Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Luận văn thạc sĩ ngành phát triển bền vững: Phát triển bền vững du lịch sinh thái tại Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà, Thành phố Hải Phòng, cho các bạn tham khảo
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
Luận văn: Phát triển bền vững du lịch sinh thái tại đảo Cát Bà, HOT
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THỊ BÍCH THỦY
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG DU LỊCH SINH THÁI TẠI
KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN QUẦN ĐẢO CÁT BÀ,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
HÀ NỘI, 2018
2. LÊ THỊ THANH N
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THỊ BÍCH THỦY
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG DU LỊCH SINH THÁI TẠI
KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN QUẦN ĐẢO CÁT BÀ,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Ngành: Phát triển bền vững
Mã số: 831 03 13
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VÕ THANH SƠN
HÀ NỘI, 2018
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu nêu trong
luận văn là trung thực, những tài liệu tham khảo phục vụ cho luận văn được trích rõ
nguồn. Những kết luận và kiến nghị của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Các thông tin thứ cấp sử dụng trong luận văn là có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đầy đủ, trung thực và đúng qui cách.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận văn.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Bích Thủy
4. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG DU LỊCH SINH THÁI TẠI KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN................7
1.1. Các khái niệm.......................................................................................................7
1.2. Phát triển bền vững du lịch sinh thái tại KDTSQ.................................................11
1.3. Trách nhiệm của các bên liên quan trong phát triển du lịch sinh thái ở khu dự trữ
sinh quyển .................................................................................................................16
1.4. Kinh nghiệm thực tiễn phát triển du lịch sinh thái ở một số khu dự trữ sinh quyển...19
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG DU LỊCH SINH THÁI TẠI
KDTSQ QUẦN ĐẢO CÁT BÀ, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ................................26
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến phát triển bền vững du lịch sinh
thái tại KDTSQ quần đảo Cát Bà...............................................................................26
2.2. Thực trạng phát triển du lịch sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển quần đào Cát Bà34
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN DU LỊCH
SINH THÁI TẠI KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN QUẦN ĐẢO CÁT BÀ, THÀNH
PHỐ HẢI PHÒNG....................................................................................................57
3.1. Bối cảnh phát triển du lịch sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà
trong thời gian tới ......................................................................................................57
3.2. Quan điểm, định hướng và mục tiêu phát triển du lịch sinh thái ở khu dự trữ sinh
quyển quần đảo Cát Bà năm 2025, tầm nhìn 2050.....................................................59
3.3. Các nhóm giải pháp để tăng cường phát triển du lịch sinh thái trong phát triển bền
vững ở khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà .........................................................62
3.4. Danh mục các dự án đầu tư phát triển du lịch sinh thái theo hướng bền vững của
KDTSQ Quần đảo Cát Bà đến năm 2025, tầm nhìn đến 2050....................................66
KẾT LUẬN...............................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................72
5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
QL KDTSQ Ban Quản lý Khu dự trữ sinh quyển
DLST Du lịch sinh thái
ĐDSH Đa dạng sinh học
IUCN Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (International Union for
Conservation of Nature)
GDP Tổng sản phẩm nội địa (Gross Domestic Product)
KDTSQ Khu Dự trữ sinh quyển
UBND Ủy ban Nhân dân
UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (United
Nations Educational, Scientific and Cultural Organization)
VQG Vườn Quốc gia
VQG/KBTTN Vườn Quốc gia/Khu Bảo tồn thiên nhiên
6. DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Tiêu chí cơ bản đánh giá sự phát triển bền vững của du lịch sinh thái.........14
Bảng 2.2. Tổng hợp tài nguyên sinh học tại KDTSQ Quần đảo Cát Bà.......................35
Bảng 2.3. Tỉ lệ du khách tham gia các hoạt động du lịch ở KDTSQ Quần đảo Cát Bà
theo khảo sát năm 2018 (tính theo %)...........................................................................39
Bảng 2.4. Tỉ lệ du khách tham gia một số tuyến du lịch sinh thái ở KDTSQ Quần đảo
Cát Bà theo khảo sát năm 2018 (tính theo %)...............................................................41
Bảng 2.5. Tổng hợp khách thăm quan các tuyến du lịch tại VQG Càt Bà (người).......45
Bảng 3.1. Danh mục một số dự án đầu tư phát triển du lịch sinh thái theo hướng bền
vững ở KDTSQ Quần đảo Cát Bà.................................................................................67
7. DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1. Kim giao – loài gỗ quý của Vườn Quốc gia Cát Bà......................................29
Hình 2.2. Hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi Vườn Quốc gia Cát Bà .............................29
Hình 2.3. Nuôi thủy sản trên vịnh Lan Hạ ....................................................................32
Hình 2.4. Biểu đồ tỷ lệ du khách tham gia các hoạt động du lịch sinh thái ở KDTSQ
Quàn đảo Cát Bà theo khảo sát năm 2018.....................................................................32
Hình 2.5. Tỉ lệ du khách tham gia một số tuyến du lịch sinh thái ở KDTSQ Quần đảo
Cát Bà theo khảo sát năm 2018 .....................................................................................41
Hình 2.6. Phỏng vấn khách tham quan Vườn Quốc gia Cát Bà....................................47
Hình 2.7. Rác thải vứt bừa bãi trên đường lên tuyến rừng Kim Giao – Ngự Lâm.. .....50
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại cuộc họp toàn thể lần thứ 81 ngày 22/12/2015, Liên Hợp Quốc đã công bố năm
2017 là “Năm quốc tế về Du lịch bền vững để phát triển” [49]. Quyết định này công nhận
vai trò quan trọng của du lịch bền vững như một công cụ hữu hiệu nhằm xóa đói giảm
nghèo, bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống và trao quyền kinh tế cho phụ
nữ và thanh thiếu niên, đóng góp vào sự nghiệp phát triển bền vững, đặc biệt ở các nước
đang phát triển. Trên tinh thần đó, Công ước Đa dạng sinh học đã lựa chọn chủ đề “Đa
dạng sinh học và Du lịch bền vững” cho Ngày Quốc tế đa dạng sinh học 2017, nhằm tạo
cơ hội nâng cao nhận thức và hành động đối với những đóng góp quan trọng của du lịch
bền vững cho sự phát triển kinh tế, bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học đối với
cộng đồng [35].
Việt Nam là một trong 16 điểm nóng về đa dạng sinh học (ĐDSH) trên thế giới. Tuy
nhiên, dưới áp lực của gia tăng dân số, khai thác quá mức tài nguyên sinh vật và sự đánh
đổi với ưu tiên phát triển kinh tế, ĐDSH của Việt Nam đang trên đà bị suy giảm và suy
thoái nên cần có những biện pháp kịp thời và hiệu quả nhằm bảo tồn ĐDSH song song
với phát triển kinh tế, xã hội. Dựa trên tinh thần của công ước ĐDSH, cũng như định
hướng của Liên Hợp Quốc trong phát triển kinh tế, xã hội, du lịch bền vững đang là một
trong những hướng đi hiệu quả nhằm phát triển bền vững. Đặc biệt, với tiềm năng đã có
về ĐDSH của Việt Nam, du lịch sinh thái là một hướng đi đúng đắn và hiệu quả.
Hội thảo quốc tế về Bảo tồn và phát huy giá trị Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang –
Việt Nam, tổ chức tại Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang đã phân tích nhiều ví dụ cụ thể
về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển du lịch sinh thái, gắn với sử
dụng giá trị ĐDSH trong Khu dự trữ sinh quyển, đồng thời cũng đưa ra nhiều thách thức
trong công tác bảo tồn [10]. Việt Nam có 9 khu vực được công nhận là khu dự trữ sinh
quyển (KDTSQ) của thế giới, trong số 147 khu ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
[57]. KDTSQ Cần Giờ được công nhận sớm nhất vào năm 2000 và KDTSQ Langbiang
vừa được công nhận năm 2015 [57]. Năm 2004, KDTSQ Quần đảo Cát Bà được công
nhận, trở thành KDTSQ thứ 3 của Việt Nam [57]. Nơi đây còn là Danh lam thắng cảnh
9. 2
quốc gia, Di tích quốc gia đặc biệt, Khu bảo tồn biển có tầm quan trọng quốc gia và quốc
tế, đang nghiên cứu xây dựng Công viên địa chất và Khu DTSQ thiên nhiên thế giới
[1][22]. KDTSQ quần đảo Cát Bà là khu đầu tiên của Việt Nam đăng ký bản quyền Nhãn
hiệu chứng nhận KDTSQ gắn trên các sản phẩm có xuất xứ tại địa phương [52]. Từ năm
2009, KDTSQ Quần đảo Cát Bà đã được thiết lập là “Phòng thí nghiệm học tập về phát
triển bền vững” đầu tiên trên thế giới, áp dụng cách tiếp cận khoa học hệ thống vào thực
tiễn quản lý [29]. Năm 2012, trong đánh giá 20 năm thực hiện Lộ trình phát triển bền
vững (Rio+20), Chính phủ Việt Nam đã lựa chọn KDTSQ quần đảo Cát Bà là một Điển
hình quốc gia về thành tựu kết hợp bảo tồn và phát triển bền vững [7].
KDTSQ thế giới nói chung và KDTSQ Quần đảo Cát Bà nói riêng được xác định
được coi là phòng thí nghiệm sống để thực hành các giải pháp về phát triển bền vững,
trong đó khuyến khích các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đệm và vùng
chuyển tiếp gắn với yêu cầu bảo tồn tài nguyên và bảo vệ môi trường ở vùng lõi cũng như
yêu cầu phát triển bền vững ở vùng đệm và vùng chuyển tiếp [29]. Trong số các hoạt
động phát triển kinh tế - xã hội được khuyến khích ở KDTSQ Quần đảo Cát Bà thì hoạt
động phát triển du lịch sinh thái được xác định là ưu tiên vì phù hợp với chức năng và sứ
mệnh của KDTSQ.
Nhận thấy đây là một vấn đề cấp thiết không chỉ có vai trò quan trọng đối với phát
triển bền vững DLST ở quần đảo Cát Bà mà còn duy trì vốn có về đa dạng sinh học trong
phát triển du lịch nói chung và du lịch sinh thái nói riêng, tôi lựa chọn đề tài: “Phát triển
bền vững du lịch sinh thái tại Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà, Thành phố Hải
Phòng” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều những nghiên cứu khoa học về đa dạng sinh học, bảo vệ biển và bảo vệ
nguồn lợi hải sản biển cũng như bảo tồn các loài quý hiếm nguy cấp được tiến hành ở
KDTSQ quần đảo Cát Bà. Năm 1999, Đỗ Công Thung, Nguyễn Chu Hồi đã đánh giá khả
năng khai thác các hệ sinh thái biển điển hình phục vụ hoạt động du lịch Hạ Long - Cát
Bà [26]. Năm 2013, Tạ Hòa Phương và cs đánh giá giá trị địa chất của quần đảo Cát Bà
[46]. Những nghiên cứu đó đã cung cấp những tư liệu quý giá trong việc quản lí tài
10. 3
nguyên thiên nhiên quần đảo Cát Bà, từ đó đưa ra các chính sách phát triển du lịch nói
chung và du lịch sinh thái nói riêng phù hợp địa phương.
Bên cạnh đó, một số nghiên cứu về du lịch ở Cát Bà đã được tiến hành. Năm 1994,
Trần Đức thành và cs đã đánh giá tổng hợp các tiềm năng tự nhiên để phát triển du lịch
Cát Bà [47]. Năm 2012, Mai Văn Thành nghiên cứu về du lịch bền vững hệ thống tư duy
và hệ thống tiếp cận động lực học ở Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà của Việt Nam [41].
Năm 2014, VIJATECH, TEKKLINK tiến hành nghiên cứu, quy hoạch tổng thể phát triển
bền vững quần đảo Cát Bà năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 [33].
