý cao về khoa học và thực tiễn. Điều 2 Bộ luật hình sự quy định: "Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự" [32]. Như vậy, việc quy định rõ chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt trong Bộ luật hình sự là cơ sở để xác định mức độ và tính chất của hành vi nguy hiểm cho xã hội, từ đó làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự một cách chính xác, hợp tình, hợp lý, bảo đảm sự chặt chẽ trong quyết định hình phạt, thể hiện được các nguyên tắc pháp chế và công bằng, để Tòa án đưa ra được các quyết định hình phạt một cách công minh, chính xác, không để lọt tội phạm và người phạm tội, nhưng cũng không làm oan người vô tội.
  • 19. 19 Ngoài ra, thực tiễn xét xử ở nước ta từ trước đến nay hầu hết chỉ thừa nhận các giai đoạn thực hiện tội phạm do lỗi cố ý mà không đặt ra vấn đề các giai đoạn thực hiện tội phạm đối với lỗi cố ý trực tiếp, bởi vì trong tội phạm do lỗi cố ý gián tiếp người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra, thờ ơ, bàng quan với hậu quả xảy ra. Hậu quả xảy ra không phải là mục đích của người phạm tội. Như vậy, chúng ta có thể đưa ra khái niệm đang nghiên cứu như sau: Các giai đoạn phạm tội là các bước của quá trình thực hiện tội phạm do cố ý (trực tiếp) do luật hình sự quy định, phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội ở từng thời điểm khác nhau, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Từ khái niệm nêu trên, chúng ta có thể nêu lên những đặc điểm chính của các giai đoạn thực hiện tội phạm như sau: - Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước, các giai đoạn phát triển nhất định mà tội phạm trải qua gồm: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. - Các giai đoạn thực hiện tội phạm được quy định trong luật hình sự. - Các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ được đặt ra đối với tội phạm thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. - Các giai đoạn thực hiện tội phạm phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau của hành vi phạm tội ở từng thời điểm trong quá trình thực hiện tội phạm (chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành). 1.1.2. Cơ sở phân chia các giai đoạn thực hiện tội phạm Trên thế giới, khoa học luật hình sự vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về sự phân chia các giai đoạn tội phạm. GS.TS. Nguyễn Niên trong cuốn sách chủ biên "Những vấn đề cơ bản về tội phạm trong luật hình sự Việt Nam", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1986 đã tổng kết như sau:
  • 20. 20 Trong khoa học luật hình sự Liên Xô cũ, A.A. Gertsendon chỉ ra rằng, có 5 giai đoạn phạm tội: 1) Giai đoạn hình thành ý định; 2) Giai đoạn biểu lộ ý định; 3) Giai đoạn chuẩn bị phạm tội; 4) Giai đoạn phạm tội chưa đạt; 5) Giai đoạn hoàn thành tội phạm. Trong cuốn "Giáo trình luật hình sự Xô Viết", A.A Piontkovski không công nhận hình thành ý định là một giai đoạn của quá trình phạm tội, mà coi giai đoạn biểu lộ ý định là giai đoạn đầu tiên. Giáo sư N.D.Durmanjev lại cho rằng chỉ có ba giai đoạn phạm tội: 1) Chuẩn bị phạm tội; 2) Phạm tội chưa đạt; 3) Tội phạm hoàn thành. Hầu hết các giáo trình luật hình sự của Liên Xô cũ đều chia ba giai đoạn như vậy; v.v... [28, tr. 119]. Còn ở Việt Nam, trước đây, vấn đề này đã được đặt ra từ thế kỷ XV trong Bộ luật Hồng Đức của triều Lê. Tuy nhiên, do hạn chế về mặt kỹ thuật lập pháp, vấn đề này không được đề cập một cách rõ ràng. Nó được thể hiện qua các điều luật cụ thể và có thể rút ra bốn giai đoạn là: Âm mưu phạm tội; chuẩn bị phạm tội; phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Ở Bộ luật Hồng Đức, chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt được gọi bằng tên khác, được quy định thành những tội phạm cụ thể, có cấu thành tội phạm cụ thể và những hình phạt riêng. Trong khi đó, hiện nay, ở nước ta có hai quan điểm chính về cách phân chia số lượng các giai đoạn thực hiện tội phạm. - Quan điểm thứ nhất cho rằng, các giai đoạn thực hiện tội phạm bao gồm: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Trong đó, GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa cho rằng "Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các mức độ thực hiện tội phạm cố ý, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [19, tr. 66]. Có cùng quan điểm về cách phân chia số lượng các giai đoạn thực hiện tội phạm, TS. Trịnh Tiến Việt cũng đưa ra khái niệm như sau: "Các giai đoạn phạm tội là những bước trong
  • 21. 21 quá trình thực hiện tội phạm do cố ý và bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [55, tr. 25]; v.v... Quan điểm này cũng đã được ghi nhận trong cả Phần chung và Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Ở Phần chung Bộ luật hình sự quy định các trường hợp tội phạm chưa hoàn thành: Chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt (Điều 17 và Điều 18); trong Phần các tội phạm quy định trường hợp tội phạm hoàn thành. Người phạm tội nếu thực hiện hết các hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm ở Phần các tội phạm thì khi đó tội phạm đã hoàn thành. Nếu khi người phạm tội chỉ thực hiện được một hay một số hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm ở Phần các tội phạm (hậu quả chưa xảy ra và việc không thực hiện được đến cùng là do nguyên nhân khách quan), thì khi đó tội phạm được coi là chưa hoàn thành. - Quan điểm thứ hai lại cho rằng, các giai đoạn thực hiện tội phạm gồm có hai giai đoạn là chuẩn bị phạm tội và thực hiện tội phạm. Còn phạm tội chưa đạt và phạm tội hoàn thành chỉ là trường hợp riêng biệt của giai đoạn thực hiện tội phạm, chứ không thể coi là những giai đoạn chính thức được. Trong trường hợp phạm tội chưa đạt, người phạm tội chưa thực hiện được tội phạm đến cùng hoặc có thể thực hiện tội phạm đến cùng nhưng kết quả mong muốn không đạt được. Còn trong trường hợp tội phạm hoàn thành, người phạm tội đã thực hiện được đầy đủ mọi hành vi phạm tội và đạt được kết quả mong muốn. Như vậy, quan điểm này cho rằng, rõ ràng là phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành chỉ là những trường hợp riêng biệt của quá trình thực hiện tội phạm [16, tr. 117]; v.v... Theo chúng tôi, quan điểm thứ nhất được ghi nhận trong Bộ luật hình sự hiện hành, cụ thể hơn và sát thực tế hơn. Có thể nói đây là quan điểm phù hợp với diễn biến khách quan của quá trình phạm tội; phù hợp với yêu cầu đấu tranh chống tội phạm của Nhà nước; quan điểm này đồng thời đảm bảo sự chính xác trong phân hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt, từ đó bảo vệ được
