Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật hiến pháp với đề tài: Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố Hải Phòng, cho các bạn làm luận văn tham khảo
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
Luận văn: Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp tại Hải Phòng
1. VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ HUYỀN
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Chuyên ngành : Luật hiến pháp và Luật hành chính
Mã số : 60.38.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN MINH MẪN
HÀ NỘI, 2017
2. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Minh Mẫn.
Các số liệu trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, khách quan,
khoa học và trung thực. Những kết luận của luận văn chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào khác.
Tác giả luận văn
Vũ Thị Huyền
3. DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Kết quả của việc thực hiện về việc thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp ở thành phố Hải Phòng từ năm 2011-2016......................................... 42
4. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
10
1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp
10
1.2 Nội dung cơ bản của pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp
23
Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI
PHÒNG
36
2.1 Tình hình thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên địa bàn
thành phố Hải Phòng
36
2.2 Đánh giá về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên địa bàn
thành phố Hải Phòng
43
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP
50
3.1 Định hướng tăng cường hiệu quả thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp
50
3.2 Một số giải pháp tăng cường hiệu quả thi hành án dân sự đối với
doanh nghiệp
53
KẾT LUẬN 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 65
5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
THA Thi hành án
THADS Thi hành án dân sự
UBND Ủy ban nhân dân
HĐND Hội đồng nhân dân
TTTM Trọng tài thương mại
BCĐ Ban chỉ đạo
TAND Tòa án nhân dân
6. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự (THADS) là một giai đoạn – giai đoạn cuối cùng
của quá trình tố tụng, là hoạt động đưa bản án, quyết định về dân sự của tòa
án, trọng tài thương mại, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra thi hành trên
thực tế. THADS có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án nói
riêng và hoạt động tư pháp nói chung, bảo đảm cho bản án, quyết định của
tòa án, trọng tài thương mại, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được chấp
hành nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân, tổ chức, nhà
nước, góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
Yêu cầu thực thi nghiêm chỉnh các bản án, quyết định của tòa án, trọng
tài thương mại, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh đã trở thành nguyên tắc
hiến định: từ Hiến pháp năm 1946 – Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa đến Hiến pháp năm 1992 (Điều 136) và tiếp tục được khẳng
định trong Hiến pháp năm 2013 (Điều 106). Đồng thời thể chế hóa các đường
lối, chính sách đó bằng việc ban hành nhiều văn bản pháp luật có hiệu lực
pháp lý cao để điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực này như Pháp
lệnh THADS năm 1989, Pháp lệnh THADS năm 1993, Pháp lệnh THADS
năm 2004, Luật THADS năm 2008 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật THADS năm 2014.
Từ việc nhận thức được tầm quan trọng của công tác thi hành án dân sự
cùng với những chủ trương, chính sách sách của Đảng và Nhà nước, các văn
bản pháp luật về thi hành án dân sự đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng và hữu
hiệu để các cơ quan THADS cũng như các chấp hành viên, các cán bộ, công
chức trong các cơ quan THADS thực hiện tốt các chức năng, thẩm quyền của
mình. Các văn bản pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới về tổ
7. 2
chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự; xác định rõ hơn địa vị
pháp lý của các chủ thể đối với việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong các
quyết định THADS. Từ đó cơ cấu và hoạt động của các cơ quan THADS
ngày càng được hoàn thiện hơn, ý thức của các cá nhân, tổ chức về THADS
ngày càng được nâng lên rõ rệt. Nhiều bản án, quyết định của tòa án, trọng tài
thương mại được thi hành theo đúng nội dung của bản án, quyết định; bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và nhà nước; thể hiện
tính nghiêm minh của pháp luật; củng cố niềm tin của nhân dân; góp phần
đảm bảo an ninh, trật tự xã hội; giữ gìn kỷ cương, phép nước, xây dựng nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dân chủ, công bằng, văn minh.
Hải Phòng là thành phố ven biển nằm ở phía Đông miền duyên hải Bắc
Bộ, có dân số đông. Là một trong 5 thành phố lớn trực thuộc trung ương và là
một đô thị trung tâm cấp quốc gia, là thành phố lớn thứ 3 của Việt Nam, có vị
trí quan trọng về kinh tế xã hội và an ninh, quốc phòng của vùng Bắc bộ và cả
nước. Là thành phố cảng, của chính ra biển quan trọng của nước ta, là đầu
mối giao thông quan trọng vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trên hai hành
lang - một vành đai hợp tác kinh tế Việt Nam – Trung Quốc. Hải Phòng là
đầu mối giao thông đường biển phía Bắc. Với lợi thế cảng nước sâu nên vận
tải biển rất phát triển, đồng thời là một trong những động lực tăng trưởng của
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Nền kinh tế của Hải Phòng nói riêng và của
cả nước nói chung đã và đang đạt được những kết quả nhất định, tạo được
những bước đột phá về kinh tế. Hàng năm hàng trăm doanh nghiệp mới được
thành lập, nhiều công ty, tập đoàn lớn không những được trong nước biết đến
mà còn vươn ra thị trường quốc tế và khu vực. Tuy nhiên, hiện tại và tương
lai cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là sự kiện
gia nhập TTP – Hiệp định Hợp tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình
Dương.
8. 3
Trong những năm qua, công tác THADS ở thành phố Hải Phòng đã đạt
được những kết quả đáng ghi nhận: tỷ lệ án thi hành xong tăng cao, cả về việc
và về tiền; nhiều việc tồn đọng, phức tạp kéo dài đã được thi hành dứt điểm.
Kết quả này đã phần nào phản ánh những nỗ lực, cố gắng của ngành tư pháp
thành phố Hải Phòng nói chung và của lĩnh vực THADS nói riêng; phản ánh
sự quan tâm, phối kết hợp chặt chẽ của các cấp ủy đảng, chính quyền địa
phương, các cơ quan hữu quan trong việc thực hiện pháp luật THADS.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác THADS, đặc
biệt đối với doanh nghiệp ở Hải Phòng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập; phần
lớn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Lượng án tồn
đọng còn lớn, án phức tạp, kéo dài còn chưa giải quyết được, gây bức xúc,
mất niềm tin trong nhân dân. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng trên đó là:
hệ thống pháp luật hiện hành THADS còn thiếu tính khả thi, thiếu đồng bộ
với các Bộ luật và Luật khác, nhiều điểm còn bất cập, lại hay sửa đổi; một bộ
phận không nhỏ các chấp hành viên, cán bộ THA còn thiếu tinh thần trách
nhiệm, sự tận tâm trong công việc và còn nhiều hạn chế về năng lực làm việc.
Mặt khác, hoạt động của Ban chỉ đạo (BCĐ) thi hành án nhìn chung chưa thật
sự hiệu quả; sự nhận thức của cấp ủy, chính quyền địa phương về trách nhiệm
của mình trong tổ chức, chỉ đạo hoạt động THADS còn nhiều hạn
chế….Những nguyên nhân trên đã dẫn đến thực trạng hoạt động THADS nói
chung và đối với doanh nghiệp nói riêng còn nhiều bất cập và chưa hiệu quả.
Thực tế trên đặt ra yêu cầu phải nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về
THADS đối với doanh nghiệp đảm bảo cho các bản án, quyết định của tòa án
(TA), trọng tài thương mại (TTTM) đã có hiệu lực, đặc biệt đối với doanh
nghiệp tại Hải Phòng được thực hiện trên thực tế.
Xuất phát từ thực tiễn đó tác giả lựa chọn đề tài: “Thi hành án dân sự
đối với doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố Hải Phòng” là đề tài luận văn
9. 4
thạc sỹ của mình. Đây là vấn đề nổi cộm, phức tạp và liên quan đến rất nhiều
lĩnh vực, khoa học chuyên ngành khác nhau như: quản lý nhà nước, quản lý
kinh tế, quản lý hành chính nhà nước…. Tuy nhiên, với phạm vi của luận văn
thạc sỹ, tác giả chỉ giới hạn nội dung nghiên cứu về thực trạng THADS đối
với doanh nghiệp với tư cách là người phải thi hành án từ thực tiễn thành phố
Hải Phòng. Đồng thời kiến nghị những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác thi hành án dân sự nói chung và thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề thực hiện pháp luật luôn được coi là
một vấn đề quan trọng trong cơ chế điều chỉnh pháp luật và là nhiệm vụ cấp
bách của Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân. Nghiên cứu
chuyên biệt về THADS đối với doanh nghiệp là đề tài tương đối mới, cho đến
khi tác giả tìm hiểu về đề tài này, chỉ có một số ít công trình khoa học pháp lý
đề cập đến vấn đề này như:
Đề tài khoa học cấp Nhà nước do Bộ Tư pháp chủ trì “Luận cứ khoa
học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai
đoạn mới”. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất
công tác Thi hành án” do Cục quản lý THADS – Bộ Tư pháp chủ trì thực
hiện. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Những cơ sở lý luận và thực tiễn
về chế định Thừa phát lại” do Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư
pháp và Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện. Đề tài cấp Nhà
nước đang thực hiện: “Thi hành án dân sự, thực trạng, hướng hoàn thiện”
của Dự án VIE/98/001 do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện.
Công trình nghiên cứu khoa học khác như: Luận án Tiến sĩ năm 2008 :
“ Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả
Nguyễn Thanh Thủy, luận án tiến sỹ năm 2008: “Hiệu quả áp dụng pháp luật
10. 5
Thi hành án dân sự ở Việt Nam” của tác giả Đặng Đình Quyền. Luận văn thạc
sỹ năm 2015: “Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay”
của tác giả Bùi Ngọc Hiếu. Luận văn thạc sỹ năm 2015: “Kiểm sát thi hành án
dân sự từ thực tiễn thành phố Hải Phòng của tác giả Lê Thị Tuyết Thanh.