Một số nghiên cứu tập trung vào du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng ở quần đảo Cát
Bà. Năm 2007, Bùi Thị Hồng Nhung đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển du lịch bền
vững tại làng Việt Hải, Cát Bà [16]. Năm 2009, Vũ Huyền Trang nghiên cứu sự phát triển
du lịch sinh thái ở Vườn quốc gia Cát Bà [20]. Ngô Thị Thùy năm 2009 nghiên cứu hiện
trạng và giải pháp phát triển du lịch tại khu dự trữ sinh quyển thế giới Cát Bà [19]. Phạm
Văn Thương và cs năm 2010 nghiên cứu tiềm năng, thực trạng hoạt động và đề xuất giải
pháp phát triển du lịch sinh thái ở Vườn quốc gia Cát Bà – Thành Phố Hải Phòng [18]. Vũ
Thị Hằng năm 2010 nghiên cứu thực trạng phát triển du lịch cộng đồng trên đảo Cát Bà,
thành phố Hải Phòng [11]. Tuy nhiên, các nghiên cứu tập trung trên khía cạnh phát triển
du lịch, du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, chưa nghiên cứu sự phát triển du lịch theo
hướng phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các nghiên cứu đưa ra những định nghĩa cơ bản
về du lịch, du lịch sinh thái nhưng chưa thể hiện rõ nguyên tắc phát triển du lịch sinh thái
theo hướng bền vững, vai trò, trách nhiệm của các bên liên quan trong phát triển du lịch
sinh thái. Năm 2015, Ngô Thị Hằng đã đánh giá hiệu quả quản lí môi trường du lịch VQG
Cát Bà. Nghiên cứu đã đưa ra những đánh giá tương đối đầy đủ về hiệu quả quản lí môi
trường du lịch VQG Cát Bà [12]. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu vườn quốc gia, tác
giả chưa đề cập đến vùng biển trong KDTSQ quần đảo Cát Bà.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Nghiên cứu vấn đề phát triển du lịch sinh thái tại khu dự trữ sinh quyển
quần đảo Cát Bà, trên cơ sở lý luận và thực trạng đề xuất những giải pháp quản lý đảm
bảo yêu cầu phát triển du lịch sinh thái ở Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà theo
hướng bền vững.
11. 4
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Làm rõ cơ sở lý luận và khái quát kinh nghiệm về phát triển bền vững du lịch sinh
thái tại khu dự trữ sinh quyển.
+ Đánh giá thực trạng phát triển bền vững; hạn chế, thách thức trong phát triển bền
vững du lịch sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà .
+ Đề xuất giải pháp phát triển bền vững du lịch sinh thái tại khu dự trữ sinh quyển
quần đảo Cát Bà .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Phát triển bền vững du lịch sinh thái tại Khu dự trữ sinh
quyển Quần đảo Cát Bà.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Những số liệu nghiên cứu được thu thập từ 2004, là thời điểm Khu
dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà được công nhận, cho đến nay và những giải pháp tới
năm 2025 và tầm nhìn đến 2050.
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu tại khu dự trữ sinh quyển Quần đảo Cát Bà, tập
trung chủ yếu ở huyện Cát Hải là khu du lịch lớn nhất và cũng là trọng điểm du lịch của
Thành phố Hải Phòng.
- Về nội dung: Tập trung vào các hoạt động phát triển du lịch sinh thái ở khu dự trữ
sinh quyển Quần đảo Cát Bà.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm các phương pháp thông dụng trong
nghiên cứu phát triển như: Phân tích thống kê, so sánh, tổng hợp kết hợp với điều tra khảo
sát nhanh tại một số điểm du lịch, gồm quan sát tại chỗ, phỏng vấn nhanh cán bộ quản lý,
điều tra theo phiếu cộng đồng dân cư, các cơ sở dịch vụ và du khách tham quan (những
đối tượng tham gia trực tiếp vào hoạt động du lịch sinh thái).
Đặc biệt, tác giả luận văn đã thực hiện phỏng vấn sâu các cán bộ quản lý trong Ban
quản lý Khu dự trữ sinh quyển, UBND huyện Cát Hải, UBND các xã và Ban Quản lý
Vườn Quốc gia Cát Bà là 15 người, về các nội dung về thực trạng phát triển du lịch trên
địa bàn nghiên cứu cũng như sự quản lý của loại hình phát triển này của chính quyền địa
phương (Câu hỏi phỏng vấn sâu được trình bày trong Phụ lục 4); Khảo sát 03 nhóm đối
12. 5
tượng là cộng đồng dân cư thuộc các xã trong khu dự trữ sinh quyển, các cơ sở dịch vụ du
lịch và du khách tham quan với 50 phiếu phỏng vấn mỗi nhóm (Xem phụ lục 3). Các câu
hỏi phỏng vấn, khảo sát không chỉ giúp tác giả thu thập được những số liệu cần thiết về du
lịch sinh thái, bảo vệ môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học, mà còn giúp tác giả đưa ra
những dự báo, những giải pháp cho công tác quản lý DLST trong khu dự trữ sinh quyển
theo hướng bền vững trong tương lai.
Đồng thời luận văn cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu bàn giấy (desk study) là
thu thập các tài liệu, văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và bảo tồn đa dạng
sinh học; tham khảo các công trình nghiên cứu về phát triển du lịch sinh thái, phát triển
bền vững, trong đó:
Liên quan tới tài liệu thứ cấp, nghiên cứu chủ yếu sử dụng số liệu từ báo cáo tổng
kết, đánh giá của các sở, ban, ngành của thành phố Hải Phòng (Sở Tài nguyên và Môi
trường, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, Ban Quản lý Khu dự trữ sinh quyển quần đảo
Cát Bà) cũng như các báo cáo của Ủy Ban nhân dân thành phố Hải Phòng và huyện Cát
Hải cũng như các công trình nghiên cứu có liên quan và chúng được tổng hợp trong danh
mục tài liệu tham khảo.
Liên quan tới tài liệu sơ cấp, nghiên cứu sử dụng số liệu thông tin tác giả tự thu thập
qua phỏng vấn sâu một số cán bộ quản lý hoạt động trong lĩnh vực du lịch, thu thập qua
phiếu hỏi cộng đồng dân cư thuộc các xã trong khu dự trữ sinh quyển, các cơ sở dịch vụ
và du khách tham quan. Sự kết hợp các phương pháp nghiên cứu trong đánh giá, phân tích
còn thể hiện tính chất liên ngành trong nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Cung cấp luận cứ khoa học cho việc quản lý du lịch sinh thái theo hướng bền vững
thông qua trường hợp nghiên cứu một địa bàn cụ thể (Khu dự trữ sinh quyển Quần đảo
Cát Bà, thành phố Hải Phòng) và từ đó đóng góp vào tăng cường hiểu biết, nhận thức và
quán triệt sâu rộng chủ trương, quan điểm, mục tiêu phát triển du lịch sinh thái theo hướng
bền vững, bảo vệ môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học.
13. 6
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Thông qua đánh giá thực trạng DLST tại khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà,
thành phố Hải Phòng, cung cấp các căn cứ thực tiễn và các giải pháp phù hợp với đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về du lịch sinh thái và phát triển du lịch
sinh thái theo hướng bền vững, là một ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố Hải Phòng
cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận. Nội dung chủ yếu của luận văn được trình
bày trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phát triển bền vững du lịch sinh
thái tại khu dự trữ sinh quyển.
Chương 2: Thực trạng phát triển bền vững du lịch sinh thái tại khu dự trữ sinh quyển
quần đảo Cát Bà, thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tiếp tục phát triển du lịch sinh thái tại khu dự trữ
sinh quyển Quần đảo Cát Bà, thành phố Hải Phòng.
14. 7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
DU LỊCH SINH THÁI TẠI KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Du lịch
Theo luật du lịch 2017: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp
ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc
kết hợp với mục đích hợp pháp khác [23].
1.1.2. Du lịch sinh thái
Bên cạnh những loại hình du lịch truyền thống, du lịch sinh thái đang là một thị
trường phát triển đầy tiềm năng, trở thành một công cụ phát triển bền vững quan trọng. Về
cơ bản, du lịch sinh thái được định nghĩa là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên. Hiệp
hội Du lịch Sinh thái Quốc tế (TIES) (trước đây được gọi là Hiệp hội Du lịch Sinh thái
(TES)) đã đưa ra định nghĩa du lịch sinh thái đầu tiên năm 1991: "Du lịch sinh thái là du
lịch có trách nhiệm đối với tại các khu vực tự nhiên, nơi môi trường được bảo tồn và và
lợi ích của nhân dân địa phương được đảm bảo [55].
Năm 1996, IUCN (Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế) định nghĩa: "Du lịch
sinh thái là loại hình du lịch và tham quan có trách nhiệm với môi trường tại những vùng
còn tương đối nguyên sơ để thưởng thức và hiểu biết thiên nhiên (kèm theo các đặc trưng
văn hoá – cả trong quá khứ cũng như hiện tại) có hỗ trợ đối với bảo tồn, giảm thiểu tác
động từ khách du lịch, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của người dân
địa phương” [55].
Năm 1999, Martha Honey, chuyên gia về du lịch sinh thái, trong cuốn sách “Du
lịch sinh thái và phát triển bền vững: Ai sở hữu thiên đường” đã đưa ra định nghĩa:
DLST là du lịch tới những khu vực nhạy cảm và nguyên sinh được bảo vệ với mục
đích nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực ở quy mô nhỏ nhất. Nó giúp giáo dục du
khách, tạo quỹ cho hoạt động bảo tồn, trực tiếp đem lại sự phát triển kinh tế và sự tự
15. 8
quản lý cho người dân địa phương và nó khuyến khích tôn trọng các giá trị văn hoá và
quyền con người” [42].
Tháng 9/1999, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã phối hợp với Tổ chức Bảo tồn
Thiên nhiên thế giới (IUCN) và Ủy Ban Kinh tế - Xã hội châu Á - Thái Bình Dương
(ESCAP) tổ chức Hội thảo quốc tế về xây dựng khung chiến lược phát triển DLST làm
cơ sở cho việc xây dựng chiến lược phát triển du lịch Việt Nam, cũng như đẩy mạnh
hợp tác phát triển DLST của Việt Nam với các nước trong khu vực và quốc tế. Hội
thảo đã đưa ra định nghĩa: “DLST là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn
hoá bản địa, có tính giáo dục môi trường, đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn và phát
triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương [15].
Mặc dù định nghĩa về du lịch sinh thái có nhiều sự khác nhau, nhưng những đặc
trưng cốt lõi của du lịch sinh thái là:
• Dựa vào thiên nhiên và các nền văn hóa bản địa, chủ yếu ở các khu bảo tồn
thiên nhiên.
• Chú trọng vào sự nâng cấp và duy trì thiên nhiên, quản lý tài nguyên bền vững,
giảm thiểu tác động tiêu cực.
• Hỗ trợ cho công tác bảo tồn thiên nhiên.
• Mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương.
• Nâng cao hiểu biết của du khách về môi trường thiên nhiên và văn hoá bản địa.
• Đảm bảo cho nhu cầu thưởng thức của các thế hệ mai sau không bị ảnh hưởng bởi
du lịch ngày hôm nay.
1.1.3. Tài nguyên du lịch
Theo Pirojnik, 1985: “Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên, văn hoá và lịch sử
cùng các thành phần của chúng trong việc khôi phục và phát trển thể lực và trí lực của
con người, khả năng lao động và sức khoẻ của họ, những tài nguyên này được sử dụng
cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp cho việc sản xuất dịch vụ du lịch với nhu cầu thời
điểm hiện tại hay tương lai và trong điều kiện kinh tế – kỹ thuật cho phép” [36].
Theo Luật Du lịch 2005, tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự
nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá
trị nhân văn khác có thể sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch; là yếu tố cơ bản để
16. 9
hình thành khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch và đô thị du lịch [23]. Từ định
nghĩa trên, tài nguyên du lịch liên quan đến điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử - văn
hóa, kinh tế-xã hội tự nhiên hoặc nhân tạo được đưa vào khai thác trong các hoạt động
du lịch. Tài nguyên du lịch mang tính đặc thù cho từng khu vực, mỗi địa phương, mỗi
quốc gia, gắn với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Tài nguyên du lịch là yếu
tố cơ bản trong việc hình thành và phát triển du lịch.
Theo Tổ chức du lịch thế giới (WTO), tài nguyên du lịch gồm [36]:
- Tài nguyên du lịch thiên nhiên: Bao gồm các yếu tố tự nhiên như địa hình, khí
hậu, nguồn nước, động thực vật, cảnh quan, hệ sinh thái.
- Tài nguyên du lịch nhân văn: Bao gồm các di tích lịch sử - văn hoá, kiến trúc;
các lễ hội; các đối tượng gắn liền với yếu tố dân tộc học; các làng nghề thủ công
truyền thống; các đối tượng văn hoá, thể thao và hoạt động nhận thức khác.
