Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” , cho các bạn có thể tham khảo
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
Luận văn: Nguyên tắc nhân tạo trong quy chế Rome 1998, HOT
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ NGỌC ANH
NGUY£N T¾C NH¢N §¹O TRONG QUY CHÕ ROME 1998 VÒ
"TßA ¸N H×NH Sù QUèC TÕ"
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ NGỌC ANH
NGUY£N T¾C NH¢N §¹O TRONG QUY CHÕ ROME 1998 VÒ
"TßA ¸N H×NH Sù QUèC TÕ"
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH LÊ VĂN CẢM
HÀ NỘI - 2016
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn của GS.TSKH Lê Văn Cảm. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan
Trần Thị Ngọc Anh
4. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: VÀI NÉT TỔNG QUAN VỀ QUY CHẾ ROME NĂM
1998 “VỀ TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ”..................................... 7
1.1. Sự ra đời của Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình
sự quốc tế”......................................................................................... 7
1.1.1. Trƣớc Chiến tranh thế giới thứ hai .................................................... 7
1.1.2. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai........................................................ 9
1.2. Nội dung pháp lý cơ bản của Quy chế Rome năm 1998
“Về Tòa án hình sự quốc tế” ......................................................... 13
1.2.1. Khái niệm tội phạm quốc tế............................................................. 13
1.2.2. Các thiết chế của ICC ...................................................................... 14
1.2.3. Thẩm quyền tài phán của ICC......................................................... 15
1.2.4. Hoạt động tố tụng của ICC.............................................................. 18
1.2.5. Quyền và nghĩa vụ của quốc gia thành viên.................................... 18
1.3. Hệ thống các nguyên tắc pháp luật chung trong Quy chế
Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế”............................. 20
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 26
Chƣơng 2: SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO
TRONG QUY CHẾ ROME NĂM 1998 “VỀ TÒA ÁN
HÌNH SỰ QUỐC TẾ”.................................................................... 27
2.1. Nội dung cơ bản của nguyên tắc nhân đạo ................................. 27
5. 2.2. Ý nghĩa của nguyên tắc nhân đạo ................................................ 29
2.3. Các quy định về nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế
Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế”............................. 30
2.3.1. Quy định về lời nói đầu ................................................................... 30
2.3.2. Quy định về áp dụng và giải thích luật............................................ 31
2.3.3. Quy định về trƣờng hợp tội phạm đƣợc hiểu theo hai nghĩa .......... 33
2.3.4. Quy định về không hồi tố ............................................................... 34
2.3.5. Quy định về không truy tố hình sự đối với ngƣời dƣới 18
tuổi phạm tội.................................................................................... 35
2.3.6. Quy định về những căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự ............... 35
2.3.7. Quy định về hình phạt...................................................................... 39
2.3.8. Quy định về quyết định bản án........................................................ 41
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 42
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG LĨNH HỘI CÁC TƢ TƢỞNG CỦA
NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO CỦA QUY CHẾ ROME
NĂM 1998 “VỀ TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ” VÀO
VIỆC XÂY DỰNG NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO CỦA
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM........................................... 44
3.1. Lƣợc khảo nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự
Việt Nam......................................................................................... 44
3.1.1. Nội dung cơ bản của nguyên tắc nhân đạo...................................... 45
3.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc ................................................................... 48
3.1.3. Các quy định về nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự
Việt Nam.......................................................................................... 49
3.2. So sánh các quy định về nguyên tắc nhân đạo của Quy chế
Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” và pháp luật
hình sự Việt Nam............................................................................. 50
3.2.1. Những điểm giống nhau .................................................................. 51
3.2.2. Những điểm khác nhau.................................................................... 55
3.3. Suy ngẫm về việc tiếp tục hoàn thiện nguyên tắc nhân
đạo của pháp luật hình sự Việt Nam ........................................... 60
6. 3.3.1. Cần ghi nhận nguyên tắc nhân đạo thuộc một Chƣơng độc
lập của Bộ luật Hình sự Việt Nam................................................... 61
3.3.2. Ngƣời từ đủ 18 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình
sự về các tội phạm quy định tại Chƣơng XXVI Bộ luật Hình
sự...................................................................................................... 62
3.3.3. Loại bỏ hình phạt tử hình đối với các tội phá hòa bình,
chống loài ngƣời và tội phạm chiến tranh; tiến tới loại bỏ
hoàn toàn án tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam ................. 66
3.4. Giải pháp để lĩnh hội nguyên tắc nhân đạo trong pháp
luật hình sự Việt Nam.................................................................... 69
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 72
KẾT LUẬN.................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 74
7. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật Hình sự
ICC Tòa án hình sự quốc tế
MHLL Mô hình lý luận
PLHS Pháp luật hình sự
8. DANH MỤC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
Bảng 3.1: So sánh các quy định về nguyên tắc nhân đạo của Quy
chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” và
pháp luật hình sự Việt Nam 60
9. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tòa án hình sự quốc tế là một thiết chế tƣ pháp quốc tế thƣờng trực
đƣợc thiết lập từ năm 1998, bắt đầu hoạt động từ ngày 01/7/2002, đƣợc lập ra
bởi điều ƣớc quốc tế là Quy chế Rome (đƣợc thông qua tại hội nghị ngoại
giao do Liên hợp quốc bảo trợ tổ chức tại Rome (Italia), ngày 17/7/1998), với
chức năng điều tra, truy tố và xét xử những cá nhân phạm vào bốn dạng tội
phạm quốc tế là tội phạm chiến tranh, tội phạm chống nhân loại, tội diệt
chủng và tội xâm lƣợc.
Mặc dù vẫn còn những nghi ngại về tính độc lập, khách quan và hiệu
quả hoạt động của nó, song không thể phủ nhận rằng, ICC là một thiết chế
ngày càng có ảnh hƣởng sâu rộng trên thế giới. Kể từ khi đƣợc thông qua
(năm 1998) đến nay, Quy chế Rome đã có 100 nƣớc thành viên, một số nƣớc
đã ký đang chuẩn bị phê chuẩn Quy chế và một số nƣớc khác cũng bày tỏ ý
định gia nhập Quy chế.
Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta là đa dạng hóa, đa
phƣơng hóa các quan hệ đối tác, đặc biệt là với các tổ chức quốc tế. Nƣớc ta
cũng đã tham gia nhiều điều ƣớc quốc tế có liên quan mật thiết đến nội dung
của Quy chế Rome và chức năng hoạt động của ICC. Vì vậy, mặc dù chƣa là
thành viên của Quy chế, song việc nghiên cứu, tìm hiểu về điều ƣớc quốc tế
này và hệ thống nguyên tắc pháp luật chung của Quy chế Rome là cần thiết,
nhất là khi ảnh hƣởng của Quy chế Rome “Về Tòa án hình sự quốc tế” có xu
hƣớng ngày càng lớn.
Xu hƣớng của các quốc gia trên thế giới là hội nhập quốc tế, nên Việt
Nam cần phải nghiên cứu các chế định pháp lý quốc tế. Qua đó, nhận thức
10. 2
đƣợc tầm quan trọng, những ƣu điểm, tinh hoa và tính nhân văn của nguyên
tắc nhân đạo thể hiện trong Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự
quốc tế” để định hƣớng lĩnh hội vào việc xây dựng nguyên tắc nhân đạo trong
Luật hình sự Việt Nam. Thêm vào đó, đảm bảo việc thực hiện những quy định
của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và lợi ích của
nhà nƣớc, góp phần giữ vững ổn định, phát triển chính trị, xã hội, kinh tế, an
ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, tăng cƣờng hiệu lực, hiệu quả của bộ
máy nhà nƣớc. Bên cạnh đó, xác định rõ tầm quan trọng của việc xây dựng
nguyên tắc nhân đạo trong LHS Việt Nam thể hiện rõ bản chất Nhà nƣớc ta là
Nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân.
Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nƣớc ta đã có nhiều thay
đổi trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức
tạp. Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, định hƣớng phát
triển toàn diện, bền vững đất nƣớc trong giai đoạn cách mạng mới nhằm xây
dựng nƣớc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Ngày 28/11/2013, với đa số phiếu 486/498, chiếm 97.59%
Quốc hội Khóa XIII, Kỳ họp thứ VI đã thông qua Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Đây là sự kiện chính trị-pháp lý đặc biệt
quan trọng đánh dấu một cột mốc mới trong lịch sử lập hiến Việt Nam.
Hơn thế nữa, Việt Nam còn là một thành viên của Hiệp hội cảnh
sát các nƣớc ASEAN (ASEANAPOL). Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp tới năm 2020
cũng khẳng định nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống
tội phạm là:
11. 3
Tăng cƣờng sự phối hợp chung trong hoạt động phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm có yếu tố quốc tế và khủng bố
quốc tế, với các tổ chức INTERPOL, ASEANPOL…, với cảnh
sát các nƣớc láng giềng và khu vực, với cảnh sát một số quốc gia
có nhiều công dân Việt Nam sinh sống và học tập….
2. Tình hình nghiên cứu
Trên bình diện khoa học, nhóm đề tài nghiên cứu về nguyên tắc nhân
đạo trong LHS Việt Nam luôn đƣợc nhiều ngƣời quan tâm. Có thể kể đến đề
tài Luận án Tiến sĩ: “Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam” của
tác giả Hồ Sỹ Sơn, Viện Nhà nƣớc và Pháp luật, bảo vệ năm 2007; Khóa luận
tốt nghiệp: “Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam”, của tác giả
Ngô Văn Đen, Khoa Luật – Đại học Cần Thơ, bảo vệ năm 2010.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome
1998 thì chƣa có đề tài nào khai thác, chủ yếu là những đề tài nghiên cứu về
việc Việt Nam có nên gia nhập Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự
quốc tế” hay không, có thể kể đến nhƣ sau:
- Luận án Tiến sĩ: “Thẩm quyền của Tòa án Hình sự quốc tế và vấn đề
gia nhập của Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Xuân Sơn, Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội, bảo vệ năm 2014;
- Luận văn thạc sĩ: “Tòa án Hình sự Quốc tế và khả năng gia nhập của
Việt Nam” của tác giả Trần Thị Hƣơng Giang, Đại học Khoa học Xã hội &
Nhân văn, bảo vệ năm 2012;
- Luận văn thạc sĩ: “Việt Nam có nên gia nhập quy chế Rome về tòa án
hình sự quốc tế hay không?” của tác giả Nguyễn Mạnh Hảo, Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội, bảo vệ năm 2008.
Vì vậy việc nghiên cứu đề tài Nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế
12. 4
Rome 1998 về “Tòa án hình sự quốc tế” là mang tính cấp thiết và phù hợp với
bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực của Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: những vấn đề lý luận về nguyên tắc nhân đạo
trong Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế”. Cụ thể bao gồm:
nội dung cơ bản của nguyên tắc nhân đạo, ý nghĩa của nguyên tắc nhân đạo và
sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa
án hình sự quốc tế”.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Do tính chất đa dạng, rộng lớn và phức tạp của những vấn đề về Quy
chế Rome (vì ngay mỗi nhóm vấn đề trong Quy chế Rome liên quan đến luật
hình sự, luật tố tụng hình sự, luật thi hành án hình sự, hợp tác và tƣơng trợ tƣ
pháp hình sự… cũng đều có thể trở thành những đối tƣợng nghiên cứu độc lập
và đƣợc đề cập trong nhiều công trình khoa học khác nhau) nên trong phạm vi
của luận văn này, tôi chỉ để cập đến nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế
Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế”.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận về
nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc
tế” và định hƣớng lĩnh hội các tƣ tƣởng của nguyên tắc nhân đạo trong Quy
chế Rome năm 1998 “Về tòa án hình sự quốc tế” vào việc xây dựng nguyên
tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhận diện đƣợc những ƣu điểm, hạn chế của nguyên tắc nhân đạo
13. 5
trong Quy chế Rome 1998 nếu áp dụng vào thực tiễn Luật hình sự Việt Nam
và định hƣớng lĩnh hội các tƣ tƣởng của nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế
Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” vào việc xây dựng nguyên tắc
nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp luận: nghiên cứu đề tài đƣợc thể hiện trên cơ sở quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, phƣơng pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử, quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà
nƣớc và pháp luật.