Luận văn thạc sỹ năm 2005: “Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn
đọng trong thi hành án dân sự của Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn
Đức Nghĩa, luận văn thạc sỹ năm 2013: “Các biện pháp cưỡng chế thi hành
án nghĩa vụ trả tiền”; “Luật Thi hành án dân sự Việt Nam những vấn đề lý
luận và thực tiễn” xuất bản năm 2007 sách chuyên khảo do Nguyễn Công
Bình chủ biên.
Những công trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu những vấn đề
chung của thực hiện pháp luật, những vấn đề mang tính tổng thể hoặc những
khía cạnh khác nhau, phạm vi cụ thể khác nhau của THADS. Một số đề tài
cũng đã nghiên cứu chuyên sâu, nhưng chỉ để cập đến nội dung các quy định
về kiểm sát thi hành án dân sự, các biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp
cưỡng chế thi hành án hay những vấn đề lý luận và thực hiện pháp luật thi
hành án dân sự… Tuy nhiên, nghiên cứu một cách hệ thống dưới góc độ khoa
học pháp lý về mặt lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật THADS đối với
doanh nghiệp, tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động
THADS đối với doanh nghiệp và đưa ra các quan điểm, giải pháp cụ thể,
đồng bộ nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động THADS đối với doanh nghiệp.
Lại càng chưa có công trình nào tiến hành nghiên cứu các vấn đề nói trên
trong không gian giới hạn là thành phố Hải Phòng. Vì thế tác giả chọn đề tài.
“Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố Hải Phòng”
là đề tài luận văn thạc sỹ của mình. Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn
này đã có sự kế thừa những vấn đề chung mang tính lý luận,vận dụng sáng
tạo, có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trước
11. 6
đó, từ đó đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề thực tiễn để đảm bảo hàm
lượng khoa học cũng như giá trị thực tiễn của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn này nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực hiện
pháp luật thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp; đánh giá thực trạng thực
hiện pháp luật THADS đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải
Phòng; chỉ ra những nguyên nhân của những kết quả cũng như hạn chế, bất
cập. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
THADS đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Một là, phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện
pháp luật THADS đối với doanh nghiệp.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về THADS
đối với doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng hiện nay. Đánh giá đúng
nguyên nhân của những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, bất cập.
Ba là, đưa ra những định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác THADS đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện pháp luật THADS là phạm trù rất rộng, bao gồm rất nhiều
lĩnh vực, nhiều vấn đề khác nhau. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ,
tác giả tập trung vào nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật THADS đối
12. 7
với doanh nghiệp với tư cách là người phải thi hành án từ thực tiễn thành phố
Hải Phòng trong phạm vi sau:
Về không gian, việc áp dụng pháp luật THADS đối với các chi cục trên
địa bàn thành phố Hải Phòng.
Về thời gian, luận văn chỉ nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động
thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng đối
với doanh nghiệp từ năm 2011 đến năm 2016.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là về thủ tục và trình tự thi hành án
dân sự đối với doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật về THADS nói chung và pháp luật THADS đối với
doanh nghiệp nói riêng. Những giải pháp đưa ra bao gồm các giải pháp trước
mắt để áp dụng ngay và các giải pháp định hướng, lâu dài để áp dụng đồng
thời với việc hoàn thiện các quy định pháp luật THADS cũng như các quy
định pháp luật có liên quan như Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai…Tất cả
nhằm góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động THADS nói chung và hoạt
động THADS đối với doanh nghiệp nói riêng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Phương pháp luận mà tác giả sử dụng để nghiên cứu đề tài này là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Triết học Mác Lê
nin; tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước về công tác THADS và chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020.
13. 8
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mà tác giả sử dụng trong luận văn là các
phương pháp truyền thống như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê,
so sánh để phân tích đánh giá những quy định pháp luật, những sự kiện cũng
như những số liệu thực tế từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá nhằm củng
cố cho những nhận định và đề xuất mà tác giả đưa ra. Mặt khác, tác giả đặc
biệt sử dụng phương pháp lo gic - lịch sử để nghiên cứu, trên cơ sở kề thừa
một số kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học, các luận văn, bài
nghiên khoa học có liên quan đến lĩnh vực THADS đối với doanh nghiệp và
để liên kết các phần trong tổng thể bố cục của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ thạc sỹ luật, nghiên cứu
về cơ sở lý luận và thực tiễn về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên
địa bàn thành phố Hải Phòng. Điểm mới của luận văn là luận văn tập trung
nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn thực hiện pháp luật về
THADS đối với doanh nghiệp nói chung và ở Hải Phòng nói riêng. Từ đó
nâng cao nhận thức của xã hội đối với pháp luật, đặc biệt là pháp luật
THADS, nâng cao hiệu quả của công tác THADS cũng như công tác THADS
đối với doanh nghiệp.
Những giải pháp đưa ra bao gồm cả giải pháp trước mắt và lâu dài
nhằm xác định, củng cố về nhận thức về vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật
và áp dụng pháp luật về THADS đối với doanh nghiệp trong việc phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong thực hiện pháp luật THADS của các cơ
quan thi hành án, cấp ủy đảng và các cơ quan hữu quan; nâng cao nhận thức
và ý thức chấp hành của các cá nhân, cơ quan, tổ chức (đặc biệt là doanh
nghiệp) đối với công tác thi hành án dân sự.
14. 9
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho nội bộ ngành, cấp ủy
và chính quyền địa phương trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác THADS đối
với doanh nghiệp.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp
Chương 2: Thực trạng thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên địa
bàn thành phố Hải Phòng
Chương 3: Định hướng, giải pháp tăng cường hiệu quả thi hành án dân
sự đối với doanh nghiệp
15. 10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành án dân sự đối với
doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
Để làm sáng tỏ khái niệm THADS đối với doanh nghiệp, ta cần làm
sáng tỏ các khái niệm: thi hành án, thi hành án dân sự, doanh nghiệp. Theo
Đại từ điển Tiếng việt, thi hành là “Thực hiện điều đã chính thức quyết định”
[44 ,tr.1559]. Theo Từ điểm Luật học thì Thi hành án là “Giai đoạn kết thúc
quá trình tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm
cho phán quyết của Tòa án nhất định có hiệu lực pháp luật” [13, tr. 464].
Như vậy, Thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án, quyết định của
Tòa án – văn bản pháp lý của tòa án nhân danh nhà nước tuyên tại phiên tòa ,
giải quyết các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao
động, kinh tế, hành chính trên thực tế.
Việc thi hành các bản án, quyết định có hiệu quả trên thực tế không
những để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và nhà
nước; thể hiện tính nghiêm minh, tính tối thượng của pháp luật mà còn là biện
pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích của các cá nhân, tổ chức và nhà
nước bị xâm hại.
Tại Khoản 1 Điều 2 Luật THADS quy định những bản án, quyết định
được thi hành bao gồm:
“1. Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật gồm:
a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
b) Bản án, quyết định của Tòa phúc thẩm;
16. 11
c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án;
d) Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của
Trọng tài nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam;
đ) Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh mà sau 30 ngày, kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự
nguyện thi hành, không khởi kiện tại Tòa án;
e) Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại;
g) Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản.
2. Những Bản án, quyết định sau đây của Tòa án sơ cấp được thi hành
ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị:
a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ
cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động
trở lại làm việc;
b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp kịp thời.”
Tương tự như quy định của Bộ Luật Dân sự, Luật Thi hành án dân sự,
khái niệm “dân sự” được hiểu theo nghĩa rộng. Theo đó THADS được hiểu là
hoạt động đưa bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động có hiệu lực pháp luật thi hành trên thực tiễn.
Dựa trên khái niệm, phạm vi của THADS để xác định THADS là một
giai đoạn tố tụng hay là một hoạt động quản lý hành chính – tư pháp. Trước
kia, cơ quan THA là bộ phận của tòa án nhân dân, thuộc sự quản lý của
TAND các cấp. Đến năm 1993, cơ quan THA được chuyển giao từ TAND
các cấp sang Bộ Tư pháp, khái niệm THADS được các nhà khoa học pháp lý
phân tích và nhìn nhận trên nhiều góc độ, phương diện khác nhau.
17. 12
Trước tiên, về quan điểm THADS là một giai đoạn tố tụng hay là hoạt
động quản lý hành chính – tư pháp?. Quan điểm của tác giả luận văn này là
THADS là hoạt động Hành chính - Tư pháp vì những lý do sau:
Thứ nhất, về sơ sở pháp lý. Cơ sở pháp lý của các quyết định THADS
là bản án, quyết định của tòa án và các quyết định khác theo quy định của
pháp luật. Do vậy, cơ quan THADS phải thi hành theo đúng nội dung phán
quyết của các bản án, quyết định của tòa án chứ không phải theo mệnh lệnh
hành chính của các cơ quan hành chính cấp trên. Cơ quan cấp trên (kể cả cơ
quan quản lý toàn diện hệ thống tổ chức và hoạt động) không có quyền yêu
cầu cơ quan THADS cấp dưới phải tạm hoãn, đình chỉ hoặc tiếp tục…. thi
hành án nếu không có đủ căn cứ pháp lý. Cơ quan THADS chỉ thực hiện việc
tạm hoãn, đình chỉ hoặc tiếp tục thi hành án nếu có Quyết định THA của
người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, về vai trò và trách nhiệm cá nhân. Mọi hoạt động của cơ quan
THADS đều thông qua vai trò hoạt động của những cá nhân những người
được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án
và các quyết định khác theo quy định của pháp luật. Đồng thời, khi thực hiện
phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật
bảo vệ. Tại điều 20 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy
định nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên:
“1. Kịp thời tổ chức thi hành nhiệm vụ được phân công, ra các quyết
định về thi hành án theo thẩm quyền.
2. Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy
định pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, đảm bảo lợi ích của nhà nước,
quyền, lọi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp chấp hành viên.
3. Triệu tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải
quyết việc thi hành án.
18. 13
4. Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án;
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh
địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên
quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác có liên quan đến thi hành án.
5. Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp
cưỡng chế thi hành án, lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản
thi hành án.
6. Yêu cầu cơ quan công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án
theo quy định của pháp luật.
7. Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt vi
phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ
luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người vi phạm.
8. Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã
chi trả cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án
và các khoản phải nộp khác.
9. Được sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy
định của Chính phủ.
10. Thực hiện nhiệm vụ khác theo sự phân công của Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự.
Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Chấp hành viên phải tuân
theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được
pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh sự, nhân phẩm và uy tín.”
Những hoạt động trên đây mang đặc trưng của hoạt động tư pháp chứ không
phải là đặc trưng của hoạt động hành chính.
Thứ ba, về chức năng, nhiệm vụ chủ yếu. Cơ quan THADS có nhiệm
vụ, chức năng chủ yếu là đảm bảo cho các bản án, quyết định của Tòa án và
các quyết định khác đã có hiệu lực pháp luật được thi hành trên thực tế theo
19. 14
quy định của pháp luật. Nói cách khác, chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của
cơ quan thi hành án là đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả các chức năng
tư pháp. Như vậy, hoạt động chính của cơ quan thi hành án cũng giống như
hoạt động chính của các cơ quan lập pháp hay tư pháp khác như Quốc hội, Ủy
ban thường vụ quốc hội, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân.
Thứ tư, về chủ thể quản lý. Chủ thể quản lý trực tiếp cơ quan THADS
là Bộ Tư pháp - cơ quan hành chính. Tuy nhiên, về mặt bản chất, hoạt động
của cơ quan bị quản lý không hoàn toàn phụ thuộc vào cơ quan chủ quản trực
tiếp mà phụ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của chính cơ quan đó.
Thứ năm, về chức năng trong hoạt động tư pháp. Quyền lực của nhà
nước về mặt bản chất bao gồm ba quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp. Ba nhánh quyền lực này được giao cho các cơ quan nhà nước
khác nhau, hoạt động theo cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau.
Đây là nguyên tắc Hiến định. Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định:
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”. Ngoài các cơ quan đó còn có các cơ quan được lập ra để hỗ
trợ (cơ quan bổ trợ) nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan được giao chức năng
chính có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong nhánh quyền lực tư
pháp thì tòa án là trung tâm của hoạt động tư pháp. Các cơ quan điều tra, truy
tố, thi hành án đều là các cơ quan bổ trợ cho hoạt động chính của ngành – cơ
quan chính là Tòa án. Đó chỉ là các cơ quan thực hiện, một quy trình để cơ
quan xét xử hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình là chức năng xét
xử, đảm bảo các quyết định, bản án được tuyên đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Do đó, có thể khẳng định rằng hoạt động THADS là hoạt động tư
pháp (cơ quan bổ trợ) nhằm đảm bảo cho các bản án, quyết định của tòa án,
các quyết định khác có hiệu lực pháp luật được thi hành trên thực tế.
20. 15
Cuối cùng là về điều kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
cá nhân, tổ chức, nhà nước. Thật sai lầm khi khẳng định rằng phán quyết của
Tòa án là khâu cuối cùng của hoạt động tư pháp. Một bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật chỉ có thể thực thi trên thực tế thông quan hoạt động của cơ
quan THA. Hay nói cách khác, bản án và quyết định có hiệu lực của Tòa án
chỉ là điều kiện cần, quyền là lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, nhà
nước có được bảo đảm, bảo vệ hay không phải dựa trên điều kiện đủ là bản
án, quyết định đó phải được cơ quan THA tổ chức thi hành trên thực tế.
Từ những lý do trên đây, tác giả đưa đến khẳng định rằng: Hoạt động
THADS là hoạt động Hành chính - tư pháp.
Vấn đề thứ hai là vấn đề khái niệm dân sự trong khái niệm thi hành án
dân sự. Vấn đề này hiện đang có hai cách hiểu khác nhau. Cách hiểu thứ nhất
dựa trên quan niệm về dân sự theo nghĩa hẹp. Cơ sở pháp lý của quan điểm
này dựa trên quy định của Bộ luật Dân sự. Theo đó, quan hệ dân sự bao gồm
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, nhân thân và tài sản trong quan hệ dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Khái niệm dân sự
trong THADS đương nhiên chỉ bao gồm những việc, vụ việc liên quan đến
quan hệ tài sản và nhân thân (phi tài sản). Cách hiểu thứ hai là quan niệm về
dân sự theo nghĩa rộng. Theo đó, việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định
có nguồn gốc pháp luật về nội dung là luật tư (luật dân sự, kinh doanh, thương
mại, lao động) được thực hiện theo thủ tục chung chứ không có sự tách bạch
căn bản việc thi hành án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thưong
mại, lao động. Quan điểm của tác giả là khái niệm dân sự trong THADS được
hiểu theo nghĩa rộng. Điều này phù hợp với pháp luật của phần lớn các quốc
gia trên thế giới.
Nói tóm lại, từ sự phân tích ở trên ta có thể đưa ra khái niệm THADS
như sau: THADS là hoạt động do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến
hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để đưa bản án, quyết định
21. 16
dân sự của tòa án, trọng tài hoặc quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh đã có hiệu lực pháp luật, hoặc chưa có hiệu lực
pháp luật được đưa ra thi hành ngay trên thực tế, nhằm đảm bảo lợi ích của
nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, bảo vệ trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Đặc điểm của thi hành án dân sự
Một là, quan hệ pháp luật thi hành án dân sự chỉ phát sinh trên cơ sở
các bản án, quyết định của tòa án và các quyết định khác theo quy định của
pháp luật giải quyết các tranh chấp về dân sự như hôn nhân và gia đình, kinh
tế, lao động, phá sản doanh nghiệp, hành chính.
Hai là, chỉ có chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự mới có
thẩm quyền thi hành án dân sự. Đây là đặc trưng thể hiện tính chuyên trách
của cơ quan thi hành án dân sự nhân danh nhà nước, thực hiện trách nhiệm
của nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức và chính nhà nước. Do đặc thù của hoạt động thi hành án dân sự là lĩnh
vực khó khăn, phức tạp, trực tiếp động chạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
về tài sản, nhân thân của các bên đương sự và người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan nên quá trình thi hành án dân sự phải được tiến hành theo một trình
tự, thủ tục chặt chẽ và chỉ có cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên
mới có thẩm quyền thực hiện điều này. Để thực hiện được các quyền này,
pháp luật đã quy định cho chấp hành viên những quyền hạn, trách nhiệm rất
cụ thể và sử dụng tùy từng trường hợp cụ thể. Cụ thể, trong trường hợp sau
khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, hai bên đương sự tự nguyện thỏa
thuận với nhau về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ theo bản án thì chấp hành
viên đóng vai trò là người xác nhận tính hợp pháp của thỏa thuận đó đồng
thời tiến hành thực hiện các thủ tục khác theo luật định. Trong trường hợp,
một trong các bên hoặc cả hai bên cố tình chây ỳ, không thực hiện theo nội
dung phán quyết của tòa án sau khi được các chấp hành viên, cơ quan thi
22. 17
hành án vận động, giáo dục thuyết phục thì chấp hành viên phải áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án (có tổ chức huy động lực lượng hoặc không tổ
chức huy động lực lượng) buộc bên có nghĩa vụ thi hành án phải thực hiện
nghĩa vụ của mình theo đúng quyết định bản án.
Ba là, thi hành án dân sự tôn trọng sự thỏa thuận và quyền tự định đoạt
của đương sự. Do đặc trưng của thi hành án dân sự chủ yếu là thi hành các
bản án, quyết định liên quan đến tài sản – đặc trưng của quan hệ dân sự. Sau
khi bản án, quyết định có hiệu lực, các bên vẫn có quyền tiếp tục thể hiện ý
chí của mình về việc thi hành án. Vì vậy, nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận
của các đương sự và quyền tự định đoạt của đương sự luôn được tôn trọng
trong quá trình thi hành án. Đây là điểm khác biệt căn bản giữa thi hành án
dân sự với thi hành án hình sự. Trong hoạt động thi hành án hình sự, khi bản
án hình sự có hiệu lực, cơ quan thi hành án hình sự tổ chức thi hành theo
nguyên tắc mệnh lệnh, phục tùng bắt buộc người phải thi hành án thực hiện,
không phụ thuộc vào ý chí của người phải thi hành án và cũng không có sự
thỏa thuận giữa các bên về việc thi hành án.
Xuất phát từ nguyên tắc này trong thi hành án dân sự mà các bên có
quyền thỏa thuận về thời gian, địa điểm, phương thức thi hành án nếu thỏa
thuận đó không trái pháp luật và trái đạo đức xã hội và cơ quan thi hành án
dân sự có thể lựa chọn phương thức phù hợp để tổ chức thi hành án một cách
nhanh chóng, hiệu quả trên cơ sở sự thỏa thuận của các đương sự mà không
nhất thiết phải đúng như nội dung phán quyết của tòa án.
