Luận văn thạc sĩ ngành luật: Định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn xét xử địa bàn tỉnh Nam Định, cho các bạn tham khảo
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Đề tài: Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo luật, HOT
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI THỊ NHUNG
§ÞNH TéI DANH §èI VíI TéI HñY HO¹I HOÆC Cè ý
LµM H¦ HáNG TµI S¶N THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn xÐt xö ®Þa bµn tØnh Nam §Þnh)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI THỊ NHUNG
§ÞNH TéI DANH §èI VíI TéI HñY HO¹I HOÆC Cè ý
LµM H¦ HáNG TµI S¶N THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn xÐt xö ®Þa bµn tØnh Nam §Þnh)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN
HÀ NỘI - 2015
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Bùi Thị Nhung
4. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI
VỚI TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN.........9
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của việc định tội
danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.....................9
1.1.1. Khái niệm định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản................................................................................................9
1.1.2. Đặc điểm của việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản.........................................................................................11
1.1.3. Phân loại định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản.......................................................................................................14
1.1.4. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản.........................................................................................18
1.2. Cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của định tội danh đối với tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản...............................................21
1.2.1. Cơ sở pháp lý của định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản.........................................................................................21
1.2.2. Cơ sở khoa học của định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản..................................................................................31
5. Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI HỦY
HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH NAM ĐỊNH.......................................................................41
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội và diễn biến tình
hình tội phạm ở Nam Định...................................................................41
2.1.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Nam Định...............41
2.1.2. Diễn biến tình hình tội phạm ở tỉnh Nam Định.......................................42
2.2. Thực trạng định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định............................................42
2.2.1. Tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm trên địa bàn tỉnh
Nam Định ................................................................................................43
2.2.2. Tình hình thụ lý, xét xử sơ thẩm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Nam Định từ năm
(2009 - 2014)...........................................................................................45
2.2.3. Tình hình thụ lý, xét xử phúc thẩm tội hủyhoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản của TAND hai cấp tỉnh Nam Định từ năm (2009 - 2014) ................50
2.2.4. Tình hình thụ lý, xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm tội hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản của TAND tỉnh Nam Định trong thời
gian từ năm (2009 - 2014).......................................................................51
2.2.5. Thực trạng định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2009 - 2014................52
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn
định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản trên địa bàn tỉnh Nam Định...........................................................57
2.3.1. Những tồn tại, hạn chế.............................................................................57
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế ................................................58
6. Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỊNH
TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM
HƯ HỎNG TÀI SẢN ............................................................................62
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối
với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản...................................62
3.2. Giải pháp hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam đối với tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản......................................................66
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản trong BLHS năm 1999........................................................67
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản .........................................................70
3.3. Một số giải pháp nâng cáo hiệu quả của việc định tội danh đối
với tội hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản...........................................71
3.3.1. Nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp và trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ thẩm phán.......................................71
3.3.2. Thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời để đảm bảo hoạt
động áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.....................................73
