SlideShare a Scribd company logo
1 of 102
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ XUÂN GIANG
Mét sè vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn
vÒ c¸c dÊu hiÖu cña lçi cè ý vµ v« ý
theo LuËt h×nh sù ViÖt Nam
LUẬT VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ XUÂN GIANG
Mét sè vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn
vÒ c¸c dÊu hiÖu cña lçi cè ý vµ v« ý
theo LuËt h×nh sù ViÖt Nam
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬT VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN VĂN LUYỆN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đỗ Xuân Giang
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục biểu đồ
MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DẤU HIỆU LỖI
CỐ Ý VÀ LỖI VÔ Ý TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM............7
1.1. Khái niệm và cơ sở lý luận của lỗi trong luật hình sự Việt Nam..........7
1.2. Khái niệm, đặc điểm của dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý theo quy
định của Luật hình sự Việt Nam...................................................15
1.2.1. Lỗi cố ý phạm tội.............................................................................16
1.2.2. Lỗi vô ý phạm tội.............................................................................20
1.3. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong quá trình phát triển của
luật hình sự Việt Nam.................................................................... 25
1.3.1. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ
trước khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.............. 25
1.3.2. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ
1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985...................28
1.3.3. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985...31
1.3.4. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 sửa đổi bổ sung năm 2009....................................................... 36
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG DẤU HIỆU LỖI CỐ Ý VÀ LỖI
VÔ Ý TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .............................38
2.1. Một số vấn đề thực tiễn liên quan dến dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi
vô ý theo quy định của Luật hình sự Việt Nam............................ 38
2.2. Thực tiễn định tội danh liên quan đến dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi
vô ý theo quy định của Luật hình sự Việt Nam............................ 52
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt liên quan đến dấu hiệu lỗi cố
ý và lỗi vô ý theo quy định của Luật hình sự Việt Nam............... 59
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG DẤU HIỆU LỖI CỐ Ý VÀ LỖI VÔ Ý
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM........................................65
3.1. Phương hướng hoàn thiện dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong
luật hình sự Việt Nam.................................................................... 65
3.1.1. Hoàn thiện khái niệm lỗi, lỗi cố ý, lỗi vô ý ......................................65
3.1.2. Hoàn thiện quy định về dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong cấu
thành tội phạm................................................................................. 71
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và
lỗi vô ý trong Luật hình sự Việt Nam ...........................................75
3.2.1. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của chủ thể
tiến hành tố tụng hình sự.................................................................. 75
3.2.2. Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật
hình sự về dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý............................................ 83
3.2.3. Tăng cường trao đổi, nghiên cứu pháp luật nước ngoài về dấu
hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự ....................................... 89
KẾT LUẬN................................................................................................. 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................94
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 3.1: Mô tả tỉ lệ số cấu thành tội phạm có quy định
trong nội dung dấu hiệu lỗi cố ý phạm tội, lỗi vô
ý phạm tội và không quy định dấu hiệu lỗi 71
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lỗi là một vấn đề phức tạp và quan trọng được nhiều ngành luật quan
tâm nghiên cứu. Trong luật hình sự Việt Nam, chế định lỗi có vị trí vô cùng
đặc biệt, thể hiện trong nguyên tắc có lỗi – một trong những nguyên tắc cơ
bản của luật hình sự. Lỗi cho phép xác định rằng, tội phạm không chỉ là kết
quả của hành vi nguy hiểm cho xã hội - biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách
quan mà còn là sự nhận thức, là hệ quả của thái độ tâm lý của chủ thể - biểu
hiện bên trong. Người phải chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt
Nam không chỉ đơn thuần là người đã có hành vi khách quan gây thiệt hại cho
xã hội mà còn vì họ đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi khách quan đó. Với
nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc “truy tội khách
quan”, nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự con người chỉ dựa trên cơ sở
hành vi khách quan mà không xét đến lỗi của họ. Nguyên tắc có lỗi xuất phát
từ chính chức năng giáo dục của luật hình sự. Luật hình sự đặt ra vấn đề trách
nhiệm hình sự và hình phạt đối với người phạm tội, chủ yếu để giúp họ nhận
ra lỗi lầm của mình, cải tạo và sớm trở hành người lương thiện, nhanh chóng
hòa nhập với cộng đồng xã hội. Đó cũng chính là mục đích quan trọng của
hình phạt. Chức năng giáo dục không thể thực hiện được khi truy cứu trách
nhiệm hình sự của một người mà họ không có lỗi vì như vậy cũng trái với
nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam. Theo đó, lỗi được ghi nhận ngay tại
khái niệm tội phạm tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999. Đồng thời
trong đó, Điều 9 và Điều 10 đã xác định và phân biệt hai hình thức lỗi là cố ý
phạm tội và vô ý phạm tội. Cố ý phạm tội gồm cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp.
Vô ý phạm tội gồm vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả. Mỗi tội phạm chỉ
được thực hiện bằng hình thức lỗi hoặc cố ý hoặc vô ý. Tuy nhiên, trên thực tế,
2
liên quan đến nội dung này, còn có trường hợp nhận thức chưa đúng, chưa
đầy đủ, chưa thống nhất về lý luận, dẫn tới hạn chế trong hoạt động thực tiễn
cũng như nghiên cứu khoa học. Đây là lý do để tác giả lựa chọn đề tài: “Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật
hình sự Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý đều được nghiên cứu về mặt lý luận trong
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật.
Ngoài ra, có nhiều công trình nghiên cứu về lỗi cố ý và lỗi vô ý ở những khía
cạnh khác nhau, cụ thể: Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo sau đại học:
Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung), NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hòa (2005), Tội phạm và cấu thành tội
phạm, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hòa (2004), Cấu thành
tội phạm: Lý luận và thực tiễn, NXB Tư pháp, Hà Nội; Đào Trí Úc (2000),
Luật hình sự Việt Nam, Quyển I: “Những vấn đề chung”, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong Luật hình
sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân; Lê Thị Thu Thủy (2003), Nguyên tắc
trách nhiệm trên cơ sở lỗi trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật
học, Trường đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thị Lan Anh (2011), Những vấn
đề lý luận và thực tiễn về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc
sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Nhuần (2001),
Lỗi cố ý trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Ngoài ra, dấu hiệu lỗi cố ý và vô ý cũng được nghiên cứu trong các bài
báo, tạp chí như: Nguyễn Ngọc Hòa, Đánh giá mức độ lỗi ở các tội cố ý xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, Tạp chí Luật học, số 1/1996; Lê Cảm, Hoàn thiện
chế định lỗi trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành – Một số vấn đề lý
3
luận và thực tiễn, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/1998; Đào Trí Úc, Nhận
thức đúng đắn hơn nữa các nguyên tắc về trách nhiệm cá nhận và về lỗi trong
việc xử lý trách nhiệm hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9/1999;
Trần Quang Tiệp, Một số vấn đề lỗi trong Luật hình sự Việt Nam, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 11/1999; Nguyễn Văn Trượng,Xác định lỗi của
người phạm tội trong tình trạng say rượu, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
8/2001; Nguyễn Văn Hương, Lỗi cố ý gián tiếp và tội phạm có cấu thành hình
thức, Tạp chí Luật học, số 4/2002; Nguyễn Thị Thu Hồng, Trao đổi về việc
xác định lỗi trong các vụ án tai nạn giao thông, Tạp chí Kiểm sát, số 7/2005;
Đỗ Đức Hồng Hà, Các tình tiết định khung tăng nặng trong tội giết người
phản ánh mức độ lỗi và các đặc điểm về nhân thân người phạm tội, Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 18/2005; Lê Văn Luật, Áp dụng nguyên tắc lỗi trong các
tội “Vi phạm an toàn giao thông”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12/2006;
Đinh Thế Hưng, Yếu tố lỗi trong dấu hiệu định khung hình phạt gây thương
tích và hành hung để tẩu thoát trong một số tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 21/2006; Đỗ Văn Chỉnh, Các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự phản ánh cách thức thực hiện tội phạm và mức độ lỗi của
người phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2009; Lê Văn Luật, Xác định
lỗi khi định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội “Vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” – Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn áp dụng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2011; Hoàng Quảng Lực, Bàn
về nhận thức Yếu tố lỗi trong xét xử án hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
24/2012; Văn Thị Hồng Nhung, Xác định lỗi như thế nào để xét xử cho đúng,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20/2013; Lê Văn Luật, Bàn về một số nội dung
khái niệm lỗi hình sự trong Bộ luật hình sự hiện hành áp dụng trong công tác
xét xử, Tạp chí Nghề Luật.
Khi nghiên cứu tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự (Phần riêng –
4
Phần các tội phạm), các tác giả đều có sự nhận thức về dấu hiệu lỗi – cố ý hay
vô ý. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu một
cách toàn diện, có hệ thống và sâu sắc về lỗi cố ý và vô ý dưới góc độ lý luận
và thực tiễn áp dụng. Do đó cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu toàn diện, hệ
thống về vấn đề này để xây dựng thống nhất lý luận về dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi
vô ý, góp phần thiết thực trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn
đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và lỗi vô ý trong Luật
Hình sự Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu dưới góc độ pháp lý
hình sự.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm
sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng dấu hiệu lỗi
cố ý và vô ý trong luật hình sự Việt Nam, qua đó đề xuất phương hướng hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật
hình sự Việt Nam..
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Về mặt lý luận, trên cơ sở đối tượng và
phạm vi nghiên cứu, tác giả làm sáng tỏ về khái niệm lỗi, các đặc điểm của lỗi
cố ý và lỗi vô ý, sự hình thành và phát triển dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong
lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam. Về mặt thực tiễn, đánh giá việc áp dụng
dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong việc định tội danh, và quyết định hình phạt.
Từ đó kiến nghị các phương hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng
dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Dựa trên chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
5
Chí Minh và quan điểm về chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, kết
hợp với tri thức của các ngành khoa học khác như luật học, tâm lý học, xã hội
học, thống kê học… để nhận thức và luận chứng các vấn đề nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trong luận văn, tác giả sử dụng các
phương pháp nghiên cứu chung của nhiều ngành khoa học, như: Phương pháp
so sánh, tổng hợp, phân tích, thống kê… để làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Trong luận văn, tác giả đã tập trung nghiên cứu một cách cụ thể, khoa
học và có hệ thống những vấn đề và thực tiễn về lỗi cố ý và vô ý theo quy định
của luật hình sự Việt Nam. Cụ thể:
1) Phân tích những vấn đề lý luận về các dấu hiệu của lỗi cố ý và lỗi vô ý
theo quy định của luật hình sự Việt Nam như: khái niệm lỗi, cơ sở lý luận của
lỗi; khái niệm, đặc điểm của lỗi cố ý và lỗi vô ý; quá trình hình thành và phát
triển của dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong lịch sử lập pháp hình sự nước ta.
2) Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật của cơ quan xét xử liên quan
đến dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý về định tội danh, quyết định hình phạt trong
giai đoạn hiện nay.
3) Đề xuất phương hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng dấu
hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu cụ thể, thống nhất, đề cập một cách có
hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận về các dấu hiệu của lỗi cố ý và lỗi
vô ý theo luật hình sự Việt Nam. Ngoài ra, luận văn đã xác định đúng đắn
những vấn đề về lỗi cố ý và vô ý trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn xét xử.
Bên cạnh đó, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết
cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn, sinh viên, học viên cao học
cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn nghiên cứu,
áp dụng pháp luật hình sự.
6
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý
trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật
hình sự Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng dấu
hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DẤU HIỆU LỖI CỐ Ý VÀ
LỖI VÔ Ý TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và cơ sở lý luận của lỗi trong luật hình sự Việt Nam
Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 1999 quy định:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa [11, Điều 8].
Như vậy, một trong những nguyên tắc quan trọng được thể hiện trong
khái niệm tội phạm đó là “nguyên tắc có lỗi”. Đây là nguyên tắc cơ bản trong
luật hình sự Việt Nam. Hay nói cách khác, người phải chịu trách nhiệm hình
sự theo luật hình sự Việt Nam không phải chỉ đơn thuần vì người này đã có
hành vi khách quan gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ mà còn vì đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi
khách quan đó. Nguyên tắc này cũng khẳng định, luật hình sự Việt Nam
không chấp nhận việc “quy tội khách quan”, nghĩa là truy cứu trách nhiệm
hình sự con người chỉ dựa trên cơ sở hành vi khách quan mà không xét đến
lỗi của họ. Nguyên tắc có lỗi thể hiện chính sách hình sự tiến bộ, đúng đắn,
thừa nhận và tôn trọng tự do thực sự của con người, là cơ sở đảm bảo cho vấn
đề trách nhiệm hình sự có khả năng khách quan thực hiện được mục đích của
8
hình phạt quy định tại Điều 27 Bộ luật hình sự năm 1999: “… không chỉ
nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm giáo dục họ trở thành người có
ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã
hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới” [11, Điều 27].
Hiện nay, đề cập đến khái niệm lỗi, có nhiều cách diễn đạt khác nhau:
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới
hình thức cố ý hoặc vô ý [15].
Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu
hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện
khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi
hỏi của xã hội. Theo đó, lỗi trong luật hình sự, trước hết được hiểu là quan hệ
giữa người phạm tội với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định chủ quan
những đòi hỏi của xã hội đã được thể hiện qua các đòi hỏi cụ thể của luật hình
sự. Sự phủ định chủ quan này tồn tại trên cơ sở và trong sự thống nhất với sự
phủ định khách quan là sự gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là khách thể bảo
vệ của luật hình sự. Cũng như quan hệ giữa khách quan và chủ quan, sự phủ
định khách quan có thể tồn tại độc lập không cần có sự phủ định chủ quan
nhưng sự phủ định chủ quan chỉ tồn tại khi có sự phủ định khách quan [15].
Điều này khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa lỗi – dấu hiệu thuộc mặt chủ
quan của tội phạm với hành vi khách quan của tội phạm – dấu hiệu thuộc mặt
khách quan của tội phạm. Chỉ có thể nói đến hành vi khách quan – hành vi
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm khi hành vi đó đi liền với lỗi, và ngược lại,
không thể nói đến lỗi khi không có hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội. Hay
nói cách khác, lỗi được đề cập với tư cách là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt chủ
quan của tội phạm là lỗi của cá nhân, lỗi của một con người cụ thể khi người
đó thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội.
9
Hay:
Lỗi hình sự là mặt chủ quan của tội phạm và là một trong
những điều kiện bắt buộc của trách nhiệm hình sự, đồng thời là thái
độ tâm lý của người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị
luật hình sự cấm mà người đó thực hiện và hậu quả do hành vi ấy
gây nên dưới hình thức cố ý hoặc vô ý [4, tr.422].
Lỗi là sự phủ định chủ quan đòi hỏi của xã hội. Chủ thể bị coi
là có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nếu họ đã lựa
chọn hành vi đó trong khi có đủ điều kiện lựa chọn xử sự khác phù
hợp với đòi hỏi của xã hội [7, tr.87-88].
Như vậy, dù dưới góc độ nào thì lỗi cũng là điều kiện quan trọng để có thể
truy cứu trách nhiệm hình sự của một cá nhân về hành vi gây thiệt hại cho xã hội
của họ. Tại sao lại như vậy? Trên cơ sở nào mà xã hội có thể buộc con người
phải chịu trách nhiệm về hành vi của họ? Bởi vì, con người phải chịu trách
nhiệm về hành vi của mình xuất phát từ thực tế, hành vi của con người có tính tất
yếu đồng thời có tính tự do. Tính tất yếu của hành vi con người thể hiện ờ chỗ
hành vi được hình thành không phải một cách ngẫu nhiên, tách rời những điều
kiện xã hội mà được hình thành một cách có quy luật, là kết quả của sự tác động
giữa những điều kiện xã hội và con người. Tuy vậy, xử sự của con người không
phải có tính tất yếu tuyệt đối. Chủ nghĩa Mác – Lênin tuy thừa nhận tính tất yếu,
thừa nhận tính quy định trước trong xử sự của con người nhưng dựa trên cơ sở lý
luận về mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên, giữa tự do và tất
yếu, giữa quy luật và hoạt động của con người, chủ nghĩa Mác – Lênin cũng
không phủ nhận tự do ý chí của con người. Mọi xử sự của con người đều chịu sự
chi phối của quy luật khách quan nhưng con người nhờ hoạt động ý thức có khả
năng nhận thức được quy luật và lợi dụng quy luật thực hiện mục đích của mình.
10
Đó là tự do của con người. Quan điểm này không những bác bỏ thuyết định
mệnh cho rằng quy luật là tuyệt đối, con người chỉ là công cụ của hoàn cảnh mà
còn bác bỏ cả thuyết duy ý chí đã dề cao ý chí của con người giữ vai trò quyết
định, phủ nhận quy luật và tính tất yếu. Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định xử
sự của con người có tính quy định trước nhưng đối với chính xử sự của mình con
người vẫn có tự do, quyết định và thực hiện xử sự phù hợp với những quy luật tự
nhiên và xã hội đã nhận thức được. Xử sự của con người tuy chịu sự tác động
của điều kiện kinh tế, xã hội nhưng không phải là kết quả trực tiếp của riêng điều
kiện kinh tế, xã hội vì “mọi sự tác động của một hiện tượng lên một hiện tượng
khác đều bị khúc xạ bởi các thuộc tính bên trong của hiện tượng bị tác động”.
Các nguyên nhân bên ngoài tác động đến con người không phải một cách máy
móc mà phải thông qua sự suy xét (lí trí) và sự quyết định (ý chí) của họ. Để
thỏa mãn bất kỳ nhu cầu nào trong đời sống cũng đều có nhiều biện pháp giải
quyết và việc lựa chọn biện pháp nào là kết quả của hoạt động lí trí và ý chí.
Chính vì vậy, trong những điều kiện khách quan giống nhau, mỗi người có thể
lựa chọn biện pháp xử sự khác nhau. Con người khi đã có quyền lựa chọn là có
tự do. Tự do ý chí là khả năng tâm lý của con người có thể tự mình lựa chọn và
thực hiện biện pháp xử sự trong những điều kiện xã hội nhất định. Người đã lựa
chọn biện pháp xử sự trái pháp luật khi có thể xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã
hội thì phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Tự do ý chí là cơ sở để
lên án người có hành vi trái pháp luật. Có nghĩa là, tự do là cơ sở của trách
nhiệm và trách nhiệm chỉ đặt ra cho con người khi họ có tự do. Người xử sự trái
với lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội trong khi có tự do thì có nghĩa họ là
người có lỗi. Do đó, trách nhiệm chỉ đặt ra cho người có lỗi [15, tr.129-131].