Thứ tư, hoạt động thi hành án dân sự có sự tham gia của nhiều chủ thể
như: người phải thi hành án, người được thi hành án, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, ủy ban nhân dân các cấp, công an nhân dân các cấp, thừa
phát lại, các cơ quan, tổ chức có liên quan khác nhưng nhân tố quan trọng vẫn
là chấp hành viên và thủ tưởng cơ quan thi hành án. Mặt khác, những quyết
23. 18
định của cơ quan thi hành án, chấp hành viên đều mang tính bắt buộc thi hành
đối với các cá nhân, tổ chức có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Từ sự phân tích trên đây có thể đưa ra khái niệm về THADS như sau:
THADS là hoạt động hành chính – tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có
thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để đưa bản
án, quyết định dân sự của Tòa án, trọng tài hoặc quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh đã có hiệu lực pháp luật hoặc
chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được ngay trên thực tế, nhằm đảm bảo lợi
ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ
trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Đặc điểm thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
Trên cơ sở khái niệm về thi hành án dân sự, thi hành án dân sự đối với
doanh nghiệp được hiểu là hoạt động thi hành án nhằm mục đích buộc doanh
nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định của trọng tài hoặc
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh đã
có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành
ngay.
Xuất phát từ khái niệm về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là
người phải thi hành án nhận thấy rằng thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp là người phải thi hành án vừa có những đặc điểm chung của thi hoạt
động thi hành án dân sự vừa có đặc điểm riêng, cụ thể như sau:
Một là về đối tượng phải thi hành án. Đối tượng phải thi hành án trong
Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là doanh nghiệp- một pháp nhân
được tổ chức hòa hoạt động theo pháp luật Việt Nam. Doanh nghiệp có tên
riêng, có trụ sở riêng, con dấu riêng, tài sản riêng. Theo quy định Luật Doanh
nghiệp năm 2014, hiện tại ở nước ta có 5 loại hình doanh nghiệp là công ty
TNHH một thành viên, công ty TNHH hai thành viên trở nên, công ty cổ
phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
24. 19
Vì doanh nghiệp là một pháp nhân nên tại Điều 13 Luật doanh nghiệp
năm 2014 quy định rất cụ thể chi tiết về người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp. Theo đó, đại diện cho doanh nghiệp có thể là đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp (Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc) hoặc đại diện
theo ủy quyền. Người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền khi
đại diện cho doanh nghiệp đều phải tuân theo những tiêu chuẩn và trách
nhiệm được quy định cụ thể từ Điều 13 đến Điều 16 của Luật này.
Hai là về cơ sở pháp lý. Cơ sở pháp lý cho hoạt động thi hành án dân
sự đối với doanh nghiệp là một bản án, quyết định của tòa án hoặc cơ quan có
thẩm quyền theo luật định có hiệu lực pháp luật đã tuyên buộc doanh nghiệp
phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất định (chủ yếu là về nghĩa vụ tài sản) hoặc
nghĩa vụ thực hiện một số hành vi nhất định như buộc doanh nghiệp phải trả
lương và trợ cấp thôi việc, buộc doanh nghiệp nhận người lao động trở lại làm
việc hoặc quyết định về việc áp dụng một số biện pháp khẩn cấp kịp thời như:
cấm chuyển quyền sở hữu tài sản, cấm dịch chuyển tài sản, cấm xuất nhập
cảnh…
Ba là về quá trình tổ chức thực hiện hoạt động thi hành án. Doanh
nghiệp là một pháp nhân có nhiều loại hình tồn tại và hoạt động của doanh
nghiệp liên quan đến rất nhiều các lĩnh vực khác nhau do vậy chịu sự điều
chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau như luật Dân sự, luật Tố tụng dân sự,
Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Thuế…. Vì thế quá trình tổ chức
thực hiện hoạt động thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp luôn mang tính
phức tạp và có ảnh hưởng sâu rộng đối với đời sống xã hội. Từ đó đòi hỏi thủ
trưởng các cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên thi hành án dân sự,
thừa phát lại, các cán bộ công chức ngành thi hành án ngoài việc am hiểu
tường tận pháp luật thi hành án còn phải tìm hiểu chuyên sâu các lĩnh vực liên
quan đến doanh nghiệp như: Bộ Luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Phá
sản, Luật Thương mại, Luật Thuế…. Sự hiểu biết của các chủ thể càng tường
25. 20
tận, càng sâu rộng bao nhiêu thì kết quả thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp càng cao, năng lực và uy tín của ngành thi hành án dân sự càng được
khẳng định bấy nhiêu.
Bốn là về giá trị thi hành án. Do đặc điểm của doanh nghiệp là có vốn
lớn, lợi nhuận cao luôn đi với rủi ro lớn nên hoạt động thi hành án dân sự đối
với doanh nghiệp luôn khó khăn và phức tạp hơn cả. Thực tế cho số lượng
không cao (chỉ khoảng từ 2 đến 10%) nhưng số lượng về tiền đối với doanh
nghiệp là người phải thi hành án luôn lại rất lớn (có thể lên đến 95% tỷ lệ về
số tiền phải thi hành án). Do vậy hoạt động thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc hoàn thành các chỉ tiêu công
tác năm (đặc biệt về số lượng tiền) của cơ quan thi hành án cả nước nói chung
và các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng nói riêng.
1.1.3. Ý nghĩa của việc thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
Qua sự phân tích trên có thể thấy rằng, hoạt động thi hành án dân sự
đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án có ý nghĩa, vai trò vô cùng
quan trọng, thể hiện như sau:
Thứ nhất, hoạt động THADS đối với doanh nghiệp là người phải thi
hành án góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các tổ chức
và cá nhân. Hoạt động thi hành án dân sự là một quá trình có mục đích nhằm
làm cho các bản án, quyết định của TAND và các quyết định khác theo quy
định của pháp luật đã có hiệu lực pháp luật được thực thi trên thực tế. Do đó,
mọi hành vi dẫn đến việc doanh nghiệp có nghĩa vụ thi hành án mà không thi
hành hoặc thi hành án chậm hoặc thi hành không đúng với nội dung của bản
án, quyết định hay thỏa thuận khác của các bên, về thực chất đều đã và đang
xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của các tổ chức, cá nhân. Vì thế, việc thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật
THADS đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án không chỉ đảm bảo
tính nghiêm minh của pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa mà còn đảm bảo
26. 21
lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.
Điều này chỉ có thể đạt được khi toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống
cơ quan thi hành án dân sự từ trung ương xuống địa phương phải hoạt động
nhịp nhàng, thống nhất, linh hoạt và đúng pháp luật.
Mặt khác, hoạt động thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp không chỉ
bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của doanh nghiệp với tư cách là người phải
thi hành án mà còn bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của doanh nghiệp với tư
cách là người được thi hành án, doanh nghiệp với tư cách là người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án. Do vậy, khi tiến hành hoạt
động thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, thủ trưởng cơ quan thi hành
án, chấp hành viên, người được thi hành án, người phải thi hành án, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật nói chung
và pháp luật thi hành án dân sự nói riêng để đảm bảo quyền và lợi ích chính
đáng của bản thân cũng như mọi chủ thể khác trong xã hội. Có như vậy pháp
luật mới thật sự nghiêm minh, công bằng và đi vào đời sống bởi suy cho
cùng pháp luật chính là tự do của người này nằm trong khuôn khổ tự do của
người khác.
Thứ hai, hoạt động THADS đối với doanh nghiệp sẽ góp phần đảm bảo
cho các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp
luật nhưng được thi hành ngay một phần được thi hành trên thực tế, đảm bảo
lập lại trật tự pháp luật, khôi phục các mối quan hệ xã hội bị xâm hại. Một bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật nếu không được thi hành trên thực tế thì
toàn bộ kết quả của quá trình tố tụng trước đó trở thành vô nghĩa; kỷ cương,
phép nước bị xâm hại, trật tự xã hội bị đảo lộn. Ngược lại, nếu bản án và
quyết định có hiệu lực pháp luật được thi hành hiệu quả, kịp thời và đúng
pháp luật trên thực tế sẽ góp phần khẳng định kết quả của hoạt động tư pháp,
lập lại trật tự pháp luật, từ đó góp phần nâng cao ý thức thực hiện và tuân thủ
27. 22
pháp luật của người dân, góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội và ổn định
nền kinh tế đất nước.
Thứ ba hoạt động THADS đối với doanh nghiệp sẽ góp phần đẩy
mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, hội
nhập kinh tế quốc tế và việc Việt Nam gia nhập các tổ chức thương mại quốc
tế như ASEAN, WTO, TTP… sẽ dẫn đến việc ngày càng nhiều các doanh
nghiệp nước ngoài, các tổ chức kinh tế (cả tổ chức của chính phủ lẫn phi
chính phủ) vào đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Đây vừa là cơ hội vừa là
thách thức đối với nhà nước, các tổ chức (đặc biệt là doanh nghiệp) và mọi cá
nhân. Việc hoạt động THADS đối với doanh nghiệp hiệu quả, kịp thời, đúng
pháp luật sẽ góp phần tạo dựng một môi trường kinh doanh thật sự bình đẳng,
lành mạnh; bảo vệ các quan hệ kinh tế, dân sự, thương mại bị xâm hại, tạo
niềm tin và thúc đẩy hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Đây là yêu
cầu, là mục tiêu quan trọng của hoạt động thi hành án dân sự nói riêng và hoạt
động tư pháp nói chung. Mỗi cán bộ, công chức ngành thi hành án cũng như
cán bộ công chức nhà nước phải luôn trau dồi đạo đức, nâng cao năng lực
chuyên môn, chất lượng phục vụ để góp phần tạo nên một “sân chơi” bình
đẳng, lành mạnh cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước đã và đang hoạt
động trên lãnh thổ Việt Nam.