3.3.3. Thực hiện chặt chẽ và thường xuyên việc giám sát, kiểm tra đối
với hoạt động xét xử án hình sự của Tòa án............................................74
3.3.4. Tăng cường nguồn lực và cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và
hoàn thiện chế độ chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ tòa án............75
KẾT LUẬN.........................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................81
7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CTTP: Cấu thành tội phạm
TAND: Tòa án nhân dân
TNHS: Trách nhiệm hình sự
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
8. DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Thống kê tội phạm trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm
2009 - 2014 43
Bảng 2.2: Số kết quả khảo sát thu thập số liệu về tình hình thụ lý,
giải quyết theo trình tự sơ thẩm tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản được xét xử sơ thẩm của Tòa án hai
cấp tỉnh Nam Định trong những năm gần đây 45
Bảng 2.3: Tình hình xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân hai cấp
tỉnh Nam Định từ năm (2009 - 2014) về tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và các tội xâm phạm sở
hữu khác 46
Bảng 2.4: So sánh tỉ lệ số vụ án, số bị cáo xét xử sơ thẩm, của các
tội xâm phạm sở hữu với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Nam
Định từ năm (2009 - 2014) 49
Bảng 2.5: Bảng thống kê số vụ án phạm tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân
dân tỉnh Nam Định 51
Bảng 2.6: Bảng thống kê số vụ án phạm tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm của
TAND tỉnh Nam Định 52
Bảng 2.7: Bảng thống kê số liệu về các trường hợp xác định tội danh
sai của TAND hai cấp tỉnh Nam Định (2009 - 2014) 53
9. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những tiến bộ quan
trọng, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh
tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, bên cạnh những mặt tích
cực, nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực mặt
trái nền kinh tế thị trường làm cho đời sống xã hội có những biến động phức
tạp như sự xa hoá, xuống cấp về đạo đức, lối sống..., trong đó có nhiều vấn đề
mới phát sinh có liên quan đến công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm và tệ nạn xã hội. Tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp trên tất cả
các lĩnh vực, trong đó tình hình tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho
thấy, trong không ít vụ án, một số
Công dân không làm tròn nghĩa vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm,
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, cho nên các cơ quan
bảo vệ pháp luật phải tốn rất nhiều công sức để điều tra, khám phá vụ án.
Việc một số công dân không thực hiện quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác
hành vi phạm tội, có nghĩa là họ không tham gia đấu tranh chống tội phạm
nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức và trong các trường hợp do pháp luật hình sự quy định. Thực tiễn đấu
tranh phòng, chống tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, đã đặt ra
nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học pháp lý phải nghiên cứu, giải quyết
như khái niệm, những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng, nguyên nhân, điều
10. 2
kiện của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản... Về mặt lý luận, xung
quanh vấn đề đấu tranh phòng, chống tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Ngoài ra, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư
pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
"Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"; Nghị quyết
số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020"; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020" với nội dung "sớm hoàn thiện hệ thống
pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật…, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính
hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù…” [11, tr.3]. Đặc
biệt, trong quá trình giải quyết có nhiều vụ án không xác định đúng tội danh, đã
khởi tố sai tội danh, dẫn đến việc phải ra quyết định thay đổi tội danh, hoặc
quyết định hình phạt không đúng hoặc phải ra quyết định đình chỉ vụ án. Vì
thế, định tội được xem là tiền đề, điều kiện cho việc quyết định hình phạt
đúng đắn, góp phần mang lại hiệu quả trong đấu tranh phòng ngừa và chống
tội phạm. Trong trường hợp định tội không chính xác, mặc dù mức hình phạt
có thể đã tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do bị cáo
thực hiện nhưng việc kết án sai tội danh sẽ liên quan đến nhiều hậu quả pháp
lý khác mà bị cáo phải gánh chịu như: xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm,
tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hạn xác định án tích…
Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy các cơ quan tiến hành tố
tụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh, đặc biệt là
đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu nói chung tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản nói riêng. Thời gian gần đây tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản luôn có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, gây thiệt hại nghiêm
11. 3
trọng cho tài sản Nhà nước, tài sản của công dân, ảnh hưởng đến trật tự chung
của xã hội với nhiều thủ đoạn tinh vi từ chủ thể thực hiện tội phạm. BLHS do
Nhà nước ban hành quy định các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội
phạm, tuy vậy những quy định này chỉ nêu lên các dấu hiệu đặc trưng cơ bản
nhất của một cấu thành tội phạm, trong khi trên thực tế tội phạm xảy ra vô
cùng phức tạp và đa dạng.