Phƣơng pháp nghiên cứu: trong quá trình nghiên cứu, còn sử dụng các
phƣơng pháp nghiên cứu khoa học truyền thống nhƣ phƣơng pháp phân tích,
phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp tổng hợp và phƣơng pháp thực tiễn.
6. Những điểm mới của luận văn
6.1. Nêu lên đƣợc sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế
Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” góp phần có thêm đƣợc cơ sở lý
luận cho việc bảo vệ quyền con ngƣời bằng các quy định pháp luật hình sự.
6.2. Phân tích, đánh giá những ƣu điểm của nguyên tắc nhân đạo trong Quy
chế Rome và tính nhân văn nếu áp dụng những điểm đó trong pháp luật hình sự
Việt Nam.
6.3. Nêu đƣợc bối cảnh tình hình chung của việc hội nhập quốc tế đề
cao nguyên tắc nhân đạo và bảo vệ quyền con ngƣời bằng những quy định
pháp luật hình sự.
6.4. Hoàn thiện cơ sở lý luận cho nguyên tắc nhân đạo trong pháp
luật hình sự Việt Nam.
6.5. Định hƣớng lĩnh hội các tƣ tƣởng của nguyên tắc nhân đạo của
Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” vào việc xây dựng
nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự Việt Nam.
14. 6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần: Mở đầu; Kết luận; Danh mục các ký hiệu, các chữ viết
tắt; Danh mục bảng và Danh mục tài liệu tham khảo; nội dung của luận văn
gồm có 3 chƣơng:
Chương 1: Vài nét tổng quan về Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án
hình sự quốc tế”.
Chương 2: Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome
năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế”.
Chương 3: Định hƣớng lĩnh hội các tƣ tƣởng của nguyên tắc nhân đạo
của Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế”
vào việc xây dựng nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình
sự Việt Nam.
15. 7
Chương 1
VÀI NÉT TỔNG QUAN VỀ QUY CHẾ ROME NĂM 1998
“VỀ TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ”
1.1. Sự ra đời của Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự
quốc tế”
Chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra từ năm 1914 đến năm 1918, là một
trong những cuộc chiến tranh quyết liệt, quy mô to lớn trong lịch sử nhân loại,
về quy mô và sự khốc liệt của nó chỉ đứng sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, rất nhiều tầng lớp ngƣời Châu Âu nhận
thức đƣợc kết quả mà chủ nghĩa dân tộc cực đoan mang lại nên họ đã bắt đầu
định hƣớng theo một tinh thần mới đó là tinh thần chủ nghĩa quốc tế và xu
hƣớng hòa bình chủ nghĩa, nhân đạo chủ nghĩa. Điều này có thể đƣợc coi là
một khởi nguồn cho việc hình thành một cơ quan xét xử tội phạm quốc tế. Và
sự ra đời của Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” đƣợc
hình thành qua các dấu mốc lịch sử sau:
1.1.1. Trước Chiến tranh thế giới thứ hai
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, ngày 28/6/1919, các
nƣớc thắng trận đã họp Hội nghị Véc-xây và ký với Đức một bản Hiệp ƣớc
hòa bình, trong đó có quy định về việc lập một cơ quan xét xử tội phạm quốc
tế để truy tố hoàng đế Đức và những tên tội phạm chiến tranh khác. Để chuẩn
bị cho việc truy tố, một Ủy ban đƣợc thành lập với nhiệm vụ đƣợc xác định
trách nhiệm hình sự của các tội phạm chiến tranh. Khoảng 20.000 ngƣời đã
đƣợc liệt kê ra để điều tra và truy tố. Ủy ban này đã tuyên bố: tất cả những
ngƣời thuộc phe thua trận cho dù giữ chức vụ cao, đã thực hiện các hành vi vi
phạm pháp luật và tập quán chiến tranh đều phải bị truy cứu trách nhiệm hình
sự. Điều 228 Hiệp ƣớc Véc-xây cũng yêu cầu Chính phủ Đức phải trao tất cả
16. 8
các cá nhân đã vi phạm pháp luật và tập quán chiến tranh cho các nƣớc đồng
minh thắng trận. Tuy nhiên vì một số lý do chính trị, việc truy cứu những tội
phạm này đã không diễn ra. Hoàng đế Kaiser Wihemlm không bị đƣa ra xét
xử vì chính quyền Hà Lan đã cho ông ta cƣ trú chính trị và từ chối dẫn đỗ.
Còn trong số 20.000 ngƣời đã bị tình nghi thì chỉ có 22 ngƣời bị Tòa án tối
cao Đức truy tố và trên thực tế cũng chỉ có 12 ngƣời bị kết tội. Thất vọng vì
kết cục này, một thành viên trong Ủy ban đã đề nghị: “Trong tƣơng lai gần,
cần phải có sự trừng phạt thích đáng cho những hành vi vi phạm nghiêm trọng
các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế”. Các nƣớc đồng minh thắng trận cũng
tìm cách đƣa quan chức Thổ Nhĩ Kỳ ra xét xử về tội diệt chủng đối với ngƣời
Ác-mê-ni-a (gần 600.000 nạn nhân) song không thành công. Mặc dù, các nƣớc
này đã ký Hiệp ƣớc Sèvre với Thổ Nhĩ Kỳ ngày 10/8/1920, quy định việc dẫn
độ những kẻ phạm tội thảm sát trong thời kỳ chiến tranh nhƣng nó đã không
đƣợc phê chuẩn và năm 1923, đã bị thay thế bằng Hiệp ƣớc Lausanne với
tuyên bố ân xá cho tất cả những tên tội phạm nói trên [1, tr. 10-12].
Trong thời kỳ Hội quốc liên, việc thành lập ICC cũng đƣợc một số
quốc gia đề cập đến song nó không đƣợc quan tâm thích đáng. Năm 1926,
Hội luật hình sự quốc tế (AIDP) đƣợc sự hỗ trợ của Hội luật quốc tế (ILA) đã
phác thảo một dự án về ICC. Tuy nhiên, dự án này không nhận đƣợc sự ủng
hộ nào về mặt chính trị và do vậy, không đƣợc thực hiện. Năm 1931, Nhật
xâm lƣợc Mãn-châu-lý; năm 1934, Mussolini tấn công Ethiopia và năm 1935
vua Nam Tƣ Alexander bị ám sát. Trƣớc tình hình này, ngày 16/9/1937, Hội
quốc liên đã thông qua công ƣớc chống và trừng trị các tội khủng bố, trong đó
Phần 2 của Công ƣớc đã đề cập đến việc thành lập một ICC để xét xử những
kẻ có hành vi khủng bố. Tuy nhiên, do phải tập trung đối phó với cuộc chiến
tranh xâm lƣợc của Đức quốc xã và chế độ phát xít, cho nên ICC chống
khủng bố đã không đƣợc thành lập và Công ƣớc chỉ đƣợc một quốc gia duy
nhất (Ấn Độ) phê chuẩn [1, tr.12-13].
17. 9
1.1.2. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai
Hậu quả thảm khốc của Chiến tranh thế giới thứ hai đã khiến cho cộng
đồng quốc tế quan tâm hơn đến việc áp dụng các biện pháp để giảm bớt tác
động của chiến tranh, trong đó có cả vấn đề thành lập Tòa án quốc tế để trừng
trị những tội phạm quốc tế nguy hiểm. Bốn quốc gia thắng trận (Mỹ, Pháp,
Anh và Liên Xô) đã thiết lập hai Tòa án quân sự quốc tế ở Nuremberg và
Tokyo để truy tố những tên tội phạm sừng sỏ nhất trong phe liên minh Đức,
Ý, Nhật. Tòa án Nuremberg đƣợc thành lập theo Hiệp ƣớc Luân Đôn ký ngày
08/8/1945 với 19 nƣớc gia nhập, còn Tòa án Tokyo đƣợc thành lập ngày
16/11/1946. Lần đầu tiên trong lịch sử những tội danh nhƣ “chống nhân loại”,
“chống hòa bình” và “tội phạm chiến tranh” đã đƣợc dùng để truy tố các cá
nhân đối với những hành vi vi phạm các chuẩn mực chung của đạo đức và
luật quốc tế. Một số nguyên tắc về trách nhiệm cá nhân nảy sinh từ các phiên
tòa Nuremberg sau này đƣợc liệt kê trong Tuyên bố năm 1950 về các nguyên
tắc luật quốc tế đƣợc thừa nhận của Liên hợp quốc liên quan đến Hiến chƣơng
Nuremberg và phán quyết của Tòa. Sự ra đời của hai Tòa án Nuremberg và
Tokyo đƣợc coi nhƣ một mô hình thực tế cho việc xây dựng một ICC thƣờng
trực. Những lời chỉ trích về tính chất một chiều của hai Tòa án này – chỉ truy
tố những kẻ phạm tội của bên thua trận hay cái gọi là “công lý của kẻ chiến
thắng” đã góp phần định hƣớng rõ hơn ý tƣởng về một ICC thƣờng trực thực
sự công bằng, khách quan và hiệu quả cũng nhƣ sự cần thiết phải thành lập
Tòa án này [1, tr. 13-15].
Năm 1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Công ƣớc về tội
diệt chủng. Ngoài việc định nghĩa tội diệt chủng, Công ƣớc này còn quy định
bất kỳ ngƣời nào thực hiện tội diệt chủng sẽ bị xét xử tại Tòa án quốc gia nơi
xảy ra tội phạm hoặc bằng “một Tòa án hình sự quốc tế có thẩm quyền đã
đƣợc các nƣớc thành viên tham gia Công ƣớc chấp nhận”. Mặc dù Công ƣớc
18. 10
năm 1948 không thành lập Tòa án hình sự quốc tế nhƣng nó đã đƣa ra khái
niệm đầu tiên về địa vị pháp lý của Tòa án này, định hình thêm mô hình về
Tòa án hình sự quốc tế trong tƣơng lai [1, tr.15-16].
Trƣớc đó, năm 1947, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã yêu cầu Ủy ban
lập pháp quốc tế xây dựng Bộ luật các tội chống hòa bình và an ninh của nhân
loại và soạn thảo một quy chế để thành lập Tòa án hình sự quốc tế với tƣ cách
nhƣ một cơ quan thi hành án. Khi Ủy ban lập pháp quốc tế bắt đầu xúc tiến
việc soạn thảo thì cũng là lúc thế giới phải đối mặt với Chiến tranh lạnh. Sau
nhiều lần thảo luận, Ủy ban lập pháp quốc tế đã đƣa ra Dự thảo Quy chế Tòa
án hình sự quốc tế lần đầu tiên vào năm 1951 và lần thứ hai vào năm 1953.
Tuy nhiên, do các nƣớc không đƣa ra đƣợc quan điểm chung về “định nghĩa
tội xâm lƣợc” nên Dự thảo này đã không đƣợc xem xét, cũng nhƣ Dự thảo Bộ
luật các tội chống hòa bình và an ninh của nhân loại. Năm 1957, Đại hội đồng
Liên hợp quốc đã quyết định đình chỉ xem xét vấn đề thành lập Tòa án hình
sự quốc tế. Phải đến năm 1974, Đại hội đồng Liên hợp quốc mới thông qua
“định nghĩa tội xâm lƣợc”. Định nghĩa này mô tả các hành vi xâm lƣợc nhƣng
rất mơ hồ trong việc xác định hành vi nào là tội phạm. Theo đúng trình tự thì
việc thông qua “định nghĩa tội xâm lƣợc” coi nhƣ đã gạt bỏ mọi trở ngại trong
việc soạn thảo Bộ luật các tội chống hòa bình và an ninh của nhân loại và việc
xây dựng một Tòa án hình sự quốc tế. Tuy nhiên, mãi đến năm 1978, Đại hội
đồng Liên hợp quốc mới đƣa vấn đề này ra xem xét lại. Tiến trình chậm chạp
này thực chất là do còn nhiều bất đồng về quan điểm giữa các quốc gia và các
nhà lãnh đạo trên thế giới, đặc biệt là do hậu quả của Chiến tranh lạnh kéo dài
trong suốt thời kỳ này [1, tr.16-18].