Thứ tư, hoạt động THADS đối với doanh nghiệp góp phần thể hiện bản
chất nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực thi
hành án dân sự.
Trong điều kiện quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp luật như hiện
nay, hoạt động thực hiện pháp luật nói chung và hoạt động thi hành án dân sự
đối với doanh nghiệp nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Theo đó, các
cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ và trách nhiệm thi hành
nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật cũng như các quy định của pháp luật
28. 23
thi hành án dân sự góp phần đảm bảo bản chất của nhà nước ta là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hoạt
động thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp không chỉ là hoạt động riêng
của cơ quan thi hành án mà còn là sự phối kết hợp của nhiều cơ quan, ban
ngành có liên quan, sự tuân thủ pháp luật của các tổ chức, cá nhân. Do vậy
hoạt động thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp có hiệu quả sẽ góp phần
nâng cao ý thức pháp luật của người dân; xây dựng một môi trường kinh
doanh thật sự bình đẳng để mọi tổ chức, cá nhân phát huy sở trường, tăng
thêm thu nhập hợp pháp và nâng cao chất lượng hội nhập kinh tế thế giới.
Mặt khác, hiệu quả hoạt động THADS còn góp phần tằng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa – một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tại Điều 106 Hiến pháp 2013
quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải
được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan
hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” [30, tr.135]. Tại Điều 4 Luật Thi
hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 cũng quy định: “ Bản án, quyết
định quy định tại Điều 2 của Luật này phải được cơ quan, tổ chức và mọi
công dân tôn trọng” [42, tr 5]. Qua đó có thể thấy hoạt động THADS nói
chung và THADS đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án nói riêng
một cách hiệu quả không những đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật mà
còn tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về thi hành án dân sự đối với
doanh nghiệp
1.2.1. Thẩm quyền và nội dung thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
Về thẩm quyền thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
Tại Điều 35 của Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định:
1. Chi cục THADS có thẩm quyền thi hành các bản án, quyết định đối
với doanh nghiệp là người phải thi hành án sau đây:
29. 24
a) Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp huyện, nơi Chi cục
THADS có trụ sở;
b) Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án cấp tình đối với bản án,
quyết định sơ thẩm của tòa án cấp huyện nơi Chi cục THADS có trụ sở;
c) Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối
với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương nơi cơ quan thi hành án
dân sự có trụ sở.
2. Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có thẩm quyền thi hành các bản
án, quyết định sau đây:
a) Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương trên cùng địa bàn;
b) Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp cao;
c) Quyết định của Tòa án nhân dân tối cao chuyển giao cho cơ quan thi
hành án dân sự cấp tỉnh;
d) Bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài
nước ngoài được Tòa án công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
đ) Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại;
e) Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh;
g) Bản án, quyết định do cơ quan thi hành án dân sự nơi khác hoặc cơ
quan thi hành án cấp quân khu ủy thác;
h) Bản án, quyết định thuộc thẩm quyền thi hành của cơ quan thi hành
án dân sự cấp huyện quy định tại khoản 1 Điều này mà thấy cần thiết lấy lên
để thi hành;
i) Bản án, quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà có đương sự
hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp về thi hành án.”
30. 25
Ngoài ra, tại Điều 34 Nghị định 61/2009/NĐ-CP thì Thừa phát lại được
trực tiếp tổ chức thi hành theo đơn yêu cầu của đương sự đối với các bản án,
quết định:
1. Thừa phát lại được quyền trực tiếp tổ chức thi hành theo đơn yêu cầu
của đương sự đối với các bản án, quyết định:
a) Bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực của tòa án cấp huyện nơi
Thừa phát lại đặt văn phòng;
b) Bản án, quyết định phúc thẩm của tòa án cấp tỉnh đối với bản án,
quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp huyện nơi thừa phát lại đặt văn phòng;
c) Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của tòa án cấp tỉnh đối với bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án cấp huyện nơi thừa phát lại
đặt văn phòng.
2. Thừa phát lại có thể tổ chức thi hành các quy định tại Khoản 1 Điều
này ngoài địa bàn quận, huyện nơi đặt văn phòng thừa phát lại nếu đương sự
có tài sản, cư trú hay có các điều kiện khác ngoài quận, huyện nơi đặt văn
phòng thừa phát lại.
Về nội dung của thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
Từ khái niệm về thi hành án dân sự, thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp có thể thấy rằng nội dung của thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
là việc thi hành toàn bộ hoặc một phần các bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật hoặc một phần các bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng
được thi hành ngay theo quy định của pháp luật dân sự, hành chính, lao động,
thương mại, kinh doanh, quyết định tuyên bố phá sản của doanh nghiệp mà có
đối tượng - bên phải thi hành án là doanh nghiệp. Nội dung thi hành án dân sự
31. 26
đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án bao gồm hai loại là thi hành án
chủ động và thi hành án theo đơn.
Nội dung của thi hành án dân sự chủ động đối với doanh nghiệp là
người phải thi hành án bao gồm các quyết định sau:
- Bị phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lời bất chính, án phí, lệ phí;
- Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản;
- Trả lại tiền, tài sản cho doanh nghiệp;
- Thu hồi sung quỹ nhà nước quyền sử dụng đất và các tài sản gắn
liền với đất;
- Quyết định của Tòa án về giải quyết thủ tục phá sản;
- Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với doanh
nghiệp.
Nội dung của thi hành án dân sự theo đơn yêu cầu đối với doanh nghiệp
là người phải thi hành án thì tùy từng trường hợp cụ thể có thể bao gồm:
- Ra quyết định thi hành án theo quy định tại các điều 377; 383 Bộ
Luật Tố
tụng dân sự; điều 7; 29;30; 35; 36 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014;
- Xác minh điều kiện thi hành án dân sự;
- Ra quyết định hoãn thi hành án dân sự;
- Ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ thi hành án;
- Ra quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án;
- Quyết định khôi phục thời hiệu thi hành án;
- Ra quyết định kê biên, cưỡng chế thi hành án;
- Ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự, nơi doanh
nghiệp là người phải thi hành án có trụ sở hoặc tài sản để đảm bảo thi hành
án;
- Ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản theo quy định của
Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 và Luật phá sản;
32. 27
- Thanh toán tiền thi hành án cho người được thi hành án.
1.2.2. Phương thức và thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp
Nguyên tắc tự nguyện là nguyên tắc tối quan trọng trong xác lập và vận
hành các quan hệ dân sự. Do vậy trong hoạt động thi hành án dân sự đối với
doanh nghiệp, phương thức tự nguyện luôn được ưu tiên thực hiện. Trong
trường hợp doanh nghiệp là người phải thi hành án không tự nguyện thi hành
theo nội dung của bản án, quyết định thì thủ trưởng cơ quan thi hành án, chấp
hành viên sau khi đã tiến hành các thủ tục theo luật định sẽ tiến hành phương
thức thứ hai là phương thức cưỡng chế thi hành án. Các phương thức này đã
được quy định cụ thể hóa trong Luật Thi hành án dân sự hiện hành, cụ thể tại
Điều 9; Điều 45 và Điều 46:
Điều 45 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014 quy định:
“1. Thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải
thi hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc thông báo hợp lệ quyết
định thi hành án.
2. Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu
tán, hủy hoại tài sản hoặc hành vi khác nhằm trốn tránh việc thi hành án thì
Chấp hành viên áp dụng ngay biện pháp quy định tại Chương IV của Luật
này.”
Ngoài ra, trên cơ sở nguyên tắc thỏa thuận, doanh nghiệp là người phải
thi hành án cũng có thể tự nguyện thi hành án trong bất kỳ giai đoạn nào của
quá trình thi hành án, tùy thuộc vào thỏa thuận riêng bằng văn bản giữa người
phải thi hành án và người được thi hành dưới sự chứng kiến của chấp hành
viên.
Điều 46 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014 quy định:
33. 28
“ 1. Hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, Người
phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì
bị cưỡng chế.
2. Không tổ chức cưỡng chế thi hành án trong thời gian từ 22 giờ đến
06 giờ sáng ngày hôm sau. Các ngày nghỉ, ngày kễ theo quy định của pháp
luật và các trường hợp đặc biệt khác do Chính Phủ quy định.”
Như đã phân tích ở trên, hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động hành
chính – tư pháp. Do vậy, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là thủ
tục hành chính tư pháp đặc biệt. Trên cơ sở đó pháp luật thi hành án dân sự đã
có những quy định rất chặt chẽ về trình tự, thủ tục thi hành án nói chung và đối
với doanh người phải thi hành án nói riêng. Tại khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành
án dân sự hiện hành quy định: Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm
quyền chủ động ra quyết định thi hành án và phân công chấp hành viên tổ chức
thi hành đối với phần bản án, quyết định mà doanh nghiệp là người phải thi
hành án thuộc một trong số các trường hợp sau:
a) Doanh nghiệp bị phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lời bất chính, án
phí, lệ phí Tòa án;
b) Doanh nghiệp bị tịch thu sung quỹ Nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật
chứng, tài sản; các khoản thu khác cho Nhà nước;
c) Doanh nghiệp bị thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc
diện sung quỹ Nhà nước;
d) Doanh nghiệp bị áp dụng biện pháp khẩn cấp kịp thời;
e) Doanh nghiệp bị Tòa án tuyên bố phá sản.