Quá trình giải quyết vụ án một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp
luật, đồng thời bảo vệ một cách vững chắc các quyền sở hữu về tài sản của
công dân bằng pháp luật hình sự là một trong những nguyên tắc trong giai
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Ý thức được tầm
quan trọng đó, TAND tỉnh Nam Định không ngừng đẩy nhanh tiến độ, nâng
cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án, phấn đấu không để xảy ra
việc kết án oan người không có tội và bỏ lọt tội phạm, hạn chế tới mức thấp
nhất các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán, đảm
bảo các quyết định của Tòa án đúng pháp luật, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, có
sức thuyết phục cao và có tính khả thi. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít trường
hợp áp dụng pháp luật không đúng, chưa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ
phạm tội, các dấu hiệu cấu thành tội phạm (CTTP) nên dẫn đến việc định tội
danh thiếu chính xác, việc hủy án, sửa án vẫn còn tồn tại, phổ biến nhất là ở
các tội xâm phạm sở hữu mang tính chất chiếm đoạt.
Do vậy, việc xác định đúng tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản để khi quyết định hình phạt nhằm trừng trị đồng thời giáo dục
người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, không bỏ lọt tội phạm và
không làm oan người vô tội là vấn đề vô cùng quan trọng. Xuất phát từ tính
cấp thiết nêu trên tôi lựa chọn đề tài "Định tội danh đối với tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số
liệu thực tiễn xét xử địa bàn tỉnh Nam Định" để nghiên cứu làm luận văn
thạc sĩ luật học.
12. 4
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến việc định tội danh đối với tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản đã được một số nhà khoa học và cán
bộ làm công tác thực tiễn tiến hành, công bố trong nhiều công trình khoa học.
Có một số luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, một số giáo trình giảng dạy, bài
viết trên tạp chí và một số sách chuyên khảo đã nghiên cứu về những vấn đề
này. Cụ thể như sau:
Về tài liệu nghiên cứu là sách giáo trình, sách chuyên khảo, gồm có:
“Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm)” của GS.TSKH Lê
Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007; “Định tội danh - Lý luận, lời
giải mẫu và 500 bài tập thực hành” của GS.TSKH Lê Cảm và PGS.TS Trịnh
Quốc Toản, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011; “Bình luận khoa học Bộ
luật hình sự - Phần các tội phạm”, tập II của Đinh Văn Quế, năm 2005; “Các tội
xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm
2009)” của tác giả Nguyễn Mai Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2010, Hà Nội;
“Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm” của GS.TS Võ Khánh
Vinh, Nxb Công an nhân dân năm 2001; “Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ
luật hình sự - Phần các tội phạm”, cuả ThS Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ
Chí Minh, năm 2005; “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần các tội
phạm” của TS Uông Chu Lưu (Chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2004;
“Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm” của Khoa luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội”, Nxb Chính trị Quốc, năm 2010), Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 1997.
Sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản được tiếp tục đề cập trong “Giáo trình luật hình sự Việt Nam” của Trường
Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, năm 2000, Hà Nội; “Giáo trình
luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm” của Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, năm 2002...
13. 5
Tài liệu nghiên cứu dưới góc độ là luận văn, luận án, gồm có: “Hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong luật hình sự Việt Nam” của Ngô Thị
Huyền Phương, Viện Nhà nước và pháp luật, năm 2010; “Trách nhiệm hình
sự đối với các tội xâm phạm sở hữu”, của tác giả Nguyễn Ngọc Chí, luận án
tiến sĩ luật học, Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, năm 2000, Hà Nội.
Lê Văn Đệ (2005), Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Tài liệu là bài viết tạp chí, đề tài nghiên cứu khoa học, gồm có: Lê Cảm
(2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Học viện Tư pháp (2009), Chỉ
dẫn tra cứu Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), Hà
Nội. Nguyễn Văn Hương (2003), “Vấn đề tình tiết hình sự trong Bộ luật
hình sự”, Tạp chí Luật học, Hà Nội. Dương Tuyết Miên (2005), Định tội danh
và quyết định hình phạt, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. Đoàn Tấn Minh
(2010), Phương pháp định tội danh và hướng dẫn định tội danh đối với các
tội phạm trong Bộ luật hình sự hiện hành, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Đinh Văn
Quế (2000), Thực tiễn xét xử và pháp luật hình sự, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
Đinh Văn Quế (2005). Bình luận khoa học về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ,
Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. Đào Trí Úc
(2001), "Tìm hiểu khái niệm và những đặc trưng cơ bản của tội phạm theo
Luật hình sự Việt Nam", Nhà nước và Pháp luật . Trịnh Tiến Việt (2001),
"Một số điểm mới về các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự năm 1999",
Pháp lý. Võ Khánh Vinh (2003), "Thay đổi định tội danh, một số vấn đề lý
luận và thực tiễn", Tòa án nhân dân.