1.1.4. Tài nguyên du lịch sinh thái
Tài nguyên du lịch sinh thái bao gồm tài nguyên du lịch thiên nhiên. Đặc biệt, du
lịch sinh thái tập trung ở những khu vực được bảo vệ như khu dự trữ thiên nhiên, vườn
quốc gia, khu bảo tồn thắng cảnh tự nhiên, khu bảo tồn loài/sinh cảnh, khu bảo tồn
cảnh quan đất liền/biển.
1.1.5. Khu dự trữ sinh quyển
“Dự trữ sinh quyển” được UNESCO đề xuất xướng trong chương trình “Con người
và sinh quyển” vào năm 1973-1974. KDTSQ được trao tặng cho những khu vực bao gồm
các hệ sinh thái trên cạn, biển và ven biển nhằm khuyến khích các giải pháp điều hòa việc
bảo tồn ĐDSH với việc sử dụng bền vững [50] [51].
KDTSQ là nơi tạo điều kiện cho sự gặp gỡ giữa con người và thiên nhiên, hài hoà
giữa nhu cầu phát triển và mục tiêu bảo tồn. Các KDTSQ được xem là nơi lý tưởng để thử
nghiệm và áp dụng các cách tiếp cận phát triển bền vững, tiếp cận hệ sinh thái, trong đó có
sự hài hoà giữa con người và thiên nhiên, giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường,
qua đó đảm bảo các yếu tố cho sự phát triển bền vững.
a. Đặc điểm của KDTSQ
Theo tổ chức con người và sinh quyển, khu dự trữ sinh quyển có một số đặc điểm
sau [5][9][13][50][51]:
17. 10
1. KDTSQ là những khu đất hoặc ven biển được bảo vệ trong đó con người là một
thành phần của hệ thống. Tất cả cùng nhau tạo thành một mạng lưới toàn cầu được liên
kết nhằm trao đổi thông tin khoa học.
2. Mạng lưới các KDTSQ bao gồm các ví dụ tiêu biểu của quần xã sinh vật trên
thế giới.
3. Mỗi KDTSQ bao gồm một hoặc nhiều loại sau:
(i) KDTSQ là các ví dụ điển hình của các quần xã sinh vật tự nhiên.
(ii) KDTSQ bảo tồn các quần thể ĐDSH độc đáo hoặc các khu vực có đặc điểm tự
nhiên thú vị đặc biệt. Các khu vực đại diện này cũng có thể có các đặc điểm độc đáo về
cảnh quan, hệ sinh thái và biến dị di truyền, như một quần thể của một loài quý hiếm trên
thế giới thì sự đại diện và sự độc đáo của chúng có thể là đặc điểm của khu vực đó.
(iii) KDTSQ có thể là ví dụ về cảnh quan hài hòa từ mô hình sử dụng đất
truyền thống.
(iv) KDTSQ có thể là ví dụ về các hệ sinh thái đã được sửa đổi hoặc bị suy thoái
có khả năng được phục hồi lại với điều kiện tự nhiên hơn.
(v) KDTSQ nói chung gồm một vùng lõi không bị tác động, kết hợp với các khu
vực xung quanh, nơi có thể thực hiện hoạt động kinh tế, nghiên cứu, giáo dục và giải trí
nhưng không ảnh hưởng đến vùng lõi.
b. Chức năng KDTSQ
Chức năng bảo tồn
• Đảm bảo việc bảo tồn cảnh quan, hệ sinh thái, loài và các biến dị di truyền.
• Khuyến khích các hệ thống sử dụng tài nguyên truyền thống;
• Hiểu về các thành phần và chức năng hoạt động của các hệ sinh thái;
• Theo dõi những thay đổi tự nhiên và do con người gây ra trên quy mô không
gian và thời gian;
Chức năng phát triển
• Thúc đẩy ở cấp địa phương, phát triển kinh tế mang tính văn hóa, xã hội và sinh
thái bền vững.
• Phát triển các chiến lược nhằm cải thiện và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên;
Chức năng hỗ trợ
18. 11
• Cung cấp hỗ trợ cho nghiên cứu, giám sát, giáo dục và trao đổi thông tin liên
quan đến các vấn đề bảo tồn và phát triển địa phương, quốc gia và thế giới.
• Chia sẻ kiến thức từ nghiên cứu khoa học thông qua giáo dục và đào tạo cụ thể.
• Phát triển tinh thần cộng đồng trong việc quản lý tài nguyên thiên nhiên.
1.2. Phát triển bền vững du lịch sinh thái tại KDTSQ
1.2.1. Khái niệm phát triển bền vững du lịch tại KDTSQ
Ủy ban Brundtland (trước đây là Ủy ban Thế giới về Môi trường và phát triển),
định nghĩa: Phát triển bền vững là phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của hiện tại mà
không ảnh hưởng đến sự thỏa mãn các nhu cầu của thế hệ tương lai [54]. Theo Wight
2002, phát triển bền vững là “Một quá trình thay đổi trong đó khai thác tài nguyên,
định hướng đầu tư, phát triển công nghệ, và thay đổi thể chế nhằm đáp ứng nhu cầu
hiện tại và tương lai” [54].
Theo Jayawardena, Chandana 2003, phát triển bền vững là đáp ứng nhu cầu của
hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của của các thế hệ
tương lai [39].
Ritchie và Crouch, 2003 đã tóm tắt định nghĩa về phát triển bền vững là nguyên tắc
cơ bản để quản lí sự phát triển toàn cầu [44].
Từ những định nghĩa trên, về cơ bản, phát triển bền vững đáp ứng nhu cầu cơ bản
của con người, trong đó, tập trung đáp ứng nhu cầu tối thiểu của những nước nghèo trên
thế giới. Đồng thời, giới hạn khả năng đáp ứng của môi trường với nhu cầu của xã hội để
không ảnh hưởng tới tương lai.
Eber, 1992 đã định nghĩa Du lịch bền vững là du lịch mà ở đó, điều kiện hạ tầng
đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai, được người dân và cộng đồng ghi nhận, đóng góp
vào lợi ích kinh tế của người dân địa phương [37]. Du lịch góp phần hỗ trợ nền kinh tế mà
không tổn hại tới môi trường bản địa.
Payne, 1993 đã ghi nhận vai trò của du lịch bền vững, mang lại những cơ hội kinh tế
mà không ảnh hưởng đến cấu trúc nền kinh tế, không can thiệp vào sự tồn tại của các tổ
chức xã hội, đặc biệt phải tôn trọng những giới hạn sinh thái được đặt ra. Du lịch bền
vững là du lịch có trách nhiệm [37].
19. 12
1.2.2. Nội dung phát triển bền vững du lịch sinh thái tại KDTSQ
Năm 2003, Ritchie và Geofrey xác định những yếu tố phát triển du lịch bền vững
gồm [44]:
• Đáp ứng nhu cầu và mong muốn của cộng đồng địa phương về cải thiện mức sống
và chất lượng cuộc sống.
• Thu hút, đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và ngành du lịch.
• Bảo vệ tài nguyên môi trường cơ sở cho du lịch, bao gồm các yếu tố tự nhiên, công
trình xây dựng và văn hóa bản địa.
• Xây dựng mô hình, chiến lược du lịch phù hợp để sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên
thiên nhiên, tránh lãng phí, rủi ro, thúc đẩy phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa.
1.2.3. Yếu tố ảnh hưởng đến phát triển bền vững du lịch sinh thái tại KDTSQ
Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững du lịch sinh thái tại
KDTSQ chủ yếu gồm:
• Yếu tố tự nhiên: Bao gồm cảnh quan, khí hậu, môi trường tự nhiên, đa dạng sinh
học.
• Yếu tố xã hội: Tình hình an ninh chính tri, an toàn xã hội, pháp luật hiện hành, cơ
chế chính sách của địa phương. Ngoài ra nhân tố xã hội còn bao gồm nguồn lao động,
chất lượng lao động địa phương, điều kiện cơ sở hạ tầng, phương tiện giao thông, dịch vụ
du lịch sinh thái như ăn uống, mua sắm, giải trí, tham quan. Đặc biệt, cộng đồng bản địa
đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của du lịch sinh thái theo hướng bền vững.
1.2.4. Nguyên tắc phát triển bền vững du lịch sinh thái tại KDTSQ
Đã 25 năm kể từ khi thành lập, Hiệp hội Quốc tế Du lịch Sinh thái vẫn duy trì 3
nguyên tắc trong phát triển du lịch sinh thái là không lãng phí, không khai thác, tạo ra một
tín ngưỡng du lịch sinh thái, duy trì các giá trị sinh thái cốt lõi và nhân đạo liên quan đến
thiên nhiên. Các nguyên tắc được thể hiện cụ thể trong quá trình xây dựng và phát triển du
lịch sinh thái [13][55]:
• Giảm thiểu tác động tiêu cực tới tự nhiên và văn hóa từ những hoạt động du lịch
tới các điểm du lịch.
• Giáo dục khách du lịch vai trò của bảo tồn.
20. 13
• Nhấn mạnh tầm quan trọng trách nhiệm của các doanh nghiệp, những cơ quan
hợp tác với người dân địa phương để hiểu về những yêu cầu và tuyên truyền những lợi ích
của bảo tồn.
• Nguồn thu trực tiếp cho việc bảo tồn và quản lí các khu vực tự nhiên và khu vực
bảo vệ.
• Nhấn mạnh yêu cầu quy hoạch khu vực du lịch và xây dựng kế hoạch quản lý du
khách ở khu vực tham quan hoặc khu vực tự nhiên được dự kiến sẽ trở thành điểm đến
sinh thái.
• Nhấn mạnh vai trò của các nghiên cứu cơ bản về môi trường và xã hội cũng như
các chương trình giám sát dài hạn đến đánh giá và giảm thiểu tác động.
• Tối đa hóa các lợi ích kinh tế cho các nước sở tại, doanh nghiệp địa phương và
cộng đồng, đặc biệt là những người sống trong và gần những khu vực tự nhiên và khu vực
được bảo vệ.
• Nỗ lực để đảm bảo rằng tác động của phát triển du lịch không vượt quá giới hạn
chịu đựng của xã hội và môi trường được xác định bởi các nhà nghiên cứu với chính
quyền địa phương.
• Dựa vào cơ sở hạ tầng đã được phát triển hài hòa với môi trường, giảm thiểu việc
sử dụng nhiên liệu hóa thạch, bảo tồn môi trường hoang dã và thực vật địa phương cũng
như việc chảy máu môi trường tự nhiên và văn hóa.
1.2.5. Tác động tích cực của du lịch sinh thái bền vững tại KDTSQ
Tác động tới kinh tế: Du lịch sinh thái tạo thêm nhiều việc làm cho người dân địa
phương, giúp tăng thu nhập, cải thiện mức sống cho người dân địa phương. Không những
thế, du lịch thúc đẩy, nâng cao chất lượng, kĩ năng người lao động. Ngoài ra, du lịch sinh
thái khuyến khích sản xuất hàng hóa địa phương như các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, các
đặc sản địa phương giúp tăng nguồn thu cho địa phương cũng như nguồn vốn cho các
KDTSQ [37].
Tác động tới xã hội: Du lịch góp phần cải thiện cơ sở vật chất, hạ tầng giao thông
địa phương, nâng cao chất lượng cuộc sống. Du lịch sinh thái khuyến khích sự phát triển
của văn hóa, thủ công và nghệ thuật địa phương, thúc đẩy sự trao đổi văn hóa giữa các
21. 14
khu vực và các quốc gia. Ngoài ra, du lịch cũng góp phần nâng cao trình độ học vấn, trình
độ ngôn ngữ của người dân địa phương [37].
Tác động tới môi trường: Du lịch sinh thái giúp bảo vệ các quá trình sinh thái và lưu
vực sông, bảo tồn đa dạng sinh học (bao gồm đa dạng gen, loài và hệ sinh thái) thông qua
các chương trình dự án bảo tồn. Ngoài ra, du lịch sinh thái tại KDTSQ giúp bảo tồn và
đánh giá các nguồn tài nguyên di sản văn hóa và công trình xây dựng. Du lịch sinh thái hỗ
trợ tuyên truyền các giá trị đa dạng sinh học bảo vệ môi trường tự nhiên cho người dân địa
phương và khách du lịch [37].
