Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp pháp lý ngăn ngừa sự tác động đến việc xuất khẩu của Việt Nam.pdf
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THU NGUYỆT
C¸C BIÖN PH¸P PHßNG VÖ TH¦¥NG M¹I TR£N THÕ GIíI
Vµ C¸C GI¶I PH¸P PH¸P Lý NG¡N NGõA Sù T¸C §éNG
§ÕN VIÖC XUÊT KHÈU CñA VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã số: 60 38 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Hoàng Phƣớc Hiệp
HÀ NỘI - 2013
2. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Thu Nguyệt
3. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG VỆ THƢƠNG MẠI 9
1.1. Khái niệm về phòng vệ thương mại 9
1.2. Một số biện pháp phòng vệ thương mại phổ biến 10
1.2.1. Biện pháp chống bán phá giá 12
1.2.2. Biện pháp chống trợ cấp 20
1.2.3. Biện pháp tự vệ 24
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ PHÒNG VỆ THƢƠNG MẠI TẠI
HOA KỲ, LIÊN MINH CHÂU ÂU VÀ NHẬT BẢN
30
2.1. Các quy định về phòng vệ thương mại tại Hoa Kỳ 30
2.1.1. Tổng quan pháp luật Hoa Kỳ về phòng vệ thương mại 30
2.1.1.1. Giới thiệu các biện pháp phòng vệ thương mại tại Hoa Kỳ
và đặc điểm của các biện pháp này
30
2.1.1.2. Chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ theo pháp luật
Hoa Kỳ
33
2.1.2. Các cơ quan có thẩm quyền trực tiếp trong điều tra và áp
dụng biện pháp phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ
42
2.1.2.1. Các cơ quan có thẩm quyền trực tiếp trong điều tra và áp
dụng biện pháp phòng vệ
42
4. 2.1.2.2. Các cơ quan khác có thẩm quyền liên quan đến quá trình
điều tra và áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại
44
2.1.3. Thực tiễn áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại của
Hoa Kỳ với các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam
44
2.1.4. Bài học từ những tranh chấp thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ 50
2.2. Các quy định về phòng vệ thương mại tại Liên minh châu Âu 55
2.2.1. Tổng quan pháp luật Liên minh Châu Âu về phòng vệ
thương mại
55
2.2.1.1. Giới thiệu các biện pháp phòng vệ thương mại tại EU và đặc
điểm của các biện pháp này
55
2.2.1.2. Chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ theo pháp luật EU 57
2.2.2. Các cơ quan có thẩm quyền trực tiếp trong điều tra và áp dụng
biện pháp phòng vệ thương mại của Liên minh Châu Âu
66
2.2.3. Thực tiễn áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại của
Liên minh Châu Âu với các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam
68
2.2.4. Bài học từ những tranh chấp thương mại Việt Nam - EU 70
2.3. Các quy định về phòng vệ thương mại tại Nhật Bản 72
2.3.1. Tổng quan pháp luật Nhật Bản về phòng vệ thương mại 72
2.3.1.1. Giới thiệu các biện pháp phòng vệ thương mại tại Nhật Bản
và đặc điểm của các biện pháp này
72
2.3.1.2. Chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ theo pháp luật
Nhật Bản
75
2.3.2. Các cơ quan có thẩm quyền trực tiếp trong điều tra và áp
dụng biện pháp phòng vệ thương mại của Nhật Bản
88
2.3.3. Thực tiễn áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại của
Nhật Bản với các sản phẩm xuất khẩu từ Việt Nam và các
quốc gia khác
89
5. 2.3.4. Bài học từ những tranh chấp thương mại Việt Nam - Nhật Bản 91
2.4. Những lưu ý chung cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam
về phòng vệ thương mại tại Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản
93
Chương 3: TÁC ĐỘNG CỦA PHÒNG VỆ THƢƠNG MẠI TỚI NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÁP LÝ
NGĂN NGỪA SỰ TÁC ĐỘNG TỚI TÌNH HÌNH XUẤT
KHẨU CỦA VIỆT NAM
96
3.1. Tác động của phòng vệ thương mại tới nền kinh tế Việt Nam 96
3.1.1. Tổng quan về tác động của phòng vệ thương mại và kinh
nghiệm ứng phó của Việt Nam
96
3.1.2. Tác động của các biện pháp phòng vệ thương mại tới nền
kinh tế Việt Nam
99
3.1.2.1. Tác động tới kim ngạch xuất khẩu 99
3.1.2.2. Tác động tới môi trường đầu tư 101
3.1.2.3. Tác động tới hình ảnh và uy tín của Việt Nam 103
3.1.2.4. Các tác động khác 104
3.2. Các giải pháp pháp lý ngăn ngừa sự tác động của phòng vệ
thương mại tới tình hình xuất khẩu của Việt Nam
105
3.2.1. Các giải pháp chung 105
3.2.2. Các giải pháp pháp lý 108
KẾT LUẬN 118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 120
6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADA Anti-dumping Agreement HiệpđịnhvềchốngbánphágiácủaWTO
DOC Department of Commerce Bộ Thương mại Hoa Kỳ
EU European Union Liên Minh Châu Âu
FTA Free Trade Agreements Hiệp định thương mại tự do
ITC International Trade Commission Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ
METI MinistryofEconomy, TradingandIndustry BộKinhtế,ThươngmạivàCôngnghiệp
MOF Ministry of Finance Bộ Tài chính Nhật Bản
SCM Agreement on Subsidies and Countervailing
Measures
Hiệp định về Chống trợ cấp và các
biện pháp đối kháng của WTO
SG Agreement on Safeguard Measures Hiệp định về biện pháp tự vệ của WTO
VCCI Vietnam Chamber of Commerce and
Industry
Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam
VJEPA Vietnam Japan Economic Partnership
Agreement
Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt
Nam - Nhật Bản
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới
7. DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Thời hạn trong vụ điều tra trợ cấp theo pháp luật Hoa Kỳ 37
3.1 Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng theo thị trường 100
3.2 Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 102
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
"Mở rộng thị trường nội địa, phát triển mạnh thương mại trong nước;
đa dạng hóa thị trường ngoài nước, khai thác có hiệu quả các thị trường có hiệp
định mậu dịch tự do và thị trường tiềm năng, tăng nhanh xuất khẩu, giảm
nhập siêu cả quy mô và tỉ trọng, phấn đấu cân bằng xuất nhập khẩu" [11] là
một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng mà văn kiện Đại hội Đảng
lần thứ XI đã chỉ ra. Trong đó, cũng nêu rõ một trong những rào cản lớn cho
thương mại quốc tế là chủ nghĩa bảo hộ, mà các biện pháp phòng vệ thương
mại là một trong những công cụ phổ biến đang được các quốc gia sử dụng, như
một hình thức bảo hộ hợp pháp.
Có thể thấy, để thực hiện tốt những nhiệm vụ mà các văn kiện của
Đảng đã đề ra, một vấn đề quan trọng là phải hiểu một cách thấu đáo về chính
sách và Pháp luật về phòng vệ thương mại của những thị trường xuất khẩu
chủ lực của hàng hóa Việt Nam, cụ thể là Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu (EU)
và Nhật Bản cũng như luật lệ về phòng vệ thương mại của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) để có những biện pháp ứng phó phù hợp và hiệu quả, giúp
cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tránh được những thiệt hại vô lý do chính
sách và pháp luật về phòng vệ thương mại của các nước nhập khẩu gây ra.
Pháp luật Việt Nam cũng kịp thời ghi nhận và có các quy định hướng
dẫn cách áp dụng các công cụ này để bảo hộ cho hàng hóa và nền sản xuất
trong nước trước sự thâm nhập và cạnh tranh ngày một mạnh mẽ của hàng
hóa nước ngoài. Cụ thể, pháp lệnh chống bán phá giá, pháp lệnh chống trợ
cấp và pháp lệnh tự vệ cùng các văn bản hướng dẫn thi hành đã được ban
hành, để trang bị cho các doanh nghiệp Việt Nam thêm một phương tiện hợp
pháp trong quá trình tự do hóa thương mại quốc tế, tuy nhiên trên thực tế các
văn bản này vẫn chưa thực sự phát huy hiệu quả.
9. 2
Trên thực tế, cùng với việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt
Nam phải đối mặt với ngày càng nhiều các vụ kiện phòng vệ thương mại.
Dưới hình thức thuế bổ sung, hạn ngạch… các biện pháp phòng vệ thương
mại này là những rào cản mang tính bảo hộ đang có nguy cơ gia tăng tại các
thị trường xuất khẩu, gây khó khăn cho Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế và mở rộng thị phần xuất khẩu. Sau khi Việt Nam trở thành
thành viên chính thức của WTO, những vụ kiện do các nước áp dụng các biện
pháp phòng vệ thương mại không giảm đi mà ngược lại có xu hướng tăng lên
rõ rệt. Những vụ kiện này rõ ràng đã gây ra những tác động lớn cho nền kinh
tế Việt Nam. Do vậy, yêu cầu đặt ra là Nhà nước, các địa phương, Hiệp hội
ngành hàng và nhất là bản thân các doanh nghiệp phải tích cực, chủ động đối
phó, phải nâng cao hiểu biết về pháp luật thương mại quốc tế mới có thể mở
rộng và nâng cao năng lực cạnh tranh cho xuất khẩu của Việt Nam.
Vì vậy, hơn lúc nào hết, việc nghiên cứu đề tài "Các biện pháp phòng
vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp pháp lý ngăn ngừa sự tác động
đến việc xuất khẩu của Việt Nam" có tính cấp thiết cao. Qua việc nghiên cứu
sâu pháp luật về phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản, tác giả
sẽ đưa ra được những khuyến nghị mang tính thực tế về việc cần phải chú
trọng tới những yếu tố nào và cần phải làm gì để giúp cho hàng hóa xuất khẩu
của Việt Nam tránh được một cách tốt nhất nguy cơ bị kiện phòng vệ thương
mại tại các thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các thị trường lớn như Hoa Kỳ,
EU và Nhật Bản. Việc nghiên cứu kỹ hệ thống luật lệ của Hoa Kỳ, EU và
Nhật Bản về phòng vệ thương mại cũng góp phần cung cấp kinh nghiệm để
hoàn thiện hệ thống Pháp luật về phòng vệ thương mại của Việt Nam hiện
nay, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng thương mại hàng
hóa của Việt Nam ra thế giới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi chuẩn bị cho quá trình đàm phán gia nhập WTO và thực hiện
chính sách chủ động hội nhập kinh tế quốc tế cho đến nay, tại Việt Nam, liên
10. 3
quan đến đề tài, đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu và các đề tài
chuyên khảo. Cụ thể, các sách do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam (VCCI) phát hành, như cuốn "Pháp luật về chống bán phá giá - Những
điều cần biết" do VCCI, với sự cộng tác của các Trọng tài viên Trung tâm
Trọng tài Quốc tế Việt Nam, xuất bản. Đây là cuốn sách đầu tiên tại Việt Nam
giới thiệu tương đối đầy đủ những quy định hiện hành của WTO, Hoa Kỳ và
Liên minh Châu Âu về việc điều tra và áp đặt thuế chống bán phá giá dưới
dạng các câu hỏi và đáp ngắn gọn, cụ thể và thiết thực. Ngoài ra, các ấn phẩm
khác của VCCI như "Kiện chống bán phá giá", "Trợ cấp và thuế chống trợ
cấp", "Biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế" hay "Cẩm nang kháng kiện
chống bán phá giá - chống trợ cấp tại Hoa Kỳ" cũng là những ấn phẩm bổ ích
trong việc đem lại những kiến thức cơ bản cho người đọc trong việc tiếp cận
các khái niệm chung, các đặc điểm của các biện pháp phòng vệ thương mại.