Tuy nhiên, các công trình đã nêu trên chỉ nghiên cứu riêng rẽ qua việc
tranh luận tội danh để áp dụng giữa tội phạm này với tội phạm khác hay chỉ
đề cập phân tích chung trong các chương giáo trình, sách tham khảo, khóa
luận tốt nghiệp... mà chưa có một công trình khoa học nào ở cấp độ một luận
văn thạc sĩ giải quyết riêng rẽ và độc lập một tội phạm cụ thể, việc định tội
14. 6
danh tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và thực tiễn xét xử trên địa
bàn tỉnh Nam Định để qua đó đưa ra những giải pháp định tội danh, cũng như
để đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các qui định trong việc phòng,
chống tội phạm này trong thực tiễn. Tính cấp thiết và ý nghĩa khoa học thực
tiễn của luận văn hoàn toàn có tính thời sự, nhất là trong giai đoạn hiện nay
tình hình các loại tội phạm nói chung diễn biến phức tạp, hành vi thực hiện tội
phạm ngày càng tinh vi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trong phạm vi của luận văn tốt nghiệp, tôi mong muốn đưa ra cái nhìn
tổng quát về các quy định của pháp luật hình sự đối với việc định tội danh đối
với tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản”, thực tiễn xét xử trên địa
bàn tỉnh Nam Định. Từ đó làm sáng tỏ những ưu điểm, tồn tại và đưa ra giải
pháp góp phần hoàn thiện về "Định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản", nâng cao việc áp dụng pháp luật của những người tiến
hành tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, luận văn làm rõ một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ khái niệm, đặc điểm, phân loại, ý nghĩa và
căn cứ của việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản cũng như những phân tích làm rõ những căn cứ pháp lý và căn cứ khoa
học của việc định tội danh đối với tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản” được quy định tại điều 143 của BLHS.
Thứ hai, phân tích thực trạng của việc định tội danh đối với tội “Hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” trên địa bàn tỉnh Nam Định trong thời
gian từ năm 2009 - 2014; đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại hạn chế
xung quanh việc thực hiện và những nguyên nhân cơ bản của nó.
15. 7
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị việc hoàn thiện các quy
định của BLHS Việt Nam hiện hành cũng như những giải pháp bảo đảm thực
hiện nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với tội “Hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản”, cũng như công tác đấu tranh phòng, chống tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
3.3. Phạm vi phiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh việc định
tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, kết hợp với việc
nghiên cứu thực trạng định tội danh đối với tội này trên địa bàn tỉnh Nam
Định và tìm ra nguyên nhân của những tồn tại hạn chế để kiến nghị những
giải pháp hoàn thiện luật thực định và đề xuất những biện pháp bảo đảm thực
hiện các quy định của BLHS Việt Nam đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản, nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với tội phạm trong
thực tiễn phòng ngừa vi phạm pháp luật.
Luận văn nghiên cứu về thực tiễn định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định trong 06 năm (2009 - 2014)
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X, XI của
Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những việc tiến hành tố tụng của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và TAND trong việc định tội danh về
tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh
Nam Định; số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Nam Định về
tội phạm này.
