Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: So sánh pháp luật về chống bán phá giá hàng hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, cho các bạn tham khảo
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
Pháp luật về chống bán phá giá hàng hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ THỊ NHƯ HẰNG
SO S¸NH PH¸P LUËT vÒ CHèNG B¸N PH¸ GI¸ HµNG HãA
GI÷A VIÖT NAM Vµ HOA Kú
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TIẾN VINH
HÀ NỘI - 2014
2. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Vũ Thị Như Hằng
3. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục sơ đồ
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
Chương 1: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ HOA KỲ VỀ KHÁI NIỆM
BÁN PHÁ GIÁ VÀ CÁC BIỆN PHÁP CHỐNG BÁN PHÁ
GIÁ HÀNG HÓA ...........................................................................6
1.1. Khái niệm bán phá giá ...................................................................6
1.1.1. Bán phá giá dưới góc độ kinh tế.........................................................6
1.1.2. Bán phá giá dưới góc độ pháp lý........................................................9
1.1.3. Khái niệm bán phá giá trong thương mại quốc tế .............................15
1.2. Các biện pháp chống bán phá giá................................................. 19
1.2.1. Các biện pháp cam kết.................................................................... 21
1.2.2. Áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời....................................... 23
1.2.3. Áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức ...................................24
Tiểu kết chương 1....................................................................................... 30
Chương 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ HOA KỲ VỀ ĐIỀU TRA
XỬ LÝ HÀNH VI BÁN PHÁ GIÁ HÀNG HÓA........................31
2.1. Mô hình tổ chức điều tra và trình tự, thủ tục điều tra xử lý
hành vi bán phá giá hàng hóa...................................................... 31
2.1.1. Mô hình tổ chức điều tra hành vi bán phá giá hàng hóa.................... 31
2.1.2. Trình tự, thủ tục điều tra và xử lý hành vi chống bán phá giá
hàng hóa......................................................................................... 36
4. 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật chống bán phá giá của Việt
Nam và Hoa Kỳ.............................................................................59
2.2.1. Vụ kiện chống bán phá giá cá da trơn từ Việt nam........................... 59
2.2.2. Vụ kiện tôm của Việt Nam tại Hoa Kỳ ............................................ 61
2.2.3. Vụ kiện tháp điện gió do Hoa Kỳ khởi xướng.................................. 64
2.2.4. Vụ kiện thép không gỉ cán nguội do Việt Nam khởi xướng ............ 66
Tiểu kết chương 2....................................................................................... 70
Chương 3: NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ VIỆC SO
SÁNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ HOA KỲ VỀ CHỐNG
BÁN PHÁ GIÁ .............................................................................71
3.1. Đánh giá chung.............................................................................71
3.2. Hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập
khẩu vào Việt Nam....................................................................... 74
3.2.1. Hoàn thiện khái niệm bán phá giá trong pháp luật hiện hành.......... 74
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung các quy định về thủ tục điều tra, xử lý vụ việc
chống bán phá giá...........................................................................75
3.2.3. Hoàn thiện bộ máy thực thi chống bán phá giá cho phù hợp với
điều kiện hiện nay của Việt Nam.................................................... 78
3.3. Những bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam để
phòng tránh và xử lý các vụ việc chống bán phá giá ..................79
3.3.1. Chủ động phòng chống các vụ kiện bán phá giá của nước ngoài ...79
3.3.2. Nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội
ngành hàng, các cơ quan hữu quan ................................................. 82
3.3.3. Rõ ràng, minh bạch trong các chi phí, nguyên liệu và lao động
để sản xuất hàng xuất khẩu.............................................................84
Tiểu kết chương 3....................................................................................... 86
KẾT LUẬN................................................................................................. 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................90
5.
6. BẢNG CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Giải nghĩa
AD : Chống bán phá giá
ADA : Hiệp định chống bán phá giá của WTO
CITT : Toà Thương mại quốc tế Canada
DOC : Bộ Thương mại Hoa Kỳ
EU : Liên minh Châu Âu
GATT : Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
ITC : Ủy ban thương mại Quốc tế Hoa Kỳ
USITC : Hội đồng Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ
VCAD : Cục quản lý cạnh tranh
VCCI : Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
7. DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Mức thuế chống bán phá giá tạm thời áp dụng
cho các doanh nghiệp sản xuất/xuất khẩu vào
Việt Nam 67
Bảng 2.2: Mức thuế chống bán phá giá tạm thời áp dụng
cho các doanh nghiệp sản xuất/xuất khẩu vào
Việt Nam 68
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Số hiệu sơ đồ Tên sơ đồ Trang
Sơ đồ 2.1: Trình tự các sự kiện trong điều tra chống bán
phá giá 39
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, tự do thương mại và liên kết
kinh tế thương mại đang là trào lưu nổi bật thì hội nhập kinh tế quốc tế không
những ngày càng trở thành một xu thế khách quan mà còn đóng vai trò là một
công cụ hữu hiệu để phát triển nhanh và bền vững nếu được nắm bắt và vận
dụng một cách tích cực.
Với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế, Việt Nam đã
thực hiện và đạt được những thành tựu to lớn trong việc đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hóa. Tuy nhiên, hiện nay, các quan hệ ngoại thương ngày càng đa dạng
và mang tính cạnh tranh gay gắt, các chiến lược xuất khẩu của ta thường bị
các rào cản thương mại đặc biệt là các vụ kiện bán phá giá ngày càng tăng đã
gây ra không ít những thiệt hại vô cùng to lớn cho nền kinh tế đất nước. Các
cơ chế giải quyết lại không hữu hiệu chủ yếu là bằng thủ tục tư pháp và phía
thiệt hại luôn là chúng ta, các cơ chế song phương chưa phát triển trong khi
đó việc đàm phán gia nhập các cơ chế đa phương thì lại chậm chạp. Điều này
gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào thị
trường thế giới.
Hoa Kỳ là một thị trường rộng lớn và khó tính, có tiềm năng lớn vào
loại bậc nhất trên thế giới. Hơn thế nữa, hiện nay những thị trường truyền
thống của Việt Nam như châu Á, châu Âu, Nga,… đã có xu hướng bão hòa
với các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nên đây là thị trường mới
mẻ, tiềm năng mà và tương đối ổn định ở châu Mỹ mà các doanh nghiệp Việt
Nam muốn hợp tác, đồng thời là đối tác quan trọng giúp Việt Nam đạt được
mục tiêu hội nhập kinh tế thế giới. Thương trường Hoa Kỳ mở ra những cơ
hội đầy triển vọng nhưng nó lại được điều chỉnh bằng một hệ thống pháp luật
9. 2
và các rào cản thương mại cực kỳ phức tạp và chặt chẽ. Luật thuế chống bán
phá giá hiện nay đang là một công cụ hữu hiệu trên thị trường này nhằm bảo
hộ nền công nghiệp trong nước trước cơn lũ hàng nhập khẩu từ các nước đang
phát triển trong đó có Việt Nam.
Với mong muốn tìm hiểu một cách sâu sắc pháp luật chống bán phá giá
của Hoa Kỳ và Việt Nam để có cái nhìn tổng quan hơn và cũng để đưa ra giải
pháp khắc phục cũng như hướng hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá của
Việt Nam, tác giả đã chọn đề tài: “So sánh pháp luật về chống bán phá giá
hàng hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận, các quy định pháp
luật về chống bán phá giá của Việt Nam và Hoa Kỳ để làm rõ các vấn đề pháp
lý liên quan. Từ sự so sánh với pháp luật của Hoa Kỳ rút ra bài học kinh
nghiệm trong việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam nói chung và cho các doanh
nghiệp Việt Nam nói riêng trong việc phòng tránh, giải quyết các biện pháp
chống bán phá giá tại Hoa Kỳ, giúp đẩy mạnh và thâm nhập vào thị trường
xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu lịch sử phát triển, các cơ sở kinh tế - pháp lý về chống
bán phá giá hàng hóa của Việt nam và Hoa Kỳ.
- Làm rõ các khái niệm bán phá giá và chống bán phá giá hàng hóa theo
pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ.
- Tìm hiểu, so sánh mô hình tổ chức điều tra và xử lý các hành vi bán
phá giá theo pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ.
- Đưa ra nhưng giải pháp, kiến nghị nhằm giải quyết những khó khăn
mà doanh nghiệp Việt Nam gặp phải khi tham gia giao kết thương mại trong
và ngoài nước.
10. 3
3. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa là đề tài không mới nhưng cũng
chưa bao giờ là cũ đối với những nhà nghiên cứu khoa học pháp lý, đã có rất
nhiều các đề tài nghiên cứu và bài viết về vấn đề này như “ Pháp luật chống
bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Ngọc Sơn, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh năm 2005; “ Các vụ kiện chống bán phá giá và cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO” của tác giả Bùi Anh Thủy trong Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật số 2, năm 2007…
Ngoài các bài viết và đề tài nghiên cứu còn có một số hội thảo về vấn
đề này như: cuộc hội thảo về pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ và EU
vào cuối năm 2003; hội thảo về nâng cao năng lực chống bán phá giá cho
Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới do Quỹ xây dựng năng lực
quản lý quốc gia có hiệu quả Việt Nam – Australia năm 2005….
Bên cạnh đó pháp luật chống bán phá giá còn được đề cập đến trong
nhiều sách chuyên khảo như “Bán phá giá và biện pháp bán phá giá hàng
nhập khẩu” của tác giả Đoàn Văn Trường do Nhà xuất bản thống kê xuất bản
năm 1998,… Ngoài ra vấn đề này còn được tiếp cận qua những bản tin của
các cơ quản có thẩm quyền của Nhà nước như: Bộ Công Thương, Cục Quản
lý cạnh tranh,…
Vấn đề bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá còn được còn được
nghiên cứu tương đối sâu và rộng trong các tác phẩm của các tác giả nước
ngoài như: Inge Nore Neufeld (2001), “Anti-dumping and countervailing
procedures- use or abuse? Implication for developing countries”, Policy
issues in international trade and commodities, Study Series no.9, United
Nation; Michael S.Knoll (2002), “Dump Our Anti-dumping law”, Cato
Institutes, Washington D.C….
11. 4
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vấn đề bán phá giá và
pháp luật chống bán phá giá ở nhiều góc độ khác nhau và là những nguồn tài
nguyên vô cùng quý báu và phong phú. Tuy nhiên trong đề tài nghiên cứu này
tôi chỉ tập trung nghiên cứu qua việc so sánh pháp luật chống bán phá giá
hàng hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ để từ đó đưa ra một số bài học kinh
nghiệm và giải pháp cho doanh nghiệp Việt Nam trước những khó khăn kiện
bán phá giá đang ngày càng tăng.
4.Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính hệ thống các vấn đề
liên quan đến pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam, thể hiện ở những nội
dung sau:
- Hoàn thiện khái niệm về bán phá giá và chống bán phá giá;
- Làm rõ đặc điểm, ý nghĩa và vai trò của chống bán phá giá;
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật chống
bán phá giá và thực tiễn thực hiện;
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện những
quy định của pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam.
- Kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá, đồng thời
giúp doanh nghiệp Việt Nam phòng và xử lý các vụ kiện chống bán phá giá ở
nước ngoài, đặc biệt là ở Hoa Kỳ.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
5.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về bán phá giá
và biện pháp chống bán phá giá, là các quy định của pháp luật về biện pháp
chống bán phá giá của Việt Nam và Hoa Kỳ.