Cũng phải kể đến dƣ luận thế giới về tội ác chiến tranh ở Việt Nam và
tội ác diệt chủng ở Campuchia đã diễn ra trong hai thập kỷ 60 và 70 của thế
kỷ XX. Những tội ác chiến tranh man rợ mà Đế quốc Mỹ gây ra ở Việt Nam
19. 11
đã khiến cộng đồng quốc tế hết sức phẫn nộ. B. Russel, nhà bác học ngƣời
Anh đã lập ra một Tòa án xét xử tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Mặc
dù không mang tính pháp lý bắt buộc nhƣng Tòa án Russel cũng là một bƣớc
tiến theo hƣớng thành lập Tòa án hình sự quốc tế, đòi hỏi phải trừng trị
nghiêm khắc tội ác chiến tranh xâm lƣợc. Năm 1979, ngay sau khi thoát khỏi
chế độ Khơme đỏ, Nhà nƣớc Campuchia cũng đã thành lập Tòa án xét xử
Pôn-pốt, Iêng-xa-ri về tội ác diệt chủng. Những tòa án này thực sự có ý nghĩa
lớn trong việc đặt ra vấn đề trách nhiệm hình sự đối với những cá nhân phạm
các tội ác quốc tế nghiêm trọng [1, tr.18-19].
Năm 1989, tại phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên hợp quốc về
buôn lậu ma túy quốc tế, Trinidad & Tobago đã đề nghị Liên hợp quốc thành
lập một Tòa án quốc tế để xét xử những tên tội phạm buôn bán ma túy. Do
một số quốc gia phản đối nên đề xuất đó không đƣợc chấp thuận, song nó
cũng làm dấy lên mối quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với việc thành lập
một Tòa án quốc tế thƣờng trực, đƣa vấn đề này trở lại Chƣơng trình nghị sự
của Liên hợp quốc. Đại hội đồng Liên hợp quốc đã giao cho Ủy ban lập pháp
quốc tế nghiên cứu vấn đề này. Sau hai năm nghiên cứu (từ năm 1990 đến
1992), Ủy ban lập pháp quốc tế đã trình lên Đại hội đồng một bản báo cáo về
những vấn đề pháp lý liên quan tới việc thành lập một Tòa án hình sự quốc tế
thƣờng trực. Và đến năm 1994, Ủy ban lập pháp quốc tế đã hoàn thành bản dự
thảo Quy chế Tòa án hình sự quốc tế [1, tr.19-20].
Cũng trong thời gian này, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã thành lập
hai Tòa án adhoc (Tòa án sự vụ) để truy tố các cá nhân vi phạm luật nhân đạo
quốc tế và phạm tội diệt chủng ở Nam Tƣ và Ru-an-da. Tòa án hình sự quốc tế
truy tố các cá nhân vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế trên lãnh thổ
Nam Tƣ cũ từ năm 1991 (ICTY) đƣợc thành lập năm 1993 và Tòa án hình sự
20. 12
quốc tế truy tố các cá nhân phạm tội diệt chủng và vi phạm nghiêm trọng luật
nhân đạo quốc tế trên lãnh thổ Ru-an-da cũng nhƣ các công dân Ru-an-da phạm
tội diệt chủng và vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế trên lãnh thổ các
nƣớc láng giềng (ICTR) đƣợc thành lập năm 1994. Sự ra đời và hoạt động của
hai Tòa án này với những hạn chế về thẩm quyền và tƣ cách pháp lý càng khẳng
định sự cần thiết phải có một Tòa án hình sự quốc tế thƣờng trực, củng cố thêm
mô hình về một cơ quan tƣ pháp quốc tế độc lập trong tƣơng lai cũng nhƣ thu
hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế với vấn đề này [1, tr. 20-21].
Sau khi Ủy ban lập pháp quốc tế hoàn thành Dự thảo Quy chế thành lập
ICC năm 1994, Đại hội đồng đã quyết định thành lập Ủy ban Adhoc để
nghiên cứu, xem các vấn đề liên quan đến Tòa án. Trên cơ sở các nghiên cứu
và khuyến nghị của Ủy ban Adhoc, năm 1995, Đại hội đồng Liên hợp quốc
thành lập Ủy ban trù bị với sự tham gia của các quốc gia thành viên Liên hợp
quốc, các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ để xây dựng một văn
bản pháp lý hoàn chỉnh, đƣợc chấp nhận rộng rãi, chuẩn bị cho hội nghị ngoại
giao thông qua Quy chế Tòa án này [1, tr. 21-22].
Từ ngày 15/6/1998 đến ngày 17/7/1998, Hội nghị ngoại giao về thành
lập Tòa án hình sự quốc tế đã đƣợc tổ chức tại Rome, Italy. Hơn 160 quốc gia
đã cử đại biểu tham dự Hội nghị cùng với đại diện của nhiều tổ chức quốc tế
với hơn một trăm tổ chức phi chính phủ. Tất cả các đoàn đại biểu này đều bày
tỏ sự ủng hộ về nguyên tắc đối với việc thành lập Tòa án hình sự quốc tế. Tuy
nhiên những vấn đề quan trọng nhƣ quyền tài phán của Tòa án, cơ chế khởi
kiện, danh mục tội phạm thì vẫn còn nhiều sự bất đồng về ý kiến. Sau 5 tuần
làm việc căng thẳng, Hội nghị đã thông qua Quy chế Rome ICC với 120
phiếu thuận, 21 phiếu trắng và 7 phiếu chống [1, tr. 22-23].
Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” có hiệu lực vào
21. 13
ngày 01/7/2002 sau khi đạt đƣợc con số 60 quốc gia phê chuẩn. Hiện tại, Quy
chế Rome đã đƣợc 139 quốc gia ký và 100 quốc gia phê chuẩn, gia nhập; trong
đó có 27 nƣớc Châu Phi, 20 nƣớc Mỹ Latinh và Caribê, 12 nƣớc Châu Á, 15
nƣớc Đông Âu còn lại là các nƣớc Tây Âu và những nƣớc khác. Campuchia là
nƣớc Asian duy nhất là thành viên của Quy chế Rome [1, tr. 24].
1.2. Nội dung pháp lý cơ bản của Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa
án hình sự quốc tế”
1.2.1. Khái niệm tội phạm quốc tế
1.2.1.1. Định nghĩa
Mặc dù cho đến nay không có văn bản pháp luật quốc tế (thực định)
nào ghi nhận định nghĩa pháp lý khái niệm tội phạm quốc tế là gì, nhƣng phân
tích các nguồn của pháp luật quốc tế trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự (đặc biệt
là các điều 5-8 Quy chế Rome) GS.TSKH. Lê Văn Cảm đã đƣa ra định nghĩa
khoa học của tội phạm quốc tế nhƣ sau: “Tội phạm quốc tế là hành vi đặc biệt
nguy hiểm được quy định trong luật hình sự quốc tế do nhà nước, pháp nhân
hoặc thể nhân thực hiện một cách cố ý xâm phạm sự tồn tại hòa bình và an
ninh của nhân loại” [4, tr. 297].
Theo khoản 1 Điều 5 Quy chế Rome, ICC có quyền tài phán đối với
các tội phạm nghiêm trọng nhất gây lo ngại cho toàn thể cộng đồng quốc tế
(tức tội phạm quốc tế). Tội phạm quốc tế bao gồm tội ác chiến tranh, tội
chống lại nhân loại, tội diệt chủng và tội xâm lƣợc.
1.2.1.2. Phân loại tội phạm quốc tế
Tội phạm quốc tế theo quy định tại Điều 5 của Quy chế Rome 1998
bao gồm:
1) Tội diệt chủng;
2) Tội chống nhân loại;
3) Tội phạm chiến tranh;
22. 14
4) Tội xâm lƣợc.
Hầu hết các hành vi cấu thành tội phạm nêu trên đều đã đƣợc đề cập
trong một số Điều ƣớc quốc tế quan trọng nhƣ Công ƣớc ngăn ngừa và trừng
trị tội diệt chủng 1948; Công ƣớc Giơnevơ về bảo hộ nạn nhân chiến tranh
năm 1949; Quy chế của một số tòa án (Tòa án Nuremberg; Tòa án Tokyo,
Tòa án Nam Tƣ, Tòa án Ruanda)… Vì vậy, có thể nói rằng Quy chế Rome là
sự tổng hợp và mở rộng từ các điều ƣớc nêu trên.
1.2.2. Các thiết chế của ICC
1.2.2.1. Nguyên tắc chung
Một là, Tòa án là tổ chức quốc tế độc lập, đƣợc thành lập trên cơ sở
Điều ƣớc quốc tế ký kết giữa các quốc gia. Điều này đƣợc thể hiện trong
khoản 1 Điều 4 Quy chế Rome: “Tòa án có địa vị pháp nhân quốc tế. Tòa án
có năng lực pháp lý cần thiết cho việc thực hiện chức năng và hoàn thành
mục tiêu của mình”.
Hai là, tại Điều 2 Quy chế Rome quy định: “Tòa án quan hệ với Liên
hợp quốc trên cơ sở một thỏa thuận được Hội đồng các Quốc gia thành viên
của Quy chế này thông qua và do Chánh án Tòa án đại diện cho Tòa án ký”.
Biểu hiện của mối quan hệ giữa ICC và Liên hợp quốc thông qua việc hai tổ
chức này luôn có quan hệ hỗ trợ và hợp tác với nhau trong quá trình hoạt
động. Về phía Liên hợp quốc, tổ chức này cam kết sẽ cung cấp những thông
tin, tài liệu cần thiết theo yêu cầu của Tòa án và để các nhân viên của mình ra
làm chứng trƣớc Tòa. Còn Tòa án, Tòa án có thể thông báo đến Hội đồng Bảo
an những trƣờng hợp các quốc gia bất hợp tác với Tòa (điểm b khoản 5 và
khoản 7 Điều 87 Quy chế Rome).
Ba là, ICC còn có mối quan hệ với một số cơ quan chính của Liên hợp
quốc, đặc biệt là với Hội đồng Bảo an. Hội đồng Bảo an có quyền thông báo
và yêu cầu Trƣởng Công tố điều tra một vụ việc theo quy định tại Chƣơng VII
23. 15
Hiến chƣơng Liên hợp quốc (điểm b Điều 13 Quy chế Rome). Hội đồng Bảo
an có quyền hoãn hoạt động điều tra, truy tố của Tòa án theo Điều 16 Quy chế
Rome. Hơn nữa, một trong những vai trò rất to lớn của Hội đồng Bảo an đó là
việc định nghĩa tội xâm lƣợc.
1.2.2.2. Cơ cấu tổ chức ICC
Để hoàn thành chức năng và nhiệm vụ của một thiết chế tài phán quốc
tế độc lập, Quy chế Rome đã thiết kế các cơ quan của ICC theo đúng mô hình
của tòa án quốc tế thƣờng trực:
Một là, Ban Chánh án, gồm Chánh án, Phó Chánh án thứ nhất và Phó
Chánh án thứ hai đƣợc bầu bằng đa số tuyệt đối các Thẩm phán. Họ làm việc
với nhiệm kỳ 3 năm hoặc cho đến khi kết thúc nhiệm kỳ Thẩm phán của
mình trong trƣờng hợp nhiệm kỳ này kết thúc sớm hơn. Họ đƣợc quyền tái
ứng một lần.
Hai là, Các hội đồng: ngay sau khi kết thúc bầu chọn Thẩm phán, Tòa
án sẽ tổ chức thành các bộ phận phúc thẩm, sơ thẩm và dự thẩm. Bộ phận
phúc thẩm gồm Chánh án và 4 Thẩm phán, Bộ phận sơ thẩm có ít nhất 6
Thẩm phán, và Bộ phận dự thẩm có ít nhất 6 Thẩm phán.