1.2.6. Rủi ro từ du lịch sinh thái tại KDTSQ
Tác động tới kinh tế: Du lịch có thể gây nên sức ép tới nhu cầu tiêu thụ lương thực,
thực phẩm, nhu cầu tiêu dùng tăng cao, khiến nâng cao giá trị hàng hóa [37].
Tác động tới xã hội: Du lịch nâng cao nguy cơ bất ổn an ninh trật tự, tệ nạn xã
hội [37].
Tác động tới môi trường: Đầu tiên, du lịch sinh thái nói riêng và du lịch nói chung
tác động tới môi trường đất, nước, không khí và môi trường sinh vật. Du lịch làm mất sự
ổn định của đất, dẫn đến xói mòn, sạt lở. Du lịch làm gia tăng nhu cầu về nước ngọt, ô
nhiễm sông suối, ao hồ từ nước thải, rác thải từ nhà nghỉ và các hoạt động du lịch. Du lịch
cũng làm ô nhiễm không khí từ khí thải hoạt động phương tiện giao thông như máy bay,
tàu hỏa, ô tô. Đặc biệt, du lịch sinh thái tác động trực tiếp tới môi trường tự nhiên của sinh
vật như thu hẹp, xáo trộn môi trường sống của thực vật từ hoạt động xây dựng nhà ở,
khách sạn, cơ sở hạ tầng, quy hoạch tuyến du lịch, địa điểm du lịch. Thảm thực vật bị xáo
trộn, phá hủy do giao thông vận tải, xây dựng, cháy rừng. Các quần thể động vật hoang dã
bị tác động do các hoạt động săn bắn, tham quan, giải trí, hoặc nhu cầu săn bắt tăng cao.
Các tập tính của các loài sinh vật như các loài côn trùng, động vật không xương sống bị
ảnh hưởng từ hiệu ứng giao thông, du nhập loài ngoại lai, tập tính kiếm ăn, của động vật
hoang dã [37].
1.2.7. Tiêu chí đánh giá phát triển bền vững du lịch sinh thái tại KDTSQ
Theo định nghĩa của EMA về phát triển bền vững, tiêu chí cơ bản sẽ được sử dụng
để đánh giá sự phát triển bền vững của du lịch sinh thái bao gồm: kinh tế, xã hội, môi
trường [38].
22. 15
Bảng 1.1. Tiêu chí cơ bản đánh giá sự phát triển bền vững của du lịch sinh thái
Tiêu chí
Kinh tế Việc làm • Tác động tới gia tăng công việc
• Tác động tới công việc bị mất, công việc mới
Thu nhập • Tác động tới hoạt động kinh tế địa phương
• Tác động tới đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chuyển giao
công nghệ
• Tác động tới sự phát triển kỹ năng địa phương
• Tác động đến chi phí năng lượng
• Mở rộng tiềm năng phát triển
• Mức độ hòa nhập của công nghệ vào nền văn hóa bản
địa
Xã hội Vốn chủ sở hữu
xã hội và
xóa đói giảm
nghèo
• Tác động đến chất lượng việc làm (phân phối cơ hội
việc làm, các loại việc làm, sự thay đổi việc làm trong
các mức độ kỹ năng, giới tính và chủng tộc)
• Tác động đến sự cung cấp tiện ích xã hội tiện ích cho
cộng đồng
• Đóng góp vào sự phát triển của các khu vực kém phát
triển
Chất lượng cuộc
sống
• Tác động đến sức khỏe (chỉ số độc tính của khí thải,
tỷ lệ mắc các vấn đề hô hấp hoặc các bệnh khác)
• Tác động đến giáo dục
• Tác động đến nhà ở
• Tác động của dự án đến việc di dời cộng đồng
(nếu có)
• Tác động đến sự tiếp cận dịch vụ cơ bản cho khu vực
Môi trường Môi trường địa
phương
• Chất lượng không khí, nguồn nước, đất
• Gia tăng hoặc xử lí chất thải rắn
• Tác động của tiếng ồn, an toàn, giao thông vận tải
Đa dạng sinh
học, hệ sinh thái,
tài nguyên thiên
nhiên
• Tác động tới đa dạng sinh học, hệ sinh thái
• Tác động tới sự bền vững của việc sử dụng nguồn
nước, khoáng sản, nguồn tài nguyên không tái tạo
• Tác động tới hiệu quả sử dụng nguồn tài nguồn
• Tác động đến khả năng ứng phó của địa phương với
23. 16
biến đổi khí hậu
Lợi ích
chung
• Việc phân phối hợp lí các lợi ích giữa các bên liên
quan
• Sự phù hợp với mục tiêu của chính quyền địa phương,
tỉnh, quốc gia
• Đóng góp cho một mục tiêu cụ thể (ví dụ, mục tiêu
năng lượng tái tạo, bảo vệ môi trường)
(Nguồn: Environmental affairs department (2004) Sustainable development criteria for clean
development mechanism project approval, Malawi [38])
Từ những tiêu chí nêu trên đã cho thấy tác động trực tiếp và hạn chế cần khắc phục
về trình độ và hiểu biết về du lịch sinh thái, vấn đề nâng cao ý thức giữ gìn môi trường, về
lợi ích của cộng đồng trong phát triển du lịch sinh thái cần được quan tâm và truyền thông
hiệu quả. Những vấn đề về quy hoạch, cơ sở hạ tầng, môi trường như rác thải và xử lý rác
thải, những vấn đề về suy giảm hệ sinh thái và đa dạng sinh học do phát triển du lịch cần
được đầu tư và phát triển nhằm hướng tới một mục tiêu phát triển bền vững du lịch sinh
thái tại khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà.
1.3. Trách nhiệm của các bên liên quan trong phát triển du lịch sinh thái ở khu
dự trữ sinh quyển
1.3.1. Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nhà nước, chính quyền địa phương,
ban quản lý khu dự trữ sinh quyển
Cơ quan nhà nước: Có vai trò điều phối chung; ban hành các chính sách ở tầm vĩ
mô; xây dựng chiến lược, quy hoạch; hỗ trợ địa phương, cộng đồng; hỗ trợ doanh nghiệp;
xây dựng quỹ về du lịch sinh thái [55].
Chính quyền địa phương: UBND huyện, tỉnh (thành phố) có chính sách và định
hướng phát triển rõ ràng; lập và quản lý thực hiện quy hoạch phát triển; có cơ chế hỗ trợ
các nhà đầu tư, các doanh nghiệp trên địa bàn; cam kết và xác lập cơ chế rõ ràng đối với
việc tham gia của cộng đồng, hỗ trợ phát triển cộng đồng; kiểm tra, giám sát sự phát triển.
Các ban ngành phối hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, chính quyền địa phương cũng quản lí chặt chẽ, hiệu quả nhằm hạn chế tác
24. 17
động tiêu cực tới khu dự trữ sinh quyển. Chính quyền sử dụng hợp lí nguồn thu từ hoạt
động du lịch đầu tư, cải thiện cơ sở hạ tầng nhằm cải thiện cuộc sống của người dân cũng
như thu hút khách du lịch [55].
Các ban quản lý KDTSQ, vườn quốc gia: Quản lý bảo vệ tài nguyên môi trường
điểm du lịch; lập quy hoạch phát triển điểm/khu du lịch trên nguyên tắc công khai, minh
bạch và có sự tham gia của cộng đồng; quản lý thực hiện nghiêm túc quy hoạch; xây dựng
quy chế, quy định rõ ràng về trách nhiệm của các đối tượng tham gia hoạt động du lịch
sinh thái. Nguồn thu từ hoạt động du lịch được sử dụng hợp lí để cải thiện cơ sở hạ tầng
như nhà nghỉ, hệ thống điện, nước, phục vụ hoạt động tuyên truyền, giới thiệu, nghiên cứu
KDTSQ, VQG [55].
1.3.2. Trách nhiệm của các nhà điều hành tua (tour)
Hiệp hội Du lịch Sinh thái Quốc tế đã đưa ra một số trách nhiệm của các nhà điều
hành tour trong phát triển du lịch sinh thái theo hướng bền vững [55]:
Trong các hoạt động tour: Giới thiệu, lựa chọn và thiết kế các tour du lịch sinh thái
phù hợp tới khách du lịch thông qua tờ rơi, giới thiệu, tranh ảnh, catalogues, phim, hoặc
trang web. Các hoạt động cần hạn chế, giảm thiểu tác động tới môi trường, hạn chế sự tập
trung đông đúc quá mức ở một địa điểm, đồng thời giới thiệu những địa điểm còn ít người
biết đến. Các nhà điều hành tour cung cấp các dịch vụ hỗ trợ ở những địa điểm nhạy cảm.
Với khách du lịch: Các nhà điều hành tour cung cấp các thông tin cần thiết cho du
khách về quá trình du lịch trải nghiệm, những hiểu biết về môi trường và văn hóa, phong
tục bản địa thông qua việc giới thiệu, hướng dẫn lưu ý những đặc điểm cần chú ý trước và
trong khi tham gia tour tới du khách, tuyên truyền và giáo dục khách du lịch.
Với cộng đồng bản địa: Tôn trọng văn hóa bản địa, kết nối, hỗ trợ cho các doanh
nghiệp địa phương và các cơ sở dịch vụ. Ngoài ra cung cấp các dịch vụ hướng dẫn bản
địa, hỗ trợ đào tạo các hướng dẫn viên bản địa.
Với VQG, khu bảo tồn, KDTSQ: Cung cấp lợi ích tài chính trực tiếp cho hoạt động
bảo tồn, hỗ trợ giới thiệu, tuyên truyền các vườn quốc gia, khu bảo tồn, KDTSQ. Bên
cạnh đó, kết hợp, hợp tác với các tổ chức phi chính phủ trong nước, cơ quan nhà nước để
phát triển các dự án để quản lí du khách nhằm bảo vệ người dân địa phương và môi
trường thiên nhiên.
25. 18
1.3.3. Trách nhiệm của tổ chức phi chính phủ
Đóng vai trò nổi bật hỗ trợ, cung cấp, trang bị kiến thức cần thiết cho BQL KDTSQ,
chính quyền địa phương, các doanh nghiệp trong việc phát triển và quản lí du lịch sinh
thái ở KDTSQ.
Phát triển các chương trình nghiên cứu khu vực du lịch, tập huấn hướng dẫn viên,
kết nối các bên liên quan, phát triển cộng động, quản lí khu vực được bảo vệ và đề xuất
các sáng kiến mục tiêu bảo tồn nhằm phát triển du lịch sinh thái. Các tổ chức phi chính
phủ ngày càng phát triển các chương trình du lịch sinh thái bởi tiềm năng to lớn của du
lịch sinh thái trong việc bảo tồn thiên nhiên và phát triển bền vững. Các tổ chức trong
nước và quốc tế thường tập trung bảo tồn những nguồn tài nguyên bản địa, những nguồn
tài nguyên mang lại giá trị kinh tế đồng thời tiềm năng giáo dục.
Mạng lưới các tổ chức phi chính phủ trên thế giới kết nối với nhau, hỗ trợ việc tuyên
truyền, mở rộng phát triển du lịch sinh thái trên thế giới.
1.3.4. Trách nhiệm của nhà nghiên cứu, khoa học
Tiến hành nghiên cứu nhằm theo dõi thường xuyên, đưa ra những đánh giá chính xác,
kịp thời tác động của phát triển du lịch sinh thái tới tự nhiên, xã hội của KDTSQ.
Đưa ra những giải pháp hợp lí để cân bằng giữa phát triển du lịch và bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên, gìn giữ nét đặc trưng của KDTSQ.
1.3.5. Trách nhiệm của cộng đồng địa phương
Tham gia trực tiếp vào các hoạt động du lịch, có vai trò và trách nhiệm nhằm phát triển
du lịch sinh thái đồng thời bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch ở các KDTSQ, VQG.
Cam kết tuân thủ pháp luật, các chủ trương của chính quyền trung ương và địa phương;
chủ động tham gia vào quá trình phát triển du lịch sinh thái từ khâu quy hoạch cho đến khâu
quản lý vận hành khu du lịch; có trách nhiệm trong việc bảo tồn gìn giữ các giá trị văn hóa
truyền thống địa phương; có thái độ thân thiện, giúp đỡ khách du lịch.