  • 22. 22 quyền tự do của công dân, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Trong thực tiễn, không phải tất cả trường hợp người phạm tội đều tiến hành tất cả các giai đoạn từ chuẩn bị phạm tội, đến phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Nếu tội phạm được thực hiện tuần tự từ giai đoạn đầu đến giai đoạn cuối thì có nghĩa tội phạm đã hoàn thành. Có những trường hợp sau khi có ý định phạm tội, người phạm tội lập tức thực hiện ngay ý định mà không có sự chuẩn bị gì hết (không trải qua giai đoạn chuẩn bị phạm tội). Hoặc có trường hợp người phạm tội mới bắt tay vào chuẩn bị công cụ phương tiện phạm tội hay tạo ra những điều kiện thuận lợi khác để thực hiện tội phạm thì bị bắt giữ. Hoặc người phạm tội sau khi đã tạo ra được nhiều điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm và đã bắt tay vào thực hiện tội phạm nhưng lại không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân khách quan (hậu quả không xảy ra); v.v... Ở Việt Nam hiện nay, luật hình sự không quy định việc biểu lộ ý định phạm tội là một giai đoạn phạm tội. Tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự quy định: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội…" [32]. Như vậy, những gì không phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội thì không phải là tội phạm. Ý định phạm tội là những suy nghĩ, tính toán hình thành trong đầu óc con người. Ý định phạm tội chỉ thể hiện ra bên ngoài và có khả năng gây ra nguy hiểm cho xã hội khi người đó thực hiện hành vi. Khi ý định chưa thể hiện ra bằng hành vi thì nó vẫn nằm trong đầu óc con người, chưa tác động đến thế giới khách quan, vì vậy nó chưa có khả năng gây ra những nguy hiểm cho xã hội. Biểu lộ ý định phạm tội là việc thể hiện ý định ra ngoài bằng lời nói, chữ viết, cử chỉ, điệu bộ... có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp (như đe dọa). Ý định có thể có hai chiều hướng: hoặc có thể được suy nghĩ, tính toán thêm để quyết định thể hiện ra bên ngoài bằng hành động, hoặc có thể bị thay đổi, từ bỏ vì nguyên nhân nào đó (khách quan hoặc chủ quan). Như vậy, ý định phạm tội chưa biết có được thực hiện trong thực tế hay không. Tóm lại, ý định chưa
  • 23. 23 được thể hiệu ra ngoài bằng lời nói, chữ viết, cử chỉ, điệu bộ… thì không phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội, mà không phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội thì không phải là tội phạm. Tuy nhiên, trong thời kỳ chiến tranh ở nước ta, cũng có những trường hợp đặc biệt, do yêu cầu đấu tranh chống tội phạm của Nhà nước và do tính chất quan trọng của khách thể tội phạm nên có thời điểm, Nhà nước ta quy định đối với các tội phản cách mạng thì chỉ cần có "âm mưu phạm tội" cũng bị trừng trị, ví dụ: "Âm mưu phạm tội và hành động phạm tội đều bị trừng trị" (Điều 2, Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/6/1967) [39, tr. 25]. Bởi vì, các nhà làm luật cho rằng khi đã có âm mưu thì ý thức chống đối của người phạm tội không nằm trong lĩnh vực tư tưởng nữa. Trong giai đoạn hiện nay, do tình hình chính trị đã thay đổi nên trong pháp luật hình sự Việt Nam, quy định này đã bị bãi bỏ và được thay bằng quy định "hoạt động nhằm lật đổ" trong tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79 Bộ luật hình sự), "đe dọa" trong tội đe dọa giết người (Điều 103 Bộ luật hình sự). Từ những quan điểm nêu trên và theo quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, cũng như việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn, chúng ta có thể nhận định: Cơ sở để phân chia các giai đoạn thực hiện tội phạm chính là tính chất của những hành vi được thực hiện với hình thức lỗi cố ý và thời điểm kết thúc những hành vi đó. 1.2. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC GIAI ĐOẠN TRONG TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH 1.2.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của tội phạm chƣa hoàn thành Cho đến nay, pháp luật hình sự Việt Nam chưa ghi nhận nội dung về khái niệm về tội phạm chưa hoàn thành, mà chỉ đưa ra khái niệm pháp lý về hai giai đoạn của tội phạm chưa hoàn thành là chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt (Điều 17, 18 Bộ luật hình sự) và là giai đoạn riêng, độc lập so với tội phạm hoàn thành.
  • 24. 24 Ngoài ra, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, quan điểm của GS.TSKH. Lê Văn Cảm đưa ra khá phù hợp với những giai đoạn thực hiện tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam: "Tội phạm chưa hoàn thành là hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt" [7, tr. 7], kèm theo đó là trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành. Chúng tôi cho rằng, việc ghi nhận khái niệm đầy đủ về tội phạm chưa hoàn thành trong luật hình sự là điều cần thiết. Đó là cơ sở để phân biệt giữa tội phạm chưa hoàn thành với tội phạm hoàn thành. Đồng thời qua đó còn làm rõ cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội, cũng như việc quy định trách nhiệm hình sự đối với từng giai đoạn thực hiện tội phạm. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể đưa ra khái niệm đang nghiên cứu như sau: Tội phạm chưa hoàn thành là hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, diễn ra trước giai đoạn tội phạm hoàn thành và người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự trên những cơ sở chung. Từ khái niệm nêu trên, chúng ta có thể chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tội phạm chưa hoàn thành như sau: - Tội phạm chưa hoàn thành bao gồm hai giai đoạn phạm tội độc lập nhưng có mối quan hệ gắn bó với nhau là giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. - Việc thực hiện tội phạm chưa hoàn thành là do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội. - Tội phạm chưa hoàn thành chỉ đặt ra đối với các tội được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. - Trách nhiệm hình sự đặt ra với giai đoạn phạm tội chưa hoàn thành nhẹ hơn trách nhiệm hình sự áp dụng đối với trường hợp phạm tội hoàn thành. - Tội phạm chưa hoàn thành phải diễn ra trước giai đoạn tội phạm hoàn thành.