5.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Do mức độ rộng lớn của vấn đề đòi hỏi phải có sự nghiên cứu của
12. 5
nhiều ngành, nhiều cấp nên trong đề tài này chỉ đề cập đến một số nét tiêu
biểu về bán phá giá và chống bán phá giá, quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về chống bán phá giá từ đó chỉ ra nguyên nhân, thực trạng và giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá tại Việt Nam.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo và mục lục,
nội dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ về khái niệm bán phá giá và
các biện pháp chống bán phá giá
Chương 2: Pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ về xử lý hành vi bán phá giá
hàng hóa
Chương 3: Những bài học kinh nghiệm từ việc so sánh pháp luật Việt
Nam và Hoa Kỳ về chống bán phá giá hàng hóa
13. 6
Chương 1
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ HOA KỲ VỀ KHÁI NIỆM BÁN
PHÁ GIÁ VÀ CÁC BIỆN PHÁP CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ HÀNG HÓA
1.1. Khái niệm bán phá giá
1.1.1. Bán phá giá dưới góc độ kinh tế
Bán phá giá luôn đi liền với cạnh tranh và là một trong những hình thức
cạnh tranh bất chính. Việc cạnh tranh dựa trên cơ sở chất lượng và giá thành
là hình thức cạnh tranh lành mạnh, trong đó yếu tố giá được chú trọng hơn cả.
Tuy nhiên, thay vì nghiên cứu nhằm đưa ra được các chiến lược hạ giá thành
sản phẩm để cạnh tranh lành mạnh thì có những doanh nghiệp lại dùng chiêu
bài bán phá giá để hạ bệ đối thủ. Những năm gần đây, khi hoạt động kinh
doanh toàn cầu lớn mạnh, mọi khía cạnh của vấn đề giao thương quốc tế phải
được giải quyết trong khuôn phép của luật lệ, người ta mới bàn đến tính công
bằng và trung thực trong cạnh tranh. Cạnh tranh cũng phải tuân thủ những
nguyên tắc ấy, cụ thể là cạnh tranh phải trung thực và lành mạnh (fair
competition) trong một nền thương mại đa phương, phải tạo ra sân chơi bình
đẳng (level playing field) đối với mọi thành viên, trong đó, sự cố ý làm sai
lệch mối tương quan cạnh tranh để giành lợi thế không công bằng (unfair
advantage) đều đáng lên án và có thể bị trừng phạt. Dưới góc độ kinh tế, việc
bán phá giá đem lại những lợi ích nhất định sau:
Thứ nhất, dưới góc độ của nước xuất khẩu, bán phá giá tạo điều kiện
cho nhà sản xuất có điều kiện phát huy tối đa năng lực sản xuất, khả năng
tăng lợi nhuận và thâm nhập thị trường mới;
Thứ hai, khi bán phá giá, các doanh nghiệp thực hiện bán phá giá có
khả năng đánh bại đối thủ, loại bỏ dần các đối thủ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị
trường nước ngoài. Và tùy thuộc vào khả năng cạnh tranh và mức độ phá giá,
14. 7
có thể trở thành doanh nghiệp độc quyền, độc quyền nhóm, qua đó tận dụng
lợi thế của doanh nghiệp độc quyền để tăng lợi nhuận. Bán phá giá nhằm mục
tiêu chính trị thao túng các nước khác [31]. Chẳng hạn như, Chính phủ Hoa
Kỳ đặc biệt quan tâm đến xuất khẩu gạo bởi vì cạnh tranh giá gạo bây giờ ảnh
hưởng lớn đến việc đạt các mục tiêu quan trọng khác. Hoa Kỳ sẵn sàng bỏ
ngân sách mua phần lớn số gạo trên thị trường thế giới rồi bán phá giá. Điều
này làm cho nhiều nước xuất khẩu gạo phải lao đao và sẽ phải chịu vòng
phong toả của Hoa Kỳ. Chẳng hạn, giá xuất khẩu gạo của Hoa Kỳ khoảng
400USD/ tấn, nhưng các nhà xuất khẩu gạo Hoa Kỳ sẵn sàng mua với giá
500USD/ tấn, thậm chí cao hơn đến 800USD/tấn, và họ cũng sẵn sàng bán ra
thị trường thế giới chỉ bằng 60 - 70%, thậm chí đến 40% giá mua. Mức giá
này thấp hơn nhiều so với giá thành của chính nông dân Mỹ sản xuất ra. Như
vậy, Hoa Kỳ có thể sẵn sàng bỏ ra 700 - 800 triệu USD/ năm để tài trợ giá
xuất khẩu gạo nhằm thực hiện mục tiêu của mình. Chính vì điều này mà mặc
dù sản lượng gạo của Mỹ hàng năm thấp nhưng Hoa Kỳ lại thao túng giá gạo
trên thị trường thế giới [12].
Thứ ba, trong một số trường hợp, doanh nghiệp có mức tồn kho lớn, để
giải phóng hàng tồn kho, doanh nghiệp có thể bán phá giá để giải phóng hàng
tồn kho hoặc trong trường hợp khan hiếm ngoại tệ hoặc tìm kiếm ngoại tệ
trong trường hợp khẩn cấp, doanh nghiệp có thể thực hiện bán phá giá.
Như vậy, việc bán phá giá hàng hóa mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho
doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đạt được những mục đích kinh tế nhất đinh.
Những hành động bán phá giá không nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh thì
không bị coi là bán phá giá (ví dụ: bán hàng tươi sống, bán hàng thanh lý, bán
hàng hạ giá theo mùa, bán hàng tồn kho đã lỗi thời về kiểu dáng và công nghệ
nhưng vẫn còn thời hạn sử dụng; bán hàng sắp hết hạn sử dụng...).
Bán phá giá bị coi là hành vi thương mại quốc tế không lành mạnh của
15. 8
doanh nghiệp. Để tạo dựng lại thế cạnh tranh cân bằng giữa sản phẩm trong
nước và sản phẩm nhập khẩu, bảo vệ thị trường nội địa chống lại các hành vi
cạnh tranh quốc tế không lành mạnh, các quốc gia có quyền áp dụng các biện
pháp chống bán phá giá. Do đó mục tiêu của các biện pháp chống bán phá giá
là để bù đắp lại những thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa phải gánh chịu do
hành vi bán phá giá gây ra.
Mặc dù, bản chất của các biện pháp chống bán phá giá được cho là để
đảm bảo sự công bằng trong thương mại quốc tế nhưng trên thực tế không đơn
giản như vậy. Đối với các nước đang phát triển như Ấn Độ, Brazil, Achentina…
sử dụng các biện pháp chống bán phá giá để bảo vệ nền sản xuất còn non trẻ của
chính mình. Đối với các quốc gia phát triển, các biện pháp chống bán phá giá
vừa là công cụ để hạn chế mở cửa thị trường, hạn chế sự thâm nhập thị trường từ
các quốc gia đang phát triển và vừa là cái van an toàn cần thiết cho chính họ.
Như trên đã nêu, các quốc gia có quyền tự do trong việc xây dựng các
thủ tục để xác định hiện tượng bán phá giá và áp dụng biện pháp chống bán
phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước mình. Dẫn đến, nhiều quốc gia
đã lạm dụng các biện pháp chống bán phá giá một cách tùy tiện để hạn chế
nhập khẩu, hơn là để đạt được các mục tiêu khắc phục có tính hạn chế mà
Hiệp định chống bán phá giá của WTO cho phép.
Theo đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực này thì chống bán phá giá
không phải là chính sách công mà là chính sách tư. Đó là một phương tiện mà một
đối thủ cạnh tranh có thể sử dụng quyền lực của Nhà nước để giành lợi thế cạnh
tranh trước các đối thủ khác. Xét từ góc độ bảo hộ sản xuất trong nước, bên hưởng
lợi là ngành công nghiệp nội địa và nạn nhân của biện pháp này là các nhà sản
xuất, xuất khẩu nước ngoài. Chúng ta có thể nhận thấy rõ hơn bản chất và mục
đích này thông qua một bản báo cáo của Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ:
16. 9
… mục đích của pháp luật chống bán phá giá và chống trợ cấp
không phải là bảo vệ người tiêu dùng mà là bảo vệ các nhà sản xuất…
Thực chất, chức năng của pháp luật chống bán phá giá là để bảo vệ cho
các công ty và những người lao động tham gia vào các hoạt động sản
xuất ở Hoa Kỳ. Vì vậy, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi người hưởng
lợi từ các lợi ích kinh tế này là các nhà sản xuất, ngược lại các chi phí
kinh tế sẽ do người tiêu dùng gánh chịu [12].
Hơn nữa, các quy định chống bán phá giá là một biện pháp khắc phục
thương mại mà các thành viên của WTO đã đồng ý rằng là cần thiết để duy trì
hệ thống thương mại đa phương. Động cơ kinh tế để sử dụng biện pháp chống
bán phá giá là nhằm để duy trì thương mại công bằng. Tuy nhiên, theo một
nghiên cứu gần đây cho thấy có tới 90% các biện pháp này không nhằm bảo
vệ cạnh tranh lành mạnh hoặc thương mại công bằng. Nói cách khác, biện
pháp được coi là hợp pháp của WTO, đến lượt nó, quay lại bóp méo dòng
chảy thương mại quốc tế và hạn chế sự phát triển nội tại khách quan của hoạt
động này, đi ngược lại mục đích của WTO.
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, với những ưu thế về
lực lượng lao động trẻ, đông về số lượng, rẻ về giá thành, trong bối cảnh thực
hiện chính sách tăng cường xuất khẩu. Việc hàng hóa Việt Nam là đối tượng
chịu sự áp đặt các biện pháp chống bán phá giá của nhiều thị trường khác là
điều không thể tránh khỏi. Do đó các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động
tìm hiểu đầy đủ các quy định về bán phá giá, chống bán phá giá của WTO,
cũng của như các quốc gia nhập khẩu, để từ đó xây dựng các biện pháp đối
phó một cách hữu hiệu và hiệu quả hơn.
1.1.2. Bán phá giá dưới góc độ pháp lý
Khái niệm pháp lý về bán phá giá lần đầu tiên được ghi nhận trong đạo
luật thuế hải quan Canađa được thông qua ngày 10 tháng 8 năm 1904. Sau khi
17. 10
được ban hành, pháp luật chống bán phá giá của Canada đã tỏ ra có tác dụng
của nó trong việc bảo hộ các nhà sản xuất nội địa trước luồng hàng hóa rất rẻ
từ nước ngoài tràn vào. Vì vậy, pháp luật chống bán phá giá của nước này đã
nhanh chóng trở thành hình mẫu để các nước khác noi theo. Cho đến năm
1921, mô hình pháp luật chống bán phá giá của Canada đã được du nhập vào
nhiều nước như Nam Phi (1914), Mỹ (1916), Astralia (1921), Vương quốc
Anh (1921), New Zealand (1921). Tuy nhiên, các nước này cũng không hoàn
toàn du nhập một cách nguyên vẹn mô hình của Canada mà có sự sửa đổi và
phát triển cho phù hợp [31]. Khi chống bán phá giá đã trở thành một nội dung
quan trọng trong pháp luật thương mại quốc tế thì khái niệm bán phá giá cũng
được ghi nhận tại Điều VI Hiệp định chung về thuế quan và thương mại năm
1947 (gọi tắt là GATT) và trong Hiệp định thực thi Điều VI của GATT 1994
của Tổ chức thương mại thế giới (ADA). Điều 2.1 của ADA quy định:
Trong phạm vi Hiệp định này, một sản phẩm bị coi là bán phá
giá (tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác
với giá thấp hơn trị giá thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá
xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một
nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm
tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện
thương mại thông thường [47].