Cung cấp dịch vụ du lịch hỗ trợ tiện lợi, thoải mái cho khách du lịch. Đồng thời, các
doanh nghiệp có tuân thủ pháp luật, có trách nhiệm trong việc giảm thiểu tác động tới thiên
nhiên, môi trường.
26. 19
1.3.6. Trách nhiệm của du khách
Tôn trọng tập quán truyền thống văn hóa bản địa; có ý thức trong việc bảo vệ tài nguyên
môi trường của điểm đến; tham gia các hoạt động hỗ trợ đóng góp cho bảo tồn và phát triển
cộng đồng tại điểm/khu du lịch.
Tuân thủ pháp luật và các quy định của chính quyền địa phương, cơ quan chức năng.
Hỗ trợ tuyên truyền, nhân rộng về việc du lịch có ý thức, du lịch bền vững, phát triển du
lịch sinh thái.
1.4. Kinh nghiệm thực tiễn phát triển du lịch sinh thái ở một số khu dự trữ
sinh quyển
1.4.1. Du lịch sinh thái ở KDTSQ Costa Rica
Costa Rica là một quốc gia nhỏ, độc lập, nằm giữa Nicaragua và Panama ở Trung Mỹ.
Cũng như nhiều quốc gia Mỹ La Tinh khác, kinh tế Costa Rica còn lạc hậu, chủ yếu dựa vào
nông nghiệp trồng trọt, chủ lực là chuối và cà phê [40] [45].
Đất nước này được thiên nhiên ưu ái với những bãi biển dài ngập ánh mặt trời và thiên
nhiên vô cùng phong phú, thu hút khách du lịch. Địa chất của nơi đâyphức tạp, là kết quả của quá
trình kiến tạo. Khí hậu phức tạp, lượng mưa dao động từ 1.500 mm - 6.000 mm một năm. Nhiệt
độ tương đối ổn định, trung bình hàng năm khoảng 20 độ. Mặc dù chỉ có diện tích bằng một nửa
nước Anh, nhưng Costa Rica có mức độ ĐDSH cao nhất, chiếm khoảng 5% các sinh vật trên
cạn. Nơi đâytồn tại 12 trong số 30 môi trường sống, chiếm ưu thế nhất rừng ẩm nhiệt đới và rừng
mưa nhiệt đới. Nơi đâylà mái nhà của 870 loài chim, 205 loài động vật có vú, 215 loài bò sát, 160
loài lưỡng cư cùng với 130 loài cá nước ngọt và 360.000 loài côn trùng, hệ thực vật phong phú
với khoảng 10.000 loại khác nhau [40] [45].
Tuy nhiên, nơi đây cũng phải đối mặt với những nguy cơ suy giảm ĐDSH. Từ những
năm 1940 đến thập niên 1970, Costa Rica có tỷ lệ chặt phá rừng cao nhất do mở rộng diện
tích trồng các cây công nghiệp [45].
Nhận thấy những tiềm năng từ thiên nhiên, khí hậu, du lịch sinh thái đã được chính phủ
chú trọng và phát triển. Du lịch sinh thái đã mang lại những hiệu quả to lớn. Trong năm 2002,
Costa rica đã đón 1,1 triệu khách, đóng góp 1,1 tỷ đô la Mỹ cho nền kinh tế và tạo ra công
việc cho 140.000 người. Du lịch hiện đóng góp 17% GNP của quốc gia và duy trì mức tăng
trưởng 5% mỗi năm [45].
27. 20
Để duy trì sự tăng trưởng này, một số chính sách được sử dụng nhằm giảm bớt tác động
của con người trong các hoạt động du lịch tới thiên nhiên, môi trường. Đầu tiên, về môi
trường, các căn nhà nghỉ được xây từ gỗ vụn, không sử dụng điện, thay thế bằng năng lượng
mặt trời. Sử dụng xà phòng phân hủy sinh học, thủy tinh và nhựa tái chế. Về kinh tế, đa dạng
các hoạt động du lịch sinh thái như thăm quan vườn sinh thái, tour du lịch ban đêm trong
rừng, hái cây thuốc, ngắm chim, xem cá heo được tổ chức thu hút khách du lịch tham gia
[45].
Sự phát triển của du lịch sinh thái đã mang lại lợi ích kinh tế cho người dân Costa Rica,
tạo cơ hội việc làm cho người dân, khuyến khích chủ đất coi trọng đất đai như một tài sản dài
hạn cần được bảo tồn hoặc quản lý bền vững mang lại lợi ích lâu dài. Quốc gia đã phát triển
thành một trong những nước giàu nhất Mỹ Latinh, nguồn thu từ du lịch được tái đầu tư vào
các cơ sở giáo dục và y tế và cải thiện cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của du lịch sinh thái đã mang đến một số vấn đề. Sự phát
triển không kiểm soát ở những các khu vực nhạy cảm, đặc biệt ở khu vực dọc theo bờ biển Thái
Bình Dương gây nên quan ngại lớn. Mặc dù chính phủ đã đưa ra các quy tắc nghiêm ngặt để
giảm thiểu tác động tới môi trường, nhưng sức hút của nó vẫn quá lớn. Vấn đề trở nên nghiêm
trọng hơn khi người dân địa phương bán đất cho các công tynước ngoài kinh doanh. Sự phát triển
của du lịch chắc chắn mang lại áp lực lên môi trường. Đầu tiên, lượng rác thải tăng cao, vượt quá
khả năng xử lí, gây nên ô nhiễm môi trường và ô nhiễm không khí từ việc đốt rác, chôn rác. Thứ
hai, ô nhiễm không khí và ô nhiễm tiếng ồn từ hoạt động chở khách, và xây dựng ở những khu
vực nhạy cảm dẫn đến những hậu quả tiêu cực tới môi trường sinh thái, môi trường sống của các
loài sinh vật. Với số lượng khách du lịch tăng mạnh mẽ dẫn đến lo ngại về vượt quá sức chứa của
khu vực. Bên cạnh đó, khu vực hoạt động của các loài động vật cũng bị thu hẹp, tập tính kiếm ăn
bị thay đổi, chuyển từ kiếm ăn trong rừng sang được cho ăn, hoặc kiếm ăn ở những bãi rác.
Không những vậy, những tác động tới kinh tế cũng đáng lo ngại. Mặc dù khoảng 75% các đại lí
du lịch và khách sạn của người dân địa phương nhưng một phần lớn các dự án du lịch, đặc biệt ở
vùng nhạy cảm của người nước ngoài. Không những thế, người dân địa phương làm việc trong
khu du lịch được trả lương thấp, lợi nhuận chủ yếu thuộc về các công tynước ngoài [40] [45].
28. 21
1.4.2. Du lịch sinh thái ở KDTSQ rừng ngập mặn Cần Giờ
Khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ là KDTSQ đầu tiên của Việt Nam, được
UNESCO công nhận vào năm 2000 [48]. Khu DTSQ Rừng nước mặn Cần Giờ được hình
thành ở hạ lưu hệ thống sông Ðồng Nai - Sài Gòn, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh
khoảng 40 km về hướng đông nam. Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ tiếp giáp với các tỉnh
Đồng Nai, Tiền Giang, Long An, Bà Rịa Vũng Tàu, đồng thời một mặt tiếp giáp với biển
Đông. Khu dự trữ có tổng diện tích hơn 75 nghìn ha, trong đó: vùng lõi rộng 4.721 ha, vùng
đệm 41 nghìn ha, và vùng chuyển tiếp 29 nghìn ha [48] [57].
Rừng ngập mặn Cần Giờ có một vị trí quan trọng trong kháng chiến chống Mỹ. Do đó,
trong giai đoạn chiến tranh từ 1962-1970, quân đội Mỹ đã sử dụng gần 4 triệu lít hóa chất diệt
cỏ nhằm phá hủy rừng Sắt, hàng rào tự nhiên bảo vệ Sài Gòn. Hậu quả là gần 75% rừng ngập
mặn bị phá hủy, cây cối chết toàn bộ, đất đai cằn cỗi, nhiều khu vực bị sa mạc mặn, sông bị
xói lở nghiêm trọng [48].
Năm 1978, Cần Giờ được hợp vào thành phố Hồ Chí Minh và năm 1979, Ủy Ban
thành phố quyết định khởi động chiến dịch khôi phục hệ sinh thái rừng ngập mặn trong thời
gian ngắn nhất. Sau 20 nhiều năm, rừng ngập mặn Cần Giờ đã được phục hồi hoàn toàn. Hiện
tại, diện tích rừng trồng hơn 31.000 ha, trong đó có gần 20.000 ha rừng; 11.000 ha tái phân
vùng giống tự nhiên và các loại rừng khác [48].
Rừng ngập mặn Cần Giờ có mức độ đa dạng sinh học cao, có khoảng 52 loài thực vật,
trong đó, chủ yếu là bần trắng, mấm trắng, các quần hợp đước đôi - bần trắng và các loại cây
sống nước lợ như bần chua, ô rô, dừa lá, ráng. Theo báo cáo của ban quản lí rừng ngập mặn
Cần Giờ, có khoảng 700 loài động vật thủy sinh, 137 loài cá, đặc biệt bò biển từng xuất hiện
theo mùa ở các bãi cỏ biển. Khu hệ động vật trên cạn gồm 9 loài lưỡng cư, 31 loài bò sát, 130
loài chim gồm 51 loài chim nước, và 79 loài còn lại [48].
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh quy hoạch và phát triển nơi
đây thành khu du lịch sinh thái. Năm 2000, khu du lịch sinh thái Vàm Sát nằm trong vùng lõi
của khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ được thành lập và tháng 2/2003 đã được cơ quan chức
năng du lịch thế giới công nhận là một trong hai khu du lịch sinh thái phát triển bền vững của
thế giới ở nước ta. Hai khu vực du lịch chính là khu du lịch Vàm Sát và khu nghỉ dưỡng Cần
Giờ. Có rất nhiều hoạt động du lịch thú vị ở khu du lịch Vàm Sát như tham quan đầm Dơi,
29. 22
sân chim, chèo thuyền trên sông để xem động thực vật hoang dã tuyệt đẹp, quan sát toàn bộ
khu vực rừng Cần Giờ, tận hưởng thời gian trong trang trại cá sấu, đặc biệt là thăm quan Bảo
tàng lịch sử. Khu nghỉ dưỡng Cần Giờ thì thu hút khách du lịch tới thăm quan, nghỉ dưỡng,
tắm biển ở Đảo Khỉ, chèo thuyền trong rừng ngập mặn, tham quan, xem xiếc động vật,
thưởng thức hải sản tươi sống.
Theo Ủy Ban nhân dân huyện Cần Giờ, hiện nay Cần Giờ có 7 khu vui chơi giản trí,
với hơn 32 dự án đang hoạt động với tổng vốn đầu tư khoảng 208 tỷ đồng. Khu dự trữ thu hút
674.819 khách du lịch, trong đó khách du lịch nước ngoài chiếm 20%. Số lượng khách tham
quan tăng 25%. Mức sống và thu nhập của người dân địa phương được cải thiện lên rất nhiều.
Du lịch sinh thái đã tạo thêm nhiều cơ hội việc làm như hướng dẫn viên, cho thuê nhà nghỉ,
buôn bán hải hản, và đồ lưu niệm. Theo Cục du lịch năm 2002, nguồn thu từ du lịch đã hỗ trợ
cải thiện cơ sở hạ tầng, có các tuyến đường sắt, đường mới, hệ thống đường điện ổn định,
phục vụ cho cuộc sống của người dân [48].
Tuy nhiên, do du lịch sinh thái ở Cần Giờ mới bước đầu phát triển, doanh thu thực tế
khá thấp, tỉ lệ nhà nghỉ hoạt động chỉ khoảng 20%, tập trung vào thứ Bảy, Chủ nhật. Tác
động tiêu cực của du lịch tới môi trường là lượng rác thải tăng cao, nguồn nước bị ô nhiễm
ảnh hưởng tới đời sống các loài sinh vật trong rừng ngập mặn. Thách thức đặt ra đòi hỏi sự
chung tay của các bên liên quan gồm chính quyền, ban quản lí, công ty du lịch, khách du lịch
và người dân địa phương [48].