Ba là, Văn phòng Công tố, hoạt động độc lập nhƣ một cơ quan riêng
biệt của Tòa án. Văn phòng có trách nhiệm nhận các thông báo và bất kỳ
thông tin quan trọng nào về tội phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án, kiểm
tra các thông báo và thông tin này, tiến hành điều tra và truy tố trƣớc Tòa án.
Bốn là, Văn phòng Lục sự chịu trách nhiệm về các lĩnh vực hành chính
và dịch vụ, không mang tính chất tƣ pháp của Tòa án, không ảnh hƣởng đến
chức năng và quyền hạn của Trƣởng công tố.
1.2.3. Thẩm quyền tài phán của ICC
1.2.3.1. Thẩm quyền của ICC đối với tội phạm quốc tế
1) Tính chất thẩm quyền tài phán của ICC: phải khẳng định một điều
24. 16
rằng, ICC không phải là một Tòa án “siêu quốc gia”, tức “Tòa án cấp trên”
của Tòa án quốc gia để thay thế thẩm quyền tài phán quốc gia của các nƣớc
thành viên. ICC cũng không có chức năng nhƣ một tòa kháng án để xem xét
lại quyết định đã tuyên của Tòa quốc gia. Thực chất thẩm quyền của ICC
mang tính chất bổ sung cho thẩm quyền tài phán quốc gia, hiểu theo cả hai
phƣơng diện: Luật quốc gia và Luật quốc tế. Về phƣơng diện Luật quốc gia,
tội phạm quốc tế đƣợc điều chỉnh bởi pháp luật hình sự của từng nƣớc, dù
truyền thống và cách quy định cụ thể của pháp luật các nƣớc có sự khác nhau.
Nhƣ vậy, Tòa án quốc gia có thẩm quyền ƣu tiên trong việc xét xử 4 loại tội
phạm thuộc thẩm quyền của ICC. ICC chỉ thực hiện thẩm quyền tài phán của
mình khi quốc gia đó không muốn hoặc không có khả năng tiến hành điều tra,
truy tố và xét xử một cách thực sự (khoản 1 Điều 17 Quy chế Rome).
2) Căn cứ xác định thẩm quyền tài phán của ICC:
Thứ nhất, các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của ICC.
Thứ hai, thẩm quyền theo lãnh thổ của ICC.
Thứ ba, thẩm quyền đƣơng nhiên của ICC (khoản 1 Điều 12 Quy
chế Rome).
3) Cách thức thực hiện thẩm quyền tài phán của ICC trong quá trình
thực hiện thẩm quyền của mình, ICC phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc không hồi tố (Điều 24 Quy chế Rome)
Nguyên tắc không xét xử hai lần (Điều 20 Quy chế Rome)
Nguyên tắc không có tội khi không có luật (Điều 22 Quy chế Rome) và
không có hình phạt khi không có luật (Điều 23 Quy chế Rome)
Nguyên tắc trách nhiệm hình sự cá nhân (Điều 25 Quy chế Rome) và
bình đẳng trƣớc pháp luật (Điều 27 Quy chế Rome)
Ngoài ra, ICC còn thực thi thẩm quyền tài phán của mình dựa trên một
số nguyên tắc khác nhƣ: Trách nhiệm của ngƣời chỉ huy và cấp trên (Điều 28
25. 17
Quy chế Rome); Nguyên tắc không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với tội
phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án (Điều 29 Quy chế Rome).
4) Luật áp dụng của ICC đối với hoạt động xét xử của Tòa án là một
yếu tố hết sức quan trọng, nó ảnh hƣởng đến tính đúng đắn trong quá trình xét
xử và đảm bảo việc thực thi công lý một cách hiệu quả. Theo Quy chế Rome,
trong quá trình thực thi thẩm quyền tài phán của mình ICC có thể áp dụng các
loại luật sau:
Một là, các quy định của Luật quốc tế, bao gồm Quy chế Rome với các
quy định về yếu tố cấu thành tội phạm, quy tắc về thủ tục và chứng cứ, các
Điều ƣớc quốc tế, các nguyên tắc và quy tắc của Luật pháp quốc tế có thể áp
dụng cả các nguyên tắc của Luật quốc tế về xung đột vũ trang nếu thích hợp.
Hai là, các nguyên tắc pháp luật chung mà Tòa án vận dụng từ luật
quốc gia của các hệ thống pháp luật trên thế giới, kể cả luật của các quốc gia
thông thƣờng sẽ thực hiện quyền tài phán đối với các tội phạm nói trong Quy
chế Rome nếu thích hợp, với điều kiện các nguyên tắc đó không trái với Quy
chế này và pháp luật quốc tế cũng nhƣ các quy phạm và chuẩn mực đƣợc
quốc tế thừa nhận.
Bên cạnh hai nguồn luật trên, Tòa án có thể áp dụng các nguyên tắc và
quy tắc pháp luật đã đƣợc giải thích trong các quy định trƣớc đây của mình.
1.2.3.2. Thực hiện thẩm quyền tài phán của quốc gia đối với các loại
tội phạm quốc tế
1) Căn cứ xác định: theo quy định tại dòng 10 của Lời nói đầu và Điều
17 Quy chế Rome thì Tòa án quốc gia có thẩm quyền ƣu tiên trong việc điều
tra, truy tố, xét xử tội phạm thuộc thẩm quyền tài phán của ICC nếu pháp luật
quốc gia có quy định về loại tội phạm này. Nhƣ vậy để quốc gia không mất đi
thẩm quyền tài phán của mình quốc gia phải có nghĩa vụ hình sự hóa các tội
phạm mà theo xác định của Quy chế Rome cũng thuộc quyền tài phán của ICC.
26. 18
2) Cách thức thực hiện: vấn đề thụ lý vụ án của quốc gia thành viên sẽ
đƣợc xem xét khi một việc đƣợc thông báo cho Tòa và Trƣởng Công tố đã
xác định có đủ căn cứ hợp lý để mở cuộc điều tra, thì Trƣởng Công tố sẽ
thông báo cho những quốc gia mà căn cứ vào thông tin hiện có sẽ thực hiện
quyền tài phán đối với các tội phạm liên quan. Quốc gia đó có thời hạn một
tháng để thông báo cho Tòa án là đã hoặc đang điều tra công dân nƣớc mình
hoặc những ngƣời khác, trong phạm vi quyền tài phán quốc gia về hành vi tội
phạm có thể cấu thành các tội nêu tại Điều 5 và liên quan đến thông tin đề cập
trong thông báo cho các quốc gia.
1.2.4. Hoạt động tố tụng của ICC
Hoạt động tố tụng của ICC theo Quy chế Rome bao gồm:
1) Hoạt động điều tra và truy tố
2) Hoạt động xét xử
3) Phúc thẩm và xét lại bản án
4) Thi hành án
1.2.5. Quyền và nghĩa vụ của quốc gia thành viên
1.2.5.1. Các quyền cơ bản
Theo Quy chế Rome về cơ bản quốc gia thành viên có các quyền sau đây:
1) Quyền thông báo về một vụ việc thuộc thẩm quyền tài phán của ICC
và yêu cầu Trƣởng Công tố tiến hành điều tra vụ việc đó (Điều 14). Quốc gia
thành viên cũng có quyền nhận thông báo về kết luận điều tra từ Trƣởng Công
tố (khoản 6 Điều 15).
2) Quyền ƣu tiên trong việc thụ lý vụ án thuộc quyền tài phán của ICC
(Điều 17).
3) Quyền khiếu nại đối với quyền tài phán của Tòa án hoặc việc thụ lý
(Điều 19).
4) Quyền đề nghị Hội đồng dự thẩm xem xét lại quyết định mở hoặc
không mở cuộc điều tra của Trƣởng Công tố (điểm a khoản 3 Điều 53).
27. 19
5) Quyền kháng cáo quyết định của Hội đồng dự thẩm đối với việc cho
phép Trƣởng Công tố tiến hành các bƣớc điều tra cụ thể, trên lãnh thổ của quốc
gia thành viên mà không có sự hợp tác của quốc gia đó (khoản 2 Điều 82).
6) Quốc gia thành viên có quyền đề cử ứng cử viên vào chức vụ Thẩm
phán (điểm a khoản 4 Điều 36), có quyền bầu Thẩm phán (điểm a khoản 6
Điều 36), bầu Trƣởng Công tố và Phó Công tố (khoản 4 Điều 42).
7) Có quyền tham gia Hội đồng quốc gia thành viên và quyết định các
vấn đề quan trọng liên quan đến ICC (Điều 112).
8) Quyền tuyên bố trong thời hạn 7 năm kể từ khi Quy chế này có hiệu
lực đối với quốc gia đó, không chấp nhận quyền tài phán của Tòa án đối với
tội phạm chiến tranh quy định tại Điều 8, khi tội phạm này đƣợc thực hiện bởi
công dân hay trên lãnh thổ của quốc gia đó (Điều 124).
9) Quyền đề xuất, tham gia, thảo luận và biểu quyết về các vấn đề liên
quan đến Quy chế Rome nhƣ sửa đổi, bổ sung Quy chế Rome (Điều 121);
Xây dựng định nghĩa tội xâm lƣợc (Điều 5); Sửa đổi các yếu tố cấu thành tội
phạm (khoản 2 Điều 9); Xem xét lại Quy chế (Điều 123); Sửa đổi các quy
định về thể chế (Điều 122).
1.2.5.2. Các nghĩa vụ cơ bản
1) Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật hình sự quốc gia: theo khoản 4
Điều 70 thì một trong những nghĩa vụ trực tiếp mà Quy chế Rome đặt ra đối
với các Quốc gia thành viên đó là nghĩa vụ hình sự hóa các hành vi hoạt động
tƣ pháp của ICC.
2) Về hợp tác với ICC trong đấu tranh phòng, chống tội phạm quốc tế:
Quy chế Rome đặt ra cho các quốc gia thành viên nghĩa vụ chung, hợp tác
chung với Tòa án trong việc điều tra, truy tố các tội phạm thuộc quyền tài
phán của Tòa án (Điều 86).
3) Về tài chính: để duy trì hoạt động thƣờng niên của ICC, các quốc gia
28. 20
phải có nghĩa vụ đóng góp vào Quỹ Tòa án và Hội đồng Quốc gia thành viên
(Điều 115). Ngoài ra, quốc gia thành viên phải chi trả các chi phí thông
thƣờng cho việc thực hiện yêu cầu của ICC trên lãnh thổ của quốc gia mình
(Điều 100).
1.3. Hệ thống các nguyên tắc pháp luật chung trong Quy chế Rome
năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế”
Trong pháp luật quốc tế cũng nhƣ quan hệ quốc tế, các nguyên tắc cơ
bản và nguyên tắc pháp luật chung thƣờng đƣợc ghi nhận trong các văn bản
pháp lý và đƣợc viện dẫn trong thực tiễn nhƣ một trong những cơ sở pháp lý
quốc tế quan trọng nhất để điều chỉnh lĩnh vực hợp tác quốc tế nói chung
cũng nhƣ giải quyết những tranh chấp quốc tế nói riêng. Theo những ngƣời
soạn thảo Quy chế về hoạt động của Tòa án công lý quốc tế, những nguyên
tắc pháp luật chung “tạo nên một mạng lƣới an toàn nhằm đối phó với những
trƣờng hợp không thể ra đƣợc quyết định do thiếu quy phạm pháp luật liên
quan”. Tuy nhiên, cho đến nay, không có bất cứ văn bản pháp lý quốc tế hoặc
công trình nghiên cứu nào liệt kê đầy đủ đƣợc danh mục (hệ thống) nguyên
tắc pháp luật chung. Trong thực tiễn, các nguyên tắc pháp luật chung có thể
đƣợc các chủ thể luật quốc tế viện dẫn áp dụng cho từng quan hệ, vấn đề cụ
thể hoặc đƣợc sử dụng để giải thích, làm rõ các quy phạm điều ƣớc và quy
phạm tập quán khi những quy phạm này không giải quyết hoặc giải quyết
không triệt để những vấn đề nhất định [56, tr.63-64].