Có thể thấy rằng, luật hình sự với tư cách là một trong những ngành
luật cơ bản nhất xuất hiện nay ngay từ thời cổ đại - mặc dù thời kỳ này, chưa
được xác định với tính chất là ngành khoa học như hiện nay. Theo đó, triết
11
học đã ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình phát triển của khoa học luật hình sự
nói chung và chế định lỗi nói riêng. Vì vậy, các trường phái tồn tại trong lịch
sử triết học cũng đóng vai trò nhất định đối với khoa học luật hình sự hiện đại.
Cụ thể: Về mặt thần học trong khoa học luật hình sự Đức ngay từ những năm
70 của thế kỷ XVII, thì người đã thực hiện tội phạm có dự mưu phải chịu
trách nhiệm về tội ác của mình (Pufendort). Trong thời kỳ khai sáng, khoảng
thế kỷ thứ XVIII, nhà luật học Cesare Beccaria đã nêu quan điểm pháp lý
hình sự có liên quan ở một mức độ nhất định đến cơ sở phương pháp luận của
lỗi là: 1) Vấn đề trách nhiệm hình sự và hình phạt không thể gắn liền với sự
khái niệm lỗi về mặt đạo đức và không thể thước đo duy nhất và đích thực
của tội phạm là sự thiệt hại; 2) Hình phạt cần được áp dụng chỉ khi nào có sự
cần thiết tuyệt đối chứ không phải là sự chịu trách nhiệm vì lỗi. Theo quan
điểm triết học duy tâm – chủ quan của nhà triết học nổi tiếng người Đức Kant
I. thì: 1) Tự do ý chí là ở chỗ - trong tất cả các hành vi của chủ thể chính nó là
pháp luật; 2) Sự buộc tội và hình sự là một dạng của trách nhiệm đạo đức, mà
cơ sở của nó coi chủ thể là nguyên nhân tự do của một hành vi được thực hiện.
Còn theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen thì: 1) Sự
hiện diện của ý chí và lí trí chính là điều kiện chung của sự buộc tội; 2) Lỗi là
ở trong sự khẳng định rằng, chủ thể là người biết suy nghĩa đã nhận thức và
đã mong muốn…. [4, tr.419-421]. Ông đã từng khẳng định: “Tự do là nhận
thức được cái tất yếu, tất yếu sẽ mù quáng khi con người chưa nhận thức
được nó” [9, tr.192]. Bên cạnh đó, những đại diện xuất sắc của trường phái
triết học duy tâm đã xây dựng thành hệ thống lý luận các nguyên tắc, chế
định… trong đó đã đề cập đến nguyên tắc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm
hình sự. Trường phái này cho rằng, cần phân biệt ý định độc ác (cố ý) với sự
không thận trọng (vô ý) như là hai hình thức lỗi chủ yếu. Bên cạnh đó, những
người đại diện cho trường phái cổ điển trong khoa học luật hình sự thì lỗi và
12
trách nhiệm hoàn toàn dựa trên ý chí tự do tuyệt đối của con người, mà người
này trong những điều kiện hoàn toàn như nhau có thể lựa chọn bất kỳ quyết
định nào không trái với mình. Đặc biệt là Bernher A. – nhà hình sự học người
Đức thuộc trường phái này đã coi cơ sở của việc buộc tội về hình sự là ý chí
hoặc tự do của con người, được thể hiện trong sự hành động tùy tiện của cá
nhận và phù hợp với động cơ, quyết tâm và ý định bên trong của người đó.
Còn nhà hình sự học người Đức nổi tiếng Phơbách A. trong thời kỳ đầu đã coi
là sự buộc tội không phụ thuộc vào tự do ý chí, nhưng sau đó đã thay đổi quan
điểm và thừa nhận tự do ý chí là điều kiện của sự buộc tội do lỗi. Những nhà
nghiên cứu thuộc trường phái xã hội học trong khoa học luật hình sự cho
rằng: 1) Lỗi của chủ thể được coi là tình trạng nguy hiểm của người đó; 2) Ba
phạm trù (lỗi, tình trạng năng lực, và tình trạng không có năng lực) chính là
các tiêu chí của tính nguy hiểm cho xã hội của một hành vi…
Chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời, khẳng định tội phạm với tư cách là một
phạm trù lịch sử, một hiện tượng xã hội. Tội phạm chỉ xuất hiện khi trong xã
hội xuất hiện chế độ tư hữu, có sự phân chia giai cấp, mâu thuẫn gay gắt làm
nảy sinh đấu tranh giai cấp. Theo đó, con người phải chịu trách nhiệm về
hành vi của mình. Khi con người lựa chọn một hành vi phù hợp với những
chuẩn mực của xã hội để đạt được mục đích, thỏa mãn nhu cầu của mình thì
đó là hành vi hợp pháp. Ngược lại, nếu trong quá trình thực hiện hành vi, con
người lại lựa chọn hành vi sai lệch với các chuẩn mực xã hội, trái pháp luật
thì hành vi đó là bất hợp pháp, và tất nhiên phải chịu trách nhiệm về hành vi
của mình. Hoạt động của con người bị chi phối bởi các quy luật khách quan
nhưng nhờ hoạt động có ý thức, con người nhận thức và áp dụng các quy luật
đó để thực hiện mục đích của mình. Mặt khác, con người là thực thể sinh vật
với bộ óc thông minh và hoàn thiện nhất, do đó, tất cả những gì tác động đến
con người, thúc đẩy hành vi của con người đều phải thông qua bộ óc. Hoạt
13
động của con người không chỉ là kết quả tác động trực tiếp của các điều kiện
lịch sử mà còn chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoạt động tâm lý. Theo đó, tự do
tồn tại khi con người có quyền lựa chọn một xử sự phù hợp với các quy luật.
Ngược lại, con người sẽ bị tước bỏ sự tự do khi họ xử sự không phù hợp với
quy luật. Xử sự của con người mang tính quy luật nhưng không có nghĩa là
mang tính tuyệt đối. Khi sống trong cùng một xã hội, có người thực hiện tốt
các trách nhiệm của một thành viên trong xã hội, cũng có người phạm tội, có
người không phạm tội, có người thực hiện tội phạm lần đầu, cũng có người
thực hiện tội phạm nhiều lần… Đó cũng chính là tự do của con người. Sự tự
do của con người phụ thuộc vào các điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể cũng như
bản chất của chế độ xã hội. Vì vậy, con người tồn tại trong xã hội phải dựa
trên cơ sở sự tự do của mình, đáp ứng những đòi hỏi có tính quy luật của xã
hội – chính là pháp luật và đạo đức xã hội. Đây cũng chính là vấn đề trách
nhiệm của cá nhân trong xã hội, phù hợp với sự tự do của cá nhân, qua đó
nhằm bảo đảm sự tự do của cá nhân khác. Triết học Mác – Lênin nghiên cứu
con người với hai vai trò chính: một là, sản phẩm của tự nhiên; hai là, bộ phận
của những quan hệ xã hội không thể tách rời khỏi xã hội. Các Mác cũng chỉ ra
rằng: Bản chất của con người không phải là cái gì trừu tượng sẵn có mà bản
chất của con người được thể hiện thông qua các mối quan hệ xã hội. Hay nói
cách khác, bản chất của con người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Con
người là một thực thể sinh vật có ý thức, thông qua nhận thức của mình, con
người tiếp nhận các vật xung quanh tạo nên mối quan hệ đối với xung quanh
và qua đó xác định hành vi của mình. Chính vì thế, khi xác định một hành vi
là tội phạm, cần thiết phải xem xét trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể
thực hiện hành vi, tức là trách nhiệm chỉ đặt ra khi có lỗi. Đây cũng chính là
cơ sở khoa học của nguyên tắc có lỗi trong luật hình sự Việt Nam dựa trên
chủ nghĩa Mác – Lênin.
14
Dưới góc độ tâm lý học, yếu tố lỗi được đề cập khi nghiên cứu về cấu
trúc tâm lý bên trong của hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội là trường hợp cá
biệt của hành vi con người, theo đó cũng là hành vi có ý thức – thể hiện sự
nhận thức và ý chí của chủ thể. Ý chí của hoạt động tâm lý con người luôn
luôn được xuất phát từ nhận thức, con người quyết định hành động trên cơ sở
đó. Một cá nhân ngay từ khi mới sinh ra, rõ ràng chưa xuất hiện tâm lý phạm
tội, tuy nhiên qua quá trình trưởng thành, hình thành nhân cách, với sự mở
rộng tầm nhìn (có thể theo hướng tích cực hoặc tiêu cực), trong những tình
huống cụ thể, do nhận thức hạn chế, cũng có khi không hiểu hết bản chất của
vấn đề, chủ thể không tự kiềm chế trước tình huống, dẫn tới những hành động
trái với các chuẩn mực, khi mà chính chủ thể không tính đến hậu quả do mình
gây ra đối với xã hội. Theo đó, quá trình hình thành nhân cách – những phẩm
chất mang tính đặc trưng của mỗi cá nhân, được thể hiện ra bên ngoài thông
qua những hành vi cụ thể và nó được bộc lộ một cách đầy đủ nhất ở những
thời điểm và trong những hoàn cảnh cụ thể đòi hỏi chủ thể phải thể hiện khả
năng ứng xử và quyết định lựa chọn phương thức hành động của mình, có ảnh
hưởng quan trọng đến việc quyết định lựa chọn hành vi, xử sự của cá nhân.
Sự phát triển của nhân cách, của năng lực hành vi hay năng lực ứng xử của
chủ thể là một quá trình lâu dài, đi từ thấp đến cao, gắn bó chặt chẽ với quá
trình phát triển tư duy. Trong quá trình hình thành nhân cách, những cá nhân
sinh sống trong những môi trường tiêu cực có thể hình thành khuynh hướng
chống đối xã hội, tuy nhiên không phải mọi trường hợp có khuynh hướng
chống đối xã hội là sẽ thực hiện hành vi phạm tội và ngược lại. Điều đó thể
hiện sự tương tác qua lại giữa các yếu tố thuộc về cá nhân với các yếu tố
thuộc về môi trường trong từng hoàn cảnh cụ thể khác nhau. Nghiên cứu lỗi
dưới góc độ tâm lý là một vấn đề không đơn giản. Đặc biệt với những tình
huống thực tế đa dạng bởi vì khi đánh giá thái độ chủ quan của cá nhân,
15
không chỉ dựa vào biểu hiện khách quan của hành vi mà còn phải căn cứ vào
diễn biến, trạng thái tâm lý bên trong của người đó. Trong luật hình sự Việt
Nam, lỗi được coi là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm và nguyên tắc
có lỗi là một nguyên tắc cơ bản, đặc trưng. Người phải chịu trách nhiệm hình
sự theo luật hình sự Việt Nam, không phải chỉ đơn thuần là có hành vi khách
quan gây thiệt hại cho xã hội mà còn vì đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi
khách quan đó cũng như hậu quả do hành vi đó gây nên [6].
1.2. Khái niệm, đặc điểm của dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý theo quy
định của Luật hình sự Việt Nam
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Như vậy, người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội sẽ được coi là có lỗi nếu khi thực hiện hành vi họ
nhận thức được và có đủ điều kiện để nhận thức được tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi, có đủ điều kiện lựa chọn và thực hiện hành vi khác phù hợp
với đòi hỏi của xã hội. Lỗi với bản chất là thái độ tâm lý nội tại của con người,
vì vậy lỗi có thể biểu hiện ở những mức độ khác nhau, có lỗi nặng, có lỗi nhẹ,
có lỗi cố ý, có lỗi vô ý. Theo đó, căn cứ đặc điểm cấu trúc tâm lý của yếu tố lý
trí và ý chí trong những trường hợp có lỗi, luật hình sự Việt Nam xác định hai
hình thức lỗi là cố ý phạm tội và vô ý phạm tội. Cố ý phạm tội bao gồm cố ý
trực tiếp và cố ý gián tiếp. Vô ý phạm tội bao gồm vô ý vì quá tự tin và vô ý
do cẩu thả. Yếu tố lý trí thể hiện năng lực nhận thức thực tại khách quan.
Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội như thế nào, thấy trước khả năng gây ra hậu quả của hành vi
hoặc không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho
xã hội do sơ xuất, cẩu thả mặc dù người phạm tội có thể hoặc có trách nhiệm
cần phải thấy trước khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi
của mình. Yếu tố lý trí xác định năng lực điều khiển hành vi trên cơ sở nhận
16
thức – người phạm tội mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra
hoặc cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Trong
chế định lỗi, yếu tố lý trí và ý chí có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thiếu một
trong hai yếu tố thì không bị coi là có lỗi. Hay nói cách khác, nếu chủ thể thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội hành vi của mình nhưng lại không điều khiển được hành vi
đó thì họ không có lỗi và ngược lại.
1.2.1. Lỗi cố ý phạm tội
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 quy định cụ thể về hai hình thức
lỗi cố ý:
Điều 9. Cố ý phạm tội
Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu
quả xảy ra;
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong
muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra [11, Điều 9].
Nội dung cơ bản của chế định lỗi được hợp thành bởi hai yếu tố là lý trí
và ý chí. Theo đó, sự kết hợp khác nhau giữa ý thức và ý chí tạo nên các hình
thức khác nhau của lỗi. Một người thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý thể
hiện sự chống đối xã hội cao hơn trường hợp lỗi vô ý, do đó trách nhiệm hình
sự và hình phạt áp dụng đối với họ sẽ nghiêm khắc hơn. Cố ý phạm tội theo
quy định của luật hình sự Việt Nam gồm hai trường hợp. Một là, chủ thể
phạm tội trong trường hợp nhận thức rõ hành vi của mình có tính chất nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu
quả xảy ra. Những trường hợp này, được gọi là cố ý trực tiếp. Ví dụ: Hành vi
17
cướp tài sản, hành vi trộm cắp tài sản, hành vi hiếp dâm… Hai là, chủ thể
phạm tội trong trường hợp nhận thức rõ hành vi của mình có tính chất nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó nhưng lại có ý thức để
mặc cho hậu quả xảy ra. Những trường hợp này, được gọi là cố ý gián tiếp. Ví
dụ: Hành vi dùng dao đâm bừa vào người khác…
Để phân biệt hai hình thức lỗi cố ý phạm tội: Cố ý trực tiếp và cố ý gián
tiếp cần phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau, không chỉ là yếu tố chủ quan
– bên trong của tội phạm mà còn cả yếu tố khách quan – yếu tố bên ngoài.
Bởi vì tội phạm là sự thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan. Ngoài
việc nghiên cứu các thành tố của hoạt động tâm lý còn đồng thời chú ý đến
những đặc điểm khách quan thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội được phản
ánh trong cấu thành tội phạm như tính chất thực tế của hành vi, đặc điểm của
đối tượng tác động, những điều kiện khách quan khác như công cụ, phương
tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm… thực hiện tội phạm. Đó
cũng là cơ sở quan trọng để phân biệt, xác định giữa cố ý phạm tội hay vô ý
phạm tội, cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp…
Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu
quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Về lý trí: Người phạm tội
nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và thấy
trước hậu quả của hành vi đó. Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi là sự nhận thức được tính chất gây thiệt hại cho xã hội của hành
vi đang thực hiện trên cơ sở nhận thức những tình tiết khách quan của nó –
những tình tiết tạo nên tính gây thiệt hại của hành vi. Những tình tiết đó, có
thể là mặt thực tế của hành vi, là đặc điểm của đối tượng tác động của tội
phạm, là những điều kiện khách quan như công cụ, thủ đoạn, thời gian, địa
điểm phạm tội… Đối với những tội phạm có cấu thành vật chất, trong mặt
18
khách quan của tội phạm ngoài hành vi nguy hiểm cho xã hội còn có hậu quả
nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Vì vậy,
người thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp không những nhận thức được
tính chất nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra mà ngay khi thực
hiện hành vi cũng đã thấy trước được hậu quả của nó. Thấy trước hậu quả của
hành vi là sự dự kiến của người phạm tội về sự phát triển của hành vi. Người
phạm tội có thể dự kiến hành vi tất nhiên sẽ gây ra hậu quả hoặc dự kiến hành
vi có thể gây ra hậu quả. Đối với những tội phạm có cấu thành tội phạm hình
thức, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc, do vậy vấn đề có thấy trước
hay không thấy trước hậu quả không được đặt ra khi xem xét lý trí của người
phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Nếu hậu quả được quy định là tình tiết định
khung trong cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc được xem là tình tiết tăng
nặng khi quyết định hình phạt thì việc khẳng định người phạm tội có lỗi cố ý
trực tiếp đối với hậu quả đó cũng đòi hỏi phải xác định người phạm tội thấy
trước hậu quả này. Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
và thấy trước hậu quả của hành vi đó là hai nội dung của yếu tố lí trí có liên
quan chặt chẽ với nhau. Thấy trước hậu quả của hành vi là kết quả và sự cụ
thể hóa sự nhận thức tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Ngược lại,
nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi là cơ sở cho việc
thấy trước hậu quả của hành vi. Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hậu
quả phát sinh. Điều đó có nghĩa hậu quả của hành vi phạm tội mà người phạm
tội đã thấy trước hoàn toàn phù hợp với mục đích – phù hợp với sự mong
muốn của người đó. Ở đây, sở dĩ không đặt ra vấn đề mong muốn hay không
mong muốn hành vi, bởi vì khi đã nhận thức được tính chất của hành vi mà
vẫn thực hiện thì chứng tỏ chủ thể mong muốn thực hiện hành vi đó. Đối với
tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất, hậu quả nguy hiểm cho xã hội là dấu
hiệu bắt buộc cho nên việc kiểm tra ý chí của người phạm tội đối với hậu quả
19
đã thấy trước là điều cần thiết để có thể khẳng định được đó có là lỗi cố ý trực
tiếp hay không. Ở các tội có cấu thành tội phạm hình thức, hậu quả nguy hiểm
cho xã hội không phải là dấu hiệu bắt buộc cho nên việc xác định ý chí đối
với hậu quả nguy hiểm cho xã hội không được đặt ra. Muốn xác định người
phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp chỉ cần xác định người đó đã nhận thức được
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà vẫn thực hiện hành vi đó. Nếu
hậu quả nguy hiểm cho xã hội được quy định là tình tiết định khung trong cấu
thành tội phạm tăng nặng hoặc dược xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự khi quyết định hình phạt thì việc chứng minh đó là lỗi cố ý trực tiếp
đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng đòi hỏi phải xác định được ý chí
của người phạm tội đối với hậu quả đó.
Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu
quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức
để mặc cho hậu quả xảy ra. Nghiên cứu hình thức lỗi cố ý trực tiếp và cố ý
gián tiếp có thể thấy trong hai trường hợp cố ý, lí trí của người có lỗi về cơ
bản không có gì khác nhau. Sự phân biệt chủ yếu dựa trên yếu tố ý chí.