Phương pháp luận của luận văn là dựa trên chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật, quan điểm của Đảng và nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp
16. 8
quyền, về chính sách pháp luật tố tụng hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp
được thể hiện trong các nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, X và các nghị
quyết số 08 - NQ/TW; Nghị quyết số 49-NQ/TW về “Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
cụ thể và đặc thù như: phương pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp so
sánh, đối chiếu, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch và quan trọng
hơn cả là phương pháp loại trừ.
5. Những đóng góp mới của đề tài
Kết quả nghiên cứu và những giải pháp trong của luận văn có ý nghĩa
nhất định đối với việc nâng cao hiệu quả về định tội danh đối với tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản đồng thời góp phần đấu tranh phòng, chống tội
phạm nói chung và trên địa bàn tỉnh Nam Định nói riêng. Thông qua kết quả
nghiên cứu và những giải pháp, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của
mình vào việc phát triển lý luận về định tội danh giúp việc điều tra, truy tố,
xét xử các loại tội phạm nói chung và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản nói riêng được chính xác, tránh truy tố, xét xử oan và tránh bỏ lọt người
phạm tội, giúp cho hoạt động của các cơ quan tư pháp có hiệu quả góp phần
hữu hiệu vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về định tội danh đối với tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
Chương 2: Thực trạng định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc định tội danh
đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
17. 9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của việc định tội
danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
1.1.1. Khái niệm định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản
Theo quy định tại Điều 8 BLHS năm 1999 (được sửa đổi bổ sung
năm 2009) thì:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa..... [21, tr.51].
- Bên cạnh đó theo quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm cho rằng:
Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính
logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được
tiến hành bằng cách trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được
và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và
kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi
nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định [4, tr.33].
18. 10
- Còn theo quan điểm của PGS.TS. Dương Tuyết Miên:
Định tội danh được hiểu là hoạt động thực tiễn của các cơ
quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và
một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để
xác định một người có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì đó là
tội gì, theo điều luật nào của BLHS hay nói cách khác đây là quá
trình xác định tên tội cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện [15, tr. 9].
Tổng hợp các quan điểm trên đây, đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp
dụng các quy phạm pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự liên quan
đến việc định tội danh ở Việt Nam, có thể đưa ra định nghĩa khoa học khái
niệm định tội danh như sau: Định tội danh có thể được hiểu là một quá trình
nhận thức lý luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt
động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự
và được tiến hành bằng cách trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập
được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và kiểm
tra nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi thực tế đã thực hiện với các cấu
thành tội phạm cụ thể, tương ứng do luật hình sự quy định [4, tr.21].
Đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là một loại tội phạm
cụ thể được quy định tại Điều 143 BLHS Việt Nam. Một người được coi là
chủ thể của tội phạm này khi đáp ứng các điều kiện là người có đủ năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, và là người đã thực
hiện các hành vi được quy định tại điều 143 BLHS với lỗi cố ý, xâm phạm
đến quan hệ sở hữu.
Từ cơ sở lý luận cùng với các quy định của BLHS có thể đưa ra khái
niệm định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản như
sau: Định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là hoạt
động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của các
19. 11
cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án) và một
số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật trên cơ sở các
chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án nhằm
xác định sự phù hợp giữa hành vi thực tế đã thực hiện với các CTTP cụ thể
được quy định trong điều 143 của BLHS, từ đó xác định một người có phạm
tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hay không, và phạm tội theo khoản
nào của điều luật này.