Theo quan điểm của GS.TSKH. Lê Văn Cảm, các quy phạm về các
nguyên tắc của luật hình sự (các điều từ 20-30) trong Quy chế Rome nhƣ là
một sợi chỉ đỏ xuyên suốt các quy định pháp luật hình sự, mà cụ thể là: 1)
Nguyên tắc pháp chế (Điều 22-23); 2) Nguyên tắc nhân đạo (Điều 21, 23, 24
và 26); 3) Nguyên tắc trách nhiệm cá nhân (Điều 25); 4) Nguyên tắc không
tránh khỏi trách nhiệm pháp lý quốc tế (Điều 23 và 25); 5) Nguyên tắc bình
29. 21
đẳng trƣớc pháp luật (Điều 21 và 27); 6) Nguyên tắc công minh (Điều 20); 7)
Nguyên tắc không áp dụng thời hiệu đối với những tội xâm phạm sự tồn tại
hòa bình và an ninh của nhân loại (Điều 29); 8) Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi
(Điều 30) [4, tr. 294-296].
Còn theo quan điểm của TS. Nguyễn Khắc Hải, những nguyên tắc của
luật hình sự đƣợc quy định theo Quy chế Rome tập trung tại Phần 3 (các điều
22-33) với những nguyên tắc: 1) Nguyên tắc pháp chế (khoản 1 Điều 22 và
Điều 23); 2) Nguyên tắc nhân đạo (Điều 24); 3) Nguyên tắc trách nhiệm cá
nhân (Điều 25); 4) Nguyên tắc loại trừ quyền tài phán đối với ngƣời dƣới 18
tuổi (Điều 26); 5) Nguyên tắc bình đẳng trƣớc luật hình sự (Điều 27); 6)
Nguyên tắc công minh (Điều 28); 7) Nguyên tắc không áp dụng thời hiệu đối
với những tội xâm phạm sự tồn tại hòa bình và an ninh nhân loại (Điều 29); 8)
Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi (Điều 30) [14, tr. 57].
TS. Trịnh Tiến Việt thì cho rằng: các nguyên tắc đƣợc thừa nhận chung
của Luật hình sự quốc tế đƣợc thể hiện ở các mức độ khác nhau bằng các quy
phạm trong Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” (Phần 3),
cụ thể là: 1) Nguyên tắc pháp chế (Điều 22 và Điều 23); 2) Nguyên tắc nhân
đạo (Điều 22 và Điều 24); 3) Nguyên tắc trách nhiệm hình sự cá nhân (Điều
25); 4) Nguyên tắc loại trừ quyền tài phán đối với ngƣời dƣới 18 tuổi (Điều
26); 5) Nguyên tắc bình đẳng trƣớc pháp luật (Điều 27); 6) Nguyên tắc trách
nhiệm của ngƣời chỉ huy và cấp trên (Điều 28); 7) Nguyên tắc không áp dụng
thời hiệu (Điều 29); 8) Nguyên tắc trách nhiệm trên cơ sở lỗi (Điều 30); 9)
Nguyên tắc không xét xử hai lần (Điều 20), [60, tr. 7].
Theo quan điểm của tác giả, các nguyên tắc của luật hình sự quốc tế
đƣợc ghi nhận trong Quy chế Rome về ICC đã thể hiện quyết tâm bảo vệ
những giá trị xã hội cao quý nhất, các quyền con ngƣời. Hệ thống những
nguyên tắc của luật hình sự quốc tế đƣợc quy định tập trung tại Phần 3 Quy
chế Rome (các điều 22-33) với những nguyên tắc cụ thể nhƣ sau:
30. 22
Một là nguyên tắc pháp chế với tƣ cách là nguyên tắc truyền thống
quan trọng nhất của luật hình sự đƣợc thể hiện thông qua các quy định trong
Quy chế Rome (các điều 22 và 23) – “Nullum crimen sine lege, nulla poena
sine lege” (Không có tội phạm và hình phạt nếu không có luật quy định) với
các luận điểm tiến bộ nhƣ: [4, tr. 284]
1) Không ai có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nếu nhƣ
hành vi tƣơng ứng tại thời điểm thực hiện không cấu thành tội phạm
(Khoản 1 Điều 22);
2) Tội phạm cần phải đƣợc giải thích chính xác và không
đƣợc suy diễn rộng ra để áp dụng theo nguyên tắc tƣơng tự (khoản
2 Điều 22);
3) Ngƣời bị coi là có tội chỉ có thể bị trừng phạt theo các quy
định tại Quy chế này.(Điều 23)
Nhƣ vậy, theo Quy chế Rome thì không ai phải chịu trách nhiệm hình
sự theo Quy chế này, trừ khi hành vi của ngƣời đó cấu thành một tội phạm
thuộc quyền tài phán của Tòa án vào thời điểm thực hiện hành vi đó. Việc
định nghĩa tội phạm phải đƣợc giải thích nghiêm ngặt và không đƣợc hiểu
rộng theo phép loại suy. Trƣờng hợp có nội dung không rõ ràng, định nghĩa
đó phải đƣợc giải thích theo hƣớng có lợi cho ngƣời đang bị điều tra, truy tố
hoặc kết tội. Và Tòa án chỉ có thể đƣa ra các hình phạt cho ngƣời bị kết án
theo những hình phạt quy định trong Quy chế.
Hai là nguyên tắc trách nhiệm cá nhân đƣợc thể hiện thông qua quy định
tại Điều 25 Quy chế Rome với luận điểm tiến bộ - ngƣời phạm tội chịu trách
nhiệm hình sự cá nhân và phải chịu hình phạt theo Quy chế này [4, tr. 295].
Ngƣời phạm tội thuộc quyền tài phán của Tòa án phải chịu trách nhiệm hình
sự cá nhân và trách nhiệm hình sự cá nhân không ảnh hƣởng đến trách nhiệm
của quốc gia theo Luật quốc tế.
31. 23
Ba là nguyên tắc bình đẳng trƣớc pháp luật (Điều 27). Địa vị và chức
vụ của ngƣời phạm tội theo Luật quốc tế không phải là yếu tố loại trừ trách
nhiệm hình sự và không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng, bởi vì, đa số các tội phạm quốc tế là
do những ngƣời có chức vụ cao ở các quốc gia gây ra, vì thế, nếu quy định
cho họ quyền miễn trừ truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ làm cho việc đấu
tranh chống các tội phạm quốc tế trở nên vô nghĩa.
Bốn là nguyên tắc công minh đƣợc thể hiện thông qua quy định tại Điều
28 và Điều 33 Quy chế Rome với luận điểm tiến bộ: Ngƣời có chức vụ quản lý
bị can, bị cáo phạm tội quốc tế cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi
phạm tội của cấp dƣới nếu ngƣời này biết đƣợc hoặc có căn cứ để biết đƣợc
rằng cấp dƣới của mình đang thực hiện hành vi tội phạm quốc tế nhƣng đã
không có những biện pháp cần thiết để phòng ngừa hoặc ngăn chặn hành vi đó.
Nội dung của nguyên tắc này lần đầu tiên đƣợc xác định vào năm 1907
theo Công ƣớc La Hay IV về các luật và thông lệ chiến tranh trên bộ. Nhiều
công ƣớc quốc tế kế sau đó đã tái khẳng định lại, trong đó quy định đầy đủ
nhất về nguyên tắc này là Nghị định thƣ số 1 về Công ƣớc Giơnevơ năm 1949
và Công ƣớc Giơnevơ năm 1972.
Ngƣợc lại nếu một ngƣời nào đó làm theo mệnh lệnh của cấp trên
cũng không phải là tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự đối với ngƣời nhận
mệnh lệnh này; yếu tố đó chỉ đƣợc coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự, nếu Tòa án nhận thấy cần thiết xem xét. Nguyên tắc này đƣợc xác
định tại Điều 8 Quy chế của Tòa án Nurumbéc, Điều 7 Quy chế của Tòa án
hình sự quốc tế về Nam Tƣ (cũ) và Điều 6 Quy chế của Tòa án hình sự
quốc tế về Ruanđa [7, tr. 111-112].
Năm là nguyên tắc không áp dụng thời hiệu đối với những tội xâm
phạm sự tồn tại hòa bình và an ninh của nhân loại đƣợc thể hiện thông qua
32. 24
quy định tại Điều 29 Quy chế Rome với luận điểm tiến bộ và nhân đạo –
không áp dụng thời hiệu đối với những tội phạm thuộc quyền tài phán của
Tòa án hình sự quốc tế, tức là những tội diệt chủng, những tội phạm chống
loài ngƣời, những tội phạm chiến tranh và tội xâm lƣợc liệt kê cụ thể tại các
điều 5-8 Quy chế [4, tr. 296].
Sáu là nguyên tắc trách nhiệm do lỗi đƣợc thể hiện thông qua quy định
tại Điều 30 Quy chế Rome với luận điểm tiến bộ và nhân đạo – trừ trƣờng
hợp có quy định khác, một ngƣời phải chịu trách nhiệm hình sự và hình phạt
về tội phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án hình sự quốc tế chỉ khi hành vi
đƣợc thực hiện một cách có ý định và có ý thức (lỗi cố ý) [4, tr. 296].
Ngoài ra yếu tố sai sót về luật và sai sót về sự kiện chỉ là căn cứ loại trừ
trách nhiệm hình sự nếu nó phủ nhận đƣợc việc hành vi thực hiện một cách có
ý định và có ý thức.
Bảy là nguyên tắc nhân đạo - một trong những nguyên tắc đƣợc thể
hiện rõ nét nhất trong Quy chế Rome. Ngay ở lời nói đầu của Quy chế đã quy
định “Nhận thấy rằng trong thế kỷ này, hàng triệu trẻ em, phụ nữ, nam giới đã
trở thành nạn nhân của những hành động tàn ác chƣa từng thấy, gây chấn
động lƣơng tri nhân loại”, và “Khẳng định rằng các tội ác nghiêm trọng nhất
gây nên sự lo ngại của toàn thể cộng đồng quốc tế phải bị trừng trị”, nguyên
tắc này tiếp tục đƣợc thể hiện ở các điều khoản tiếp theo của Quy chế Rome
nhƣ việc áp dụng và giải thích luật phải phù hợp với các quyền con ngƣời
(khoản 3 Điều 21); trong trƣờng hợp tội phạm đƣợc hiểu theo hai nghĩa thì
phải giải thích theo hƣớng có lợi cho ngƣời đang bị điều tra, xét xử hoặc đã bị
coi là có lỗi đối với tội phạm ấy (khoản 2 điều 22); không phải chịu trách
nhiệm hình sự theo quy chế Rome về những hành vi đƣợc thực hiện trƣớc khi
Quy chế này có hiệu lực (khoản 1 Điều 24); nếu có sự thay đổi trong điều luật
áp dụng đối với vụ án cụ thể thì phải áp dụng điều luật nào có lợi hơn cho
33. 25
ngƣời ấy (khoản 2 điều 24); không truy tố hình sự đối với ngƣời chƣa thành
niên phạm tội (Điều 26)…
Tác giả sẽ làm rõ hơn nội dung, ý nghĩa cũng nhƣ sự thể hiện của
nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome năm 1998 tại Chƣơng 2 của
Luận văn này.
34. 26
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” có hiệu lực vào
ngày 01/7/2002 sau khi đạt đƣợc con số 60 quốc gia phê chuẩn. Quy chế
Rome là một điều ƣớc quốc tế đa phƣơng bao gồm 128 điều khoản, đƣợc chia
làm 12 phần, đề cập đến rất nhiều vấn đề phức tạp, thể chế hóa hầu hết các
vấn đề của tố tụng hình sự quốc tế; các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự;
cơ cấu tổ chức và điều hành của Tòa án; hoạt động điều tra, truy tố và xét xử;
thủ tục phúc thẩm và xét lại; hợp tác quốc tế và tƣơng trợ tƣ pháp; vấn đề thi
hành bản án, quyết định của Tòa án. Các quy định của Quy chế thể hiện sự
kết hợp, hài hòa hóa giữa nhiều truyền thống pháp luật khác biệt trên thế giới.