Trường hợp lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội mong muốn hậu quả xảy
ra, còn đối với lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội không mong muốn mà chỉ có
ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Hay nói cách khác, đối với người có lỗi cố ý
gián tiếp, hậu quả xảy ra hay không đều không có ý nghĩa, không xảy ra cũng
được và nếu xảy ra cũng chấp nhận. Bên cạnh sự phân biệt về yếu tố ý chí, yếu
tố lí trí cũng có điểm khác biệt. Đối với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội có thể
thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, có thể
thấy trước hậu quả tất nhiên xảy ra, cũng cũng thể thấy trước hậu quả có thể
xảy ra. Đối với lỗi cố ý gián tiếp, sự thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội
của người phạm tội chỉ có thể là sự thấy trước hậu quả đó có thể xảy a. Không
20
thể có trường hợp người phạm tội đã thấy trước hậu quả tất nhiên phải xảy ra
mà có thái độ để mặc, không mong muốn hậu quả đó khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Thái độ có ý thức để mặc cho hậu quả nguy hiểm cho xã
hội xảy ra chỉ có thể có được trong trường hợp thấy trước cả hai khả năng –
khả năng hậu quả xảy ra và khả năng hậu quả không xảy ra. Do vậy, đối với lỗi
cố ý gián tiếp, về mặt lý trí người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi của mình, thấy trước hành vi đó có thể gây ra hậu quả
nguy hiểm cho xã hội. Về mặt ý chí, người phạm tội không mong muốn hậu
quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà người
phạm tội đã thấy trước không phù hợp với mục đích của họ. Người phạm tội
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhằm mục đích khác. Để đạt được mục
đích này mà người phạm tội đã chấp nhận hậu quả nguy hiểm cho xã hội do
hành vi của mình có thể gây ra. Người phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp tuy
không mong muốn nhưng có ý thức để mặc đối với hậu quả nguy hiểm cho xã
hội của hành vi của mình mà họ đã thấy trước.
1.2.2. Lỗi vô ý phạm tội
So sánh với lỗi cố ý, lỗi vô ý là sự phủ định chủ quan ít nghiêm trọng hơn.
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 quy định cụ thể về hai hình thức lỗi vô ý:
Điều 10. Vô ý phạm tội
Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây
ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ
không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được;
2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể
gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có
thể thấy trước hậu quả đó [11, Điều 10].
Lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi trong trường hợp về mặt lí trí, người phạm
21
tội có thể nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của
mình, thể hiện ở chỗ thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội mà hành vi của
mình có thể gây ra. Đây là đặc điểm thể hiện sự tương đồng giữa lỗi vô ý
phạm tội vì quá tự tin với lỗi cố ý, mặc dù sự tương đồng chỉ là tương đối –
Đều thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, người phạm tội
trong trường hợp vô ý vì quá tự tin thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội
có thể xảy ra nhưng đồng thời lại cho rằng hậu quả đó không xảy ra. Như vậy,
sự thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội ở đây thực chất là sự cân nhắc
đến khả năng hậu quả đó xảy ra hay không và kết quả người phạm tội đã loại
trừ khả năng xảy ra hậu quả đó. Đối với người phạm tội ở trường hợp vô ý vì
quá tự tin khả năng hậu quả xảy ra và khả năng hậu quả không xảy ra đều là
khả năng thực tế nhưng người phạm tội đã tin vào khả năng hậu quả không
xảy ra khi quyết định thực hiện xử sự của mình. Chính từ sự tin tưởng của
người phạm tội mà họ đã không nhận thức được một cách đầy đủ tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Về ý chí, người phạm tội không mong
muốn hành vi của mình gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Sự không mong
muốn này có điểm khác so với sự không mong muốn ở trường hợp lỗi cố ý
gián tiếp. Đối với lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội không mong muốn nhưng
đã chấp nhận khả năng hậu quả xảy ra khi lựa chọn và thực hiện hành vi. Đối
với lỗi vô ý vì quá tự tin, sự không mong muốn hậu quả của người phạm tội
gắn liền với việc người đó đã loại trừ khả năng hậu quả xảy ra. Mặt khác,
trong trường hợp này, người phạm tội đã tính toán, cân nhắc và cho rằng hậu
quả sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Sự cân nhắc, tính toán này
có thể dựa vào những căn cứ như tin tưởng vào sự khéo léo, sự hiểu biết, kinh
nghiệm nghề nghiệp, trình độ kỹ thuật của mình hoặc tin vào những tình tiết
khách quan bên ngoài khác. Như trường hợp A là người thợ săn đi săn bắt thú
trong rừng, vì quá tin vào khả năng của mình A đã dùng súng bắn vào nơi
22
phát ra tiếng động vì nghĩ là thú rừng, nhưng không ngờ bắn trúng vào chị B
đang đi đốn củi trong rừng, làm chị B bị thương nặng… Sự tin tưởng của
người phạm tội tuy có căn cứ nhưng những căn cứ đó đều không thực sự vững
chắc. Người phạm tội đã không đánh giá đúng tình hình thực tế. Sự tin tưởng
của họ là sự tin tưởng quá mức so với thực tế. Lỗi của người phạm tội trong
trường hợp vô ý vì quá tự tin chính là ở chỗ đã quá tin tưởng đó. Người phạm
tội với lỗi vô ý vì quá tự tin do không thận trọng khi đánh giá, lựa chọn xử sự
nên đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Lỗi vô ý do cẩu thả là một trong hai hình thức của lỗi vô ý. Mặc dù, Bộ
luật hình sự không trực tiếp quy định tên gọi của hai hình thức lỗi vô ý, nhưng
về mặt lý luận, các nhà nghiên cứu thừa nhận hình thức lỗi vô ý vì quá tự tin
và vô ý do cẩu thả. Trường hợp lỗi vô ý do cấu thả, người phạm tội không
thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của mình đã gây ra. Đây
là dấu hiệu phân biệt lỗi vô ý do cẩu thả với các hình thức lỗi khác. Với các
trường hợp khác, người phạm tội đều thấy trước hành vi của mình có thể gây
ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, tuy mức độ thấy trước khác nhau. Còn với
lỗi vô ý do cẩu thả, người phạm tội không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho
xã hội do hành vi của mình gây ra có thể do nhiều khả năng như: Người phạm
tội không nhận thức được mặt thực tế của hành vi của mình và như vậy không
nhận thức được khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của
mình gây ra. Ví dụ: Do vội vàng, y tá A khi phát nhầm thuốc cho bệnh nhân B
đã không nhận thức được hành vi của mình là hành vi phát nhầm và do đó
cũng không nhận thức được hành vi của mình có khả năng gây ra hậu quả
nguy hiểm cho xã hội. Hoặc, người phạm tội tuy nhận thức được mặt thực tế
của hành vi của mình nhưng lại hoàn toàn không nhận thức được khả năng
gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình (hoàn toàn không
nghĩ đến khả năng hậu quả xảy ra) như trường hợp, X đi đổ xăng xe máy, đã
23
bật lửa châm thuốc để hút ngay chỗ cấp phát xăng, khi đó X có thể hoàn toàn
không nghĩ đến khả năng gây hỏa hoạn. Bên cạnh đó, người phạm tội trong
trường hợp có lỗi vô ý vì cẩu thả với địa vị cụ thể của mình có nghĩa vụ phải
thấy và có đủ điều kiện để có thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do
hành vi của mình gây ra. Người phạm tội đã không thấy trước hậu quả nguy
hiểm cho xã hội do hành vi của mình chỉ vì cẩu thả, thiếu sự thận trọng cần
thiết. Lỗi của người phạm tội là ở chỗ đã cẩu thả, thiếu thận trọng khi xử sự.
Trong xã hội, với vai trò là chủ thể của các mối quan hệ: quan hệ giữa con
người – con người, con người – với thế giới xung quanh, mỗi cá nhân cần
thiết phải tôn trọng lợi ích của Nhà nước, của tập thể và của những cá nhân
khác. Mỗi người không những không được cố ý xâm phạm đến lợi ích đó mà
trong xử sự của mình đòi hỏi phải có sự thận trọng cần thiết nhằm tránh gây
ra những thiệt hại cho xã hội. Đây là đòi hỏi khách quan của xã hội, nó trở
thành những quy tắc của đời sống. Các quy tắc này có thể được pháp luật hóa
hoặc không được pháp luật hóa nhưng qua kinh nghiệm, được xã hội thừa
nhận, áp dụng, vì vậy, cá nhân tồn tại trong xã hội có nghĩa vụ phải chấp hành.
Những quy tắc đó thuộc những lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như
quy tắc trong giao thông vận tải, quy tắc săn bắn, quy tắc phòng hỏa, quy tắc
an toàn lao động, quy tắc hành chính, quy tắc nghề nghiệp… Người phạm tội
với lỗi vô ý vì cẩu thả là người về khách quan đã gây ra những thiệt hại cho
xã hội qua việc vi phạm quy tắc nhất định của cuộc sống chung xã hội. Về
chủ quan, người phạm tội với lỗi vô ý vì cẩu thả có nghĩa vụ phải tuân thủ
quy tắc mà họ đã vi phạm. Với địa vị cụ thể của mình, họ thấy được hành vi
không cẩn thận, không tuân thủ những quy tắc đã được đặt ra sẽ gây ra những
hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Như trường hợp, với địa vị là công dân trong
xã hội, chủ thể phải thấy được việc dùng lửa không cẩn thận trong khi đun
nấu có thể dẫn đến hỏa hoạn gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội; người phát
24
thuốc cho bệnh nhân phải thấy được việc phát thuốc không cẩn thận có thể
dẫn đến phát nhầm và do vậy có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội…
Bộ luật hình sự quy định đối với trường hợp lỗi vô ý do cẩu thả, người
phạm tội “phải thấy” có nghĩa là người đó phải có nghĩa vụ tuân thủ quy tắc
mà họ đã vi phạm, nhưng họ đã không tuân thủ. Nghĩa vụ này, phát sinh từ
địa vị pháp lý của chủ thể. Do có nghĩa vụ đó, mà họ buộc phải thấy được
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Người phạm
tội với lỗi vô ý vì cẩu thả không những “phải thấy” mà còn “có thể thấy”
trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình. “Có thể thấy” ở
đây có nghĩa là người phạm tội có đủ điều kiện khách quan (hoàn cảnh cụ thể
bên ngoài) cũng như điều kiện chủ quan (trình độ nhận thức, nghiệp vụ, kinh
nghiệm…) để có thể thấy trước hành vi vi phạm của mình có thể gây ra những
hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Khi xác định lỗi của người phạm tội với lỗi vô ý vì cẩu thả cần chú ý
đến người đã đến độ tuổi nhất định, có năng lực trí tuệ bình thường thì mới có
thể biết được những quy tắc an toàn thông thường. Đặc biệt, đối với một số
hoạt động có tính chất chuyên môn, sự hiểu biết về các quy tắc bảo đảm an
toàn đòi hỏi phải có sự hướng dẫn, học hỏi nhất định. Do vậy, việc xác định
các đặc điểm chủ quan của người phạm tội về trình đội nghiệp vụ là điều kiện
cần thiết để xác định lỗi vô ý vì cẩu thả.
Như vậy, đối với lỗi vô ý, người phạm tội đã lựa chọn và thực hiện hành
vi, vì không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi hoặc thấy
trước nhưng tin hậu quả đó không xảy ra và do vậy cũng không nhận thức đươc
hành vi sẽ thực hiện là hành vi phạm tội. Do tính chất như vậy cho nên những
hành vi vô ý nói chung chỉ có tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm khi
đã gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội ở mức độ nhất định. Đó cũng là
cơ sở quan trọng thể hiện chính sách của luật hình sự Việt Nam khi quy định
25
những cấu thành tội phạm có dấu hiệu lỗi vô ý nói chung được xây dựng dưới
dạng cấu thành tội phạm vật chất. Đối với cấu thành tội phạm hình thức có dấu
hiệu lỗi vô ý chỉ là những trường hợp cá biệt như cấu thành tội phạm của tội vô
ý làm lộ bí mật nhà nước quy định tại Khoản 1 Điều 264 Bộ luật hình sự năm
1999 hay cấu thành tội phạm của tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự quy
định tại Khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự năm 1999.
Ngoài ra, về mặt lý luận, trong luật hình sự Việt Nam còn có quy định
về trường hợp hỗn hợp lỗi là trường hợp trong cấu thành tội phạm có hai loại
lỗi (cố ý và vô ý) được quy định đối với những tình tiết khách quan khác nhau.
Theo đó, hỗn hợp lỗi chỉ có thể xảy ra ở những cấu thành tội phạm tăng nặng
của những tội phạm cố ý mà tình tiết tăng nặng là những hâu quả nguy hiểm
nhất định cho xã hội và lỗi của người phạm tội đối với những hậu quả đó là
lỗi vô ý, như trong cấu thành cơ bản của tội hiếp dâm quy định tại Khoản 1
Điều 111 của Bộ luật hình sự có dấu hiệu là lỗi cố ý, nhưng tại Điểm c Khoản
3 Điều 111 với cấu thành tội phạm tăng nặng có tình tiết tăng nặng là hậu quả
chết người và lỗi đối với hậu quả này là vô ý. Hay cũng tương tự đối với ý 2
Khoản 3 Điều 104 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác – cố ý gây thương tích… vô ý với hậu quả chết người; điểm a
Khoản 4 Điều 133 về tội cướp tài sản…
1.3. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong quá trình phát triển của luật
hình sự Việt Nam
1.3.1. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam thời
kỳ trước khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
Nghiên cứu lịch sử phát triển của luật hình sự Việt Nam thời kỳ trước
khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tập trung chủ yếu qua
quá trình hình thành, phát triển và suy vong của Nhà nước phong kiến. Trong
đó, dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý được thể hiện rõ nét thông qua hai bộ luật có
26
giá trị pháp lý thống nhất là Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) và
Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) – đây là những văn bản quý giá, chứa
đựng trình độ lập pháp, giá trị văn minh của đất nước và con người Việt Nam.
Quốc triều hình luật – Bộ luật Hồng Đức được coi là Bộ luật cổ có giá
trị quan trọng và chính thống nhất của triều đại nhà Lê cũng như trong lịch sử
của pháp luật phong kiến nước ta. Theo đó, Bộ luật không quy định nội dung
cụ thể của lỗi cố ý và vô ý, thậm chí không xác định chế định lỗi độc lập,
đồng thời cũng không quy định về tội phạm cố ý hay vô ý. Nhưng tại Điều 47
đã khẳng định rõ chính sách của triều đại cũng như quan điểm xử phạt đối với
loại hành vi mà có sự khác biệt về “cố ý” hay “lầm lỡ” (vô ý):
… những người phạm tội tuy tên gọi giống nhau, nhưng phải
phân biệt sự phạm tội vì lầm lỡ hay cố ý; phải xét tội nặng nhẹ
mà thêm bớt, không nên câu nệ để hợp với ý nghĩa việc xét xử
hình án: tha người lầm lỡ không kể tội nặng, bắt người cố ý
không kể tội nhẹ… [10, Điều 47].
Điều này cũng được cụ thể hóa tại các tội phạm cụ thể quy định trong
Bộ luật: “… những quan viên, quân đội phạm tội nếu vì sơ xuất lỗi lầm, từ tội
lưu trở xuống thì cho chuộc bằng tiền” [10, Điều 14]; tội vô ý gây thương
tích hay vô ý làm chết người bị xử phạt nhẹ hơn tội cố ý tương ứng: “vì chơi
đùa mà làm người khác bị thương hay chết thì xử nhẹ hơn tội đánh người bị
thương hay chết người hai bậc”… [10, Điều 498]. Đó cũng là những quy
định cụ thể để các quan xét xử trong quá trình áp dụng pháp luật, đặc biệt
trong những trường hợp các tình tiết của vụ án hay hành vi phạm tội chưa có
sự phân hóa hình phạt đối với lỗi cố ý hay vô ý.
Trải qua quá trình lịch sử, vương triều Nguyễn (triều đại phong kiến
cuối cùng của nước ta) được xây dựng và phát triển. Hoàng Việt luật lệ (Bộ
luật Gia Long) ra đời đã kế thừa và tiếp tục khẳng định phần lớn những giá trị
27
quý báu của Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức). Bộ luật Gia Long cũng
không trực tiếp quy định về dấu hiệu lỗi với tư cách là dấu hiệu bắt buộc
trong cấu thành tội phạm, không có sự phân biệt giữa trường hợp “có lỗi” gắn
liền với “có tội” và phải chịu trách nhiệm hình sự với trường hợp “không có
lỗi” là “không có tội” mà chỉ phân biệt giữ trường hợp phạm tội cố ý (cố tâm)
và trường hợp phạm tội vô ý (do lầm lỡ, lơ đễnh, lơ là, vô tâm) để xác định
loại và mức hình phạt trong luật và định hướng trong xét xử. Bộ luật Gia
Long cũng đề cao nguyên tắc “nghiêm trị người cố ý phạm tội và khoan hồng
người vô ý phạm tội”. Tại Điều 15 quy định về Tội không thể tha:
… phàm phạm mười tội ác, giết người, ăn trộm đồ quan, trộm
bạo… cướp người, buôn người, xúi xiểm giết người, cố ý thêm bớt
tội phạm, biết sự việc mà cố ý dung túng… những loại ấy đều là
thực phạm, đều cố tâm phạm tội dù gặp dịp ân xá cũng không được
tha. Còn những người phạm tội vì lầm lẫn, nghĩa là giết người, làm
bị thương người bởi vô ý, làm cháy nhà bởi vô ý, lơ là làm hư vật
quan… lơ đễnh không khéo trói để sảy tù… đều là vô tâm mà phạm
tội thì được ân xá và giảm tội như giáng từ tội chết xuống tội lưu,
tội lưu qua tội đồ…. ;… phàm cố ý bỏ hư chế thư và ấn tín… thì xử
chém. Nếu làm rơi mất chế thư, thánh chỉ, ấn tín thì bị phạt 90
trượng, đồ hai năm rưỡi… [14, Điều 61];
…phàm vâng lệnh chế thư để thực hiện mà cố ý làm sai, không
làm thì bị phạt 100 trượng. Làm sai lạc ý của vua (vô ý) thì giảm ba
bậc tội… [14, Điều 60].
Rõ ràng, Bộ luật không trực tiếp quy định khái niệm lỗi cố ý và vô ý
nhưng đây cũng là những quy định khá cụ thể liên quan đến việc phân biệt lỗi cố
ý hay vô ý, từ đó có ý nghĩa trong việc xác định hình phạt đối người phạm tội.