1.1.2. Đặc điểm của việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản
Định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có
những đặc điểm được dựa trên những đặc điểm đặc trưng của tội phạm này
như phải dựa vào CTTP của tội phạm được quy định trong điều 143 của
BLHS, việc định tội danh phải được tiến hành trước, trên cơ sở đó mới có thể
tiến hành được việc quyết định hình phạt
Do đó, định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic được thể hiện dưới hai
khía cạnh: Xác định xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được
thực hiện có phù hợp với các dấu hiệu của CTTP cụ thể do điều tương ứng
trong phần các tội phạm của BLHS này hay không. Trên cơ sở đó, đưa ra sự
đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với một hành vi nguy hiểm cho
xã hội cụ thể đã xảy ra trong thực tế khách quan.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, pháp luật không thể phản ánh được
hết tất cả các mặt của đời sống xã hội vốn rất sinh động và phong phú mà chỉ
ghi nhận những nét khái quát, phổ biến đặc trưng của thực tế để từ đó áp dụng
cho các trường hợp cụ thể trong cuộc sống. Tính chất khái quát và phổ biến
20. 12
của quy phạm pháp luật và yêu cầu phải áp dụng nó một cách cụ thể là hai
mặt của một sự thống nhất biện chứng, đòi hỏi phải có sự nhận thức và phán
ánh chính xác, theo kịp và đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của hoạt động lập
pháp và vai trò quan trọng của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trong hoạt
động áp dụng pháp luật.
Về nguyên tắc, chỉ khi sự đối chiếu giữa các dấu hiệu thực tế của CTTP
với các dấu hiệu pháp lý của CTTP được xác định là tương ứng và phù hợp
với nhau thì mới có thể kết luận được chính xác tội phạm đã xảy ra có phải là
tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hay không và người phạm tội đã
phạm vào tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hay không, đồng thời
buộc họ chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản mà họ đã thực hiện.
Thứ hai, định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản còn được hiểu là một hình thức hoạt động tiến hành tố tụng được tiến
hành bởi cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Toà
án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền để cụ thể hóa các quy phạm pháp
luật hình sự trừu tượng vào đời sống thực tế, tức là lựa chọn đúng quy phạm
pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể nào
đó được thực hiện trong thực tế khách quan và từ đó đưa ra kết luận là hành vi
được xem xét ấy có đầy đủ các dấu hiệu của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản được quy định trong pháp luật hình sự thực định hay không.
Thứ ba, việc thiết lập các dấu hiệu đặc trưng cơ bản và điển hình để xác
định bản chất pháp lý của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện trong
thực tế khách quan là một vấn đề rất quan trọng của quá trình định tội danh đối
với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, mà toàn bộ quá trình này phải
tuân thủ nghiêm chỉnh các quy phạm của luật nội dung - được quy định trong
BLHS hiện hành, cũng như của luật hình thức - được quy định trong BLTTHS.
21. 13
Thứ tư, với tính chất là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự,
được tiến hành về cơ bản theo bốn bước cụ thể:
- Xem xét và thiết lập đúng các tình tiết thực tế của vụ án đã xảy ra
trong sự phù hợp với hiện thực khách quan và các quy định của pháp luật đối
với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
- Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy phạm
pháp luật hình sự đang có hiệu lực thi hành.
- Lựa chọn đúng điều luật tương ứng trong phần các tội phạm của
BLHS quy định trách nhiệm hình sự đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản, để so sánh, đối chiếu và kiểm tra các dấu hiệu CTTP này với các
tình tiết cụ thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện.
- Sau khi đã so sánh, đối chiếu, kiểm tra đầy đủ, chính xác thì ra một
văn bản áp dụng pháp luật mà trong đó đưa ra kết luận có căn cứ và đảm bảo
sức thuyết phục về sự phù hợp của hành vi thực tế đã được thực hiện với cấu
thành tội phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được quy định tại
điều 143 BLHS Việt Nam năm 1999.