Nhiều quy định của Quy chế, bao gồm cả các quy định về định nghĩa các tội
phạm quốc tế bao gồm: tội diệt chủng, tội chống nhân loại, tội phạm chiến
tranh và tội xâm lƣợc; lẫn các quy định về tố tụng điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành bản án của Tòa án đều chƣa từng đƣợc quy định, hoặc có nội dung
khác biệt cơ bản với các quy định trong pháp luật quốc gia.
Trong pháp luật quốc tế cũng nhƣ quan hệ quốc tế, các nguyên tắc cơ
bản và nguyên tắc pháp luật chung thƣờng đƣợc ghi nhận trong các văn bản
pháp lý và đƣợc viện dẫn trong thực tiễn nhƣ một trong những cơ sở pháp lý
quan trọng nhất để điều chỉnh lĩnh vực hợp tác quốc tế nói chung cũng nhƣ
giải quyết tranh chấp quốc tế nói riêng. Các nguyên tắc của luật hình sự quốc
tế đƣợc ghi nhận trong Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế”
thể hiện quyết tâm bảo vệ những giá trị xã hội cao quý nhất, các quyền con
ngƣời. Hệ thống những nguyên tắc của luật hình sự quốc tế đƣợc quy định tập
trung tại Phần 3 Quy chế Rome (các điều 22-33).
35. 27
Chương 2
SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG QUY CHẾ
ROME NĂM 1998 “VỀ TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ”
2.1. Nội dung cơ bản của nguyên tắc nhân đạo
Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” là một văn bản
có giá trị quốc tế quan trọng trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự để bảo vệ các
quyền con ngƣời. Quy chế Rome đƣợc thông qua ngày 17/7/1998 tại Rome
(Italia) với việc thành lập Tòa án hình sự quốc tế (ICC) có thẩm quyền xét xử
các tội phạm diệt chủng, tội phạm chống loài ngƣời, tội phạm chiến tranh và
tội phạm xâm lƣợc, đồng thời với mục tiêu là bắt các cá nhân phải chịu trách
nhiệm cho các tội ác đã đƣợc liệt kê trong danh sách những tội phạm nghiêm
trọng và mức độ lớn cho những giá trị chung của con ngƣời.
Đối với phạm vi luật hình sự quốc gia, nội dung của nguyên tắc nhân
đạo bao gồm hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Ở nghĩa rộng, nguyên tắc
nhân đạo gắn với trách nhiệm của Nhà nƣớc trong việc xác định cơ sở của trách
nhiệm hình sự, quy định tội phạm và hình phạt cũng nhƣ các biện pháp tác
động của luật hình sự nhằm bảo vệ các lợi ích của xã hội, của Nhà nƣớc và của
cá nhân... Ở nghĩa hẹp, nội dung của nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự thể
hiện ở mức độ khoan hồng của luật hình sự đối với ngƣời phạm tội [46, tr. 79].
Tƣơng tự nhƣ vậy có thể thấy rằng, nội dung cơ bản của nguyên tắc nhân
đạo trong Quy chế Rome cũng đƣợc thể hiện ở cả hai nghĩa: nghĩa rộng và
nghĩa hẹp. Ở nghĩa rộng, nguyên tắc nhân đạo gắn với trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế trong việc xác định cơ sở của trách nhiệm hình sự, quy định tội
phạm và hình phạt cũng nhƣ các biện pháp tác động của luật hình sự quốc tế
đối với một số tội phạm quốc tế quan trọng nhằm bảo vệ các lợi ích chung của
con ngƣời và của hòa bình nhân loại. Nội dung này không đƣợc thể hiện cụ thể
36. 28
thành một điều luật nhƣng nó lại chi phối, xuyên suốt và ảnh hƣởng đến toàn
bộ các quy định của Quy chế Rome. Tại Lời nói đầu, nội dung của nguyên tắc
nhân đạo theo nghĩa rộng đƣợc thể hiện một cách rõ nét nhất. Từ đây, Quy chế
đã khẳng định rằng các tội ác nghiêm trọng nhất gây nên sự lo ngại của toàn
thể cộng đồng quốc tế phải bị trừng trị và cần bảo đảm truy tố hiệu quả những
tội phạm này bằng việc thực thi các biện pháp ở cấp độ quốc gia và tăng cƣờng
hợp tác quốc tế, đồng thời quyết tâm chấm dứt tình trạng lọt lƣới pháp luật của
những kẻ gây lên các tội ác nói trên và do vậy, góp phần ngăn ngừa những tội
ác đó, trách nhiệm của mỗi quốc gia là thực hiện quyền tài phán hình sự của
mình đối với những kẻ gây ra tội ác quốc tế. Do đó, Luật hình sự quốc tế đã
xác định các tội phạm quốc tế, tội phạm có tính chất quốc tế để truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với các cá nhân phạm tội ác nghiêm trọng này. Ở nghĩa hẹp,
nội dung của nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome thể hiện mức độ khoan
hồng của Luật hình sự quốc tế đối với ngƣời phạm tội. Một mặt, Quy chế
Rome thực thi trọng trách bảo vệ quyền con ngƣời, bảo vệ hòa bình nhân loại;
mặt khác, vẫn đảm bảo nguyên tắc nhân đạo trong việc điều tra, truy tố và xét
xử các cá nhân phạm tội ác quốc tế nghiêm trọng thông qua những nội dung mà
tác giả sẽ phân tích rõ hơn tại Mục III Chƣơng 2, theo quan điểm của tác giả
những nội dung đó bao gồm:
1) Việc áp dụng và giải thích luật phải phù hợp với quyền con ngƣời;
2) Trong trƣờng hợp tội phạm đƣợc hiểu theo hai nghĩa thì phải giải
thích theo hƣớng có lợi cho ngƣời bị điều tra, xét xử hoặc bị coi là có lỗi đối
với tội phạm ấy;
3) Không phải chịu trách nhiệm hình sự theo Quy chế Rome đối với
những hành vi đƣợc thực hiện trƣớc khi Quy chế này có hiệu lực;
4) Nếu có sự thay đổi trong điều luật áp dụng đối với vụ án cụ thể thì
phải áp dụng điều luật nào có lợi hơn cho ngƣời ấy;
37. 29
5) Không truy tố hình sự đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội;
6) Các trƣờng hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi: tình trạng
không có năng lực trách nhiệm hình sự, Phòng vệ chính đáng và Tình thế
cấp thiết;
7) Không đƣa hình phạt tử hình vào trong Quy chế Rome để xét xử
những tội ác quốc tế;
8) Khi quyết định bản án, Tòa án phải cân nhắc đến cả yếu tố hoàn
cảnh cá nhân của ngƣời bị kết án.
2.2. Ý nghĩa của nguyên tắc nhân đạo
ICC đƣợc thành lập ra để trừng trị và xét xử các tội ác nghiêm trọng xâm
phạm đến hòa bình và an ninh của nhân loại, xâm phạm đến trật tự pháp luật
quốc tế và đặc biệt là xâm phạm đến quyền con ngƣời, quyền đƣợc sống và bảo
vệ trong an toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và hạnh phúc của
mình, cũng nhƣ an ninh quốc gia của các Nhà nƣớc trên thế giới [60, tr. 18-19].
Với ý nghĩa cao cả đó, ICC xây dựng nguyên tắc, cơ chế, trình tự, thủ
tục để tiến hành xử lý các cá nhân thực hiện các tội ác nghiêm trọng xâm
phạm đến hòa bình và an ninh của nhân loại, xâm phạm đến các quyền và tự
do của con ngƣời. Những trình tự, thủ tục này bên cạnh việc xử lý những đối
tƣợng xâm phạm đến các lợi ích đã nêu, song vẫn bảo đảm quyền con ngƣời
cho chính các đối tƣợng đó trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án, cụ thể là quyền của ngƣời liên quan trong điều tra, quyền đƣợc suy đoán
vô tội và quyền của bị cáo khi xét xử [60, tr. 19]. Chính điều này đã làm nên
tính nhân đạo của Quy chế Rome.
Bên cạnh đó, ICC ra đời còn để tạo ra một cơ chế đặc biệt nhằm bảo vệ
các nạn nhân của tội phạm và gia đình của họ thông qua việc thiết lập một Ban
Nạn nhân và Quỹ tín thác nạn nhân, qua đó giải quyết vấn đề bồi thƣờng cho
38. 30
nạn nhân. Với ý nghĩa này, ICC đóng vai trò trung tâm trong việc bảo vệ quyền
của nạn nhân, quyền đƣợc bồi thƣờng và bảo vệ quyền con ngƣời [60, tr. 19].
Ngoài ra, ICC có quyền áp dụng các hình phạt nghiêm khắc để xử
những ngƣời phạm tội, nhƣng vẫn bảo đảm nhân đạo và vì mục đích cải tạo,
giáo dục những ngƣời phạm các tội ác quốc tế.
2.3. Các quy định về nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome
năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế”
Theo quan điểm của GS. TSKH Lê Cảm, nguyên tắc nhân đạo đƣợc
thể hiện thông qua các quy định trong Quy chế Rome (các điều 21, 23, 24 và
26) với các luận điểm tiến bộ và mang tính nhân văn nhƣ:
i) Việc áp dụng và giải thích luật phải phù hợp với các quyền
con ngƣời (khoản 3 Điều 21); ii) trong trƣờng hợp tội phạm đƣợc
hiểu theo hai nghĩa thì phải giải thích theo hƣớng có lợi cho ngƣời
đang bị điều tra, xét xử hoặc bị coi là có lỗi đối với tội phạm ấy
(khoản 3 Điều 22); iii) không ai phải chịu trách nhiệm hình sự theo
Quy chế Rome về những hành vi đã đƣợc thực hiện trƣớc khi Quy
chế này có hiệu lực (khoản 2 Điều 24); iv) nếu có sự thay đổi trong
điều luật đang áp dụng đối với vụ án cụ thể thì phải áp dụng điều luật
nào có lợi hơn cho ngƣời ấy (khoản 2 Điều 24); v) không truy tố
hình sự ngƣời chƣa thành niên phạm tội (Điều 26) [4, tr. 294-295].
Theo quan điểm của tác giả thì nguyên tắc nhân đạo đƣợc thể hiện
thông qua những quy định trong Quy chế Rome, cụ thể nhƣ sau:
2.3.1. Quy định về lời nói đầu
Trong mỗi một văn bản pháp lý thì lời nói đầu thƣờng mang tính kim
chỉ nam cho sự ra đời của văn bản đó. Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án
hình sự quốc tế” cũng không nằm ngoài điều đó. Đoạn hai lời nói đầu của
Quy chế đã quy định:
39. 31
Nhận thấy rằng trong thế kỷ này, hàng triệu trẻ em, phụ nữ,
nam giới đã trở thành nạn nhân của những hành động tàn ác chƣa
từng thấy, gây chấn động lƣơng tri nhân loại, và Đoạn bốn: Khẳng
định rằng các tội ác nghiêm trọng nhất gây nên sự lo ngại của toàn
thể cộng đồng quốc tế phải bị trừng trị.
Xã hội phát triển đi cùng với nó là sự gia tăng của các tội phạm quốc tế
(tội diệt chủng, tội chống nhân loại, tội phạm chiến tranh và tội xâm lƣợc) và
tội phạm có tính chất quốc tế, nhƣ: tội phạm cƣớp biển, tội buôn bán nô lệ,
phụ nữ và trẻ em, tội phạm khủng bổ quốc tế, tội bắt cóc con tin, tội đe dọa an
ninh hàng không – hàng hải quốc tế, tội buôn bán bất hợp pháp các chất ma
túy… Chính vì vậy ngay từ lời nói của Quy chế đã khẳng định rằng các tội ác
nghiêm trọng nhất gây nên sự lo ngại của toàn thể cộng đồng quốc tế phải bị
trừng trị và cần đảm bảo truy tố hiệu quả những tội phạm này bằng việc thi
hành các biện pháp ở cấp độ quốc gia và tăng cƣờng hợp tác quốc tế.