Như vậy, có thể thấy trong lịch sử luật hình sự phong kiến, nhìn chung,
28
do kỹ thuật lập pháp còn hạn chế, đơn giản, xuất phát từ các quan hệ xã hội
phong kiến, nên nhìn chung quy định về chế định lỗi nói riêng và luật hình sự
nói chung còn đơn giản, chưa mang tính khái quát cao. Tuy nhiên, ở mức độ
nào đó, cũng đã nghiên cứu vai trò của yếu tố chủ quan – thái độ tâm lý bên
trong, hay lỗi của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội.
1.3.2. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam thời
kỳ 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời, theo đó đất nước ta bước vào một thời kỳ mới.
Đây là giai đoạn mà tình hình kinh tế, chính trị, xã hội có nhiều biến động.
Nhà nước non trẻ mới được hình thành, thù trong giặc ngoài đe dọa, nhiều thế
lực thù địch nhòm ngó. Chính vì vậy, trong những năm đầu nhiệm vụ chủ yếu
là bảo vệ được thành quả cách mạng vừa giành được. Luật hình sự lúc này là
vũ khí quan trọng của Nhà nước trong cuộc đấu tranh chống phong kiến,
chống thực dân, đế quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ này, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến việc xây
dựng hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật hình sự. Tuy nhiên, xuất phát
từ yêu cầu cấp bách từ thực tiễn nên các văn bản luật hình sự vẫn chưa được
quy định thống nhất, chưa có khái niệm về tội phạm, nên cũng chưa có chế
định riêng về lỗi, cũng như xác định hình thức lỗi (vô ý hay cố ý). Tuy nhiên,
trong các pháp lệnh và sắc lệnh được ban hành vẫn chứa đựng quy định cụ thể
về hành vi cũng như lỗi của người thực hiện hành vi đó. Theo đó, các văn bản
cũng xác định về hành vi cố ý và hành vi vô ý phạm tội như giết người, cướp
tài sản, trộm cắp tài sản hay sơ xuất để lộ bí mật quốc gia, không cẩn thận gây
tai nạn làm người khác bị thương hoặc làm chết người, vô ý gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa, thiếu tinh thần trách nhiệm gây
thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa…
29
Sau thắng lợi của cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1975, với sự
thống nhất cả nước chung tay xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, theo đó,
các văn bản pháp luật trong đó có pháp luật hình sự cũng được ban hành. Từ
thực tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành một số văn bản hướng
dẫn và giải thích phần nào về lỗi – thái độ tâm lý bên trong của người phạm
tội đối với một số loại tội phạm điển hình. Như Sắc lệnh số 267/ SL ngày 15
tháng 6 năm 1956 có quy định về tội phạm và hình phạt trong các trường hợp
cụ thể nhưng không ghi nhận hình thức lỗi tương ứng. Tuy vậy, để phù hợp
với tình hình thực tế, sắc lệnh cũng quy định một số tội phạm do “thiếu trách
nhiệm” – lỗi vô ý: Kẻ nào vì thiếu tinh thần trách nhiệm mà trong công tác
mình phụ trách đã để lãng phí, để hư hỏng máy móc, dụng cụ, nguyên vật liệu,
để lộ bí mật nhà nước, để xảy ra tai nạn... làm thiệt hại một cách nghiêm trọng
đến tài sản của nhà nước, của hợp tác xã, của nhân dân, làm cản trở việc thực
hiện chính sách, kế hoạch của nhà nước, sẽ bị phạt từ 3 tháng đến 2 năm tù.
Công văn 949/NCLP ngày 25 tháng 11 năm 1969 Sơ kết kinh nghiệm về
đường lối xét xử tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn của Tòa án nhân
dân tối cao quy định về tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn: “Tội vi
phạm luật lệ giao thông gây tai nạn xâm hại nền an toàn giao thông vốn thuộc
về loại tội khinh xuất hoặc sơ xuất… Người lái xe có hành vi vi phạm nghiêm
trọng là do thiếu tinh thần trách nhiệm không chú ý kiểm tra an toàn của
phương tiện vận chuyển, phóng bừa, vượt ẩu, không tuân thủ luật lệ giao
thông vận tải”. Trong đó, có đề cập đến “hỗn hợp lỗi” – nhưng không giống
như quy định hiện hành, mà đây là trường hợp cả nạn nhân và lái xe là người
có lỗi hay tai nạn hoàn toàn do lỗi của nạn nhân gây ra nhưng lái xe vẫn bị xử
phạt. Hay trong Công văn 452/HS2 ngày 10 tháng 8 năm 1970 có hướng dẫn
để phân biệt giữa tội cố ý gián tiếp làm chết người với tội vô ý vì quá tự tin
làm chết người. Trường hợp vô ý vì quá tự tin làm chết người can phạm
30
không mong muốn, mặc dù thấy trước hậu quả làm chết người có thể xảy ra,
can phạm chủ quan tự tin vào một điều kiện cụ thể tưởng rằng có thể làm cho
hậu quả không xảy ra, nhưng sự tin tưởng đó không có cơ sở đầy đủ: Mặt
khách quan rất giống nhau: cũng là một hành vi làm chết người khác. Nhưng
mặt chủ quan, và tính chất nguy hiểm cho xã hội, thì rất khác nhau. Ở tội vô ý
làm chết người, không những can phạm không mong muốn cho hậu quả chết
người xảy ra, hoặc không có thái độ thờ ơ mặc kệ cho hậu quả đó xảy ra mà
còn không thấy được trước hậu quả đó mà đáng lẽ phải thấy và có thể thấy,
hoặc tuy có thấy trước hậu quả có thể xảy ra, nhưng chủ quan tin vào một
điều kiện cụ thể nào đó sẽ làm cho hậu quả không xảy ra. Theo đó, trong
Công văn cũng phân biệt giữa cố ý gián tiếp làm chết người với vô ý vì quá tự
tin làm chết người; phân biệt giữa trường hợp định giết người này nhưng lại
làm chết người khác (sai lầm). Hay tại Bản tổng kết số 10/NCLP ngày 08
tháng 1 năm 1986, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn đường lối xử lý tội
“thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm quy tắc an toàn giao thông gây thiệt hại
nghiêm trọng về người, tài sản”, Tòa án giải thích: “thiếu tinh thần trách
nhiệm” thể hiện dưới các hình thức như: Bị cáo thấy trước khả năng gây thiệt
hại nghiêm trọng, nhưng vì chủ quan, thiếu thận trọng, nhẹ dạ tin vào những
tình tiết, những biện pháp phòng ngừa không đầy đủ, cho nên hậu quả tai hại
xảy ra. Đây là hình thức lỗi sơ xuất vì quá tự tin; Bị cáo không thấy trước khả
năng gây ra thiệt hại nghiêm trọng, nhưng đáng lẽ phải thấy và có thể thấy
trước khả năng đó, vì đã được học tập về bảo hộ lao động, huấn luyện về
phương pháp làm việc an toàn nên hậu quả tai hại xảy ra do thiếu sự chú ý cần
thiết. Đây là hình thức lỗi sơ xuất vì cầu thả; Bị cáo thấy trước khả năng gây
ra thiệt hại nghiêm trọng. Một mặt, họ không chắc chắn rằng tác hại sẽ xảy ra,
mặt khác họ cũng không tin rằng nhất định nó sẽ xảy ra. Họ cũng không
mong muốn gây ra hậu quả tác hại hay bất cứ một hậu quả xấu nào nói chung,
31
nhưng họ cứ thực hiện hành vi vi phạm với ý nghĩ rằng nếu hậu quả tác hại
xảy ra thì cũng thôi. Đây là thái độ vô trách nhiệm, làm bừa, làm ẩu. Bên cạnh
đó, Bản tổng kết còn phân biệt giữa khái niệm lỗi trong tội vi phạm quy tắc an
toàn lao động và khái niệm lỗi sơ xuất.
Như vậy, có thể thấy, pháp luật hình sự trong thời kỳ này đã bắt đầu đề
cập đến việc phân biệt giữa lỗi cố ý và vô ý, cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp,
vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả, tuy nhiên các quy định chỉ dừng lại ở
mức độ hướng dẫn trong các văn bản dưới luật như các công văn, báo cáo
tổng kết công tác xét xử của Tòa án nhân dân tối cao. Chế định lỗi không
được quy định một cách rõ ràng, khái quát và thống nhất trong một văn bản
pháp luật cụ thể.
1.3.3. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1985
10 năm sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước
thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ lịch sử mới – đi lên chủ nghĩa xã hội,
tiến tới xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với sự thay đổi của
kinh tế, chính trị, xã hội, pháp luật cũng có những bước phát triển mới đặc
biệt là pháp luật hình sự. Từ những văn bản riêng lẻ, lần đầu tiên các quy
phạm pháp luật hình sự được thể hiện dưới dạng Bộ luật. Bộ luật hình sự
năm 1985 ra đời đã kế thừa và phát triển những thành tựu trong lịch sử lập
pháp Việt Nam. Chương 3 Điều 8 Khoản 1 Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1985 khi đề cập đến khái niệm tội phạm đã xác định rõ hai hình thức lỗi -
cố ý phạm tội và vô ý phạm tội: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội,
được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Theo đó, định nghĩa pháp lý về
lỗi cố ý và vô ý lần đầu tiên được ghi nhận chính thức trong Bộ luật hình
sự Việt Nam tại Điều 9 và Điều 10:
32
Cố ý phạm tội là phạm tội trong trường hợp nhận thức rõ hành vi của
mình có tính chất gây nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi
đó và mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Người phạm tội do cẩu thả mà không thấy trước khả năng gây ra hậu
quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước.
b) Người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể
ngăn ngừa được.
Sự ra đời của Bộ luật hình sự năm 1985 đã khẳng định tính có lỗi là
một trong những đặc điểm quan trọng của tội phạm hay nói cách khác lỗi là
dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt chủ quan của mọi cấu thành tội phạm. Bên cạnh
đó, các nhà lập pháp hình sự cũng xác định hai hình thức lỗi là cố ý phạm tội
(Điều 9) và vô ý phạm tội (Điều 10). Tại Phần các tội phạm quy định nhiều
tội danh với hình thức lỗi cố ý và vô ý, phân biệt rõ cố ý trực tiếp, cố ý gián
tiếp, vô ý vì quá tự tin, vô ý do cẩu thả. Đó là những quy định cần thiết trong
quá trình định tội danh và quyết định hình phạt, cũng như góp phần quan
trọng trong nghiên cứu lý luận hình sự.
Bộ luật hình sự năm 1985 với 12 chương và khoảng 200 Điều luật
thuộc Phần các tội phạm, trong đó có khoảng 180 điều luật về tội phạm do lỗi
cố ý và hơn 20 điều luật về tội phạm do lỗi vô ý đã khẳng định vai trò quan
trọng của chế định lỗi. Có những tội phạm, hình thức lỗi được quy định ngay
trong tên gọi của tội danh: Tội cố ý làm lộ bí mật Nhà nước, tội chiếm đoạt,
mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật Nhà nước (Điều 92); Tội cố ý không
giúp người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 107);
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác (Điều
109); Tội vô ý làm lộ bí mật công tác, tội làm mất tài liệu bí mật công tác
33
(Điều 223); Tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự, tội làm mất tài liệu bí
mật công tác quân sự (Điều 263)… Nhiều tội phạm, trong Điều luật không
quy định trực tiếp về hình thức lỗi nhưng cấu thành tội phạm lại phản ánh rõ
ràng hình thức lỗi: Tội giết người (Điều 101); Tội cướp tài sản của công dân
(Điều 151); Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã
hội chủ nghĩa (Điều 139); Tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận
tải (Điều 186)… Đặc biệt đối với các tội phạm do lỗi vô ý, Bộ luật hình sự
năm 1985 quy định thường là cấu thành tội phạm vật chất, thể hiện dưới dạng:
Tội vô ý/ vi phạm… gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 104; Điều 140; Điều
186; Điều 194 - 197; Điều 233…).
Ngoài ra, trong giai đoạn này, Tòa án nhân dân tối cao ban hành một số
văn bản hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự như: Nghị quyết số 04 –
HĐTPTANDTC/NQ về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần
các tội phạm của Bộ luật hình sự, trong đó bao gồm nhiều trường hợp có vướng
mắc về hình thức lỗi liên quan đến định tội danh và quyết định hình phạt: Hành
vi “phá hủy công trình hoặc phương tiện giao thông vận tải” (Điều 94) giống
với hành vi: “đào, phá công trình giao thông”… (Điều 187 Tội cản trở giao
thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng) ở chỗ cả hai tội đều không có mục
đích chống chính quyền nhân dân. Nhưng hai tội này khác nhau ở chỗ: Đối
với tội phá hủy… (Điều 94), hành vi được thực hiện cố ý và hậu quả của tội
phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc (như hành vi đóng đinh dài ở chỗ tiếp
giáp hai đoạn đường ray nhưng xe lửa không trật bánh hoặc đổ). Đối với tội
cản trở giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 187), đối tượng
của tội phạm có tính chất quan trọng thấp hơn đối tượng của tội phạm “phá
hủy…” hành vi là do cố ý, bị cáo không muốn hậu quả xảy ra nhưng hậu quả
nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc (như: cắt ngang đường giao thông quốc lộ
để thoát nước nhưng không có biện pháp báo hiệu, phòng ngừa cần thiết, gây
nên tai nạn làm xe chở hành khách bị lật đổ, nhiều người chết và bị
34
thương)…”. Hay trường hợp, tội vô ý làm chết người (Điều 104). Hành vi vô
ý gây thiệt hại đến tính mạng của người khác do vi phạm một quy định hành
chính cụ thể (Các điều 186, 187, 188…): Hành vi do cẩu thả hoặc quá tự tin
mà làm chết người, thì nói chung bị xử lý về tội vô ý làm chết người (Điều
194 Khoản 1) như: người đi săn ban đêm do lầm lẫn mà bắn chết người; Hành
vi vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp (như: công nhân mắc
đường dây dẫn điện do làm việc không cẩn thận gây chết người qua đường)
hoặc vi phạm quy tắc hành chính (như: chặt cây công cộng trái quy định của
co quan có thẩm quyền, làm gẫy cành cây, đứt dây điện, gây chết người qua
đường…) thì bị xử lý theo quy định của Điều 104 Khoản 2; Hành vi vô ý gây
thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe người khác do vi phạm một quy định hành
chính cụ thể mà điều luật quy định riêng (như các Điều 186, 188, 190…) thì
bị xử lý theo điều luật tương ứng. Thí dụ: lái xe phóng nhanh, vượt ẩu gây tại
chết người bị xử lý theo Điều 186 về tội phạm quy định về an toàn giao thông
vận tải gây hậu quả nghiêm trọng. Hoặc: Tội bức tử (Điều 105) tội phạm được
thực hiện do cố ý, chủ thể nhận thức rõ hành vi của mình có thể làm cho nạn
nhân tự sát, không mong muốn, nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra
(cố ý gián tiếp) và cũng có thể do cố ý về hành vi, vô ý về hậu quả. Tội cố ý
không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều
107) là… cố ý bỏ mặc, dẫn đến chết người. Theo khoản 2, người không cứu
giúp là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm (như: cùng đi tắm ở sông,
người biết bơi đùa nghịch làm người không biết bơi bị chới với sắp chìm mà
không cứu vớt) hoặc là người mà theo pháp luật hay nghề nghiệp, có nghĩa vụ
phải cứu giúp (như thủy thủ đang đi tàu trên sông, trên biển đối với người
đang vật vờ trên mặt nước, bác sĩ đối với bệnh nhân đang cần cấp cứu…). Đối
với trường hợp điều khiển phương tiện giao thông vận tải gây tai nạn rồi bỏ
chạy, cố ý không giúp người bị nạn để trốn tránh trách nhiệm thì xử lý theo
Điều 186, khoản 2, điểm b (Tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông
35
vận tải gây hậu quả nghiêm trọng). Các tội phạm quy định ở điều 186, 190,
191, 221, 251, 263, 265, 267, 208, 270… thực hiện một cách vô ý… Thí dụ:
Do lơ là, cẩu thả trong công việc một người huy động nhân công gây lãng phí
lớn về sức lao động; do nghiên cứu hồ sơ, chứng cứ không cẩn thận, một số
kiểm sát viên truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, một thẩm
phán ra quyết định trái pháp luật (nếu hành vi của kiểm sát viên, thẩm phán là
do cố ý thì bị xử lý theo Điều 231 hoặc Điều 232).
Bên cạnh đó, tại Nghị quyết số 1 – 89/ HĐTP - NQ ban hành ngày 19
tháng 4 năm 1989 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự có xác định:
“… cũng coi là cố ý gây thương tích dẫn đến chết người trường hợp gây
thương tích không phải là thương tích nặng, nhưng vi nạn nhân là người quá
già yếu, có bệnh nặng, việc gây thương tích làm cho bị chết sớm hơn, nếu
không bị gây thương tích thì nạn nhân chưa chết…”. Tội thiếu trách nhiệm
gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 139) là các
trường hợp vì thiếu trách nhiệm nên không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nhiệm vụ được giao mà để cho tài sản xã hội chủ nghĩa do mình trực
tiếp quản lý bị mất mát, hư hỏng lãng phí… (như thủ kho, thủ quỹ, người bán
hàng, người áp tải hàng hóa, vật tư, bảo vệ, cán bộ kế toán, cán bộ lãnh đạo có
nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản…). Còn người có chức vụ
nếu do lơ là, buông lỏng quản lý mà không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nhiệm vụ được giao để xảy ra việc người khác làm mất mát, hư hỏng,
lãng phí, chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, thì là chủ thể của tội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 220)…
Như vậy, với việc ghi nhận hai hình thức lỗi: cố ý phạm tội và vô ý
phạm tội, Bộ luật hình sự năm 1985 đã từng bước hệ thống và pháp điển hóa
các quy phạm pháp luật hình sự, đó là cơ sở quan trọng để sửa đổi, bổ sung
Bộ luật qua các thời kỳ - năm 1989, 1990, 1992, 1997.
36
1.3.4. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009
Đất nước chuyển sang thời kỳ mới – thời kỳ kinh tế thị trường với sự
phát triển của văn hóa, xã hội, theo đó tội phạm cũng vận động cùng với xu thế
của hiện thực khách quan. Bộ luật hình sự năm 1985 không còn phù hợp với
thời đại, vì vậy cần thiết có sự thay đổi chính sách hình sự, góp phần đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm. Trên cơ sở kế thừa, khắc phục những hạn chế
của Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung
năm 2009 được xây dựng và hoàn chỉnh hơn về mặt nội dung và hình thức.
Những quy định về hai hình thức lỗi nhìn chung không có sự thay đổi đáng kể.