Ngoài ra, đối với các trường hợp theo đơn thì tùy từng trường hợp cụ
thể mà thủ trưởng cơ quan thi hành án hoặc thừa phát lại khi nhận được đơn
yêu cầu thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án
theo nội dung đơn yêu cầu thi hành án.
34. 29
1.2.3. Tổ chức thi hành quyết định thi hành án đối với doanh nghiệp
1.2.3.1 Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp
Tại khoản 3 Điều 66 Luật THADS hiện hành đã quy định các biện pháp
bảo đảm thi hành án bao gồm: phong tỏa tài khoản; tạm giữ tài sản, giấy tờ và
tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản, cụ thể:
Biện pháp phong tỏa tài khoản
Căn cứ khoản 1 Điều 66, Điều 67 Luật THADS hiện hành và Điều 11
Nghị định số 58/2009/NĐ-CP quy định “Quyết định phong tỏa tài khoản phải
xác định số tiền bị phong tỏa”. Điều này có nghĩa là, để xác định số tiền bị
phong tỏa được chính xác, chấp hành viên cần phải tiến hành các hoạt động
thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án tại ngân hàng, tổ
chức tín dụng, kho bạc nhà nước.
Việc thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án có thể
do người yêu cầu áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản thực hiện hoặc cũng
có thể chấp hành viên thực hiện. Thông tin về tài khoản của người phải thi
hành án có rất nhiều nguồn khác nhau. Việc xác định người đó có tài khoản
hay không có thể căn cứ vào một trong những yếu tố như: lĩnh vực, ngành
nghề hoạt động của người phải thi hành án, các hợp đồng của người phải thi
hành án với các đối tác, đăng ký kinh doanh… Chấp hành viên cũng có thể
thông qua việc phân tích, nghiên cứu bản án, nhất là các bản án kinh doanh
thương mại hoặc thông qua người được thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ
liên quan. Thực tế, trong thời gian qua, đã xảy ra trường hợp chấp hành viên
do thiếu thông tin hoặc thông tin không chính xác, đầy đủ, đã vội vàng ra
quyết định phong tỏa tài khoản không đúng đối tượng, dẫn đến việc người
phải thi hành án có cơ hội đã rút hết tiền trong tài khoản của mình.
35. 30
Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự
Căn cứ khoản 1 Điều 68 Luật Thi hành án dân sự và Điều 8 Nghị định
số 58/2009/NĐ-CP: chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có
quyền tạm giữ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ để tạm giữ tài
sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử dụng. Các tài sản, giấy tờ tạm giữ
là các tài sản, giấy tờ có liên quan đến việc thi hành án như: giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hoặc các tài sản có thể xử lý được để thi hành án. Trong
trường hợp cần thiết, chấp hành viên có thể yêu cầu lực lượng cảnh sát hoặc tổ
chức, cá nhân khác hỗ trợ việc tạm giữ giấy tờ, tài sản của người phải thi hành
án. Như vậy, khi áp dụng biện pháp này, chấp hành viên không phải xác minh,
mà nghĩa vụ chứng minh thuộc về doanh nghiệp là người phải thi hành án.
Trường hợp có căn cứ xác định tài sản, giấy tờ không thuộc quyền sở
hữu hoặc sử dụng của doanh nghiệp hoặc thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng
của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp đã thực hiện xong nghĩa vụ của mình
thì chấp hành viên phải ra quyết định trả lại tài sản, giấy tờ cho doanh nghiệp
Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng,
thay đổi hiện trạng tài sản
Căn cứ Điều 69 Luật Thi hành án dân sự, chấp hành viên khi tổ chức
thi hành án xét thấy cần ngăn chặn hoặc phát hiện doanh nghiệp có hành vi
chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản,
trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Tài sản bị tạm dừng việc đăng ký, chuyển
quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản thuộc quyền sở hữu, sử
dụng của người phải thi hành án.
Hiện nay, có rất nhiều tài sản, quyền tài sản của doanh nghiệp mà việc
chuyển dịch quyền sở hữu, sử dụng phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền như: vốn góp của tổ chức, cá nhân tại doanh nghiệp, quyền sử
36. 31
dụng đất, phương tiện xe cơ giới ... Đối với những tài sản này, để thực hiện
mua bán, chuyển nhượng, các bên tham gia quan hệ mua bán, chuyển nhượng
phải thực hiện thông qua việc đăng ký tại phòng đăng ký kinh doanh, văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất và sở hữu nhà… Quyền sở hữu, sử dụng
của bên mua, bên nhận chuyển nhượng chỉ được xác lập khi được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi
hiện trạng tài sản nhằm duy trì điều kiện thi hành án của doanh nghiệp phải
thi hành án.
Trong vòng 10 ngày, kể từ ngày có căn cứ xác định tài sản thuộc quyền
sở hữu hoặc sử dụng của doanh nghiệp hoặc ngay khi có căn cứ doanh nghiệp
có hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện
trạng tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án chấp hành viên phải ra ngay
quyết định về việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi
hiện trạng tài sản đảm bảo thi hành án.
1.2.3.2. Các biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với doanh nghiệp
Cưỡng chế thi hành án dân sự đây là một biện pháp nghiêm khắc được
chấp hành viên áp dụng trong quá trình tổ chức thi hành án, thể hiện việc cơ
quan thi hành án sử dụng quyền lực nhà nước để buộc người phải thi hành án
thi hành nghĩa vụ mà bản án, quyết định đã tuyên.
Cưỡng chế thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là biện pháp cưỡng
bức bắt buộc của cơ quan thi hành án do chấp hành viên quyết định theo thẩm
quyền quy định nhằm buộc doanh nghiệp là người phải thi hành án phải thực
hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của Tòa
án, được áp dụng trong trường hợp người doanh nghiệp có điều kiện thi hành
án mà không tự nguyện thi hành trong thời hạn do chấp hành viên ấn định,
hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tầu tán, hủy hoại
tài sản.
37. 32
Tuy nhiên, chấp hành viên, thừa phát lại trong quá trình tổ chức thi
hành án đối không được áp dụng một cách tùy tiện mà phải tuân thủ những
nguyên tắc sau:
Thứ nhất, về các biện pháp cưỡng chế. Chỉ được áp dụng các biện pháp
cưỡng chế đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án trong các trường hợp
theo quy định tại Điều 71 Luật Thi hành án dân sự năm 2014, cụ thể như sau:
a) Cưỡng chế thi hành đối với tài sản là tiền của doanh nghiệp phải thi
hành án. Tùy từng trường hợp cụ thể mà chấp hành viên, thừa phát lại được
quyền áp dụng một trong các hình thức sau:
- Thu tiền từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải thi hành án;
- Khấu trừ tiền trong tài khoản;
- Thu tiền đang giữ của doanh nghiệp phải thi hành án;
- Thu tiền của doanh nghiệp phait thi hành án nhưng đang do người thứ
3 nắm giữ.
b) Cưỡng chế thi hành án đối với tài sản là vật thuộc sở hữu của doanh
nghiệp phải thi hành án theo quy định tại Mục 6 (từ Điều 87 đến Điều 106)
Luật Thi hành án dân sự. Chấp hành viên, thừa phát lại tùy vào từng trường
hợp và đối tượng cụ thể được quyền áp dụng một số trường hợp sau:
- Kê biên tài sản là bất động sản (Điều 89);
- Kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp (Điều 90);
- Kê biên tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ
(Điều 91);
- Kê biên vốn góp (Điều 92);
- Kê biên đồ vật bị khóa, đóng gói (Điều 93);
- Kê biên tài sản gắn liền với đất (Điều 94);
- Kê biên nhà ở (Điều 95);
- Kê biên phương tiện giao thông (Điều 96);
- Kê biên hoa lợi (Điều 97).
38. 33
c) Cưỡng chế thi hành án đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ đối với
doanh nghiệp là Người phải thi hành án bao gồm:
- Kê biên, sử dụng, khai thác quyền sở hữu trí tuệ (Điều 84)
- Định giá và bán đấu giá quyền sở hữu trí tuệ (Điều 85;86).
d) Cưỡng chế thi hành án đối với tài sản là giấy tờ có giá của doanh
nghiệp phải thi hành án bao gồm:
- Thu giữ giấy tờ có giá (Điều 82);
- Bán giấy tờ có giá (Điều 83).
e) Cưỡng chế khai thác đối với tài sản của doanh nghiệp phải thi hành
án (Mục 7).
f) Cưỡng chế đối với tài sản là quyền sử dụng đất của doanh nghiệp
phải thi hành án (Mục 8).
g) Cưỡng chế trả vật, giấy tờ, chuyển quyền sử dụng đất của doanh
nghiệp là người phải thi hành án (Mục 9).
h) Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ thực hiện hoặc không thực hiện công
việc nhất định đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án (Mục 10).
Thứ hai, trường hợp cưỡng chế cần huy động lực lượng thì chấp hành
viên phải lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án với các nội dung theo khoản 2
Điều 72 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.
39. 34
Kết luận Chương 1
1. Tại Điều 106 Hiến pháp 2013 đã quy định “Bản án, quyết định của
Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân
tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan hữu quan phải nghiêm chỉnh
chấp hành”. Để tổ chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
của các cơ quan có thẩm quyền, pháp luật đã quy định cụ thể về thẩm quyền,
chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan thi hành án, chấp hành viên, thừa phát
lại, các cơ quan, tổ chức hữu quan…. cũng như trình tự, thủ tục thi hành án
dân sự.
2. Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án là
hoạt động thi hành án nhằm mục đích buộc doanh nghiệp phải thi hành án
thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật hoặc một
phần bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng phải cho thi hành
ngay.
Như vậy cơ sở của THADS đối với doanh nghiệp là các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật hoặc một phần bản án, quyết định chưa có hiệu
lực pháp luật nhưng phải cho thi hành ngay và đối tượng thi hành án là doanh
nghiệp – một pháp nhân được thành lập, tổ chức và hoạt động theo pháp luật
Việt Nam. Vì thế, hoạt động THADS đối với doanh nghiệp mang tính phức
tạp, liên quan và chịu sự điều chỉnh không chỉ của pháp luật thi hành án dân
sự mà còn nhiều lĩnh vực khác nhau như Luật Doanh nghiệp, Luật Thương
mại, Luật Thuế, Luật Tài chính, Luật Tín dụng ngân hàng….
Hoạt động THADS đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án có ý
nghĩa vô cùng quan trọng, vừa góp phần bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng,
hợp pháp của cá nhân, tổ chức, nhà nước vừa tạo ra môi trường kinh doanh
bình đẳng, lành mạnh, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh hội
nhập quốc tế.
40. 35
3. Pháp luật về thi hành án dân sự nói chung và thi hành án dân sự đối
với doanh nghiệp nói riêng đã có những quy định tương đối rõ ràng, đầy đủ
về thẩm quyền, trình tự, thủ tục …. Góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
của hoạt động thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động
thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp vốn rất phức tạp lại chịu ảnh hưởng
của rất nhiều chủ quan và khách quan khác nhau, trong đó yếu tố khách quan
góp phần không nhỏ. Vì vậy, để hoạt động thi hành án dân sự nói chung và
hoạt động thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên thực tiễn có hiệu quả
đòi hỏi cơ quan thi hành án, chấp hành viên, người được thi hành án, người
phải thi hành án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, các cơ quan hữu
quan và mọi tổ chức, cá nhân phải nhận thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm của
mình, từ đó chủ động, tích cực thực hiện pháp luật thi hành án dân sự, góp
phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công dân, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
41. 36
Chương 2
THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
2.1. Tình hình thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên địa
bàn thành phố Hải Phòng
2.1.1 Tình hình chung
Hải Phòng là thành phố ven biển, nằm ở phía Đông miền duyên hải Bắc
Bộ, cách thủ đô Hà Nội 102 km; phía Bắc và phía Đông giáp Quảng Ninh;
phía Tây giáp Thái Bình và phía Đông là bờ biển chạy dài theo hướng Tây
Bắc- Đông Nam từ phía Đông đảo Cát Hải đến cửa sông Thái Bình. Trong
những năm qua, thành phố Hải Phòng đã có sự phát triển mạnh mẽ, liên tục
về kinh tế, văn hóa, xã hội tuy nhiên còn có rất nhiều những thách thức cần
đặt ra, đặc biệt là tình trạng vi phạm pháp luật, tranh chấp kinh tế đang trở nên
ngày càng phổ biến và phức tạp. Thực trạng này đã dẫn đến sự gia tăng đột
biến về số lượng vụ việc và tính chất phức tạp của án kinh tế, án doanh nghiệp
trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến
sự ổn định anh ninh, chính trị và bảo đảm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 37/2012/QH13 và Nghị quyết số
63/2013/QH13 của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành 02 Nghị quyết quan
trọng nhằm nâng cao, tập trung chỉ đạo các địa phương thực hiện các giải
pháp để hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ thi hành án dân sự. Đó là Nghị
quyết số 01/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và sự toán ngân sách nhà nước năm 2013
và Nghị quyết số 02/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản
xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu. Cùng với sự quan tâm
chỉ đạo, lãnh đạo kịp thời, chi tiết của Ủy ban nhân dân và Cục Thi hành án
42. 37
dân sự thành phố, kết quả THADS nói chung và THADS đối với doanh
nghiệp nói riêng trên địa bàn thành phố Hải Phòng đã đạt được những kết quả
đáng ghi nhận. Tuy số lượng án dân sự liên quan đến doanh nghiệp ngày càng
tăng lên về số lượng việc và tiền, đặc biệt là số lượng tiền nhưng số lượng
việc về doanh nghiệp thi hành xong đã đạt nhưng kết quả nổi bật. Theo số liệu
báo cáo năm 2016, tổng số việc liên quan đến doanh nghiệp là 381 việc =
1.736.102.937.000 đồng, tài sản được thế chấp tại ngân hàng chủ yếu là bất
động sản (gồm nhà xưởng, nhà ở, vật kiến trúc trên đất, dây chuyền, máy
móc, thiết bị…). Kết quả đã thi hành xong: 113.586.950.000 đồng và số tiền
còn phải thi hành là 1.622.515.987.000 đồng.
2.1.2. Cơ quan thi hành án
- Về tổ chức bộ máy: Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng có 5
phòng chuyên môn thuộc Cục, 15 Chi cục Thi hành án dân sự quận, huyện.
- Về tổ chức cán bộ: Tổng số biên chế được giao là 210, Cục Thi hành
án dân sự thành phố đã thực hiện 205, thiếu 06 biên chế được giao. Trong đó:
+ Số lượng lãnh đạo: Ban lãnh đạo Cục 04 đồng chí; 05 trưởng phòng,
08 Phó trưởng phòng, 14 Chi cục trưởng, 17 Phó Chi cục trưởng.
+ Số cán bộ, công chức: số lượng chấp hành viên: 90 (15 trung cấp, 75
sơ cấp); 26 kế toán; 26 chuyên viên, 14 văn thư lưu trữ, 03 công chức khác.
- Về trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức:
+ Trình độ chuyên môn: Thạc sỹ 05; đại học và tương đương 173; cao
đẳng 07; trung cấp 19.
+ Trình độ lý luận chính trị: cao cấp 08; trung cấp 64;
+ Trình độ quản lý Nhà nước: cử nhân 04; chuyên viên chính 27;
chuyên viên: 64.
+ Trình độ ngoại ngữ: Đại học: 01; tiếng Anh văn phòng: 205.
+ Trình độ tin học: Đại học và tương đương: 02; cao đẳng: 02; tin học
văn phòng: 205.
43. 38
Với tình hình nêu trên cho thấy, số lượng biên chế ngành thi hành án
chưa được bổ sung kịp thời; số lượng chấp hành viên còn thiều so với nhu cầu
thực tế, chất lượng công chức tuy đã được cải thiện nhưng nhìn chung vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu công việc.
2.1.3. Thực trạng thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên địa
bàn thành phố Hải Phòng.
Trong vài năm trở lại đây, các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn
thành phố Hải Phòng phải tổ chức thi hành những vụ việc liên quan đến
doanh nghiệp đặc biệt lớn, tính chất nghiêm trọng và phức. Được sự lãnh
đạo, chỉ đạo trực tiếp, sâu sát của Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự
và sự phối hợp có hiệu quả của các tổ chức, cơ quan hữu quan các khó khăn,
vướng mắc về cơ chế trong quá trình thi hành án cơ bản đã cơ bản được giải
quyết, kết quả thi hành án đối với các doanh nghiệp bước đầu đã đạt được
kết quả nhất định.
Việc giao nhận bản án với Tòa án nhân dân và ban hành quyết định thi
hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án đối với các vụ việc thi hành án đối với
doanh nghiệp
Để thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự tiếp nhận bản án,
quyết định từ 03 nguồn: do toà án chuyển giao (đối với án có hiệu lực pháp
luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được cho thi hành ngay); do
đương sự nộp kèm theo đơn yêu cầu hoặc do cơ quan thi hành án địa phương
khác uỷ thác. Trong đó, bản án, quyết định do toà án chuyển giao là nguồn
chủ yếu, cơ bản nhất tạo nên khối lượng công việc của cơ quan thi hành án.
Trong 6 năm từ năm 2011 đến năm 2016 cơ quan thi hành án thành phố
Hải Phòng đã nhận tổng số bản án, quyết định về thi hành án đối doanh
nghiệp là 5.263 bản án, quyết định. Trong đó có 4.123 quyết định án phí, và
1.140 đơn yêu cầu thi hành án. Cơ quan thi hành án cũng từ chối nhận đơn
yêu cầu thi hành án 80 trường hợp; 30 trường đã hết thời hiệu yêu cầu thi
44. 39
hành án. Nhìn chung công tác thụ lý đầu vào được đặc biệt coi trọng, trong 6
năm cơ quan thi hành án nhận bản án quyết định từ tòa án sang và nơi khác ủy
thác đến hoặc các tổ chức, cá nhân nộp yêu cầu thi hành án đều được cơ quan
thi hành án ra quyết định kịp thời chính xác đúng theo quy định của pháp luật,
đảm bảo quyền và lợi ích của nhà nước cũng như tổ chức, cá nhân liên quan
đến việc thi hành án đối với doanh nghiệp.