Định tội danh là quá trình đối chiếu những tình tiết thực tế của tội phạm
đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành một loại tội phạm nhất định,
đó là sự thống nhất giữa các yếu tố: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và
mặt chủ quan. Các yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ nhưng lại cũng có tính
độc lập tương đối trong mối quan hệ với các yếu tố khác. Căn cứ theo những
dấu hiệu chung đó, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, khi định tội danh
đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản cần làm rõ những vấn đề
cơ bản sau:
Định tội danh theo khách thể của tội phạm
Định tội danh theo mặt khách quan của tội phạm
Định tội danh theo chủ thể của tội phạm
Định tội danh theo mặt chủ quan của tội phạm
22. 14
1.1.3. Phân loại định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản
Căn cứ vào chủ thể tương ứng thực hiện việc định tội danh, Khoa học
Luật hình sự phân chia định tội danh làm hai dạng: Định tội danh chính thức
và định tội danh không chính thức [4, tr.23]. Đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản có thể phân chia thành hai dạng định tội danh tương ứng
là định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức
1.1.3.1. Định tội danh chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản
“Định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt nhà nước, tính chất
pháp lý hình sự về một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể được Nhà nước
ủy quyền thực hiện” [4, tr.23].
Do đó định tội danh chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản có các đặc điểm cơ bản như sau:
- Định tội danh chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản do các chủ thể được nhà nước ủy quyền thực hiện, do đó chủ thể của
dạng định tội danh này nhất thiết phải là người có thẩm quyền trực tiếp tiến
hành tố tụng đối với vụ án hình sự cụ thể đó là cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng. Theo quy định tại điều 33 BLHS năm 1999 thì, các
cơ quan tiến hành tố tụng gồm có: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án;
Những người tiến hành tố tụng gồm có: Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan
điều tra, điều tra viên, Viện trưởng, phó viện trưởng viện kiểm sát, kiểm sát
viên, Chánh án, phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký
Tòa án [23, tr.23]. Họ tiến hành các hoạt động định tội danh đối với tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản tùy theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm được quy định trong BLTTHS.
- Hậu quả của việc định tội danh do các chủ thể đã nêu trên đây tiến
23. 15
hành là các hậu quả pháp lý trách nhiệm hình sự như khởi tố vụ án hình sự,
bắt đầu quá trình điều tra, khởi tố bị can, truy tố hoặc xét xử. Vì ngay sau khi
nhận được đầy đủ các tin báo về tội phạm do các cá nhân, cơ quan, tổ chức
chuyển đến thì cơ quan điều tra trong phạm vi quyền hạn của mình phải kiểm
tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố vụ án hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản nếu có những dấu hiệu của tội phạm này hoặc không khởi
tố vụ án hình sự nếu có những căn cứ được quy định tại điều 107 BLTTHS đó
là những căn cứ sau:
Không có sự việc phạm tội; hành vi không cấu thành tội
phạm; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi
chịu trách nhiệm hình sự; người mà hành vi phạm tội của họ đã có
bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã được đại xá;
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường
hợp cần tái thẩm đối với người khác [23, tr.85].
Ngoài ra hậu quả của việc định tội danh chính thức đối với tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản còn là các hậu quả pháp lý hình sự như miễn
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc ra bản án kết tội....
- Trường hợp người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự trong giai
đoạn trước khi Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử, thì căn cứ vào BLTTHS
năm 2003, chỉ có tội danh cuối cùng trong bản án (quyết định) của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật mới được coi là tội danh chính thức mà người phạm tội
đã thực hiện [4, tr.24]. Định tội danh chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản do nhiều chủ thể tiến hành và trong rất nhiều các giai
đoạn tố tụng khác nhau nhưng không có nghĩa là đối tượng phải gánh chịu
hậu quả của hoạt động định tội danh đó là người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản. Điều 9 BLTTHS năm 2003 quy định “không ai bị coi là
24. 16
có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật” [23, tr.12].
Khoản 1 điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định “Người bị buộc tội
được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định
và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Điều 102 Hiến pháp 2013 cũng khẳng định: "Tòa án nhân dân là cơ
quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp" [25]. Như vậy, Hiến pháp đã khẳng định chức năng xét xử (định tội
danh) chỉ thuộc về Tòa án chứ không thuộc bất kỳ cơ quan nhà nước nào khác.