Khái niệm tội phạm (Khoản 1 Điều 8) vẫn ghi nhận tính có lỗi, không chấp
nhận việc “quy tội khách quan”, lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong mọi cấu thành
tội phạm. Ngay trong Phần chung của Bộ luật hình sự cố ý phạm tội và vô ý
phạm tội tiếp tục được ghi nhận cụ thể tại Điều 9 và Điều 10:
Điều 9. Cố ý phạm tội
Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu
quả xẩy ra;
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy
không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Điều 10. Vô ý phạm tội
Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây
ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ
không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được;
2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể
37
gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có
thể thấy trước hậu quả đó [11, Điều 9, Điều 10].
Trong Phần các tội phạm với tổng số 24 chương chỉ có 7 chương quy
định các tội phạm thực hiện bằng lỗi vô ý, còn lại 17 chương tội phạm thực
hiện bằng lỗi cố ý. Trong số 272 điều luật về tội phạm cũng chỉ có 51 điều
luật quy định tội phạm với lỗi vô ý, chiếm tỉ lệ 18,8% [1, tr.124] còn lại 221
điều luật về tội phạm với lỗi cố ý, chiếm khoảng 81,2%. Mức hình phạt mà
các nhà lập pháp quy định đối với tội phạm thực hiện với lỗi cố ý thường
nghiêm khắc hơn so với tội phạm thực hiện với lỗi vô ý. Thông thường, mức
hình phạt tối đa trong khung hình phạt nặng nhất của tội phạm thực hiện với
lỗi vô ý là 15 năm tù giam, còn tội phạm thực hiện với lỗi cố ý là tù chung
thân hoặc tử hình. Nhiều hành vi, do tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội
không lớn hoặc không đáng kể với lỗi vô ý đã được phi hình sự hóa. Bộ luật
hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 cũng tách riêng một số tội danh
được quy định trong một điều luật tại Bộ luật hình sự năm 1985 như: Điều
104 tách thành 2 điều là 98 và 99; Điều 186 tách thành 4 điều là 202, 208, 212,
216; Điều 187 tách thành 4 điều là 203, 209, 213, 217, Điều 188 tách riêng
thành điều 204, 210, 211, 214, 215, 218, 219… Đây chính là cơ sở quan trọng,
giúp cho quá trình định tội được rõ ràng, cụ thể và chính xác hơn.
Tóm lại, có thể thấy rằng, lỗi là thái độ chủ quan của người phạm tội
đối với hành vi và hậu quả nguy hiểm do hành vi đó gây ra. Lỗi có hai hình
thức là cố ý (cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp) và vô ý (vô ý vì quá tự tin, vô ý do
cẩu thả), được xác định trên cơ sở lí trí và ý chí của người phạm tội. Qua lịch
sử lập pháp hình sự Việt Nam, dấu hiệu lỗi cố ý phạm tội và lỗi vô ý phạm tội
đã dần được ghi nhận ở các mức độ khác nhau, cụ thể và hoàn thiện hơn, góp
phần quan trọng trong lý luận hình sự cũng như thực tiễn áp dụng.
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAYLuận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
 
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt NamĐè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
Luận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuýLuận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
Luận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAYLuận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAYLuận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
 
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HAY
 

Similar to Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT

Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT (20)

Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOTVấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOTLuận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
 
Luận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAY
Luận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAYLuận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAY
Luận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
 
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAYĐề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạmLuận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạmĐề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
 
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOTLuận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt NamLuận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do tỉnh Đồng NaiLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAYLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdfdong92356
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào môBryan Williams
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx22146042
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 

Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ XUÂN GIANG Mét sè vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn vÒ c¸c dÊu hiÖu cña lçi cè ý vµ v« ý theo LuËt h×nh sù ViÖt Nam LUẬT VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ XUÂN GIANG Mét sè vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn vÒ c¸c dÊu hiÖu cña lçi cè ý vµ v« ý theo LuËt h×nh sù ViÖt Nam Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬT VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN VĂN LUYỆN HÀ NỘI - 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đỗ Xuân Giang
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục biểu đồ MỞ ĐẦU.......................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DẤU HIỆU LỖI CỐ Ý VÀ LỖI VÔ Ý TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM............7 1.1. Khái niệm và cơ sở lý luận của lỗi trong luật hình sự Việt Nam..........7 1.2. Khái niệm, đặc điểm của dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý theo quy định của Luật hình sự Việt Nam...................................................15 1.2.1. Lỗi cố ý phạm tội.............................................................................16 1.2.2. Lỗi vô ý phạm tội.............................................................................20 1.3. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong quá trình phát triển của luật hình sự Việt Nam.................................................................... 25 1.3.1. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ trước khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.............. 25 1.3.2. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985...................28 1.3.3. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985...31 1.3.4. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009....................................................... 36 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG DẤU HIỆU LỖI CỐ Ý VÀ LỖI VÔ Ý TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .............................38 2.1. Một số vấn đề thực tiễn liên quan dến dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý theo quy định của Luật hình sự Việt Nam............................ 38
  • 5. 2.2. Thực tiễn định tội danh liên quan đến dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý theo quy định của Luật hình sự Việt Nam............................ 52 2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt liên quan đến dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý theo quy định của Luật hình sự Việt Nam............... 59 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG DẤU HIỆU LỖI CỐ Ý VÀ LỖI VÔ Ý TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM........................................65 3.1. Phương hướng hoàn thiện dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam.................................................................... 65 3.1.1. Hoàn thiện khái niệm lỗi, lỗi cố ý, lỗi vô ý ......................................65 3.1.2. Hoàn thiện quy định về dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong cấu thành tội phạm................................................................................. 71 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong Luật hình sự Việt Nam ...........................................75 3.2.1. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của chủ thể tiến hành tố tụng hình sự.................................................................. 75 3.2.2. Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý............................................ 83 3.2.3. Tăng cường trao đổi, nghiên cứu pháp luật nước ngoài về dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự ....................................... 89 KẾT LUẬN................................................................................................. 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................94
  • 6. DANH MỤC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang Biểu đồ 3.1: Mô tả tỉ lệ số cấu thành tội phạm có quy định trong nội dung dấu hiệu lỗi cố ý phạm tội, lỗi vô ý phạm tội và không quy định dấu hiệu lỗi 71
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lỗi là một vấn đề phức tạp và quan trọng được nhiều ngành luật quan tâm nghiên cứu. Trong luật hình sự Việt Nam, chế định lỗi có vị trí vô cùng đặc biệt, thể hiện trong nguyên tắc có lỗi – một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự. Lỗi cho phép xác định rằng, tội phạm không chỉ là kết quả của hành vi nguy hiểm cho xã hội - biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan mà còn là sự nhận thức, là hệ quả của thái độ tâm lý của chủ thể - biểu hiện bên trong. Người phải chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam không chỉ đơn thuần là người đã có hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội mà còn vì họ đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi khách quan đó. Với nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc “truy tội khách quan”, nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự con người chỉ dựa trên cơ sở hành vi khách quan mà không xét đến lỗi của họ. Nguyên tắc có lỗi xuất phát từ chính chức năng giáo dục của luật hình sự. Luật hình sự đặt ra vấn đề trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người phạm tội, chủ yếu để giúp họ nhận ra lỗi lầm của mình, cải tạo và sớm trở hành người lương thiện, nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng xã hội. Đó cũng chính là mục đích quan trọng của hình phạt. Chức năng giáo dục không thể thực hiện được khi truy cứu trách nhiệm hình sự của một người mà họ không có lỗi vì như vậy cũng trái với nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam. Theo đó, lỗi được ghi nhận ngay tại khái niệm tội phạm tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999. Đồng thời trong đó, Điều 9 và Điều 10 đã xác định và phân biệt hai hình thức lỗi là cố ý phạm tội và vô ý phạm tội. Cố ý phạm tội gồm cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Vô ý phạm tội gồm vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả. Mỗi tội phạm chỉ được thực hiện bằng hình thức lỗi hoặc cố ý hoặc vô ý. Tuy nhiên, trên thực tế,
  • 8. 2 liên quan đến nội dung này, còn có trường hợp nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ, chưa thống nhất về lý luận, dẫn tới hạn chế trong hoạt động thực tiễn cũng như nghiên cứu khoa học. Đây là lý do để tác giả lựa chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý đều được nghiên cứu về mặt lý luận trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật. Ngoài ra, có nhiều công trình nghiên cứu về lỗi cố ý và lỗi vô ý ở những khía cạnh khác nhau, cụ thể: Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hòa (2005), Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hòa (2004), Cấu thành tội phạm: Lý luận và thực tiễn, NXB Tư pháp, Hà Nội; Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự Việt Nam, Quyển I: “Những vấn đề chung”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong Luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân; Lê Thị Thu Thủy (2003), Nguyên tắc trách nhiệm trên cơ sở lỗi trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thị Lan Anh (2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Nhuần (2001), Lỗi cố ý trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài ra, dấu hiệu lỗi cố ý và vô ý cũng được nghiên cứu trong các bài báo, tạp chí như: Nguyễn Ngọc Hòa, Đánh giá mức độ lỗi ở các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, Tạp chí Luật học, số 1/1996; Lê Cảm, Hoàn thiện chế định lỗi trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành – Một số vấn đề lý
  • 9. 3 luận và thực tiễn, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/1998; Đào Trí Úc, Nhận thức đúng đắn hơn nữa các nguyên tắc về trách nhiệm cá nhận và về lỗi trong việc xử lý trách nhiệm hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9/1999; Trần Quang Tiệp, Một số vấn đề lỗi trong Luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11/1999; Nguyễn Văn Trượng,Xác định lỗi của người phạm tội trong tình trạng say rượu, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8/2001; Nguyễn Văn Hương, Lỗi cố ý gián tiếp và tội phạm có cấu thành hình thức, Tạp chí Luật học, số 4/2002; Nguyễn Thị Thu Hồng, Trao đổi về việc xác định lỗi trong các vụ án tai nạn giao thông, Tạp chí Kiểm sát, số 7/2005; Đỗ Đức Hồng Hà, Các tình tiết định khung tăng nặng trong tội giết người phản ánh mức độ lỗi và các đặc điểm về nhân thân người phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 18/2005; Lê Văn Luật, Áp dụng nguyên tắc lỗi trong các tội “Vi phạm an toàn giao thông”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12/2006; Đinh Thế Hưng, Yếu tố lỗi trong dấu hiệu định khung hình phạt gây thương tích và hành hung để tẩu thoát trong một số tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 21/2006; Đỗ Văn Chỉnh, Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phản ánh cách thức thực hiện tội phạm và mức độ lỗi của người phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2009; Lê Văn Luật, Xác định lỗi khi định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2011; Hoàng Quảng Lực, Bàn về nhận thức Yếu tố lỗi trong xét xử án hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24/2012; Văn Thị Hồng Nhung, Xác định lỗi như thế nào để xét xử cho đúng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20/2013; Lê Văn Luật, Bàn về một số nội dung khái niệm lỗi hình sự trong Bộ luật hình sự hiện hành áp dụng trong công tác xét xử, Tạp chí Nghề Luật. Khi nghiên cứu tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự (Phần riêng –
  • 10. 4 Phần các tội phạm), các tác giả đều có sự nhận thức về dấu hiệu lỗi – cố ý hay vô ý. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống và sâu sắc về lỗi cố ý và vô ý dưới góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng. Do đó cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu toàn diện, hệ thống về vấn đề này để xây dựng thống nhất lý luận về dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý, góp phần thiết thực trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và lỗi vô ý trong Luật Hình sự Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu dưới góc độ pháp lý hình sự. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và vô ý trong luật hình sự Việt Nam, qua đó đề xuất phương hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam.. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Về mặt lý luận, trên cơ sở đối tượng và phạm vi nghiên cứu, tác giả làm sáng tỏ về khái niệm lỗi, các đặc điểm của lỗi cố ý và lỗi vô ý, sự hình thành và phát triển dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam. Về mặt thực tiễn, đánh giá việc áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong việc định tội danh, và quyết định hình phạt. Từ đó kiến nghị các phương hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận: Dựa trên chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
  • 11. 5 Chí Minh và quan điểm về chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, kết hợp với tri thức của các ngành khoa học khác như luật học, tâm lý học, xã hội học, thống kê học… để nhận thức và luận chứng các vấn đề nghiên cứu. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trong luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của nhiều ngành khoa học, như: Phương pháp so sánh, tổng hợp, phân tích, thống kê… để làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu 6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn Trong luận văn, tác giả đã tập trung nghiên cứu một cách cụ thể, khoa học và có hệ thống những vấn đề và thực tiễn về lỗi cố ý và vô ý theo quy định của luật hình sự Việt Nam. Cụ thể: 1) Phân tích những vấn đề lý luận về các dấu hiệu của lỗi cố ý và lỗi vô ý theo quy định của luật hình sự Việt Nam như: khái niệm lỗi, cơ sở lý luận của lỗi; khái niệm, đặc điểm của lỗi cố ý và lỗi vô ý; quá trình hình thành và phát triển của dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong lịch sử lập pháp hình sự nước ta. 2) Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật của cơ quan xét xử liên quan đến dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý về định tội danh, quyết định hình phạt trong giai đoạn hiện nay. 3) Đề xuất phương hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam 7. Ý nghĩa của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu cụ thể, thống nhất, đề cập một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận về các dấu hiệu của lỗi cố ý và lỗi vô ý theo luật hình sự Việt Nam. Ngoài ra, luận văn đã xác định đúng đắn những vấn đề về lỗi cố ý và vô ý trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn xét xử. Bên cạnh đó, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn, sinh viên, học viên cao học cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn nghiên cứu, áp dụng pháp luật hình sự.
  • 12. 6 8. Kết cấu của luận văn Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Thực tiễn áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam. Chương 3: Phương hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam.
  • 13. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DẤU HIỆU LỖI CỐ Ý VÀ LỖI VÔ Ý TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và cơ sở lý luận của lỗi trong luật hình sự Việt Nam Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 1999 quy định: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [11, Điều 8]. Như vậy, một trong những nguyên tắc quan trọng được thể hiện trong khái niệm tội phạm đó là “nguyên tắc có lỗi”. Đây là nguyên tắc cơ bản trong luật hình sự Việt Nam. Hay nói cách khác, người phải chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam không phải chỉ đơn thuần vì người này đã có hành vi khách quan gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ mà còn vì đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi khách quan đó. Nguyên tắc này cũng khẳng định, luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc “quy tội khách quan”, nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự con người chỉ dựa trên cơ sở hành vi khách quan mà không xét đến lỗi của họ. Nguyên tắc có lỗi thể hiện chính sách hình sự tiến bộ, đúng đắn, thừa nhận và tôn trọng tự do thực sự của con người, là cơ sở đảm bảo cho vấn đề trách nhiệm hình sự có khả năng khách quan thực hiện được mục đích của
  • 14. 8 hình phạt quy định tại Điều 27 Bộ luật hình sự năm 1999: “… không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới” [11, Điều 27]. Hiện nay, đề cập đến khái niệm lỗi, có nhiều cách diễn đạt khác nhau: Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý [15]. Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Theo đó, lỗi trong luật hình sự, trước hết được hiểu là quan hệ giữa người phạm tội với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định chủ quan những đòi hỏi của xã hội đã được thể hiện qua các đòi hỏi cụ thể của luật hình sự. Sự phủ định chủ quan này tồn tại trên cơ sở và trong sự thống nhất với sự phủ định khách quan là sự gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Cũng như quan hệ giữa khách quan và chủ quan, sự phủ định khách quan có thể tồn tại độc lập không cần có sự phủ định chủ quan nhưng sự phủ định chủ quan chỉ tồn tại khi có sự phủ định khách quan [15]. Điều này khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa lỗi – dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm với hành vi khách quan của tội phạm – dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm. Chỉ có thể nói đến hành vi khách quan – hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm khi hành vi đó đi liền với lỗi, và ngược lại, không thể nói đến lỗi khi không có hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội. Hay nói cách khác, lỗi được đề cập với tư cách là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt chủ quan của tội phạm là lỗi của cá nhân, lỗi của một con người cụ thể khi người đó thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội.
  • 15. 9 Hay: Lỗi hình sự là mặt chủ quan của tội phạm và là một trong những điều kiện bắt buộc của trách nhiệm hình sự, đồng thời là thái độ tâm lý của người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm mà người đó thực hiện và hậu quả do hành vi ấy gây nên dưới hình thức cố ý hoặc vô ý [4, tr.422]. Lỗi là sự phủ định chủ quan đòi hỏi của xã hội. Chủ thể bị coi là có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nếu họ đã lựa chọn hành vi đó trong khi có đủ điều kiện lựa chọn xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội [7, tr.87-88]. Như vậy, dù dưới góc độ nào thì lỗi cũng là điều kiện quan trọng để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự của một cá nhân về hành vi gây thiệt hại cho xã hội của họ. Tại sao lại như vậy? Trên cơ sở nào mà xã hội có thể buộc con người phải chịu trách nhiệm về hành vi của họ? Bởi vì, con người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình xuất phát từ thực tế, hành vi của con người có tính tất yếu đồng thời có tính tự do. Tính tất yếu của hành vi con người thể hiện ờ chỗ hành vi được hình thành không phải một cách ngẫu nhiên, tách rời những điều kiện xã hội mà được hình thành một cách có quy luật, là kết quả của sự tác động giữa những điều kiện xã hội và con người. Tuy vậy, xử sự của con người không phải có tính tất yếu tuyệt đối. Chủ nghĩa Mác – Lênin tuy thừa nhận tính tất yếu, thừa nhận tính quy định trước trong xử sự của con người nhưng dựa trên cơ sở lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên, giữa tự do và tất yếu, giữa quy luật và hoạt động của con người, chủ nghĩa Mác – Lênin cũng không phủ nhận tự do ý chí của con người. Mọi xử sự của con người đều chịu sự chi phối của quy luật khách quan nhưng con người nhờ hoạt động ý thức có khả năng nhận thức được quy luật và lợi dụng quy luật thực hiện mục đích của mình.