Sự khẳng định ngay từ những dòng đầu tiên của Quy chế nhƣ một lời
tuyên ngôn về lƣơng tri nhân loại rằng những tội ác đó cần phải đƣợc trừng
trị, những kẻ gây ra những tội ác đó cần phải chịu trách nhiệm hình sự trƣớc
cộng đồng quốc tế, nạn nhân của những tội ác đó cần đƣợc bảo vệ. Hơn đâu
hết tính nhân đạo đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt cho Quy chế Rome.
2.3.2. Quy định về áp dụng và giải thích luật (Khoản 3 Điều 21)
Để thực hiện tính đúng đắn trong quá trình xét xử và đảm bảo việc thực
thi công lý một cách hiệu quả, luật áp dụng đối với hoạt động xét xử của Tòa
án là một yếu tố hết sức quan trọng. Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án
hình sự quốc tế” quy định một cách đầy đủ và rõ ràng những loại luật nào
đƣợc áp dụng trong quá trình thực thi quyền tài phán của mình, cụ thể là:
Một là, các quy định của Luật quốc tế, bao gồm Quy chế Rome với các
quy định về yếu tố cấu thành tội phạm, quy tắc về thủ tục và chứng cứ, các
40. 32
Điều ƣớc quốc tế, các nguyên tắc và quy tắc của Luật pháp quốc tế có thể áp
dụng cả các nguyên tắc của Luật quốc tế về xung đột vũ trang nếu thích hợp.
Hai là, các nguyên tắc pháp luật chung mà Tòa án vận dụng từ luật
quốc gia của các hệ thống pháp luật trên thế giới, kể cả luật của các quốc gia
thông thƣờng sẽ thực hiện quyền tài phán đối với các tội phạm nói trong Quy
chế Rome nếu thích hợp, với điều kiện các nguyên tắc đó không trái với Quy
chế này và pháp luật quốc tế cũng nhƣ các quy phạm và chuẩn mực đƣợc
quốc tế thừa nhận.
Ba là, Tòa án có thể áp dụng các nguyên tắc và quy tắc pháp luật đã
đƣợc giải thích trong các quy định trƣớc đây của mình.
Bên cạnh đó, “Việc áp dụng và giải thích luật theo Điều này phải phù
hợp với các quyền con ngƣời đã đƣợc quốc tế thừa nhận và không đƣợc mang
tính phân biệt đối xử về giới tính nêu tại Điều 7 khoản 3, độ tuổi, chủng tộc,
màu da, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc tín ngƣỡng, quan điểm về chính trị hoặc về
vấn đề khác, nguồn gốc dân tộc, sắc tộc hay xã hội, tài sản, sự ra đời hoặc các
địa vị khác” (Khoản 3 Điều 21).
TS. Trịnh Tiến Việt đã đƣa ra khái niệm về quyền con ngƣời nhƣ sau:
“Quyền con người là những đặc quyền vốn có tự nhiên của con người, chỉ có
con người mới có và các quyền này phải được bảo vệ bằng pháp luật quốc
gia và quốc tế, trong đó có Luật hình sự quốc tế” [60, tr. 5]
Quyền con ngƣời đƣợc coi là thành quả của rất nhiều cuộc cách mạng
giải phóng con ngƣời qua các hình thái kinh tế - xã hội trong tiến trình lịch sử
kéo dài. Một Nhà nƣớc càng văn minh, dân chủ và thể hiện bản chất nhân đạo
chính bằng việc bảo vệ quyền con ngƣời tại quốc gia đó.
Nhƣ vậy, một lần nữa tính nhân đạo lại đƣợc thể hiện rõ nét trong Quy
chế Rome. Mặc dù đối tƣợng phải chịu sự xét xử của Tòa án hình sự quốc tế
theo Quy chế Rome là những cá nhân gây ra những tội ác quốc tế nhƣng việc
41. 33
áp dụng và giải thích luật vẫn phải phù hợp với quyền con ngƣời, không đƣợc
có sự phân biệt về giới tính, độ tuổi, chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo
hoặc tín ngƣỡng, quan điểm chính trị hoặc về vấn đề khác, nguồn gốc dân tộc,
sắc tộc hay xã hội, tài sản, sự ra đời hoặc các địa vị khác.
2.3.3. Quy định về trường hợp tội phạm được hiểu theo hai nghĩa
(Khoản 2 Điều 22)
Nếu nhƣ một cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế, thì về mặt
pháp lý, họ có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm về hành vi mà mình đã gây ra,
song dù họ có thực hiện tội phạm nghiêm trọng thế nào, thì vẫn là con
ngƣời, nên vẫn có quyền con ngƣời. Do đó, khi họ bị bắt giữ, họ cũng cần
đƣợc Luật hình sự quốc tế tôn trọng và bảo vệ trong các giai đoạn điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án. Đây chính là chuẩn mực pháp lý và thể hiện ý
nghĩa nhân văn, cũng nhƣ thể hiện nguyên tắc công bằng và nhân đạo của
Luật hình sự quốc tế.
Khoản 2 Điều 22 Quy chế Rome quy định: “Định nghĩa tội phạm phải
được giải thích một cách nghiêm ngặt và không được mở rộng theo phép loại
suy. Trường hợp có nội dung không rõ ràng, định nghĩa đó phải được giải
thích theo hướng có lợi cho người đang bị điều tra, truy tố hoặc kết tội”. Điều
này đƣợc hiểu rằng trong trƣờng hợp tội phạm đƣợc hiểu theo hai nghĩa thì
phải giải thích theo hƣớng có lợi cho ngƣời bị điều tra, xét xử hoặc đã bị coi
là có lỗi đối với tội phạm ấy.
Giải thích pháp luật đƣợc hiểu là hoạt động quyền lực của cơ quan có
thẩm quyền tài phán nhằm làm rõ những nội dung, định nghĩa chƣa rõ ràng
trong văn bản quy phạm pháp luật để buộc các chủ thể tuân theo. Do đó, việc
giải thích luật có thể mang tính chủ quan, duy ý chí. Bằng việc ngăn chặn sự
việc đó có thể xảy và đề cao tính nhân văn, Quy chế Rome đã dành hẳn một
khoản để quy định rằng việc giải thích đấy phải theo hƣớng có lợi cho ngƣời
đang bị điều tra, truy tố hoặc kết tội.
42. 34
2.3.4. Quy định về không hồi tố (Điều 24)
Điều 24 Quy chế Rome quy định:
1. Không ai phải chịu trách nhiệm hình sự theo Quy chế này
về hành vi thực hiện trƣớc khi Quy chế này có hiệu lực.
2. Trƣờng hợp có sự thay đổi về luật áp dụng đối với một vụ
việc trƣớc khi có phán quyết cuối cùng, luật nào có lợi hơn cho
ngƣời đang bị điều tra, truy tố hoặc kết tội sẽ đƣợc áp dụng.
Tòa án chỉ có quyền tài phán đối với những tội phạm thực hiện sau khi
Quy chế này có hiệu lực. Do đó, một quốc gia trở thành thành viên của Quy
chế này thì phải chấp nhận quyền tài phán của ICC đối với các tội quy định tại
Điều 5 Quy chế. Còn đối với quốc gia trở thành thành viên của Quy chế sau
khi Quy chế có hiệu lực thì Tòa án chỉ có thể thực hiện quyền tài phán đối với
các tội phạm xảy ra sau khi Quy chế có hiệu lực đối với quốc gia đó, trừ
trƣờng hợp quốc gia trên tuyên bố theo khoản 3 Điều 12. Tức là dù một quốc
gia chƣa phải là thành viên song vẫn chấp nhận quyền tài phán của Tòa án vì
mục đích trừng trị kẻ phạm tội. Quốc gia chấp nhận quyền tài phán sẽ hợp tác
với ICC mà không có bất kỳ một sự chậm trễ hoặc ngoại lệ nào.
Bên cạnh đó, trƣớc khi có phán quyết cuối cùng luật nào có lợi hơn sẽ
đƣơc áp dụng cho ngƣời đang bị điều tra, truy tố hoặc kết tội.
Không áp dụng hồi tố cũng là một nguyên tắc quan trọng trong luật tố
tụng hình sự và đã đƣợc khẳng định trong pháp luật quốc tế cũng nhƣ pháp
luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Theo Điều 15 Công ƣớc quốc tế về
các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) năm 1966, không ai bị coi là có tội vì
một hành động hoặc không hành động mà không cấu thành tội phạm theo
pháp luật quốc gia hoặc pháp luật quốc tế tại thời điểm thực hiện hành vi đó.
Ngoài ra theo Điều 15 ICCPR, nếu sau khi xảy ra hành vi phạm tội mà luật
pháp quy định hình phạt nhẹ hơn với hành vi đó, thì ngƣời phạm tội đƣợc
hƣởng mức hình phạt nhẹ hơn… [60, tr. 22].
43. 35
Nhƣ vậy, quyền này đƣợc Quy chế Rome ghi nhận chính là cơ sở để
các quốc gia, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tôn trọng và chấp hành
nghiêm chỉnh, qua đó thể hiện tính nhân đạo và bảo đảm quyền con ngƣời của
ngƣời của ngƣời đang bị điều tra, truy tố hoặc kết tội.
2.3.5. Quy định về không truy tố hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội (Điều 26)
Điều 26 Quy chế Rome quy định về việc loại trừ quyền tài phán đối với
ngƣời dƣới 18 tuổi nhƣ sau:
“Tòa án không có quyền tài phán đối với bất kỳ người nào dưới 18 tuổi
tại thời điểm bị cho là phạm tội”.
Ngƣời dƣới 18 tuổi là những ngƣời chƣa hoàn toàn phát triển đầy đủ về
nhân cách, chƣa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Điều 1
Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em đƣợc Đại hội đồng Liên hợp quốc thông
qua ngày 20/11/1989 có quy định rằng: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em
có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ
em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Nhƣ vậy, quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của Quy chế
Rome đã phù hợp với Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em. Trẻ em là ngƣời
dƣới 18 tuổi, chƣa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chƣa có đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhƣ ngƣời đã thành niên. Do đó, ngƣời thực
hiện các hành vi phạm tội đƣợc quy định trong Quy chế Rome là trẻ em thì
không phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm này. Đây là quy định
mang tính nhân đạo sâu sắc, có cân nhắc đến những đặc điểm đặc thù và sự
phát triển của trẻ em.
2.3.6. Quy định về những căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự
(Khoản 1 Điều 31)
Theo tác giả, những căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự cũng đƣợc coi
là sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome vì đây là những căn
44. 36
cứ để một ngƣời không phải chịu trách nhiệm hình sự tại thời điểm thực hiện
hành vi của mình.