Thực hiện việc, định giá lại và bán đấu giá tài sản kê biên để thi hành án
Định giá tài sản là một khâu quan trọng trong quy trình cưỡng chế kê
biên, xử lý tài sản để thi hành án. Việc định giá tài sản kê biên nhằm mục đích
xác định giá khởi điểm để bán đấu giá, thi hành nghĩa vụ trả tiền của người
phải thi hành án. Do vậy, việc định giá này có ý nghĩa rất quan trọng trong
quá trình giải quyết việc thi hành án dân sự. Định giá và bán đấu giá tài sản là
một hoạt động thường gắn với biện pháp cưỡng chế thi hành án, vì thế mà
hoạt động này cần phải có những quy định cụ thể, rõ ràng, tạo cơ sở pháp lý
cho cơ quan thi hành án và chấp hành viên thực hiện nhiệm vụ đúng pháp
luật, đảm bảo cho hiệu lực của bản án, quyết định dân sự của tòa án đã tuyên
được thi hành trên thực tế đạt hiệu quả. Trong 06 năm từ năm 2011 đến năm
2016 các cơ quan thi hành án đã tiến hành kê biên được 830 việc và đã tiến
hành định giá và bán đấu giá được 500 việc, định giá lại 53 việc . Thi hành án
dân sự là một công việc đầy khó khăn và phức tạp, khi thực hiện nhiệm vụ
của mình cơ quan thi hành án cũng như chấp hành viên luôn phải tác động
trực tiếp đến lợi ích vật chất, đến đời sống của người phải thi hành án. Vì vậy,
rất nhiều trường hợp người phải thi hành án cố tình chống đối, chây ỳ không
tự nguyện thi hành án. Việc cơ quan thi hành án thực hiện biện pháp cưỡng
chế kê biên, bán đấu giá tài sản của người phải thi hành án là một biện pháp
nghiêm khắc để đảm bảo hiệu lực thi hành của bản án, quyết định, khôi phục
lại quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự, đồng thời cũng là thể hiện sự
nghiêm minh của pháp luật. Do đó, yêu cầu phải hoàn thiện hơn nữa các quy
định của pháp luật về thi hành án dân sự nói chung, quy định về định giá và
45. 40
bán đấu giá tài sản nói riêng là một yêu cầu cấp thiết nhằm tạo điều kiện cho
cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên có căn cứ pháp lý cụ thể, rõ
ràng để ra các quyết định chính xác, hợp tình, hợp lý nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả công tác thi hành án dân sự nói riêng và việc bảo đảm cho một một
trật tự pháp luật của nhà nước nói chung.
Thực hiện áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án dân sự
đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án tại thành phố Hải Phòng
Qua thống kê thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi
hành án dân sự đối với doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng, thấy rằng, trong
khoảng thời gian từ khi Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành cho tới
nay, các chấp hành viên rất hạn chế áp dụng các này do rất nhiều nguyên nhân
khác nhau mà chủ yếu là do các quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm,
cưỡng chế thi hành án dân sự còn nhiều bất cập, quy định chưa chặt chẽ nên rất
khó áp dụng. Do đó, Trong 6 năm 2011 đến năm 2016 toàn ngành thi hành án
dân sự thành phố Hải Phòng đã thực hiện kê biên cưỡng chế được 830 việc trên
tổng số 5.263 việc phải thi hành. Trong những năm qua, lãnh đạo, cán bộ, công
chức ngành Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng đã nỗ lực phấn đấu để
nâng cao kết quả, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp, nhờ đó nên đã đạt được một số kết quả nhất định.
Nhìn chung tỷ lệ bản án, quyết định được thi hành xong chiếm một tỷ lệ
khá cao. Việc tổ chức thực hiện biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án đã
thực hiện theo đúng quy định của pháp luật vì vậy rất ít xảy ra tình trạng đương
sự khiếu nại, đặc biệt là khiếu nại vượt cấp. Tuy nhiên, cũng có một số trường
hợp đương sự không tự nguyện thi hành nên chấp hành viên phải ra quyết định
cưỡng chế, nhưng số lượng áp dụng biện pháp cưỡng chế là rất thấp.
Thực hiện việc áp dụng biện pháp buộc nhận người lao động trở lại
làm việc
Đối với quy định tại Khoản 2 Điều 121 Luật Thi hành án dân sự 2014 đã
cho phép người sử dụng lao động tùy thuộc vào tình hình thực tế của mình sẽ
46. 41
có nhiều cách lựa chọn để thực hiện nghĩa vụ nhận người lao động trở lại làm
việc theo bản án, quyết định của tòa án, theo đó có ba cách như sau:
Thứ nhất, người sử dụng lao động có thể bố trí một việc khác cho
người lao động trở lại làm việc với mức lương tương ứng.
người sử dụng lao động nhận người lao động trở lại làm việc theo đúng
nội dung bản án, quyết định.
Thứ hai, người sử dụng lao động nhận người lao động trở lại làm việc
theo đúng nội dung bản án, quyết định.
Thứ ba, người sử dụng lao động có thể thanh toán các chế độ cho người
lao động trở lại làm việc theo quy định của pháp luật lao động để chấm dứt
nghĩa vụ thi hành án nếu người lao động không chấp nhận công việc được bố
trí và có yêu cầu người sử dụng lao động thanh toán.
Khi thi hành án về loại việc này, chấp hành viên sẽ căn cứ vào tình hình
thực tế của đơn vị, cơ quan người sử dụng lao động để hướng tới một trong ba
cách giải quyết trên. Khác với pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, chấp
hành viên chỉ có một cách thi hành án duy nhất là buộc người sử dụng lao
động phải nhận người lao động trở lại làm việc theo đúng bản án, quyết định
của tòa án. Rõ ràng, điểm mới này đã mở ra nhiều hướng để tổ chức thi hành
dứt điểm vụ việc từ đó sẽ góp phần tăng hiệu quả hoạt động của công tác thi
hành án dân sự.
Thực trạng thực hiện thi hành án về việc và tiền đối với doanh nghiệp
trong các năm 2011-2016
Qua số liệu thống kê kết quả thi hành án hàng năm của Cục Thi hành
án dân sự thành phố Hải Phòng, tác giả luận văn thống kê kết quả thi hành án
nói chung trên địa bàn thành phố Hải Phòng từ năm 2011 đến năm 2016.
47. 42
Bảng 2.1. Kết quả của việc thực hiện về việc thi hành án dân sự đối
với doanh nghiệp ở thành phố Hải Phòng từ năm 2011-2016
Đơn vị: việc
Qua bảng thống kê trên có thể thấy: các tranh chấp dân sự - kinh tế tăng
mạnh hàng năm, đặc biệt là trong những năm gần đây, theo đó yêu cầu về thi
hành án dân sự đối với doanh nghiệp cũng tăng theo. Nền kinh tế thị trường,
bên cạnh những mặt tích cực thì cũng đem lại những hậu quả to lớn cho nền
kinh tế đất nước, đặc biệt là số lượng các doanh nghiệp bị thua lỗ, phá sản
ngày càng tăng dẫn đến ngày càng nhiều. Cũng vì thế mà các số lượng các vụ
tranh chấp về kinh tế liên quan đến doanh nghiệp ngày càng lớn, tính chất
phức tạp ngày càng tăng. Trong những năm qua, việc thi hành dứt điểm các
Năm
Tổng số việc phải thi
hành
Việc thi hành xong Việc còn lại chưa thi
hành
Tổng
số
Án
doanh
nghiệp
Tỉ lệ
Tổng
số
Án
doanh
nghiệp
Tỉ lệ
Tổng
số
Án
doanh
nghiệp
Tỉ lệ
2011 16.552 512 3,09% 7.798 300 3,84% 8.8554 212 2,39%
2012 16.044 630 3,92% 7.423 411 5,53% 8.621 219 2,54%
2013 16.467 800 4,85% 6.395 601 9,39% 10.072 199 1,97%
2014 18.997 1.000 5,26% 10.859 830 7,64% 8.138 170 2,08%
2015 16.901 1.120 6,62 9.866 790 8,0% 7.036 330 4,6%
2016 17.780 1.201 6,75% 10.920 820 7,5% 6.860 381 5,6%
48. 43
bản án, quyết định liên quan đến ngân hàng đã góp phần nâng cao hiệu quả,
kết quả thi hành án dân sự của thành phố, ổn định kinh tế, chính trị; tạo môi
trường kinh doanh bình đẳng và củng cố niềm tin của nhân dân đối với pháp
luật, đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
2.2. Đánh giá tình hình thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
trên địa bàn thành phố Hải Phòng
2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
Trong những năm gần đây, tình hình thi hành án dân sự ở Hải Phòng
nói chung và thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp nói riêng diễn biến
ngày càng phức tạp. Số việc và số tiền đều tăng, đặc biệt những vụ liên quan
đến doanh nghiệp là người phải thi hành án với số tiền phải thi hành lên đến
hàng tỷ đồng. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc của Bộ Tư pháp,
Tổng cục Thi hành án dân sự, đặc biệt là Cục Thi hành án dân sự thành phố
Hải Phòng và Ủy ban nhân dân thành phố và Ủy ban nhân dân các cấp, kết
quả thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải
Phòng đã đạt được những kết quả nhất định:
Năm 2013 thụ lý 16.804 việc với giá trị thi hành là 1.623 tỷ đồng, tăng
713 việc và tăng giá trị thi hành là 906 tỷ đồng so với năm 2012. Năm 2014,
số thụ lý mới là 7.752 việc, giá trị thi hành 1.884.225.603.000 đồng, tăng
563.683.045.000 đồng (43%) so với năm 2013. Năm 2015 số tiền tăng 80%
so với năm 2014 và năm 2016 tăng 150% so với năm 2015.
Như vậy số lượng việc và tiền phải thi hành liên quan đến doanh
nghiệp ngày càng tăng, tính chất ngày càng phức tạp. Những kết quả thi hành
án trên đây đã phản ánh được hiệu quả của công tác thi hành án dân sự đối với
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Có được những kết quả đó
xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau: