SlideShare a Scribd company logo
1 of 110
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HOÀNG THỦY
BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
DO VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG,
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ
Mã số: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH ĐÀO TRÍ ÚC
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Hoàng Thủy
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài ............................................... 4
4. Phạm vi nghiên cứu....................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
6. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 5
7. Kết cấu của đề tài .......................................................................................... 5
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU
DÙNG VÀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM
QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG ................................................. 6
1.1 Khái quát chung về người tiêu dùng và quyền lợi của người tiêu dùng ........ 6
1.1.1 Khái niệm người tiêu dùng và quyền lợi của người tiêu dùng ............. 6
1.1.2 Đặc điểm của người tiêu dùng Việt Nam............................................12
1.1.3 Các quyền cơ bản của người tiêu dùng...............................................18
1.2 Khái niệm và đặc điểm của bồi thường thiệt hại do vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng ...................................................................26
1.2.1 Khái niệm............................................................................................26
1.2.2 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng ...................................................................28
1.2.3 Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền
lợi người tiêu dùng..............................................................................44
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BỒI
THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƢỜI
TIÊU DÙNG ......................................................................................47
2.1 Cơ sở pháp lý về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người
tiêu dùng..............................................................................................47
2.2 Thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật Việt Nam về bồi
thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng......................51
2.2.1 Sơ lược lịch sử chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền
lợi người tiêu dùng..............................................................................51
2.2.2 Những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về bồi thường
thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng và nguyên nhân........54
2.2.3 Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng ...................................................................67
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỒI THƢỜNG THIỆT
HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG.............86
3.1 Quan điểm hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng ...................................................................86
3.1.1 Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng điều chỉnh đối với người tiêu dùng......86
3.1.2 Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng điều chỉnh đối với tổ chức, cá
nhân sản xuất kinh doanh....................................................................87
3.1.3 Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng tác động đến sự phát triển kinh
tế - xã hội.............................................................................................89
3.2 Phương hướng cơ bản hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại do
vi phạm quyền lợi người tiêu dùng .....................................................90
3.3 Các giải pháp hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại do vi
phạm quyền lợi người tiêu dùng .........................................................93
3.3.1 Hệ thống hóa, pháp điển hóa pháp luật về bồi thường thiệt hại do
vi phạm quyền lợi người tiêu dùng .....................................................93
3.3.2 Các giải pháp để tăng hiệu quả việc thực thi pháp luật ......................96
KẾT LUẬN..................................................................................................102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................104
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, nền kinh tế Việt Nam những năm
gần đây ngày càng phát triển và đạt được những kết quả quan trọng. Việc hòa
nhập vào nền kinh tế thế giới vừa tạo ra những cơ hội phát triển nhưng đồng
thời cũng đặt nền kinh tế Việt Nam trước những thách thức mới.
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại thế giới WTO, là thành viên của ASEAN, APEC. Điều đó đồng
nghĩa với việc hàng hóa, sản phẩm nước ngoài sẽ tràn vào thị trường Việt
Nam và tất yếu là cạnh tranh sẽ vô cùng khốc liệt. Tính hai mặt của vấn đề
này ngày càng được thể hiện rõ nét. Xét về mặt tích cực, người tiêu dùng sẽ
được lợi khi có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn sản phẩm chất lượng tốt và phù
hợp với túi tiền của mình nhưng ngược lại mặt trái của vấn đề cũng là ở chỗ
đó. Một khi người tiêu dùng đứng trước các sản phẩm hàng hóa vô cùng
phong phú, đa dạng, nhà sản xuất nào cũng tung ra các chiêu thức quảng cáo
sản phẩm mình là tốt nhất thì người tiêu dùng có thực sự dễ dàng khi lựa chọn
được sản phẩm chất lượng như ý?
Có một thực tế mà chúng ta dễ dàng nhận ra là chưa khi nào vấn đề
người tiêu dùng lại được đặt ra cấp thiết như hiện nay. Đặc biệt trong thời
gian gần đây, trên thị trường xuất hiện nhiều phương thức kinh doanh mới
như bán hàng qua mạng, qua điện thoại… giao dịch điện tử để để đặt mua
hàng hóa, dịch vụ từ một nước khác cũng đang phát triển. Những phương tiện
giao dịch hiện đại tạo sự thuận tiện cho các bên nhưng bên cạnh những tiện
ích thì đây cũng là môi trường làm phát sinh những hành vi vi phạm quyền lợi
người tiêu dùng ngày một tinh vi và phức tạp hơn.
Người tiêu dùng là một tác nhân kinh tế quan trọng và chiếm số lượng
đông đảo trong xã hội nhưng lại bị vi phạm quyền lợi nhiều nhất. Gần đây,
2
trên thực tế đã xảy ra các vụ vi phạm của các nhà sản xuất, kinh doanh mà
người tiêu dùng là đối tượng bị xâm phạm quyền lợi. Đã có nhiều vụ vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng liên quan đến thực phẩm bị nhiễm độc; buôn bán
hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng v.v… Cụ thể hàng
loạt các vụ vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích của người tiêu dùng được
phát hiện như vụ xăng pha aceton, vụ nước tương nhiễm chất 3-MCPD, vụ
gian lận xăng dầu hay gần đây nhất là việc phát hiện hàng loạt các cơ sở kinh
doanh mỡ động vật không rõ nguồn gốc xuất xứ, vụ sữa melamine trẻ em, vụ
mũ bảo hiểm không bảo đảm chất lượng… Những vụ việc này đã gây thiệt
hại không chỉ về tài sản mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe thậm chí là tính
mạng của người tiêu dùng.
Thực tế trên đã cho thấy tình trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng
ngày càng trở nên phổ biến. Vậy thực sự thì điều mà người tiêu dùng cần nhất
ở đây là gì? Đó là một cơ chế bảo vệ quyền lợi cho họ và hơn nữa là bồi
thường khi có thiệt hại xảy ra. Khi người tiêu dùng tham gia vào giao lưu dân
sự họ sẽ không nghĩ đến vấn đề bảo vệ quyền lợi của mình ra sao nếu sản
phẩm mà họ được cung ứng không có vấn đề gì nhưng khi có sự vi phạm từ
phía nhà sản xuất họ mới nghĩ đến quyền lợi của mình và yêu cầu bồi thường
thiệt hại. Chính vì lẽ đó giải quyết được vấn đề bồi thường thiệt hại cho người
tiêu dùng sẽ giúp bảo vệ người tiêu dùng một cách thiết thực nhất, thúc đẩy
cạnh tranh lành mạnh và phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững. Có
nhiều công cụ để thực hiện nhưng hiện nay pháp luật được coi là công cụ hữu
hiệu nhất để từ đó có thể kết hợp hiệu quả với các biện pháp, công cụ khác.
Tuy nhiên, pháp luật trong lĩnh vực này còn bộc lộ khá nhiều thiếu sót, bất
cập cần phải được hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi. Xuất phát từ
những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Bồi thường thiệt hại do vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng, những vấn đề lý luận và thực tiễn” cho đề tài
luận văn thạc sỹ Luật học.
3
2. Tình hình nghiên cứu
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng là vấn đề
được rất nhiều đối tượng quan tâm và đang là vấn đề còn nhiều tranh luận.
Luật “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” số 59/2010/QH12 của Quốc Hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hiệu lực ngày 1/7/2011 đã góp
phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, trên
thực tế việc áp dụng các biện pháp chế tài nói chung, biện pháp bồi thường
thiệt hại nói riêng cho người tiêu dùng khi họ bị xâm phạm quyền và lợi ích
hợp pháp vẫn còn nhiều bất cập. Liên quan đến vấn đề này đã có nhiều công
trình nghiên cứu và nhiều bài viết như “Những vấn đề bảo vệ người tiêu dùng
Việt Nam” của Đoàn Văn Trường, NXB Khoa học và kỹ thuật hay “Tìm hiểu
luật bảo vệ người tiêu dùng các nước và vấn đề bảo vệ người tiêu dùng Việt
Nam” của Viện Nhà nước và pháp luật, NXB Lao động 1999; “Khách hàng là
thượng đế” của tác giả Phạm Côn Sơn, NXB Phương Đông năm 2006; “Bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng và trách nhiệm của chúng ta” của tác giả Lê
Văn Thiệu (Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam); “Người
tiêu dùng trước xu thế hội nhập thị trường khu vực AFTA” của TS. Nguyễn
Mộng Hùng… Vấn đề này cũng được đề cập ở các báo và tạp chí như “Bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng trong pháp luật cạnh tranh” của tác giả Ngô
Vĩnh Bạch Dương, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2000; TS. Nguyễn
Văn Vân với “Hợp đồng theo mẫu và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng”, Đặc san khoa học pháp lý… “Đặc điểm văn hóa tiêu dùng Việt Nam
mới” của Viện Nghiên Cứu Tư Vấn Phát Triển Xã Hội - Trường ĐH Quốc
Gia TP.HCM (2009) được đăng trên http://vicongdong.vn, ngày 10/05; “Vì
sao người tiêu dùng vẫn chưa "mặn mà" với Vinastas” của tác giả Y Nhung
(2010) đăng trên http://vneconomy, ngày 14/10… Tuy nhiên, các công trình
và các bài viết nêu trên chỉ tiếp cận ở góc độ khái quát về khoa học pháp lý
4
đối với bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng hoặc
nghiên cứu nó trong từng lĩnh vực, dưới những góc độ khác nhau hay là
những vấn đề cụ thể mang tính thời sự. Chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách tổng thể và chuyên sâu về trách nhiệm bồi thường do vi phạm quyền
lợi người tiêu dùng.
Yêu cầu có những công trình nghiên cứu một cách toàn diện về vấn đề
này để rút ra được những cơ sở lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng từ đó tìm ra nguyên nhân và
giải pháp hoàn thiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi
người tiêu dùng vì thế thật sự cần thiết đối với mọi người nói chung, người
tiêu dùng nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
Với đề tài này, tác giả nhằm làm sáng rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn xung quanh việc bồi thường thiệt hại khi có sự xâm phạm quyền lợi
người tiêu dùng. Từ đó, đưa ra những giải pháp thiết thực để góp phần giải
quyết những bất cập, tồn tại của những quy định pháp luật, hướng đến đảm
bảo một cách tốt nhất quyền lợi của người tiêu dùng nói chung và quyền được
bồi thường thiệt hại nói riêng.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ một luận văn, tác giả không có tham vọng nghiên cứu
và trình bày tất cả những vấn đề liên quan đến người tiêu dùng mà chỉ nghiên
cứu ở khía cạnh bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng
với tính chất là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trong luật dân sự.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ được nội dung cần nghiên cứu một cách tốt nhất, tác giả
đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá
5
trình nghiên cứu, đồng thời sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng
hợp kết hợp so sánh với pháp luật một số nước cũng có những quy định về
vấn đề này. Bên cạnh đó, tác giả nêu và bình luận một số quan điểm khoa học,
pháp lý liên quan đến đề tài. Cụ thể:
Ở Chương 1, tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phân
tích, tổng hợp so sánh, ở Chương 2 sử dụng phương pháp thống kê, phân tích,
bình luận, liên hệ các vụ việc thực tế và ở Chương 3 sử dụng phương pháp
duy vật biện chứng, phân tích.
6. Đóng góp của đề tài
- Tác giả thực hiện đề tài với ý nghĩa mang đến cho người đọc cái nhìn
toàn diện và sâu sắc hơn về khía cạnh pháp lý bồi thường thiệt hại khi có sự
xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng, thu hút sự quan tâm của các cơ quan
chức năng đến vấn đề đang mang tính thời sự này để từ đây có những hướng
nghiên cứu, sáng tạo hoàn thiện pháp luật và nâng cao tính khả thi của pháp
luật, đồng thời nâng cao nhận thức của người tiêu dùng, của toàn xã hội và
trách nhiệm của cộng đồng trong việc đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người
tiêu dùng nói chung và quyền được bồi thường nói riêng.
- Đề tài có thể là tài liệu tham khảo thêm của những người quan tâm.
7. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quyền lợi người tiêu dùng và bồi thường
thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại do vi
phạm quyền lợi người tiêu dùng.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện chế định bồi
thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.
6
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
VÀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI
NGƢỜI TIÊU DÙNG
1.1 Khái quát chung về ngƣời tiêu dùng và quyền lợi của ngƣời tiêu dùng
1.1.1 Khái niệm người tiêu dùng và quyền lợi của người tiêu dùng
Nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, trong đó mọi cá nhân, tổ chức đều được tự do sản xuất, kinh
doanh thu lợi nhuận trong khuôn khổ pháp luật. Xã hội có người bán, người
mua và quan hệ mua – bán được điều tiết theo quy luật cung cầu của thị
trường. Lúc này, một trong những vấn đề được xã hội quan tâm hàng đầu là
vấn đề người tiêu dùng.
Tuy nhiên, chúng ta hãy quay ngược thời gian nhìn lại quá khứ, khi mà
nền kinh tế mới chỉ là “tự cung tự cấp”. Lúc đó xã hội có sản xuất và có tiêu
thụ nhưng sản phẩm làm ra là để phục vụ ngay cho cuộc sống của người sản
xuất, cho chính nhu cầu sinh hoạt của họ, có chăng cũng chỉ là sự trao đổi vật
phẩm ở mức độ sơ khởi nhất. Mặc dù vậy đây cũng là những hình thái ban
đầu của sự tiêu dùng, thời kì này chưa có khái niệm người tiêu dùng với đầy
đủ ý nghĩa và đặc điểm như hiện nay chúng ta đang sử dụng.
Bước sang nền kinh tế quản lý hành chính, bao cấp, việc cung ứng
hàng hóa hay tiêu thụ sản phẩm đều nằm dưới sự quản lý của Nhà nước và
được điều chỉnh, phân phối thông qua chế độ tem phiếu. Người sản xuất
hàng hóa, cung ứng dịch vụ là Nhà nước còn người mua và sử dụng là
người dân. Tuy nhiên, người dân hoàn toàn thụ động, không hề có sự chọn
lựa. Thậm chí có những mặt hàng được Nhà nước phân phối không đúng
với nhu cầu của họ nhưng vì nhà nước “cho” nên họ vẫn nhận. Mặt khác,
7
hầu hết người dân cũng không đủ khả năng kinh tế để mua sản phẩm ngoài
phân phối hay những mặt hàng do tư nhân cung cấp. Mặc dù xã hội đã có
sự phân chia “người sản xuất” và “người tiêu dùng” nhưng lúc này vấn đề
người tiêu dùng vẫn chưa được đặt ra.
Với nền kinh tế thị trường, chúng ta dễ dàng nhận ra những ưu điểm
vượt trội của nó so với những nền kinh tế trước đây. Đặc biệt, “Nhà nước
thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức
sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể,
sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”
[14.Điều 15]. “Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất,
kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; cùng phát triển
lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật” [14.Điều 16]. Nhà
nước đã chấm dứt sự độc quyền, mở ra cơ hội phát triển cho các doanh
nghiệp, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh. Đây là một tất yếu của sự phát triển
và cũng từ đó mà vấn đề người tiêu dùng chính thức được đề cập đến ở
phương diện mới mẻ. Khái niệm người tiêu dùng được hiểu ở nhiều góc cạnh
khác nhau nhưng hầu hết đều phản ánh được đầy đủ bản chất, đặc điểm và vị
trí của chủ thể này trong các mối quan hệ của nền kinh tế, đặc biệt là mối
quan hệ cung - cầu.
Ở Việt Nam, vấn đề người tiêu dùng mới xuất hiện một số năm gần
đây. Nhiều nước trên thế giới đã đi trước chúng ta vài chục năm và việc bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng đã có nhiều bước phát triển lớn. Đã có nhiều
định nghĩa khác nhau về người tiêu dùng:
“IOCU” (International Organization of Consumer Unions) - Tổ chức
Quốc tế người tiêu dùng được thành lập vào 01/04/1960 do 5 nước Mỹ, Anh,
Hà Lan, Bỉ, Úc ký quyết định trong “Hội nghị quốc tế khuyến khích và thử
8
nghiệm, người tiêu dùng” tại La Hay; đến năm 1985 đổi tên thành “CI”
(Consumer International). Theo Luật mẫu bảo vệ người tiêu dùng của tổ chức
này thì “người tiêu dùng có nghĩa là người yêu cầu hay sử dụng hàng hóa hay
dịch vụ cho những mục đích cá nhân, trong gia đình hay nội trợ”. [7]
Trong lời phát biểu tại Thượng viện Mỹ ngày 15/03/1962 tổng thống
Mỹ John Kenedy đã nói một câu nổi tiếng: “người tiêu dùng theo định
nghĩa, bao gồm toàn thể chúng ta. Họ là nhóm người đông đảo nhất, có ảnh
hưởng và chịu ảnh hưởng của hầu hết các quyết định về kinh tế, dù là của
Nhà nước hay tư nhân”.
Theo Bộ luật Dân sự của Cộng hòa liên bang Đức: “Người tiêu dùng
là bất kỳ một thể nhân nào khi ký kết một giao dịch pháp lý không nhằm
mục đích kinh doanh và cũng không phục vụ hoạt động hành nghề độc lập
của mình”. [6] Luật Bảo vệ người tiêu dùng Đài Loan: “Người tiêu dùng là
những người tham gia vào các giao dịch, sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ vì
mục đích tiêu dùng.” [6]
Luật Bảo vệ người tiêu dùng Malaysia 1999: “người tiêu dùng là người
mua hoặc sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ cho mục đích sinh hoạt cá nhân
hoặc sinh hoạt gia đình… và không gồm việc mua hoặc sử dụng hàng hóa vì
mục đích chính để bán lại hoặc đưa vào quá trình sản xuất hàng hóa, dịch vụ
khác hoặc để dùng cho việc sửa chữa, gắn thêm vào hàng hóa khác.” [6]
Trong Từ điển cũng có nhiều cách định nghĩa khác nhau:
Consumer – người tiêu dùng: “Bất cứ đơn vị kinh tế nào có nhu cầu
tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng. Thông thường, người tiêu dùng
được coi là một cá nhân nhưng trên thực tế, người tiêu dùng có thể là các cơ
quan, các cá nhân và các nhóm cá nhân. Trong trường hợp cuối cùng, điều
đáng lưu ý là để có các quyết định, đơn vị tiêu dùng là hộ gia đình chứ không
phải của cá nhân. Điều này có ý nghĩa vì cho tới nay, các hộ có thể chấp nhận
9
các quyết định “nhóm” dựa trên sự kết hợp các mong muốn của cá nhân trong
gia đình, hoặc thậm chí có khả năng dựa trên phán quyết mang tính gia trưởng
trong gia đình. Vì vậy, cầu của người tiêu dùng có thể được xem xét một phần
trong bối cảnh quyết định nhóm phản ánh hàm phúc lợi xã hội bao quát mọi
thành viên trong hộ gia đình.”[28]. Hay là: Consumer – người tiêu dùng là
“đơn vị tiêu dùng, đơn vị cầu cơ bản trong lý thuyết kinh tế. Trong lý thuyết
kinh tế, một đơn vị tiêu dùng có thể hoặc là một cá nhân hoặc là một hộ gia
đình hoặc là một Chính phủ có mua một sản vật hay dịch vụ để sử dụng cho
nhu cầu nào đó, miễn là không phải để đem bán lại.” [27]
Nhiều cách định nghĩa khác nhau chứng tỏ một điều là trên thế giới,
trong khoa học chưa có sự thống nhất khái niệm người tiêu dùng. Tuy vậy,
cho dù đây là một khái niệm có nội hàm rộng nhưng không phải là quá trừu
tượng. Để hiểu đúng và hiểu chính xác vấn đề không đơn giản nhưng hầu như
ai cũng có thể hiểu một cách căn bản bởi trong số chúng ta ai cũng sẽ có lúc
đóng vai trò là người tiêu dùng trong xã hội. Hầu hết các định nghĩa đều
hướng đến hành vi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu sinh
hoạt (không nhằm mục đích kinh doanh hay bán lại kiếm lời).
Việt Nam sau Đại hộ Đảng lần thứ VI bước vào thời kỳ đổi mới đã có
những chính sách bước đầu thể hiện sự quan tâm đến vấn đề người tiêu dùng.
Tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới, năm 2011, Luật Bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng của nước CHXHCN Việt Nam có hiệu lực.
Trong đó định nghĩa về người tiêu dùng như sau: “người tiêu dùng là người
mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá
nhân, gia đình, tổ chức.” [23.Khoản 1, Điều 3]. Cách định nghĩa như trên khá
gọn, súc tích, nêu bật và đi thẳng vào vấn đề, nêu lên bản chất của người tiêu
dùng. Theo đó, ta có thể hiểu người tiêu dùng theo nghĩa rộng bao gồm cả cá
nhân, tổ chức nhưng khái niệm cũng được giới hạn bởi “mục đích”. Người
10
tiêu dùng có thể là người mua đồng thời là người sử dụng; cũng có thể mua để
tặng, cho; mua để phục vụ chung cho nhu cầu của toàn gia đình hay cho tổ
chức nhưng mục đích ở đây đều là “tiêu dùng sinh hoạt”, nói chung là các yếu
tố đầu vào để tổ chức phục vụ cho hoạt động của tổ chức mình (có thể là thỏa
mãn tiêu dùng gia đình, tiêu dùng trong Hội, Đoàn…). Như vậy, Luật đã loại
bỏ các chủ thể mua sắm hàng hóa hay sử dụng dịch vụ vào mục đích kinh
doanh (đây cũng là cách hiểu phổ biến hiện nay về khái niệm người tiêu
dùng). Tương tự như vậy, ta có thể phân biệt khái niệm người tiêu dùng
(consumer) hoặc người tiêu dùng cuối cùng (end consumer) với khái niệm
khách hàng (customer). Khái niệm “khách hàng” mang nghĩa rộng hơn, dùng
để chỉ người mua hàng hóa, dịch vụ để sử dụng cho bản thân hoặc làm
nguyên liệu cho sản xuất, kinh doanh. Do vậy, người mua, sử dụng hàng hóa,
dịch vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh không thuộc phạm vi điều chỉnh
của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng.
Bên cạnh khái niệm “người tiêu dùng”, một khái niệm nữa chúng ta cần
làm rõ đó là khái niệm “quyền lợi người tiêu dùng”. Quyền lợi của người tiêu
dùng là một trong những quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp và
pháp luật của nhiều nước trên thế giới và được xã hội tôn trọng. Tuy nhiên,
trong khoa học nói chung cũng như trong khoa học pháp lý và thậm chí trong
Bản hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng cũng chỉ nêu ra
những quyền cơ bản của người tiêu dùng mà không có khái niệm quyền lợi
của người tiêu dùng. Khi được hỏi, các nhà khoa học thường chỉ đưa ra những
quan điểm, những lập luận chung nhất. Hiện nay chưa có một khái niệm chính
thống nào giải thích về quyền lợi của người tiêu dùng.
Theo Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật: “Lợi ích của người tiêu
dùng ở đây được hiểu là những điều có lợi, có ích (trong đó có lợi ích kinh tế)
cho người tiêu dùng thông qua việc thực hiện được những quyền của người
11
tiêu dùng”[37]. Định nghĩa như vậy vẫn khá chung chung và “luẩn quẩn”
chưa nêu bật được những điều căn bản để mọi người dân đều có thể hiểu thế
nào là quyền của người tiêu dùng.
Trong Từ điển Kinh tế có định nghĩa:
“Consumer sovereignty (quyền quyết định của người tiêu dùng; chủ
quyền của người tiêu dùng): những người tiêu dùng là những người sau cùng
mua các mặt hàng và dịch vụ, do đó có quyền quyết định đòi phải sản xuất
những gì. Điều đó hàm nghĩa rằng nếu những người tiêu dùng có nhu cầu lớn
hơn thì sản vật phải được cung ứng nhiều hơn và rằng trong nền kinh tế thị
trường tự do các nhà sản xuất chỉ là “những tác nhân thụ động” chỉ đáp ứng
lại cái mà những người tiêu dùng muốn có. Tuy nhiên, trong một số loại thị
trường khác (cụ thể là trong thị trường có vài công ty độc quyền hay trong thị
trường có một công ty độc quyền) các nhà sản xuất lại có quyền lực mạnh mẽ
đối với những người tiêu dùng đến mức chính họ là người thực sự quy định
phạm vi lựa chọn của người tiêu dùng” [27]. Việc định nghĩa như trên khá
trừu tượng lại thiên về bản chất kinh tế của vấn đề và cũng chưa giúp người
đọc có thể hiểu rõ về quyền của người tiêu dùng.
Dựa trên những kiến thức lý luận cơ bản và những đúc kết khoa học ta
có thể đưa ra một định nghĩa như sau về quyền lợi của người tiêu dùng:
Quyền lợi của người tiêu dùng đó là khả năng của người tiêu dùng
được Nhà nước cho phép và ghi nhận trong pháp luật cũng như những lợi ích
vật chất và tinh thần mà người tiêu dùng được hưởng từ việc được Nhà nước
bảo hộ những khả năng trên.
Khi đã hiểu một cách khái quát nhất về quyền lợi của người tiêu dùng,
ta có thể tiếp cận đến những quyền cụ thể của người tiêu dùng và phân tích ở
những góc độ chính xác và đúng đắn nhất.
12
1.1.2 Đặc điểm của người tiêu dùng Việt Nam
Để khái quát được đặc điểm của người tiêu dùng không phải là điều dễ
dàng bởi vì trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội với những điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử, kinh tế khác nhau thì Nhà nước có các chính sách, chế độ
khác nhau và nhận thức của người tiêu dùng cũng khác. Bên cạnh đó là sự
khác biệt về trình độ dân trí giữa các vùng, miền, giữa nông thôn với thành
thị, miền núi với đồng bằng… Bởi vậy, không thể xét đặc điểm của bộ phận
để khái quát nên toàn bộ, cũng không thể nhìn phiến diện ở một mặt nào đó
mà ta phải có cái nhìn bao quát, tổng thể đồng thời phân tích vấn đề ở từng
giai đoạn khác nhau.
Theo kết quả nghiên cứu lựa chọn xếp hạng 30/185 nền kinh tế có thị
trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới vừa được tập đoàn tư vấn AT Kearney
công bố, “Chỉ số phát triển bán lẻ chung năm 2007” (GRDI) của Việt Nam
đạt 74 điểm, xếp thứ 4 sau Ấn Độ và Nga, Trung Quốc. Năm 2008, thị trường
bán lẻ nước ta “qua mặt” cả ba “người khổng lồ” Ấn Độ, Nga và Trung Quốc
để chiếm thứ hai trong “làng bán lẻ” thế giới. Năm 2009, đạt 55 điểm, tuy có
giảm trong bảng xếp hạng, nhưng nếu ổn định được tình hình vĩ mô và khôi
phục được sự hấp dẫn, thì tương lai phát triển của thị trường bán lẻ nước ta sẽ
rất sáng trở lại[31]. Điều này cho thấy trong những năm gần đây, người Việt
Nam đầu tư khá nhiều cho tiêu dùng. Cùng với việc mở cửa cũng như hội
nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã trở thành một trong những thị trường thu
hút các nhà đầu tư. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp trong nước cũng ý thức
được điều này nên sẵn sàng đầu tư công nghệ, cải tiến dây chuyền sản xuất để
có thể cung cấp những mặt hàng tốt nhất, đáp ứng nhu cầu thị trường, đồng
thời nâng cao năng lực cạnh tranh. Vì vậy, người tiêu dùng Việt Nam cũng có
nhiều cơ hội để lựa chọn sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của mình. Theo kết quả
khảo sát của AC Nielsen thực hiện tại 47 nước trên thế giới về mức độ niềm
13
tin người tiêu dùng những tháng đầu năm 2007, 50% người tiêu dùng Việt
Nam cho biết sẽ chi tiêu cho việc mua sắm hàng điện máy công nghệ mới.
Đây là tỉ lệ cao nhất trong số các nước được khảo sát về khoản chi tiêu cho
loại hàng này, kế đến là Đức (45%), Nga (44%), cuối bảng là Thổ Nhĩ Kỳ
(36%). Nhóm hàng được ưa thích thứ hai mà người tiêu dùng Việt Nam chi
mạnh tay là áo quần. Một lĩnh vực đầu tư mới của người tiêu dùng Việt Nam
là chứng khoán. Việt Nam đứng thứ chín trong nhóm mười nước và lãnh thổ
có người dân đầu tư nhiều nhất vào chứng khoán với 26%. Đứng đầu vẫn là
Hong Kong (58%). (Cuộc khảo sát được thực hiện trên mạng từ 16/4 đến
1/5/2007 bằng cách phỏng vấn 26.485 người sử dụng Internet trên 47 quốc
gia). Hàng hóa có thương hiệu nổi tiếng qua nhiều năm thường được đánh giá
cao và thường được lựa chọn nhiều hơn vì họ cho rằng mặc dù giá cao hơn
nhưng sẽ được đảm bảo về chất lượng cũng như an toàn hơn trong khâu sử
dụng. Điều này tạo tâm lý an tâm cho người tiêu dùng. Mặt khác, tuy chất
lượng sản phẩm là một điều quan trọng nhưng hiện nay những yếu tố về thẩm
mỹ, về mẫu mã, cung cách, thái độ phục vụ cũng được người tiêu dùng chú
trọng và đôi khi đó lại là điều quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng. Một
khi mức sống được nâng lên, người dân có khả năng kinh tế thì tâm lý “ăn
chắc mặc bền” cũng dần mất đi. Ý thức của người tiêu dùng về quyền và
nghĩa vụ của mình cũng được nâng cao, kiến thức về tiêu dùng được cập nhật
qua nhiều kênh thông tin. Trong tiêu dùng, người tiêu dùng Việt Nam đã có
sự quan tâm đến tiêu dùng xanh, tiêu dùng bền vững. Đó là một sự thể hiện ý
thức trách nhiệm đối với cộng đồng của người tiêu dùng Việt Nam.
“Thực tế của xã hội nước ta trong những năm đổi mới gần đây đã
chứng minh là tính năng động của xã hội – bắt nguồn từ tính năng động của
mỗi cá nhân đã được nâng cao rõ rệt. Sự tăng tiến này có nguồn gốc từ sự mở
rộng phạm vi hoạt động của sản xuất và gắn liền với nó là tăng cường thỏa
14
mãn chất lượng của nhu cầu”[33]. Thực tế có một lớp người tiêu dùng có
trình độ cao, họ am hiểu về kỹ thuật và tính năng của sản phẩm bởi vậy họ
cũng đòi hỏi ở nhà sản xuất những mặt hàng tốt nhất và đương nhiên những
người như vậy cũng không thụ động ngồi chờ maketings của nhân viên cũng
như họ sẵn sàng khiếu nại khi hàng hóa, dịch vụ có vấn đề… số lượng những
người tiêu dùng như vậy dần tăng lên nhất là tại các thành phố, đô thị lớn.
Tóm lại, nền văn hóa tiêu dùng Việt Nam mới sẽ gồm 03 đặc điểm căn
bản sau: Tiêu dùng dựa trên giá trị; tiêu dùng thông minh và tiêu dùng có
trách nhiệm [39]. Những đặc điểm này được hiểu như sau:
* Thứ nhất, tiêu dùng dựa trên giá trị
Trong nền Văn hóa tiêu dùng Việt Nam mới, người tiêu dùng sẽ không
còn bị động chờ đợi, tìm kiếm những giá trị trong hàng hóa – dịch vụ, mà
người tiêu dùng trở nên chủ động “đặt hàng” với doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh những sản phẩm phù hợp những chuẩn mực về giá trị mà mình yêu cầu.
Để chứng minh giá trị một thương hiệu hàng hóa đó, doanh nghiệp phải làm rõ
đồng thời 03 nội dung mà cộng đồng tiêu dùng có thể chấp nhận và nhận diện
được: Chất lượng sản phẩm – Trách nhiệm xã hội - Văn hóa kinh doanh.
Tiêu dùng dựa trên giá trị là hành vi lựa chọn những sản phẩm - dịch vụ
tốt, bền, giá cả phù hợp, thỏa mãn cao nhất nhu cầu cá nhân của người tiêu
dùng. Tức tiêu dùng là hoạt động sử dụng giá trị của sản phẩm hay dịch vụ
nào đó để thỏa mãn nhu cầu nhất định của mình. Là lực lượng chủ động, có
quyền lực thực sự, giúp nuôi dưỡng và phát triển doanh nghiệp, thể hiện tinh
thần trách nhiệm với sự phát triển xã hội - quốc gia.
Khi người tiêu dùng chọn mua giá trị trong hàng hóa cũng đồng nghĩa
họ thúc đẩy doanh nghiệp tạo ra các giá trị khác. Như vậy, chọn mua sản
phẩm tức là chọn mua doanh nghiệp, người tiêu dùng cần tìm hiểu doanh
nghiệp trước khi chọn mua sản phẩm. Một nền Văn hóa tiêu dùng Việt Nam
15
mới theo chủ nghĩa giá trị không chỉ mang lại lợi ích trực tiếp cho người tiêu
dùng, mà còn là động lực mạnh mẽ thúc đẩy doanh nghiệp không ngừng sáng
tạo ra giá trị phục vụ cộng đồng. Nói cách khác, tiêu dùng có thể tác động
đến doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa phù hợp với yêu cầu về giá
trị mà tiêu dùng đặt ra.
Đồng thời, thông qua các nội dung cốt lõi của văn hóa tiêu dùng doanh
nghiệp tìm thấy con đường để định hướng doanh nghiệp phát triển phù hợp kỳ
vọng và lợi ích cộng đồng.
Triết lý “Tiêu dùng tạo ra giá trị” cũng đặt ra vấn đề rất mới về mối
tương quan giữa tiêu dùng và sản xuất kinh doanh: mỗi hành vi tiêu dùng
thông qua doanh nghiệp đều gián tiếp đóng góp giá trị cá nhân vào hệ thống
giá trị chung của xã hội.
* Thứ hai, tiêu dùng thông minh
Tiêu dùng thông minh là hành vi tiêu dùng dựa trên tư duy nhận thức,
tiêu dùng những gì mình biết, mình hiểu rõ, tập hợp những thông tin đầy đủ
của sản phẩm, của doanh nghiệp để đưa ra quyết định đúng đắn, không bị tác
động của các tiêu dùng khác để bảo vệ lợi ích bản thân, cộng đồng và xã hội.
* Thứ ba, tiêu dùng có trách nhiệm
Tiêu dùng có trách nhiệm là hành vi tiêu dùng mang tính xã hội cao.
Người tiêu dùng có trách nhiệm không chỉ là biết tiêu dùng những hàng hóa -
dịch vụ thỏa mãn nhu cầu đời sống cá nhân, biết lựa chọn những hàng hóa
trong nước sản xuất mà còn biết lựa chọn hàng hóa của những doanh nghiệp
có trách nhiệm với xã hội, đóng góp cho sự phát triển kinh tế cùng với việc
nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng và xã hội. Bên cạnh đó còn biết
thể hiện quyền lực tối thượng của mình đối với những doanh nghiệp có hành
vi xâm phạm đến quyền lợi tiêu dùng, vi phạm pháp luật.
Tiêu dùng có trách nhiệm không chỉ là hưởng thụ. Việc tiêu dùng có
16
trách nhiệm là một phần không thể tách rời của kinh doanh có trách nhiệm.
Chính khách hàng là nhân tố thúc đẩy các nhà sản xuất và cung cấp dịch vụ
thay đổi quan niệm về thương mại. Chính người tiêu dùng là động lực ủng hộ,
định hướng sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường. Cộng đồng tiêu
dùng sẽ cổ súy tinh thần và phong trào sử dụng sản phẩm sinh thái, thân thiện
môi trường sống của doanh nghiệp và sẽ liên kết lại, chia sẻ thông tin và trừng
phạt những doanh nghiệp làm ăn gian dối, thiếu đạo đức.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng có mặt trái, văn hóa tiêu dùng
của người Việt Nam cũng còn nhiều vấn đề đáng quan tâm.
Việc tiêu dùng một cách lãng phí, xa hoa… không phải là không tồn tại
trong xã hội Việt Nam hiện nay. Đồng thời, hơn 20 năm sau đổi mới, số
không nhỏ người tiêu dùng Việt Nam vẫn chưa làm quen với văn hóa tiêu
dùng hiện đại. Cách đây một vài năm người tiêu dùng chỉ quen mua sắm tại
chợ, đặc biệt là các chợ cóc, chợ tạm mọc lên ở khắp mọi nơi. Đi đâu ta cũng
có thể thấy cảnh mua bán, ngã giá ngay dưới lòng đường hay trên vỉa hè vừa
mất mỹ quan, vừa gây mất trật tự an toàn giao thông. Lực lượng trật tự đô thị
giải quyết không xuể. Tình hình chỉ tạm lắng khi Chính phủ ban hành bởi
Nghị định số 14/2003/NĐ-CP ngày 19/02/2003 quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Giao thông đường bộ, trong đó có những quy định hướng
dẫn về việc bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn
giao thông đô thị.
Cuộc sống hiện đại ngày nay cũng làm thay đổi thói quen người tiêu
dùng, thay vì mua hàng tại chợ họ đến siêu thị. Có thể chỉ để tham khảo giá cả
nhưng hầu hết là để mua khối lượng hàng lớn cho nhiều ngày. Tuy nhiên, đó
chỉ là mặt tích cực nhưng nếu chúng ta chịu để ý quan sát thì sẽ không mấy khó
khăn để nhận ra cảnh không đẹp mắt. Người ta lựa hàng hóa tại các quầy khác
nhau nhưng khi không mua nữa họ không xếp lại quầy cũ mà bỏ lại ở những
17
quầy khác hoặc để lại xe đẩy. Có người lại xé vỏ bao, thử sản phẩm ngay trong
siêu thị. Tình trạng gian lận trong siêu thị cũng xảy ra rất nhiều. Những cảnh
chướng mắt như vậy không hiếm nhưng chính điều này khiến chúng ta phải
suy ngẫm. Nếu cứ giữ nét tính cách này liệu người tiêu dùng có thể hội nhập
với thị trường thế giới đang vô cùng sôi động, và như vậy là họ đang dần hủy
hoại những quyền thiêng liêng mà xã hội đang tích cực bảo vệ họ.
Nhìn ra những nước phát triển ta có thể thấy sự khác biệt lớn nhất giữa
họ và người tiêu dùng Việt Nam là ở trình độ nhận thức. Họ hiểu biết rất rõ về
quyền lợi và trách nhiệm của mình hơn nữa họ lại được giáo dục một cách khá
kỹ lưỡng về vấn đề tiêu dùng vì vậy họ có tri thức cao và họ sẵn sàng khiếu
kiện khi quyền lợi của mình bị vi phạm và tỷ lệ thắng kiện cũng rất lớn. Đây
cũng chính là câu hỏi đặt ra cho mỗi chúng ta và cho cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền trong công tác giáo dục người tiêu dùng và trong vấn đề lập pháp.
Có thể nói, Người tiêu dùng Việt Nam đã và đang nhanh chóng giàu
lên, đặc biệt ở các khu vực đô thị. Người tiêu dùng Việt Nam hiện nay thường
thu thập thông tin từ nhiều nguồn, cân nhắc kỹ càng trước khi quyết định mua
một sản phẩm hay sử dụng dịch vụ - giống hệt như người tiêu dùng ở các
nước phát triển trên thế giới. Một thách thức quan trọng là ở Việt Nam có
nhiều thị trường chứ không phải có một thị trường với các nhóm người tiêu
dùng rất khác biệt được phân chia theo các yếu tố về nhân khẩu, trình độ học
vấn và thu nhập. Sự phong phú đa dạng này đòi hỏi các doanh nghiệp phải
điều chỉnh sản phẩm, dịch vụ của mình để có thể đáp ứng nhu cầu cho nhiều
phân khúc khách hàng khác nhau. Với tâm lý sính ngoại, không ít người tiêu
dùng hiện nay đua theo những trào lưu mua sắm xa xỉ với những giá trị ảo
hào nhoáng bên ngoài chứ không phải ở chiều sâu văn hóa tiêu dùng. Và khi
Tết đến, xuân về điều này càng rõ hơn bao giờ hết... Từ “ăn chắc mặc bền”
đến “lấy thương hiệu khẳng định phong cách”. Cách đây không lâu, sau khi
18
phỏng vấn 10.502 người tại 24 quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á- Thái
Bình Dương, châu Phi, Trung Đông về vấn đề tiêu dùng, Tổ chức tín dụng
quốc tế MasterCard Worldwide, đã công bố kết quả khảo sát mà trong đó, về
ưu tiên cho ăn uống và giải trí, Việt Nam đứng đầu với 86%, tiếp đó là Hàn
Quốc 78%, Hồng Công (Trung Quốc) là 75%. Và Việt Nam cũng đứng đầu
về tiêu dùng không toan tính với 63%, trong khi Hàn Quốc và Ôxtrâylia cùng
là 59%...[36]. Có thể nói, đã qua thời “ăn chắc mặc bền”, ngày nay, chúng ta
có nhiều lựa chọn hơn cho hàng hoá từ bình dân đến xa xỉ. Thế nên, xu hướng
tiêu dùng “lấy thương hiệu khẳng định phong cách” từ giới thu nhập cao đang
chuyển sang giới tiêu dùng trẻ, đặc biệt là ở tầng lớp trung lưu. Họ sẵn sàng
chi những khoản tiền lớn cho những mặt hàng nhằm thể hiện cá tính và sự
khác biệt trước đám đông như điện thoại di động, xe hơi, các mặt hàng công
nghệ đều phải thể hiện cho được đẳng cấp của người chủ, cho dù đôi khi công
năng sử dụng... không thực sự cần thiết. Khuynh hướng bắt chước lối sống và
cách hưởng thụ của thanh niên các nước khác có xu hướng tăng, nhưng lại chỉ
bắt chước phần giá trị ảo, chứ không phải ở chiều sâu văn hóa.
1.1.3 Các quyền cơ bản của người tiêu dùng
Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng là một lĩnh vực đã sớm hình
thành và phát triển trên thế giới. Tuy vậy, những quyền của người tiêu dùng
lại không được xác định một cách đồng hành. Mãi cho đến ngày 15 tháng 03
năm 1962 với lời phát biểu của Tổng thống Mỹ John Kennedy tại Thượng
viện Mỹ những quyền của người tiêu dùng dần dần được hình thành và phát
triển. Tuyên bố của Kennedy lúc đầu chỉ đề cập đến bốn quyền cơ bản của
người tiêu dùng. Đó là:
- Quyền được an toàn;
- Quyền được thông tin;
- Quyền được lựa chọn;
19
- Quyền được bày tỏ quan điểm.
Tuy đây mới chỉ là sự ghi nhận ban đầu những quyền cơ bản của người
tiêu dùng nhưng vào thời điểm đó là một sự tiến bộ mang tiến bộ mang tính
lịch sử vì từ đây người tiêu dùng đã chính thức có cơ sở pháp lý để tự bảo vệ
cho quyền lợi của mình. Năm 1983, Liên hợp quốc đã chính thức tuyên bố
ngày 15 tháng 3 là ngày Quyền của người tiêu dùng thế giới.
Dựa vào bốn quyền trên, trong quá trình hoạt động thực tiễn của mình,
Quốc tế người tiêu dùng IOCU (sau này là CI) và các tổ chức người tiêu dùng
các nước đã bổ sung thêm 4 quyền nữa, đó là:
- Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản;
- Quyền được bồi thường;
- Quyền được giáo dục;
- Quyền được sống trong một môi trường lành mạnh và bền vững.
Phong trào người tiêu dùng thế giới lên mạnh, vào ngày 09 tháng 4 năm
1985, Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn bản Hướng dẫn của liên hợp
quốc về bảo vệ người tiêu dùng. Bản hướng dẫn thể hiện các nguyên lý của 8
quyền của người tiêu dùng và cung cấp một khuôn khổ cho việc tăng cường
các chính sách bảo vệ người tiêu dùng ở các quốc gia [2]. Sau này các quyền
cơ bản này một lần nữa được quy định trong dự thảo luật mẫu bảo vệ người
tiêu dùng của IC bao gồm các quyền sau:
- Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản;
- Quyền được an toàn;
- Quyền được thông tin;
- Quyền được lựa chọn;
- Quyền được lắng nghe;
- Quyền được khiếu nại và bồi thường;
- Quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng;
20
- Quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững.
Với sự thừa nhận của Liên hợp quốc, những quyền của người tiêu dùng
đã được đưa lên vị trí hợp pháp và được cộng đồng thế giới công nhận. Chính
phủ các nước đã cụ thể hóa nội dung của tám quyền này trong pháp luật bảo
vệ người tiêu dùng của nước mình. Việt Nam cũng không nằm ngoài số đó,
Nhà nước ta đã thực sự quan tâm và ghi nhận quyền của người tiêu dùng ngay
trong văn bản pháp quy có giá trị cao nhất: “Nhà nước có chính sách bảo hộ
quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng”[14. Điều 28]. Căn cứ vào
Hiến pháp, công tác nội luật hóa đã được triển khai từ năm 1990 khi Hội Tiêu
chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng gửi tờ trình đề nghị Liên hiệp Hội khoa học
kỹ thuật Việt Nam xây dựng và trình Hội đồng nhà nước ban hành Pháp lệnh
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Sau 9 năm dự thảo, Pháp lệnh ra đời là một
bước tiến mới, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác bảo vệ người tiêu
dùng ở nước ta. Và cho đến năm 2011, khi Luật Bảo vệ quyền lợi người có
hiệu lực thì từ đây người tiêu dùng Việt Nam cũng được sự bình đẳng như
mọi người tiêu dùng trên thế giới. Quyền cơ bản của người tiêu dùng được
quy định cụ thể và đầy đủ tại Điều 8, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
bao gồm các quyền sau:
* Thứ nhất, quyền được an toàn [23. Khoản 1, Điều 8].
Lâu nay vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường ngày càng
trở thành vấn đề cấp thiết của đời sống tiêu dùng. Đảm bảo được quyền này
cho người tiêu dùng nghĩa là bảo vệ người tiêu dùng chống lại các sản
phẩm, dịch vụ, quá trình sản xuất có hại đến sức khỏe và đời sống. Quyền
này không chỉ liên quan đến nhưng sản phẩm, hàng hóa an toàn mà còn
liên quan đến các dịch vụ và quá trình sản xuất. Các sản phẩm và dịch vụ
không được chứa đựng nguy cơ gây mất an toàn khi sử dụng thông thường.
Các sản phẩm không đạt tiêu chuẩn an toàn bị cấm không được sản xuất và
21
lưu thông trên thị trường; nếu sản phẩm đã được tung ra thị trường thì phải
được thu hồi xử lý.
* Thứ hai, quyền được thông tin [23. Khoản 2, Điều 8].
Những thông tin cần thiết và trung thực là điều quan trọng đầu tiên để
người tiêu dùng biết đến và tiếp cận sản phẩm, dịch vụ của nhà sản xuất, kinh
doanh. Bởi vậy khi người tiêu dùng quyết định lựa chọn một mặt hàng hay
một dịch vụ nào đó nghĩa là họ tin tưởng vào những thông tin về sản phẩm.
Để có một môi trường kinh doanh lành mạnh và một xã hội phát triển thì nhà
sản xuất phải tuyệt đối trung thực khi đưa ra những thông tin liên quan đến
sản phẩm của mình. Điều đó tạo được uy tín và tâm lý an tâm ở người tiêu
dùng. Nếu việc cung cấp thông tin là thiếu chính xác thậm chí sai lệch để cố
tình gây sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng là vi phạm nghiêm trọng quyền
được thông tin của người tiêu dùng. Nội dung thông tin cho người tiêu dùng
có thể được thực hiện thông qua việc ghi nhãn, các hướng dẫn sử dụng hay
qua các giới thiệu quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Đây là quy định hoàn toàn mới của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng so với Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trước đây. Xuất phát
từ yêu cầu chính đáng cần được bảo vệ thông tin trong khi tham gia giao dịch,
sử dụng hàng hóa của người tiêu dùng, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
đã đưa nguyên tắc bảo vệ thông tin của người tiêu dùng thành một trong những
nguyên tắc cơ bản của Luật, trong đó khẳng định: Người tiêu dùng được bảo
đảm an toàn, bí mật thông tin của mình khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng
hóa, dịch vụ, trừ trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.
Trường hợp thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu
dùng thì tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm:
Thông báo rõ ràng, công khai trước khi thực hiện với người tiêu dùng về mục
đích hoạt động thu thập, sử dụng thông tin của người tiêu dùng; Sử dụng
22
thông tin phù hợp với mục đích đã thông báo với người tiêu dùng và phải
được người tiêu dùng đồng ý; Bảo đảm an toàn, chính xác, đầy đủ khi thu
thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng;Tự mình hoặc có
biện pháp để người tiêu dùng cập nhật, điều chỉnh thông tin khi phát hiện thấy
thông tin đó không chính xác; Chỉ được chuyển giao thông tin của người tiêu
dùng cho bên thứ ba khi có sự đồng ý của người tiêu dùng, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác.
* Thứ ba, quyền được lựa chọn [23. Khoản 3, Điều 8].
Đây là một quyền quan trọng của người tiêu dùng chỉ có thể có được
khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trước đây khi còn trong thời kỳ bao cấp người tiêu dùng chỉ biết đến người
cung cấp duy nhất đó chính là Nhà nước. Tình trạng đó đã làm triệt tiêu quyền
được lựa chọn của người tiêu dùng. Ngày nay nền kinh tế thị trường với quy
luật cạnh tranh một mặt đem đến vô vàn cơ hội lựa chọn cho người tiêu dùng,
họ được lựa chọn trong số những sản phẩm, dịch vụ được cung cấp với giá cả
phải chăng và chất lượng như ý nhưng một mặt cũng khiến họ phải đau đầu
để cân nhắc lựa chọn được sản phẩm tối ưu nhất. Không hiếm những nhà kinh
doanh “che mắt” người tiêu dùng bằng những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, khiến họ không phân biệt được đâu là “thật”, “giả”. Tình trạng độc
quyền vẫn còn tồn tại trên thị trường làm vi phạm nghiêm trọng quyền được
lựa chọn của người tiêu dùng.
* Thứ tư, quyền được lắng nghe [23. Khoản 4, Điều 8].
Có thể khẳng định tầm quan trọng của quyền được lắng nghe khi không
phải ngẫu nhiên được đề cập đến ở cả hai điều luật. Quyền được lắng nghe là
một bước thể hiện sự dân chủ, công bằng trong xã hội. Người tiêu dùng được
đặt ngang tầm trong mối tương quan với Nhà nước và nhà sản xuất, kinh
doanh. Người tiêu dùng là người trực tiếp mua, khai thác những giá trị sử
23
dụng của hàng hóa dịch vụ hoặc có thể tặng cho bởi vậy họ được bày tỏ ý
kiến về những vấn đề liên quan đến sản phẩm đó. Điều này rất có ý nghĩa vì
như vậy sẽ giúp những nhà sản xuất kinh doanh nhận ra những sai sót để
chỉnh sửa hoặc biết được những ưu điểm phù hợp với thị hiếu của khách hàng
để phát huy còn người tiêu dùng sẽ được giải đáp thắc mắc, sẽ có được những
mặt hàng đúng như yêu cầu. Đồng thời người tiêu dùng là một lực lượng đông
đảo nhưng hầu như hoạt động mang tính cá thể, riêng biệt không tập hợp
được sức mạnh, họ cần có những cơ quan thực sự chuyên biệt đại diện cho họ,
bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ. Chính những cơ quan này sẽ là cầu nối
giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất, kinh doanh.
* Thứ năm, quyền được tham gia xây dựng và thực thi chính sách,
pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng [23. Khoản 5, Điều 8].
Với quy định này, người tiêu dùng được giữ một vị trí quan trọng trong
việc đóng góp ý kiến với Nhà nước, với những cơ quan hoạch định chính sách
pháp luật liên quan tới chính quyền lợi của họ. Hơn ai hết chỉ có người tiêu
dùng mới biết mình có nhu cầu gì, cần được đáp ứng những gì. Khi những ý
kiến của họ được ghi nhận trong luật thì việc thực thi chắc chắn sẽ hạn chế
được những bất cập, thỏa mãn những nguyện vọng của người tiêu dùng.
* Thứ sáu, quyền được bồi thường [23. Khoản 6, Điều 8].
Nếu như những quyền trên đảm bảo cho người tiêu dùng có được
những sản phẩm chất lượng, phù hợp với nhu cầu của mình thì quyền được
bồi thường hạn chế, khắc phục những “rủi ro” cho người tiêu dùng khi mua
hoặc sử dụng những sản phẩm, dịch vụ không như ý. Đây là quyền của người
tiêu dùng được khiếu nại, khởi kiện nhà sản xuất, kinh doanh khi sản phẩm,
dịch vụ được cung cấp có “sự cố” bao gồm việc thông tin, quảng cáo sai sự
thật; không đúng chất lượng, mẫu mã như trong hợp đồng giao kết; thái độ,
cung cách phục vụ… Tuy nhiên, người tiêu dùng chỉ có thể được bồi thường
24
khi việc khiếu nại đó là đúng đắn và chính xác. Quyền này có được đảm bảo
hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trên thực tế nhiều trường hợp
quyền lợi của người tiêu dùng rõ ràng bị xâm phạm nhưng họ lại thiếu chứng
cứ để chứng minh sự thiệt hại của mình và do vậy đành “ngậm bồ hòn làm
ngọt”, nhưng cũng có trường hợp người tiêu dùng mắc lừa những công ty
“ma” nên mặc dù có đủ bằng chứng thì cũng không thể được bồi thường. Vậy
đâu là nguyên nhân và giải pháp nào cho tình trạng này? Đây chính là vấn đề
tác giả đi sâu nghiên cứu và sẽ được làm sáng tỏ trong những phần tiếp theo.
* Thứ bảy, quyền được giáo dục về tiêu dùng [23. Khoản 8, Điều 8].
VINASTAS (Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam) đưa
ra khẩu hiệu “Người tiêu dùng thông thái”, đây là một điều thực sự có ý nghĩa
và tuyệt đối cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Một khi hàng hóa tràn ngập thị
trường và những dịch vụ nhan nhản mọc lên nếu không có những kiến thức
cần thiết về tiêu dùng thì người tiêu dùng sẽ tự biến mình thành con mồi trước
những chiêu thức tinh vi của nhà sản xuất kinh doanh, mặt khác họ cũng phải
tự chịu trách nhiệm khi không tuân thủ đúng những nguyên tắc mà nhà sản
xuất hướng dẫn. Do vậy, người tiêu dùng cần phải được trang bị những kiến
thức về đời sống tiêu dùng. Đối với những sản phẩm công nghệ cao, những
sản phẩm cần có sự bảo quản đặc biệt… thì người tiêu dùng cần phải được
hướng dẫn, chú thích tỉ mỉ để tránh những sự cố không mong muốn trong quá
trình sử dụng. Bên cạnh đó, được giáo dục về tiêu dùng sẽ giúp người tiêu
dùng thực hiện được các quyền của mình một cách đầy đủ nhất và tự ý thức
được trách nhiệm và vị thế của mình trong tiêu dùng. Nhà nước tạo điều kiện
cho người tiêu dùng được giáo dục, đào tạo thông qua các kênh khác nhau
như qua các trường lớp, các phương tiện thông tin đại chúng… quan trọng là
người tiêu dùng cần nắm bắt, lĩnh hội những kiến thức đó.
Qua việc tìm hiểu những vấn đề khái quát nhất về người tiêu dùng,
25
những quyền lợi căn bản của người tiêu dùng ta có thể hiểu được người
tiêu dùng họ là ai; họ có gì và họ đang cần những gì. Qua đó ta cũng thấy
được vị trí, tầm quan trọng của quyền được bồi thường của người tiêu dùng
- là quyền và cũng là một điều luật cụ thể trong chế định bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng của Luật dân sự. Cũng bởi một lẽ “việc nghiên cứu các
biện pháp bảo vệ người tiêu dùng không thể nào tách rời việc tìm hiểu các
quyền của người tiêu dùng” nên từ đây ta có thể đi sâu vào nghiên cứu và
phân tích làm sáng tỏ vấn đề bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi
người tiêu dùng trên cơ sở những kiến thức nền về quyền lợi của người tiêu
dùng đã được đề cập đến ở phần trên.
* Thứ tám, quyền được khiếu nại [23. Khoản 7, Điều 8].
Người tiêu dùng “được khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ
chức xã hội khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình” theo quy định của Luật
này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Đây là một quyền rất quan trọng của người tiêu dùng. Hiện nay trên
thực tế quyền lợi của người tiêu dùng đang bị xâm phạm nghiêm trọng. Hơn
ai hết, chính bản thân người tiêu dùng phải tự biết cách bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của mình, quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội
khởi kiện chính là cách thức hợp pháp mà Nhà nước tạo điều kiện cho người
tiêu dùng bảo vệ quyền lợi. Đây là một quyền rất cụ thể, sát thực mà người
tiêu dùng cần biết và vận dụng.
Theo Nghị định số 99/2011/NĐ-CP, quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, sau khi
tiếp nhận yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cơ quan có thẩm quyền
tiến hành giải quyết yêu cầu. Trường hợp cần thiết cơ quan có thẩm quyền
yêu cầu các bên giải trình, cung cấp thêm thông tin, tài liệu phục vụ cho
việc giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trong thời hạn
26
15 ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền phải trả lời theo quy định của Luật bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng. Nếu trong trường hợp các vụ việc phức tạp,
thời hạn trả lời có thể được gia hạn, nhưng không được quá 15 ngày làm
việc. Trong quá trình giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
nếu cơ quan có thẩm quyền xác định vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật
về xử lý vi phạm hành chính, hoặc vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của
cơ quan khác, thì chuyển hồ sơ vụ việc cho cơ quan đó giải quyết, nhưng
phải có văn bản trả lời ngời tiêu dùng…
Như vậy, so với pháp luật quốc tế, còn hai quyền chưa được quy định
cụ thể trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là: Quyền được thoả mãn
những nhu cầu cơ bản; Quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền
vững. Tuy không quy định trong Luật, nhưng những quyền này hiện đã được
quy định trong hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác nên không cần thiết
phải nhắc lại trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là một luật đặc thù,
chỉ quy định riêng cho nội dung bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Như vậy,
nội dung của luật của nước ta không có mâu thuẫn gì với pháp luật quốc tế.
1.2 Khái niệm và đặc điểm của bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm
quyền lợi ngƣời tiêu dùng
1.2.1 Khái niệm
“Bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên
có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù các tổn
thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại.” [29]
Bồi thường thiệt hại là một chế định thuộc về trách nhiệm dân sự trong
pháp luật dân sự và được chia làm hai loại: trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trong phạm vi đề tài, tác giả chỉ đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại
27
do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng là một trường hợp cụ thể của trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã được quy định là một điều luật
tại Bộ luật Dân sự 2005 (Điều 630, Mục 3, Chương XXI, Phần thứ ba: nghĩa
vụ dân sự và hợp đồng dân sự.).
Luật cũng quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc
chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.” [15. Khoản 1, Điều 604].
Từ đây ta có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng như sau:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một quan hệ pháp
luật dân sự. Trong đó người có hành vi trái pháp luật, có lỗi xâm phạm đến
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp của người khác mà gây ra thiệt hại thì phải bồi thường những thiệt
hại do mình gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có cơ sở pháp lý là
những quy định của pháp luật. Pháp luật quy định những hậu quả pháp lý
ngoài mong muốn của các chủ thể. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các
chủ thể hoàn toàn do pháp luật quy định bởi vì trước thời điểm phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại các bên trong quan hệ pháp luật này không có mối
quan hệ với nhau về quyền và nghĩa vụ pháp lý hoặc nếu có thì cũng không
liên quan gì đến mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
Ở Việt Nam, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chủ yếu
được quy định trong Bộ luật Dân sự. Ngoài ra, bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng còn được quy định rải rác trong những văn bản pháp luật khác như: Bộ
luật Hàng hải, Bộ luật Lao động, Luật Hàng không dân dụng, Pháp lệnh Chất
lượng hàng hóa… Tuy nhiên, ở đây ta chỉ nghiên cứu chế định này trong pháp
luật dân sự.
28
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng là một
trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được
quy định trong Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên Bộ luật Dân sự cũng không đưa ra
một khái niệm cụ thể và hiện nay cũng chưa có văn bản pháp luật hướng dẫn
về vấn đề này mà chỉ quy định “Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác sản xuất,
kinh doanh không bảo đảm chất lượng hàng hóa mà gây thiệt hại cho người
tiêu dùng thì phải bồi thường.” [15. Điều 630]
Điều luật quy định hết sức ngắn gọn, cô đọng nhưng đã thể hiện được
sự quan tâm của Nhà nước đến quyền lợi của người tiêu dùng nói chung và
quyền được bồi thường thiệt hại của người tiêu dùng nói riêng thông qua chế
định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Xuất phát từ lý luận chung nhất về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng kết hợp với Điều 630, Bộ luật Dân sự ta có thể đưa ra khái
niệm về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng như sau:
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng là trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh do hành vi của cá nhân,
pháp nhân, chủ thể khác sản xuất, kinh doanh không bảo đảm chất lượng
hàng hóa xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng mà gây thiệt
hại thì phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra.
1.2.2 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng
Cũng giống như các trường hợp khác của trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi
của người tiêu dùng sẽ phát sinh khi thỏa mãn bốn điều kiện:
- Có thiệt hại thực tế xảy ra;
- Có hành vi trái pháp luật;
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với thiệt hại đã xảy ra;
29
- Có lỗi của người gây ra thiệt hại.
Tuy nhiên, khi phân tích từng điều kiện ta sẽ thấy được nét khác biệt
của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu
dùng so với các trường hợp khác của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng.
* Thứ nhất, có thiệt hại xảy ra trên thực tế:
Có thể nói đây là điều kiện tiền đề của trách nhiệm bồi thường bởi có
“thiệt hại” thì mới cần “bồi thường”. Thiệt hại là điều kiện xác định trách
nhiệm dân sự và cũng là điều kiện cần thiết để ấn định mức bồi thường cho
bên gây ra thiệt hại. Mục đích của việc bồi thường là nhằm khôi phục lại tình
trạng trước khi xảy ra thiệt hại nên trách nhiệm gắn với việc bồi thường
những thiệt hại đã xảy ra. Vì vậy, thiệt hại là một điều kiện làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường. Vậy “thiệt hại” là gì và ảnh hưởng của thiệt hại đến
trách nhiệm như thế nào.
Thiệt hại là tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy
tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân; tài sản, danh dự, uy
tín của pháp nhân hoặc chủ thể khác được pháp luật bảo vệ”. [29]
Từ định nghĩa trên và căn cứ vào cách phân chia của Bộ luật Dân sự
2005 thì thiệt hại được bồi thường bao gồm:
- Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm;
-Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm;
- Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm;
- Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
Ta cũng có thể phân chia theo cách thiệt hại bao gồm: thiệt hại về vật
chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần. [10]
Thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, thiệt
hại do sức khỏe bị xâm phạm, thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, thiệt hại
do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
30
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính
mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu
đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị
bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm… và cần phải được bồi thường một khoản
tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu.
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác
không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy
tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin…
vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất
mà tổ chức phải chịu.
Ngoài ra, nếu căn cứ vào diện được bồi thường thì ta có thể phân ra
thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp.
Mặc dù ta có thể phân chia thiệt hại theo cách này hay cách khác nhưng
để được bồi thường thì thiệt hại đó phải là thiệt hại thực tế (đã xảy ra hoặc
chắc chắn sẽ xảy ra) phải là cái khách quan và có thật. Người có hành vi trái
pháp luật sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại do lỗi của họ
gây ra. Vì vậy, nếu là bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thì mức bồi thường
có thể bằng hoặc cao hơn thiệt hại thực tế vì trong hợp đồng các bên có thể
thỏa thuận và quy định phạt vi phạm… nhưng bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng thì việc bồi thường phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật trên
nguyên tắc thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Nghĩa là việc
bồi thường phải ngang giá theo đúng quy luật hàng – tiền của nền sản xuất
hàng hóa, để đảm bảo rằng không ai được lợi không có căn cứ pháp luật từ
việc bồi thường. Mặt khác, ý nghĩa của việc bồi thường là nhằm khôi phục lại
tình trạng trước khi có thiệt hại, không nhằm mục đích trừng phạt, đảm bảo sự
công bằng cho các bên. Do vậy, BLDS cũng quy định người gây thiệt hại có
31
thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so
với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình. Tuy nhiên, một số nước
phương tây lại có cách nhìn nhận khác. Pháp luật của họ cho phép bồi thường
thiệt hại cao hơn nhiều lần so với thiệt hại thực tế. Tại sao lại có quy định như
vậy? Điều này có lẽ xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể do
truyền thống lập pháp, do điều kiện hoàn cảnh lịch sử từng nước nhưng sự lý
giải của họ ở đây cũng có những điểm hợp lý. Họ cho rằng quy định như vậy
sẽ khuyến khích người tiêu dùng khiếu kiện càng nhiều và như vậy không chỉ
quyền lợi của họ được bảo đảm mà những người tiêu dùng khác gặp trường
hợp tương tự cũng có thể yêu cầu bồi thường từ đó sẽ tạo hiệu ứng lan truyền
bảo vệ được cả cộng đồng và cũng có tác dụng thúc đẩy nhà sản xuất kinh
doanh cho ra đời những sản phẩm chất lượng hơn, việc phục vụ người tiêu
dùng cũng tốt hơn. Đó cũng là một cách thiết thực để bảo vệ người tiêu dùng,
tuy nhiên việc có áp dụng được ở Việt Nam hay không còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, nếu áp dụng không tốt có thể sẽ dẫn đến việc trái với nguyên tắc
luật định và điều cần chú ý đó chính là sự phù hợp.
Trở lại với những quy định trong pháp luật Việt Nam, hầu hết các
trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì trước thời điểm phát sinh
trách nhiệm bồi thường các bên không có mối quan hệ với nhau về quyền và
nghĩa vụ pháp lý. Tuy nhiên trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm quyền lợi người tiêu dùng thì trách nhiệm lại thường phát sinh từ một
hợp đồng trước đó (có thể là hợp đồng mua bán hàng hóa, sử dụng dịch
vụ…). Bởi vậy việc bồi thường cho người tiêu dùng thường có sự đan xen
giữa trách nhiệm trong và ngoài hợp đồng. Vì vậy cần xác định cụ thể thiệt
hại nào thuộc về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người
tiêu dùng. Theo tác giả thì thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng chỉ
có thể là những thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm.
32
Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm được ghi nhận ở Điều 609, Bộ luật
Dân sự:
Theo đó, thiệt hại về vật chất khi sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
- Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và
chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu
thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định
được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
- Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc
người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng
lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi
phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.
Và thiệt hại về tinh thần khi sức khỏe bị xâm phạm thì tinh thần là cái
trừu tượng thuộc về bên trong con người, rất khó nắm bắt và xác định. Để xác
định thiệt hại về tinh thần sẽ không có một công thức chung vì tùy từng đối
tượng, tùy từng điều kiện, hoàn cảnh mà ta có thể xem xét có thiệt hại về tinh
thần hay không. Theo quy định của Bộ luật Dân sự thì trong trường hợp sức
khỏe bị xâm phạm, khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm
phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại. Mức bồi thường do các
bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi
tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Trước đây, trong Bộ luật Dân sự năm 1995 có quy định: “tùy từng
trường hợp” mà Tòa án quyết định cho người bị thiệt hại về sức khỏe được
hưởng khoản tiền bù đắp về tinh thần. Như vậy ta có thể hiểu rằng khoản tiền
bồi thường này là không đương nhiên và nó phụ thuộc khá nhiều vào ý chí của
Thẩm phán khi xét xử. Điều này có thể linh hoạt nhưng trong nhiều trường hợp
lại không tạo được sự công bằng vì sẽ không có một “chuẩn” để đánh giá.
33
Bộ luật Dân sự 2005 đã bỏ đi cụm từ “tùy từng trường hợp” thay vào
đó là “phải bồi thường” và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày
08/07/2006 cũng khẳng định “trong mọi trường hợp” khi sức khỏe bị xâm
phạm thì sẽ được bồi thường khoản tiền bù đắp về tinh thần. Tuy nhiên việc
xác định mức độ tổn thất về tinh thần thì phải căn cứ vào hướng dẫn tại Nghị
quyết 03 như đã nêu ở trên. Ngoài ra còn cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến
nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân… Vậy
theo Bộ luật Dân sự 2005 ta có thể hiểu khoản bồi thường thiệt hại về tinh
thần là đương nhiên, nhưng các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường.
Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì sẽ căn cứ vào quy định
tương ứng tại Bộ luật Dân sự. Việc quy định mức trần trong Bộ luật Dân sự sẽ
tạo điều kiện thực thi bản án trên thực tế.
Nhìn chung những quy định trong Bộ luật Dân sự là khá đầy đủ và hợp
lý. Bên cạnh đó, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ban
hành Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn rất chi
tiết về việc xác định, tính toán những khoản thiệt hại kể trên nên ở đây tác giả
chỉ bàn thêm một số vấn đề sau:
Để đảm bảo cho nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời thì những
chi phí được nêu ở trên phải là những “chi phí hợp lý”. Nghĩa là bên cạnh việc
đảm bảo yếu tố cần kíp và nhanh chóng (để giảm thiểu thiệt hại) thì những chi
phí đó phải “là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ của
thiệt hại, phù hợp với giá trung bình ở từng địa phương tại thời điểm chi phí”
(Nghị quyết 03). Ví dụ: người bị thiệt hại do có điều kiện kinh tế nên đã sử
dụng thuốc đắt tiền trong khi sử dụng loại thuốc khác ít tốn kém hơn mà vẫn
có hiệu quả chữa trị thì chỉ có thể chấp nhận bồi thường ở mức đó và chi phí
phụ trội sẽ không được coi là hợp lý.
Điều 612, Bộ luật Dân sự chỉ quy định thời hạn hưởng bồi thường thiệt
34
hại trong trường hợp người bị thiệt hại chết nhưng chưa đề cập đến thời hạn
được hưởng bồi thường thiệt hại khi sức khỏe bị giảm sút, nghĩa là suy giảm khả
năng lao động. Việc suy giảm khả năng lao động cũng có 02 trường hợp: một là
tuy bị suy giảm nhưng khả năng này có thể khôi phục dần dần sau một thời gian
chữa trị (ví dụ bị chấn thương); hai là một phần khả năng lao động bị mất đi vĩnh
viễn không có khả năng hồi phục (ví dụ bị gãy một chi). Nghị quyết 03 cũng
không có hướng dẫn về vấn đề này. Theo tác giả nếu pháp luật không có quy
định cụ thể thì các bên có quyền tự do thỏa thuận. Có thể khoản tiền này sẽ được
tính toán và bồi thường một lần, sau đó nghĩa vụ bồi thường sẽ chấm dứt. Cũng
có thể việc bồi thường sẽ chấm dứt khi sức khỏe được hồi phục.
Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm được ghi nhận ở Điều 610, Bộ
luật Dân sự:
Thiệt hại về vật chất khi tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
- Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt
hại trước khi chết;
- Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
- Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ
cấp dưỡng.
Và thiệt hại về tinh thần khi tính mạng bị xâm phạm là trong trường
hợp tính mạng bị xâm phạm thì những người thân thích thuộc hàng thừa kế
thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà
người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng
người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Mức
bồi thường cũng do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức
tối đa không quá sáu mươi thánh lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Cũng
như trường hợp thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm, trong trường hợp này
khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cũng là đương nhiên. Tuy nhiên, cần
35
căn cứ vào hướng dẫn tại Điểm b, tiểu mục 1.1, mục 1, Phần 1, Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 để xác định mức độ tổn thất về tinh thần
của những người thân thích của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn
thất về tinh thần phải căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình,
mối quan hệ trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân
thích của người bị thiệt hại…
Tính mạng, sức khỏe của con người là vốn quý, nó chứa đựng những
thuộc tính mà các loại “tài sản” khác không có. Vì vậy, một khi tính mạng, sức
khỏe con người đã bị xâm phạm thì việc “khôi phục lại tình trạng ban đầu” là
rất khó khăn nếu không muốn nói là không thể. Tuy thuộc về mặt vật chất
nhưng tính mạng và sức khỏe không thể quy ra một “lượng” cụ thể để định giá
bởi vậy việc bồi thường chỉ mang tính chất khắc phục, nhằm bù đắp phần nào
những tổn thất, mất mát mà người bị thiệt hại và gia đình của họ phải gánh
chịu. Người tiêu dùng là những người phải chịu những hậu quả trực tiếp từ việc
cung ứng hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng. Những sản phẩm này đã có tác
động không nhỏ đến sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng. Tuy nhiên, người
tiêu dùng muốn được bồi thường thì phải chứng minh có thiệt hại và có những
khoản chi phí để khắc phục. Điều cần thiết là phải căn cứ vào những hóa đơn,
chứng từ hợp lệ làm cơ sở cho việc yêu cầu bồi thường thiệt hại.
* Thứ hai, có hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật:
“Hành vi trái pháp luật là hành vi được thực hiện trái với những quy
định của pháp luật như không làm những việc mà pháp luật yêu cầu, làm
những việc mà pháp luật cấm, hoạt động vượt quá phạm vi cho phép của
pháp luật…”[8].
Theo đó cũng có thể hiểu hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể
của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái
với quy định của pháp luật.
36
Theo quy định chung của pháp luật thì mọi cá nhân, tổ chức đều có
quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, uy tín, nhân phẩm.
Vì vậy, người có hành vi xâm phạm đến những quyền tuyệt đối này đều bị
coi là có hành vi trái pháp luật cho dù họ có lỗi cố ý hay vô ý thậm chí trong
những trường hợp cá biệt không có lỗi. “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã
hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong
Hiến pháp và luật”. [14. Điều 50]. “Công dân có quyền bất khả xâm phạm
về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm…”[14. Điều 71]. Hay “Tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp
nhân, chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.” [15. Điều 9].
“Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến
lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người
khác” [15. Điều 10]. “Người nào… xâm phạm… mà gây thiệt hại thì phải
bồi thường” [15. Điều 604].
Khi pháp luật đã có những quy định chặt chẽ như trên mà chủ thể nào
xâm phạm thì sẽ bị coi là có hành vi trái pháp luật và phải gánh chịu những
hậu quả bất lợi. Bởi lẽ pháp luật ghi nhận và cho phép các chủ thể có quyền
chọn lựa cách xử sự phù hợp nhưng nếu đi trái lại nghĩa là trái pháp luật.
Xét về khía cạnh bảo vệ người tiêu dùng thì hành vi trái pháp luật ở đây
chính là hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Đó chính là sự vi phạm
những quyền căn bản của người tiêu dùng đã được pháp luật ghi nhận và được
xã hội tôn trọng. Tiếp cận một bước gần hơn thì sự vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng xuất phát chính từ hành vi sản xuất, kinh doanh hàng hóa
không đảm bảo chất lượng gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Vậy hàng hóa
như thế nào là không đảm bảo chất lượng?
Nhận thức rõ tầm quan trọng của chất lượng hàng hóa có ảnh hưởng
37
đến cuộc sống con người và sức cạnh tranh của nền kinh tế, Nhà nước ta đã
ban hành nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh trong lĩnh vực này như: Luật
Đo lường số 04/2011/QH13, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm
2012; Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006… mới đây Luật Chất
lượng sản phẩm hàng hóa có hiệu lực vào đầu năm 2008 thay thế cho Pháp
lệnh Chất lượng hàng hóa năm 1999.
Theo Luật Chất lượng hàng hóa 2007 thì: “Người sản xuất thông báo
sản phẩm của mình phù hợp với tiêu chuẩn (sau đây gọi là công bố hợp
chuẩn) hoặc với quy chuẩn kỹ thuật (sau đây gọi là công bố hợp quy) [22.
Khoản 1, Điều 24].
Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật được Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn
kỹ thuật giải thích như sau:
- Tiêu chuẩn là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý dùng
làm chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi
trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả của các đối tượng này.
Tiêu chuẩn do một tổ chức công bố dưới dạng văn bản để tự nguyện
áp dụng.
- Quy chuẩn kỹ thuật là quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật
và yêu cầu quản lý mà sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường và
các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội phải tuân thủ để đảm bảo
an toàn, vệ sinh, sức khỏe con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường;
bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu
cầu thiết yếu khác.
Quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới
dạng văn bản để bắt buộc áp dụng [22. Điều 3].
Cũng theo luật này thì các cơ sở sản xuất kinh doanh phải công bố tiêu
38
chuẩn kỹ thuật mà mình áp dụng và đảm bảo việc phù hợp với tiêu chuẩn
quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế tương ứng.
Để cụ thể hóa những quy định của pháp luật thì các tổ chức, cơ quan có
thẩm quyền đã đưa ra các chỉ số để đánh giá chất lượng sản phẩm. Tổ chức quốc
tế về tiêu chuẩn hóa ISO, trong DIS 9000: 2000, đã đưa ra định nghĩa: “Chất
lượng hàng hóa là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống
hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan.”
Hàng hóa không đảm bảo chất lượng là những hàng hóa được sản xuất,
kinh doanh không đúng theo tiêu chuẩn (có thể là tiêu chuẩn quốc tế, tiêu
chuẩn Việt Nam…) đã được cơ sở sản xuất kinh doanh đó công bố. Cũng trên
lập luận đó, hành vi sản xuất, kinh doanh sản phẩm trên bị coi là trái luật. Khi
có bất kỳ sự cố kỹ thuật nào xảy ra trong thời hạn bảo hành thì nhà sản xuất
kinh doanh phải có trách nhiệm sửa chữa, bảo hành, thậm chí bồi thường thiệt
hại cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong trường hợp người tiêu dùng không
thực hiện đúng theo hướng dẫn của nhà sản xuất, kinh doanh mà gây ra thiệt
hại thì nhà sản xuất kinh doanh không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
* Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và
thiệt hại thực tế xảy ra:
Nghiên cứu mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại
thực tế xảy ra có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Nếu giữa
hành vi và thiệt hại không có một mối liên hệ nào thì sự tồn tại khách quan và
riêng lẻ đó sẽ không là cơ sở để quy trách nhiệm cho một chủ thể cụ thể nào.
Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và bồi thường thiệt hại
do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng thì việc xác định mối quan hệ nhân quả
chính là việc chỉ ra thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật
hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra trên
thực tế. Nó phải được gắn bó với nhau trong một quá trình vận động. Nguyên
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT

More Related Content

What's hot

Luận án: Trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật của doanh nghiệp theo phá...
Luận án: Trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật của doanh nghiệp theo phá...Luận án: Trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật của doanh nghiệp theo phá...
Luận án: Trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật của doanh nghiệp theo phá...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Bài tập an sinh xã hội
Bài tập an sinh xã hộiBài tập an sinh xã hội
Bài tập an sinh xã hộihajz_zjah
 

What's hot (20)

Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt NamLuận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mạiLuận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại
 
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường qua tại cơ sở sản xuất
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường qua tại cơ sở sản xuấtLuận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường qua tại cơ sở sản xuất
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường qua tại cơ sở sản xuất
 
Luận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đ
Luận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đLuận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đ
Luận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đ
 
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệuLuận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
 
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đLuận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
 
Luận văn: Trách nhiệm vật theo pháp luật lao động Việt Nam, 9đ
Luận văn: Trách nhiệm vật theo pháp luật lao động Việt Nam, 9đLuận văn: Trách nhiệm vật theo pháp luật lao động Việt Nam, 9đ
Luận văn: Trách nhiệm vật theo pháp luật lao động Việt Nam, 9đ
 
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, HOT
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, HOTPhương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, HOT
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, HOT
 
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt NamLuận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAYLuận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, HAY
Luận văn: Pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, HAYLuận văn: Pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, HAY
Luận văn: Pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, HAY
 
Luận án: Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại, HAY
Luận án: Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại, HAYLuận án: Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại, HAY
Luận án: Hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về điều kiện bảo hộ sáng chế, HOT, HAY
Luận văn: Pháp luật về điều kiện bảo hộ sáng chế, HOT, HAYLuận văn: Pháp luật về điều kiện bảo hộ sáng chế, HOT, HAY
Luận văn: Pháp luật về điều kiện bảo hộ sáng chế, HOT, HAY
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hôn
 
Luận văn: Trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng
Luận văn: Trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùngLuận văn: Trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng
Luận văn: Trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng
 
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOTLuận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
 
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt NamLuận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
 
Luận án: Trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật của doanh nghiệp theo phá...
Luận án: Trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật của doanh nghiệp theo phá...Luận án: Trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật của doanh nghiệp theo phá...
Luận án: Trách nhiệm thu hồi hàng hoá có khuyết tật của doanh nghiệp theo phá...
 
Bài tập an sinh xã hội
Bài tập an sinh xã hộiBài tập an sinh xã hội
Bài tập an sinh xã hội
 

Similar to Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT

Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam - Thực trạng và kiến nghị
Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam - Thực trạng và kiến nghịPháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam - Thực trạng và kiến nghị
Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam - Thực trạng và kiến nghịhieu anh
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam - Thực trạng và kiến...
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam - Thực trạng và kiến...Luận văn: Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam - Thực trạng và kiến...
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam - Thực trạng và kiến...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam.docx
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam.docxLuận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam.docx
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam.docxNhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt NamLuận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt NamViết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 
BÀI GIẢNG: LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG. TS. BÙI QUANG XUÂN
BÀI GIẢNG:  LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG. TS. BÙI QUANG XUÂNBÀI GIẢNG:  LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG. TS. BÙI QUANG XUÂN
BÀI GIẢNG: LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG. TS. BÙI QUANG XUÂNMinh Chanh
 
Bảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam
Bảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử tại Việt NamBảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam
Bảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử tại Việt NamDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similar to Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT (20)

Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhânLuận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhânLuận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhânLuận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
 
Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam - Thực trạng và kiến nghị
Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam - Thực trạng và kiến nghịPháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam - Thực trạng và kiến nghị
Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam - Thực trạng và kiến nghị
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam - Thực trạng và kiến...
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam - Thực trạng và kiến...Luận văn: Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam - Thực trạng và kiến...
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam - Thực trạng và kiến...
 
Pháp luật Quảng cáo với việc bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, 9đ
Pháp luật Quảng cáo với việc bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, 9đPháp luật Quảng cáo với việc bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, 9đ
Pháp luật Quảng cáo với việc bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, 9đ
 
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam.docx
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam.docxLuận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam.docx
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam.docx
 
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt NamLuận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam
 
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong vệ sinh san toàn thực phẩm
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong vệ sinh san toàn thực phẩmBảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong vệ sinh san toàn thực phẩm
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong vệ sinh san toàn thực phẩm
 
Cơ Sở Lý Luận Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Trong Lĩnh Vực An Toàn, Vệ Sinh Thực ...
Cơ Sở Lý Luận Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Trong Lĩnh Vực An Toàn, Vệ Sinh Thực ...Cơ Sở Lý Luận Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Trong Lĩnh Vực An Toàn, Vệ Sinh Thực ...
Cơ Sở Lý Luận Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Trong Lĩnh Vực An Toàn, Vệ Sinh Thực ...
 
Cơ Sở Lý Luận Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Trong Lĩnh Vực An Toàn, Vệ Sinh Thực ...
Cơ Sở Lý Luận Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Trong Lĩnh Vực An Toàn, Vệ Sinh Thực ...Cơ Sở Lý Luận Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Trong Lĩnh Vực An Toàn, Vệ Sinh Thực ...
Cơ Sở Lý Luận Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Trong Lĩnh Vực An Toàn, Vệ Sinh Thực ...
 
Luận văn: Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ theo luật
Luận văn: Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ theo luậtLuận văn: Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ theo luật
Luận văn: Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ theo luật
 
Mẫu Đề Cương Luận Văn Thạc Sĩ Về Luật Bảo Vệ Người Tiêu Dùng.docx
Mẫu Đề Cương Luận Văn Thạc Sĩ Về Luật Bảo Vệ Người Tiêu Dùng.docxMẫu Đề Cương Luận Văn Thạc Sĩ Về Luật Bảo Vệ Người Tiêu Dùng.docx
Mẫu Đề Cương Luận Văn Thạc Sĩ Về Luật Bảo Vệ Người Tiêu Dùng.docx
 
Luận văn: Pháp luật về chống lao động cưỡng bức, HOT, HAY
Luận văn: Pháp luật về chống lao động cưỡng bức, HOT, HAYLuận văn: Pháp luật về chống lao động cưỡng bức, HOT, HAY
Luận văn: Pháp luật về chống lao động cưỡng bức, HOT, HAY
 
Đề tài: Biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ, HOT
Đề tài: Biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ, HOTĐề tài: Biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ, HOT
Đề tài: Biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ, HOT
 
BÀI GIẢNG: LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG. TS. BÙI QUANG XUÂN
BÀI GIẢNG:  LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG. TS. BÙI QUANG XUÂNBÀI GIẢNG:  LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG. TS. BÙI QUANG XUÂN
BÀI GIẢNG: LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG. TS. BÙI QUANG XUÂN
 
Luận Văn Bảo Vệ Quyền Lợi Của Người Tiêu Dùng Trong Lĩnh Vực Vệ Sinh, An Toà...
Luận Văn Bảo Vệ Quyền Lợi Của Người Tiêu Dùng Trong Lĩnh Vực Vệ Sinh, An Toà...Luận Văn Bảo Vệ Quyền Lợi Của Người Tiêu Dùng Trong Lĩnh Vực Vệ Sinh, An Toà...
Luận Văn Bảo Vệ Quyền Lợi Của Người Tiêu Dùng Trong Lĩnh Vực Vệ Sinh, An Toà...
 
Bảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam
Bảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử tại Việt NamBảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam
Bảo vệ người tiêu dùng trong giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam
 
Luận văn: Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam, HAY, 9đ
 
Pháp luật việt nam về thủ tục giải quyết tranh chấp tiêu dùng - Thực trạng và...
Pháp luật việt nam về thủ tục giải quyết tranh chấp tiêu dùng - Thực trạng và...Pháp luật việt nam về thủ tục giải quyết tranh chấp tiêu dùng - Thực trạng và...
Pháp luật việt nam về thủ tục giải quyết tranh chấp tiêu dùng - Thực trạng và...
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 

Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HOÀNG THỦY BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG, NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ Mã số: 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH ĐÀO TRÍ ÚC HÀ NỘI - 2013
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Hoàng Thủy
  • 3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 3 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài ............................................... 4 4. Phạm vi nghiên cứu....................................................................................... 4 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4 6. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 5 7. Kết cấu của đề tài .......................................................................................... 5 Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG VÀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG ................................................. 6 1.1 Khái quát chung về người tiêu dùng và quyền lợi của người tiêu dùng ........ 6 1.1.1 Khái niệm người tiêu dùng và quyền lợi của người tiêu dùng ............. 6 1.1.2 Đặc điểm của người tiêu dùng Việt Nam............................................12 1.1.3 Các quyền cơ bản của người tiêu dùng...............................................18 1.2 Khái niệm và đặc điểm của bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ...................................................................26 1.2.1 Khái niệm............................................................................................26 1.2.2 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ...................................................................28 1.2.3 Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng..............................................................................44 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG ......................................................................................47
  • 4. 2.1 Cơ sở pháp lý về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng..............................................................................................47 2.2 Thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng......................51 2.2.1 Sơ lược lịch sử chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng..............................................................................51 2.2.2 Những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng và nguyên nhân........54 2.2.3 Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ...................................................................67 Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG.............86 3.1 Quan điểm hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ...................................................................86 3.1.1 Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng điều chỉnh đối với người tiêu dùng......86 3.1.2 Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng điều chỉnh đối với tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh....................................................................87 3.1.3 Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội.............................................................................................89 3.2 Phương hướng cơ bản hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng .....................................................90 3.3 Các giải pháp hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng .........................................................93 3.3.1 Hệ thống hóa, pháp điển hóa pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng .....................................................93 3.3.2 Các giải pháp để tăng hiệu quả việc thực thi pháp luật ......................96 KẾT LUẬN..................................................................................................102 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................104
  • 5. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây ngày càng phát triển và đạt được những kết quả quan trọng. Việc hòa nhập vào nền kinh tế thế giới vừa tạo ra những cơ hội phát triển nhưng đồng thời cũng đặt nền kinh tế Việt Nam trước những thách thức mới. Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới WTO, là thành viên của ASEAN, APEC. Điều đó đồng nghĩa với việc hàng hóa, sản phẩm nước ngoài sẽ tràn vào thị trường Việt Nam và tất yếu là cạnh tranh sẽ vô cùng khốc liệt. Tính hai mặt của vấn đề này ngày càng được thể hiện rõ nét. Xét về mặt tích cực, người tiêu dùng sẽ được lợi khi có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn sản phẩm chất lượng tốt và phù hợp với túi tiền của mình nhưng ngược lại mặt trái của vấn đề cũng là ở chỗ đó. Một khi người tiêu dùng đứng trước các sản phẩm hàng hóa vô cùng phong phú, đa dạng, nhà sản xuất nào cũng tung ra các chiêu thức quảng cáo sản phẩm mình là tốt nhất thì người tiêu dùng có thực sự dễ dàng khi lựa chọn được sản phẩm chất lượng như ý? Có một thực tế mà chúng ta dễ dàng nhận ra là chưa khi nào vấn đề người tiêu dùng lại được đặt ra cấp thiết như hiện nay. Đặc biệt trong thời gian gần đây, trên thị trường xuất hiện nhiều phương thức kinh doanh mới như bán hàng qua mạng, qua điện thoại… giao dịch điện tử để để đặt mua hàng hóa, dịch vụ từ một nước khác cũng đang phát triển. Những phương tiện giao dịch hiện đại tạo sự thuận tiện cho các bên nhưng bên cạnh những tiện ích thì đây cũng là môi trường làm phát sinh những hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ngày một tinh vi và phức tạp hơn. Người tiêu dùng là một tác nhân kinh tế quan trọng và chiếm số lượng đông đảo trong xã hội nhưng lại bị vi phạm quyền lợi nhiều nhất. Gần đây,
  • 6. 2 trên thực tế đã xảy ra các vụ vi phạm của các nhà sản xuất, kinh doanh mà người tiêu dùng là đối tượng bị xâm phạm quyền lợi. Đã có nhiều vụ vi phạm quyền lợi người tiêu dùng liên quan đến thực phẩm bị nhiễm độc; buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng v.v… Cụ thể hàng loạt các vụ vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích của người tiêu dùng được phát hiện như vụ xăng pha aceton, vụ nước tương nhiễm chất 3-MCPD, vụ gian lận xăng dầu hay gần đây nhất là việc phát hiện hàng loạt các cơ sở kinh doanh mỡ động vật không rõ nguồn gốc xuất xứ, vụ sữa melamine trẻ em, vụ mũ bảo hiểm không bảo đảm chất lượng… Những vụ việc này đã gây thiệt hại không chỉ về tài sản mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe thậm chí là tính mạng của người tiêu dùng. Thực tế trên đã cho thấy tình trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ngày càng trở nên phổ biến. Vậy thực sự thì điều mà người tiêu dùng cần nhất ở đây là gì? Đó là một cơ chế bảo vệ quyền lợi cho họ và hơn nữa là bồi thường khi có thiệt hại xảy ra. Khi người tiêu dùng tham gia vào giao lưu dân sự họ sẽ không nghĩ đến vấn đề bảo vệ quyền lợi của mình ra sao nếu sản phẩm mà họ được cung ứng không có vấn đề gì nhưng khi có sự vi phạm từ phía nhà sản xuất họ mới nghĩ đến quyền lợi của mình và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Chính vì lẽ đó giải quyết được vấn đề bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng sẽ giúp bảo vệ người tiêu dùng một cách thiết thực nhất, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững. Có nhiều công cụ để thực hiện nhưng hiện nay pháp luật được coi là công cụ hữu hiệu nhất để từ đó có thể kết hợp hiệu quả với các biện pháp, công cụ khác. Tuy nhiên, pháp luật trong lĩnh vực này còn bộc lộ khá nhiều thiếu sót, bất cập cần phải được hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, những vấn đề lý luận và thực tiễn” cho đề tài luận văn thạc sỹ Luật học.
  • 7. 3 2. Tình hình nghiên cứu Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng là vấn đề được rất nhiều đối tượng quan tâm và đang là vấn đề còn nhiều tranh luận. Luật “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” số 59/2010/QH12 của Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hiệu lực ngày 1/7/2011 đã góp phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, trên thực tế việc áp dụng các biện pháp chế tài nói chung, biện pháp bồi thường thiệt hại nói riêng cho người tiêu dùng khi họ bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp vẫn còn nhiều bất cập. Liên quan đến vấn đề này đã có nhiều công trình nghiên cứu và nhiều bài viết như “Những vấn đề bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam” của Đoàn Văn Trường, NXB Khoa học và kỹ thuật hay “Tìm hiểu luật bảo vệ người tiêu dùng các nước và vấn đề bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam” của Viện Nhà nước và pháp luật, NXB Lao động 1999; “Khách hàng là thượng đế” của tác giả Phạm Côn Sơn, NXB Phương Đông năm 2006; “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và trách nhiệm của chúng ta” của tác giả Lê Văn Thiệu (Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam); “Người tiêu dùng trước xu thế hội nhập thị trường khu vực AFTA” của TS. Nguyễn Mộng Hùng… Vấn đề này cũng được đề cập ở các báo và tạp chí như “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong pháp luật cạnh tranh” của tác giả Ngô Vĩnh Bạch Dương, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2000; TS. Nguyễn Văn Vân với “Hợp đồng theo mẫu và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Đặc san khoa học pháp lý… “Đặc điểm văn hóa tiêu dùng Việt Nam mới” của Viện Nghiên Cứu Tư Vấn Phát Triển Xã Hội - Trường ĐH Quốc Gia TP.HCM (2009) được đăng trên http://vicongdong.vn, ngày 10/05; “Vì sao người tiêu dùng vẫn chưa "mặn mà" với Vinastas” của tác giả Y Nhung (2010) đăng trên http://vneconomy, ngày 14/10… Tuy nhiên, các công trình và các bài viết nêu trên chỉ tiếp cận ở góc độ khái quát về khoa học pháp lý
  • 8. 4 đối với bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng hoặc nghiên cứu nó trong từng lĩnh vực, dưới những góc độ khác nhau hay là những vấn đề cụ thể mang tính thời sự. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể và chuyên sâu về trách nhiệm bồi thường do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Yêu cầu có những công trình nghiên cứu một cách toàn diện về vấn đề này để rút ra được những cơ sở lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng từ đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng vì thế thật sự cần thiết đối với mọi người nói chung, người tiêu dùng nói riêng. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài Với đề tài này, tác giả nhằm làm sáng rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc bồi thường thiệt hại khi có sự xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng. Từ đó, đưa ra những giải pháp thiết thực để góp phần giải quyết những bất cập, tồn tại của những quy định pháp luật, hướng đến đảm bảo một cách tốt nhất quyền lợi của người tiêu dùng nói chung và quyền được bồi thường thiệt hại nói riêng. 4. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ một luận văn, tác giả không có tham vọng nghiên cứu và trình bày tất cả những vấn đề liên quan đến người tiêu dùng mà chỉ nghiên cứu ở khía cạnh bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng với tính chất là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong luật dân sự. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để làm sáng tỏ được nội dung cần nghiên cứu một cách tốt nhất, tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá
  • 9. 5 trình nghiên cứu, đồng thời sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp kết hợp so sánh với pháp luật một số nước cũng có những quy định về vấn đề này. Bên cạnh đó, tác giả nêu và bình luận một số quan điểm khoa học, pháp lý liên quan đến đề tài. Cụ thể: Ở Chương 1, tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phân tích, tổng hợp so sánh, ở Chương 2 sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, bình luận, liên hệ các vụ việc thực tế và ở Chương 3 sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phân tích. 6. Đóng góp của đề tài - Tác giả thực hiện đề tài với ý nghĩa mang đến cho người đọc cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về khía cạnh pháp lý bồi thường thiệt hại khi có sự xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng, thu hút sự quan tâm của các cơ quan chức năng đến vấn đề đang mang tính thời sự này để từ đây có những hướng nghiên cứu, sáng tạo hoàn thiện pháp luật và nâng cao tính khả thi của pháp luật, đồng thời nâng cao nhận thức của người tiêu dùng, của toàn xã hội và trách nhiệm của cộng đồng trong việc đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng nói chung và quyền được bồi thường nói riêng. - Đề tài có thể là tài liệu tham khảo thêm của những người quan tâm. 7. Kết cấu của đề tài Kết cấu của đề tài gồm có 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về quyền lợi người tiêu dùng và bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.
  • 10. 6 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG VÀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG 1.1 Khái quát chung về ngƣời tiêu dùng và quyền lợi của ngƣời tiêu dùng 1.1.1 Khái niệm người tiêu dùng và quyền lợi của người tiêu dùng Nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó mọi cá nhân, tổ chức đều được tự do sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận trong khuôn khổ pháp luật. Xã hội có người bán, người mua và quan hệ mua – bán được điều tiết theo quy luật cung cầu của thị trường. Lúc này, một trong những vấn đề được xã hội quan tâm hàng đầu là vấn đề người tiêu dùng. Tuy nhiên, chúng ta hãy quay ngược thời gian nhìn lại quá khứ, khi mà nền kinh tế mới chỉ là “tự cung tự cấp”. Lúc đó xã hội có sản xuất và có tiêu thụ nhưng sản phẩm làm ra là để phục vụ ngay cho cuộc sống của người sản xuất, cho chính nhu cầu sinh hoạt của họ, có chăng cũng chỉ là sự trao đổi vật phẩm ở mức độ sơ khởi nhất. Mặc dù vậy đây cũng là những hình thái ban đầu của sự tiêu dùng, thời kì này chưa có khái niệm người tiêu dùng với đầy đủ ý nghĩa và đặc điểm như hiện nay chúng ta đang sử dụng. Bước sang nền kinh tế quản lý hành chính, bao cấp, việc cung ứng hàng hóa hay tiêu thụ sản phẩm đều nằm dưới sự quản lý của Nhà nước và được điều chỉnh, phân phối thông qua chế độ tem phiếu. Người sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ là Nhà nước còn người mua và sử dụng là người dân. Tuy nhiên, người dân hoàn toàn thụ động, không hề có sự chọn lựa. Thậm chí có những mặt hàng được Nhà nước phân phối không đúng với nhu cầu của họ nhưng vì nhà nước “cho” nên họ vẫn nhận. Mặt khác,
  • 11. 7 hầu hết người dân cũng không đủ khả năng kinh tế để mua sản phẩm ngoài phân phối hay những mặt hàng do tư nhân cung cấp. Mặc dù xã hội đã có sự phân chia “người sản xuất” và “người tiêu dùng” nhưng lúc này vấn đề người tiêu dùng vẫn chưa được đặt ra. Với nền kinh tế thị trường, chúng ta dễ dàng nhận ra những ưu điểm vượt trội của nó so với những nền kinh tế trước đây. Đặc biệt, “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” [14.Điều 15]. “Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật” [14.Điều 16]. Nhà nước đã chấm dứt sự độc quyền, mở ra cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh. Đây là một tất yếu của sự phát triển và cũng từ đó mà vấn đề người tiêu dùng chính thức được đề cập đến ở phương diện mới mẻ. Khái niệm người tiêu dùng được hiểu ở nhiều góc cạnh khác nhau nhưng hầu hết đều phản ánh được đầy đủ bản chất, đặc điểm và vị trí của chủ thể này trong các mối quan hệ của nền kinh tế, đặc biệt là mối quan hệ cung - cầu. Ở Việt Nam, vấn đề người tiêu dùng mới xuất hiện một số năm gần đây. Nhiều nước trên thế giới đã đi trước chúng ta vài chục năm và việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã có nhiều bước phát triển lớn. Đã có nhiều định nghĩa khác nhau về người tiêu dùng: “IOCU” (International Organization of Consumer Unions) - Tổ chức Quốc tế người tiêu dùng được thành lập vào 01/04/1960 do 5 nước Mỹ, Anh, Hà Lan, Bỉ, Úc ký quyết định trong “Hội nghị quốc tế khuyến khích và thử
  • 12. 8 nghiệm, người tiêu dùng” tại La Hay; đến năm 1985 đổi tên thành “CI” (Consumer International). Theo Luật mẫu bảo vệ người tiêu dùng của tổ chức này thì “người tiêu dùng có nghĩa là người yêu cầu hay sử dụng hàng hóa hay dịch vụ cho những mục đích cá nhân, trong gia đình hay nội trợ”. [7] Trong lời phát biểu tại Thượng viện Mỹ ngày 15/03/1962 tổng thống Mỹ John Kenedy đã nói một câu nổi tiếng: “người tiêu dùng theo định nghĩa, bao gồm toàn thể chúng ta. Họ là nhóm người đông đảo nhất, có ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của hầu hết các quyết định về kinh tế, dù là của Nhà nước hay tư nhân”. Theo Bộ luật Dân sự của Cộng hòa liên bang Đức: “Người tiêu dùng là bất kỳ một thể nhân nào khi ký kết một giao dịch pháp lý không nhằm mục đích kinh doanh và cũng không phục vụ hoạt động hành nghề độc lập của mình”. [6] Luật Bảo vệ người tiêu dùng Đài Loan: “Người tiêu dùng là những người tham gia vào các giao dịch, sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ vì mục đích tiêu dùng.” [6] Luật Bảo vệ người tiêu dùng Malaysia 1999: “người tiêu dùng là người mua hoặc sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ cho mục đích sinh hoạt cá nhân hoặc sinh hoạt gia đình… và không gồm việc mua hoặc sử dụng hàng hóa vì mục đích chính để bán lại hoặc đưa vào quá trình sản xuất hàng hóa, dịch vụ khác hoặc để dùng cho việc sửa chữa, gắn thêm vào hàng hóa khác.” [6] Trong Từ điển cũng có nhiều cách định nghĩa khác nhau: Consumer – người tiêu dùng: “Bất cứ đơn vị kinh tế nào có nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng. Thông thường, người tiêu dùng được coi là một cá nhân nhưng trên thực tế, người tiêu dùng có thể là các cơ quan, các cá nhân và các nhóm cá nhân. Trong trường hợp cuối cùng, điều đáng lưu ý là để có các quyết định, đơn vị tiêu dùng là hộ gia đình chứ không phải của cá nhân. Điều này có ý nghĩa vì cho tới nay, các hộ có thể chấp nhận
  • 13. 9 các quyết định “nhóm” dựa trên sự kết hợp các mong muốn của cá nhân trong gia đình, hoặc thậm chí có khả năng dựa trên phán quyết mang tính gia trưởng trong gia đình. Vì vậy, cầu của người tiêu dùng có thể được xem xét một phần trong bối cảnh quyết định nhóm phản ánh hàm phúc lợi xã hội bao quát mọi thành viên trong hộ gia đình.”[28]. Hay là: Consumer – người tiêu dùng là “đơn vị tiêu dùng, đơn vị cầu cơ bản trong lý thuyết kinh tế. Trong lý thuyết kinh tế, một đơn vị tiêu dùng có thể hoặc là một cá nhân hoặc là một hộ gia đình hoặc là một Chính phủ có mua một sản vật hay dịch vụ để sử dụng cho nhu cầu nào đó, miễn là không phải để đem bán lại.” [27] Nhiều cách định nghĩa khác nhau chứng tỏ một điều là trên thế giới, trong khoa học chưa có sự thống nhất khái niệm người tiêu dùng. Tuy vậy, cho dù đây là một khái niệm có nội hàm rộng nhưng không phải là quá trừu tượng. Để hiểu đúng và hiểu chính xác vấn đề không đơn giản nhưng hầu như ai cũng có thể hiểu một cách căn bản bởi trong số chúng ta ai cũng sẽ có lúc đóng vai trò là người tiêu dùng trong xã hội. Hầu hết các định nghĩa đều hướng đến hành vi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt (không nhằm mục đích kinh doanh hay bán lại kiếm lời). Việt Nam sau Đại hộ Đảng lần thứ VI bước vào thời kỳ đổi mới đã có những chính sách bước đầu thể hiện sự quan tâm đến vấn đề người tiêu dùng. Tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới, năm 2011, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của nước CHXHCN Việt Nam có hiệu lực. Trong đó định nghĩa về người tiêu dùng như sau: “người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.” [23.Khoản 1, Điều 3]. Cách định nghĩa như trên khá gọn, súc tích, nêu bật và đi thẳng vào vấn đề, nêu lên bản chất của người tiêu dùng. Theo đó, ta có thể hiểu người tiêu dùng theo nghĩa rộng bao gồm cả cá nhân, tổ chức nhưng khái niệm cũng được giới hạn bởi “mục đích”. Người
  • 14. 10 tiêu dùng có thể là người mua đồng thời là người sử dụng; cũng có thể mua để tặng, cho; mua để phục vụ chung cho nhu cầu của toàn gia đình hay cho tổ chức nhưng mục đích ở đây đều là “tiêu dùng sinh hoạt”, nói chung là các yếu tố đầu vào để tổ chức phục vụ cho hoạt động của tổ chức mình (có thể là thỏa mãn tiêu dùng gia đình, tiêu dùng trong Hội, Đoàn…). Như vậy, Luật đã loại bỏ các chủ thể mua sắm hàng hóa hay sử dụng dịch vụ vào mục đích kinh doanh (đây cũng là cách hiểu phổ biến hiện nay về khái niệm người tiêu dùng). Tương tự như vậy, ta có thể phân biệt khái niệm người tiêu dùng (consumer) hoặc người tiêu dùng cuối cùng (end consumer) với khái niệm khách hàng (customer). Khái niệm “khách hàng” mang nghĩa rộng hơn, dùng để chỉ người mua hàng hóa, dịch vụ để sử dụng cho bản thân hoặc làm nguyên liệu cho sản xuất, kinh doanh. Do vậy, người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng. Bên cạnh khái niệm “người tiêu dùng”, một khái niệm nữa chúng ta cần làm rõ đó là khái niệm “quyền lợi người tiêu dùng”. Quyền lợi của người tiêu dùng là một trong những quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật của nhiều nước trên thế giới và được xã hội tôn trọng. Tuy nhiên, trong khoa học nói chung cũng như trong khoa học pháp lý và thậm chí trong Bản hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng cũng chỉ nêu ra những quyền cơ bản của người tiêu dùng mà không có khái niệm quyền lợi của người tiêu dùng. Khi được hỏi, các nhà khoa học thường chỉ đưa ra những quan điểm, những lập luận chung nhất. Hiện nay chưa có một khái niệm chính thống nào giải thích về quyền lợi của người tiêu dùng. Theo Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật: “Lợi ích của người tiêu dùng ở đây được hiểu là những điều có lợi, có ích (trong đó có lợi ích kinh tế) cho người tiêu dùng thông qua việc thực hiện được những quyền của người
  • 15. 11 tiêu dùng”[37]. Định nghĩa như vậy vẫn khá chung chung và “luẩn quẩn” chưa nêu bật được những điều căn bản để mọi người dân đều có thể hiểu thế nào là quyền của người tiêu dùng. Trong Từ điển Kinh tế có định nghĩa: “Consumer sovereignty (quyền quyết định của người tiêu dùng; chủ quyền của người tiêu dùng): những người tiêu dùng là những người sau cùng mua các mặt hàng và dịch vụ, do đó có quyền quyết định đòi phải sản xuất những gì. Điều đó hàm nghĩa rằng nếu những người tiêu dùng có nhu cầu lớn hơn thì sản vật phải được cung ứng nhiều hơn và rằng trong nền kinh tế thị trường tự do các nhà sản xuất chỉ là “những tác nhân thụ động” chỉ đáp ứng lại cái mà những người tiêu dùng muốn có. Tuy nhiên, trong một số loại thị trường khác (cụ thể là trong thị trường có vài công ty độc quyền hay trong thị trường có một công ty độc quyền) các nhà sản xuất lại có quyền lực mạnh mẽ đối với những người tiêu dùng đến mức chính họ là người thực sự quy định phạm vi lựa chọn của người tiêu dùng” [27]. Việc định nghĩa như trên khá trừu tượng lại thiên về bản chất kinh tế của vấn đề và cũng chưa giúp người đọc có thể hiểu rõ về quyền của người tiêu dùng. Dựa trên những kiến thức lý luận cơ bản và những đúc kết khoa học ta có thể đưa ra một định nghĩa như sau về quyền lợi của người tiêu dùng: Quyền lợi của người tiêu dùng đó là khả năng của người tiêu dùng được Nhà nước cho phép và ghi nhận trong pháp luật cũng như những lợi ích vật chất và tinh thần mà người tiêu dùng được hưởng từ việc được Nhà nước bảo hộ những khả năng trên. Khi đã hiểu một cách khái quát nhất về quyền lợi của người tiêu dùng, ta có thể tiếp cận đến những quyền cụ thể của người tiêu dùng và phân tích ở những góc độ chính xác và đúng đắn nhất.
  • 16. 12 1.1.2 Đặc điểm của người tiêu dùng Việt Nam Để khái quát được đặc điểm của người tiêu dùng không phải là điều dễ dàng bởi vì trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội với những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, kinh tế khác nhau thì Nhà nước có các chính sách, chế độ khác nhau và nhận thức của người tiêu dùng cũng khác. Bên cạnh đó là sự khác biệt về trình độ dân trí giữa các vùng, miền, giữa nông thôn với thành thị, miền núi với đồng bằng… Bởi vậy, không thể xét đặc điểm của bộ phận để khái quát nên toàn bộ, cũng không thể nhìn phiến diện ở một mặt nào đó mà ta phải có cái nhìn bao quát, tổng thể đồng thời phân tích vấn đề ở từng giai đoạn khác nhau. Theo kết quả nghiên cứu lựa chọn xếp hạng 30/185 nền kinh tế có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới vừa được tập đoàn tư vấn AT Kearney công bố, “Chỉ số phát triển bán lẻ chung năm 2007” (GRDI) của Việt Nam đạt 74 điểm, xếp thứ 4 sau Ấn Độ và Nga, Trung Quốc. Năm 2008, thị trường bán lẻ nước ta “qua mặt” cả ba “người khổng lồ” Ấn Độ, Nga và Trung Quốc để chiếm thứ hai trong “làng bán lẻ” thế giới. Năm 2009, đạt 55 điểm, tuy có giảm trong bảng xếp hạng, nhưng nếu ổn định được tình hình vĩ mô và khôi phục được sự hấp dẫn, thì tương lai phát triển của thị trường bán lẻ nước ta sẽ rất sáng trở lại[31]. Điều này cho thấy trong những năm gần đây, người Việt Nam đầu tư khá nhiều cho tiêu dùng. Cùng với việc mở cửa cũng như hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã trở thành một trong những thị trường thu hút các nhà đầu tư. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp trong nước cũng ý thức được điều này nên sẵn sàng đầu tư công nghệ, cải tiến dây chuyền sản xuất để có thể cung cấp những mặt hàng tốt nhất, đáp ứng nhu cầu thị trường, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh. Vì vậy, người tiêu dùng Việt Nam cũng có nhiều cơ hội để lựa chọn sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của mình. Theo kết quả khảo sát của AC Nielsen thực hiện tại 47 nước trên thế giới về mức độ niềm
  • 17. 13 tin người tiêu dùng những tháng đầu năm 2007, 50% người tiêu dùng Việt Nam cho biết sẽ chi tiêu cho việc mua sắm hàng điện máy công nghệ mới. Đây là tỉ lệ cao nhất trong số các nước được khảo sát về khoản chi tiêu cho loại hàng này, kế đến là Đức (45%), Nga (44%), cuối bảng là Thổ Nhĩ Kỳ (36%). Nhóm hàng được ưa thích thứ hai mà người tiêu dùng Việt Nam chi mạnh tay là áo quần. Một lĩnh vực đầu tư mới của người tiêu dùng Việt Nam là chứng khoán. Việt Nam đứng thứ chín trong nhóm mười nước và lãnh thổ có người dân đầu tư nhiều nhất vào chứng khoán với 26%. Đứng đầu vẫn là Hong Kong (58%). (Cuộc khảo sát được thực hiện trên mạng từ 16/4 đến 1/5/2007 bằng cách phỏng vấn 26.485 người sử dụng Internet trên 47 quốc gia). Hàng hóa có thương hiệu nổi tiếng qua nhiều năm thường được đánh giá cao và thường được lựa chọn nhiều hơn vì họ cho rằng mặc dù giá cao hơn nhưng sẽ được đảm bảo về chất lượng cũng như an toàn hơn trong khâu sử dụng. Điều này tạo tâm lý an tâm cho người tiêu dùng. Mặt khác, tuy chất lượng sản phẩm là một điều quan trọng nhưng hiện nay những yếu tố về thẩm mỹ, về mẫu mã, cung cách, thái độ phục vụ cũng được người tiêu dùng chú trọng và đôi khi đó lại là điều quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng. Một khi mức sống được nâng lên, người dân có khả năng kinh tế thì tâm lý “ăn chắc mặc bền” cũng dần mất đi. Ý thức của người tiêu dùng về quyền và nghĩa vụ của mình cũng được nâng cao, kiến thức về tiêu dùng được cập nhật qua nhiều kênh thông tin. Trong tiêu dùng, người tiêu dùng Việt Nam đã có sự quan tâm đến tiêu dùng xanh, tiêu dùng bền vững. Đó là một sự thể hiện ý thức trách nhiệm đối với cộng đồng của người tiêu dùng Việt Nam. “Thực tế của xã hội nước ta trong những năm đổi mới gần đây đã chứng minh là tính năng động của xã hội – bắt nguồn từ tính năng động của mỗi cá nhân đã được nâng cao rõ rệt. Sự tăng tiến này có nguồn gốc từ sự mở rộng phạm vi hoạt động của sản xuất và gắn liền với nó là tăng cường thỏa
  • 18. 14 mãn chất lượng của nhu cầu”[33]. Thực tế có một lớp người tiêu dùng có trình độ cao, họ am hiểu về kỹ thuật và tính năng của sản phẩm bởi vậy họ cũng đòi hỏi ở nhà sản xuất những mặt hàng tốt nhất và đương nhiên những người như vậy cũng không thụ động ngồi chờ maketings của nhân viên cũng như họ sẵn sàng khiếu nại khi hàng hóa, dịch vụ có vấn đề… số lượng những người tiêu dùng như vậy dần tăng lên nhất là tại các thành phố, đô thị lớn. Tóm lại, nền văn hóa tiêu dùng Việt Nam mới sẽ gồm 03 đặc điểm căn bản sau: Tiêu dùng dựa trên giá trị; tiêu dùng thông minh và tiêu dùng có trách nhiệm [39]. Những đặc điểm này được hiểu như sau: * Thứ nhất, tiêu dùng dựa trên giá trị Trong nền Văn hóa tiêu dùng Việt Nam mới, người tiêu dùng sẽ không còn bị động chờ đợi, tìm kiếm những giá trị trong hàng hóa – dịch vụ, mà người tiêu dùng trở nên chủ động “đặt hàng” với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những sản phẩm phù hợp những chuẩn mực về giá trị mà mình yêu cầu. Để chứng minh giá trị một thương hiệu hàng hóa đó, doanh nghiệp phải làm rõ đồng thời 03 nội dung mà cộng đồng tiêu dùng có thể chấp nhận và nhận diện được: Chất lượng sản phẩm – Trách nhiệm xã hội - Văn hóa kinh doanh. Tiêu dùng dựa trên giá trị là hành vi lựa chọn những sản phẩm - dịch vụ tốt, bền, giá cả phù hợp, thỏa mãn cao nhất nhu cầu cá nhân của người tiêu dùng. Tức tiêu dùng là hoạt động sử dụng giá trị của sản phẩm hay dịch vụ nào đó để thỏa mãn nhu cầu nhất định của mình. Là lực lượng chủ động, có quyền lực thực sự, giúp nuôi dưỡng và phát triển doanh nghiệp, thể hiện tinh thần trách nhiệm với sự phát triển xã hội - quốc gia. Khi người tiêu dùng chọn mua giá trị trong hàng hóa cũng đồng nghĩa họ thúc đẩy doanh nghiệp tạo ra các giá trị khác. Như vậy, chọn mua sản phẩm tức là chọn mua doanh nghiệp, người tiêu dùng cần tìm hiểu doanh nghiệp trước khi chọn mua sản phẩm. Một nền Văn hóa tiêu dùng Việt Nam
  • 19. 15 mới theo chủ nghĩa giá trị không chỉ mang lại lợi ích trực tiếp cho người tiêu dùng, mà còn là động lực mạnh mẽ thúc đẩy doanh nghiệp không ngừng sáng tạo ra giá trị phục vụ cộng đồng. Nói cách khác, tiêu dùng có thể tác động đến doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa phù hợp với yêu cầu về giá trị mà tiêu dùng đặt ra. Đồng thời, thông qua các nội dung cốt lõi của văn hóa tiêu dùng doanh nghiệp tìm thấy con đường để định hướng doanh nghiệp phát triển phù hợp kỳ vọng và lợi ích cộng đồng. Triết lý “Tiêu dùng tạo ra giá trị” cũng đặt ra vấn đề rất mới về mối tương quan giữa tiêu dùng và sản xuất kinh doanh: mỗi hành vi tiêu dùng thông qua doanh nghiệp đều gián tiếp đóng góp giá trị cá nhân vào hệ thống giá trị chung của xã hội. * Thứ hai, tiêu dùng thông minh Tiêu dùng thông minh là hành vi tiêu dùng dựa trên tư duy nhận thức, tiêu dùng những gì mình biết, mình hiểu rõ, tập hợp những thông tin đầy đủ của sản phẩm, của doanh nghiệp để đưa ra quyết định đúng đắn, không bị tác động của các tiêu dùng khác để bảo vệ lợi ích bản thân, cộng đồng và xã hội. * Thứ ba, tiêu dùng có trách nhiệm Tiêu dùng có trách nhiệm là hành vi tiêu dùng mang tính xã hội cao. Người tiêu dùng có trách nhiệm không chỉ là biết tiêu dùng những hàng hóa - dịch vụ thỏa mãn nhu cầu đời sống cá nhân, biết lựa chọn những hàng hóa trong nước sản xuất mà còn biết lựa chọn hàng hóa của những doanh nghiệp có trách nhiệm với xã hội, đóng góp cho sự phát triển kinh tế cùng với việc nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng và xã hội. Bên cạnh đó còn biết thể hiện quyền lực tối thượng của mình đối với những doanh nghiệp có hành vi xâm phạm đến quyền lợi tiêu dùng, vi phạm pháp luật. Tiêu dùng có trách nhiệm không chỉ là hưởng thụ. Việc tiêu dùng có
  • 20. 16 trách nhiệm là một phần không thể tách rời của kinh doanh có trách nhiệm. Chính khách hàng là nhân tố thúc đẩy các nhà sản xuất và cung cấp dịch vụ thay đổi quan niệm về thương mại. Chính người tiêu dùng là động lực ủng hộ, định hướng sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường. Cộng đồng tiêu dùng sẽ cổ súy tinh thần và phong trào sử dụng sản phẩm sinh thái, thân thiện môi trường sống của doanh nghiệp và sẽ liên kết lại, chia sẻ thông tin và trừng phạt những doanh nghiệp làm ăn gian dối, thiếu đạo đức. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng có mặt trái, văn hóa tiêu dùng của người Việt Nam cũng còn nhiều vấn đề đáng quan tâm. Việc tiêu dùng một cách lãng phí, xa hoa… không phải là không tồn tại trong xã hội Việt Nam hiện nay. Đồng thời, hơn 20 năm sau đổi mới, số không nhỏ người tiêu dùng Việt Nam vẫn chưa làm quen với văn hóa tiêu dùng hiện đại. Cách đây một vài năm người tiêu dùng chỉ quen mua sắm tại chợ, đặc biệt là các chợ cóc, chợ tạm mọc lên ở khắp mọi nơi. Đi đâu ta cũng có thể thấy cảnh mua bán, ngã giá ngay dưới lòng đường hay trên vỉa hè vừa mất mỹ quan, vừa gây mất trật tự an toàn giao thông. Lực lượng trật tự đô thị giải quyết không xuể. Tình hình chỉ tạm lắng khi Chính phủ ban hành bởi Nghị định số 14/2003/NĐ-CP ngày 19/02/2003 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giao thông đường bộ, trong đó có những quy định hướng dẫn về việc bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị. Cuộc sống hiện đại ngày nay cũng làm thay đổi thói quen người tiêu dùng, thay vì mua hàng tại chợ họ đến siêu thị. Có thể chỉ để tham khảo giá cả nhưng hầu hết là để mua khối lượng hàng lớn cho nhiều ngày. Tuy nhiên, đó chỉ là mặt tích cực nhưng nếu chúng ta chịu để ý quan sát thì sẽ không mấy khó khăn để nhận ra cảnh không đẹp mắt. Người ta lựa hàng hóa tại các quầy khác nhau nhưng khi không mua nữa họ không xếp lại quầy cũ mà bỏ lại ở những
  • 21. 17 quầy khác hoặc để lại xe đẩy. Có người lại xé vỏ bao, thử sản phẩm ngay trong siêu thị. Tình trạng gian lận trong siêu thị cũng xảy ra rất nhiều. Những cảnh chướng mắt như vậy không hiếm nhưng chính điều này khiến chúng ta phải suy ngẫm. Nếu cứ giữ nét tính cách này liệu người tiêu dùng có thể hội nhập với thị trường thế giới đang vô cùng sôi động, và như vậy là họ đang dần hủy hoại những quyền thiêng liêng mà xã hội đang tích cực bảo vệ họ. Nhìn ra những nước phát triển ta có thể thấy sự khác biệt lớn nhất giữa họ và người tiêu dùng Việt Nam là ở trình độ nhận thức. Họ hiểu biết rất rõ về quyền lợi và trách nhiệm của mình hơn nữa họ lại được giáo dục một cách khá kỹ lưỡng về vấn đề tiêu dùng vì vậy họ có tri thức cao và họ sẵn sàng khiếu kiện khi quyền lợi của mình bị vi phạm và tỷ lệ thắng kiện cũng rất lớn. Đây cũng chính là câu hỏi đặt ra cho mỗi chúng ta và cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong công tác giáo dục người tiêu dùng và trong vấn đề lập pháp. Có thể nói, Người tiêu dùng Việt Nam đã và đang nhanh chóng giàu lên, đặc biệt ở các khu vực đô thị. Người tiêu dùng Việt Nam hiện nay thường thu thập thông tin từ nhiều nguồn, cân nhắc kỹ càng trước khi quyết định mua một sản phẩm hay sử dụng dịch vụ - giống hệt như người tiêu dùng ở các nước phát triển trên thế giới. Một thách thức quan trọng là ở Việt Nam có nhiều thị trường chứ không phải có một thị trường với các nhóm người tiêu dùng rất khác biệt được phân chia theo các yếu tố về nhân khẩu, trình độ học vấn và thu nhập. Sự phong phú đa dạng này đòi hỏi các doanh nghiệp phải điều chỉnh sản phẩm, dịch vụ của mình để có thể đáp ứng nhu cầu cho nhiều phân khúc khách hàng khác nhau. Với tâm lý sính ngoại, không ít người tiêu dùng hiện nay đua theo những trào lưu mua sắm xa xỉ với những giá trị ảo hào nhoáng bên ngoài chứ không phải ở chiều sâu văn hóa tiêu dùng. Và khi Tết đến, xuân về điều này càng rõ hơn bao giờ hết... Từ “ăn chắc mặc bền” đến “lấy thương hiệu khẳng định phong cách”. Cách đây không lâu, sau khi
  • 22. 18 phỏng vấn 10.502 người tại 24 quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á- Thái Bình Dương, châu Phi, Trung Đông về vấn đề tiêu dùng, Tổ chức tín dụng quốc tế MasterCard Worldwide, đã công bố kết quả khảo sát mà trong đó, về ưu tiên cho ăn uống và giải trí, Việt Nam đứng đầu với 86%, tiếp đó là Hàn Quốc 78%, Hồng Công (Trung Quốc) là 75%. Và Việt Nam cũng đứng đầu về tiêu dùng không toan tính với 63%, trong khi Hàn Quốc và Ôxtrâylia cùng là 59%...[36]. Có thể nói, đã qua thời “ăn chắc mặc bền”, ngày nay, chúng ta có nhiều lựa chọn hơn cho hàng hoá từ bình dân đến xa xỉ. Thế nên, xu hướng tiêu dùng “lấy thương hiệu khẳng định phong cách” từ giới thu nhập cao đang chuyển sang giới tiêu dùng trẻ, đặc biệt là ở tầng lớp trung lưu. Họ sẵn sàng chi những khoản tiền lớn cho những mặt hàng nhằm thể hiện cá tính và sự khác biệt trước đám đông như điện thoại di động, xe hơi, các mặt hàng công nghệ đều phải thể hiện cho được đẳng cấp của người chủ, cho dù đôi khi công năng sử dụng... không thực sự cần thiết. Khuynh hướng bắt chước lối sống và cách hưởng thụ của thanh niên các nước khác có xu hướng tăng, nhưng lại chỉ bắt chước phần giá trị ảo, chứ không phải ở chiều sâu văn hóa. 1.1.3 Các quyền cơ bản của người tiêu dùng Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng là một lĩnh vực đã sớm hình thành và phát triển trên thế giới. Tuy vậy, những quyền của người tiêu dùng lại không được xác định một cách đồng hành. Mãi cho đến ngày 15 tháng 03 năm 1962 với lời phát biểu của Tổng thống Mỹ John Kennedy tại Thượng viện Mỹ những quyền của người tiêu dùng dần dần được hình thành và phát triển. Tuyên bố của Kennedy lúc đầu chỉ đề cập đến bốn quyền cơ bản của người tiêu dùng. Đó là: - Quyền được an toàn; - Quyền được thông tin; - Quyền được lựa chọn;
  • 23. 19 - Quyền được bày tỏ quan điểm. Tuy đây mới chỉ là sự ghi nhận ban đầu những quyền cơ bản của người tiêu dùng nhưng vào thời điểm đó là một sự tiến bộ mang tiến bộ mang tính lịch sử vì từ đây người tiêu dùng đã chính thức có cơ sở pháp lý để tự bảo vệ cho quyền lợi của mình. Năm 1983, Liên hợp quốc đã chính thức tuyên bố ngày 15 tháng 3 là ngày Quyền của người tiêu dùng thế giới. Dựa vào bốn quyền trên, trong quá trình hoạt động thực tiễn của mình, Quốc tế người tiêu dùng IOCU (sau này là CI) và các tổ chức người tiêu dùng các nước đã bổ sung thêm 4 quyền nữa, đó là: - Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản; - Quyền được bồi thường; - Quyền được giáo dục; - Quyền được sống trong một môi trường lành mạnh và bền vững. Phong trào người tiêu dùng thế giới lên mạnh, vào ngày 09 tháng 4 năm 1985, Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn bản Hướng dẫn của liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng. Bản hướng dẫn thể hiện các nguyên lý của 8 quyền của người tiêu dùng và cung cấp một khuôn khổ cho việc tăng cường các chính sách bảo vệ người tiêu dùng ở các quốc gia [2]. Sau này các quyền cơ bản này một lần nữa được quy định trong dự thảo luật mẫu bảo vệ người tiêu dùng của IC bao gồm các quyền sau: - Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản; - Quyền được an toàn; - Quyền được thông tin; - Quyền được lựa chọn; - Quyền được lắng nghe; - Quyền được khiếu nại và bồi thường; - Quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng;
  • 24. 20 - Quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững. Với sự thừa nhận của Liên hợp quốc, những quyền của người tiêu dùng đã được đưa lên vị trí hợp pháp và được cộng đồng thế giới công nhận. Chính phủ các nước đã cụ thể hóa nội dung của tám quyền này trong pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của nước mình. Việt Nam cũng không nằm ngoài số đó, Nhà nước ta đã thực sự quan tâm và ghi nhận quyền của người tiêu dùng ngay trong văn bản pháp quy có giá trị cao nhất: “Nhà nước có chính sách bảo hộ quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng”[14. Điều 28]. Căn cứ vào Hiến pháp, công tác nội luật hóa đã được triển khai từ năm 1990 khi Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng gửi tờ trình đề nghị Liên hiệp Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam xây dựng và trình Hội đồng nhà nước ban hành Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Sau 9 năm dự thảo, Pháp lệnh ra đời là một bước tiến mới, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác bảo vệ người tiêu dùng ở nước ta. Và cho đến năm 2011, khi Luật Bảo vệ quyền lợi người có hiệu lực thì từ đây người tiêu dùng Việt Nam cũng được sự bình đẳng như mọi người tiêu dùng trên thế giới. Quyền cơ bản của người tiêu dùng được quy định cụ thể và đầy đủ tại Điều 8, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bao gồm các quyền sau: * Thứ nhất, quyền được an toàn [23. Khoản 1, Điều 8]. Lâu nay vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường ngày càng trở thành vấn đề cấp thiết của đời sống tiêu dùng. Đảm bảo được quyền này cho người tiêu dùng nghĩa là bảo vệ người tiêu dùng chống lại các sản phẩm, dịch vụ, quá trình sản xuất có hại đến sức khỏe và đời sống. Quyền này không chỉ liên quan đến nhưng sản phẩm, hàng hóa an toàn mà còn liên quan đến các dịch vụ và quá trình sản xuất. Các sản phẩm và dịch vụ không được chứa đựng nguy cơ gây mất an toàn khi sử dụng thông thường. Các sản phẩm không đạt tiêu chuẩn an toàn bị cấm không được sản xuất và
  • 25. 21 lưu thông trên thị trường; nếu sản phẩm đã được tung ra thị trường thì phải được thu hồi xử lý. * Thứ hai, quyền được thông tin [23. Khoản 2, Điều 8]. Những thông tin cần thiết và trung thực là điều quan trọng đầu tiên để người tiêu dùng biết đến và tiếp cận sản phẩm, dịch vụ của nhà sản xuất, kinh doanh. Bởi vậy khi người tiêu dùng quyết định lựa chọn một mặt hàng hay một dịch vụ nào đó nghĩa là họ tin tưởng vào những thông tin về sản phẩm. Để có một môi trường kinh doanh lành mạnh và một xã hội phát triển thì nhà sản xuất phải tuyệt đối trung thực khi đưa ra những thông tin liên quan đến sản phẩm của mình. Điều đó tạo được uy tín và tâm lý an tâm ở người tiêu dùng. Nếu việc cung cấp thông tin là thiếu chính xác thậm chí sai lệch để cố tình gây sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng là vi phạm nghiêm trọng quyền được thông tin của người tiêu dùng. Nội dung thông tin cho người tiêu dùng có thể được thực hiện thông qua việc ghi nhãn, các hướng dẫn sử dụng hay qua các giới thiệu quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đây là quy định hoàn toàn mới của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng so với Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trước đây. Xuất phát từ yêu cầu chính đáng cần được bảo vệ thông tin trong khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa của người tiêu dùng, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã đưa nguyên tắc bảo vệ thông tin của người tiêu dùng thành một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật, trong đó khẳng định: Người tiêu dùng được bảo đảm an toàn, bí mật thông tin của mình khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu. Trường hợp thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng thì tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm: Thông báo rõ ràng, công khai trước khi thực hiện với người tiêu dùng về mục đích hoạt động thu thập, sử dụng thông tin của người tiêu dùng; Sử dụng
  • 26. 22 thông tin phù hợp với mục đích đã thông báo với người tiêu dùng và phải được người tiêu dùng đồng ý; Bảo đảm an toàn, chính xác, đầy đủ khi thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng;Tự mình hoặc có biện pháp để người tiêu dùng cập nhật, điều chỉnh thông tin khi phát hiện thấy thông tin đó không chính xác; Chỉ được chuyển giao thông tin của người tiêu dùng cho bên thứ ba khi có sự đồng ý của người tiêu dùng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. * Thứ ba, quyền được lựa chọn [23. Khoản 3, Điều 8]. Đây là một quyền quan trọng của người tiêu dùng chỉ có thể có được khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước đây khi còn trong thời kỳ bao cấp người tiêu dùng chỉ biết đến người cung cấp duy nhất đó chính là Nhà nước. Tình trạng đó đã làm triệt tiêu quyền được lựa chọn của người tiêu dùng. Ngày nay nền kinh tế thị trường với quy luật cạnh tranh một mặt đem đến vô vàn cơ hội lựa chọn cho người tiêu dùng, họ được lựa chọn trong số những sản phẩm, dịch vụ được cung cấp với giá cả phải chăng và chất lượng như ý nhưng một mặt cũng khiến họ phải đau đầu để cân nhắc lựa chọn được sản phẩm tối ưu nhất. Không hiếm những nhà kinh doanh “che mắt” người tiêu dùng bằng những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, khiến họ không phân biệt được đâu là “thật”, “giả”. Tình trạng độc quyền vẫn còn tồn tại trên thị trường làm vi phạm nghiêm trọng quyền được lựa chọn của người tiêu dùng. * Thứ tư, quyền được lắng nghe [23. Khoản 4, Điều 8]. Có thể khẳng định tầm quan trọng của quyền được lắng nghe khi không phải ngẫu nhiên được đề cập đến ở cả hai điều luật. Quyền được lắng nghe là một bước thể hiện sự dân chủ, công bằng trong xã hội. Người tiêu dùng được đặt ngang tầm trong mối tương quan với Nhà nước và nhà sản xuất, kinh doanh. Người tiêu dùng là người trực tiếp mua, khai thác những giá trị sử
  • 27. 23 dụng của hàng hóa dịch vụ hoặc có thể tặng cho bởi vậy họ được bày tỏ ý kiến về những vấn đề liên quan đến sản phẩm đó. Điều này rất có ý nghĩa vì như vậy sẽ giúp những nhà sản xuất kinh doanh nhận ra những sai sót để chỉnh sửa hoặc biết được những ưu điểm phù hợp với thị hiếu của khách hàng để phát huy còn người tiêu dùng sẽ được giải đáp thắc mắc, sẽ có được những mặt hàng đúng như yêu cầu. Đồng thời người tiêu dùng là một lực lượng đông đảo nhưng hầu như hoạt động mang tính cá thể, riêng biệt không tập hợp được sức mạnh, họ cần có những cơ quan thực sự chuyên biệt đại diện cho họ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ. Chính những cơ quan này sẽ là cầu nối giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất, kinh doanh. * Thứ năm, quyền được tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng [23. Khoản 5, Điều 8]. Với quy định này, người tiêu dùng được giữ một vị trí quan trọng trong việc đóng góp ý kiến với Nhà nước, với những cơ quan hoạch định chính sách pháp luật liên quan tới chính quyền lợi của họ. Hơn ai hết chỉ có người tiêu dùng mới biết mình có nhu cầu gì, cần được đáp ứng những gì. Khi những ý kiến của họ được ghi nhận trong luật thì việc thực thi chắc chắn sẽ hạn chế được những bất cập, thỏa mãn những nguyện vọng của người tiêu dùng. * Thứ sáu, quyền được bồi thường [23. Khoản 6, Điều 8]. Nếu như những quyền trên đảm bảo cho người tiêu dùng có được những sản phẩm chất lượng, phù hợp với nhu cầu của mình thì quyền được bồi thường hạn chế, khắc phục những “rủi ro” cho người tiêu dùng khi mua hoặc sử dụng những sản phẩm, dịch vụ không như ý. Đây là quyền của người tiêu dùng được khiếu nại, khởi kiện nhà sản xuất, kinh doanh khi sản phẩm, dịch vụ được cung cấp có “sự cố” bao gồm việc thông tin, quảng cáo sai sự thật; không đúng chất lượng, mẫu mã như trong hợp đồng giao kết; thái độ, cung cách phục vụ… Tuy nhiên, người tiêu dùng chỉ có thể được bồi thường
  • 28. 24 khi việc khiếu nại đó là đúng đắn và chính xác. Quyền này có được đảm bảo hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trên thực tế nhiều trường hợp quyền lợi của người tiêu dùng rõ ràng bị xâm phạm nhưng họ lại thiếu chứng cứ để chứng minh sự thiệt hại của mình và do vậy đành “ngậm bồ hòn làm ngọt”, nhưng cũng có trường hợp người tiêu dùng mắc lừa những công ty “ma” nên mặc dù có đủ bằng chứng thì cũng không thể được bồi thường. Vậy đâu là nguyên nhân và giải pháp nào cho tình trạng này? Đây chính là vấn đề tác giả đi sâu nghiên cứu và sẽ được làm sáng tỏ trong những phần tiếp theo. * Thứ bảy, quyền được giáo dục về tiêu dùng [23. Khoản 8, Điều 8]. VINASTAS (Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam) đưa ra khẩu hiệu “Người tiêu dùng thông thái”, đây là một điều thực sự có ý nghĩa và tuyệt đối cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Một khi hàng hóa tràn ngập thị trường và những dịch vụ nhan nhản mọc lên nếu không có những kiến thức cần thiết về tiêu dùng thì người tiêu dùng sẽ tự biến mình thành con mồi trước những chiêu thức tinh vi của nhà sản xuất kinh doanh, mặt khác họ cũng phải tự chịu trách nhiệm khi không tuân thủ đúng những nguyên tắc mà nhà sản xuất hướng dẫn. Do vậy, người tiêu dùng cần phải được trang bị những kiến thức về đời sống tiêu dùng. Đối với những sản phẩm công nghệ cao, những sản phẩm cần có sự bảo quản đặc biệt… thì người tiêu dùng cần phải được hướng dẫn, chú thích tỉ mỉ để tránh những sự cố không mong muốn trong quá trình sử dụng. Bên cạnh đó, được giáo dục về tiêu dùng sẽ giúp người tiêu dùng thực hiện được các quyền của mình một cách đầy đủ nhất và tự ý thức được trách nhiệm và vị thế của mình trong tiêu dùng. Nhà nước tạo điều kiện cho người tiêu dùng được giáo dục, đào tạo thông qua các kênh khác nhau như qua các trường lớp, các phương tiện thông tin đại chúng… quan trọng là người tiêu dùng cần nắm bắt, lĩnh hội những kiến thức đó. Qua việc tìm hiểu những vấn đề khái quát nhất về người tiêu dùng,
  • 29. 25 những quyền lợi căn bản của người tiêu dùng ta có thể hiểu được người tiêu dùng họ là ai; họ có gì và họ đang cần những gì. Qua đó ta cũng thấy được vị trí, tầm quan trọng của quyền được bồi thường của người tiêu dùng - là quyền và cũng là một điều luật cụ thể trong chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Luật dân sự. Cũng bởi một lẽ “việc nghiên cứu các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng không thể nào tách rời việc tìm hiểu các quyền của người tiêu dùng” nên từ đây ta có thể đi sâu vào nghiên cứu và phân tích làm sáng tỏ vấn đề bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng trên cơ sở những kiến thức nền về quyền lợi của người tiêu dùng đã được đề cập đến ở phần trên. * Thứ tám, quyền được khiếu nại [23. Khoản 7, Điều 8]. Người tiêu dùng “được khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình” theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Đây là một quyền rất quan trọng của người tiêu dùng. Hiện nay trên thực tế quyền lợi của người tiêu dùng đang bị xâm phạm nghiêm trọng. Hơn ai hết, chính bản thân người tiêu dùng phải tự biết cách bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện chính là cách thức hợp pháp mà Nhà nước tạo điều kiện cho người tiêu dùng bảo vệ quyền lợi. Đây là một quyền rất cụ thể, sát thực mà người tiêu dùng cần biết và vận dụng. Theo Nghị định số 99/2011/NĐ-CP, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, sau khi tiếp nhận yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cơ quan có thẩm quyền tiến hành giải quyết yêu cầu. Trường hợp cần thiết cơ quan có thẩm quyền yêu cầu các bên giải trình, cung cấp thêm thông tin, tài liệu phục vụ cho việc giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trong thời hạn
  • 30. 26 15 ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền phải trả lời theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Nếu trong trường hợp các vụ việc phức tạp, thời hạn trả lời có thể được gia hạn, nhưng không được quá 15 ngày làm việc. Trong quá trình giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, nếu cơ quan có thẩm quyền xác định vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, hoặc vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan khác, thì chuyển hồ sơ vụ việc cho cơ quan đó giải quyết, nhưng phải có văn bản trả lời ngời tiêu dùng… Như vậy, so với pháp luật quốc tế, còn hai quyền chưa được quy định cụ thể trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là: Quyền được thoả mãn những nhu cầu cơ bản; Quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững. Tuy không quy định trong Luật, nhưng những quyền này hiện đã được quy định trong hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác nên không cần thiết phải nhắc lại trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là một luật đặc thù, chỉ quy định riêng cho nội dung bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Như vậy, nội dung của luật của nước ta không có mâu thuẫn gì với pháp luật quốc tế. 1.2 Khái niệm và đặc điểm của bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm quyền lợi ngƣời tiêu dùng 1.2.1 Khái niệm “Bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù các tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại.” [29] Bồi thường thiệt hại là một chế định thuộc về trách nhiệm dân sự trong pháp luật dân sự và được chia làm hai loại: trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong phạm vi đề tài, tác giả chỉ đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại
  • 31. 27 do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã được quy định là một điều luật tại Bộ luật Dân sự 2005 (Điều 630, Mục 3, Chương XXI, Phần thứ ba: nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự.). Luật cũng quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.” [15. Khoản 1, Điều 604]. Từ đây ta có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một quan hệ pháp luật dân sự. Trong đó người có hành vi trái pháp luật, có lỗi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp của người khác mà gây ra thiệt hại thì phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có cơ sở pháp lý là những quy định của pháp luật. Pháp luật quy định những hậu quả pháp lý ngoài mong muốn của các chủ thể. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể hoàn toàn do pháp luật quy định bởi vì trước thời điểm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại các bên trong quan hệ pháp luật này không có mối quan hệ với nhau về quyền và nghĩa vụ pháp lý hoặc nếu có thì cũng không liên quan gì đến mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Ở Việt Nam, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chủ yếu được quy định trong Bộ luật Dân sự. Ngoài ra, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn được quy định rải rác trong những văn bản pháp luật khác như: Bộ luật Hàng hải, Bộ luật Lao động, Luật Hàng không dân dụng, Pháp lệnh Chất lượng hàng hóa… Tuy nhiên, ở đây ta chỉ nghiên cứu chế định này trong pháp luật dân sự.
  • 32. 28 Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định trong Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên Bộ luật Dân sự cũng không đưa ra một khái niệm cụ thể và hiện nay cũng chưa có văn bản pháp luật hướng dẫn về vấn đề này mà chỉ quy định “Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác sản xuất, kinh doanh không bảo đảm chất lượng hàng hóa mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường.” [15. Điều 630] Điều luật quy định hết sức ngắn gọn, cô đọng nhưng đã thể hiện được sự quan tâm của Nhà nước đến quyền lợi của người tiêu dùng nói chung và quyền được bồi thường thiệt hại của người tiêu dùng nói riêng thông qua chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Xuất phát từ lý luận chung nhất về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng kết hợp với Điều 630, Bộ luật Dân sự ta có thể đưa ra khái niệm về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng như sau: Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh do hành vi của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác sản xuất, kinh doanh không bảo đảm chất lượng hàng hóa xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng mà gây thiệt hại thì phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. 1.2.2 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng Cũng giống như các trường hợp khác của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng sẽ phát sinh khi thỏa mãn bốn điều kiện: - Có thiệt hại thực tế xảy ra; - Có hành vi trái pháp luật; - Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với thiệt hại đã xảy ra;
  • 33. 29 - Có lỗi của người gây ra thiệt hại. Tuy nhiên, khi phân tích từng điều kiện ta sẽ thấy được nét khác biệt của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng so với các trường hợp khác của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. * Thứ nhất, có thiệt hại xảy ra trên thực tế: Có thể nói đây là điều kiện tiền đề của trách nhiệm bồi thường bởi có “thiệt hại” thì mới cần “bồi thường”. Thiệt hại là điều kiện xác định trách nhiệm dân sự và cũng là điều kiện cần thiết để ấn định mức bồi thường cho bên gây ra thiệt hại. Mục đích của việc bồi thường là nhằm khôi phục lại tình trạng trước khi xảy ra thiệt hại nên trách nhiệm gắn với việc bồi thường những thiệt hại đã xảy ra. Vì vậy, thiệt hại là một điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Vậy “thiệt hại” là gì và ảnh hưởng của thiệt hại đến trách nhiệm như thế nào. Thiệt hại là tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân; tài sản, danh dự, uy tín của pháp nhân hoặc chủ thể khác được pháp luật bảo vệ”. [29] Từ định nghĩa trên và căn cứ vào cách phân chia của Bộ luật Dân sự 2005 thì thiệt hại được bồi thường bao gồm: - Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm; -Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm; - Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm; - Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Ta cũng có thể phân chia theo cách thiệt hại bao gồm: thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần. [10] Thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm, thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
  • 34. 30 Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm… và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin… vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu. Ngoài ra, nếu căn cứ vào diện được bồi thường thì ta có thể phân ra thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp. Mặc dù ta có thể phân chia thiệt hại theo cách này hay cách khác nhưng để được bồi thường thì thiệt hại đó phải là thiệt hại thực tế (đã xảy ra hoặc chắc chắn sẽ xảy ra) phải là cái khách quan và có thật. Người có hành vi trái pháp luật sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại do lỗi của họ gây ra. Vì vậy, nếu là bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thì mức bồi thường có thể bằng hoặc cao hơn thiệt hại thực tế vì trong hợp đồng các bên có thể thỏa thuận và quy định phạt vi phạm… nhưng bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì việc bồi thường phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật trên nguyên tắc thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Nghĩa là việc bồi thường phải ngang giá theo đúng quy luật hàng – tiền của nền sản xuất hàng hóa, để đảm bảo rằng không ai được lợi không có căn cứ pháp luật từ việc bồi thường. Mặt khác, ý nghĩa của việc bồi thường là nhằm khôi phục lại tình trạng trước khi có thiệt hại, không nhằm mục đích trừng phạt, đảm bảo sự công bằng cho các bên. Do vậy, BLDS cũng quy định người gây thiệt hại có
  • 35. 31 thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình. Tuy nhiên, một số nước phương tây lại có cách nhìn nhận khác. Pháp luật của họ cho phép bồi thường thiệt hại cao hơn nhiều lần so với thiệt hại thực tế. Tại sao lại có quy định như vậy? Điều này có lẽ xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể do truyền thống lập pháp, do điều kiện hoàn cảnh lịch sử từng nước nhưng sự lý giải của họ ở đây cũng có những điểm hợp lý. Họ cho rằng quy định như vậy sẽ khuyến khích người tiêu dùng khiếu kiện càng nhiều và như vậy không chỉ quyền lợi của họ được bảo đảm mà những người tiêu dùng khác gặp trường hợp tương tự cũng có thể yêu cầu bồi thường từ đó sẽ tạo hiệu ứng lan truyền bảo vệ được cả cộng đồng và cũng có tác dụng thúc đẩy nhà sản xuất kinh doanh cho ra đời những sản phẩm chất lượng hơn, việc phục vụ người tiêu dùng cũng tốt hơn. Đó cũng là một cách thiết thực để bảo vệ người tiêu dùng, tuy nhiên việc có áp dụng được ở Việt Nam hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nếu áp dụng không tốt có thể sẽ dẫn đến việc trái với nguyên tắc luật định và điều cần chú ý đó chính là sự phù hợp. Trở lại với những quy định trong pháp luật Việt Nam, hầu hết các trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì trước thời điểm phát sinh trách nhiệm bồi thường các bên không có mối quan hệ với nhau về quyền và nghĩa vụ pháp lý. Tuy nhiên trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng thì trách nhiệm lại thường phát sinh từ một hợp đồng trước đó (có thể là hợp đồng mua bán hàng hóa, sử dụng dịch vụ…). Bởi vậy việc bồi thường cho người tiêu dùng thường có sự đan xen giữa trách nhiệm trong và ngoài hợp đồng. Vì vậy cần xác định cụ thể thiệt hại nào thuộc về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Theo tác giả thì thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng chỉ có thể là những thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm.
  • 36. 32 Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm được ghi nhận ở Điều 609, Bộ luật Dân sự: Theo đó, thiệt hại về vật chất khi sức khỏe bị xâm phạm bao gồm: - Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; - Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại; - Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại. Và thiệt hại về tinh thần khi sức khỏe bị xâm phạm thì tinh thần là cái trừu tượng thuộc về bên trong con người, rất khó nắm bắt và xác định. Để xác định thiệt hại về tinh thần sẽ không có một công thức chung vì tùy từng đối tượng, tùy từng điều kiện, hoàn cảnh mà ta có thể xem xét có thiệt hại về tinh thần hay không. Theo quy định của Bộ luật Dân sự thì trong trường hợp sức khỏe bị xâm phạm, khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại. Mức bồi thường do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Trước đây, trong Bộ luật Dân sự năm 1995 có quy định: “tùy từng trường hợp” mà Tòa án quyết định cho người bị thiệt hại về sức khỏe được hưởng khoản tiền bù đắp về tinh thần. Như vậy ta có thể hiểu rằng khoản tiền bồi thường này là không đương nhiên và nó phụ thuộc khá nhiều vào ý chí của Thẩm phán khi xét xử. Điều này có thể linh hoạt nhưng trong nhiều trường hợp lại không tạo được sự công bằng vì sẽ không có một “chuẩn” để đánh giá.
  • 37. 33 Bộ luật Dân sự 2005 đã bỏ đi cụm từ “tùy từng trường hợp” thay vào đó là “phải bồi thường” và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 cũng khẳng định “trong mọi trường hợp” khi sức khỏe bị xâm phạm thì sẽ được bồi thường khoản tiền bù đắp về tinh thần. Tuy nhiên việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần thì phải căn cứ vào hướng dẫn tại Nghị quyết 03 như đã nêu ở trên. Ngoài ra còn cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân… Vậy theo Bộ luật Dân sự 2005 ta có thể hiểu khoản bồi thường thiệt hại về tinh thần là đương nhiên, nhưng các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì sẽ căn cứ vào quy định tương ứng tại Bộ luật Dân sự. Việc quy định mức trần trong Bộ luật Dân sự sẽ tạo điều kiện thực thi bản án trên thực tế. Nhìn chung những quy định trong Bộ luật Dân sự là khá đầy đủ và hợp lý. Bên cạnh đó, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ban hành Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn rất chi tiết về việc xác định, tính toán những khoản thiệt hại kể trên nên ở đây tác giả chỉ bàn thêm một số vấn đề sau: Để đảm bảo cho nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời thì những chi phí được nêu ở trên phải là những “chi phí hợp lý”. Nghĩa là bên cạnh việc đảm bảo yếu tố cần kíp và nhanh chóng (để giảm thiểu thiệt hại) thì những chi phí đó phải “là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ của thiệt hại, phù hợp với giá trung bình ở từng địa phương tại thời điểm chi phí” (Nghị quyết 03). Ví dụ: người bị thiệt hại do có điều kiện kinh tế nên đã sử dụng thuốc đắt tiền trong khi sử dụng loại thuốc khác ít tốn kém hơn mà vẫn có hiệu quả chữa trị thì chỉ có thể chấp nhận bồi thường ở mức đó và chi phí phụ trội sẽ không được coi là hợp lý. Điều 612, Bộ luật Dân sự chỉ quy định thời hạn hưởng bồi thường thiệt
  • 38. 34 hại trong trường hợp người bị thiệt hại chết nhưng chưa đề cập đến thời hạn được hưởng bồi thường thiệt hại khi sức khỏe bị giảm sút, nghĩa là suy giảm khả năng lao động. Việc suy giảm khả năng lao động cũng có 02 trường hợp: một là tuy bị suy giảm nhưng khả năng này có thể khôi phục dần dần sau một thời gian chữa trị (ví dụ bị chấn thương); hai là một phần khả năng lao động bị mất đi vĩnh viễn không có khả năng hồi phục (ví dụ bị gãy một chi). Nghị quyết 03 cũng không có hướng dẫn về vấn đề này. Theo tác giả nếu pháp luật không có quy định cụ thể thì các bên có quyền tự do thỏa thuận. Có thể khoản tiền này sẽ được tính toán và bồi thường một lần, sau đó nghĩa vụ bồi thường sẽ chấm dứt. Cũng có thể việc bồi thường sẽ chấm dứt khi sức khỏe được hồi phục. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm được ghi nhận ở Điều 610, Bộ luật Dân sự: Thiệt hại về vật chất khi tính mạng bị xâm phạm bao gồm: - Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; - Chi phí hợp lý cho việc mai táng; - Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng. Và thiệt hại về tinh thần khi tính mạng bị xâm phạm là trong trường hợp tính mạng bị xâm phạm thì những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Mức bồi thường cũng do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi thánh lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Cũng như trường hợp thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm, trong trường hợp này khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cũng là đương nhiên. Tuy nhiên, cần
  • 39. 35 căn cứ vào hướng dẫn tại Điểm b, tiểu mục 1.1, mục 1, Phần 1, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của những người thân thích của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của người bị thiệt hại… Tính mạng, sức khỏe của con người là vốn quý, nó chứa đựng những thuộc tính mà các loại “tài sản” khác không có. Vì vậy, một khi tính mạng, sức khỏe con người đã bị xâm phạm thì việc “khôi phục lại tình trạng ban đầu” là rất khó khăn nếu không muốn nói là không thể. Tuy thuộc về mặt vật chất nhưng tính mạng và sức khỏe không thể quy ra một “lượng” cụ thể để định giá bởi vậy việc bồi thường chỉ mang tính chất khắc phục, nhằm bù đắp phần nào những tổn thất, mất mát mà người bị thiệt hại và gia đình của họ phải gánh chịu. Người tiêu dùng là những người phải chịu những hậu quả trực tiếp từ việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng. Những sản phẩm này đã có tác động không nhỏ đến sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng. Tuy nhiên, người tiêu dùng muốn được bồi thường thì phải chứng minh có thiệt hại và có những khoản chi phí để khắc phục. Điều cần thiết là phải căn cứ vào những hóa đơn, chứng từ hợp lệ làm cơ sở cho việc yêu cầu bồi thường thiệt hại. * Thứ hai, có hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: “Hành vi trái pháp luật là hành vi được thực hiện trái với những quy định của pháp luật như không làm những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc mà pháp luật cấm, hoạt động vượt quá phạm vi cho phép của pháp luật…”[8]. Theo đó cũng có thể hiểu hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với quy định của pháp luật.
  • 40. 36 Theo quy định chung của pháp luật thì mọi cá nhân, tổ chức đều có quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, uy tín, nhân phẩm. Vì vậy, người có hành vi xâm phạm đến những quyền tuyệt đối này đều bị coi là có hành vi trái pháp luật cho dù họ có lỗi cố ý hay vô ý thậm chí trong những trường hợp cá biệt không có lỗi. “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. [14. Điều 50]. “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm…”[14. Điều 71]. Hay “Tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.” [15. Điều 9]. “Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác” [15. Điều 10]. “Người nào… xâm phạm… mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” [15. Điều 604]. Khi pháp luật đã có những quy định chặt chẽ như trên mà chủ thể nào xâm phạm thì sẽ bị coi là có hành vi trái pháp luật và phải gánh chịu những hậu quả bất lợi. Bởi lẽ pháp luật ghi nhận và cho phép các chủ thể có quyền chọn lựa cách xử sự phù hợp nhưng nếu đi trái lại nghĩa là trái pháp luật. Xét về khía cạnh bảo vệ người tiêu dùng thì hành vi trái pháp luật ở đây chính là hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Đó chính là sự vi phạm những quyền căn bản của người tiêu dùng đã được pháp luật ghi nhận và được xã hội tôn trọng. Tiếp cận một bước gần hơn thì sự vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng xuất phát chính từ hành vi sản xuất, kinh doanh hàng hóa không đảm bảo chất lượng gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Vậy hàng hóa như thế nào là không đảm bảo chất lượng? Nhận thức rõ tầm quan trọng của chất lượng hàng hóa có ảnh hưởng
  • 41. 37 đến cuộc sống con người và sức cạnh tranh của nền kinh tế, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh trong lĩnh vực này như: Luật Đo lường số 04/2011/QH13, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2012; Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006… mới đây Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa có hiệu lực vào đầu năm 2008 thay thế cho Pháp lệnh Chất lượng hàng hóa năm 1999. Theo Luật Chất lượng hàng hóa 2007 thì: “Người sản xuất thông báo sản phẩm của mình phù hợp với tiêu chuẩn (sau đây gọi là công bố hợp chuẩn) hoặc với quy chuẩn kỹ thuật (sau đây gọi là công bố hợp quy) [22. Khoản 1, Điều 24]. Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật được Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật giải thích như sau: - Tiêu chuẩn là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đối tượng này. Tiêu chuẩn do một tổ chức công bố dưới dạng văn bản để tự nguyện áp dụng. - Quy chuẩn kỹ thuật là quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội phải tuân thủ để đảm bảo an toàn, vệ sinh, sức khỏe con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác. Quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản để bắt buộc áp dụng [22. Điều 3]. Cũng theo luật này thì các cơ sở sản xuất kinh doanh phải công bố tiêu
  • 42. 38 chuẩn kỹ thuật mà mình áp dụng và đảm bảo việc phù hợp với tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế tương ứng. Để cụ thể hóa những quy định của pháp luật thì các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền đã đưa ra các chỉ số để đánh giá chất lượng sản phẩm. Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa ISO, trong DIS 9000: 2000, đã đưa ra định nghĩa: “Chất lượng hàng hóa là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan.” Hàng hóa không đảm bảo chất lượng là những hàng hóa được sản xuất, kinh doanh không đúng theo tiêu chuẩn (có thể là tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn Việt Nam…) đã được cơ sở sản xuất kinh doanh đó công bố. Cũng trên lập luận đó, hành vi sản xuất, kinh doanh sản phẩm trên bị coi là trái luật. Khi có bất kỳ sự cố kỹ thuật nào xảy ra trong thời hạn bảo hành thì nhà sản xuất kinh doanh phải có trách nhiệm sửa chữa, bảo hành, thậm chí bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong trường hợp người tiêu dùng không thực hiện đúng theo hướng dẫn của nhà sản xuất, kinh doanh mà gây ra thiệt hại thì nhà sản xuất kinh doanh không phải chịu trách nhiệm bồi thường. * Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại thực tế xảy ra: Nghiên cứu mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại thực tế xảy ra có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Nếu giữa hành vi và thiệt hại không có một mối liên hệ nào thì sự tồn tại khách quan và riêng lẻ đó sẽ không là cơ sở để quy trách nhiệm cho một chủ thể cụ thể nào. Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng thì việc xác định mối quan hệ nhân quả chính là việc chỉ ra thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra trên thực tế. Nó phải được gắn bó với nhau trong một quá trình vận động. Nguyên