Khoản 1 Điều 31 Quy chế Rome về Căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự
quy định nhƣ sau:
1. Ngoài những căn cứ khác loại trừ trách nhiệm hình sự
đƣợc quy định trong Quy chế này, một ngƣời không phải chịu trách
nhiệm hình sự nếu tại thời điểm thực hiện hành vi:
a) Ngƣời đó bị bệnh tâm thần hoặc có khiếm khuyết về tâm
thần làm mất khả năng nhận thức đƣợc tính trái pháp luật hoặc tính
chất của hành vi của mình hoặc khả năng kiểm soát hành vi đó cho
phù hợp với các yêu cầu của pháp luật;
b) Ngƣời đó đang trong tình trạng say làm mất khả năng nhận
thức tính trái pháp luật hoặc tính chất hành vi của mình hoặc khả
năng kiểm soát hành vi đó cho phù hợp với các yêu cầu của pháp
luật, trừ khi ngƣời đó tự nguyện làm mình say trong hoàn cảnh mà
ngƣời đó đã biết, hoặc đã bất chấp nguy cơ, là do tình trạng say này,
họ có thể sẽ thực hiện hành vi cấu thành một tội phạm thuộc quyền
tài phán của Tòa án;
c) Ngƣời đó hành động một cách hợp lý để tự vệ hay bảo vệ
ngƣời khác, hoặc trong trƣờng hợp tội phạm chiến tranh, bảo vệ
những tài sản thiết yếu cho sự tồn tại của ngƣời đó hay ngƣời khác
hoặc những tài sản thiết yếu cho sự hoàn thành nhiệm vụ quân sự,
chống lại việc sử dụng vũ lực bất hợp pháp và sắp xảy ra một cách
tƣơng xứng với mức độ đe dọa đối với ngƣời đó, ngƣời khác hoặc
tài sản đƣợc bảo vệ. Việc ngƣời đó tham gia vào hoạt động phòng
thủ do lực lƣợng quân đội tiến hành không là căn cứ để loại trừ
trách nhiệm hình sự theo khoản này;
45. 37
d) Hành vị bị coi là cấu thành tội phạm thuộc quyền tài phán
của Tòa án đƣợc thực hiện do bị ép buộc xuất phát từ mối đe dọa
sắp bị giết hoặc tiếp tục hay sắp bị gây thƣơng tích nghiêm trọng
đối với ngƣời đó hoặc ngƣời khác và ngƣời đó hành động một cách
cần thiết và hợp lý để tránh đƣợc mối đe dọa này, với điều kiện
ngƣời đó không có ý định gây ra thiệt hại nặng hơn so với thiệt hại
cần tránh. Mối đe dọa này có thể:
(i) Do ngƣời khác gây ra, hoặc
(ii) Do hoàn cảnh khác tạo ra ngoài tầm kiểm soát của ngƣời đó.
Theo khoản 1 Điều 31 Quy chế Rome thì một ngƣời “không phải chịu”
trách nhiệm hình sự nếu tại thời điểm thực hiện hành vi:
1) Ngƣời đó bị bệnh hoặc rối loạn về tâm thần làm mất khả
năng nhận thức tính trái pháp luật hay tính chất xử sự của mình phù
hợp với những yêu cầu của pháp luật;
2) Ngƣời đó ở trong tình trạng bị nhiễm độc làm mất khả
năng nhận thức tính trái pháp luật hay tính chất xử sự của mình
hoặc khả năng điều khiển các hành vi của mình phù hợp với những
yêu cầu của pháp luật, nếu ngƣời đó không tự nguyện để mình bị
nhiễm độc trong các trƣờng hợp mà ngƣời đó đã biết là do bị nhiễm
độc mình có thể sẽ thực hiện hành vi phạm tội hoặc ngƣời đó đã coi
thƣờng tính nguy hiểm của hành vi mà mình đã thực hiện;
3) Ngƣời đó đã hành động một cách sáng suốt (có lý trí) để
bảo vệ mình hoặc ngƣời khác, trong trƣờng hợp những tội phạm
chiến tranh – tài sản đặc biệt quan trọng đối với sự sống còn của
mình hoặc ngƣời khác, hay tài sản đặc biệt quan trọng, để thực hiện
nhiệm vụ có tính chất quân sự để tránh khỏi việc sử dụng đƣơng
nhiên và trái pháp luật vũ lực bằng phƣơng pháp tƣơng ứng với
mức độ nguy hiểm đang đe dọa mình, ngƣời khác hoặc tài sản;
46. 38
4) Hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhƣng là để chống
lại một cách bất đắc dĩ nguy cơ đang đe dọa làm chết ngƣời hoặc
gây nên thƣơng tích ấy đối với mình hoặc ngƣời khác, và ngƣời đó
áp dụng các biện pháp cần thiết và sáng suốt để loại trừ nguy cơ ấy
với điều kiện không có ý định gây ra thiệt hại mà mình mong muốn
ngăn ngừa [4, tr. 302-303].
Nếu xuất phát từ thuật ngữ “không phải chịu” trách nhiệm hình sự đã
đƣợc sử dụng và phân tích bản chất pháp lý của bốn căn cứ trên, thì rõ ràng
khoản 1 Điều 31 quy định các tình tiết và nội dung của bốn căn cứ đó có thể
đƣợc gọi một cách ngắn gọn theo thuật ngữ pháp lý hình sự là: [4, tr.303]
1) Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (hai căn cứ đầu
tiên). Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự đƣợc hiểu là trạng
thái của ngƣời khi gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự do bị bệnh lý tâm thần
hoặc một bệnh lý khác (bị nhiễm độc) nên đã hoàn toàn không thể nhận thức
đƣợc tính chất thực tế (tính nguy hiểm cho xã hội) và tính chất pháp lý (sự
quy định của pháp luật hình sự) của hành vi do mình thực hiện hoặc hoàn toàn
không thể điều khiển đƣợc hành vi đó [2, tr. 535].
2) Phòng vệ chính đáng (căn cứ thứ ba). Phòng vệ chính đáng là
hành vi chống trả của ngƣời phòng vệ để gây thiệt hại cho ngƣời đang có
hành vi xâm hại đến lợi ích hợp pháp của mình hoặc của những ngƣời
khác; cũng nhƣ của xã hội hay của Nhà nƣớc, nếu hành vi chống trả tƣơng
xứng hành vi xâm hại [2, tr. 547-548].
3) Tình thế cấp thiết (căn cứ thứ tƣ). Tình thế cấp thiết là hành vi của
ngƣời gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự của một ngƣời nào đó để ngăn
ngừa sự nguy hiểm đang đe dọa trực tiếp đến các lợi ích hợp pháp của mình
hoặc của ngƣời khác, cũng nhƣ của xã hội hay của Nhà nƣớc, nếu sự nguy
hiểm đấy không thể loại trừ đƣợc bằng cách nào khác và thiệt hại gây ra nhỏ
hơn thiệt hại ngăn ngừa [2, tr. 553].
47. 39
Nói một cách khác, bản chất pháp lý chung, đầy đủ và toàn diện của
bốn căn cứ này là “các trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi”
(vì khi hành vi đƣợc thực hiện mà chủ thể ở trong tình trạng không có năng
lực trách nhiệm hình sự hoặc hành vi đó không bị luật hình sự cấm, thì hành
vi đó không thể cấu thành tội phạm và do vậy, cũng không thể có trách
nhiệm hình sự) [4, tr. 303].
2.3.7. Quy định về hình phạt (Điều 77)
Trong khi tại khá nhiều nƣớc, hình phạt tử hình vẫn đƣợc áp dụng thì tại
Quy chế Rome hình phạt tử hình đã đƣợc loại bỏ, mặc dù những tội phạm đƣợc
xác định tại Quy chế là những tội đặc biệt nghiêm trọng nhƣ các tội diệt chủng,
tội phạm chống loài ngƣời, tội phạm chiến tranh và tội xâm phạm hòa bình.
Điều 77 Quy chế Rome về các hình phạt đƣợc áp dụng quy định nhƣ sau:
1. Căn cứ vào Điều 110, Tòa án có thể ấn định một trong các
hình phạt sau đối với ngƣời bị kết án về một tội nêu tại Điều 5 Quy
chế này:
a) Tù có thời hạn nhƣng không vƣợt quá mức tối đa 30 năm;
b) Tù chung thân thể theo tính chất đặc biệt nghiêm trọng của
tội phạm và hoàn cảnh cá nhân của ngƣời bị kết án.
2. Cùng với hình phạt tù, Tòa án có thể quyết định:
a) Phạt tiền theo những tiêu chí quy định tại Quy tắc về thủ
tục và chứng cứ;
b) Tịch thu tiền, bất động sản và động sản có nguồn gốc trực
tiếp hoặc gián tiếp từ tội phạm đó mà không làm phƣơng hại đến
các quyền của bên thứ ba ngay tình.
Nhƣ vậy, Quy chế Rome cho phép Tòa án áp dụng hình phạt tù có thời
hạn đến tối đa 30 năm, hoặc tù chung thân. Đây là mức án cao nhất có thể áp
dụng đối với ngƣời bị kết án, bất kể hậu quả và tính chất nguy hiểm của hành
48. 40
vi phạm tội đến mức độ nhƣ thế nào. Đồng thời, cũng là sự thể hiện rõ nét
nhất tinh thần nhân đạo của cộng đồng quốc tế đối với ngƣời phạm tội.
Bên cạnh hình phạt tù, Tòa án có thể áp dụng một trong hai hình phạt
bổ sung sau: [4, tr. 305]
- Phạt tiền (chiếu theo những tiêu chuẩn đƣợc quy định trong Quy tắc
của tố tụng và chứng minh);
- Tịch thu (không đƣợc gây thiệt hại cho phía thứ ba) các nguồn thu
nhập, tài sản và các tài khoản có đƣợc trực tiếp hoặc gián tiếp do phạm tội.
Hiện nay, tại khá nhiều nƣớc, trong đó có Việt Nam, luật pháp quốc
gia vẫn cho phép áp dụng hình phạt tử hình, đặc biệt đối với những tội
đặc biệt nghiêm trọng nhƣ các tội ác quốc tế đƣợc định nghĩa trong Quy
chế Rome. Trái lại, ở khá nhiều nƣớc, không những hình phạt tử hình đã
bị loại bỏ, mà ngay hình phạt tù chung thân cũng đã bị cấm (nhƣ Tây Ban
Nha, Brazil), thậm chí một số nƣớc quy định hình phạt tù có thời hạn
không đƣợc vƣợt quá một số năm nhất định, hoặc ít hơn 30 năm (nhƣ
Honduras) [49, tr. 238]. Vấn đề đặt ra là việc xung đột giữa luật quốc gia và
quy định của Quy chế Rome cần đƣợc giải quyết nhƣ thế nào đối với các quốc
gia đã gia nhập cũng nhƣ các quốc gia muốn gia nhập Quy chế này? Điều 80
Quy chế Rome đã đƣa ra cách giải quyết nhƣ sau: “Không quy định nào trong
Phần này ảnh hƣởng đến việc các quốc gia áp dụng các hình phạt đƣợc quy
định trong luật quốc gia cũng nhƣ áp dụng luật của các quốc gia không quy
định các hình phạt nhƣ phần này”. Nhƣ vậy, có thể hiểu trong trƣờng hợp nếu
hành vi phạm tội đƣợc xét xử bởi tòa án quốc gia, Quy chế Rome hoàn toàn
tôn trọng việc áp dụng hình phạt theo luật quốc gia. Trong trƣờng hợp ICC
xét xử, sự xung đột về áp dụng hình phạt đƣợc các quốc gia giải quyết bằng
cách viện dẫn đến điều luật cụ thể của Quy chế Rome thay vì thực hiện những
thay đổi của pháp luật trong nƣớc theo xu hƣớng quy định của Quy chế này.
49. 41
Chẳng hạn, liên quan đến việc một quốc gia có quy định ngăn cấm hình phạt
tù chung thân hoặc tù có thời hạn đến 30 năm trong khi lại đƣợc Tòa án yêu
cầu tiếp nhận một ngƣời bị Tòa án tuyên nhƣ vậy để thi hành án, nƣớc đƣợc
yêu cầu có thể viện dẫn Điều 103 của Quy chế [49, tr. 238].
2.3.8. Quy định về quyết định bản án (Khoản 1 Điều 78)
Khoản 1 Điều 78 Quy chế Rome về Quyết định bản án quy định nhƣ sau:
“Khi quyết định bản án, phù hợp với Quy tắc về thủ tục và chứng cứ,
Tòa án phải cân nhắc các yếu tố như tính chất nghiêm trọng của tội phạm và
hoàn cảnh cá nhân của người bị kết án”.
Hoàn cảnh cá nhân của ngƣời bị kết án cũng là một trong những căn
cứ ảnh hƣởng đến việc quyết định bản án. Xuyên suốt từ giai đoạn điều tra,
truy tố, xét xử đến quyết định bản án, yếu tố nhân thân của ngƣời bị kết án
luôn đƣợc xem xét đến, đó chính là sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo
trong Quy chế Rome.