  • 25. 25 1.2.2. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và ý nghĩa của chuẩn bị phạm tội * Khái niệm Điều 17 Bộ luật hình sự Việt Nam quy định như sau: "Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm" [32]. Như vậy, chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu tiên của quá trình thực hiện tội phạm do cố ý. Người phạm tội từ chỗ có ý định phạm tội, bằng ý thức chủ quan của mình đã nẩy sinh ý định thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, từ đó dẫn đến bước (hay còn gọi là giai đoạn) chuẩn bị phạm tội. Có thể hiểu, chuẩn bị phạm tội là chuẩn bị sẵn những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm cụ thể. Các hành vi như tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện, tìm kiếm đồng phạm, cấu kết với nhau; v.v... Như vậy, chuẩn bị phạm tội là chưa thực hiện hành vi cấu thành tội phạm (trừ một số trường hợp đặc biệt), đó là hành vi chưa tác động trực tiếp đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, do đó, nó chưa trực tiếp gây nguy hại cho khách thể của luật hình sự, nhưng lại là tiền đề, điều kiện thuận lợi để tội phạm xảy ra một cách dễ dàng. Trong quy định tại Bộ luật hình sự, các nhà làm luật đã định nghĩa ngắn gọn, tương đối rõ ràng về giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm đang nghiên cứu có thể được định nghĩa như sau: Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu tiên của quá trình thực hiện tội phạm do cố ý trực tiếp, là khi một người tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm, tuy nhiên vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội nên tội phạm đã không được thực hiện đến cùng. * Các đặc điểm cơ bản Theo khái niệm trên đây, chúng ta thấy chuẩn bị phạm tội bao hàm cả nội dung thể hiện các đặc điểm cơ bản trên phương diện khách quan và phương diện chủ quan như sau.
  • 26. 26 Một là, về phương diện khách quan: - Hành vi tìm kiếm công cụ, phương tiện để thực hiện tội phạm. - Hành vi sửa soạn công cụ, phương tiện để thực hiện tội phạm. - Tạo ra những điều kiện thuận lợi khác để thực hiện tội phạm. Chúng ta có thể hiểu, lý giải cụ thể về mặt khách quan nêu trên như sau: Công cụ phạm tội là bất kỳ vật gì, như súng, đạn, dao, kéo… mà các vật này có thể dùng được để trực tiếp tác động vào khách thể hoặc đối tượng của tội phạm. Còn phương tiện phạm tội là máy móc, đồ vật được sử dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm như ô tô, xe máy, máy kéo… Tìm kiếm công cụ, phương tiện phạm tội là dùng bất kỳ cách thức, phương pháp, thủ đoạn như xin, mua, mượn, trộm cắp… để có được công cụ, phương tiện cho việc thực hiện tội phạm. Sửa soạn công cụ, phương tiện để thực hiện tội phạm là việc người phạm tội tự chế tạo công cụ, phương tiện phạm tội, sửa sang, tân trang, thay đổi hình dạng, kích thước công cụ, phương tiện nhằm giúp cho việc thực hiện tội phạm được thuận lợi hoặc che giấu tội phạm, người phạm tội. Tạo ra những điều kiện thuận lợi khác để thực hiện tội phạm là những hành vi khác nhau (không phải là các hành vi đã nêu trên) như lôi kéo, rủ rê, tạo băng nhóm, nghiên cứu địa hình, lập kế hoạch phạm tội… Để chuẩn bị cho việc thực hiện tội phạm, người phạm tội có thể thực hiện một hay một số hành vi nêu trên, tùy thuộc vào từng loại tội phạm, từng loại khách thể định xâm hại. Hành vi tìm kiếm sửa soạn công cụ, phương tiện là hành vi chuẩn bị phổ biến nhất so với các hành vi chuẩn bị khác. Hầu hết các hành vi tìm kiếm, sửa soạn được thực hiện dưới dạng hành động, chỉ một số ít thực hiện dưới dạng không hành động. Ví dụ: A đi xe máy ra đường va quệt với B, sau khi lời qua tiếng lại, A đã về nhà chuẩn bị một con dao, mài sắc dự tính cho B một bài học. Để có
  • 27. 27 tiền tiêm chích ma túy, C đã nhiều lần thăm dò nhà hàng xóm để biết được sinh hoạt của nhà hàng xóm, nhằm trộm cắp xe máy của nhà hàng xóm… Những hành vi trên như là hành động nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phạm tội, chứ chưa trực tiếp xâm hại đến việc giết người hay trộm cắp tài sản. Trong mặt khách quan, về nguyên tắc, hành vi chuẩn bị phạm tội là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, tính chất và mức độ nguy hiểm không cao như giai đoạn phạm tội chưa đạt hay tội phạm hoàn thành. Hành vi đó chưa tác động trực tiếp đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, chưa trực tiếp gây nguy hại cho khách thể của luật hình sự, nhưng lại là tiền đề, điều kiện thuận lợi để tội phạm xảy ra một cách dễ dàng, nhanh chóng và nó đã thực sự nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi chuẩn bị phạm tội được quyết định bởi khách thể của tội phạm, thời gian giữa hành vi chuẩn bị phạm tội và thời điểm bắt đầu thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong cấu thành tội phạm, mức độ chuẩn bị… Trên thực tế, có những khách thể của tội phạm, do tính chất đặc biệt quan trọng cho nên chỉ cần có hành vi chuẩn bị phạm tội sẽ gây nguy hại rất lớn cho xã hội. Vì vậy, những trường hợp này pháp luật hình sự nước ta quy định nó hoàn thành ngay khi có hành vi chuẩn bị phạm tội. Ví dụ: Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79 Bộ luật hình sự, theo đó, ở tội này chỉ cần có hành vi hoạt động thành lập tổ chức được thực hiện bằng một số hành vi: đề xướng chủ trương, viết cương lĩnh, điều lệ; v.v..., đường lối hoạt động của tổ chức, tuyên truyền lôi kéo, tập hợp người vào tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân thì tội phạm hoàn thành. Mặc dù, khi phân tích những hành vi thuộc mặt khách quan của tội này thì rõ ràng đó là những hành vi chuẩn bị phạm tội, mang tính "chuẩn bị" chứ chưa phải là tội phạm hoàn thành. Hai là, về phương diện chủ quan: Chuẩn bị phạm tội là hành vi chỉ được thể hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Khi đó, người phạm tội nhận thức được những hành vi đang tiến