  • 16. 10 Đó là tự do của con người. Quan điểm này không những bác bỏ thuyết định mệnh cho rằng quy luật là tuyệt đối, con người chỉ là công cụ của hoàn cảnh mà còn bác bỏ cả thuyết duy ý chí đã dề cao ý chí của con người giữ vai trò quyết định, phủ nhận quy luật và tính tất yếu. Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định xử sự của con người có tính quy định trước nhưng đối với chính xử sự của mình con người vẫn có tự do, quyết định và thực hiện xử sự phù hợp với những quy luật tự nhiên và xã hội đã nhận thức được. Xử sự của con người tuy chịu sự tác động của điều kiện kinh tế, xã hội nhưng không phải là kết quả trực tiếp của riêng điều kiện kinh tế, xã hội vì “mọi sự tác động của một hiện tượng lên một hiện tượng khác đều bị khúc xạ bởi các thuộc tính bên trong của hiện tượng bị tác động”. Các nguyên nhân bên ngoài tác động đến con người không phải một cách máy móc mà phải thông qua sự suy xét (lí trí) và sự quyết định (ý chí) của họ. Để thỏa mãn bất kỳ nhu cầu nào trong đời sống cũng đều có nhiều biện pháp giải quyết và việc lựa chọn biện pháp nào là kết quả của hoạt động lí trí và ý chí. Chính vì vậy, trong những điều kiện khách quan giống nhau, mỗi người có thể lựa chọn biện pháp xử sự khác nhau. Con người khi đã có quyền lựa chọn là có tự do. Tự do ý chí là khả năng tâm lý của con người có thể tự mình lựa chọn và thực hiện biện pháp xử sự trong những điều kiện xã hội nhất định. Người đã lựa chọn biện pháp xử sự trái pháp luật khi có thể xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội thì phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Tự do ý chí là cơ sở để lên án người có hành vi trái pháp luật. Có nghĩa là, tự do là cơ sở của trách nhiệm và trách nhiệm chỉ đặt ra cho con người khi họ có tự do. Người xử sự trái với lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội trong khi có tự do thì có nghĩa họ là người có lỗi. Do đó, trách nhiệm chỉ đặt ra cho người có lỗi [15, tr.129-131]. Có thể thấy rằng, luật hình sự với tư cách là một trong những ngành luật cơ bản nhất xuất hiện nay ngay từ thời cổ đại - mặc dù thời kỳ này, chưa được xác định với tính chất là ngành khoa học như hiện nay. Theo đó, triết
  • 17. 11 học đã ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình phát triển của khoa học luật hình sự nói chung và chế định lỗi nói riêng. Vì vậy, các trường phái tồn tại trong lịch sử triết học cũng đóng vai trò nhất định đối với khoa học luật hình sự hiện đại. Cụ thể: Về mặt thần học trong khoa học luật hình sự Đức ngay từ những năm 70 của thế kỷ XVII, thì người đã thực hiện tội phạm có dự mưu phải chịu trách nhiệm về tội ác của mình (Pufendort). Trong thời kỳ khai sáng, khoảng thế kỷ thứ XVIII, nhà luật học Cesare Beccaria đã nêu quan điểm pháp lý hình sự có liên quan ở một mức độ nhất định đến cơ sở phương pháp luận của lỗi là: 1) Vấn đề trách nhiệm hình sự và hình phạt không thể gắn liền với sự khái niệm lỗi về mặt đạo đức và không thể thước đo duy nhất và đích thực của tội phạm là sự thiệt hại; 2) Hình phạt cần được áp dụng chỉ khi nào có sự cần thiết tuyệt đối chứ không phải là sự chịu trách nhiệm vì lỗi. Theo quan điểm triết học duy tâm – chủ quan của nhà triết học nổi tiếng người Đức Kant I. thì: 1) Tự do ý chí là ở chỗ - trong tất cả các hành vi của chủ thể chính nó là pháp luật; 2) Sự buộc tội và hình sự là một dạng của trách nhiệm đạo đức, mà cơ sở của nó coi chủ thể là nguyên nhân tự do của một hành vi được thực hiện. Còn theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen thì: 1) Sự hiện diện của ý chí và lí trí chính là điều kiện chung của sự buộc tội; 2) Lỗi là ở trong sự khẳng định rằng, chủ thể là người biết suy nghĩa đã nhận thức và đã mong muốn…. [4, tr.419-421]. Ông đã từng khẳng định: “Tự do là nhận thức được cái tất yếu, tất yếu sẽ mù quáng khi con người chưa nhận thức được nó” [9, tr.192]. Bên cạnh đó, những đại diện xuất sắc của trường phái triết học duy tâm đã xây dựng thành hệ thống lý luận các nguyên tắc, chế định… trong đó đã đề cập đến nguyên tắc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự. Trường phái này cho rằng, cần phân biệt ý định độc ác (cố ý) với sự không thận trọng (vô ý) như là hai hình thức lỗi chủ yếu. Bên cạnh đó, những người đại diện cho trường phái cổ điển trong khoa học luật hình sự thì lỗi và
  • 18. 12 trách nhiệm hoàn toàn dựa trên ý chí tự do tuyệt đối của con người, mà người này trong những điều kiện hoàn toàn như nhau có thể lựa chọn bất kỳ quyết định nào không trái với mình. Đặc biệt là Bernher A. – nhà hình sự học người Đức thuộc trường phái này đã coi cơ sở của việc buộc tội về hình sự là ý chí hoặc tự do của con người, được thể hiện trong sự hành động tùy tiện của cá nhận và phù hợp với động cơ, quyết tâm và ý định bên trong của người đó. Còn nhà hình sự học người Đức nổi tiếng Phơbách A. trong thời kỳ đầu đã coi là sự buộc tội không phụ thuộc vào tự do ý chí, nhưng sau đó đã thay đổi quan điểm và thừa nhận tự do ý chí là điều kiện của sự buộc tội do lỗi. Những nhà nghiên cứu thuộc trường phái xã hội học trong khoa học luật hình sự cho rằng: 1) Lỗi của chủ thể được coi là tình trạng nguy hiểm của người đó; 2) Ba phạm trù (lỗi, tình trạng năng lực, và tình trạng không có năng lực) chính là các tiêu chí của tính nguy hiểm cho xã hội của một hành vi… Chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời, khẳng định tội phạm với tư cách là một phạm trù lịch sử, một hiện tượng xã hội. Tội phạm chỉ xuất hiện khi trong xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, có sự phân chia giai cấp, mâu thuẫn gay gắt làm nảy sinh đấu tranh giai cấp. Theo đó, con người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Khi con người lựa chọn một hành vi phù hợp với những chuẩn mực của xã hội để đạt được mục đích, thỏa mãn nhu cầu của mình thì đó là hành vi hợp pháp. Ngược lại, nếu trong quá trình thực hiện hành vi, con người lại lựa chọn hành vi sai lệch với các chuẩn mực xã hội, trái pháp luật thì hành vi đó là bất hợp pháp, và tất nhiên phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Hoạt động của con người bị chi phối bởi các quy luật khách quan nhưng nhờ hoạt động có ý thức, con người nhận thức và áp dụng các quy luật đó để thực hiện mục đích của mình. Mặt khác, con người là thực thể sinh vật với bộ óc thông minh và hoàn thiện nhất, do đó, tất cả những gì tác động đến con người, thúc đẩy hành vi của con người đều phải thông qua bộ óc. Hoạt
  • 19. 13 động của con người không chỉ là kết quả tác động trực tiếp của các điều kiện lịch sử mà còn chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoạt động tâm lý. Theo đó, tự do tồn tại khi con người có quyền lựa chọn một xử sự phù hợp với các quy luật. Ngược lại, con người sẽ bị tước bỏ sự tự do khi họ xử sự không phù hợp với quy luật. Xử sự của con người mang tính quy luật nhưng không có nghĩa là mang tính tuyệt đối. Khi sống trong cùng một xã hội, có người thực hiện tốt các trách nhiệm của một thành viên trong xã hội, cũng có người phạm tội, có người không phạm tội, có người thực hiện tội phạm lần đầu, cũng có người thực hiện tội phạm nhiều lần… Đó cũng chính là tự do của con người. Sự tự do của con người phụ thuộc vào các điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể cũng như bản chất của chế độ xã hội. Vì vậy, con người tồn tại trong xã hội phải dựa trên cơ sở sự tự do của mình, đáp ứng những đòi hỏi có tính quy luật của xã hội – chính là pháp luật và đạo đức xã hội. Đây cũng chính là vấn đề trách nhiệm của cá nhân trong xã hội, phù hợp với sự tự do của cá nhân, qua đó nhằm bảo đảm sự tự do của cá nhân khác. Triết học Mác – Lênin nghiên cứu con người với hai vai trò chính: một là, sản phẩm của tự nhiên; hai là, bộ phận của những quan hệ xã hội không thể tách rời khỏi xã hội. Các Mác cũng chỉ ra rằng: Bản chất của con người không phải là cái gì trừu tượng sẵn có mà bản chất của con người được thể hiện thông qua các mối quan hệ xã hội. Hay nói cách khác, bản chất của con người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Con người là một thực thể sinh vật có ý thức, thông qua nhận thức của mình, con người tiếp nhận các vật xung quanh tạo nên mối quan hệ đối với xung quanh và qua đó xác định hành vi của mình. Chính vì thế, khi xác định một hành vi là tội phạm, cần thiết phải xem xét trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể thực hiện hành vi, tức là trách nhiệm chỉ đặt ra khi có lỗi. Đây cũng chính là cơ sở khoa học của nguyên tắc có lỗi trong luật hình sự Việt Nam dựa trên chủ nghĩa Mác – Lênin.
  • 20. 14 Dưới góc độ tâm lý học, yếu tố lỗi được đề cập khi nghiên cứu về cấu trúc tâm lý bên trong của hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội là trường hợp cá biệt của hành vi con người, theo đó cũng là hành vi có ý thức – thể hiện sự nhận thức và ý chí của chủ thể. Ý chí của hoạt động tâm lý con người luôn luôn được xuất phát từ nhận thức, con người quyết định hành động trên cơ sở đó. Một cá nhân ngay từ khi mới sinh ra, rõ ràng chưa xuất hiện tâm lý phạm tội, tuy nhiên qua quá trình trưởng thành, hình thành nhân cách, với sự mở rộng tầm nhìn (có thể theo hướng tích cực hoặc tiêu cực), trong những tình huống cụ thể, do nhận thức hạn chế, cũng có khi không hiểu hết bản chất của vấn đề, chủ thể không tự kiềm chế trước tình huống, dẫn tới những hành động trái với các chuẩn mực, khi mà chính chủ thể không tính đến hậu quả do mình gây ra đối với xã hội. Theo đó, quá trình hình thành nhân cách – những phẩm chất mang tính đặc trưng của mỗi cá nhân, được thể hiện ra bên ngoài thông qua những hành vi cụ thể và nó được bộc lộ một cách đầy đủ nhất ở những thời điểm và trong những hoàn cảnh cụ thể đòi hỏi chủ thể phải thể hiện khả năng ứng xử và quyết định lựa chọn phương thức hành động của mình, có ảnh hưởng quan trọng đến việc quyết định lựa chọn hành vi, xử sự của cá nhân. Sự phát triển của nhân cách, của năng lực hành vi hay năng lực ứng xử của chủ thể là một quá trình lâu dài, đi từ thấp đến cao, gắn bó chặt chẽ với quá trình phát triển tư duy. Trong quá trình hình thành nhân cách, những cá nhân sinh sống trong những môi trường tiêu cực có thể hình thành khuynh hướng chống đối xã hội, tuy nhiên không phải mọi trường hợp có khuynh hướng chống đối xã hội là sẽ thực hiện hành vi phạm tội và ngược lại. Điều đó thể hiện sự tương tác qua lại giữa các yếu tố thuộc về cá nhân với các yếu tố thuộc về môi trường trong từng hoàn cảnh cụ thể khác nhau. Nghiên cứu lỗi dưới góc độ tâm lý là một vấn đề không đơn giản. Đặc biệt với những tình huống thực tế đa dạng bởi vì khi đánh giá thái độ chủ quan của cá nhân,
  • 21. 15 không chỉ dựa vào biểu hiện khách quan của hành vi mà còn phải căn cứ vào diễn biến, trạng thái tâm lý bên trong của người đó. Trong luật hình sự Việt Nam, lỗi được coi là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm và nguyên tắc có lỗi là một nguyên tắc cơ bản, đặc trưng. Người phải chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam, không phải chỉ đơn thuần là có hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội mà còn vì đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi khách quan đó cũng như hậu quả do hành vi đó gây nên [6]. 1.2. Khái niệm, đặc điểm của dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý theo quy định của Luật hình sự Việt Nam Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Như vậy, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội sẽ được coi là có lỗi nếu khi thực hiện hành vi họ nhận thức được và có đủ điều kiện để nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, có đủ điều kiện lựa chọn và thực hiện hành vi khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Lỗi với bản chất là thái độ tâm lý nội tại của con người, vì vậy lỗi có thể biểu hiện ở những mức độ khác nhau, có lỗi nặng, có lỗi nhẹ, có lỗi cố ý, có lỗi vô ý. Theo đó, căn cứ đặc điểm cấu trúc tâm lý của yếu tố lý trí và ý chí trong những trường hợp có lỗi, luật hình sự Việt Nam xác định hai hình thức lỗi là cố ý phạm tội và vô ý phạm tội. Cố ý phạm tội bao gồm cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Vô ý phạm tội bao gồm vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả. Yếu tố lý trí thể hiện năng lực nhận thức thực tại khách quan. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội như thế nào, thấy trước khả năng gây ra hậu quả của hành vi hoặc không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội do sơ xuất, cẩu thả mặc dù người phạm tội có thể hoặc có trách nhiệm cần phải thấy trước khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình. Yếu tố lý trí xác định năng lực điều khiển hành vi trên cơ sở nhận
  • 22. 16 thức – người phạm tội mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra hoặc cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Trong chế định lỗi, yếu tố lý trí và ý chí có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thiếu một trong hai yếu tố thì không bị coi là có lỗi. Hay nói cách khác, nếu chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội hành vi của mình nhưng lại không điều khiển được hành vi đó thì họ không có lỗi và ngược lại. 1.2.1. Lỗi cố ý phạm tội Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 quy định cụ thể về hai hình thức lỗi cố ý: Điều 9. Cố ý phạm tội Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây: 1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; 2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra [11, Điều 9]. Nội dung cơ bản của chế định lỗi được hợp thành bởi hai yếu tố là lý trí và ý chí. Theo đó, sự kết hợp khác nhau giữa ý thức và ý chí tạo nên các hình thức khác nhau của lỗi. Một người thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý thể hiện sự chống đối xã hội cao hơn trường hợp lỗi vô ý, do đó trách nhiệm hình sự và hình phạt áp dụng đối với họ sẽ nghiêm khắc hơn. Cố ý phạm tội theo quy định của luật hình sự Việt Nam gồm hai trường hợp. Một là, chủ thể phạm tội trong trường hợp nhận thức rõ hành vi của mình có tính chất nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Những trường hợp này, được gọi là cố ý trực tiếp. Ví dụ: Hành vi
  • 23. 17 cướp tài sản, hành vi trộm cắp tài sản, hành vi hiếp dâm… Hai là, chủ thể phạm tội trong trường hợp nhận thức rõ hành vi của mình có tính chất nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó nhưng lại có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Những trường hợp này, được gọi là cố ý gián tiếp. Ví dụ: Hành vi dùng dao đâm bừa vào người khác… Để phân biệt hai hình thức lỗi cố ý phạm tội: Cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp cần phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau, không chỉ là yếu tố chủ quan – bên trong của tội phạm mà còn cả yếu tố khách quan – yếu tố bên ngoài. Bởi vì tội phạm là sự thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan. Ngoài việc nghiên cứu các thành tố của hoạt động tâm lý còn đồng thời chú ý đến những đặc điểm khách quan thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội được phản ánh trong cấu thành tội phạm như tính chất thực tế của hành vi, đặc điểm của đối tượng tác động, những điều kiện khách quan khác như công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm… thực hiện tội phạm. Đó cũng là cơ sở quan trọng để phân biệt, xác định giữa cố ý phạm tội hay vô ý phạm tội, cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp… Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và thấy trước hậu quả của hành vi đó. Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi là sự nhận thức được tính chất gây thiệt hại cho xã hội của hành vi đang thực hiện trên cơ sở nhận thức những tình tiết khách quan của nó – những tình tiết tạo nên tính gây thiệt hại của hành vi. Những tình tiết đó, có thể là mặt thực tế của hành vi, là đặc điểm của đối tượng tác động của tội phạm, là những điều kiện khách quan như công cụ, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội… Đối với những tội phạm có cấu thành vật chất, trong mặt
  • 24. 18 khách quan của tội phạm ngoài hành vi nguy hiểm cho xã hội còn có hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Vì vậy, người thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp không những nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra mà ngay khi thực hiện hành vi cũng đã thấy trước được hậu quả của nó. Thấy trước hậu quả của hành vi là sự dự kiến của người phạm tội về sự phát triển của hành vi. Người phạm tội có thể dự kiến hành vi tất nhiên sẽ gây ra hậu quả hoặc dự kiến hành vi có thể gây ra hậu quả. Đối với những tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc, do vậy vấn đề có thấy trước hay không thấy trước hậu quả không được đặt ra khi xem xét lý trí của người phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Nếu hậu quả được quy định là tình tiết định khung trong cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc được xem là tình tiết tăng nặng khi quyết định hình phạt thì việc khẳng định người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp đối với hậu quả đó cũng đòi hỏi phải xác định người phạm tội thấy trước hậu quả này. Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và thấy trước hậu quả của hành vi đó là hai nội dung của yếu tố lí trí có liên quan chặt chẽ với nhau. Thấy trước hậu quả của hành vi là kết quả và sự cụ thể hóa sự nhận thức tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Ngược lại, nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi là cơ sở cho việc thấy trước hậu quả của hành vi. Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hậu quả phát sinh. Điều đó có nghĩa hậu quả của hành vi phạm tội mà người phạm tội đã thấy trước hoàn toàn phù hợp với mục đích – phù hợp với sự mong muốn của người đó. Ở đây, sở dĩ không đặt ra vấn đề mong muốn hay không mong muốn hành vi, bởi vì khi đã nhận thức được tính chất của hành vi mà vẫn thực hiện thì chứng tỏ chủ thể mong muốn thực hiện hành vi đó. Đối với tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất, hậu quả nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc cho nên việc kiểm tra ý chí của người phạm tội đối với hậu quả