Hội đồng tư vấn về phòng vệ thương mại (Hội đồng TRC) thuộc VCCI cũng
đã phát hành nhiều cuốn sách về phòng vệ thương mại, như cuốn "Tranh chấp
về chống bán phá giá trong WTO", "Cẩm nang kháng kiện chống bán phá giá -
chống trợ cấp tại Hoa Kỳ", Cẩm nang kháng kiện chống bán phá giá - chống
trợ cấp tại Hoa Kỳ"… cùng với các ấn phẩm khác của Cục Quản lý Cạnh
tranh, trực thuộc Bộ Công thương như "Các văn bản pháp luật về Biện pháp
bảo đảm thương mại công bằng trong thương mại quốc tế của Việt Nam" và
"Hỏi đáp về pháp luật chống bán phá giá của Việt Nam" là những ấn phẩm đã
được xuất bản rộng rãi, là tài liệu quen thuộc với các doanh nghiệp, các đối
tượng muốn tìm hiểu về pháp luật phòng vệ thương mại nói chung.
Bên cạnh đó, không thể không kể đến rất nhiều công trình nghiên cứu,
các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ về đề tài này. Gần đây nhất có hai luận án
tiến sĩ của tác giả Đoàn Trung Kiên, Pháp luật về chống bán phá giá hàng hóa
nhập khẩu ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, bảo vệ năm 2010
tại Trường Đại học Luật Hà Nội, và Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật chống bán
phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam, bảo vệ năm 2011
11. 4
tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Cũng nghiên cứu về đề tài
này còn có công trình nghiên cứu cấp thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hồng
Anh, khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Cơ chế giải quyết tranh chấp
trong WTO, các bài học kinh nghiệm của một số nước và khuyến nghị đối với
Việt Nam trong thời gian tới cùng nhiều luận văn, luận án khác có liên quan
hoặc có đề cập, nghiên cứu một khía cạnh của đề tài… Nhìn chung các công
trình này đã nghiên cứu một cách khá sâu sắc về pháp luật chống bán phá giá
nói riêng cũng như pháp luật phòng vệ thương mại nói chung của Việt Nam
và một số nước đồng thời cũng đưa ra một số kiến nghị đáng tham khảo.
Ở nước ngoài, pháp luật phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ, EU và
Nhật Bản đã được phân tích và nghiên cứu trong rất nhiều các công trình.
Điển hình trong những công trình nghiên cứu này là các tác phẩm của Clive
Stanbrook và Philip Bentley, Dumping and subsidies: the law and procedures
governing the imposition of anti-dumping and countervailing duties in the
european community (1996), Keith Steele (editor), Anti-dumping under the
WTO: a comparative review, (1996), Wolfgang Muller, EC anti-dumping
law: a commentary on regulation 384/96, John Ohnesorge, State, Industrial
Policies & Antidumping Enforcement in Japan, South Korea and Taiwan, 3
Buffalo Journal of International Law 289 (1996-97), Sebastian Farr, EU anti-
dumping law: pursuing and defending investigations (1998), Pierre
Didier, WTO trade instruments in EU law: commercial policy instruments:
dumping, subsidies, safeguards, public procurement (1999), Brink Lindsey,
Antidumping Exposed: The Devilish Details of Unfair Trade Law, Cato
Institute (2003), Wenxi Li, Anti-dumping law of the WTO/GATT and the EC:
gradual evolution of anti-dumping law in global economic integration (2003),
Aradhna Aggarwal, The Anti-Dumping Agreement and Developing Countries:
An Introduction, Oxford University Press (2007), Anderson Mori & Tomotsune,
Anti-Dumping Laws and Regulations in Japan, A Global Competition
Review special report (2008), Yan Luo, Anti-dumping in the WTO, the EU
12. 5
and China: The Rise of Legalization in the Trade Regime and its Consequences,
Mitsuo Matsushita, Some international and domestic antidumping issues
(2010) và ấn phẩm Hướng dẫn về các Biện pháp Phòng vệ Thương mại tại
Cộng đồng Châu Âu - Pháp luật, Thực tiễn và Thủ tục vụ kiện chống bán phá
giá, chống trợ cấp và tự vệ và ấn phẩm Hướng dẫn về các Biện pháp Phòng
vệ Thương mại tại Hoa Kỳ - Pháp luật, Thực tiễn và Thủ tục vụ kiện chống
bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ do Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC)
phát hành và chịu trách nhiệm biên phiên dịch sang tiếng Việt bởi Ban Pháp
chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Nhìn chung, các
công trình nghiên cứu ở nước ngoài thường trình bày, phân tích và bình luận
rất chi tiết về quy định của WTO cũng như pháp luật của Hoa Kỳ và EU về
phòng vệ thương mại, tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có các nghiên cứu
mang tính học thuật của nước ngoài về tác động của Pháp luật về các biện
pháp phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản đối với hàng hóa
của Việt Nam để từ đó đề xuất các định hướng, giải pháp thiết thực nhằm
giúp Việt Nam ứng phó hiệu quả với các vụ kiện phòng vệ thương mại ở các
thị trường này. Do đó, Luận văn, với giác độ nghiên cứu này thực sự có tính
thời sự và cấp thiết.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài "Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế
giới và các giải pháp pháp lý ngăn ngừa sự tác động đến việc xuất khẩu
của Việt Nam" nhằm đạt các mục đích chủ yếu sau đây:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về các biện pháp phòng vệ thương mại
đang được pháp luật thương mại thế giới thừa nhận và cho phép áp dụng, cụ
thể như: Khái niệm các biện pháp phòng vệ thương mại; các đặc điểm của các
biện pháp phòng vệ thương mại và các điều kiện áp dụng các biện pháp phòng
vệ thương mại; vai trò, tác dụng của các biện pháp phòng vệ thương mại đối
với thương mại hàng hóa và kinh tế quốc tế.
13. 6
- Phân tích, đánh giá khái quát các quy định pháp luật về phòng vệ
thương mại tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển cao và là thị trường xuất
khẩu trọng điểm của Việt Nam là Hoa Kỳ và EU, đồng thời nghiên cứu các
quy định pháp luật về phòng vệ thương mại tại Nhật Bản, một thị trường xuất
khẩu quan trọng của Việt Nam.
- Trên cơ sở các nội dung nghiên cứu nêu trên và thực tiễn sự tác động
của các biện pháp phòng vệ thương mại đến kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam hiện nay, đưa ra các kiến nghị về giải pháp pháp lý nhằm góp phần ngăn
chặn tác động của các biện pháp này tới tình trạng xuất khẩu của Việt Nam,
góp phần giúp giao thương của Việt Nam được thuận lợi và hiệu quả hơn
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Bước vào thời kỳ kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt
từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ngành sản
xuất mới được quan tâm, chú trọng phát triển, được ứng dụng khoa học kỹ
thuật tiên tiến nên đạt được nhiều thành tích, thúc đẩy cải thiện kim ngạch
xuất khẩu, phần nào tạo được sức cạnh tranh cao cho hàng hóa Việt Nam trên
thị trường quốc tế. Điều này do vậy cũng vấp phải các rào cản từ các quốc gia
có hàng hóa cùng loại, cụ thể là các biện pháp phòng vệ thương mại (dưới
hình thức hợp pháp hoặc biến hình) được áp dụng ngày càng phổ biến, tác
động tiêu cực đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Các vụ kiện về chống
bán phá giá, chống trợ cấp do các thị trường xuất khẩu của Việt Nam tiến
hành đã làm ảnh hưởng đến hình ảnh và uy tín của hàng hóa Việt Nam nói
riêng và kinh tế Việt Nam nói chung.
Do đó, vấn đề đặt ra là làm sao để hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực
này, cải thiện được kim ngạch xuất khẩu và tăng sức mạnh cạnh tranh lành
mạnh cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
14. 7
Đây là một vấn đề mang tính vĩ mô, cần phải nghiên cứu chuyên sâu
và tập trung. Do vậy, với khuôn khổ và phạm vi của một luận văn thạc sĩ, tôi
không thể giải quyết được một cách trọn vẹn tất cả các vấn đề có liên quan
đến các biện pháp phòng vệ thương mại cũng như các biện pháp thực thi hữu
ích để ngăn ngừa sự tác động của tình trạng này. Vì vậy, Đề tài sẽ chủ yếu tập
trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản nhất, các quy định pháp luật
của Việt Nam và thế giới (cụ thể là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản) về phòng vệ
thương mại, tác động của các biện pháp này tới tình hình xuất khẩu của Việt
Nam, đồng thời đề xuất một số giải pháp về mặt pháp lý để góp phần ngăn
ngừa sự tác động của các biện pháp phòng vệ thương mại tới kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế thị trường của Đảng
và Nhà nước ta được trình bày trong các văn kiện, nghị quyết và các văn bản
quy phạm pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, so sánh, tổng hợp
cũng sẽ được sử dụng ở mức độ phù hợp để hoàn thành mục tiêu của đề tài.
6. Những kết quả đạt đƣợc của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới về lý luận và thực tiễn cơ bản như sau:
+ Luận văn hệ thống hóa, cung cấp những kiến thức cập nhật của pháp
luật Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản về phòng vệ thương mại.
+ Luận văn cung cấp những số liệu, phân tích và rút ra các bài học cho
xuất khẩu của Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản.
+ Phân tích và đưa ra những kiến nghị phù hợp để doanh nghiệp xuất
khẩu của Việt Nam và Chính phủ Việt Nam phòng tránh và ứng phó một cách
có hiệu quả các vụ kiện phòng vệ thương mại tại Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản.
15. 8
+ Phân tích đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật và việc thực thi pháp luật về phòng vệ thương mại của Việt Nam từ góc
độ kinh nghiệm của Pháp luật về phòng vệ thương mại và thực thi pháp luật
về phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản.
+ Phân tích và đưa ra những kiến nghị, những giải pháp pháp lý hiệu
quả nhằm ngăn ngừa tác động của các biện pháp phòng vệ thương mại tới
việc xuất khẩu của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng vệ thương mại.
Chương 2: Các quy định về phòng vệ thương mại tại Hoa Kỳ, Liên
minh Châu Âu và Nhật Bản.
Chương 3: Tác động của phòng vệ thương mại tới nền kinh tế Việt
Nam và các giải pháp pháp lý ngăn ngừa sự tác động tới việc xuất khẩu của
Việt Nam.
16. 9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG VỆ THƢƠNG MẠI
1.1. KHÁI NIỆM CỦA PHÒNG VỆ THƢƠNG MẠI
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại khi hàng rào
thuế quan trên thế giới đang chịu sức ép cắt giảm, các nước bắt đầu chú ý
nhiều tới các biện pháp phòng vệ đối với hàng hóa sản xuất trong nước. Dù
tồn tại nhiều quan niệm khác nhau, tuy nhiên trong lĩnh vực thương mại quốc
tế, biện pháp phòng vệ có thể được gói gọn lại là tất cả các biện pháp Chính
phủ sử dụng nhằm hạn chế các dòng mậu dịch giữa lãnh thổ nước này với
lãnh thổ nước khác. Mặc dù có thể khác nhau về bản chất, các biện pháp này
đều được áp dụng nhằm mục tiêu bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa tương tự
hoặc cạnh tranh trực tiếp trên thị trường nội địa của nước nhập khẩu. Ở thời
điểm hiện tại, nói đến các biện pháp phòng vệ có thể được xem là nhắc đến
các biện pháp liên chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.
Phòng vệ thương mại theo đó được hiểu là những biện pháp ngăn
chặn, hạn chế (áp thuế bổ sung, quy định hạn ngạch…) áp dụng đối với hàng
hóa xuất khẩu từ nước này sang nước kia, được nước nhập khẩu áp dụng sau
một quá trình điều tra mà kết quả hội đủ ba điều kiện: (i) Có hiện tượng bán
phá giá hoặc bán hàng có trợ cấp hoặc nhập khẩu ồ ạt; (ii) ngành sản xuất nội
địa của nước nhập khẩu chứng minh được thiệt hại; (iii) có mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi bán phá giá, bán hàng trợ cấp hay nhập khẩu ồ ạt tới ngành
hàng sản xuất trong nước của nước nhập khẩu.
Hoạt động này được WTO cho phép các nước nhập khẩu sử dụng để
chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ các nước xuất khẩu. Tuy
nhiên, cần phân biệt rõ, không phải là WTO áp dụng các hình thức này mà là
bản thân các nước nhập khẩu, đây là mối quan hệ giữa các nước xuất khẩu với
nước nhập khẩu.
17. 10
Các biện pháp phòng vệ thương mại với bản chất được hiểu là những
biện pháp ngăn chặn, hạn chế đối với hàng hóa xuất khẩu, được nước nhập
khẩu áp dụng sau một quá trình điều tra mà kết quả: (i) có hiện tượng bán phá
giá hoặc bán hàng có trợ cấp hoặc nhập khẩu ồ ạt; (ii) ngành sản xuất nội địa
của nước nhập khẩu chứng minh được thiệt hại; (iii) có mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi bán phá giá, bán hàng trợ cấp hay nhập khẩu ồ ạt tới ngành hàng
sản xuất trong nước của nước nhập khẩu, do vậy chúng có ý nghĩa vô cùng
quan trọng và được xem như công cụ bảo hộ hợp pháp của các nước nhập
khẩu trong việc ngăn ngừa tác động tiêu cực của hàng hóa xuất khẩu cũng
như bảo vệ ngành sản xuất của nước nội địa. Đây là các công cụ bảo hộ hợp
pháp được thừa nhận và đang ngày càng phát huy vai trò trong thương mại
quốc tế, đồng thời nó cũng có vai trò tạo ra một môi trường cạnh tranh bình
đẳng, công bằng, lành mạnh, thúc đẩy hàng hóa phát triển, tạo điều kiện cho
tự do hóa thương mại.
Với việc được công nhận và hợp thức hóa trong các Hiệp định của
WTO, các biện pháp phòng vệ thương mại đang ngày càng được áp dụng một
cách có hiệu quả và là một “van an toàn” cho các quốc gia thành viên sử dụng
để tạo ra một sân chơi thương mại bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh. Các biện
pháp phòng vệ thương mại do vậy còn có tác dụng tích cực trong việc khuyến
khích tự do hóa thương mại phát triển và góp phần thúc đẩy xây dựng một
nền kinh tế quốc tế phát triển ổn định, lành mạnh hơn.
1.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÒNG VỆ THƢƠNG MẠI PHỔ BIẾN
Trong thương mại quốc tế, các biện pháp phòng vệ thương mại chính
đáng được hiểu như các công cụ áp dụng nhằm mục đích bảo vệ ngành sản
xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trên thị trường nội địa của
nước nhập khẩu trong một giai đoạn nhất định trước sự xâm nhập và cạnh tranh
không công bằng của hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài. Các biện pháp này
nhìn chung bao gồm các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá và chống trợ cấp.
18. 11
Trong thương mại quốc tế, biện pháp chống bán phá giá, chống trợ
cấp và tự vệ được coi là ba cột trụ của hệ thống các biện pháp phòng vệ
thương mại (trade remedies) và được áp dụng để bảo vệ thị trường nội địa
trước sự thâm nhập của hàng hóa nước khác. Về bản chất, biện pháp chống
bán phá giá và chống trợ cấp được áp dụng để đối phó với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh hay không công bằng của hàng hóa nhập khẩu. Nói cách
khác, biện pháp chống bán phá giá được áp dụng dưới dạng thuế nhập khẩu
bổ sung hoặc các biện pháp cam kết loại trừ tác động của việc bán phá giá khi
hàng hóa nước ngoài được bán phá giá vào thị trường nội địa của nước nhập
khẩu và việc bán phá giá đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể
cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự của nước nhập khẩu đó.
Trong khi biện pháp chống bán phá giá là để đối phó với hành vi bán
sản phẩm với giá thấp nhằm chiếm lĩnh thị trường và tiến tới loại bỏ dần các
đối thủ cạnh tranh thì biện pháp chống trợ cấp được áp dụng để loại bỏ tác
động tiêu cực gây ra cho ngành sản xuất hàng hóa trong nước xuất phát từ các
chính sách trợ cấp của chính phủ nước xuất khẩu. Khi chính phủ của nước
xuất khẩu có các chính sách trợ cấp đối với một loại hàng hóa xuất khẩu và
chính sách trợ cấp đó đã tạo lợi thế cho các nhà xuất khẩu của nước đó bán
hàng hóa vào một nước khác với mức giá thấp khiến ngành sản xuất hàng hóa
tương tự trong nước của nước khác đó không thể cạnh tranh được, lúc đó cơ
quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu có thể tiến hành các cuộc điều tra để
áp dụng các biện pháp chống trợ cấp (thuế đối kháng) nhằm loại bỏ tác động
của các chính sách trợ cấp đó.
Được thừa nhận trong thương mại quốc tế nhưng lại đi ngược lại mục
tiêu "tự do hóa thương mại", biện pháp tự vệ là một công cụ "phải trả tiền".
Điều này có nghĩa là các nước được phép áp dụng nó bảo vệ ngành sản xuất
của nước mình nhưng phải "trả giá" cho những thiệt hại mà biện pháp này gây
ra cho các nhà sản xuất nước ngoài (như một hình thức cân bằng cam kết
19. 12
thương mại với nước khác). Cụ thể, nước áp dụng biện pháp tự vệ phải bồi
thường thương mại cho các nước có hàng hóa bị áp dụng biện pháp tự vệ theo
các điều kiện nhất định. Nếu nước này không tuân thủ, WTO cho phép các
nước liên quan được áp dụng biện pháp trả đũa.
Ở Việt Nam, nguyên tắc áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại
được quy định trong ba pháp lệnh gồm: Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH10
về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam, Pháp lệnh số
20/2004/PL-UBTVQH11 về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt
Nam và Pháp lệnh số 22/2004/PL-UBTVQH11 về chống trợ cấp hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam. Các văn bản hướng dẫn cũng được ban hành để hướng
dẫn chi tiết việc thi hành pháp lệnh, đảm bảo hiệu quả công tác phòng vệ đối
với ngành sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu.
1.2.1. Biện pháp chống bán phá giá
Quy định của WTO và thực tiễn áp dụng biện pháp chống bán phá giá
Trong thực tiễn thương mại quốc tế, các biện pháp chống bán phá giá
được đánh giá là một trong những công cụ hiệu quả để bảo vệ quyền lợi chính
đáng của các nhà sản xuất trong nước. Cụ thể, Hiệp định chống bán phá giá
của WTO (Anti-dumping Agreement - ADA) thừa nhận các biện pháp chống
bán phá giá là công cụ hỗ trợ nhà sản xuất trong nước khi có hành vi bán phá
giá hàng hóa nhập khẩu và hành vi đó gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng
kể cho ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên, để tránh việc lạm dụng các biện
pháp chống bán phá giá, cần phải tuân thủ các nguyên tắc, thủ tục và trình tự
chung được quốc tế thừa nhận, phù hợp với các quy định của WTO. Hiệp
định của WTO về chống bán phá giá quy định các nguyên tắc thống nhất bắt
buộc đối với tất cả các nước thành viên khi xây dựng pháp luật và áp dụng
trong thực tiễn các biện pháp phòng vệ này.
Điều 2.1 của ADA quy định: trong phạm vi Hiệp định này, một sản
phẩm bị coi là bán phá giá (tức là được đưa vào lưu thông thương mại của
20. 13
một nước khác với giá thấp hơn trị giá thông thường của sản phẩm đó) nếu
như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một
nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được
tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường. Về
cơ bản, khái niệm pháp lý giống với các khái niệm học thuật khi cho rằng bán
phá giá là hiện tượng phân biệt giá song căn cứ để xác định không còn là giá
bán của hàng hóa trên thị trường xuất khẩu và trên thị trường nhập khẩu mà là
giá xuất khẩu (giá bán vào thị trường nhập khẩu) và giá trị thông thường của
hàng hóa nhập khẩu. Giá trị thông thường không phải là giá nội địa của hàng
hóa bị điều tra mà là giá có thể so sánh được của hàng hóa tương tự được tiêu
dùng tại nước xuất khẩu. Giá thông thường được hiểu là “mức giá chuẩn” mà
các DN áp dụng cho các giao dịch mua bán trên thị trường nước xuất khẩu.
Để có thể xác định được “mức giá chuẩn” trong mọi tình huống, các nhà làm
luật đã đặt ra nhiều tiêu chuẩn và phương pháp tính toán phức tạp và mềm
dẻo. Những thay đổi trong khái niệm pháp lý về bán phá giá đã giải quyết
được trường hợp không thể xác định được giá bán trên thị trường nội địa của
hàng hóa bị điều tra do chúng được sản xuất chỉ để xuất khẩu hoặc giá bán
hàng hóa trên thị trường nội địa không bình thường do thấp hơn chi phí sản
xuất hoặc là giá bán độc quyền…..
Kết quả so sánh hai chỉ số giá trên chưa phản ánh ưu thế cạnh tranh của
hàng hóa nhập khẩu so với hàng hóa nội địa của nước nhập khẩu mà chỉ cho
thấy hiện tượng phân biệt giá của sản phẩm nhập khẩu. Muốn xác định ưu thế
cạnh tranh về giá của hàng hóa nhập khẩu, cần tiến hành so sánh giữa giá xuất
khẩu của hàng hóa nhập khẩu và giá bán của hàng hóa cạnh tranh nội địa. Kết
quả so sánh có thể là:
Thứ nhất, giá xuất khẩu của hàng hóa nhập khẩu vào thấp hơn giá
thông thường trên thị trường xuất khẩu nhưng vẫn cao hơn giá của sản phẩm
cạnh tranh nội địa. Trong tình huống này, hiện tượng bán phá giá vẫn tồn tại
song hàng hóa nội địa đang có lợi thế cạnh tranh về giá so với hàng hóa nhập
21. 14
khẩu. Do đó, việc hàng hóa nhập khẩu bán phá giá không thể gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước.