  • 28. 28 hành nhằm chuẩn bị cho việc thực hiện tội phạm, biết được được hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra nếu tội phạm được thực hiện và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra. Động cơ, mục đích và hành vi của người thực hiện hành vi chuẩn bị phạm tội là thống nhất và rõ ràng nhằm đi đến mục tiêu là thực hiện trọn vẹn hành vi phạm tội sau đó. Từ các dấu hiệu trên ta nhận thấy hành vi (giai đoạn) chuẩn bị phạm tội có các đặc điểm sau: - Chuẩn bị phạm tội là hành vi tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm. - Chuẩn bị phạm tội chưa chứa đựng dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm, chưa phải hành vi được quy định trong cấu thành tội phạm ở phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. - Hành vi đó chưa trực tiếp xâm hại khách thể hoặc đối tượng mà kẻ phạm tội nhằm xâm hại tới. - Hành vi chuẩn bị phạm tội bao giờ cũng diễn ra trước khi tội phạm được thực hiện. Giai đoạn này diễn ra trong thời gian ngắn hay dài phụ thuộc rất lớn vào khách thể của tội phạm mà người chuẩn bị phạm tội nhắm tới, động cơ, mục đích của việc phạm tội, công cụ, phương tiện, phạm tội có phức tạp hay không… Nếu công cụ, phương tiện phạm tội là những thứ dễ tìm kiếm như dao, búa…, động cơ thôi thúc mãnh liệt thì hành vi chuẩn bị phạm tội diễn ra trong thời gian rất ngắn. Nhưng nếu công cụ, phương tiện phạm tội là những thứ khó tìm kiếm như súng đạn, dùi cui…, hay để tạo ra nó cần mất nhiều thời gian, việc xâm phạm khách thể của tội định phạm cần có nhiều người cùng tham gia thì hành vi chuẩn bị phạm tội diễn ra trong một thời gian dài hơn. Lưu ý, hành vi chuẩn bị phạm tội khác với hành vi thực hiện tội phạm. Có nhiều trường hợp rất dễ bị nhầm lẫn giữa hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi thực hiện tội phạm vì ranh giới của nó rất nhỏ. Nếu việc tạo điều kiện để thực hiện tội phạm được tiến hành trước khi thực hiện tội phạm một thời
  • 29. 29 gian dài thì đó là giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Nhưng nếu việc tạo điều kiện để thực hiện tội phạm được tiến hành ngay trước khi tội phạm bắt đầu thì hành vi đó chỉ được coi là một bước của giai đoạn thực hiện tội phạm. Ví dụ: Hai người đi đường đâm vào nhau gây tai nạn giao thông, sau đó tranh cãi, xô xát. Một trong hai người nhặt cục đá ven đường ném mạnh vào đầu người kia dẫn đến bị thương nặng ở đầu. Hành vi đó phải tính là một bước của giai đoạn thực hiện tội phạm, chứ không thể coi là hành vi chuẩn bị phạm tội. Trên thực tế, có những hành vi chuẩn bị phạm tội không chỉ cấu thành một tội phạm chưa hoàn thành, mà hành vi đó còn có đầy đủ các dấu hiệu của một (hay nhiều) tội phạm hoàn thành khác. Ví dụ: A có thù oán với B, nên có ý định giết B. Để chuẩn bị giết B, A đã tìm mua trái phép súng quân dụng. Trong lúc chờ thời cơ giết B, tên này đã cất giấu súng một thời gian. Như vậy, A đã phạm tội giết người ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và đồng thời A còn phạm tội mua bán, vận chuyển, tàng trữ vũ khí quân dụng ở giai đoạn hoàn thành. Trong trường hợp này, A phải chịu trách nhiệm hình sự của tội giết người chưa hoàn thành, đồng thời phải chịu trách nhiệm hình sự của tội mua bán, vận chuyển, tàng trữ vũ khí quân dụng ở giai đoạn hoàn thành. * Ý nghĩa của giai đoạn chuẩn bị phạm tội Chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn trong các giai đoạn thực hiện tội phạm, nó xuất hiện sau khi người phạm tội nảy sinh ý định thực hiện tội phạm. Chuẩn bị phạm tội cũng là giai đoạn đầu tiên của quá trình người phạm tội trải qua việc thực hiện tội phạm. Mặc dù chuẩn bị phạm tội chưa thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm (trừ một số trường hợp đặc biệt), chưa tác động trực tiếp đến các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, nhưng đó là giai đoạn chuẩn bị sẵn những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm cụ thể và cũng là tiền đề để tội phạm xảy ra một cách dễ dàng, nhanh chóng, từ đó thực hiện các bước tiếp theo của các giai đoạn thực hiện tội phạm.
  • 30. 30 Có thể nó, việc đi sâu nghiên cứu về chuẩn bị phạm tội là rất cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng, mà qua đó xác định giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt có ý nghĩa rất quan trọng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt [40]. Trong Bộ luật hình sự hiện hành, nhà làm luật nước ta chỉ quy định các cấu thành tội phạm tương ứng với các tội phạm đã hoàn thành, mà không quy định các cấu thành tội phạm tương ứng với giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Do vậy, việc xác định đúng giai đoạn chuẩn bị phạm tội là cơ sở cho việc định tội. Việc xác định đúng giai đoạn chuẩn bị phạm tội là căn cứ để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội. Ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội thì tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội bao giờ cũng thấp hơn so với các giai đoạn như phạm tội chưa đạt hay tội phạm hoàn thành. Việc xác định đúng giai đoạn chuẩn bị phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong quyết định hình phạt, qua đó, đảm bảo cho các cơ quan xét xử quyết định hình phạt một cách công minh, đưa ra được quyết định hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với người phạm tội. Tóm lại, việc đi sâu nghiên cứu về giai đoạn chuẩn bị phạm tội có ý nghĩa quan trọng để đánh giá mức độ thực hiện tội phạm, từ đó đưa ra cơ sở xác định phạm vi và mức độ trách nhiệm hình sự ở lĩnh vực lập pháp và áp dụng hình phạt đối với những trường hợp cụ thể của giai đoạn chuẩn bị phạm tội, cũng như các bước khác nhau của các giai đoạn thực hiện tội phạm trong luật hình sự Việt Nam. 1.2.3. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và ý nghĩa của phạm tội chƣa đạt * Khái niệm Điều 18 Bộ luật hình sự Việt Nam quy định: "Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên
  • 31. 31 nhân bên ngoài ý muốn của người phạm tội" [32]. Như vậy, về mặt lý luận, chúng ta có thể hiểu, phạm tội chưa đạt là giai đoạn tiếp theo sau của giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Trong giai đoạn phạm tội chưa đạt, người phạm tội sử dụng những điều kiện thuận lợi cần thiết đã chuẩn bị để thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (được quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm), tuy nhiên, vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội nên tội phạm đã không được thực hiện đến cùng. Khái niệm về phạm tội chưa đạt đã manh nha xuất hiện vào năm 1970 khi trong bản tổng kết số 452-HS2, ngày 10/08/1970 của Tòa án nhân dân tối cao về thực tiễn xét xử loại tội giết người, có giải thích: "Tội giết người chưa hoàn thành khi người bị nạn chết, đối với trường hợp giết người nhưng không chết, nên thống nhất gọi là "giết người chưa đạt" [39, tr. 27]. Đến năm 1985 thì khái niệm này đã được nêu ra tại khoản 2, Điều 15 (Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985). Như vậy, khái niệm phạm tội chưa đạt đã xuất hiện khá lâu trong lịch sử pháp luật Việt Nam, được quy định trong Bộ luật hình sự các thời kỳ và cũng đã được định nghĩa khá rõ ràng, đầy đủ. Do đó, dưới góc độ khoa học luật hình sự, theo chúng tôi, khái niệm đang nghiên cứu có thể được định nghĩa như sau: Phạm tội chưa đạt một giai đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý trực tiếp, là khi một người đã thực hiện tội phạm, nhưng tội phạm đã không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người đó. * Các đặc điểm cơ bản Từ khái niệm trên, chúng ta có thể thấy nội dung của phạm tội chưa đạt được phản ánh thông qua các đặc điểm cơ bản bao gồm cả phương diện khách quan và phương diện chủ quan như sau. Một là, về phương diện khách quan.