1.4.3. Du lịch sinh thái KDTSQ Cù Lao Chàm
Cù Lao Chàm là một cụm đảo thuộc xã đảo Tân Hiệp, thành phố Hội An, tỉnh Quảng
Nam, cách bờ biển Cửa Đại 18 km, bao gồm 8 đảo: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Khô
Mẹ, Hòn Khô Con, Hòn Lá, Hòn Tai, Hòn Ông. Khu sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm - Hội
An được UNESCO công nhận vào ngày 26/5/2009 dựa trên những giá trị độc đáo, nổi trội về
tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn gắn với mảnh đất và con người Hội An [5].
Nơi đây có mức độ đa dạng sinh học cao. Đầu tiên, về đa đạng hệ sinh thái, Cù Lao
Chàm có đầy đủ các kiểu hệ sinh thái đặc trưng của vùng đất ngập nước, cửa sông, biển, và
đảo gồm hệ thống bãi triều, bồn bãi tự nhiên, rừng ngập mặn, các cồn cát ven biển, các bãi
biển, thảm cỏ biển, rạn san hô, rừng nguyên sinh trên đảo. Theo báo cáo của Ban quản
lí KDTSQ, có hơn 357 ha rạn san hô, 60 ha thảm cỏ biển, nhiều thảm rong biển phân
30. 23
bố tại các vùng triều, 117 ha rừng dừa nước và toàn bộ 1.765 ha rừng nguyên sinh trên
các đảo Cù Lao Chàm. Theo số liệu thống kê, KBT biển có 736 loài thuộc 263 giống
chủ yếu trong hệ sinh thái rạn san hô, cỏ biển có 5 loài thuộc 3 giống, rong biển kích
thước lớn có 76 loài thuộc 46 giống, san hô tạo rạn có 277 loài thuộc 40 giống, cá rạn
san hô có 270 loài thuộc 105 giống, thân mềm có 97 loài thuộc 61 giống và da gai có
11 loài thuộc 8 giống. Đặc biệt, rừng nguyên sinh Cù Lao Chàm là nơi lưu giữ nhiều
nguồn gen quí của rất nhiều loài động thực vật tiêu biểu là Cua đá, loài giáp xác có
vòng đời gắn với cả hệ sinh thái rừng và hệ sinh thái biển. Chúng là chỉ thị sinh học
cho sức khỏe, chất lượng của rừng và tính đa dạng sinh học tại đây [5].
Khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm thể hiện sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên
– một điểm nổi bật của Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm – Hội An so với các
Khu khác của Việt Nam.
Năm 2017, thành phố Hội An đón hơn 3,22 triệu lượt khách, tăng 21,66% so với năm
2016. Dù chiếm 0,3% diện tích lãnh thổ nhưng mỗi năm Hội An đón hơn 25% lượng khách
quốc tế đến Việt Nam, trong đó chủ yếu là dòng khách Trung Quốc, Hàn Quốc với loại hình
trải nghiệm đại trà, ẩm thực [5]. Du lịch sinh thái phát triển đã và đang tạo cơ hội cho người
dân nơi đây cải thiện sinh kế và nâng cao chất lượng cuộc sống. Đến năm 2013 đã có trên 485
người dân địa phương trong tổng số 560 hộ gia đình tham gia trực tiếp vào hoạt động du lịch
sinh thái như hướng dẫn viên, cho thuê nhà nghỉ, khách sạn, kinh doanh nhà hàng, ăn uống.
Thu nhập bình quân hàng năm của người dân nơi đây từ 6 triệu đồng năm 2005 đến 24 triệu
đồng vào năm 2012 [5].
Tuy nhiên, du lịch càng phát triển, lượng du khách tăng cao gây nên những áp lực tới
tự nhiên, môi trường. Sự đô thị hóa diễn ra khắp nơi từ đất liền đến hải đảo đã làm ảnh hưởng
rất lớn đến môi trường, cảnh quan, các hệ sinh thái, tính đa dạng sinh học nơi đây. Các công
trình công cộng, dịch vụ làm mất đi sự hoang sơ của thiên nhiên. Sự xuất hiện của con người
tại các khu vực này đã làm ảnh hưởng đến đời sống hoang dã, chia cắt vòng đời tự nhiên của
rất nhiều loài. Tại Cẩm Thanh trước đây từng là nơi thu hút rất nhiều chim, cò về kiếm ăn và
sinh sống nhưng sự xuất hiện của con người tại các vạc dừa đã xua đuổi dần những đàn chim
di cư, cắt đứt nhiều chuỗi giá trị và làm mất tính cân bằng sinh thái kể cả trong và ngoài
KDTSQ [5].
31. 24
1.4.4. Bài học rút ra cho Cát Bà
Phát triển du lịch sinh thái ở Costa Rica, KDTSQ rừng ngập mặn Cần Giờ, Cù Lao
Chàm đã để lại nhiều bài học cho KDTSQ Quần đảo Cát Bà như:
Về khía cạnh môi trường: Áp dụng các giải pháp sinh thái để giảm thiểu tác động tới
thiên nhiên, môi trường như xây nhà nghỉ từ gỗ vụn, không sử dụng điện, thay thế bằng năng
lượng tái tạo, sử dụng xà phòng phân hủy sinh học, thủy tinh và nhựa tái chế. Bên cạnh đó,
quản lí chất thải du lịch hiệu quả, tập trung, xử lí, phân loại rác thải. Ngoài ra, cần quản lí khai
thác, sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên du lịch để cân bằng giữa phát triển DLST và bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên, bán cái gì ta có, không bán cái khách cần.
Về khía cạnh kinh tế: Phát triển đa dạng các sản phẩm DLST đặc thù như lặn biển
ngắm san hô, cắm trại ban đêm trong rừng, chèo thuyền trong đầm dơi. Sử dụng nguồn thu từ
hoạt động du lịch vào xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư, phát triển kinh tế.
Về khía cạnh xã hội: Chia sẻ hợp lí lợi ích từ phát triển DLST giữa các doanh nghiệp
kinh doanh du lịch, cộng đồng thông qua việc sử dụng nguồn lao động tại chỗ, sử dụng nguồn
thu xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng kĩ thuật ở địa phương. Thay đổi nhận thức và thái độ của
lãnh đạo, cán bộ nhân viên của VQG/KBTTN đối với hoạt động DLST.
32. 25
Tiểu kết chương
Du lịch sinh thái là một hướng đi hợp lí và đúng đắn trong việc phát triển bền vững.
Du lịch sinh thái đã, đang chứng minh được những lợi ích to lớn của nó trong việc phát triển
kinh tế, bảo tồn đa dạng sinh học theo hướng bền vững. Tuy nhiên, những tác động tiêu cực
của nó tới môi trường, thiên nhiên là không thể phủ nhận. Do đó, phát triển du lịch sinh thái,
đặc biệt trong các KDTSQ cần tuân thủ những nguyên tắc trong phát triển du lịch sinh thái
cũng như hoạt động trong KDTSQ. Những ví dụ về những mô hình phát triển du lịch sinh
thái đã có ở trong nước và quốc tế là những bài học điển hình, quý giá để phát triển du lịch
sinh thái ở KDTSQ Quần đảo Cát Bà hiệu quả, hợp lí và bền vững.
33. 26
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG DU LỊCH SINH THÁI TẠI KHU
DỰ TRỮ SINH QUYỂN QUẦN ĐẢO CÁT BÀ, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến phát triển bền vững du
lịch sinh thái tại KDTSQ quần đảo Cát Bà
2.1.1. Khái quát về KDTSQ quần đảo Cát Bà
a. Vị trí địa lí
Theo tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO), KDTSQ
quần đảo Cát Bà thuộc huyện đảo Cát Hải, thành phố Hải Phòng, chính thức được công
nhận vào ngày 2/12/2004 [29]. Đây là KDTSQ thứ 3 tại Việt Nam sau KDTSQ rừng ngập
mặn Cần Giờ và Đồng Nai. Quần đảo Cát Bà thuộc hệ thống rừng mưa nhiệt đới Đông
Dương, đa dạng các hệ sinh thái rừng nhiệt đới ẩm ướt, đất ngập nước, rừng ngập mặn và
rạn san hô. Mỗi hệ sinh thái được tìm thấy ở những khu vực riêng, và trộn lẫn trong các
quần đảo. Đặc biệt, quần đảo Cát Bà đặc biệt có hệ sinh thái quần đảo đá vôi lớn nhất
Châu Á.
Tổng diện tích KDTSQ Quần đảo Cát Bà 26.241 ha (17.041 ha phần đảo và 9.200 ha
phần biển) bao gồm hầu hết 366 hòn đảo lớn nhỏ thuộc quần đảo Cát Bà, huyện Cát Hải,
thành phố Hải Phòng gồm 3 phân vùng lõi, đệm, chuyển tiếp. Vùng Lõi KDTSQ quần
đảo Cát Bà có diện tích 8.500 ha (diện tích mặt đất/đảo: 6.500 ha, phần biển 2.000 ha);
Vùng đệm có diện tích 7.741 ha (phần đảo 4.941 ha, phần biển 2.800ha); Vùng Chuyển
tiếp 10.000 ha (phần đảo 5.500 ha, phần biển 4.500ha) [29][30][52].
b. Khí hậu thủy văn
Vườn Quốc gia Cát Bà nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh
hưởng trực tiếp từ khí hậu đại dương. Nơi đây có gió mùa Tây Nam vào mùa nóng và gió
mùa Đông Bắc vào mùa lạnh [6].
Nhìn chung, quần đảo Cát Bà có khí hậu thích hợp cho phát triển kinh tế, du lịch.
Tuy nhiên, việc khan hiếm nước ngọt, mưa bão đặt ra những thách thức cho chính quyền
địa phương.
34. 27
2.1.2. Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến phát triển bền vững du lịch sinh thái tại
KDTSQ quần đảo Cát Bà
Đa dạng hệ sinh thái:
Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà đa dạng về các hệ sinh thái, là môi trường
sống đa dạng của các loài sinh vật, bao gồm các hệ sinh thái rừng tự nhiên (nguyên sinh)
mưa ẩm nhiệt đới trên núi đá vôi, rừng thứ sinh nghèo thường xanh mưa ẩm nhiệt đới trên
núi đá vôi, rừng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới phục hồi trên núi đá vôi, rừng thứ sinh tre
nứa phục hồi sau nương rãy, rừng trồng, rừng ngập mặn ven biển, rừng cây ngập nước
trên núi đá vôi, trảng cây bụi xen gỗ trên núi đá vôi, trảng cây bụi trên núi đất, núi trọc,
các bãi triều xung quanh đảo, đáy mềm dưới biển và thủy vực nước mặn, các rạn san hô
và các dạng áng (hồ nước mặn giữa núi) [6] [33].
Đa dạng sinh vật
Theo báo cáo rà soát 10 năm, 2014, quần đảo Cát Bà có mức độ ĐDSH cao với
khoảng 3.956 loài động, thực vật, động vật, ở trên cạn và dưới biển, tăng 71 loài so với
báo cáo năm 2013, tăng gấp 1,7 lần so với nghiên cứu năm 2003. Trong đó, khu hệ sinh
vật trên cạn 2.250 loài chiếm 56,9% tổng số loài, khu hệ sinh vật biển 1695 loài, chiếm
42,8 %, cá nước ngọt có 11 loài chỉ chiếm 0,3 % [29].
a. Khu hệ động vật
Khu hệ động vật có xương sống trên cạn ở Vườn quốc gia Cát Bà được nhiều nhà
khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu. Kết quả đã thống kê được tổng số 343 loài
động vật có xương sống ở cạn, trong đó có 24 loài ghi trong sách đỏ Việt Nam và 20 loài
ghi trong danh lục đỏ thế giới của IUCN [29].
Khu hệ thú: Mặc dù chỉ có 58 loài, nhưng Cát Bà là nơi sống của loài voọc đầu
trắng, đặc hữu ở khu vực Cát Bà. Hiện này, quần thể voọc thu hẹp, chỉ còn khoảng 63
con [6].
Khu hệ chim: Hầu hết quần thể của các loài chim ở Cát Bà có mật độ thấp. Một số
loài chim đặc trưng cho hệ sinh thái đảo là: họ Cốc (Pharacrocoracidae): Cốc đen
(Pharacrocorax niger), Cốc đế (Phalacrorax carbo), Họ Hải âu (Procellariidae): Hải âu
(Calonectris leucomelas), Họ Mòng bể (Larida): Mòng bể đầu đen (Larus ridibundus).