Thứ hai, giá xuất khẩu của hàng hóa nhập khẩu thấp hơn giá bán của
sản phẩm cạnh tranh nội địa nên có lợi thế cạnh tranh về giá. Khi đó, các DN
nội địa sản xuất sản phẩm cạnh tranh bị đẩy vào tình trạng hoặc phải hạ giá
bán để giữ khách hàng hoặc mất thị phần với giá bán hiện tại. Trong tình
huống này, có hai giả định được đặt ra:
- Giả định hàng hóa nhập khẩu không bán phá giá (giá xuất khẩu
không thấp hơn giá thông thường). Giá của hàng hóa nhập khẩu có lợi thế
cạnh tranh do chi phí sản xuất thấp hơn của sản phẩm nội địa. Thị trường
nhập khẩu đang được hưởng lợi từ hàng hóa nhập khẩu vì người tiêu dùng có
cơ hội mua hàng hóa giá rẻ.
- Giả định có hiện tượng bán phá giá (giá xuất khẩu thấp hơn giá
thông thường) thì hiện tượng bán phá giá đang tạo lợi thế cạnh tranh một cách
không công bằng cho hàng hóa nhập khẩu trước hàng hóa nội địa. Các biện
pháp chống bán phá giá cần được áp dụng để bảo vệ ngành sản xuất nội địa
trước thiệt hại do bán phá giá gây ra.
Như vậy, hiện tượng bán phá giá hàng hóa nhập khẩu không đương
nhiên đưa đến kết quả là hàng hóa nhập khẩu có lợi thế cạnh tranh so với sản
phẩm cạnh tranh nội địa. Ngược lại, khi hàng hóa nhập khẩu có ưu thế cạnh
tranh về giá so với sản phẩm nội địa, không nên vội vàng kết luận có hiện
tượng bán phá giá. Vấn đề được đặt ra là cần có cơ chế để phân biệt hiện
tượng bán phá giá hàng hóa nhập khẩu với việc hàng hóa nhập khẩu được bán
với giá rẻ do có lợi thế cạnh tranh lành mạnh; cần phân biệt bán phá giá có
khả năng hay không có khả năng gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa.
Có thể nói, chống bán phá giá là biện pháp có tần suất được sử dụng
nhiều nhất trong nhóm các biện pháp phòng vệ thương mại. Theo thống kê
của trang http://www.antidumpingpublishing.com, có thể nhận thấy từ năm
22. 15
1995 tính đến hết năm 2011, đã có 656 cuộc điều tra chống bán phá giá được
khởi xướng bởi Ấn Độ, 458 cuộc điều tra được khởi xướng bởi Hoa Kỳ, 437
cuộc được tiến hành bởi EU, 291 cuộc được tiến hành bởi Argentina, 235
cuộc được tiến hành bởi Úc, 191 cuộc được tiến hành bởi Trung Quốc, trong
đó Trung Quốc cũng là quốc gia dẫn đầu trong số các quốc gia là đối tượng
điều tra chống bán phá giá trong giai đoạn này với 853 vụ, tiếp theo đó là Hàn
Quốc với 284 vụ, Hoa Kỳ 234 vụ, Đài Loan 211 vụ, Indonexia 165 vụ, Nhật
Bản 165 vụ và EU 87 vụ…Việt Nam không có mặt trong số 20 quốc gia dẫn
đầu về bị khởi kiện chống bán phá giá cũng như khởi xướng điều tra chống
bán phá giá [40].
Pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá
Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam còn
mới mẻ trong cả nhận thức pháp lý và kinh nghiệm áp dụng. Trước năm 1997,
vấn đề chống bán phá giá chưa được pháp luật ghi nhận. Pháp luật về quản lý
giá trong thời kỳ này chủ yếu quy định về những biện pháp bình ổn giá như
định giá, ban hành khung giá, hiệp thương giá và niêm yết giá. Văn bản pháp
luật đầu tiên đề cập đến vấn đề bán phá giá là Luật Thương mại năm 1997,
Điều 8 của đạo luật này đã xếp hành vi bán phá giá là một trong số những
hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Người thực hiện hành vi cạnh tranh
không lành mạnh có thể bị xử phạt hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự
nếu đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm; và phải bồi thường thiệt hại cho cá nhân,
tổ chức khác nếu hành vi đó gây ra thiệt hại [63, k 13 đ 257, đ 258]. Tuy
nhiên, Luật Thương mại 1997 chỉ gọi tên mà chưa đưa ra được cấu thành
pháp lý của hành vi bán phá giá. Mặt khác việc sử dụng các biện pháp chế tài
hành chính, hình sự đối với phá giá hàng nhập khẩu thực sự không phù hợp
với pháp luật thương mại quốc tế hiện đại. Vì thế, các quy định của Luật
Thương mại 1997 về bán phá giá đã không được áp dụng trên thực tế. Vấn đề
sử dụng công cụ thuế trong đấu tranh chống phá giá được quy định lần đầu
23. 16
tiên tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu số 04/1998/QH10 ngày 20/05/1998, cho phép áp dụng thuế bổ sung đối
với hàng nhập khẩu bán phá giá vào Việt Nam. Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ số 46/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 về quản lý xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-2005 cũng quy định về việc xây dựng nguyên tắc
áp dụng thuế chống bán phá giá trong năm 2001. Khoản 2 Điều 1 Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu quy định : hàng
hóa nhập khẩu trong các trường hợp sau ngoài việc chịu thuế xuất khẩu nhập
khẩu theo Khoản 1 của điều này còn phải chịu thuế bổ sung: Hàng hóa được
nhập khẩu vào Việt Nam với giá bán của hàng đó quá thấp so với giá trị thông
thường do được bán phá giá, gây khó khăn cho sự phát triển ngành sản xuất
hàng hoá tương tự của Việt Nam. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật về
bán phá giá vẫn không thể áp dụng vì chưa có cơ chế điều tra, xử lý phù hợp.
Ngày 29 tháng 04 năm 2004, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp
lệnh chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu. Văn bản pháp luật này chính
thức có hiệu lực vào ngày 01 tháng 10 năm 2004. Có thể khẳng định, Pháp
lệnh chống bán phá giá hàng nhập khẩu được coi là văn bản pháp luật đầu tiên
của Việt Nam điều chỉnh một cách toàn diện vấn đề này. Ngoài Pháp lệnh
chống bán phá giá, trong hệ thống các văn bản pháp luật về vấn đề này còn có
Nghị định 90/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 07 năm 2005 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào
Việt Nam; Nghị định 04/2005/NĐ-CP ngày 09 tháng 1 năm 2006 về việc
thành lập và quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ; Nghị
định 06/2005/NĐ-CP ngày 09 tháng 1 năm 2006 quy định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ
công thươn; Thông tư số 106/2005/TT-BTC về việc hướng dẫn thu nộp thuế
24. 17
chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và các khoản đảm bảo thanh toán thuế
chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp.
Tại Việt Nam, trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, việc triển khai
Pháp lệnh chống bán phá giá có ý nghĩa rất quan trọng đối với mục tiêu phát
triển kinh tế, xã hội. Thực tế cho thấy khi hàng rào thuế quan dần dần được
cắt giảm theo lộ trình mở cửa thị trường, luồng hàng hóa nhập khẩu vào Việt
Nam sẽ có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn. Mặt khác, các tập đoàn lớn với sức
mạnh tài chính có thể thực hiện hành vi thương mại không công bằng nhằm
thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. Vì vậy, công cụ chống bán phá giá khi
được tận dụng một cách hợp lý, phù hợp với các quy định của các hiệp định
mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập sẽ giúp hạn chế được thiệt hại đáng kể
hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể mà luồng hàng hóa nhập khẩu bị bán phá
giá gây ra cho ngành sản xuất trong nước.
Về nội dung, pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu của
Việt Nam quy định về các vấn đề sau:
- Đặt ra các căn cứ pháp lý để xác định việc hàng hóa nhập khẩu vào
Việt Nam bán phá giá; xác định thiệt hại đáng kể hoặc nguy cơ gây ra thiệt
hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước; và mối quan hệ nhân quả giữa
việc bán phá giá và thiệt hại;
- Xây dựng thủ tục điều tra và xử lý vụ việc chống bán phá giá: bao
gồm các quy định về quá trình điều tra, áp dụng thuế chống bán phá giá như:
thời hạn điều tra, nội dung hồ sơ khiếu nại, việc thu thập, xử lý và sử dụng
các thông tin, quyền tố tụng của các bên liên quan, việc áp dụng biện pháp
tạm thời, biện pháp chống bán phá giá chính thức, thủ tục rà soát quyết định
áp dụng biện pháp chống bán phá giá…;
- Tổ chức hệ thống cơ quan thực thi pháp luật chống bán phá giá bao
gồm cơ quan điều tra và Hội đồng xử lý vụ việc. Trong nội dung này, pháp
25. 18
luật tập trung quy định về việc thành lập, thẩm quyền, chức năng và cơ cấu tổ
chức của cơ quan điều tra vụ việc chống bán phá giá, Hội đồng xử lý vụ việc
và các quyết định của Bộ trưởng Bộ công thương để xử lý vụ việc.
Các biện pháp chống bán phá giá
Pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá ghi nhận các biện pháp
chống bán phá giá bao gồm: Áp dụng thuế chống bán phá giá hoặc cam kết về
các biện pháp loại trừ bán phá giá của tổ chức, cá nhân sản xuất, xuất khẩu
hàng hóa bị yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp chống bán phá giá của Việt Nam
hoặc với các nhà sản xuất trong nước nếu được cơ quan có thẩm quyền áp
dụng các biện pháp chống bán phá giá của Việt Nam đồng ý.
Điều kiện áp dụng các biện pháp chống bán phá giá
Tuy nhiên, biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng đối với
hàng hóa bán phá giá vào Việt Nam khi đảm bảo các điều kiện: Hàng hóa bị
bán phá giá vào Việt Nam và biên độ bán phá giá phải được xác định cụ thể,
việc bán phá giá hàng hóa nhập khẩu đó là nguyên nhân gây ra hoặc đe dọa
gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự trong nước.
Cơ sở tiến hành điều tra để áp dụng biện pháp chống bán phá giá
Cơ sở để cơ quan có thẩm quyền có thể tiến hành điều tra để áp dụng
biện pháp chống bán phá giá là khi có hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống
bán phá giá của tổ chức, cá nhân đại diện cho ngành sản xuất trong nước hoặc
khi Bộ trưởng Bộ Thương mại yêu cầu điều tra khi có bằng chứng rõ ràng về
việc bán phá giá hàng hóa gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho
ngành sản xuất trong nước.
Áp dụng biện pháp chống bán phá giá
Theo các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về chống bán
phá giá, biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng sau khi cơ quan chức
26. 19
năng của Chính phủ đã hoàn thành điều tra để áp dụng biết pháp chống bán
phá giá theo trình tự, thủ tục quy định. Cụ thể, đối với áp dụng thuế chống
bán phá giá tạm thời, thì trong trường hợp cần thiết, sau 60 ngày kể từ ngày
có quyết định điều tra, trên cơ sở kết luận sơ bộ, cơ quan điều tra có thể kiến
nghị Bộ trưởng Bộ Công thương (trước đây là Bộ Thương mại) áp dụng thuế
chống bán phá giá tạm thời trước khi có kết quả điều tra cuối cùng nhằm ngăn
chặn các hậu quả xấu gây ra cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự trong
nước. Tuy nhiên, thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời không
được vượt quá 120 ngày, kể từ ngày có quyết định áp dụng. Trong trường hợp
áp dụng biện pháp cam kết, thì sau khi có kết luận sơ bộ và trước khi kết thúc
giai đoạn điều tra, tổ chức, cá nhân sản xuất hoặc xuất khẩu hàng hóa thuộc
đối tượng điều tra có thể đưa ra cam kết với Bộ Công thương hoặc với các
nhà sản xuất trong nước nếu được cơ quan có thẩm quyền đồng ý. Bộ trưởng
Bộ Công thương có thể chấp nhận hoặc không, hoặc đề nghị điều chỉnh nội
dung cam kết trên cơ sở tự nguyện. Các bên có cam kết được chấp nhận phải
định kỳ cung cấp cho cơ quan điều tra thông tin, tài liệu liên quan đến việc
thực hiện cam kết và chứng minh tính chính xác của các thông tin đó theo
quyết định của Bộ trưởng Bộ Công thương. Trường hợp các bên liên quan
không thực hiện đúng theo cam kết, gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng
kể cho ngành sản xuất trong nước, Bộ trưởng Bộ Công thương ra quyết định
tiến hành điều tra để áp dụng biện pháp chống bán phá giá hoặc ra quyết định
áp dụng biện pháp chống bán phá giá theo quy định của Pháp lệnh chống bán
phá giá.
Trong trường hợp không đạt được cam kết, căn cứ vào kết luận cuối
cùng và kiến nghị của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, Bộ trưởng
Bộ Công thương ra quyết định về việc áp dụng thuế chống bán phá giá. Trong
trường hợp này, thuế suất thuế chống bán phá giá không được vượt quá biên
độ bán phá giá trong kết luận cuối cùng và chỉ được áp dụng trong thời hạn
27. 20
không quá 05 năm, kể từ ngày có quyết định áp dụng biện pháp chống bán
phá giá. Thời hạn này có thể được gia hạn khi Bộ trưởng Bộ Công thương
quyết định rà soát việc áp dụng thuế chống phá giá theo trình tự, thủ tục quy
định tại Pháp lệnh chống bán phá giá.
1.2.2. Biện pháp chống trợ cấp
Quy định của WTO và thực tiễn áp dụng biện pháp chống trợ cấp
Trên thực tế, so với các biện pháp phòng vệ thương mại khác như thuế
chống bán phá giá và biện pháp tự vệ, biện pháp thuế chống trợ cấp được áp
dụng hạn chế hơn. Cùng với sự ra đời của WTO, Hiệp định về Chống trợ cấp
và Các biện pháp đối kháng (Agreement on Subsidies and Countervailing
Measures - SCM) bao gồm các nguyên tắc chung có liên quan đến trợ cấp và
biện pháp đối kháng mà tất cả các thành viên WTO phải tuân thủ cũng được
chính thức ban hành, và có hiệu lực đối với tất cả các nước thành viên của
WTO. Hiệp định này đưa ra các tiêu chuẩn rất nghiêm ngặt và chi tiết cho
việc áp dụng thuế chống trợ cấp, do vậy các nước rất khó tùy tiện áp dụng
thuế chống trợ cấp như trước. Đồng thời, các cam kết cắt giảm trợ cấp xuất
khẩu và hỗ trợ trong nước đối với các mặt hàng nông sản theo quy định của
Hiệp định nông nghiệp cũng góp phần hạn chế ý định và khả năng áp dụng
thuế chống trợ cấp đối với các mặt hàng nhạy cảm này. Cùng với những lý do
chính trị khác, thuế chống trợ cấp gần như ít được các nước thành viên áp dụng.
Sau khi WTO ra đời, từ năm 1995, các nước thành viên WTO, xuất
phát từ thực tế là bản thân các nước đều có các chính sách trợ cấp đối với
ngành sản xuất trong nước, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, do vậy đã
tiến hành không ít các cuộc điều tra áp dụng biện pháp chống trợ cấp. Các
chương trình trợ cấp không chỉ được các quốc gia đang phát triển áp dụng mà
còn tương đối phổ biến ở các quốc gia phát triển.
28. 21
Theo Hiệp định SCM, khi các chương trình trợ cấp của một nước có
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới hàng hóa xuất khẩu và việc trợ cấp đó
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất hàng hóa
tương tự của nước nhập khẩu, nước nhập khẩu đó có thể áp dụng các biện
pháp đối kháng để chống lại ảnh hưởng bóp méo thương mại của các chương
trình trợ cấp. Điều này có nghĩa, biện pháp chống trợ cấp, cùng với biện pháp
chống bán phá giá, được WTO công nhận là một trong những công cụ hợp
pháp để bảo vệ ngành sản xuất trong nước chống lại ảnh hưởng tiêu cực của
các chương trình trợ cấp.
Theo thống kê của WTO, từ năm 1995 đến 6/2008, số lượng các vụ
việc điều tra trong lĩnh vực chống trợ cấp là 209 vụ. Hoa Kỳ là nước có số vụ
việc điều tra lớn nhất với tổng số 85 vụ, tiếp theo là EU 47 vụ, thứ ba là
Canada 22 vụ. Một điểm hơi khác biệt trong các vụ kiện chống trợ cấp so với
vụ kiện chống bán phá giá của các nước trên thế giới là Ấn Độ giữ vị trí nước
bị khởi kiện điều tra trợ cấp nhiều nhất với số lượng 45 vụ, cao hơn hẳn so
với nước đứng thứ hai là Trung Quốc (19 vụ), Hàn Quốc (16 vụ), 6/10 nước
bị kiện chống trợ cấp là các nước châu Á, là nước đang phát triển và nước
công nghiệp mới như Hàn Quốc và Đài Loan do chính sách trợ cấp đóng một
vai trò khá quan trọng cho việc phát triển kinh tế và phát triển các ngành công
nghiệp nội địa của những nước nêu trên.
Pháp luật Việt Nam về chống trợ cấp
Ở Việt Nam, việc triển khai thực hiện Pháp lệnh chống trợ cấp là khá
khó khăn do sự nhạy cảm về chính trị và tính chất phức tạp về kỹ thuật của
một cuộc điều tra chống trợ cấp. Tuy nhiên, để phục vụ tốt cho mục tiêu bảo
vệ ngành sản xuất trong nước, các khâu chuẩn bị triển khai Pháp lệnh này
cũng cần được chú trọng. Biện pháp thuế đối kháng cần được chuẩn bị sẵn
sàng để ngành sản xuất hàng hóa chịu ảnh hưởng trong nước có thể lựa chọn
29. 22
và sử dụng như một công cụ thay thế cho công cụ chống bán phá giá một cách
phù hợp và trong trường hợp cần thiết.
Pháp luật Việt Nam hiện hành về chống trợ cấp được quy định tại
Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 22/2004-PLUBTVQH ngày
20/8/2004 về việc chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, Nghị
định số 89/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 hướng dẫn chi tiết thi hành Pháp
lệnh chống trợ cấp, Nghị định 04/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Hội đồng xử lý vụ việc
chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ; Nghị định 06/2006/NĐ-CP về việc
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý
cạnh tranh và Thông tư số 106/2005/TT-BTC về việc hướng dẫn thu nộp thuế
chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và các khoản đảm bảo thanh toán thuế
chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp.
Các biện pháp chống trợ cấp
Các biện pháp chống trợ cấp theo pháp luật Việt Nam bao gồm: áp dụng
thuế chống trợ cấp; chấp nhận cam kết của tổ chức, cá nhân hoặc của Chính
phủ nước hoặc vùng lãnh thổ sản xuất, xuất khẩu với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền của Việt Nam về việc tự nguyện chấm dứt trợ cấp, giảm mức trợ cấp,
cam kết điều chỉnh giá xuất khẩu hoặc áp dụng các biện pháp thích hợp khác.
Điều kiện áp dụng biện pháp chống trợ cấp
Biện pháp chống trợ cấp chỉ được áp dụng đối với hàng hóa được trợ
cấp nhập khẩu vào Việt Nam khi có đủ các điều kiện sau: (i) Hàng hóa nhập
khẩu được xác định có trợ cấp theo quy định của Pháp lệnh chống trợ cấp, và
(ii) hàng hóa nhập khẩu là nguyên nhân gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại
đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.
Cơ sở tiến hành điều tra để áp dụng biện pháp chống trợ cấp
Việc điều tra để áp dụng biện pháp chống trợ cấp có thể được tiến
hành dựa trên cơ sở hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống trợ cấp của tổ
30. 23
chức, cá nhân đại diện cho ngành sản xuất trong nước, hoặc Bộ trưởng Bộ
Công thương có thể ra quyết định điều tra khi có bằng chứng rõ ràng về việc
hàng hóa được trợ cấp nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra
thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.
Áp dụng biện pháp chống trợ cấp
Biện pháp chống trợ cấp chỉ được áp dụng sau khi cơ quan chức năng
của Chính phủ đã hoàn thành điều tra để áp dụng biện pháp chống trợ cấp
theo trình tự, thủ tục quy định trong Pháp lệnh chống trợ cấp và các văn bản
hướng dẫn thi hành Pháp lệnh. Cụ thể, sẽ áp dụng thuế chống trợ cấp tạm thời
trong trường hợp cần thiết, sau 60 ngày kể từ ngày có quyết định điều tra, trên
cơ sở kết luận sơ bộ, cơ quan điều tra có thể kiến nghị Bộ trưởng Bộ Công
thương áp dụng thuế chống trợ cấp tạm thời trước khi có kết quả điều tra cuối
cùng nhằm ngăn chặn các hậu quả xấu gây ra cho ngành sản xuất hàng hóa
tương tự trong nước. Tuy nhiên, thời hạn áp dụng thuế chống trợ cấp tạm thời
không được vượt quá 120 ngày, kể từ ngày có quyết định áp dụng.
Có thể áp dụng biện pháp cam kết, sau khi có kết luận sơ bộ và trước
khi kết thúc giai đoạn điều tra, cá nhân, tổ chức sản xuất hoặc xuất khẩu hàng
hóa thuộc đối tượng điều tra có thể đưa ra cam kết với Bộ Công thương hoặc
với các nhà sản xuất trong nước nếu được cơ quan có thẩm quyền đồng ý. Bộ
trưởng Bộ Công thương có thể chấp nhận, không chấp nhận hoặc đề nghị điều
chỉnh nội dung cam kết trên cơ sở tự nguyện. Các bên có cam kết được chấp
nhận phải định kỳ cung cấp cho cơ quan điều tra thông tin, tài liệu liên quan
đến việc thực hiện cam kết và chứng minh tính chính xác của các thông tin đó
theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Công thương. Trường hợp các bên liên
quan không thực hiện đúng theo cam kết, gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại
đáng kể cho ngành sản xuất trong nước, Bộ trưởng Bộ Công thương ra quyết
định tiếp tục tiến hành điều tra để áp dụng biện pháp chống trợ cấp hoặc ra
31. 24
quyết định áp dụng biện pháp chống trợ cấp theo quy định của Pháp lệnh
chống trợ cấp.
Sẽ áp dụng thuế chống trợ cấp trong trường hợp không đạt được cam
kết, căn cứ vào kết luận cuối cùng và kiến nghị của Hội đồng xử lý vụ việc
chống trợ cấp, Bộ trưởng Bộ Công thương ra quyết định về việc áp dụng thuế
chống trợ cấp. Theo Pháp lệnh chống trợ cấp, thuế suất thuế chống trợ cấp
không được vượt quá mức trợ cấp được xác định trong kết luận cuối cùng và
chỉ được áp dụng trong thời hạn không quá 5 năm kể từ ngày có quyết định áp
dụng. Thời hạn này có thể được gia hạn trong trường hợp Bộ trưởng Bộ Công
thương ra quyết định rà soát việc áp dụng thuế chống trợ cấp theo trình tự, thủ
tục quy định tại Pháp lệnh chống trợ cấp.
1.2.3. Biện pháp tự vệ
Khái niệm biện pháp tự vệ
Trong thương mại quốc tế, biện pháp tự vệ là việc tạm thời hạn
chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng hóa khi việc nhập khẩu
chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho
ngành sản xuất trong nước. Biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hóa,
không áp dụng đối với dịch vụ, đầu tư hay sở hữu trí tuệ.
Quy định của WTO và thực tiễn áp dụng biện pháp tự vệ
Mỗi nước thành viên WTO đều có quyền áp dụng biện pháp tự vệ,
nhưng khi áp dụng thì họ phải bảo đảm tuân theo các quy định của WTO về
điều kiện, thủ tục, cách thức áp dụng biện pháp tự vệ.
Do bản chất của biện pháp tự vệ là được sử dụng để "đối phó" với
hành vi thương mại hoàn toàn bình thường (không có hành vi vi phạm pháp
luật hay cạnh tranh không lành mạnh) nên về hình thức, việc áp dụng biện
pháp tự vệ bị coi là đi ngược lại chính sách tự do hóa thương mại của WTO.
Tuy vậy, đây là biện pháp được hợp pháp hóa trong khuôn khổ WTO với các
32. 25
điều kiện chặt chẽ để tránh lạm dụng. Lý do của việc này là vì trong hoàn
cảnh buộc phải mở cửa thị trường và tự do hóa thương mại theo các cam kết
WTO, các biện pháp tự vệ là một hình thức "van an toàn" mà hầu hết các nước
nhập khẩu là thành viên WTO đều mong muốn. Với "chiếc van" này, nước
nhập khẩu có thể ngăn chặn tạm thời luồng nhập khẩu để giúp ngành sản xuất
nội địa của mình tránh những đổ vỡ trong một số trường hợp đặc biệt khó khăn.
Do đi ngược lại mục tiêu "tự do hóa thương mại" nên mặc dù biện
pháp tự vệ được thừa nhận trong thương mại quốc tế nhưng biện pháp này là
một công cụ "phải trả tiền". Điều này có nghĩa là các nước được phép áp dụng
nó bảo vệ ngành sản xuất của nước mình nhưng phải "trả giá" cho những thiệt
hại mà biện pháp này gây ra cho các nhà sản xuất nước ngoài (như một hình
thức cân bằng cam kết thương mại với nước khác). Cụ thể, nước áp dụng biện
pháp tự vệ phải bồi thường thương mại cho các nước có hàng hóa bị áp dụng
biện pháp tự vệ theo các điều kiện nhất định. Nếu nước này không tuân thủ,
WTO cho phép các nước liên quan được áp dụng biện pháp trả đũa.
Trong hệ thống các văn bản của WTO, các nguyên tắc về việc sử dụng
biện pháp tự vệ trong WTO được quy định tại Điều XIX GATT 1994 và Hiệp
định về biện pháp tự vệ (Agreement on Safeguard Measures - Hiệp định SG).
Các quốc gia thành viên khi xây dựng pháp luật nội địa về biện pháp tự vệ có
nghĩa vụ tuân thủ các nguyên tắc này của WTO. Các vụ kiện, việc điều tra và
áp dụng biện pháp tự vệ trên thực tế được tiến hành theo pháp luật nội địa của
từng nước nhập khẩu trên cơ sở phù hợp với quy định liên quan của WTO.
Theo tổng kết của WTO, từ năm 1995 - 2008, các nước thành viên của
WTO đã tiến hành 164 cuộc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ, trong đó năm
2002 là năm cao nhất (34 vụ). Phần lớn các nước áp dụng biện pháp tự vệ là
nước không thuộc khối các nước phát triển OECD. Trong số này, 87 vụ việc
(chiếm khoảng 65%) được thực hiện bởi các nước đang phát triển. Các mặt
hàng bị điều tra áp dụng biện pháp tự vệ từ năm 1995 - 2008 chủ yếu là: hóa
33. 26
chất, kim loại và các sản phẩm từ kim loại, thực phẩm và các sản phẩm nông
nghiệp và các sản phẩm kính và gạch lát.
Điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ
Một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã
tiến hành điều tra và chứng minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện
sau: (i) Hàng hóa liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng; (ii)
Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hóa đó
bị thiệt hại hoặc đe dọa bị thiệt hại nghiêm trọng; và (iii) Có mối quan hệ
nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại hoặc đe dọa
thiệt hại nói trên. Và một điều kiện chung là tình trạng nói trên phải là hệ quả
của việc thực hiện các cam kết trong WTO của các thành viên mà họ không
thể thấy hoặc lường trước được khi đưa ra cam kết.
Song song với các điều kiện chung này, một số nước khi gia nhập
WTO phải đưa ra những cam kết riêng liên quan đến biện pháp tự vệ. Trường
hợp của Việt Nam, không có ràng buộc hay bảo lưu nào lớn về các biện pháp
tự vệ này, do đó việc áp dụng biện pháp tự vệ ở Việt Nam đối với hàng hóa
nước ngoài, nếu có, sẽ tuân thủ đầy đủ các quy định của Hiệp định SG.
Thủ tục áp dụng biện pháp tự vệ
Khác với trường hợp các vụ kiện chống bán phá giá hay chống trợ
cấp, WTO không có nhiều quy định chi tiết về trình tự, thủ tục kiện áp dụng
biện pháp tự vệ. Tuy nhiên, Hiệp định về Biện pháp tự vệ của WTO có đưa ra
một số các nguyên tắc cơ bản mà tất cả các thành viên phải tuân thủ khi áp
dụng biện pháp này.
Cụ thể, các quốc gia thành viên khi áp dụng biện pháp tự vệ phải đảm
bảo tính minh bạch (quyết định khởi xướng vụ điều tra tự vệ phải được thông
báo công khai; báo cáo kết luận điều tra phải được công khai vào cuối cuộc
điều tra…); ngoài ra phải đảm bảo quyền tố tụng của các bên (các bên liên
quan phải được đảm bảo cơ hội trình bày các chứng cứ, lập luận của mình và
trả lời các chứng cứ, lập luận của đối phương); phải đảm bảo bí mật thông tin
34. 27
(đối với thông tin có bản chất là mật hoặc được các bên trình với tính chất là
thông tin mật không thể được công khai nếu không có sự đồng ý của bên đã
trình thông tin); và các điều kiện về biện pháp tạm thời (phải là biện pháp
tăng thuế, và nếu kết luận cuối cùng của vụ việc là phủ định thì khoản chênh
lệch do tăng thuế phải được hoàn trả lại cho bên đã nộp, không được kéo dài
quá 200 ngày…)
Trên thực tế, một vụ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ thường đi theo
trình tự sau đây:
- Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ của ngành sản xuất nội địa
nước nhập khẩu;
- Khởi xướng điều tra;
- Điều tra và công bố kết quả điều tra về các yếu tố tình hình nhập
khẩu; tình hình thiệt hại; mối quan hệ giữa việc nhập khẩu và thiệt hại;
- Ra quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tự vệ
Một điều cần lưu ý là việc điều tra và áp dụng biện pháp tự vệ, mặc dù
có nhiều yếu tố giống một trình tự tố tụng tư pháp (một vụ kiện tại tòa án)
nhưng đây bản chất là một thủ tục hành chính, do một cơ quan hành chính
nước nhập khẩu tiến hành, để xử lý một tranh chấp thương mại giữa các nhà
xuất khẩu nước ngoài (về nguyên tắc là từ tất cả các nước đang xuất khẩu
hàng hóa liên quan vào nước nhập khẩu) và ngành sản xuất nội địa liên quan
của nước nhập khẩu. Việc này được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật nội
địa nước nhập khẩu và về nguyên tắc không phải là công việc giữa các Chính
phủ (Chính phủ các nước xuất khẩu và Chính phủ nước nhập khẩu). Tuy
nhiên, do vấn đề này đã được ràng buộc bởi các nguyên tắc bắt buộc có liên
quan trong Hiệp định SG của WTO nên các thành viên có thể thông qua WTO
để xử lý những trường hợp nước nhập khẩu tiến hành điều tra mà vi phạm WTO.
Pháp luật Việt Nam về biện pháp tự vệ
35. 28
Pháp luật Việt Nam về biện pháp tự vệ được ghi nhận cụ thể tại Pháp
lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH ngày 25/5/2012 về tự vệ trong nhập khẩu hàng
hóa nước ngoài vào Việt Nam, Nghị định số 150/2003/NĐ-CP ngày 8/12/2003
quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về tự vệ, Nghị định số 04/2006/NĐ-CP về
việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức
của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ; Nghị
định số 06/2006/NĐ-CP về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh. Các văn bản này quy định cụ thể
các biện pháp tự vệ, điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng các biện pháp đó
trong trường hợp nhập khẩu hàng hóa quá mức vào Việt Nam gây thiệt hại
nghiêm trọng cho sản xuất trong nước.
Các biện pháp tự vệ
Các biện pháp tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt
Nam gồm: tăng mức thuế nhập khẩu so với mức thuế nhập khẩu hiện hành, áp
dụng hạn ngạch nhập khẩu, áp dụng hạn ngạch thuế quan, áp dụng thuế tuyệt
đối, cấp phép nhập khẩu để kiểm soát nhập khẩu, phụ thu đối với hàng hóa
nhập khẩu và các biện pháp khác.
Điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ
Các biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu khi
có đủ các điều kiện sau đây:
- Khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa nhập khẩu gia tăng đột
biến một cách tuyệt đối hoặc tương đối so với khối lượng, số lượng hoặc trị
giá của hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp được sản xuất
trong nước;
- Việc gia tăng khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa nhập khẩu
đó gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng
hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp trong nước.
36. 29
Cơ sở tiến hành điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ
Việc tiến hành điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ chỉ được thực hiện
trên cơ sở có hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ của tổ chức, cá nhân đại
diện cho ngành sản xuất trong nước hoặc khi Bộ Công thương chủ động tiến
hành điều tra trong trường hợp có bằng chứng chứng minh sự cần thiết phải
áp dụng các biện pháp tự vệ.