  • 32. 32 - Từ chuẩn bị phạm tội (ở giai đoạn trước), người phạm tội đã bắt đầu thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm, khách thể của tội phạm đã bị đe dọa và bị xâm hại một cách trực tiếp. Ví dụ: Người phạm tội đã thực hiện hành vi lấy cắp tài sản từ kho hàng của công ty, nhưng khi chưa kịp đem ra khỏi công ty thì bị bảo vệ phát hiện, bắt giữ. - Phạm tội chưa đạt có thể là hành động hoặc không hành động, tuy nhiên phần lớn là hành động. Hành vi phạm tội chưa đạt đã tác động trong chừng mực nhất định đã làm biến đổi các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. - Tội phạm không thực hiện đến cùng: Về hình thức, hành vi chưa thỏa mãn đầy đủ những dấu hiệu của một cấu thành tội phạm tương ứng được quy định trong từng tội phạm cụ thể, hoặc đã thỏa mãn nội dung cấu thành tội phạm nhưng hậu quả nguy hiểm cho xã hội theo ý muốn của người phạm tội chưa xảy ra. Hành vi đó chưa thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội. Hậu quả chưa xảy ra hoặc đã xảy ra nhưng không như người phạm tội mong muốn. Hành vi chưa thỏa mãn đầy đủ những dấu hiệu của một cấu thành tội phạm tương ứng là điểm cơ bản để phân biệt phạm tội chưa đạt với tội phạm hoàn thành. Những khả năng có thể xảy ra như sau: + Người phạm tội chưa thực hiện được hành vi khách quan, mà mới chỉ thực hiện được hành vi đi liền trước hành vi khách quan được mô tả trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm. + Người phạm tội chưa thực hiện được đầy đủ nội dung hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm. Người phạm tội mới chỉ thực hiện được một phần hành vi hoặc thực hiện được một hành vi trong số các hành vi được quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm. + Hậu quả chưa xảy ra dù người phạm tội đã thực hiện hết hành vi được quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Hoặc đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa phù hợp với hậu quả được quy định trong cấu thành tội phạm.
  • 33. 33 + Dù hậu quả thiệt hại đã xảy ra, nhưng không có mối quan hệ nhân quả với hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm mà người phạm tội thực hiện. - Tội phạm không được thực hiện đến cùng là do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội: Những nguyên nhân dẫn đến hậu quả chưa xảy ra hoặc không xảy ra là những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Trong giai đoạn phạm tội chưa đạt cũng có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc. Thời điểm bắt đầu của hành vi phạm tội chưa đạt là từ khi người phạm tội bắt đầu thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm hoặc hành vi đi liền trước đó. Thời điểm kết thúc là thời điểm người phạm tội đang thực hiện hành vi phạm tội thì bị phát hiện, ngăn chặn hoặc đã thực hiện xong hết hành vi nhưng hậu quả không xảy ra hoặc đã xảy ra nhưng không đúng như mong muốn. Việc xác định xem tội phạm đã bắt đầu thực hiện hay chưa cần dựa vào khách thể của tội phạm, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, loại hành vi, ý thức chủ quan của người phạm tội và từng loại cấu thành tội phạm. Trong loại cấu thành tội phạm hình thức, hành vi đi liền trước hành vi khách quan đã được quy định là hành vi bắt đầu thực hiện tội phạm được quy định trong các cấu thành tội phạm tương ứng. Hai là, về phương diện chủ quan. - Phạm tội chưa đạt là hành vi được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Mỗi hành vi được thực hiện đều có động cơ, mục đích riêng. Người phạm tội nhận thức được hành vi mà mình thực hiện nguy hiểm cho xã hội, nhìn thấy trước khả năng xảy ra hậu quả và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra nhưng hậu quả đó đã không xảy ra như mong muốn. Ví dụ: A đi làm về ban đêm, trên một đoạn đường vắng, nhìn thấy B bị tai nạn giao thông do ngã xe máy, chấn thương rất nặng, nằm bất động. Do sợ bị liên lụy, A không dừng xe để đưa B đi cấp cứu và để mặc B nằm đấy.
  • 34. 34 Trong trường hợp này, nếu B chết thì A sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 102 Bộ luật hình sự về tội không cứu giúp người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, nhưng nếu sau đó B được một người tốt bụng khác đưa đi cấp cứu thì B lại không phạm tội, vì điều luật quy định là phải xảy ra hậu quả chết người. * Các dạng phạm tội chưa đạt Trong giai đoạn phạm tội chưa đạt, tùy từng trường hợp, tính chất, mức độ phạm tội chưa đạt không giống nhau, vì thế, cần phân loại các dạng phạm tội chưa đạt. Việc phân loại tội phân loại phạm tội chưa đạt có ý nghĩa xác định mức độ nguy hiểm của phạm tội chưa đạt, làm cơ sở cho việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với từng trường hợp cụ thể. Việc phân loại phạm tội chưa đạt dựa trên những căn cứ khác nhau. Căn cứ vào mức độ thực hiện hành vi mà người phạm tội dự định thực hiện, chúng ta có thể phân chia thành hai dạng phạm tội chưa đạt là: phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Một là, phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Đây là trường hợp chưa đạt về hành vi và cả chưa đạt về hậu quả. Là dạng phạm tội (chưa đạt) mà người phạm tội cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện đến cùng do những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội cũng chưa thực hiện hết những hành vi dự định làm. Việc chấm dứt hành vi nằm ngoài dự tính và trái với mong muốn của người phạm tội. Trường hợp này, người phạm tội nhận thức rõ ràng rằng mình đã không thực hiện được tất cả những hành vi cần thiết để hậu quả xảy ra. Hai là, phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Ở trường hợp này, người phạm tội đã thực hiện tất cả những hành vi mà họ cho là cần thiết để đạt được mục đích mà họ dự định và mong muốn từ trước. Hành vi của người phạm tội đã thỏa mãn đầy đủ nội dung của hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm, nhưng do những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội mà hậu quả của tội phạm chưa xảy ra.
  • 35. 35 Đây là dạng phạm tội chưa đạt mà người phạm tội cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng do những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Tuy nhiên, khác với dạng phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, thì ở dạng này người phạm tội đã thực hiện hết hành vi dự định làm. Như vậy, có thể nói, dạng phạm tội chưa đạt đã hoàn thành có hành vi rất gần với tội phạm hoàn thành, do vậy nó cũng mang tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn dạng phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Về mặt chủ quan, phạm tội chưa đạt đã thành là cố ý thực hiện hành vi đến cùng. Về mặt khách quan, phạm tội chưa đạt đã hoàn thành cũng đã thực hiện đầy đủ hành vi thỏa mãn cấu thành tội phạm tương ứng trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, nó chỉ khác tội phạm hoàn thành ở hậu quả chưa xảy ra, hoặc đã xảy ra nhưng không như mong muốn của người phạm tội. * Ý nghĩa của giai đoạn phạm tội chưa đạt Phạm tội chưa đạt là một giai đoạn trong các giai đoạn thực hiện tội phạm, Đây là giai đoạn tiếp theo sau của giai đoạn chuẩn bị phạm tội và xảy ra trước giai đoạn tội phạm hoàn thành. Trong giai đoạn này, người phạm tội sử dụng những điều kiện thuận lợi cần thiết đã chuẩn bị (ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội có trước) để cố ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và đã thực hiện các hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm (được quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm), tuy nhiên, vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội nên tội phạm đã không được thực hiện đến cùng. Việc đi sâu nghiên cứu về giai đoạn phạm tội chưa đạt là rất cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng, qua đó: - Xác định đúng việc thực hiện tội phạm ở giai đoạn phạm tội chưa đạt là căn cứ xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội. Hành vi ở giai
  • 36. 36 đoạn phạm tội chưa đạt bao giờ cũng nặng hơn giai đoạn chuẩn bị phạm tội và nhẹ hơn giai đoạn tội phạm hoàn thành. - Xác định giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt có ý nghĩa rất quan trọng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt [40]. Do trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự không quy định cụ thể về phạm tội chưa đạt nên việc xác định đúng giai đoạn này là cơ sở cho việc định tội. - Xác định đúng việc thực hiện tội phạm ở giai đoạn phạm tội chưa đạt có ý nghĩa quan trọng trong quyết định hình phạt, đảm bảo cho các cơ quan xét xử quyết định hình phạt một cách công minh, đưa ra được quyết định hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội. - Xác phân chia để xác định các dạng phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành (trong giai đoạn phạm tội chưa đạt) có ý nghĩa quan trọng trong quyết định hình phạt, đảm bảo cho các cơ quan xét xử quyết định hình phạt một cách công minh, đưa ra được quyết định hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, đúng người, đúng tội. Như vậy, có thể nói, việc nghiên cứu giai đoạn phạm tội chưa đạt có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Về mặt lý luận, giúp chúng ta bổ sung thêm, làm rõ về mặt lý luận những vấn đề về tội phạm chưa hoàn thành để từ đó có thể đưa ra một mô hình lý luận hoàn chỉnh về chế định này. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu chế định phạm tội chưa đạt giúp cho những người làm công tác áp dụng pháp luật có thể đánh giá mức độ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội để áp dụng pháp luật một cách chính xác, bảo đảm truy tố, xét xử đúng người đúng tội và phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Ngoài ra, việc nghiên cứu chế định phạm tội chưa đạt, giúp ích rất nhiều trong nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, ngăn ngừa việc xảy ra các tội phạm nguy hiểm.
  • 37. 37 1.3. QUY ĐỊNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH Pháp luật hình sự Việt Nam và pháp luật hình sự trên thế giới đều có chung mục đích là bảo vệ công lý, giữ vững chế độ chính trị, bảo vệ đất nước, đảm bảo quyền con người. Tuy nhiên, ở mỗi nước lại có cách nhìn nhận riêng, quy định riêng, có phần giống và cũng có phần khác nhau trong mỗi điều luật. Về dạng tội phạm chưa hoàn thành, hầu hết các nước đều có quy định. Để có nhận thức toàn diện và bao quát hơn, qua đó có thể đánh giá, đối chiếu với pháp luật hình sự ở Việt Nam, chúng tôi đi sâu nghiên cứu pháp luật của các nước và nhận thấy sự đa dạng trong pháp luật về tội phạm chưa hoàn thành trên thế giới. 1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga Liên bang Nga là quốc gia có lịch sử pháp luật hình sự lâu đời với nhiều quan điểm phong phú. Bộ luật hình sự Liên bang Nga, được Đuma quốc gia thông qua ngày 24/05/1996, sửa đổi năm 2010 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự Liên bang Nga). Khoa học luật hình sự Liên bang Nga từ trước đến nay có nhiều quan điểm khác nhau về các giai đoạn phạm tội. Điểm đáng ghi nhận là trong Bộ luật hình sự nước này có một chương riêng về Tội phạm chưa hoàn thành (Chương 6) với các điều luật cụ thể như: - Điều 29 quy định về tội phạm hoàn thành và chưa hoàn thành; - Điều 30 quy định về chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt; - Điều 31 quy định về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. * Giai đoạn chuẩn bị phạm tội Theo Bộ luật hình sự Liên bang Nga tại khoản 1 Điều 30 quy định khái niệm: Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn phương tiện, công cụ phạm tội, tìm kiếm những người đồng phạm, bàn bạc thực hiện việc tội phạm hoặc cố ý tạo ra những điều kiện khác để thực hiện
  • 38. 38 tội phạm nhưng tội phạm không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội [46]. Khái niệm về chuẩn bị phạm tội mà Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định, cũng giống như khái niệm về chuẩn bị phạm tội của Bộ luật hình sự Việt Nam quy định tại Điều 17. Các dấu hiệu giống nhau như: tìm kiếm, sửa soạn hoặc chuẩn bị phương tiện hoặc công cụ phạm tội; hay tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm. Trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga còn thêm phần sau của khái niệm là các dấu hiệu như: Tìm kiếm những người đồng phạm, bàn bạc việc thực hiện tội phạm. Khái niệm này cũng làm rõ ý: Tội phạm không thực hiện được do hoàn cảnh khách quan. Như vậy, nội dung cơ bản của khái niệm chuẩn bị phạm tội của Bộ luật hình sự Việt Nam và Liên bang Nga là tương đối giống nhau, dù câu chữ có khác nhau, nhưng mục đích, quan điểm của nhà làm luật là cơ bản giống nhau. Khái niệm về chuẩn bị phạm tội của luật hình sự Liên bang Nga nêu trên đã thể hiện được đầy đủ ý như "tìm kiếm đồng phạm"; "bàn bạc thực hiện tội phạm"; hay "tội phạm nhưng tội phạm không thực hiện được do hoàn cảnh khách quan". Như vậy, khái niệm đã làm rõ được giai đoạn chuẩn bị phạm tội, và là giai đoạn đầu của hoạt động phạm tội sơ bộ. Khái niệm cũng đã thể hiện được phần "lý do khách quan" mà tội phạm không được thực hiện. Đây là những dấu hiệu cần được làm rõ mà hiện nay trong Bộ luật hình sự Việt Nam chưa được ghi nhận. Chúng tôi cho rằng, nhà làm luật nước ta cần ghi nhận những dấu hiệu này trong Bộ luật hình sự sửa đổi tới đây. Về trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, khoản 2 Điều 30 của Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định: "Chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng" [46]. Theo đó, các tội có mức hình phạt cao nhất từ 5 năm tù trở lên hoặc hình phạt nghiêm khắc hơn. So với quy định này của Bộ luật hình sự Liên bang Nga thì Bộ luật hình sự Việt Nam có
  • 39. 39 phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người chuẩn bị phạm tội hẹp hơn, vì theo Bộ luật hình sự Việt Nam, hành vi chuẩn bị phạm tội có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội đó từ trên 7 năm tù trở lên, tù chung thân hoặc tử hình thì phải chịu trách nhiệm hình sự, còn hành vi chuẩn bị phạm tội ở một tội có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội đó là không quá 7 năm tù thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, Điều 66 Bộ luật hình sự Liên bang Nga có quy định về quyết định hình phạt đối với phạm tội chưa đạt, trong đó quy định về trường hợp chuẩn bị phạm tội như sau: 1) Khi quyết định hình phạt đối với phạm tội chưa đạt phải cân nhắc các tình tiết làm cho tội phạm không được thực hiện đến cùng; 2) Thời hạn và mức hình phạt đối với việc chuẩn bị phạm tội không vượt quá 1/2 thời hạn mức hình phạt [46]. * Giai đoạn phạm tội chưa đạt Tương tự, tại khoản 3 Điều 30 Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định: "Phạm tội chưa đạt là những hành động (hoặc không hành động) cố ý của một người trực tiếp nhằm thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội" [46]. Như vậy, khái niệm phạm tội chưa đạt trên tương tự như quy định về phạm tội chưa đạt trong Bộ luật hình sự Việt Nam, nhưng trong đó chỉ ra hai dạng của hành vi là hành động hoặc không hành động. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với phạm tội chưa đạt của Bộ luật hình sự Liên bang Nga khá giống như Bộ luật hình sự Việt Nam khi không đặt ra vấn đề giới hạn những trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự mà quy định mọi trường hợp phạm tội chưa đạt đều phải chịu trách nhiệm hình sự, không kể tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Điều 66 Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định mức hình phạt quyết định đối với hành vi phạm tội chưa đạt không vượt quá 3/4 mức hình phạt trong
  • 40. 40 khung hình phạt đối với tội phạm đã hoàn thành, không áp dụng hình phạt tử hình và tù chung thân đối với người phạm tội chưa đạt (tại khoản 3 và khoản 4). Như vậy, về cơ bản, Bộ luật hình sự Liên bang Nga giống với Bộ luật hình sự Việt Nam ở mức hình phạt quyết định đối với hành vi phạm tội chưa đạt áp dụng cho hình phạt tù có thời hạn là không vượt quá 3/4 mức hình phạt mà điều luật quy định. Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga lại không áp dụng hai hình phạt nghiêm khắc nhất là hình phạt tử hình và hình phạt tù chung thân đối với người có hành vi phạm tội chưa đạt. Theo Bộ luật hình sự Việt Nam thì trường hợp điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì có thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Ngoài ra, Bộ luật hình sự Liên bang Nga cũng có quy định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành tại một khoản riêng: "Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành được quy định trong điều luật quy định trách nhiệm hình sự đối với phạm tội hoàn thành và viện dẫn Điều 30 Bộ luật hình sự này" [46, khoản 3 Điều 66]. 1.3.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Pháp luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có quy định về tội phạm chưa hoàn thành, tuy nhiên khái niệm khá ngắn gọn. Bộ luật hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ II, ngày 01/7/1979, có hiệu lực từ ngày 01/01/1980. Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự này được sửa đổi vào năm 1997, có hiệu lực từ ngày 01/10/1997. Từ sau năm 1997, Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được sửa đổi, bổ sung vào năm 1999, 2001, 2002, 2005 và gần đây là 2009 tại Hội nghị lần thứ 16 của Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa). Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thể hiện nội dung về tội phạm chưa hoàn thành như sau:
  • 41. 41 * Giai đoạn chuẩn bị phạm tội Bộ luật hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định ngắn gọn về chuẩn bị phạm tội như sau: "Chuẩn bị phạm tội là sửa soạn công cụ, tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm" [15, tr. 46]. So với khái niệm về chuẩn bị phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam thì Bộ luật hình sự của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không nói đến các từ "tìm kiếm" và "phương tiện". Về trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành của Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định việc chuẩn bị phạm tội bị xử lý nhẹ hơn phạm tội chưa đạt và phạm tội chưa đạt bị xử lý nhẹ hơn tội phạm hoàn thành. Quy định nhẹ nhất là có thể miễn hình phạt và có thể quyết định hình phạt cho chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cho trường hợp tội phạm hoàn thành. Điều 22 Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: "Đối với những hành vi chuẩn bị phạm tội có thể quyết định hình phạt giảm nhẹ, giảm khung hình phạt hoặc miễn hình phạt" [15]. Theo đó, Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa coi chuẩn bị phạm tội là các tình tiết có tính chất giảm nhẹ, giảm khung hình phạt, hoặc miễn hình phạt theo quy định của Điều 63 Bộ luật hình sự này là quyết định hình phạt nhẹ hơn mức tối thiểu của khung hình phạt. Trong khi đó, Bộ luật hình sự Việt Nam không coi chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và khi quyết định hình phạt, Tòa án không được quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự (Điều 47) khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự Việt Nam. Như vậy quy định trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với chuẩn bị phạm tội của Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là khác hẳn so với Bộ luật hình sự Việt Nam. * Giai đoạn phạm tội chưa đạt Tương tự, Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định về khái niệm đối với phạm tội chưa đạt như sau: "Phạm tội chưa đạt là đã thực