Hai khái niệm quan trọng này là giá trị thông thường và thiệt hại về vật
chất. Một doanh nghiệp bị cho là đã bán sản phẩm của mình ở một quốc gia
khác tại mức thấp hơn giá trị thông thường nếu:
1) Giá đó thấp hơn mức giá tương đối trong điều kiện thương mại
thông thường đối với sản phẩm tương tự tại nước xuất khẩu.
2) Nếu không thể xác định mức giá nội địa đó thì:
- Mức giá đó thấp hơn mức giá tương đối cao nhất được xuất khẩu tới
một nước thứ ba trong điều kiện thương mại thông thường.
18. 11
- Mức giá đó thấp hơn chi phí sản xuất tại nước xuất khẩu cộng với một
tỷ lệ hợp lý chi phí và lợi nhuận bán hàng.
Ở Hoa Kỳ, theo quy định tại khoản 800-801, chương 463 bộ Luật
Doanh thu năm 1916 (Revenue Act of 1916), hành vi bán phá giá là hành vi
nhập khẩu, hỗ trợ việc nhập khẩu, bán hàng hóa nhập khẩu vào thị trường
Hoa Kỳ tại mức giá thấp hơn đáng kể so với giá trị thực hoặc giá bán buôn
của hàng hóa tính tại thời điểm xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ hoặc tại thị
trường chính của nước sản xuất hoặc tại một nước thứ 3 cũng nhập hàng hóa
đó (giá trị thực hoặc giá bán buôn nói trên là giá không bao gồm cước vận
chuyển, thuế và các khoản phí khác cần thiết cho việc nhập khẩu và bán tại
thị trường Hoa Kỳ) với điều kiện hành vi nói trên được thực hiện nhằm phá
hủy hoặc phương hại một ngành sản xuất ở Hoa Kỳ hoặc ngăn cản việc
thành lập một ngành sản xuất ở Hoa Kỳ, giành vị trí độc quyền buôn bán
hàng hóa đó ở Hoa Kỳ [31].
Như vậy, theo khái niệm trên hành vi được coi là bán phá giá ở Hoa Kỳ
nếu thỏa mãn 2 điều kiện sau:
Thứ nhất, hàng hóa đó được bán tại mức giá thấp hơn giá trị thông thường;
Thứ hai, hàng hóa đó tại mức giá đó gây thiệt hại tới ngành sản xuất
của Hoa Kỳ.
Tại Việt Nam, các nhà làm luật có những quan điểm khác nhau về bán
phá giá. Sự khác nhau này được thể hiện qua hai văn bản pháp luật là Pháp
lệnh giá năm 2002 (gọi tắt là Pháp lệnh giá) và Pháp lệnh chống bán phá giá
hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004 (gọi tắt là Pháp lệnh chống bán
phá giá hàng hóa nhập khẩu).
Trong Pháp lệnh giá năm 2002, bán phá giá được hiểu là hành vi bán
hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên thị trường
Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây
19. 12
thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác
và lợi ích của Nhà nước.
Với khái niệm trên hành vi bán phá giá được xác định bởi hai dấu hiệu:
- Doanh nghiệp đã bán hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so với giá
thông thường của nó trên thị trường Việt Nam. Phương thức để xác định bán
phá giá theo Pháp lệnh giá là so sánh hai chỉ số: giá bán thực tế và giá thông
thường của sản phẩm bị điều tra. Tuy nhiên, hai chỉ số này đều được xác định
từ thị trường Việt Nam. Do đó, hành vi bán phá giá trong pháp lệnh giá không
phải là hiện tượng phân biệt giá mà chỉ là việc bán hàng hóa, dịch vụ với mức
giá không theo đúng giá trị thông thường của sản phẩm.
- Mục tiêu của hành vi là chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh
đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh
doanh khác, lợi ích của Nhà nước. Do đó, nếu chưa xác định được mục đích
của hành vi thì chưa kết luận được doanh nghiệp đã bán phá giá hàng hóa,
dịch vụ.
Khoản 1 và 2 Điều 1 Pháp lệnh giá năm 2002 quy định:
1. Pháp lệnh này quy định quản lý nhà nước về giá và hoạt
động về giá của tổ chức, cá nhân sản xuất,kinh doanh; 2. Pháp lệnh
này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hoạt
động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam [40, Điều 1, Khoản 2].
Văn bản này chỉ giới hạn đối tượng áp dụng là tổ chức, cá nhân hoạt
động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam mà không phân biệt về nguồn gốc của
hàng hóa, dịch vụ nên quy định về bán phá giá có thể áp dụng đối với các tổ
chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh chung tại Việt Nam đã có hành vi bán
hàng với mức giá quá thấp so với giá thông thường. Do đó, việc bán phá giá
hàng hóa vào Việt Nam của các doanh nghiệp nước ngoài sẽ không chịu sự
điều chỉnh của Pháp lệnh giá năm 2002. Chỉ khi hàng hóa được lưu thông trên
20. 13
thị trường Việt Nam và người kinh doanh chúng có hành vi bán hàng hóa quá
thấp so với giá thông thường thì các quy định về bán phá giá được áp dụng để
xử lý người thực hiện hành vi. Theo Pháp lệnh giá, việc chống bán phá giá là
một trong những nội dung của hoạt động quản lý nhà nước về giá, tuy nhiên,
có thể thấy rằng các quy định về chống bán phá giá trong văn bản này chủ yếu
nhằm thực hiện chức năn quản lý cạnh tranh bằng cách ngăn chặn và xử lý
hành vi hạn chế cạnh tranh giá trên thị trường. Hành vi bán phá giá được Pháp
lệnh giá mô tả dưới góc nhìn của quan hệ cạnh tranh trên thị trường (hành vi
có mục đích chiếm lĩnh thì trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây
thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh khác
và lợi ích của Nhà nước) [31].
Mặc dù Pháp lệnh giá năm 2002 có giới hạn điều chỉnh như trên, song
đây là văn bản pháp luật đầu tiên đưa ra khái niệm bán phá giá hàng hóa, dịch
vụ. Mặt khác, do văn bản này áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu khi được
lưu thông trên thị trường Việt Nam nên việc áp dụng các quy định về bán phá
giá có những ảnh hưởng nhất định đến quan hệ thương mại quốc tế.
Theo Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
năm 2004 thì bán phá giá được quy định là:
1. Hàng hóa có xuất xứ từ nước hoặc vùng lãnh thổ bị coi là
bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam (sau đây gọi là hàng hoá
bán phá giá vào Việt Nam) nếu hàng hoá đó được bán với giá
thấp hơn giá thông thường…2. Giá thông thường của hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam là giá có thể so sánh được của hàng hoá
tương tự đang được bán trên thị trường nội địa của nước hoặc
vùng lãnh thổ xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông
thường [41, Điều 3, Khoản 1, 2].
So với Pháp lệnh giá năm 2002 thì Pháp lệnh chống bán phá giá hàng
21. 14
hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004 đã có những thay đổi cơ bản trong
các quy định. Sự thay đổi đó được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, giá chuẩn được sử dụng xác định việc bán phá giá là giá
thông thường của sản phẩm tương tự trên thị trường xuất khẩu mà không là
giá thông thường trên thị trường Việt Nam như trong Pháp lệnh giá 2002. Bán
phá giá đơn giản chỉ là hiện tượng phân biệt giá quốc tế, có nghĩa là cùng một
loại hàng hóa như nhau được tiêu thụ ở hai thị trường (bao gồm thị trường
nước xuất khẩu và thị trường Việt Nam) với những mức giá khác nhau một
cách bất thường. Sự bất thường của hành vi phân biệt gia là giá bán vào thị
trường nhập khẩu thấp hơn giá bán trên thị trường xuất khẩu.
Thứ hai, thiệt hại của các tổ chức, cá nhân kinh doanh Việt Nam (ngành
sản xuất nội địa) do bán phá giá gây ra không là căn cứ xác định hiện tượng
bán phá giá mà là một trong các điều kiện để áp dụng biện pháp chống bán
phá giá. Quy định này của Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu
vào Việt Nam năm 2004 sẽ phù hợp hơn với quan niệm truyền thống về bán
phá giá và tương thích với những quy định trong ADA.
Như vậy, so sánh khái niệm bán phá giá hàng hóa giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ có thể thấy việc bán phá giá của hai quốc gia đều được coi là hành vi
bán hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên thị
trường. Tuy nhiên, điều kiện để coi là thỏa mãn hành vi bán phá giá ở Hoa Kỳ
là hàng hóa đó tại mức giá đó gây thiệt hại tới ngành sản xuất của chính quốc
còn ở Việt Nam đây không được coi là căn cứ hay là điều kiện để áp dụng
biện pháp chống bán phá giá. Theo pháp luật Việt Nam, dưới góc độ pháp lý
không có những xung đột lớn về khái niệm và bản chất của hiện tượng bán
phá giá hàng hóa. Tuy nhiên, các nhà làm luật Việt Nam lại có cái nhìn khác
biệt về hiện tượng này trong các giai đoạn xây dựng pháp luật khác nhau,
Bằng chứng cho nhận định này là sự tồn tại hai quy định bán phá giá có nội
22. 15
dung khác nhau trong pháp lệnh giá năm 2002 và Pháp lệnh chống bán phá
giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004.
1.1.3. Khái niệm bán phá giá trong thương mại quốc tế
Theo định nghĩa của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), một sản phẩm
bị coi là bán phá giá nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ
một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của
sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo điều kiện thương
mại thông thường. Như vậy về bản chất, bán phá giá trong thương mại quốc tế
là hành vi phân biệt giá cả: đối với cùng một sản phẩm hoặc sản phẩm tương
tự, nhưng giá xuất khẩu lại thấp hơn giá tiêu thụ nội địa.
Theo định nghĩa này:
Sản phẩm tương tự là sản phẩm giống hệt, tức sản phẩm có tất
cả các đặc tính giống với sản phẩm đang được xem xét, hoặc trong
trường hợp không có sản phẩm nào như vậy thì là sản phẩm khác
mặc dù không giống ở mọi đặc tính nhưng có nhiều đặc điểm gần
giống với sản phẩm đang được xem xét [31].
Việc quyết định một sản phẩm là “sản phẩm tương tự” là một yếu tố rất
quan trọng trong bất kỳ vụ việc điều tra nào liên quan đến bán phá giá, vì nó
không chỉ xác định sản phẩm nào sẽ thuộc phạm vi để phân tích cho thiệt hại
của ngành, mà còn liên quan đến xác định sản phẩm nào của thị trường nội
địa nước xuất khẩu sẽ được sử dụng để xác định giá trị thông thường.
Hiện tượng bán phá giá có nguồn gốc khá sớm trong thực tiễn thương
mại quốc tế. Mặc dù còn có những quan điểm khác nhau, song pháp luật các
nước đều coi đây là một trong những hành vi thương mại không lành mạnh.
Do đó chính phủ nhiều nước cho rằng họ cần phải có hành động chống lại
hành vi đó nhằm bảo vệ ngành công nghiệp trong nước.
Vấn đề chống bán phá giá lần đầu tiên được Hiệp hội các quốc gia
23. 16
nghiên cứu ngay từ năm 1922. Đến năm 1947, với sự ra đời của tổ chức
GATT, các biện pháp chống bán giá chính thức được đặt dưới sự chi phối của
pháp luật quốc tế. Lúc ấy, vấn đề này chưa được chú ý nhiều mà chỉ về sau,
khi thương mại phát triển ngày càng nhanh, sự cạnh tranh trở nên ráo riết hơn,
và các nước thành viên của GATT cũng ngày càng đông đảo hơn, thì chống
bán phá giá mới trở thành một mối quan tâm thật sự. Năm 1967, một số quy
định về chống bán phá giá tại GATT được chuẩn hoá trong Hiệp định về thi
hành điều VI của GATT (Agreement on the Implementation of Article VI),
thường được gọi tắt là Hiệp định chống bán phá giá. Thời gian sau đó, Hiệp
định về chống bán giá được bổ sung thêm nhiều nội dung quan trọng [31].
Sau vòng đàm phán Uruguay, cùng với sự ra đời của Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO) các bên đã ký kết Hiệp định về thực thi Điều VI GATT
1994, thường được gọi với tên “Hiệp định về chống bán phá giá của WTO”.
Là một trong những hiệp định thương mại đa biên của WTO, Hiệp định chống
bán phá giá có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các nước thành viên của WTO.
Các quy định trong Hiệp định là cơ sở pháp lý giúp các nước bảo hộ
quyền lợi chính đáng của các ngành sản xuất trong nước khi xảy ra hiện tượng
bán phá giá. Năm 1995, WTO đã thành lập Uỷ ban về chống bán phá giá để
giám sát việc điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nước thành
viên. Sau khi phát hiện ra hàng hoá bị bán phá giá có khả năng ảnh hưởng đến
sản xuất trong nước, các ngành đó đề nghị những cơ quan hữu trách thực hiện
việc điều tra và đưa ra kết luận về việc có thực hiện hay không thuế chống bán
phá giá để bảo vệ sản xuất trong nước.
Hiệp định chống bán phá giá của WTO quy định các biện pháp chống
bán phá giá chỉ được thực hiện trong những hoàn cảnh nhất định và phải đáp
ứng được 4 điều kiện sau:
- Sản phẩm đang bán phá giá: Sản phẩm của nước xuất khẩu đang
24. 17
được bán ở thị trường của nước nhập khẩu với mức giá thấp hơn giá bán
thông thường của sản phẩm đó ở trên thị trường nước xuất khẩu.
- Có sự thiệt hại về vật chất do hành động bán phá giá gây ra hoặc đe
doạ gây ra đối với các doanh nghiệp nội địa đang sản xuất các sản phẩm
tương tự với sản phẩm bán phá giá, hoặc gây ra sự trì trệ đối với quá trình
thành lập của một ngành công nghiệp trong nước.
- Phải có mối quan hệ nhân quả giữa bán phá giá và thiệt hại vật chất
(hoặc đe doạ gây ra thiệt hại vật chất) do chính hành động bán phá giá đó gây
ra. Cơ quan điều tra không được áp đặt cho hàng nhập khẩu những gì do các
yếu tố khác gây ra.
- Tác động của bán phá giá phải có tính bao trùm, ảnh hưởng tới cộng
đồng rộng lớn.
Xuất phát từ quan điểm cho rằng hành vi bán phá giá, ở một mức độ
nghiêm trọng nhất định là hành vi thương mại không công bằng, luật lệ của
GATT trước đây và WTO hiện nay đều cho phép các quốc gia áp dụng biện
pháp có tính trả đũa, tự vệ thương mại. Trong các biện pháp hạn chế
thương mại như áp dụng hạn ngạch, hạn chế số lượng, tăng thuế, các biện
pháp hạn chế có tính kỹ thuật, phi thuế quan khác, để chống lại hành vi bán
phá giá, các quốc gia chỉ có quyền áp dụng biện pháp tăng thuế nhập khẩu.
Nói cách khác, quốc gia bị thiệt hại chỉ có thể áp dụng thuế bổ sung (thuế
chống bán phá giá) đối với hàng hóa nhập khẩu bị xác định là bán phá giá.
Các biện pháp hạn chế số lượng hay các biện pháp hạn chế phi thuế quan
khác không được coi là hợp pháp.
Quyền áp dụng thuế bán phá giá của quốc gia bị thiệt hại thực chất là
quyền có tính ngoại lệ đối với hai nguyên tắc trong thương mại đa biên: Thứ
nhất, đó là ngoại lệ đối với nguyên tắc Đối xử tối huệ quốc (MFN). Thuế
chống bán phá giá chỉ áp dụng đối với hàng hóa cụ thể của quốc gia xuất khẩu
25. 18
cụ thể, đã bị xác định là đối tượng của hành vi bán phá giá. Thứ hai, áp dụng
thuế bán phá giá cũng là ngoại lệ đối với nguyên tắc tôn trọng các cam kết về
cắt giảm thuế. Quốc gia bị thiệt hại không có nghĩa vụ tôn trọng giữ nguyên
mức thuế đã cam kết đối với các hàng hóa nhập khẩu là đối tượng của hành vi
bán phá giá bị cấm.
Việc xác định mức thuế chống bán phá giá phải dựa trên trên biên độ
phá giá của sản phẩm có liên quan. Biên độ phá giá chính là sự chênh lệch
về giá giữa giá xuất khẩu đang xem xét với giá thông thường của sản phẩm
tại thị trường nội địa, hoặc giá xuất khẩu sang nước thứ ba, hoặc giá cấu
thành của sản phẩm.
Theo quy định của WTO, luật quốc gia một nước thành viên phải phù
hợp với các Hiệp định và quy định của WTO, những văn kiện này được coi
như một bộ phận của hệ thống pháp lý quốc gia. Do đó các đạo luật khung về
chống bán phá giá của các nước thường lặp lại tất cả các nguyên tắc của Hiệp
định chống bán phá giá. Để áp dụng các nguyên tắc đó trong thực tế, mỗi nước
có thể thêm một số điều khoản chi tiết để thi hành, dựa theo thể chế pháp luật
riêng của mình.
Như vậy, về các nguyên tắc chung thì pháp luật của Việt Nam và Hoa
Kỳ phải đồng nhất với quy định của WTO nhưng về mặt áp dụng thực tiễn, về
các quy định liên quan đến thủ tục áp dụng biện pháp chống bán phá giá thì có
thể có những điểm khác nhau. Do đó, các quốc gia có quyền tự do trong việc
xây dựng các thủ tục để xác định hiện tượng bán phá giá và áp dụng biện pháp
chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước mình. Hành vi bán
phá giá hàng hóa nhập khẩu và chống bán phá giá tại Việt Nam đặt ra nhiều
vấn đề phức tạp do chúng ta tiếp cận vấn đề này trong bối cảnh đặc biệt. Các
quy định trong Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
năm 2004 được xây dựng từ kết quả tiếp thu một cách đơn giản và chưa đầy đủ
26. 19
pháp luật của WTO cũng như pháp luật các nước nên các vấn đề lý luận về vấn
đề này vẫn còn bỏ ngỏ trong khoa học pháp lý.
Như vậy, dưới góc độ kinh tế cũng như trong khoa học pháp lý và trong
thương mại quốc tế khái niệm bán phá giá đã khẳng định những quan niệm
đánh đồng bán phá giá với hiện tượng bán hàng hóa thấp hơn chi phí sản xuất
là sai và cũng là cơ sở để phân biệt bán phá giá với việc chính phủ quốc gia
trợ cấp xuất khẩu trái với thông lệ chung.
1.2. Các biện pháp chống bán phá giá
Đặc điểm của pháp luật chống bán phá giá:
Là những quy định của pháp luật nhằm chống lại các hành vi bán phá
giá, pháp luật chống bán phá giá hàng hóa phải dựa trên các căn cứ khoa học
pháp lý rõ ràng khi áp dụng các biện pháp chống bán phá giá vào một mặt hàng
nào đó, chống bán phá giá phải phù hợp với các quy tắc và thông lệ quốc tế,
pháp luật chống bán phá giá phải vừa mang tính răn đe và thúc đẩy sự phát
triển của các quan hệ kinh tế lành mạnh, đồng thời phải thúc đẩy sản xuất trong
nước
Ý nghĩa và vai trò của pháp luật chống bán phá giá hàng hóa: Có
thể thấy pháp luật chống bán phá giá có ý nghĩa kinh tế, xã hội to lớn đối với
đất nước trong thời kỳ hội nhập. Việc thực hiện các biện pháp chống bán phá
giá cho thấy sự quan tâm của nhà nước đối với các thành phần kinh doanh cũng
như nhu cầu việc làm của người lao động , chống bán phá giá là biện pháp tự
vệ hữu hiệu đối với các nước có nền sản xuất nhỏ và kinh tế chưa phát triển.
Pháp luật chống bán phá giá còn tạo ra cơ hội kinh doanh bình đẳng cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, các ngành sản xuất của một nước cá thể bị triệt tiêu
ngay trên sân nhà của mình khi việc bán phá giá xảy ra thường xuyên và không
có biện pháp ngăn chặn.
Pháp luật chống bán phá giá là một nhu cầu cần thiết để bảo vệ các
27. 20
ngành sản xuất cũng như bảo vệ giá thành của các sản phẩm tránh sự định giá
thiếu căn cứ thống nhất. Một hệ thống pháp luật chống bán phá giá chặt chẽ và
cụ thể sẽ giúp cho quốc gia không còn gặp nhiều khó khăn khi đững trước các
vụ kiện bán phá giá.
Có thế thấy khung khổ luật pháp quốc tế , cơ chế giải quyết các tranh
chấp có liên quan đến vấn đề chống bán phá giá giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là
các Hiệp định Anti-Dumping, hiệp định DSU về giải quyết tranh chấp giữa các
thành viên trong khuôn khổ WTO. Vấn đề chống bán phá giá tuy đã được
Hiệp hội các quốc gia (League of Nations) nghiên cứu ngay từ năm 1922,
nhưng chỉ đến năm 1947, với sự thành lập của tổ chức GATT (General
Agreement of Tariffs and Trade – Hiệp ước chung về thuế quan và thương
mại), mới được đặt dưới sự chi phối của luật quốc tế, qua Điều VI của
Hiệp ước này. Lúc ấy đề tài này chưa được tranh cãi nhiều và chỉ về sau,
khi các luồng thương mại phát triển ngày càng nhanh, sự cạnh tranh
đương nhiên ráo riết hơn, và các nước thành viên của GATT cũng đông
hơn, mới thành một mối quan tâm chính, ngày càng lớn qua các vòng
thương thảo tiếp nối nhau. Khi vòng Kennedy Round chấm dứt năm 1967
thì những qui tắc về chống bán phá giá trong Điều VI của GATT được triển
khai thành cả một hiệp ước riêng: Agreement on the Implementation of
Article VI , thường gọi tắt là Anti-dumping Code, hay Bộ luật AD. Ngoài việc
chống phá giá, Điều VI còn qui định các biện pháp chống tài trợ
(countervailing) đối với các hàng nhập khẩu được tài trợ tại nơi sản xuất.
Vấn đề này cũng được triển khai thành một hiệp ước riêng : Agreement on
the interpretation and application of Articles VI, XVI and XXIII, thường gọi
tắt là Subsidies Code, hay Bộ luật về tài trợ[20]. Hai bộ luật này tiếp tục
được bổ sung trong các vòng thương thảo Tokyo Round và Uruguay
Round. Bộ luật AD hiện hành ngày nay là Agreement on the
28. 21
Implementation of Article VI of GATT 1994, gọi tắt là Anti-dumping/AD
Agreement, và bộ luật về tài trợ là Agreement on Subsidies and
Countervailing Measures, gọi tắt là SCM Agreement. Ngoài ra, Điều XIX của
GATT cũng được triển khai thành một hiệp ước mới về các biện pháp bảo
vệ ( Agreement on Safeguards, gọi tắt là SG Agreement) cho phép một
nước nhập khẩu đánh thuế đặc biệt vào một mặt hàng khi số lượng nhập
khẩu tăng vọt, gây ra hoặc đe doạ gây ra tổn hại trầm trọng (material
injury) cho ngành sản xuất nội địa liên can.
Trong khuôn khổ của Tổ chức thương mại thế giới WTO, kế thừa GATT
sau vòng Uruguay, ba hiệp ước AD, SCM và SG còn được gọi là ba cột trụ
của hệ thống các biện pháp “cứu chữa” (trade remedies) hay “phòng vệ”
(trade defences), áp dụng để bảo vệ thị trường nội địa trước sự thâm nhập
của hàng hoá nước khác. Đa số các vụ tranh chấp trước GATT và WTO
xoay quanh ba hiệp ước này, và nếu trong phạm vi bài này, chúng ta chỉ
tìm hiểu về vấn đề chống dumping, cũng không nên quên là hai vấn đề
liên kết kia cũng rất hay gặp phải trong các quan hệ ngoại thương [20].
Qua cơ chế giải quyết các vụ việc chống bán phá giá của Hoa Kỳ và
Việt Nam thì những biện pháp chống bán phá giá được thể hiện như sau:
1.2.1. Các biện pháp cam kết
Theo quy định của Pháp lệnh chống bán phá giá của Việt Nam, có hai
loại cam kết được áp dụng trong các vụ việc chống bán phá giá là điều chỉnh
giá bán và tự nguyện hạn chế số lượng, khối lượng và giá trị hàng hóa bán vào
Việt Nam. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam mới chỉ gọi tên mà chưa quy định cụ
thể các biện pháp trên.Việt Nam và Hoa kỳ đều đặt ra biện pháp hạn chế xuất
khẩu hàng hóa bán phá giá bên cạnh các cam kết về giá. Cam kết hạn chế số
lượng hàng hóa nhập khẩu là việc các doanh nghiệp xuất khẩu chấp nhận giảm
thị phần của họ trên thị trường quốc gia nhập khẩu. Việc giảm thị phần của
29. 22
hàng hóa nhập khẩu đồng nghĩa với sự suy giảm khả năng tác động đến thị
trường của nước nhập khẩu nên có thể giảm khả năng gây thiệt hại cho các
doanh nghiệp nội địa. Tuy nhiên, pháp luật Hoa Kỳ chỉ áp dụng thảo thuận hạn
chế số lượng nhập khẩu đối với các vụ việc điều tra chống bán phá giá liên
quan đến các nước có nền kinh tế phi thị trường. Nội dung của các biện pháp
cam kết có những ảnh hưởng tiêu cực và tích cực tới lợi ích của các bên.
- Với các bên việc áp dụng cam kết sẽ giúp chấm dứt vụ việc nhanh
chóng, giảm chi phí kháng kiện…. Quan hệ thương mại giữa các quốc gia
liên quan không quá căng thẳng mà vẫn bảo hộ được ngành sản xuất nội
địa. Với quốc gia nhập khẩu, các doanh nghiệp nội địa và các cơ quan có
thẩm quyền có thể đạt được mục đích nhanh chóng mà không cần hoàn tất
vụ việc. Biện pháp cam kết là giải pháp ít tốn chi phí và thời gian hơn so
với việc phải hoàn tất điều tra.
- Với các doanh nghiệp xuất khẩu, việc áp dụng cam kết có thể ngăn
chặn nguy cơ giảm uy tín trên thị trường nhập khẩu. Bằng cam kết giá, giá
xuất khẩu tăng lên tương ứng nên doanh nghiệp xuất khẩu là người thụ hưởng
mức tăng thêm thay vì phải nộp thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên các doanh
nghiệp này vẫn phải gánh chịu nhiều rủi ro từ cam kết như suy giảm thị phần
do phải chấp nhận giảm số lượng, khối lượng, giá trị hàng hóa nhập khẩu
hoặc phản ứng người tiêu dùng do giá hàng hóa nhập khẩu tăng, các nhà nhập
khẩu có xu hướng tìm kiếm nguồn hàng hóa có giá trị cạnh tranh hơn. Bên
cạnh đó, tần suất biến động giá cũng tạo nên nhiều rủi do cho nhà xuất khẩu.
Cam kết giá thường buộc doanh nghiệp phải xuất khẩu với mức giá tối thiểu.
Nếu giá thị trường tăng lên, mức giá tối thiểu vẫn có thể đảm bảo cạnh tranh
cho hàng hóa nhập khẩu. Trong trường hợp ngược lại doanh nghiệp sẽ gặp
khó khăn về cạnh tranh vì không thể hạ giá bán dưới mức cam kết.
30. 23
1.2.2. Áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời
Về nguyên tắc hàng hóa nhập khẩu chỉ bị áp dụng các biện pháp chống
bán phá giá sau khi cơ quan có thẩm quyền khẳng định chúng bị bán phá giá
và gây thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất nội địa. Pháp luật WTO và các
nước đều có những quy định về việc áp dụng biện pháp tạm thời khi chưa có
kết luận điều tra cuối cùng để ngăn chặn nguy cơ việc bán phá giá gây thêm
những thiệt hại mới cho các doanh nghiệp trong nước.
Theo khoản 1,3 Điều 20 Pháp lệnh chống bán phá giá 2004 thì biện
pháp tạm thời được áp dụng là thuế chống bán phá giá tam thời. Thuế này có
thể được bảo đảm thanh toán bằng tiền mặt đặt cọc hoặc được bảo đảm bằng
các biện pháp khác theo quy định của pháp luật. Theo Điều 20 Pháp lệnh
chống bán phá giá, Bộ trưởng Bộ công thương ra quyết định áp dụng thuế
chống bán phá giá tạm thời khi thỏa mãn các điều kiện sau:
- Biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng sau 60 ngày kể từ ngày
có quyết định có quyết định điều tra và cơ quan điều tra có kết luận
sơ bộ về vụ việc.
- Kết luận sơ bộ đã khẳng định hàng hóa bị bán phá giá vào
Việt Nam và biên độ bán phá giá được xác định cụ thể; việc bán
phá giá hàng hóa là nguyên nhân gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại
đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.
- Việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá không được gây
thiệt hại tới lợi ích kinh tế - xã hội trong nước [41].
Các điều kiện áp dụng thuế tạm thời theo pháp luật Việt Nam có sự
khác biệt so với pháp luật WTO và Hoa Kỳ. Điều 7.1 ADA quy định biện
pháp tạm thời chỉ được áp dụng nếu như cơ quan có thẩm quyền kết luận rằng
cần áp dụng biện pháp này để ngăn chặn thiệt hại đang xảy ra trong quá trình
điều tra. Với quy định này, ADA chỉ đòi hỏi các quốc gia phân tích khả năng
31. 24
ngăn chặn thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước của biện pháp tạm thời mà
không cần phân tích tác động của chúng đến những đối tượng khác trên thị
trường. Pháp luật Hoa Kỳ sử dụng cơ chế tự động cho việc áp dụng biện pháp
tạm thời, theo đó ngay sau khi có kết luận của DOC khẳng định việc bán phá
giá và kết luận sơ bộ của ITC khẳng định có thiệt hại đáng kể do hàng hóa
nhập khẩu bán phá giá gây ra, DOC sẽ ra lệnh thu thuế tạm thời đối với nhà
sản xuất, xuất khẩu liên quan. Với cơ chế tự động gần như kết luận sơ bộ của
các cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ là cơ sở duy nhất để áp dụng biện
pháp tạm thời.
1.2.3. Áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức
Trong thương mại quốc tế, khi hàng hoá bị xem là bán phá giá thì
chúng có thể bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá (antiduping) như thuế
chống phá giá, đặt cọc hoặc thế chấp, can thiệp hạn chế định lượng hoặc điều
chỉnh mức giá của nhà xuất khẩu nhằm triệt tiêu nguy cơ gây thiệt hại cho
ngành sản xuất trong nước nhập khẩu, trong đó thuế chống bán pháp giá là
biện pháp phổ biến nhất hiện nay.
Là một trong những biện pháp có tính chất tự vệ trong thương mại quốc
tế, việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu của các
quốc gia được GATT trước đây và WTO hiện nay thừa nhận. Mục đích cao
nhất của thuế chống bán phá giá là nhằm hạn chế và loại bỏ những thiệt hại
do hành vi bán phá giá của hàng hóa nước ngoài, nhằm giữ vững thế cân bằng
trong cạnh tranh giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất nội địa. Tuy nhiên,
trên thực tế cũng có những trường hợp nước nhập khẩu lạm dụng thuế chống
bán phá giá để bảo hộ ngành sản xuất trong nước. Chính vì vậy, Hiệp định
ADP của WTO đã có những quy định chi tiết hóa các điều kiện, thủ tục về
điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá trong thương mại quốc tế.
Về thực chất, thuế chống bán phá giá là một loại thuế nhập khẩu bổ
32. 25
sung đánh vào những hàng hoá bị bán phá giá ở nước nhập khẩu nhằm hạn
chế những thiệt hại do việc bán phán giá đưa đến cho ngành sản xuất của
nước đó nhằm bảo đảm sự công bằng trong thương mại (nói chính xác đó là
một sự bảo hộ hợp lý cho sản xuất trong nước). Thuế này đánh vào các nhà
sản xuất riêng lẻ chứ không phải là thuế áp đặt chung cho hàng hoá của một
quốc gia. Nguyên tắc chung nêu ra những Hiệp định của WTO là không được
phân biệt đối xử khi áp dụng thuế chống phá giá, tức là nếu hàng hoá bị bán
phá giá được xuất khẩu từ những quốc giá khác nhau với cùng biên độ phá giá
như nhau thì sẽ áp đặt mức thuế chống phá giá thuộc vào biên độ phá giá của
từng nhà xuất khẩu chứ không phải áp dụng bình quân (ngay cả khi các nhà
xuất khẩu từ cùng một quốc gia) và không được phép vượt quá biên độ phá
giá đã được xác định.
Theo quy định của WTO, biên độ phá giá được xác định thông qua việc
so sánh với mức giá có thể so sánh được của hàng hoá tương tự được xuất
khẩu sang một nước thứ ba thích hợp, với điều kiện là mức giá có thể so sánh
được này mang tính đại diện, hoặc được xác định thông qua so sánh với chi
phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hoá cộng thêm khoản chi phí hợp lý cho
quản trị, bán hàng, các chi phí chung khác và một khoản lợi nhuận. Như vậy,
có thể hiểu rằng biên độ phá giá là mức chênh lệch giá thông thường của hàng
hoá tương tự với mức giá xuất khẩu hiện tại. Việc xác định giá thông thường
được tính toán rất phức tạp dựa trên cơ sở sổ sách và ghi chép của nhà xuất
khẩu hoặc nhà sản xuất là đối tượng đang được điều tra với điều kiện là sổ
sách này phù hợp với các nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi và phản
ánh được một cách hợp lý của chi phí [44].
Lịch sử phát triển của pháp luật chống bán phá giá đã chứng kiến
những thay đổi về các biện pháp áp dụng đối với người thực hiện hành vi bán
phá giá hàng hóa nhập khẩu. Khởi đầu Luật chống bán phá giá năm 1916 của
33. 26
Hoa Kỳ đã áp dụng các chế tài dân sự và hình phạt hình sự đối với các hành
vi bán hàng nhập khẩu với một giá về cơ bản thấp so với giá trị thực tế trên thị
trường hoặc thấp hơn giá bán buôn [31]. Quy định này được xây dựng từ quan
niệm cho rằng bán phá giá là hành vi vi phạm pháp luật nên người thực hiện
hành vi phải gánh chịu sự trừng phạt của pháp luật. Từ quan niệm biện pháp
chống bán phá giá có chức năng bù đắp thiệt hại cho ngành sản xuất trong
nước, pháp luật Hoa Kỳ cho phép sử dụng tiền thu được từ thuế chống bán
phá giá để chia cho các doanh nghiệp nội địa bằng Tu chính án Byrd (Tu
chính Byrd do thượng nghị sỹ Robert Byrd soạn thảo và được Tổng thống Bill
Clinton ký sắc lệnh ban hành ngày 28 tháng 10 năm 2000. Tu chính này đã bị
cơ quan phúc thẩm của WTO ra quyết định khẳng định vi phạm các quy định
của WTO và yêu cầu Hoa Kỳ hủy bỏ. Ngày 21/11/2005 Thượng viện Hoa Kỳ
đã bỏ phiếu thông qua việc bãi bỏ đạo luật này) [31].
Với cách thức trên, pháp luật trực tiếp đặt ra trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của người thực hiện hành vi mà chuyển hóa trong mục đích sử dụng
thuế chống bán phá giá. Thuế chống bán phá giá vừa mang chức năng bù giá
đối với hàng hóa nhập khẩu vừa là khoản bồi thường (hoặc hỗ trợ) cho ngành
sản xuất nội địa. Tu chính án Byrd đã bị nhiều nước lên án bởi nó gây lên sự
bất bình đẳng trong cạnh tranh. Việc đánh thuế chống bán phá giá đã tạo nên
sự quân bình về giá trong hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa nội địa. Nếu sử
dụng chúng để bù đắp cho ngành sản xuất trong nước, các doanh nghiệp nội
địa có thêm khoản hỗ trợ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Sự bình đẳng trong
cạnh tranh vừa được khôi phục đã bị phá vỡ và thuế chống bán phá giá trở
thành khoản trợ cấp cho ngành sản xuất trong nước.
Bán phá giá đơn giản là hiện tượng bất thường về giá trong giao thương
quốc tế và pháp luật chỉ chống lại chúng khi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại cho ngành sản xuất. Vì vậy, thuế chống bán phá giá không là chế tài
34. 27
hành chính cũng không phải là chế tài dân sự mà chỉ là biện pháp phòng vệ
trong thương mại quốc tế và là biện pháp điều tiết nhập khẩu.
Với tư cách là biện pháp phòng vệ, thuế chống bán phá giá không có
chức năng trừng phạt mà là công cụ bảo vệ ngành sản xuất trong nước thông
qua cơ chế điều chỉnh giá của hàng hóa nhập khẩu. Bằng việc áp thuế, các quốc
gia nhập khẩu mong muốn đẩy giá bán của hàng hóa nhập khẩu lên tương ứng
để loại bỏ khả năng gây thiệt hại hoặc loại bỏ tình trạng bán phá giá.
Với tư cách là biện pháp điều tiết việc nhập khẩu hàng hóa, biện pháp
chống bán phá giá không trực tiếp đặt ra hạn ngạch để hạn chế việc nhập
khẩu, song lại tác động đến lợi ích của các tổ chức, cá nhân kinh doanh và
tiêu dùng hàng hóa nhập khẩu nhằm chi phối nhu cầu sử dụng của xã hội. Là
một loại thuế áp dụng khi nhập khẩu hàng hóa, trách nhiệm nộp thuế chống
bán phá giá thuộc về người nhập khẩu nên doanh nghiệp nhập khẩu phải chịu
gánh nặng tài chính từ các khoản ký quỹ, đặt cọc hoặc thanh toán thuế cho
việc nhập khẩu. Như vậy, tác dụng của việc áp thuế chống bán phá giá không
chỉ làm cân bằng tình trạng cạnh tranh mà còn ảnh hưởng đến các dòng
thương mại, làm thay đổi hướng kinh doanh, xu hướng tiêu dùng của thị
trường nhập khẩu.
Tại Việt Nam, pháp luật hiện hành đã triệt để tuân thủ nguyên tắc đối
vật trong truyền thống pháp luật chống bán phá giá. Theo đó, hàng hóa nhập
khẩu là đối tượng chịu thuế, tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa là chủ thể
có trách nhiệm nộp thuế và cơ quan thực thi quyết định áp dụng thuế chống
bán phá giá là cơ quan hải quan. Tuy nhiên, do ảnh hưởng bởi các quy định
trong luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 1998 và quyết định số 46/2001/QĐ-
TTg ngày 4/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hóa thời kỳ 2001-2005 nên hiện nay vẫn tồn tại quan niệm thuế
chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung áp dụng đối với hàng hóa là đối
35. 28
tượng chịu thuế.
Về phương thức áp dụng thuế chống bán phá giá thì tại Điều 6 và
Khoản 1 Điều 22 Pháp lệnh chống bán phá giá quy định căn cứ vào kết luận
cuối cùng của cơ quan điều tra và quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc, Bộ
trưởng Bộ Công thương ra quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá
khi có hai điều kiện sau:
- Hàng hóa bị bán phá giá vào Việt Nam và biên độ bán phá giá phải
xác định cụ thể;
- Việc bán phá giá hàng hóa phải là nguyên nhân gây ra hoặc đe dọa gây
ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước [41, Điều 22, Khoản 1].
Theo Pháp lệnh chống bán phá giá, việc áp dụng các biện pháp chống
bán phá giá cần triệt để tuân thủ các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng ở mức độ
cần thiết, hợp lý nhằm ngăn ngừa hoặc hạn chế thiệt hại đáng kể cho ngành
sản xuất trong nước. Mức độ cần thiết và hợp lý của biện pháp chống bán
phá giá được pháp luật Việt Nam diễn giải bằng các quy định: (1) thuế suất
thuế chống bán phá giá không được vượt quá biên độ bán phá giá trong kết
luận cuối cùng.
Như vậy, thuế suất được áp dụng chỉ có thể bằng hoặc thấp hơn biên độ
phá giá. Tuy nhiên, pháp luật chưa đặt ra cơ chế xác định mức độ hợp lý, cần
thiết đủ để loại bỏ hoặc ngăn cản thiệt hại của các biện pháp chống bán phá
giá. Về vấn đề này, ADA khuyến khích các nước thành viên WTO nên áp
dụng mức thuế thấp hơn biên độ phá giá nếu mức thuế này đủ để loại bỏ thiệt
hại đối với ngành sản xuất trong nước. Pháp luật các nước cũng có những quy
định tương tự. Pháp luật của Hoa Kỳ trao cho cơ quan có thẩm quyền được
chủ động đánh giá khả năng ngăn chặn hoặc loại bỏ thiệt hại của thuế suất
được áp dụng. Trong thực tế DOC thường áp dụng mức thuế suất bằng biên
36. 29
độ phá giá.
Thứ hai, việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá chỉ được thực hiện
khi đã tiến hành điều tra và phải dựa trên các kết luận điều tra quy định của
pháp luật. Áp dụng biện pháp chống bán phá giá không chỉ ảnh hưởng đến
quyền lợi của những người có liên quan mà còn ảnh hưởng lớn đến quan hệ
thương mại giữa quốc gia áp dụng đối với quốc gia có hàng hóa bị áp dụng.
Thứ ba, biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng trực tiếp đối với
hàng hóa bán phá giá vào Việt Nam theo quy định của pháp luật. Nguyên tắc
này được hình thành từ quan niệm các biện pháp được áp dụng không là các
chế tài dành cho chủ thể thực hiện hành vi bán phá giá mà chỉ là các giải pháp
xử lý tình trạng hàng hóa nhập khẩu bán phá giá gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước.
Thứ tư, việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá không được gây thiệt
hại đến lợi ích kinh tế - xã hội trong nước. Trong các vụ việc chống bán phá
giá, việc cân nhắc ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của các biện pháp được áp
dụng là cần thiết.
37. 30
Tiểu kết chương 1
Các biện pháp chống bán phá giá nhằm mục đích tái lập trật tự trong
cạnh tranh theo đúng tinh thần tự do thương mại, đồng thời cũng là công cụ
bảo vệ ngành sản xuất nội địa trước sự xâm chiếm của hàng nhập khẩu. Tuy
nhiên, cũng có người cho rằng việc sử dụng các biện pháp chống bán phá giá
để cản trở hàng hoá nhập khẩu là không hợp lý. Thật ra, các biện pháp chống
bán phá giá còn đóng vai trò một loại “van an toàn” cho chính sách tự do kinh
doanh: càng mở rộng cửa cho hàng hoá bên ngoài vào thì càng cần phải giữ
chắc tay nắm để có thể đóng cửa ngay lại được khi cần thiết, càng chủ trương
hội nhập vào khuynh hướng toàn cầu hoá thì càng phải có những biện pháp
phòng thủ để trấn an các nhà sản xuất nội địa và tạo được sự ủng hộ của
doanh nghiệp trong nước. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà các nước và khu
vực công nghiệp phát triển trên thế giới, như Mỹ, Liên minh châu Âu, Úc và
Canada, một mặt vẫn khẳng định ủng hộ tự do mậu dịch, mặt khác lại là
những quốc gia dùng đến các biện pháp chống bán phá giá nhiều nhất.
38. 31
Chương 2
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ HOA KỲ
VỀ ĐIỀU TRA XỬ LÝ HÀNH VI BÁN PHÁ GIÁ HÀNG HÓA
2.1. Mô hình tổ chức điều tra và trình tự, thủ tục điều tra xử lý
hành vi bán phá giá hàng hóa
2.1.1. Mô hình tổ chức điều tra hành vi bán phá giá hàng hóa
2.1.1.1. Hoa Kỳ
Cơ quan chịu trách nhiệm thực thi các biện pháp đảm bảo công bằng
trong thương mại quốc tế (trade remedies) của Hoa Kỳ gồm có Bộ thương
mại (Department of Commerce - DOC) và Ủy ban Thương mại quốc tế
(International Trade Commission – ITC).
DOC là cơ quan hành pháp có trách nhiệm và vai trò điều tra, xem xét
là hàng hóa nhập khẩu có bị bán phá giá và nếu có biên độ phá giá (trong các
vụ chống bán phá giá) là bao nhiêu. ITC là một cơ quan độc lập được Quốc
hội thành lập năm 1916 dưới tên gọi Ủy ban thuế quan Hoa Kỳ. Sau đó luật
thuế năm 1974 đã đổi tên cơ quan này thành Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa
Kỳ như hiện nay. ITC có nhiệm vụ điều tra, xem xét, phân tích về việc hàng
nhập khẩu bị bán phá giá có phải là nguyên nhân gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước hay không.
Với lịch sử hình thành và phát triển gần 100 năm, Hoa Kỳ cũng là nước
khởi kiện các vụ chống bán phá giá nhiều nhất từ trước đến nay. Đặc biệt khi
tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập ngày 01/01/1995, các vụ
kiện thương mại hầu như chỉ là vũ khí của các nước phát triển như Hoa Kỳ,
EU, Canada, Úc,… Trong giai đoạn 1995-2005, các nước đang phát triển đã
tăng cường việc sử dụng công cụ bảo hộ hiệu quả này, tuy nhiên với kinh
nghiệm hoạt động của mình, Hoa Kỳ vẫn là nước đi đầu trong việc vận dụng
39. 32
các biện pháp này và là nơi tiên phong trong việc đưa ra những quy tắc mới
giúp cho thứ vũ khí này càng thêm sắc bén (ví dụ quy tắc “Zeroing – đưa về
0” hay Tu chính Byrd) [2].
Trong Bộ Thương mại Hoa Kỳ có Vụ nhập khẩu phụ trách thực thi giải
quyết các công việc cụ thể cho áp dụng các biện pháp chống bán phá giá và
chống trợ cấp. Vụ nhập khẩu có các chức năng nhiệm vụ sau: Điều tra về vụ
việc chống bán phá giá; Ra quyết định chính thức về việc áp dụng các biện
pháp chống bán phá giá; Ra quyết định về thỏa thuận đình chỉ; Rà soát hành
chính để xác định mức thuế chống bán phá giá chính thức; Thực hiện các thủ
tục rà soát khi có sự thay đổi hoàn cảnh.
Trong quá trình điều tra chống bán phá giá ITC chịu trách nhiệm: Điều
tra thiệt hại; Tham gia vào quá trình điều tra trong thủ tục rà soát khi có sự
thay đổi hoàn cảnh. ITC không có trách nhiệm trong rà soát hành chính. Mỗi
khi có sự việc chống bán phá giá xảy ra, ITC sẽ thành lập một nhóm đặc trách
vụ việc (task force) gồm đại diện từ các phòng dưới đây:
+ Phòng điều tra (Office of Investigation)
+ Phòng kế toán (Office of Economics)
+ Phòng kế toán (Office of Accounting)
+ Phòng công nghiệp (Office of Industry)
+ Phòng Luật sư trưởng (Office of General Counsel)
Nhóm đặc trách này có nhiệm vụ theo dõi vụ việc, gửi câu hỏi cho các
bên và chuẩn bị một bản báo cáo tóm tắt thông tin để hỗ trợ cho việc phân
tích của cá Ủy viên Hội đồng. Ngoài ra, mỗi Ủy viên sẽ có chuyên viên hỗ trợ
phân tích thông tin và bằng chứng để đưa ra quyết định sơ bộ.
Ngoài ra, ITC còn có trách nhiệm giải quyết các vấn đề tự vệ toàn cầu
và điều tra các hành vi nhằm phá vỡ thị trường theo Luật thương mại 1974.
Theo Điều luật về Tự vệ toàn cầu (Điều 201 Luật thương mại Hoa Kỳ 1974),
40. 33
khi ITC xác định được một hàng hóa đang nhập khẩu vào Hoa Kỳ với số
lượng lớn và chắc chắn là nguyên nhân gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
cho ngành cho ngành sản xuất nội địa, họ sẽ kiến nghị lên Tổng thống các
biện pháp ngăn chặn hành vi đó. Tổng thống sẽ đưa ra quyết định cuối cùng
về hình thức và thời hạn áp dụng các biện pháp như tăng thuế nhập khẩu, ấn
định hạn ngạch, các biện pháp điều chỉnh.
Theo quy định của luật Hoa Kỳ, Ủy ban thương mại quốc tế thường có
6 ủy viên được phân chia đều cho hai Đảng lớn nhất của nước này là Đảng
Cộng hòa và Đảng dân chủ, một Đảng sẽ có 3 ủy viên. Mục đích của việc
phân chia đều này nhằm đảm bảo được tính đối trọng trong Ủy ban khi xem
xét và đưa ra quyết định về một vấn đề nào đó được khách quan và công
bằng. Hơn nữa vị trí và vai trò của Ủy ban được coi là một cơ quan tư pháp và
hoạt động hoàn toàn độc lập với cơ quan hành pháp. Vì là cơ quan bán tư
pháp nên trong toàn bộ quá trình xem xét và giải quyết các vụ việc chống bán
phá giá, Tổng thống – người đứng đầu cơ quan hành pháp – cũng không thể
can thiệp vào công việc của cơ quan mang tính chất tư pháp như vậy. Điều
này có thể lý giải được tại sao, các chuyên gia tư vấn pháp lý thường khuyên
các nước xuất khẩu không nên quá tập trung vấn đề vận động hành lang vào
ITC, điều đó gần như không thể, đặc biệt đối với những quốc gia có sự phân
chia quyền lực đối trọng tam quyền phân lập mà thay vào đó nên tập trung
việc vận động hành lang vào cơ qua hành pháp của Hoa Kỳ.
Hai cơ quan này sử dụng những chứng cứ được cung cấp hoặc tiến
hành những hoạt động nghiệp vụ độc lập để thu thập và xử lý thông tin nhằm
đưa ra những quyết định thuộc thẩm quyền một cách đúng đắn. Kết luận cuối
cùng về kết quả điều tra của mỗi cơ quan sẽ quyết định đến việc tiếp tục điều
tra và việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Thuế chống bán phá giá của
Hoa Kỳ chỉ được áp dụng khi DOC và ITC cùng đưa ra kết luận khẳng định
41. 34
có bán phá giá và có thiệt hại cũng như mối quan hệ nhân quả giữa chúng;
một khi kết luận của ITC là không tồn tại thiệt hại thì tiến trình điều tra ở cả
hai cơ quan đều chấm dứt. Cách phân chia quyền hạn trong quá trình điều tra
theo kiểu của Hoa Kỳ làm cho quá trình điều tra các vụ việc chống bán phá
giá có vẻ rất khách quan và đảm bảo sự đúng đắn trong các quyết định của cơ
quan có thẩm quyền.
2.1.1.2. Việt Nam
Theo Pháp lệnh chống bán phá giá, cơ quan điều tra trực thuộc Bộ
Công thương có nhiệm vụ điều tra, rà soát vụ việc chống bán phá giá và trong
trường hợp cần thiết kiến nghị Bộ trưởng ra quyết định áp dụng thuế chống
bán phá giá tạm thời [41, Điều 7, khoản 2, điểm a].
Nghị định 06/2006/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 09 tháng 01 năm 2006
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh
tranh (viết tắt là VCAD) quy định:
Cục Quản lý cạnh tranh là tổ chức trực thuộc Bộ Công thương có
chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Công thương thực hiện quản lý nhà nước về
cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ
đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng; phối hợp với các DN, hiệp hội ngành hàng trong việc đối phó với các
vụ kiện trong thương mại quốc tế liên quan đến bán phá giá,trợ cấp và áp
dụng các biện pháp tự vệ. Cục Quản lý cạnh tranh có tư cách pháp nhân,có
con dấu hình Quốc huy, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước, được sử
dụng con dấu riêng để giao dịch theo quy định của pháp luật. Kinh phí hoạt
động của Cục Quản lý cạnh tranh do ngân sách nhà nước cấp [ 10, Điều 1,
Khoản 1, 2].
Các quy định hiện hành về vị trí pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của VCAD liên quan đến vụ việc chống bán phá giá còn khá đơn
42. 35
giản, chủ yếu đề cập đến các vấn đề sau:
Thứ nhất, pháp luật đã ghi nhận một số nhiệm vụ và quyền hạn của
VCAD là:
Tiến hành điều tra để áp dụng các biện pháp chống bán phá giá
theo trình tự, thủ tục quy định tại Pháp lệnh chống bán phá giá. Khi
thực hiện nhiệm vụ điều tra, cơ quan này có quyền yêu cầu các bên
liên quan cung cấp các thông tin, tài liệu cần thiết có liên quan đến
vụ việc; tổ chức tham vấn với các bên; công bố các kết luận điều
tra; kiến nghị Bộ trưởng Bộ Công thương xem xét, quyết định về
việc áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời, xem xét chấp nhận,
không chấp nhận hoặc điều chỉnh nội dung cam kết; tiến hành rà
soát việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá theo quyết định
của Bộ trưởng [10].
Ngoài ra, VCAD còn có nhiệm vụ:
Tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật và các chính sách
có liên quan đến các lĩnh vực cạnh tranh, chống bán phá giá, chống
trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu
vào Việt Nam và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; tổ chức bồi
dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán
bộ làm công tác quản lý cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ
cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ [10].
Như vậy, liên quan đến chống bán phá giá, VCAD có thẩm quyền điều tra
đồng thời việc bán phá giá của hàng hoá nhập khẩu cũng như xác định thiệt hại
cho ngành sản xuất trong nước và mối quan hệ giữa hai yếu tố này. Cách thức
trao quyền điều tra cho một cơ quan duy nhất theo PLVN giống với các nước
trong Cộng đồng chung Châu Âu, và một số nước ở Châu Á như Thái Lan…
43. 36
2.1.2. Trình tự, thủ tục điều tra và xử lý hành vi chống bán phá giá
hàng hóa
2.1.2.1. Thủ tục điều tra hành vi chống bán phá giá hàng hóa
a) Hoa Kỳ
* Quá trình khởi kiện
Bên nguyên đơn có thể đệ đơn kiện bán phá giá lên Bộ Thương mại
Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế (USITC) với nội dung: Một
ngành sản xuất của Mỹ đang phải chịu thiệt hại vật chất hoặc có nguy cơ phải
chịu thiệt hại vật chất, hoặc việc thành lập một ngành sản xuất ở Mỹ bị trì
hoãn do việc nhập khẩu một hay nhiều loại hàng hóa tại mức giá thấp hơn
mức hợp lý (mức LTFV) hoặc do việc Chính phủ của một hay nhiều quốc gia
trợ giá cho hàng hóa mà Mỹ nhập khẩu. Những cơ quan trên cùng nhau đưa ra
đánh giá về mức độ bán phá giá và thiệt hại, và nếu cả hai yếu tố trên đều có
thì ITC sẽ đưa ra quyết định cuối cùng rằng việc bán phá giá đang diễn ra
cũng như áp thuế chống bán phá giá theo mức tính của DOC. DOC là cơ quan
duy nhất có thẩm quyền mở hay không mở một cuộc điều tra. Thông thường,
DOC và USITC thường xem xét lại đơn kiện trước khi được đệ trình chính
thức nhằm giúp nguyên đơn tránh được những sai sót có thể ngăn cản quá
trình điều tra. Về mặt hình thức, đơn kiện phải có phần mở đầu và kết luận và
được trình bày theo dạng sau:
Mục 1: Thông tin chung
Mục 2: Mô tả hàng hóa nhập khẩu, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu
Mục 3: Thông tin về trợ giá và thông tin về giá
Mục 4: Thông tin về tình trạng nguy kịch
Mục 5: Thông tin về mức độ thiệt hại
Trong mục 1 cung cấp thông tin về nguyên đơn và ngành nội địa sản xuất
sản phẩm tương tự hoặc gần giống với sản phẩm nhập khẩu. Theo qui định, đơn
kiện phải nhân danh cả một ngành sản xuất. Để thỏa mãn điều kiện này thì:
44. 37
- Số lượng nhà sản xuất và công nhân ủng hộ đơn kiện phải đại diện
cho tối thiểu 25% tổng sản lượng của ngành đó.