Áp dụng biện pháp tự vệ
Bộ Công thương có thể ra quyết định áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời
trước khi kết thúc điều tra nếu thấy việc chậm thi hành các biện pháp tự vệ
gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong
nước và thiệt hại đó khó có thể khắc phục về sau. Biện pháp tự vệ tạm thời
chỉ được áp dụng dưới hình thức thuế nhập khẩu theo quy định của Luật thuế
xuất khẩu, nhập khẩu. Thời hạn áp dụng biện pháp này kết thúc khi có quyết
định của Bộ Công thương về việc áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tự
vệ nhưng trong mọi trường hợp không được vượt quá 200 ngày kể từ ngày bắt
đầu áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời.
Việc áp dụng các biện pháp tự vệ được tiến hành trên cơ sở quyết định
của Bộ trưởng Bộ Công thương. Theo quy định của Pháp lệnh tự vệ, các biện
pháp tự vệ có thể không được áp dụng đối với hàng hóa có xuất xứ từ các
nước kém phát triển. Thời hạn áp dụng các biện pháp tự vệ, bao gồm cả thời
gian áp dụng các biện pháp tự vệ tạm thời là không quá 04 năm. Thời hạn này
có thể được gia hạn một lần không quá 06 năm tiếp theo, với điều kiện vẫn
còn thiệt hại nghiêm trọng hoặc nguy cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho
ngành sản xuất trong nước và có các bằng chứng chứng minh rằng ngành sản
xuất hàng hóa tương tự đang thực hiện điều chỉnh nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước.
37. 30
Chương 2
CÁC QUY ĐỊNH VỀ PHÒNG VỆ THƢƠNG MẠI
TẠI HOA KỲ, LIÊN MINH CHÂU ÂU VÀ NHẬT BẢN
Trong số các thị trường trọng điểm của xuất khẩu Việt Nam, Liên
minh Châu Âu và Hoa Kỳ là hai thị trường có tần suất sử dụng các công cụ
phòng vệ thương mại lớn nhất, Nhật Bản tuy đến nay vẫn chưa áp dụng biện
pháp phòng vệ nào lên hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, tuy nhiên hàng hóa
Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản lại gặp phải các rào cản
thương mại cần lưu ý khác, như hàng rào kỹ thuật thương mại áp dụng với
hàng nông-lâm-thủy sản xuất khẩu của Việt Nam hay các biện pháp kiểm dịch
động thực vật, vệ sinh dịch tễ mà bản chất là các hàng rào trá hình đối với
thương mại quốc tế. Các nghiên cứu về pháp luật phòng vệ thương mại của
các quốc gia này dưới đây sẽ cung cấp thông tin cụ thể về đặc điểm của các
biện pháp này tại từng quốc gia, từ đó đưa ra những khuyến nghị cho các
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phòng tránh và đối phó với những rào cản
đang và sẽ có thể phổ biến hơn trong tương lai này, những rào cản mà theo
nhận định là sẽ gây ra nhiều trở ngại cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
2.1. CÁC QUY ĐỊNH VỀ PHÒNG VỆ THƢƠNG MẠI TẠI HOA KỲ
2.1.1. Tổng quan pháp luật Hoa Kỳ về phòng vệ thƣơng mại
2.1.1.1. Giới thiệu các biện pháp phòng vệ thương mại tại Hoa Kỳ
và đặc điểm của các biện pháp này
Về bản chất, các biện pháp phòng vệ thương mại là các công cụ được
phép của nước nhập khẩu áp dụng nhằm hạn chế sự cạnh tranh về hàng hóa từ
các công ty nước ngoài để bảo vệ lợi ích cho ngành công nghiệp nội địa. Do
đó, pháp luật Hoa Kỳ về phòng vệ thương mại được soạn thảo cũng với mục
đích hỗ trợ ngành sản xuất nội địa của Hoa Kỳ để đảm bảo ngành sản xuất
38. 31
trong nước được hưởng lợi từ các biện pháp đó. Đây được xem như một công
cụ hiệu quả của Hoa Kỳ trong sự cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài, xuất
phát từ đặc điểm và tính chất bảo hộ của các biện pháp này.
Nhìn chung, pháp luật Hoa Kỳ có nhiều điểm bất lợi cho doanh nghiệp
xuất khẩu nước ngoài. Pháp luật về chống bán phá giá nói riêng và phòng vệ
thương mại nói chung của Hoa Kỳ có từ những năm đầu thế kỷ XX, cụ thể là
năm 1916, sau đó được định hình rõ ràng trong Luật thuế quan năm 1930 và
từ đó đến nay tiếp tục được bổ sung thêm trở thành một hệ thống hoàn chỉnh
các quy định kỹ thuật phức tạp, tinh vi theo hướng bảo vệ tối đa quyền lợi của
các nhà sản xuất nội địa. Có thể dễ dàng nhận thấy các Hiệp định trong WTO
vẫn thể hiện một phần quan trọng quan điểm của Hoa Kỳ và do đó, hệ thống
pháp luật phòng vệ thương mại "mang tính bảo hộ" của Hoa Kỳ vẫn tiếp tục
được duy trì đến nay.
Tại Hoa Kỳ, biện pháp chống bán phá giá được áp dụng nhằm chống
lại hiện tượng hàng hóa nước ngoài được nhập khẩu vào Hoa Kỳ với giá thấp
hơn giá bán tại thị trường nội địa nước xuất khẩu hoặc nước thứ ba gây thiệt
hại đáng kể cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự nội địa Hoa Kỳ. Biện pháp
chống trợ cấp áp dụng nhằm chống lại hiện tượng bán hàng hóa nước ngoài
được trợ cấp của Chính phủ nước xuất khẩu vào Hoa Kỳ gây thiệt hại đáng kể
cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự nội địa Hoa Kỳ. Và biện pháp tự vệ
được áp dụng trong trường hợp cần bảo vệ ngành sản xuất nội địa Hoa Kỳ
trước hiện tượng hàng hóa nhập khẩu tăng đột biến gây thiệt hại nghiêm trọng
cho ngành này.
Ngoài các biện pháp phòng vệ nêu trên, Hoa Kỳ còn quy định nhiều
biện pháp phòng vệ thương mại khác áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu từ
nước ngoài vào Hoa Kỳ (ví dụ Biện pháp về sở hữu trí tuệ quy định tại
Chương 337 - Bộ Luật Tổng hợp USC của Hoa Kỳ; Biện pháp về tiếp cận thị
trường quy định tại Chương 301, Biện pháp hạn chế thương mại vì lý do an
ninh tại Chương 232…). Tuy nhiên, tần suất sử dụng các biện pháp thuộc
39. 32
nhóm chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ là thường xuyên và rộng rãi
nhất.
Về tính chất, các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp của Hoa
Kỳ được sử dụng để chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh (bán phá
giá, bán hàng được trợ cấp) của nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài khi nhập
khẩu hàng vào Hoa Kỳ. Trường hợp của biện pháp tự vệ thì các hoạt động
cạnh tranh của nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài liên quan vẫn hoàn toàn
"lành mạnh" tuy nhiên lại gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất
nội địa Hoa Kỳ. Do có sự khác biệt cơ bản về tính chất mặc dù các thủ tục và
điều kiện điều tra gần tương tự nhau, hệ quả của nhóm các biện pháp chống
bán phá giá, chống trợ cấp không giống với trường hợp của biện pháp tự vệ.
Cụ thể, trong khi biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp là "biện pháp
trừng phạt" một chiều đối với nhà xuất khẩu có hành vi thương mại không
công bằng (chủ yếu thông qua việc bị áp dụng các mức thuế bổ sung khi nhập
khẩu mặt hàng liên quan vào Hoa Kỳ) mà Hoa Kỳ có thể thực hiện mà không
mất gì thì biện pháp tự vệ lại không phải biện pháp "miễn phí" như vậy: việc
xuất khẩu vào Hoa Kỳ của nhà sản xuất xuất khẩu nước ngoài bị hạn chế
(bằng các biện pháp như cấm nhập khẩu, áp dụng hạn ngạch, thuế bổ sung…
đối với sản phẩm liên quan) nhưng Hoa Kỳ cũng phải bồi thường cho nước
xuất khẩu (bằng cách giảm thuế cho các mặt hàng khác với trị giá thương mại
tương tự). Ngoài ra, khác biệt về tính chất này cũng tạo ra những khác nhau
trong điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ so với điều kiện áp dụng các biện pháp
chống bán phá giá, chống trợ cấp (ví dụ thiệt hại phải là nghiêm trọng, việc áp
dụng biện pháp tự vệ phải chịu nhiều hạn chế về thời gian và mức độ…).
Một đặc điểm nổi bật khác trong hệ thống pháp luật về phòng vệ thương
mại của Hoa Kỳ là những quy định đặc biệt phức tạp về thủ tục, đặc biệt là
thời hạn các trình tự thông báo, các bước tiến hành một hoạt động… Đây là
40. 33
những yếu tố được đánh giá là "làm nản lòng" các bị đơn nước ngoài cũng như
tước đoạt của họ khá nhiều quyền lợi thực chất khi lỡ không đáp ứng đúng.
Do đó, pháp luật về phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ đã và vẫn sẽ
tiếp tục là một hệ thống nhiều bất lợi cho các nhà sản xuất, xuất khẩu hàng
hóa nước ngoài nói chung và Việt Nam nói riêng.
2.1.1.2. Chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ theo pháp luật
Hoa Kỳ
Chống bán phá giá theo pháp luật Hoa Kỳ
Tại Hoa Kỳ, biện pháp chống bán phá giá được áp dụng nhằm chống
lại hiện tượng hàng hóa nước ngoài được nhập khẩu vào Hoa Kỳ với giá thấp
hơn giá bán tại thị trường nội địa nước xuất khẩu hoặc nước thứ ba gây thiệt
hại đáng kể cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự nội địa Hoa Kỳ.
Về thủ tục, một vụ điều tra chống bán phá giá tại Hoa Kỳ được tiến
hành theo các giai đoạn sau đây: (i) Đơn kiện được nộp; (ii) Khởi xướng điều
tra; (iii) Điều tra sơ bộ về thiệt hại; (iv) Điều tra sơ bộ về việc bán phá giá; (v)
Điều tra cuối cùng về bán phá giá; (vi) Điều tra cuối cùng về thiệt hại; (vii)
Quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá; (viii) Rà soát hành chính
hàng năm; (ix) Rà soát hoàng hôn.
Theo pháp luật Hoa Kỳ, một vụ điều tra chống bán phá giá có thể
được tiến hành trên cơ sở đơn kiện của một bên "liên quan" hoặc theo quyết
định của Bộ Thương mại (Department of Commerce - DOC) mà không cần
đơn kiện của ngành sản xuất nội địa.Những đối tượng có thể nộp đơn yêu cầu
điều tra chống bán phá giá bao gồm: Nhà sản xuất nội địa (sản xuất ra sản
phẩm tương tự với sản phẩm bị kiện); Tổ chức công đoàn; Hiệp hội doanh
nghiệp. Đơn kiện được nộp đồng thời cho cả DOC và Ủy ban Thương mại
Quốc tế Hoa Kỳ (International Trade Commission - ITC). Bên bị kiện trong
vụ kiện chống bán phá giá bao gồm: tất cả các nhà sản xuất, xuất khẩu mặt
41. 34
hàng bị kiện sang Hoa Kỳ; hiệp hội mà phần lớn các thành viên là các nhà sản
xuất, xuất khẩu mặt hàng bị kiện và Chính phủ nước xuất khẩu bị kiện. Trong
vòng 20 ngày (có thể được gia hạn), DOC sẽ tiến hành xem xét các vấn đề
ban đầu của đơn kiện để quyết định có chấp nhận đơn kiện và khởi xướng
điều tra chống bán phá giá hay không. Việc xem xét "tiền tố tụng" của DOC
đối với đơn kiện trong giai đoạn này chủ yếu tập trung vào hai vấn đề cơ bản:
tính đầy đủ của đơn kiện (đây là yếu tố xem xét bắt buộc) và tư cách khởi kiện
của nguyên đơn (chỉ xem xét khi có đơn khiếu nại về vấn đề này của bị đơn).
Điều tra sơ bộ trong vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp ở Hoa
Kỳ bao gồm 02 hoạt động riêng rẽ: điều tra sơ bộ về thiệt hại do ITC tiến
hành và điều tra sơ bộ về bán phá giá do DOC tiến hành. Các kết luận này có ý
nghĩa quan trọng đối với việc tiếp tục hoặc chấm dứt vụ điều tra. Trong thời
hạn 45 ngày kể từ ngày Đơn kiện được nộp, ITC sẽ phải ra kết luận sơ bộ về
thiệt hại mà ngành sản xuất sản phẩm tương tự của Hoa Kỳ phải chịu từ việc
nhập khẩu mặt hàng bị kiện. Thời hạn 45 ngày này là cố định, không có gia
hạn. Nếu ITC ra quyết định sơ bộ khẳng định có thiệt hại thì vụ điều tra được
tiếp tục. Ngược lại nếu ITC ra quyết định sơ bộ phủ định việc có thiệt hại thì vụ
điều tra chấm dứt ngay lập tức ở cả DOC và ITC. Thủ tục điều tra sơ bộ về
thiệt hại của ITC tương đối đơn giản. Sau đơn kiện khoảng một tuần, ITC sẽ
thông báo lịch trình cho việc điều tra sơ bộ về thiệt hại trên Công báo Liên
bang.
Trong thời hạn 160 ngày kể từ ngày có đơn kiện, DOC sẽ tiến hành
điều tra sơ bộ để xác định hàng hóa nhập khẩu có bị bán phá giá hay không.
Trường hợp vụ kiện đặc biệt phức tạp hoặc nếu nguyên đơn có yêu cầu thì các
thời hạn này có thể kéo dài đến 210 ngày. Thủ tục điều tra của DOC trong quá
trình này bao gồm: (i) DOC gửi Bảng câu hỏi điều tra chi tiết tới các nhà sản
xuất, xuất khẩu nước ngoài liên quan; (ii) Các nhà sản xuất, xuất khẩu nước
ngoài trả lời Bảng câu hỏi điều tra trong khoảng 30 ngày (45 ngày nếu được
42. 35
gia hạn) sau khi nhận được Bảng câu hỏi điều tra; (iii) Dựa trên Bảng câu hỏi
đã được trả lời, DOC sẽ tiến hành gửi các câu hỏi bổ sung, nếu có; (iv) DOC
có quyền tiến hành thẩm tra thực địa (tại nhà máy của các doanh nghiệp) để
xác minh các thông tin được khai trong bản trả lời Bảng câu hỏi (tuy nhiên
trên thực tế DOC hầu như không thực hiện việc thẩm tra thực địa trong giai
đoạn này mà chủ yếu trong giai đoạn điều tra cuối cùng).
Biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng nếu cả ITC và DOC đều kết luận
sơ bộ khẳng định có việc bán phá giá và có thiệt hại đáng kể gây ra bởi hiện
tượng nhập khẩu hàng hóa bị bán phá giá này vào Hoa Kỳ.
Thủ tục điều tra cuối cùng về thiệt hại phức tạp và lâu hơn thủ tục điều
tra sơ bộ. Thủ tục điều tra cuối cùng về thiệt hại của ITC bao gồm các hoạt
động: thu thập thông tin về thiệt hại, đánh giá các thông tin thu thập được (báo
cáo trước phiên điều trần, lập luận trước phiên điều trần, phiên điều trần, lập
luận sau phiên điều trần, báo cáo cuối cùng của ITC, bình luận về các số liệu,
ủy viên ITC bỏ phiếu). Thời hạn để ITC hoàn tất việc điều tra cuối cùng về
thiệt hại phụ thuộc vào kết luận sơ bộ của DOC. Theo đó, nếu DOC ra kết
luận sơ bộ phủ định về việc bán phá giá nhưng sau đó lại kết luận cuối cùng
khẳng định có bán phá giá thì thời hạn để ITC ra kết luận cuối cùng về thiệt
hại là 75 ngày kể từ ngày DOC ra kết luận cuối cùng. Nếu DOC ra kết luận sơ
bộ khẳng định có bán phá giá thì thời hạn để ITC ra kết luận cuối cùng về
thiệt hại là thời điểm muộn hơn trong hai thời điểm: (i) 120 ngày kể từ ngày
DOC ra kết luận sơ bộ, và (ii) 45 ngày kể từ ngày DOC ra kết luận cuối cùng.
Nếu các thời hạn để DOC ban hành kết luận sơ bộ và/hoặc cuối cùng được gia
hạn thì thời hạn ITC ra kết luận cuối cùng cũng được gia hạn tương ứng. Như
vậy là khoảng 280-420 ngày kể từ ngày có đơn kiện ITC sẽ ra kết luận cuối
cùng về thiệt hại trong vụ việc.
Sau khi DOC có kết luận cuối cùng khẳng định có hiện tượng hàng
nhập khẩu bán phá giá và ITC có kết luận cuối cùng khẳng định có thiệt hại
43. 36
và mối quan hệ nhân quả thì Bộ trưởng DOC sẽ ra lệnh áp thuế chống bán phá
giá và công bố lệnh này trên Công báo liên bang. DOC cũng đồng thời gửi
thông báo cho Cục Hải quan Hoa Kỳ với các hướng dẫn cụ thể cho cơ quan
này trong thủ tục đối với hàng hóa nhập khẩu là đối tượng của lệnh áp thuế.
Tiền thuế chính thức (cho phép thông quan chính thức) cho các lô hàng này sẽ
chỉ được xác định trong tương lai (căn cứ vào các rà soát hành chính hàng
năm).
Hoa Kỳ áp dụng phương pháp hồi tố trong việc áp dụng biện pháp
chống bán phá giá. Theo đó, các mức thuế được nêu trong Lệnh áp thuế
chống bán phá giá chỉ là tạm thời, được sử dụng làm căn cứ để tính mức ký
quỹ cho các lô hàng nhập khẩu liên quan sau thời điểm có lệnh áp thuế; mức
thuế chính thức sẽ được xác định bởi quá trình rà soát hành chính thực hiện
mỗi năm sau đó. Rà soát hành chính, vì thế, là quá trình tính toán biên độ bán
phá giá thực tế trong năm để xác định mức thuế chính thức của năm đó. Thủ
tục rà soát hành chính gần giống với điều tra ban đầu về phá giá. Rà soát hành
chính chỉ là điều tra về biên độ phá giá, không bao gồm điều tra về thiệt hại
như trong điều tra ban đầu. Kết quả rà soát hành chính sẽ là mức thuế chính
thức cho năm liền trước rà soát. Kết quả này cũng là mức thuế tạm thời áp
dụng cho năm liền sau rà soát này. Các rà soát hành chính cứ tiến hành như
vậy cho đến khi lệnh áp thuế được áp dụng hết 5 năm. Kết thúc giai đoạn này,
DOC và ITC sẽ tiến hành rà soát cuối kỳ (còn gọi là rà soát hoàng hôn) để
xem xét có tiếp tục lệnh áp thuế thêm 5 năm nữa hay chấm dứt thuế. Nếu cả
DOC và ITC sau quá trình rà soát hoàng hôn mà đi đến kết luận rằng việc
chấm dứt biện pháp chống bán phá giá sẽ dẫn tới hiện tượng tiếp diễn hoặc tái
diễn tình trạng phá giá và thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa Hoa Kỳ thì biện
pháp chống bán phá giá sẽ tiếp tục có hiệu lực thêm 5 năm nữa (và sau 5 năm
đó quy trình rà soát hoàng hôn này sẽ lặp lại tương tự). Nếu một trong hai
hoặc cả hai cơ quan (DOC hoặc ITC) kết luận phủ định (rằng việc bán phá giá
và/hoặc thiệt hại sẽ không tiếp tục hoặc tái diễn sau khi chấm dứt biện pháp
44. 37
chống bán phá giá) thì biện pháp này sẽ chính thức chấm dứt (chấm dứt hoàn
toàn vụ việc).
Chống trợ cấp theo pháp luật Hoa Kỳ
Điều tra chống trợ cấp về cơ bản được thực hiện theo trình tự, thủ tục
tương tự với điều tra chống bán phá giá. Cụ thể, cả hai biện pháp này đều
gồm có các bước sau: (i) Khởi xướng điều tra, (ii) Xác định thiệt hại sơ bộ,
(iii) Trả lời bảng câu hỏi, (iv) Quyết định sơ bộ của Bộ Thương mại, (v) Xác
minh, (vi) Những lập luận pháp lý sau khi xác minh, (vii) Kết luận cuối cùng
của Bộ Thương mại, (viii) Lệnh áp đặt thuế, (ix) Rà soát của Tòa án, và (x)
Rà soát hành chính. Trong các bước thủ tục này, một vài điểm là cố định,
không thể thay đổi trong khi có một số điểm lại rất linh hoạt. Dưới đây, sẽ
trình bày rõ hơn những khác biệt của thủ tục, trình tự điều tra chống trợ cấp so
với điều tra chống bán phá giá.
Thời hạn trong vụ điều tra trợ cấp cụ thể như sau:
Bảng 2.1. Thời hạn trong vụ điều tra trợ cấp theo pháp luật Hoa Kỳ
Giai đoạn Thời hạn
Ngày nộp đơn 0
Ngày khởi xướng điều tra 20 ngày
Kết luận sơ bộ về thiệt hại 45 ngày
Kết luận sơ bộ về trợ cấp 85-150 ngày
Kết luận cuối cùng về trợ cấp 160-225 ngày
Kết luận cuối cùng về thiệt hại 205-270 ngày
Nguồn: Trung tâm Thương mại Quốc tế (International Trade Center).
Khác với điều tra chống bán phá giá, ngay cả khi quyết định khởi
xướng điều tra, việc điều tra sẽ không được tiến hành tự động đối với tất cả
các chương trình trợ cấp bị cáo buộc trong Đơn kiện. Trên thực tế, đối với
từng chương trình trợ cấp bị cáo buộc, DOC sẽ xem xét: (i) có đủ bằng chứng