Một số loài chim lớn như Họ Ưng (Accipitridae): Diều mào (Ariceda leucophotes), Ưng
35. 28
xám (Accipiter badius), Diều hâu (Mivus migrans), Đại bàng biển bụng trắng (Haliaeetus
leucogast). Khu hệ chim rừng gồm các loài phổ biến và gần với khu hệ chim đồng bằng
ven biển như các loài thuộc họ Chim Chích (Sylvidae), Chích choè (Turdidae), Đớp ruồi
(Muscicapidae). Về thành phần bộ: Bộ Sẻ có số họ và loài đa dạng nhất, với 25 họ (chiếm
30,8% tổng số họ), 196 loài (chiếm 95,6% tổng số loài) [6][43].
Khu hệ bò sát tại Vườn Quốc gia Cát Bà có mức độ đa dạng cao với 55 loài Bò sát
thuộc 14 họ và 2 bộ, trong đó bộ Có vẩy có số họ và loài đa dạng nhất với 12 họ, 53 loài
(chiếm 96,4% tổng số loài), có 1 loài đặc hữu là Tắc kè Cát Bà. Bộ Rùa có 2 họ, 2 loài.
Trong các họ, họ Rắn nước có số loài nhiều nhất với 19 loài (chiếm 34,5%). Các họ có số
loài trung bình là: Thằn lằn bóng (8 loài), Tắc kè, Rắn hổ, Rắn lục, mỗi họ có 5 loài. Các
họ: Thằn lằn giun, Vích, Thằn lằn thực, Rắn giun, Trăn, Rùa đầm, Kỳ đà, mỗi họ chỉ có 1
loài [34]
Khu hệ ếch nhái tại Cát Bà kém đa dạng về thành phần loài với 25 loài ếch nhái
thuộc 7 họ và 1 bộ. Trong 7 họ Ếch nhái có mặt ở Cát Bà, các họ: Ếch đồng (6 loài), Nhái
bầu (6 loài), Ếch nhái (5 loài) có số loài đa dạng hơn cả [34].
b. Khu hệ thực vật
Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà có sự đa dạng về thành phần loài thực vật.
Theo báo cáo năm 2003, quần đảo Cát Bà có 1.561 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc
842 chi, 186 họ và 5 ngành thực vật khác nhau [52]. Theo báo cáo năm 2014, KDTSQ
quần đảo Cát Bà có 1.588 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 850 chi, 187 họ và 5 ngành
thực vật khác nhau, tăng 27 loài so với nghiên cứu năm 2013, và tăng 27 loài so với báo
cáo năm 2003 [29]. Loài Tuế hạ long (Cycas tropophylla K.D.Hill & Phan Kế Lộc) được
ghi nhận đặc hữu tại vùng đảo Hạ Long và Cát Bà, thường mọc rải rác tại các vách núi đá
dựng đứng [29].
36. 29
Hình 2.1. Kim giao – loài gỗ quý của Vườn
Quốc gia Cát Bà
Nguồn: Tác giả khảo sát năm 2018
Hình 2.2. Hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi
Vườn Quốc gia Cát Bà
Nguồn: Tác giả khảo sát năm 2018
Bên cạnh đó, khu hệ thực vật của Cát Bà cũng ghi nhận nhiều loài đặc hữu, quý
hiếm nằm trong sách đỏ Việt Nam, danh lục đỏ của IUCN và Nghị định số 32/2006/NĐ-
CP. Có 53 loài thực vật nguy cấp, quý hiếm có tên trong Sách đỏ Việt Nam (2007), Sách
đỏ Thế giới IUCN (2009), Nghị định số 32/2006/NĐ-CP (40 loài bản địa, 13 loài từ nơi
khác). Một số loài bản địa như: Ba gạc lá to (Rauvolfia cambodiana), Ba gạc vòng
(Rauvolfia verticillata), Kim giao (Nageia fleuryi (Hickel) de Laub. 1987 ), Lan hài đốm
(Paphiopedium concolor Pfitzer ). Một số loài được đưa về Vườn Quốc gia Cát Bà như:
Bách xanh (Calocedrus macrolepis Kurz), Chò nâu (Dipterocarpus retusus Blume), Chò
chỉ (Shorea chinensis (Wang Hsie) H. Zhu) [6].
Khu hệ thực vật của vườn quốc gia Cát Bà không chỉ đa dạng về thành phần loài, mà còn
đa dạng thành phần họ. Có 186 họ được ghi nhận năm 2003, 187 họ ghi nhận năm 2013, trong đó
có gần 46 họ có 10 loài trở lên, đứng đầu là họ Ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae) (78 loài), họ Hoà
thảo (Poaceae) (78 loài), họ đậu (Fabaceae) (72 loài) [52].
Nghiên cứu đã thống kê được 1316 loài trong tổng số 1588 loài thuộc 6 nhóm công
dụng khác nhau (có loài thuộc nhiều nhóm công dụng) gồm cây lấy gỗ, làm thuốc, làm
thực phẩm, làm cảnh và làm bóng mát, lấy mủ và làm thủ công mỹ nghệ [6].
c. Khu hệ sinh vật biển
Tảo lục (Chlorophyceae): 5 loài và 3 chi; lớp Conjugatophyceae: 1 loài và 1 chi
[4][6][29].
37. 30
2.1.3. Điều kiện kinh tế ảnh hưởng đến phát triển bền vững du lịch sinh thái tại
KDTSQ quần đảo Cát Bà
2.1.3.1. Kinh tế
a. Sản xuất công nghiệp
Cát Hải không có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển công nghiệp. Ngành công
nghiệp còn nhỏ, tập trung chủ yếu vào các ngành chế biến thủy sản (khô, đông lạnh, sản
xuất nước mắm) và nước đá. Công nghiệp chế biến thủy sản chưa phát triển tương xứng
với tiềm năng của huyện do nhiều hạn chế về thời gian chế biến, cơ sở chế biến, nguồn
nguyên liệu. Các cơ sở sản xuất chính tập trung ở thị trấn Cát Hải.
Sản xuất nước đá: Là một trong những sản phẩm chính của huyện, phục vụ ngành
chế biến thủy sản đông lạnh và các tàu thuyền đánh bắt xa bờ.
b. Tiểu thủ công nghiệp
Các ngành tiểu thủ công nghiệp còn chưa phát triển, quy mô nhỏ. Việc sản xuất
hàng lưu niệm còn nghèo nàn, chưa được quan tâm.
c. Dịch vụ
Ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng lớn nhất trong cơ cấu kinh tế huyện. Ngành dịch vụ
huyện bao gồm một số phân ngành như dịch vụ thương mại, dịch vụ khách sạn-du lịch,
dịch vụ hậu cần thủy sản, dịch vụ giao thông vận tải, dịch vụ bưu chính viễn thông. Dịch
vụ thương mại hoàn toàn do tư nhân chiếm lĩnh, hàng hóa trao đổi, buôn bán rất đa dạng,
phong phú, phục vụ nhu cầu ngày càng cao của người dân và du khách. Dịch vụ khách
sạn, du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp nhiều nhất cho khu vực dịch vụ. Dịch vụ
hậu cần thủy sản có truyền thống lâu đời, phục vụ và đi cùng sự phát triển của ngành khai
thác thủy sản. Dịch vụ giao thông vận tải ngày càng phát triển ở cả đường bộ và đường
thủy, hỗ trợ phục vụ cho các ngành dịch vụ và công nghiệp khác. Còn dịch vụ bưu chính
viễn thông còn thô sơ, mới chỉ đảm bảo thông suốt thông tin từ thành phố tới huyện, từ
huyện tới xã, còn chưa phục vụ, nâng cấp dịch vụ. Các ngành dịch vụ đều hỗ trợ lẫn nhau,
đồng thời hỗ trợ các ngành kinh tế khác. Mặc dù các ngành đều đang tăng trưởng và phát
triển, tuy nhiên sự phát triển chưa tương xứng tới tiềm năng và lợi thế vốn có của huyện
Cát Bà.
38. 31
d. Sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu kinh tế của huyện. Nông nghiệp tập
trung vào trồng trọt và chăn nuôi. Các sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là cây lương thực như
lúa, ngô, lạc, cây ăn quả, gia súc gia cầm. Diện tích canh tác nông nghiệp khoảng 212 ha,
trong đó diện tích trồng lúa khoảng 17,45% tập trung ở Trân Châu, Xuân Đám, Hiền Hào và
Việt Hải, diện tích rau màu thấp hơn khoảng 9,95%, còn lại là trồng cây ăn quả [27]. Điều
kiện tự nhiên không thật sự thích hợp cho phát triển nông nghiệp.
e. Lâm nghiệp
Tuy huyện có diện tích rừng lớn với nhiều tài nguyên nhưng phần lớn diện tích rừng
thuộc diện bảo vệ, không được phép khai thác nên lâm nghiệp chỉ chiếm tỉ trọng rất nhỏ trong
cơ cấu kinh tế. Từ năm 2000 trên địa bàn vùng đệm VQG Cát Bà đã tiến hành giao đất lâm
nghiệp cho người dân địa phương bao gồm đất rừng trồng và rừng tự nhiên [27]. Các hoạt
động sản xuất lâm nghiệp chủ yếu là khai thác củi và mật ong. Củi phục vụ trong gia đình,
được khai thác ở vườn nhà, rừng giao. Tuy nhiên, việc khai thác không hợp lí, đặc biệt ở vùng
lõi vườn quốc gia tác động xấu tới thảm thực vật và môi trường sống các loài sinh vật trong
rừng. Trong khi đó, mật ong được khai thác chủ yếu để bán, có giá trị rất lớn. Mật ong khai
thác tự nhiên có giá trị kinh tế cao (giá hiện nay 1.000.000 – 1.200.000đồng/1 chai) song viêc
khai thác mang lại nhiều tác động tiêu cực và nguy hiểm đối với rừng. Cần có những quy
định và sự quản lí giám sát chặt chẽ để hạn chế ảnh hưởng xấu của các hoạt động lâm nghiệp
tới môi trường tự nhiên.
f. Thủy sản
Thủy sản luôn luôn là mặt hàng mũi nhọn của huyện, góp góp quan trọng vào tổng
giá trị sản xuất. Nuôi trồng, đánh bắt thủy sản phát triển mạnh mẽ. Hiện nay, sản xuất thủy
sản chủ yếu là nuôi trồng trong các nhà bè. Cát Hải hiện đứng đầu về diện tích nuôi trồng
thủy sản, nhưng sản lượng khai thác chỉ đứng thứ 3 toàn thành phố. Trong khu vực hiện
có 254 bè; 07 đầm nuôi cá diện tích 24,6 ha. Tuy nhiên, hoạt động nuôi trồng thủy hải sản
tác động đến môi trường sinh thái biển, ảnh hưởng tới tiềm năng du lịch biển Cát Bà. Lĩnh
vực chế biến thuỷ sản bước đầu phát triển với nhiều cơ sở thu mua và chế biến. Tuy
nhiên, quy mô còn nhỏ, nên chưa thực sự mang lại hiệu quả kinh tế xã hội lớn [27].
39. 32
Hình 2.3. Nuôi thủy sản trên vịnh Lan Hạ
Nguồn: Tác giả khảo sát năm 2018
2.1.3.2. Xã hội
a. Dân cư
Theo báo cáo của Vườn Quốc gia Cát Bà, năm 2004, dân số của khu dự trữ là 5.243
người, đến năm 2010 là 5.510 người. Trong đó, dân cư tập trung ở vùng chuyển tiếp, đặc
biệt là ở xã Phù Long và Trân Châu [29].
b. Giáo dục và đào tạo:
Tỷ lệ học sinh đến trường ở Tiểu học và Trung học Cơ sở đạt 100%. Các ngành học
được duy trì và mở rộng, công tác giáo dục ở vùng sâu, vùng xa được đặc biệt quan tâm.
Chất lượng dạy và học ngày càng được nâng cao [33].
Cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ cho dạy học được trang bị tốt hơn. Việc dạy nghề,
bồi dưỡng kiến thức cho người lao động được chú trọng hơn [33].
c. Y tế
Mạng lưới y tế đang được nâng cấp đáp ứng bước đầu yêu cầu chăm sóc sức khoẻ
ban đầu của nhân dân. Các xã đã có trạm y tế xã riêng, các trạm y tế đều là nhà cấp 4, mỗi
trạm có từ 3 đến 7 cán bộ y tế. Ngoài ra, có một Bệnh viện đa khoa Cát Bà tại thị trấn Cát
Bà và một số cơ sở y tế tư nhân là dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, khám và chữa bệnh cho
nhân dân. Các chương trình y tế quốc gia được triển khai và thực hiện tốt, tình trạng vệ
sinh an toàn thực phẩm được cải thiện. Các dịch bệnh lớn được kiểm soát tương đối hiệu
quả. Các bệnh xã hội (lậu, giang mai, SIDA) được tích cực phòng chống và bài trừ [33].
Nhìn chung, chất lượng dịch vụ y tế trên địa bàn còn thấp do thiếu thốn cơ sở vật chất và
40. 33
trình độ chuyên môn của đội ngũ y, bác sỹ còn hạn chế. Mạng lưới y tế hiện tại mới đủ
năng lực đáp ứng nhu cầu bước đầu về chăm sóc y tế của nhân dân trong huyện chứ chưa
đủ khả năng đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh cho khách du lịch (nhất là khách du lịch
nước ngoài).
2.1.4. Điều kiện xã hội ảnh hưởng đến phát triển bền vững du lịch sinh thái tại
KDTSQ quần đảo Cát Bà
2.1.4.1. Giao thông
a. Đường bộ
Hệ thống đường bộ được nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của người
dân, phát triển du lịch, kinh tế, xã hội. Tính đến năm 2004, toàn huyện Cát Hải đã có
191,125 km đường bộ, gồm 28,045 km đường tỉnh, 48,38 km đường huyện và 29,5 km
đường xã và liên xã, còn lại là đường thôn, xóm. Đường tỉnh và 63% đường huyện được
rải nhựa, còn lại đã được bê tông hóa [33]. Các tuyến đường bộ ở KDTSQ quần đảo Cát
Bà gồm Đường ven biển từ Thị Trấn Cát Bà đến Phà Cái Viềng qua các xã Trân Châu,
Xuân Đám, Hiền Hào, Phù Long, Đường xuyên đảo (từ Thị Trấn Cát Bà đi bến Gia Luận
qua Khe Sâu, Đồng Cỏ, Trung Trang, Gia Luận); tuyến đường trung tâm bên bờ vịnh
Tùng Vụng (đường trong khu du lịch cảng cá Cát Bà); tuyến đường du lịch Vườn Quốc
Gia Cát Bà - bến phà Gia Luận (nằm trến tuyến đường du lịch thị trấn Cát Bà - Gia Luận -
Tuần Châu) và tuyến Vườn Quốc Gia - Cái Viềng.
b. Đường thuỷ:
Với đặc điểm là một quần đảo, giao thông đường thủy có vị trí quan trọng trong phát
triển. Hiện nay, có các tuyến đường thủy chủ yếu ở KDTSQ quần đảo Cát Bà là tuyến Cát
Bà - Cát Hải - Hải Phòng, tuyến Gia Luận - Tuần Châu, tuyến bến Bính - Cát Bà, liên vận
trọn gói kết hợp thủy, bộ (tàu, xe), tuyến Cát Bà - Hòn Gai (Quảng Ninh).
Khu vực đảo Cát Bà hiện có một cầu cảng (bến tàu khách hiện tại ở thị trấn Cát
Bà) và ba bến (Bến Bèo, Bến Phà Cái Viềng, Bến phà Tuần Châu - Gia Luận) phục vụ
cho giao thông thuỷ nội huyện và từ huyện đi Hải Phòng, Quảng Ninh.
Số phương tiện tham gia hoạt động du lịch - dịch vụ trên địa bàn tăng cả về số lượng
và chất lượng. Tổng số phương tiện vận chuyển khách du lịch hiện đang hoạt động bao
gồm 145, trong đó có 77 tàu và 68 ô tô [33]. Hiện nay ngoài các công ty, doanh nghiệp
41. 34
Nhà nước làm công tác dịch vụ vận tải hành khách tuyến Hải Phòng - Cát Bà và Cát Hải -
Quảng Ninh, trên địa bàn huyện có 1 hợp tác xã dịch vụ vận tải, gần 100 tàu thuyền, 60 xe
công nông và trên 400 xe mô tô làm công tác dịch vụ vận tải hành khách thuỷ bộ và vận
tải hàng hoá [33].
2.1.4.2. Hệ thống cung cấp điện
Hiện nay đã có đường lưới điện tới Vườn và Vườn đã xây dựng trạm hạ thế, đường
điện nội bộ cho phân khu dịch vụ hành chính. Những nhà bè nuôi ở trong các vịnh cũng
có điện trực tiếp [33]. Tuy nhiên, quãng đường từ trung tâm vườn quốc gia tới trung tâm
thị trấn Cát Bà chưa có điện, nguy hiểm cho du khách và người dân khi di chuyển buổi tối
đặc biệt điều kiện mưa, gió.
2.1.4.3. Hệ thống cấp, thoát nước
Hiện nay, phân khu dịch vụ hành chính đang sử dụng nguồn nước giếng khoan, sau
khi lọc sơ bộ được bơm cấp lên một tháp nước để cấp đến các công trình. Tuy nhiên, quy
mô và chất lượng nước không đảm bảo nhu cầu sử dụng. Hầu hết các trạm đều sử dụng
nước mưa để thay thế cho nước dưới đất [33].
Nước ngọt được lấy chủ yếu từ nguồn nước ngầm từ các giếng khoan, nước suối,
nước mưa. Chất lượng nước các nguồn này chưa được đảm bảo do nước được bơm trực
tiếp từ giếng khoan, không qua khâu xử lý lắng và lọc nên không bảo đảm các tiêu chuẩn
vệ sinh. Đặc biệt, vào thời điểm ít mưa, nguồn nước cạn kiệt, cư dân trên đảo phải mua
nước từ thành phố Hải Phòng. Do đó, trong các năm 2010-2011 một số hồ chứa nước đã
được tiến hành xây dựng tại Trân Châu, Xuân Đám với dung tích hồ chưa lên tới hàng
trăm ngàn m3
góp phần cải thiện đáng kể khả năng cung cấp nước sinh hoạt trên quần đảo
Cát Bà [33].
Khu trung tâm sử dụng hệ thống rãnh hở thu gom nước mưa và nước thải từ các
công trình, sau đó thoát tự nhiên về chỗ trũng hoặc thấm xuống đất.
2.1.4.4. Hệ thống thu gom, xử lí rác thải
Rác thải đến từ các hoạt động dân sinh, dịch vụ du lịch, ăn uống và hoạt động nuôi
trồng, chế biến thủy hải sản. Cát Bà không có bãi chôn lấp chất thải rắn lâu dài. Rác thải được
thu gom hàng ngày, tập trung tại 02 bãi rác Đồng Trong và Đồng Sam [33]. Rác thải chưa có
phương án để xử lí. Rác trên vịnh các vịnh được thu gom bằng tàu, thuyền. Hàng ngày, đội
42. 35
thu gom rác thu gom khoảng 10 tấn/ngày, chủ yếu từ trên biển và các nhà bè. Rác chủ yếu là
rác sinh hoạt từ các nhà bè, rác từ hoạt động du lịch của tàu thuyền trên vịnh. Tuy nhiên,
nguồn rác thải gây ô nhiễm và tác động lớn nhất là chất thải từ thức ăn cho cá hòa tan vào
nước. Năm 2012 chính quyền địa phương đề xuất dự án xây dựng hệ thống thu gom rác thải
các khu vực trên địa bàn thị trấn Cát Bà.
2.2. Thực trạng phát triển du lịch sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển quần đào
Cát Bà
2.2 1. Tài nguyên du lịch sinh thái KDTSQ Quần đảo Cát Bà
Bảng 2.2. Tổng hợp tài nguyên sinh học tại KDTSQ Quần đảo Cát Bà
Nguồn
tài
nguyên
Đặc điểm Hoạt động du lịch sinh thái
Tài
nguyên
sinh
học
Đa dạng hệ
sinh thái
Có nhiều hệ sinh thái khác nhau
như: Rừng tự nhiên (nguyên sinh)
mưa ẩm nhiệt đới, rừng thứ sinh
nghèo thường xanh mưa ẩm nhiệt
đới trên núi đá, rừng ngập mặn
ven biển, rừng cây ngập nước
thung núi đá vôi, các bãi triều
xung quanh đảo, các rạn san hô,
các dạng áng (hồ nước mặn giữa
núi)....
Leo núi, tham quan, lặn biển,
ngắm san hô
Đa dạng loài Đa dạng và phong phú, về động
vật, thực vật trên cạn và hệ sinh
vật biển: có 3.956 loài sinh vật
nhiều loài cây ăn quả như vải,
nhãn, hồng
Tham quan, tìm hiểu thiên
nhiên, kết hợp du lịch cộng
đồng
Nguồn gen
quý hiếm
Có 60 loài thực vật và 22 loài
động vật đặc hữu, quý hiếm được
liệt kê trong sách đỏ Việt Nam;
Tham quan
43. 36
có 29 loài thực vật và 07 loài
động vật trong Sách đỏ Thế giới
như Voọc Cát Bà (Voọc đầu
vàng), Sơn dương (Than), Thạch
sùng mí Cát Bà, Tuế Hạ Long
(Cycas tropophylla), Chò đãi
(Annamocarya chinensis), Kim
giao (Podocarpus fleuryi), Lát
hoa (Chukrasia tanbularis), có 8
loài rong, 8 loài động vật đáy là
các loài quí hiếm đã được đưa
vào Sách đỏ Việt Nam và Thế
giới. Nhiều loài có giá trị kinh tế
cao như Trai ngọc, Vẹm xanh, Tu
hài, cá ngựa, đồi mồi
Nguồn lợi
thủy sản lớn
Trữ lượng hải sản lớn.
Có nhiều bè nuôi thủy hải sản
Trải nghiệm kết hợp tham
quan trên vịnh, các đảo
Tài
nguyên
cảnh
quan
Bãi và bãi
biển
Có hàng trăm bãi tắm, trong đó
có khoảng 30 bãi biển có thể khai
thác cho hoạt động du lịch.
Các bãi tắm vừa, sóng nhỏ, nước
biển trong xanh, bờ cát trắng mịn
như Cát Cò, Cát Dứa, Cát Tiên,
Tùng Thu, Ba Trái Đào, bãi biển
Vạn Bội...
Tắm biển, lặn biển, xem san
hô, chèo thuyền kayak, câu
cá, câu mực
Hệ thống đảo
núi đá vôi
Có 366 hòn đảo nhỏ khác với
nhiều hình thù riêng tạo cảnh
quan độc đáo, sinh cảnh độc đáo
như: Vịnh Lan Hạ, vùng vịnh
Leo núi, chèo thuyền,lặn
biển, kết hợp du lịch mạo
hiểm
44. 37
Việt Hải, khu Vạn Bội… Nhiều
đảo có hình dạng kỳ lạ, bờ đảo có
nhiều mũi nhô, cung lõm và
nhiều bờ vách dốc đứng. Đa số
các đảo có thềm san hô viền
quanh và trên đảo có hồ nước
mặn có các cấu trúc Tùng, Áng
trong hệ thống các đảo.
Rừng nguyên
sinh
Diện tích lớn rừng kín thường
xanh nguyên sinh trên núi đá vôi,
có nhiều cây cổ thụ, tuổi đời hàng
ngàn năm và các loài động thực
vật quý hiếm. Có các loại rừng
như rừng núi thấp và ven thung
lũng, rừng trên núi đá dốc, rừng
trên đỉnh núi cao, rừng ngập nước
nội địa (Ao Ếch).
Thăm quan, leo núi, khám
phá thiên nhiên trong rừng
Hệ thống
hang động kì
thú
Địa hình karst (đá vôi), với nhiều
hang động kỳ thú, hoang sơ như
động Quả Vàng, động Thiên
Long, động Trung Trang, hang
Vẹm, Tiền đức, v.v…
Có trên 10 hang động đã đưa vào
sử dụng khai thác phục vụ du
lịch.
Thăm quan, khám phá
Hệ thống
suối hồ
Có hệ thống suối nổi tiếng như:
Suối Thuồng Luồng (xã Trân
Châu), suối Trung Trang, suối
Treo Cơm (khu Đồng Cỏ). Theo
Tham quan, kết hợp du lịch
nghỉ dưỡng, chữa bệnh