  • 25. 19 đã thấy trước là điều cần thiết để có thể khẳng định được đó có là lỗi cố ý trực tiếp hay không. Ở các tội có cấu thành tội phạm hình thức, hậu quả nguy hiểm cho xã hội không phải là dấu hiệu bắt buộc cho nên việc xác định ý chí đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội không được đặt ra. Muốn xác định người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp chỉ cần xác định người đó đã nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà vẫn thực hiện hành vi đó. Nếu hậu quả nguy hiểm cho xã hội được quy định là tình tiết định khung trong cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc dược xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt thì việc chứng minh đó là lỗi cố ý trực tiếp đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng đòi hỏi phải xác định được ý chí của người phạm tội đối với hậu quả đó. Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Nghiên cứu hình thức lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp có thể thấy trong hai trường hợp cố ý, lí trí của người có lỗi về cơ bản không có gì khác nhau. Sự phân biệt chủ yếu dựa trên yếu tố ý chí. Trường hợp lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra, còn đối với lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội không mong muốn mà chỉ có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Hay nói cách khác, đối với người có lỗi cố ý gián tiếp, hậu quả xảy ra hay không đều không có ý nghĩa, không xảy ra cũng được và nếu xảy ra cũng chấp nhận. Bên cạnh sự phân biệt về yếu tố ý chí, yếu tố lí trí cũng có điểm khác biệt. Đối với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội có thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, có thể thấy trước hậu quả tất nhiên xảy ra, cũng cũng thể thấy trước hậu quả có thể xảy ra. Đối với lỗi cố ý gián tiếp, sự thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của người phạm tội chỉ có thể là sự thấy trước hậu quả đó có thể xảy a. Không
  • 26. 20 thể có trường hợp người phạm tội đã thấy trước hậu quả tất nhiên phải xảy ra mà có thái độ để mặc, không mong muốn hậu quả đó khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Thái độ có ý thức để mặc cho hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra chỉ có thể có được trong trường hợp thấy trước cả hai khả năng – khả năng hậu quả xảy ra và khả năng hậu quả không xảy ra. Do vậy, đối với lỗi cố ý gián tiếp, về mặt lý trí người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thấy trước hành vi đó có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Về mặt ý chí, người phạm tội không mong muốn hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà người phạm tội đã thấy trước không phù hợp với mục đích của họ. Người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhằm mục đích khác. Để đạt được mục đích này mà người phạm tội đã chấp nhận hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình có thể gây ra. Người phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình mà họ đã thấy trước. 1.2.2. Lỗi vô ý phạm tội So sánh với lỗi cố ý, lỗi vô ý là sự phủ định chủ quan ít nghiêm trọng hơn. Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 quy định cụ thể về hai hình thức lỗi vô ý: Điều 10. Vô ý phạm tội Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây: 1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; 2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó [11, Điều 10]. Lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi trong trường hợp về mặt lí trí, người phạm
  • 27. 21 tội có thể nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thể hiện ở chỗ thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội mà hành vi của mình có thể gây ra. Đây là đặc điểm thể hiện sự tương đồng giữa lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin với lỗi cố ý, mặc dù sự tương đồng chỉ là tương đối – Đều thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, người phạm tội trong trường hợp vô ý vì quá tự tin thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra nhưng đồng thời lại cho rằng hậu quả đó không xảy ra. Như vậy, sự thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội ở đây thực chất là sự cân nhắc đến khả năng hậu quả đó xảy ra hay không và kết quả người phạm tội đã loại trừ khả năng xảy ra hậu quả đó. Đối với người phạm tội ở trường hợp vô ý vì quá tự tin khả năng hậu quả xảy ra và khả năng hậu quả không xảy ra đều là khả năng thực tế nhưng người phạm tội đã tin vào khả năng hậu quả không xảy ra khi quyết định thực hiện xử sự của mình. Chính từ sự tin tưởng của người phạm tội mà họ đã không nhận thức được một cách đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Về ý chí, người phạm tội không mong muốn hành vi của mình gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Sự không mong muốn này có điểm khác so với sự không mong muốn ở trường hợp lỗi cố ý gián tiếp. Đối với lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội không mong muốn nhưng đã chấp nhận khả năng hậu quả xảy ra khi lựa chọn và thực hiện hành vi. Đối với lỗi vô ý vì quá tự tin, sự không mong muốn hậu quả của người phạm tội gắn liền với việc người đó đã loại trừ khả năng hậu quả xảy ra. Mặt khác, trong trường hợp này, người phạm tội đã tính toán, cân nhắc và cho rằng hậu quả sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Sự cân nhắc, tính toán này có thể dựa vào những căn cứ như tin tưởng vào sự khéo léo, sự hiểu biết, kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ kỹ thuật của mình hoặc tin vào những tình tiết khách quan bên ngoài khác. Như trường hợp A là người thợ săn đi săn bắt thú trong rừng, vì quá tin vào khả năng của mình A đã dùng súng bắn vào nơi
  • 28. 22 phát ra tiếng động vì nghĩ là thú rừng, nhưng không ngờ bắn trúng vào chị B đang đi đốn củi trong rừng, làm chị B bị thương nặng… Sự tin tưởng của người phạm tội tuy có căn cứ nhưng những căn cứ đó đều không thực sự vững chắc. Người phạm tội đã không đánh giá đúng tình hình thực tế. Sự tin tưởng của họ là sự tin tưởng quá mức so với thực tế. Lỗi của người phạm tội trong trường hợp vô ý vì quá tự tin chính là ở chỗ đã quá tin tưởng đó. Người phạm tội với lỗi vô ý vì quá tự tin do không thận trọng khi đánh giá, lựa chọn xử sự nên đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Lỗi vô ý do cẩu thả là một trong hai hình thức của lỗi vô ý. Mặc dù, Bộ luật hình sự không trực tiếp quy định tên gọi của hai hình thức lỗi vô ý, nhưng về mặt lý luận, các nhà nghiên cứu thừa nhận hình thức lỗi vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả. Trường hợp lỗi vô ý do cấu thả, người phạm tội không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của mình đã gây ra. Đây là dấu hiệu phân biệt lỗi vô ý do cẩu thả với các hình thức lỗi khác. Với các trường hợp khác, người phạm tội đều thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, tuy mức độ thấy trước khác nhau. Còn với lỗi vô ý do cẩu thả, người phạm tội không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra có thể do nhiều khả năng như: Người phạm tội không nhận thức được mặt thực tế của hành vi của mình và như vậy không nhận thức được khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra. Ví dụ: Do vội vàng, y tá A khi phát nhầm thuốc cho bệnh nhân B đã không nhận thức được hành vi của mình là hành vi phát nhầm và do đó cũng không nhận thức được hành vi của mình có khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Hoặc, người phạm tội tuy nhận thức được mặt thực tế của hành vi của mình nhưng lại hoàn toàn không nhận thức được khả năng gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình (hoàn toàn không nghĩ đến khả năng hậu quả xảy ra) như trường hợp, X đi đổ xăng xe máy, đã
  • 29. 23 bật lửa châm thuốc để hút ngay chỗ cấp phát xăng, khi đó X có thể hoàn toàn không nghĩ đến khả năng gây hỏa hoạn. Bên cạnh đó, người phạm tội trong trường hợp có lỗi vô ý vì cẩu thả với địa vị cụ thể của mình có nghĩa vụ phải thấy và có đủ điều kiện để có thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra. Người phạm tội đã không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình chỉ vì cẩu thả, thiếu sự thận trọng cần thiết. Lỗi của người phạm tội là ở chỗ đã cẩu thả, thiếu thận trọng khi xử sự. Trong xã hội, với vai trò là chủ thể của các mối quan hệ: quan hệ giữa con người – con người, con người – với thế giới xung quanh, mỗi cá nhân cần thiết phải tôn trọng lợi ích của Nhà nước, của tập thể và của những cá nhân khác. Mỗi người không những không được cố ý xâm phạm đến lợi ích đó mà trong xử sự của mình đòi hỏi phải có sự thận trọng cần thiết nhằm tránh gây ra những thiệt hại cho xã hội. Đây là đòi hỏi khách quan của xã hội, nó trở thành những quy tắc của đời sống. Các quy tắc này có thể được pháp luật hóa hoặc không được pháp luật hóa nhưng qua kinh nghiệm, được xã hội thừa nhận, áp dụng, vì vậy, cá nhân tồn tại trong xã hội có nghĩa vụ phải chấp hành. Những quy tắc đó thuộc những lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như quy tắc trong giao thông vận tải, quy tắc săn bắn, quy tắc phòng hỏa, quy tắc an toàn lao động, quy tắc hành chính, quy tắc nghề nghiệp… Người phạm tội với lỗi vô ý vì cẩu thả là người về khách quan đã gây ra những thiệt hại cho xã hội qua việc vi phạm quy tắc nhất định của cuộc sống chung xã hội. Về chủ quan, người phạm tội với lỗi vô ý vì cẩu thả có nghĩa vụ phải tuân thủ quy tắc mà họ đã vi phạm. Với địa vị cụ thể của mình, họ thấy được hành vi không cẩn thận, không tuân thủ những quy tắc đã được đặt ra sẽ gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Như trường hợp, với địa vị là công dân trong xã hội, chủ thể phải thấy được việc dùng lửa không cẩn thận trong khi đun nấu có thể dẫn đến hỏa hoạn gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội; người phát
  • 30. 24 thuốc cho bệnh nhân phải thấy được việc phát thuốc không cẩn thận có thể dẫn đến phát nhầm và do vậy có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội… Bộ luật hình sự quy định đối với trường hợp lỗi vô ý do cẩu thả, người phạm tội “phải thấy” có nghĩa là người đó phải có nghĩa vụ tuân thủ quy tắc mà họ đã vi phạm, nhưng họ đã không tuân thủ. Nghĩa vụ này, phát sinh từ địa vị pháp lý của chủ thể. Do có nghĩa vụ đó, mà họ buộc phải thấy được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Người phạm tội với lỗi vô ý vì cẩu thả không những “phải thấy” mà còn “có thể thấy” trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình. “Có thể thấy” ở đây có nghĩa là người phạm tội có đủ điều kiện khách quan (hoàn cảnh cụ thể bên ngoài) cũng như điều kiện chủ quan (trình độ nhận thức, nghiệp vụ, kinh nghiệm…) để có thể thấy trước hành vi vi phạm của mình có thể gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Khi xác định lỗi của người phạm tội với lỗi vô ý vì cẩu thả cần chú ý đến người đã đến độ tuổi nhất định, có năng lực trí tuệ bình thường thì mới có thể biết được những quy tắc an toàn thông thường. Đặc biệt, đối với một số hoạt động có tính chất chuyên môn, sự hiểu biết về các quy tắc bảo đảm an toàn đòi hỏi phải có sự hướng dẫn, học hỏi nhất định. Do vậy, việc xác định các đặc điểm chủ quan của người phạm tội về trình đội nghiệp vụ là điều kiện cần thiết để xác định lỗi vô ý vì cẩu thả. Như vậy, đối với lỗi vô ý, người phạm tội đã lựa chọn và thực hiện hành vi, vì không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi hoặc thấy trước nhưng tin hậu quả đó không xảy ra và do vậy cũng không nhận thức đươc hành vi sẽ thực hiện là hành vi phạm tội. Do tính chất như vậy cho nên những hành vi vô ý nói chung chỉ có tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm khi đã gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội ở mức độ nhất định. Đó cũng là cơ sở quan trọng thể hiện chính sách của luật hình sự Việt Nam khi quy định
  • 31. 25 những cấu thành tội phạm có dấu hiệu lỗi vô ý nói chung được xây dựng dưới dạng cấu thành tội phạm vật chất. Đối với cấu thành tội phạm hình thức có dấu hiệu lỗi vô ý chỉ là những trường hợp cá biệt như cấu thành tội phạm của tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước quy định tại Khoản 1 Điều 264 Bộ luật hình sự năm 1999 hay cấu thành tội phạm của tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự quy định tại Khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự năm 1999. Ngoài ra, về mặt lý luận, trong luật hình sự Việt Nam còn có quy định về trường hợp hỗn hợp lỗi là trường hợp trong cấu thành tội phạm có hai loại lỗi (cố ý và vô ý) được quy định đối với những tình tiết khách quan khác nhau. Theo đó, hỗn hợp lỗi chỉ có thể xảy ra ở những cấu thành tội phạm tăng nặng của những tội phạm cố ý mà tình tiết tăng nặng là những hâu quả nguy hiểm nhất định cho xã hội và lỗi của người phạm tội đối với những hậu quả đó là lỗi vô ý, như trong cấu thành cơ bản của tội hiếp dâm quy định tại Khoản 1 Điều 111 của Bộ luật hình sự có dấu hiệu là lỗi cố ý, nhưng tại Điểm c Khoản 3 Điều 111 với cấu thành tội phạm tăng nặng có tình tiết tăng nặng là hậu quả chết người và lỗi đối với hậu quả này là vô ý. Hay cũng tương tự đối với ý 2 Khoản 3 Điều 104 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác – cố ý gây thương tích… vô ý với hậu quả chết người; điểm a Khoản 4 Điều 133 về tội cướp tài sản… 1.3. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong quá trình phát triển của luật hình sự Việt Nam 1.3.1. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ trước khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Nghiên cứu lịch sử phát triển của luật hình sự Việt Nam thời kỳ trước khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tập trung chủ yếu qua quá trình hình thành, phát triển và suy vong của Nhà nước phong kiến. Trong đó, dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý được thể hiện rõ nét thông qua hai bộ luật có
  • 32. 26 giá trị pháp lý thống nhất là Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) và Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) – đây là những văn bản quý giá, chứa đựng trình độ lập pháp, giá trị văn minh của đất nước và con người Việt Nam. Quốc triều hình luật – Bộ luật Hồng Đức được coi là Bộ luật cổ có giá trị quan trọng và chính thống nhất của triều đại nhà Lê cũng như trong lịch sử của pháp luật phong kiến nước ta. Theo đó, Bộ luật không quy định nội dung cụ thể của lỗi cố ý và vô ý, thậm chí không xác định chế định lỗi độc lập, đồng thời cũng không quy định về tội phạm cố ý hay vô ý. Nhưng tại Điều 47 đã khẳng định rõ chính sách của triều đại cũng như quan điểm xử phạt đối với loại hành vi mà có sự khác biệt về “cố ý” hay “lầm lỡ” (vô ý): … những người phạm tội tuy tên gọi giống nhau, nhưng phải phân biệt sự phạm tội vì lầm lỡ hay cố ý; phải xét tội nặng nhẹ mà thêm bớt, không nên câu nệ để hợp với ý nghĩa việc xét xử hình án: tha người lầm lỡ không kể tội nặng, bắt người cố ý không kể tội nhẹ… [10, Điều 47]. Điều này cũng được cụ thể hóa tại các tội phạm cụ thể quy định trong Bộ luật: “… những quan viên, quân đội phạm tội nếu vì sơ xuất lỗi lầm, từ tội lưu trở xuống thì cho chuộc bằng tiền” [10, Điều 14]; tội vô ý gây thương tích hay vô ý làm chết người bị xử phạt nhẹ hơn tội cố ý tương ứng: “vì chơi đùa mà làm người khác bị thương hay chết thì xử nhẹ hơn tội đánh người bị thương hay chết người hai bậc”… [10, Điều 498]. Đó cũng là những quy định cụ thể để các quan xét xử trong quá trình áp dụng pháp luật, đặc biệt trong những trường hợp các tình tiết của vụ án hay hành vi phạm tội chưa có sự phân hóa hình phạt đối với lỗi cố ý hay vô ý. Trải qua quá trình lịch sử, vương triều Nguyễn (triều đại phong kiến cuối cùng của nước ta) được xây dựng và phát triển. Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) ra đời đã kế thừa và tiếp tục khẳng định phần lớn những giá trị
  • 33. 27 quý báu của Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức). Bộ luật Gia Long cũng không trực tiếp quy định về dấu hiệu lỗi với tư cách là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, không có sự phân biệt giữa trường hợp “có lỗi” gắn liền với “có tội” và phải chịu trách nhiệm hình sự với trường hợp “không có lỗi” là “không có tội” mà chỉ phân biệt giữ trường hợp phạm tội cố ý (cố tâm) và trường hợp phạm tội vô ý (do lầm lỡ, lơ đễnh, lơ là, vô tâm) để xác định loại và mức hình phạt trong luật và định hướng trong xét xử. Bộ luật Gia Long cũng đề cao nguyên tắc “nghiêm trị người cố ý phạm tội và khoan hồng người vô ý phạm tội”. Tại Điều 15 quy định về Tội không thể tha: … phàm phạm mười tội ác, giết người, ăn trộm đồ quan, trộm bạo… cướp người, buôn người, xúi xiểm giết người, cố ý thêm bớt tội phạm, biết sự việc mà cố ý dung túng… những loại ấy đều là thực phạm, đều cố tâm phạm tội dù gặp dịp ân xá cũng không được tha. Còn những người phạm tội vì lầm lẫn, nghĩa là giết người, làm bị thương người bởi vô ý, làm cháy nhà bởi vô ý, lơ là làm hư vật quan… lơ đễnh không khéo trói để sảy tù… đều là vô tâm mà phạm tội thì được ân xá và giảm tội như giáng từ tội chết xuống tội lưu, tội lưu qua tội đồ…. ;… phàm cố ý bỏ hư chế thư và ấn tín… thì xử chém. Nếu làm rơi mất chế thư, thánh chỉ, ấn tín thì bị phạt 90 trượng, đồ hai năm rưỡi… [14, Điều 61]; …phàm vâng lệnh chế thư để thực hiện mà cố ý làm sai, không làm thì bị phạt 100 trượng. Làm sai lạc ý của vua (vô ý) thì giảm ba bậc tội… [14, Điều 60]. Rõ ràng, Bộ luật không trực tiếp quy định khái niệm lỗi cố ý và vô ý nhưng đây cũng là những quy định khá cụ thể liên quan đến việc phân biệt lỗi cố ý hay vô ý, từ đó có ý nghĩa trong việc xác định hình phạt đối người phạm tội. Như vậy, có thể thấy trong lịch sử luật hình sự phong kiến, nhìn chung,
  • 34. 28 do kỹ thuật lập pháp còn hạn chế, đơn giản, xuất phát từ các quan hệ xã hội phong kiến, nên nhìn chung quy định về chế định lỗi nói riêng và luật hình sự nói chung còn đơn giản, chưa mang tính khái quát cao. Tuy nhiên, ở mức độ nào đó, cũng đã nghiên cứu vai trò của yếu tố chủ quan – thái độ tâm lý bên trong, hay lỗi của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội. 1.3.2. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, theo đó đất nước ta bước vào một thời kỳ mới. Đây là giai đoạn mà tình hình kinh tế, chính trị, xã hội có nhiều biến động. Nhà nước non trẻ mới được hình thành, thù trong giặc ngoài đe dọa, nhiều thế lực thù địch nhòm ngó. Chính vì vậy, trong những năm đầu nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ được thành quả cách mạng vừa giành được. Luật hình sự lúc này là vũ khí quan trọng của Nhà nước trong cuộc đấu tranh chống phong kiến, chống thực dân, đế quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ này, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến việc xây dựng hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật hình sự. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu cấp bách từ thực tiễn nên các văn bản luật hình sự vẫn chưa được quy định thống nhất, chưa có khái niệm về tội phạm, nên cũng chưa có chế định riêng về lỗi, cũng như xác định hình thức lỗi (vô ý hay cố ý). Tuy nhiên, trong các pháp lệnh và sắc lệnh được ban hành vẫn chứa đựng quy định cụ thể về hành vi cũng như lỗi của người thực hiện hành vi đó. Theo đó, các văn bản cũng xác định về hành vi cố ý và hành vi vô ý phạm tội như giết người, cướp tài sản, trộm cắp tài sản hay sơ xuất để lộ bí mật quốc gia, không cẩn thận gây tai nạn làm người khác bị thương hoặc làm chết người, vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa, thiếu tinh thần trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa…
  • 35. 29 Sau thắng lợi của cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1975, với sự thống nhất cả nước chung tay xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, theo đó, các văn bản pháp luật trong đó có pháp luật hình sự cũng được ban hành. Từ thực tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành một số văn bản hướng dẫn và giải thích phần nào về lỗi – thái độ tâm lý bên trong của người phạm tội đối với một số loại tội phạm điển hình. Như Sắc lệnh số 267/ SL ngày 15 tháng 6 năm 1956 có quy định về tội phạm và hình phạt trong các trường hợp cụ thể nhưng không ghi nhận hình thức lỗi tương ứng. Tuy vậy, để phù hợp với tình hình thực tế, sắc lệnh cũng quy định một số tội phạm do “thiếu trách nhiệm” – lỗi vô ý: Kẻ nào vì thiếu tinh thần trách nhiệm mà trong công tác mình phụ trách đã để lãng phí, để hư hỏng máy móc, dụng cụ, nguyên vật liệu, để lộ bí mật nhà nước, để xảy ra tai nạn... làm thiệt hại một cách nghiêm trọng đến tài sản của nhà nước, của hợp tác xã, của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch của nhà nước, sẽ bị phạt từ 3 tháng đến 2 năm tù. Công văn 949/NCLP ngày 25 tháng 11 năm 1969 Sơ kết kinh nghiệm về đường lối xét xử tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn của Tòa án nhân dân tối cao quy định về tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn: “Tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn xâm hại nền an toàn giao thông vốn thuộc về loại tội khinh xuất hoặc sơ xuất… Người lái xe có hành vi vi phạm nghiêm trọng là do thiếu tinh thần trách nhiệm không chú ý kiểm tra an toàn của phương tiện vận chuyển, phóng bừa, vượt ẩu, không tuân thủ luật lệ giao thông vận tải”. Trong đó, có đề cập đến “hỗn hợp lỗi” – nhưng không giống như quy định hiện hành, mà đây là trường hợp cả nạn nhân và lái xe là người có lỗi hay tai nạn hoàn toàn do lỗi của nạn nhân gây ra nhưng lái xe vẫn bị xử phạt. Hay trong Công văn 452/HS2 ngày 10 tháng 8 năm 1970 có hướng dẫn để phân biệt giữa tội cố ý gián tiếp làm chết người với tội vô ý vì quá tự tin làm chết người. Trường hợp vô ý vì quá tự tin làm chết người can phạm
  • 36. 30 không mong muốn, mặc dù thấy trước hậu quả làm chết người có thể xảy ra, can phạm chủ quan tự tin vào một điều kiện cụ thể tưởng rằng có thể làm cho hậu quả không xảy ra, nhưng sự tin tưởng đó không có cơ sở đầy đủ: Mặt khách quan rất giống nhau: cũng là một hành vi làm chết người khác. Nhưng mặt chủ quan, và tính chất nguy hiểm cho xã hội, thì rất khác nhau. Ở tội vô ý làm chết người, không những can phạm không mong muốn cho hậu quả chết người xảy ra, hoặc không có thái độ thờ ơ mặc kệ cho hậu quả đó xảy ra mà còn không thấy được trước hậu quả đó mà đáng lẽ phải thấy và có thể thấy, hoặc tuy có thấy trước hậu quả có thể xảy ra, nhưng chủ quan tin vào một điều kiện cụ thể nào đó sẽ làm cho hậu quả không xảy ra. Theo đó, trong Công văn cũng phân biệt giữa cố ý gián tiếp làm chết người với vô ý vì quá tự tin làm chết người; phân biệt giữa trường hợp định giết người này nhưng lại làm chết người khác (sai lầm). Hay tại Bản tổng kết số 10/NCLP ngày 08 tháng 1 năm 1986, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn đường lối xử lý tội “thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm quy tắc an toàn giao thông gây thiệt hại nghiêm trọng về người, tài sản”, Tòa án giải thích: “thiếu tinh thần trách nhiệm” thể hiện dưới các hình thức như: Bị cáo thấy trước khả năng gây thiệt hại nghiêm trọng, nhưng vì chủ quan, thiếu thận trọng, nhẹ dạ tin vào những tình tiết, những biện pháp phòng ngừa không đầy đủ, cho nên hậu quả tai hại xảy ra. Đây là hình thức lỗi sơ xuất vì quá tự tin; Bị cáo không thấy trước khả năng gây ra thiệt hại nghiêm trọng, nhưng đáng lẽ phải thấy và có thể thấy trước khả năng đó, vì đã được học tập về bảo hộ lao động, huấn luyện về phương pháp làm việc an toàn nên hậu quả tai hại xảy ra do thiếu sự chú ý cần thiết. Đây là hình thức lỗi sơ xuất vì cầu thả; Bị cáo thấy trước khả năng gây ra thiệt hại nghiêm trọng. Một mặt, họ không chắc chắn rằng tác hại sẽ xảy ra, mặt khác họ cũng không tin rằng nhất định nó sẽ xảy ra. Họ cũng không mong muốn gây ra hậu quả tác hại hay bất cứ một hậu quả xấu nào nói chung,
  • 37. 31 nhưng họ cứ thực hiện hành vi vi phạm với ý nghĩ rằng nếu hậu quả tác hại xảy ra thì cũng thôi. Đây là thái độ vô trách nhiệm, làm bừa, làm ẩu. Bên cạnh đó, Bản tổng kết còn phân biệt giữa khái niệm lỗi trong tội vi phạm quy tắc an toàn lao động và khái niệm lỗi sơ xuất. Như vậy, có thể thấy, pháp luật hình sự trong thời kỳ này đã bắt đầu đề cập đến việc phân biệt giữa lỗi cố ý và vô ý, cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp, vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả, tuy nhiên các quy định chỉ dừng lại ở mức độ hướng dẫn trong các văn bản dưới luật như các công văn, báo cáo tổng kết công tác xét xử của Tòa án nhân dân tối cao. Chế định lỗi không được quy định một cách rõ ràng, khái quát và thống nhất trong một văn bản pháp luật cụ thể. 1.3.3. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 10 năm sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ lịch sử mới – đi lên chủ nghĩa xã hội, tiến tới xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với sự thay đổi của kinh tế, chính trị, xã hội, pháp luật cũng có những bước phát triển mới đặc biệt là pháp luật hình sự. Từ những văn bản riêng lẻ, lần đầu tiên các quy phạm pháp luật hình sự được thể hiện dưới dạng Bộ luật. Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời đã kế thừa và phát triển những thành tựu trong lịch sử lập pháp Việt Nam. Chương 3 Điều 8 Khoản 1 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 khi đề cập đến khái niệm tội phạm đã xác định rõ hai hình thức lỗi - cố ý phạm tội và vô ý phạm tội: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Theo đó, định nghĩa pháp lý về lỗi cố ý và vô ý lần đầu tiên được ghi nhận chính thức trong Bộ luật hình sự Việt Nam tại Điều 9 và Điều 10:
  • 38. 32 Cố ý phạm tội là phạm tội trong trường hợp nhận thức rõ hành vi của mình có tính chất gây nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây: a) Người phạm tội do cẩu thả mà không thấy trước khả năng gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước. b) Người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Sự ra đời của Bộ luật hình sự năm 1985 đã khẳng định tính có lỗi là một trong những đặc điểm quan trọng của tội phạm hay nói cách khác lỗi là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt chủ quan của mọi cấu thành tội phạm. Bên cạnh đó, các nhà lập pháp hình sự cũng xác định hai hình thức lỗi là cố ý phạm tội (Điều 9) và vô ý phạm tội (Điều 10). Tại Phần các tội phạm quy định nhiều tội danh với hình thức lỗi cố ý và vô ý, phân biệt rõ cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp, vô ý vì quá tự tin, vô ý do cẩu thả. Đó là những quy định cần thiết trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt, cũng như góp phần quan trọng trong nghiên cứu lý luận hình sự. Bộ luật hình sự năm 1985 với 12 chương và khoảng 200 Điều luật thuộc Phần các tội phạm, trong đó có khoảng 180 điều luật về tội phạm do lỗi cố ý và hơn 20 điều luật về tội phạm do lỗi vô ý đã khẳng định vai trò quan trọng của chế định lỗi. Có những tội phạm, hình thức lỗi được quy định ngay trong tên gọi của tội danh: Tội cố ý làm lộ bí mật Nhà nước, tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật Nhà nước (Điều 92); Tội cố ý không giúp người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 107); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác (Điều 109); Tội vô ý làm lộ bí mật công tác, tội làm mất tài liệu bí mật công tác
  • 39. 33 (Điều 223); Tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự, tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự (Điều 263)… Nhiều tội phạm, trong Điều luật không quy định trực tiếp về hình thức lỗi nhưng cấu thành tội phạm lại phản ánh rõ ràng hình thức lỗi: Tội giết người (Điều 101); Tội cướp tài sản của công dân (Điều 151); Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 139); Tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải (Điều 186)… Đặc biệt đối với các tội phạm do lỗi vô ý, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định thường là cấu thành tội phạm vật chất, thể hiện dưới dạng: Tội vô ý/ vi phạm… gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 104; Điều 140; Điều 186; Điều 194 - 197; Điều 233…). Ngoài ra, trong giai đoạn này, Tòa án nhân dân tối cao ban hành một số văn bản hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự như: Nghị quyết số 04 – HĐTPTANDTC/NQ về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, trong đó bao gồm nhiều trường hợp có vướng mắc về hình thức lỗi liên quan đến định tội danh và quyết định hình phạt: Hành vi “phá hủy công trình hoặc phương tiện giao thông vận tải” (Điều 94) giống với hành vi: “đào, phá công trình giao thông”… (Điều 187 Tội cản trở giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng) ở chỗ cả hai tội đều không có mục đích chống chính quyền nhân dân. Nhưng hai tội này khác nhau ở chỗ: Đối với tội phá hủy… (Điều 94), hành vi được thực hiện cố ý và hậu quả của tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc (như hành vi đóng đinh dài ở chỗ tiếp giáp hai đoạn đường ray nhưng xe lửa không trật bánh hoặc đổ). Đối với tội cản trở giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 187), đối tượng của tội phạm có tính chất quan trọng thấp hơn đối tượng của tội phạm “phá hủy…” hành vi là do cố ý, bị cáo không muốn hậu quả xảy ra nhưng hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc (như: cắt ngang đường giao thông quốc lộ để thoát nước nhưng không có biện pháp báo hiệu, phòng ngừa cần thiết, gây nên tai nạn làm xe chở hành khách bị lật đổ, nhiều người chết và bị
  • 40. 34 thương)…”. Hay trường hợp, tội vô ý làm chết người (Điều 104). Hành vi vô ý gây thiệt hại đến tính mạng của người khác do vi phạm một quy định hành chính cụ thể (Các điều 186, 187, 188…): Hành vi do cẩu thả hoặc quá tự tin mà làm chết người, thì nói chung bị xử lý về tội vô ý làm chết người (Điều 194 Khoản 1) như: người đi săn ban đêm do lầm lẫn mà bắn chết người; Hành vi vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp (như: công nhân mắc đường dây dẫn điện do làm việc không cẩn thận gây chết người qua đường) hoặc vi phạm quy tắc hành chính (như: chặt cây công cộng trái quy định của co quan có thẩm quyền, làm gẫy cành cây, đứt dây điện, gây chết người qua đường…) thì bị xử lý theo quy định của Điều 104 Khoản 2; Hành vi vô ý gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe người khác do vi phạm một quy định hành chính cụ thể mà điều luật quy định riêng (như các Điều 186, 188, 190…) thì bị xử lý theo điều luật tương ứng. Thí dụ: lái xe phóng nhanh, vượt ẩu gây tại chết người bị xử lý theo Điều 186 về tội phạm quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng. Hoặc: Tội bức tử (Điều 105) tội phạm được thực hiện do cố ý, chủ thể nhận thức rõ hành vi của mình có thể làm cho nạn nhân tự sát, không mong muốn, nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (cố ý gián tiếp) và cũng có thể do cố ý về hành vi, vô ý về hậu quả. Tội cố ý không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 107) là… cố ý bỏ mặc, dẫn đến chết người. Theo khoản 2, người không cứu giúp là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm (như: cùng đi tắm ở sông, người biết bơi đùa nghịch làm người không biết bơi bị chới với sắp chìm mà không cứu vớt) hoặc là người mà theo pháp luật hay nghề nghiệp, có nghĩa vụ phải cứu giúp (như thủy thủ đang đi tàu trên sông, trên biển đối với người đang vật vờ trên mặt nước, bác sĩ đối với bệnh nhân đang cần cấp cứu…). Đối với trường hợp điều khiển phương tiện giao thông vận tải gây tai nạn rồi bỏ chạy, cố ý không giúp người bị nạn để trốn tránh trách nhiệm thì xử lý theo Điều 186, khoản 2, điểm b (Tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông
  • 41. 35 vận tải gây hậu quả nghiêm trọng). Các tội phạm quy định ở điều 186, 190, 191, 221, 251, 263, 265, 267, 208, 270… thực hiện một cách vô ý… Thí dụ: Do lơ là, cẩu thả trong công việc một người huy động nhân công gây lãng phí lớn về sức lao động; do nghiên cứu hồ sơ, chứng cứ không cẩn thận, một số kiểm sát viên truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, một thẩm phán ra quyết định trái pháp luật (nếu hành vi của kiểm sát viên, thẩm phán là do cố ý thì bị xử lý theo Điều 231 hoặc Điều 232). Bên cạnh đó, tại Nghị quyết số 1 – 89/ HĐTP - NQ ban hành ngày 19 tháng 4 năm 1989 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự có xác định: “… cũng coi là cố ý gây thương tích dẫn đến chết người trường hợp gây thương tích không phải là thương tích nặng, nhưng vi nạn nhân là người quá già yếu, có bệnh nặng, việc gây thương tích làm cho bị chết sớm hơn, nếu không bị gây thương tích thì nạn nhân chưa chết…”. Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 139) là các trường hợp vì thiếu trách nhiệm nên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao mà để cho tài sản xã hội chủ nghĩa do mình trực tiếp quản lý bị mất mát, hư hỏng lãng phí… (như thủ kho, thủ quỹ, người bán hàng, người áp tải hàng hóa, vật tư, bảo vệ, cán bộ kế toán, cán bộ lãnh đạo có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản…). Còn người có chức vụ nếu do lơ là, buông lỏng quản lý mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao để xảy ra việc người khác làm mất mát, hư hỏng, lãng phí, chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, thì là chủ thể của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 220)… Như vậy, với việc ghi nhận hai hình thức lỗi: cố ý phạm tội và vô ý phạm tội, Bộ luật hình sự năm 1985 đã từng bước hệ thống và pháp điển hóa các quy phạm pháp luật hình sự, đó là cơ sở quan trọng để sửa đổi, bổ sung Bộ luật qua các thời kỳ - năm 1989, 1990, 1992, 1997.
  • 42. 36 1.3.4. Dấu hiệu lỗi cố ý và lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 Đất nước chuyển sang thời kỳ mới – thời kỳ kinh tế thị trường với sự phát triển của văn hóa, xã hội, theo đó tội phạm cũng vận động cùng với xu thế của hiện thực khách quan. Bộ luật hình sự năm 1985 không còn phù hợp với thời đại, vì vậy cần thiết có sự thay đổi chính sách hình sự, góp phần đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Trên cơ sở kế thừa, khắc phục những hạn chế của Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 được xây dựng và hoàn chỉnh hơn về mặt nội dung và hình thức. Những quy định về hai hình thức lỗi nhìn chung không có sự thay đổi đáng kể. Khái niệm tội phạm (Khoản 1 Điều 8) vẫn ghi nhận tính có lỗi, không chấp nhận việc “quy tội khách quan”, lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong mọi cấu thành tội phạm. Ngay trong Phần chung của Bộ luật hình sự cố ý phạm tội và vô ý phạm tội tiếp tục được ghi nhận cụ thể tại Điều 9 và Điều 10: Điều 9. Cố ý phạm tội Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây: 1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra; 2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Điều 10. Vô ý phạm tội Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây: 1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; 2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể
  • 43. 37 gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó [11, Điều 9, Điều 10]. Trong Phần các tội phạm với tổng số 24 chương chỉ có 7 chương quy định các tội phạm thực hiện bằng lỗi vô ý, còn lại 17 chương tội phạm thực hiện bằng lỗi cố ý. Trong số 272 điều luật về tội phạm cũng chỉ có 51 điều luật quy định tội phạm với lỗi vô ý, chiếm tỉ lệ 18,8% [1, tr.124] còn lại 221 điều luật về tội phạm với lỗi cố ý, chiếm khoảng 81,2%. Mức hình phạt mà các nhà lập pháp quy định đối với tội phạm thực hiện với lỗi cố ý thường nghiêm khắc hơn so với tội phạm thực hiện với lỗi vô ý. Thông thường, mức hình phạt tối đa trong khung hình phạt nặng nhất của tội phạm thực hiện với lỗi vô ý là 15 năm tù giam, còn tội phạm thực hiện với lỗi cố ý là tù chung thân hoặc tử hình. Nhiều hành vi, do tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn hoặc không đáng kể với lỗi vô ý đã được phi hình sự hóa. Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 cũng tách riêng một số tội danh được quy định trong một điều luật tại Bộ luật hình sự năm 1985 như: Điều 104 tách thành 2 điều là 98 và 99; Điều 186 tách thành 4 điều là 202, 208, 212, 216; Điều 187 tách thành 4 điều là 203, 209, 213, 217, Điều 188 tách riêng thành điều 204, 210, 211, 214, 215, 218, 219… Đây chính là cơ sở quan trọng, giúp cho quá trình định tội được rõ ràng, cụ thể và chính xác hơn. Tóm lại, có thể thấy rằng, lỗi là thái độ chủ quan của người phạm tội đối với hành vi và hậu quả nguy hiểm do hành vi đó gây ra. Lỗi có hai hình thức là cố ý (cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp) và vô ý (vô ý vì quá tự tin, vô ý do cẩu thả), được xác định trên cơ sở lí trí và ý chí của người phạm tội. Qua lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, dấu hiệu lỗi cố ý phạm tội và lỗi vô ý phạm tội đã dần được ghi nhận ở các mức độ khác nhau, cụ thể và hoàn thiện hơn, góp phần quan trọng trong lý luận hình sự cũng như thực tiễn áp dụng.