- Số lượng nhà sản xuất và công nhân ủng hộ đơn kiện phải chiếm trên
50% sản lượng mà 25% nói trên tạo ra.
Nếu đơn kiện không có được sự ủng hộ của các nhà sản xuất và công
nhân chiếm trên 50% tổng sản lượng của ngành, thì DOC phải trưng cầu ý
kiến của cả ngành hoặc dựa vào các thông tin khác để xác định xem liệu đơn
kiện đó có đạt được mức ủng hộ như luật định không.
Mục 2 là phần Mô tả hàng hóa nhập khẩu, nhà xuất khẩu và nhà nhập
khẩu. Trong phần này, bên nguyên đơn cần đưa ra những định nghĩa chính
xác và rõ ràng về hàng nhập khẩu bao gồm đặc tính kỹ thuật, nguyên liệu sản
xuất kèm theo catalog sản phẩm. Nhìn chung, định nghĩa này phải đủ rộng để
bao quát được toàn bộ vấn đề nhưng cũng phải đủ hẹp để tránh tốn thời gian
điều tra. Ngoài ra, bên nguyên đơn phải đưa ra thông tin về nước xuất xứ của
hàng nhập khẩu, nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, giá trị và kim ngạch xuất khẩu
sang thị trường Mỹ trong 3 năm gần nhất.
Mục 3 là Thông tin về trợ giá và thông tin về giá LTFV. Trong phần
này, bên nguyên đơn phải đưa ra các thông tin, bằng chứng về sự can thiệp
của Chính phủ nước xuất khẩu đối với hàng nhập khẩu vào Mỹ, cũng như
mức giá dưới mức hợp lý - LTFV của hàng hóa nhập khẩu. Các thông tin này
sẽ chỉ do Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) xem xét.
Trong mục 4 là Thông tin về "Tình trạng nguy kịch". "Tình trạng
nguy kịch" là điều khoản cho phép áp dụng thuế chống bán phá giá trước
thời hạn hiệu lực trong trường hợp đặc biệt. Bên nguyên đơn có thể yêu cầu
áp dụng điều khoản vào bất kỳ thời điểm nào trước ngày DOC đưa ra phán
quyết cuối cùng 20 ngày. Đương nhiên, để điều khoản này được áp dụng,
thì bên nguyên đơn phải nhận được phán quyết xử thắng của DOC và
45. 38
USITC. Việc thi hành điều khoản này sẽ dẫn đến việc áp dụng mức thuế
chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu được bán trong khoảng thời
gian 90 ngày trước khi mức thuế chống bán phá giá được áp dụng. Điều
khoản này được áp dụng nhằm 2 mục đích:
DOC phải đưa ra quyết định liên quan đến việc áp dụng điều khoản
“tình trạng nguy kịch”, và nếu quyết định của DOC là có tồn tại tình trạng đó,
đồng thời USITC cũng xác nhận việc có thiệt hại vật chất đối với ngành sản
xuất nội địa, thì USITC phải đưa ra một phán quyết bổ sung để xác định xem
liệu có xảy ra tình trạng trốn thuế hay không. Để đưa ra phán quyết này,
USITC phải cân nhắc các yếu tố: (1) Thời gian và khối lượng hàng nhập
khẩu; (2) Sự tăng nhanh chóng lượng hàng nhập khẩu; (3) Bất kỳ một yếu tố
khác cho thấy đang có hành vi trốn thuế chống bán phá giá.
Mục 5 là Thông tin về mức độ thiệt hại, trong phần này, bên nguyên
đơn phải cung cấp các dữ liệu chứng minh việc mặt hàng nhập khẩu gây thiệt
hại hoặc đe đọa thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa. Nhìn chung, các số liệu
này phải tổng kết được tình hình của 3 năm gần nhất bao gồm: (1) Kim ngạch
và giá trị hàng nhập khẩu được bán ở mức giá LTFV; (2) Giá bán tại Mỹ của
hàng nhập khẩu và giá của sản phẩm tương tự được sản xuất tại Mỹ; (3) Năng
suất, doanh số trong nước, doanh số xuất khẩu của sản phẩm tương tự được
sản xuất tại Mỹ; (4) Số lao động của Mỹ trong ngành sản xuất sản phẩm
tương tự trên; (5) Số liệu về thu nhập và lỗ (doanh số ròng, chi phí sản xuất,
lợi nhuận hoặc lỗ, chi phí bán hàng, chi phí quản lý).
* Quá trình điều tra
Quá trình điều tra vụ kiện chống bán phá giá có thể được chia làm 5
bước, kết thúc mỗi bước là phán quyết của DOC hoặc USITC.
Bước 1: Bắt đầu điều tra.
Bước 2: Giai đoạn điều tra sơ bộ của Uỷ ban Thương mại Quốc tế (USITC)
46. 39
Bước 3: Giai đoạn điều tra sơ bộ của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC)
Bước 4: Giai đoạn điều tra chính thức của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC)
Bước 5: Giai đoạn điều tra chính thức của Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa
Kỳ (USITC).
Ngoại trừ bước 3, trong các bước còn lại nếu có phán quyết xử thua bên
nguyên đơn thì vụ kiện sẽ bị dừng lại.
Thời hạn hoàn thành cho 5 bước trên như sau:
Sơ đồ 2.1: Trình tự các sự kiện trong điều tra chống bán phá giá
(*) có thể được kéo dài trong những trường hợp nhất định.
Nguồn: John Hambrey & David Blandford (2010), “Giới thiệu về luật chống bán
phá giá của EU và Mỹ áp dụng cho mặt hàng thủy sản”, Cẩm nang khóa học.
Bên nguyên đơn phải đồng thời đệ đơn kiện lên DOC và USITC. Trong
vòng 20 ngày sau khi nhận đơn kiện, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) sẽ xác
định tính cần thiết áp dụng thuế chống bán phá giá như đơn kiện yêu cầu. Nếu
phán quyết của DOC là cần thiết, thì quá trình điều tra sẽ được tiến hành, nếu
ngược lại DOC sẽ bác đơn kiện và quá trình tố tụng chấm dứt. Trong vòng 45
ngày sau khi nhận được đơn kiện, USITC sẽ dựa trên những thông tin sẵn có
để xác định xem liệu có dấu hiệu nào cho thấy một ngành sản xuất Mỹ đang
Kiến
nghị
DOC
khởi
động điều
tra
Xác định sơ
bộ của ITO
Xác định
sơ bộ
của
DOC
Xác định
cuối
cùng của
DOC
Xác
định
cuối
cùng
của ITC
20 ngày
sau khi
nhận
kiến nghị*
45
ngày
từ khi
nhận
kiến
nghị*
140 ngày
từ khi
khởi động
điều tra*
75 ngày
từ khi có
xác định
sơ bộ của
DOC *
45 ngày
từ khi có
xác định
cuối cùng
của DOC
47. 40
phải chịu thiệt hại hoặc có nguy cơ phải chịu thiệt hại vật chất, hoặc việc
thành lập một ngành sản xuất bị ngăn cản do việc nhập khẩu loại hàng hóa
nằm trong diện điều tra. Trong giai đoạn điều tra sơ bộ này, USITC phải tiến
hành 6 bước:
- Thành lập và lên kế hoạch điều tra sơ bộ.
- Bảng câu hỏi.
- Họp báo và tổng kết
- Báo cáo của ban điều tra và bản ghi nhớ
- Tổng kết và biểu quyết
- Phán quyết và quan điểm của USITC
Sau khi nhận được đơn kiện, USITC sẽ thành lập một ban điều tra gồm
6 thành viên: 1 điều tra viên, 1 chuyên gia kinh tế, 1 kế toán viên/kiểm toán
viên, 1 chuyên gia phân tích sản xuất, một luật sư, và 1 giám sát viên. Ban
điều tra sẽ lên kế hoạch điều tra và soạn thảo 1 thông báo cho công luận. Mục
đích của bản thông báo này là cung cấp cho công chúng những thông tin liên
quan đến nội dung điều tra và lịch trình điều tra. Bên nguyên đơn cũng có thể
tham gia vào ban điều tra.
Sau khi xem xét kỹ lưỡng đơn kiện và các thông tin sẵn có khác, ban
điều tra soạn thảo bảng câu hỏi để gửi cho các nhà sản xuất Mỹ, các nhà nhập
khẩu Mỹ và các nhà sản xuất nước ngoài nhằm lấy các thông tin cần thiết để
đưa ra phán quyết. Bảng câu hỏi sẽ được gửi đi trong vòng 2 đến 4 ngày làm
việc sau khi nhận được đơn kiện. Việc trả lời bảng câu hỏi là bắt buộc đối với
các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu Mỹ. Nhà sản xuất nước ngoài không nhất
thiết phải trả lời bảng câu hỏi, tuy nhiên, việc không trả lời có thể dẫn đến
những kết luận không có lợi từ phía USITC.
Trong quá trình soạn thảo, bảng câu hỏi, USITC phải giải quyết một vấn
đề mấu chốt, đó là xác định chính xác sản phẩm cần điều tra. Trước khi đưa ra
48. 41
phán quyết, USITC phải đánh giá mức độ thiệt hại mà một ngành sản xuất sản
phẩm tương tự của Mỹ phải hứng chịu. Luật chống bán phá giá định nghĩa:
Một ngành sản xuất là bao gồm tất cả các nhà sản xuất sản
phẩm tương tự hoặc bao gồm các nhà sản xuất tạo ra một phần sản
lượng chủ chốt của sản phẩm trên… Cũng theo luật thì sản phẩm
tương tự là sản phẩm giống hệt, hoặc trong trường hợp không có
sản phẩm giống hệt, là sản phẩm có nhiều đặc tính tương đồng với
sản phẩm được so sánh nhất… [17].
Việc xác định sản phẩm tương tự được thực hiện dựa trên việc xem xét
đơn kiện, thảo luận với các cá nhân trong ngành sản xuất sản phẩm đó, và các
phân tích mà USITC có được. Sau khi đã lựa chọn được sản phẩm tương tự
cần điều tra, USITC sẽ soạn thảo bảng câu hỏi theo một mẫu đã được điều
chỉnh cho phù hợp với vấn đề điều tra và gửi cho các nhà sản xuất Mỹ, nhà
nhập khẩu Mỹ và nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất nước ngoài (nước xuất
khẩu thuộc diện điều tra).
Bảng câu hỏi cho nhà sản xuất Mỹ có 4 phần: Phần 1 đưa ra các câu hỏi
về bộ máy và hoạt động của Công ty; có ủng hộ đơn kiện này không? Tại sao?
Phần 2 yêu cầu cung cấp các thông tin, dữ liệu trong vòng 3 năm gần nhất về
năng suất, sản lượng, lượng hàng dự trữ, lượng hàng bán, lượng hàng nhập
khẩu, lượng tiêu thụ nội bộ, số lao động, giờ làm việc, mức lương. Phần 3 liên
quan đến các dữ liệu về tài chính trong 3 năm gần nhất bao gồm dữ liệu về
tình hình lỗ lãi của sản phẩm được điều tra; dữ liệu về vốn, chi phí nghiên cứu
và phát triển, và giá trị tài sản của doanh nghiệp; ngoài ra còn có các câu hỏi
về mức độ ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đối với tình hình vốn và đầu tư.
Phần 4 yêu cầu nhà sản xuất cung cấp các thông tin liên quan đến mức giá và
yêu cầu nhà sản xuất khẳng định việc sụt giảm doanh thu là do ảnh hưởng của
loại hàng nhập khẩu đang được điều tra.