  • 42. 42 hiện hành vi phạm tội nhưng chưa thực hiện đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội" [15, tr. 46]. Điều 23 Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: "... đối với phạm tội chưa đạt có thể quy định hình phạt nhẹ hơn so với tội phạm hoàn thành hoặc quyết định hình phạt nhẹ hơn" [46]. Quyết định một hình phạt nhẹ tại Điều 23 Bộ luật hình sự là quyết định hình phạt nhẹ hơn mức tối thiểu của khung hình phạt. Như vậy, về trách nhiệm hình sự và hình phạt, Bộ luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa không quy định cụ thể về mức độ giảm nhẹ của hình phạt áp dụng cho các trường hợp phạm tội chưa hoàn thành, nhưng cũng có quy định cụ thể về hành vi hành vi phạm tội chưa đạt là bị xử lý nặng hơn chuẩn bị phạm tội và bị xử lý nhẹ hơn so với tội phạm hoàn thành. Bộ luật hình sự này quy định hình phạt cho phạm tội chưa đạt có thể ở dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định cho tội phạm hoàn thành. Tóm lại, Bộ luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa coi phạm tội chưa đạt là một trong hai trường hợp phạm tội có tình tiết giảm nhẹ nên cũng được xử lý, thể hiện ở quy định có thể xử lý nhẹ cho trường hợp này dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định cho tội phạm hoàn thành. Tuy nhiên, cụ thể hóa trách nhiệm hình sự đối với phạm tội chưa đạt lại chưa thật rõ ràng so với Bộ luật hình sự Việt Nam. 1.3.3. Bộ luật hình sự Nhật Bản Tại Nhật Bản, pháp luật hình sự có ghi nhận về tội phạm chưa hoàn thành, tuy nhiên nó chỉ được quy định ngay trong điều khoản cụ thể về hình phạt mà không nêu rõ nội dung các khái niệm của tội phạm chưa hoàn thành. Bộ luật hình sự Nhật Bản năm 2001, sửa đổi bổ sung năm 2009 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự Nhật Bản) quy định trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội, mức giảm nhẹ hoặc miễn hình phạt được quy định
  • 43. 43 ngay tại điều khoản nói về hành vi chuẩn bị phạm tội cụ thể. Tuy nhiên, chỉ trong những trường hợp điều khoản về tội phạm cụ thể quy định hình phạt đối với chuẩn bị phạm tội. Ví dụ: Trong Điều 113 Bộ luật hình sự Nhật Bản quy định: "Người nào chuẩn bị nhằm phạm các tội được quy định tại Điều 107 hoặc khoản 1 Điều 109 thì phạt tù có lao động bắt buộc đến 2 năm. Tuy nhiên trong trường hợp giảm nhẹ thì có thể được miễn hình phạt" [17]. Trong Bộ luật hình sự Nhật Bản, các tội liên quan đến chuẩn bị phạm tội gồm: Chương 2, các tội liên quan đến nổi loạn nhằm lật đổ chính quyền (Điều 78 - Chuẩn bị và bày mưu tính kế nổi loạn); Chương 3, các tội liên quan đến ngoại xâm (Điều 88 - Chuẩn bị và bày mưu tính kế); Chương 4, các tội liên quan đến quan hệ đối ngoại (Điều 93 - Chuẩn bị bày mưu tính kế gây chiến tranh); Chương 9, các tội liên quan đến hỏa hoạn và vô ý gây cháy (Điều 113 - Chuẩn bị gây hỏa hoạn); Chương 16, các tội làm tiền giả (Điều 153 - Chuẩn bị phạm tội); Chương 26, các tội giết người (Điều 201 - Chuẩn bị phạm tội giết người); Chương 36, các tội trộm cắp và cướp tài sản (Điều 237 - Chuẩn bị cướp tài sản); v.v... Còn phạm tội chưa đạt quy định chung ở Điều 44 Bộ luật hình sự Nhật Bản chỉ dẫn "Trường hợp xét xử phạm tội chưa đạt thì có quy định riêng từng điều khoản" [17]; điều này khác với Bộ luật hình sự các nước. Như vậy, so với Bộ luật hình sự Việt Nam thì Bộ luật hình sự Nhật Bản không nêu cụ thể nội dung khái niệm về tội phạm hoàn thành (chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt), mà chỉ ghi nhận gián tiếp thông qua các quy định về trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội. Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự Nhật Bản quy định trong chuẩn bị phạm tội những trường hợp giảm nhẹ có thể được miễn hình phạt. Qua so sánh, đối chiếu và phân tích, chúng ta có thể nhận thấy những điểm khác nhau giữa luật hình sự của Việt Nam và Nhật Bản về tội phạm chưa hoàn thành.
  • 44. 44 Chương 2 TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH 2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM CHƢA HOÀN THÀNH 2.1.1. Khái niệm, cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chƣa hoàn thành * Khái niệm Để có nhận thức đầy đủ về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành, chúng ta cần tìm hiểu về khái niệm trách nhiệm hình sự nói chung. Trách nhiệm là một thuật ngữ chỉ mối quan hệ qua lại giữa cá nhân, công dân với cộng đồng, với người khác, với xã hội. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ "trách nhiệm" được hiểu đơn giản là: "điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình" [58, tr. 1621]. Còn trong thực tiễn đời sống xã hội, chính trị và pháp lý, "trách nhiệm" thường được hiểu theo hai nghĩa và tương đối thống nhất như sau: Một là, trách nhiệm là bổn phận, nghĩa vụ, việc phải làm của một người trước người khác, trước Nhà nước hay trước cộng đồng xã hội. Theo đó, mỗi cá nhân, mỗi con người cụ thể bên cạnh những quyền được thừa nhận và bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật, thì cũng cần có trách nhiệm trước người khác, trước Nhà nước hay trước cộng đồng xã hội. Chỉ có như vậy, "mới tạo nên sự đồng thuận, phát triển hài hòa và bền vững của xã hội với tư cách là một chỉnh thể thống nhất. Sự phát triển trách nhiệm của con người không chỉ là một tiêu chí quan trọng thể hiện trình độ phát triển của xã hội, mà hơn thế, còn là nền tảng, là cơ sở và là động lực của sự phát triển xã hội..." [51, tr. 12].
  • 45. 45 Hai là, trách nhiệm là hậu quả bất lợi của một người đã thực hiện hành vi vi phạm bổn phận, nghĩa vụ phải gánh chịu trước người khác, trước Nhà nước hay trước cộng đồng xã hội. Trách nhiệm hình sự là một thuật ngữ được dùng với nghĩa thứ hai và sử dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, đồng thời là một dạng của trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý được đặt ra tùy theo tính chất vi phạm của hành vi đối với từng nhóm quan hệ xã hội khác nhau được pháp luật bảo vệ, mà nội dung bao gồm các loại như: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật; v.v... Với tư cách là một dạng của trách nhiệm pháp lý, dưới góc độ khoa học luật hình sự cũng có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm trách nhiệm hình sự. Trước hết, dưới góc độ lịch sử, có quan điểm cho rằng, định nghĩa chính xác về "trách nhiệm hình sự" đã có nhiều thay đổi và nhìn nhận giữa các quốc gia, Nhà nước, tuy nhiên, bản chất các quan điểm đều thống nhất ở chỗ - "một người phải chịu trách nhiệm về một hành vi phạm tội, khi họ hiểu được (nhận thức được) những gì họ đang làm và cho rằng đó là sai, vi phạm pháp luật. Một cá nhân có thể cũng không phải chịu trách nhiệm về tội phạm do họ gây ra vì lý do mắc các bệnh rối loạn tâm thần" [62]. Như vậy, quan điểm này đã phản ánh trực tiếp nội dung của trách nhiệm hình sự, đồng thời loại trừ - thể hiện tính nhân đạo và không cần thiết phải xử lý đối với trường hợp một người đã thực hiện tội phạm vì lý do mắc các bệnh rối loạn tâm thần. Quan điểm khác nêu: "Trách nhiệm hình sự là mức độ mà chủ thể (một người đàn ông hay người phụ nữ) phải chịu hoàn toàn, một phần hoặc không chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của họ do có các căn cứ pháp luật tương ứng điều chỉnh" [63]. Tương tự, quan điểm này tập trung làm rõ mức độ của trách nhiệm hình sự - phải chịu hoàn toàn, phải chịu một phần hoặc không phải chịu trách nhiệm hình sự trên các căn cứ tương ứng do pháp