Trong quá trình xét xử công khai tại phiên tòa. Nếu có căn cứ để khẳng
định một người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thì Tòa án sẽ
ra bản án kết tội. Trong trường hợp bản án kết tội không bị kháng cáo, kháng
nghị thì bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị. Trong trường hợp bản án kết tội có kháng cáo hoặc kháng nghị thì bản
án đó chưa có hiệu lực pháp luật và vụ án bắt buộc phải xét xử theo thủ tục
phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hội đồng xét
xử tuyên án. Như vậy bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật của Tòa án là
văn bản định tội danh cuối cùng khẳng định về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản đối với hành vi phạm tội đã xảy ra.
1.1.3.2. Định tội danh không chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản.
Theo quan điểm của GS - TSKH Lê Cảm thì “Định tội danh không
chính thức là sự đánh giá không phải về mặt nhà nước tính chất pháp lý hình
sự của một hành vi phạm tội cụ thể” [4, tr.24].
Theo quan điểm của GS - TS Võ Khánh Vinh thì:
Định tội danh không chính thức là sự đánh giá pháp lý về
hành vi phạm tội do các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý, tác giả
25. 17
bài báo, tạp chí, công trình khoa học, sinh viên, học viên hoặc bất
kỳ một người nào đó quan tâm nghiên cứu cụ thể vụ án này hay vụ
án khác đưa ra [43, tr.28].
Định tội danh không chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản có các đặc điểm sau đây:
- Chủ thể tiến hành định tội danh không chính thức đối với tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản không nhất thiết là những người nhất định nào,
họ không phải là những chủ thể có thẩm quyền thực hiện theo quy định của
pháp luật mà có thể là bất cứ ai quan tâm đến vụ án hình sự và biết được các
tình tiết của vụ án mà đưa ra tội danh. Người định tội danh không chính thức
đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có thể liên quan đến hoạt
động tố tụng hoặc không liên quan đến hoạt động tố tụng, nhưng thông
thường họ là các luật gia trong lĩnh vực tư pháp hình sự hay các nhà khoa học
những người đang nghiên cứu, tìm hiểu, học tập luật hình sự..
- Về hình thức thể hiện của định tội danh không chính thức đối với tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là các công trình nghiên cứu khoa
học, giáo trình, sách giáo khoa hay các bài báo.... Hình thức thể hiện của định
tội danh không chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
được viết theo ý chí chủ quan của chủ thể định tội danh không chính thức chứ
không theo quy định của pháp luật vì nó không được pháp luật điều chỉnh.
- Hậu quả của định tội danh không chính thức đối với tội hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ hình sự trong
các quan hệ pháp luật hình sự hay pháp luật tố tụng hình sự của các chủ thể
tham gia các quan hệ đó mà chỉ là các quan điểm khoa học hay ý kiến riêng
của các chủ thể định tội danh không chính thức đối với tội phạm này. Nếu
hoạt động định tội danh không chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản được dư luận xã hội quan tâm nhất là trong trường hợp nó đối
lập với kết quả của hoạt động định tội danh chính thức và phản ánh đúng yêu
26. 18
cầu của pháp luật hình sự thì có thể có sự chuyển hóa từ định tội danh không
chính thức thành định tội danh chính thức. Vì không phải lúc nào việc định tội
danh chính thức cũng là đúng, những vụ án oan sai trong thực tế vẫn xảy ra
tuy không nhiều nhưng nó cũng thu hút được sự quan tâm của dư luận xã hội.
Lúc này các chủ thể của định tội danh chính thức đối với tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản có thể tham khảo kết quả của định tội danh không chính
thức đối với tội phạm này của giới khoa học pháp lý.
1.1.4. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản
Hoạt động định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản của các chủ thể có thể theo 2 xu hướng: Định tội danh đúng hoặc
định tội danh sai.
* Đối với hoạt động định tội danh đúng:
Thứ nhất, việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản đúng là tiền đề cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá
hình phạt một cách công minh có căn cứ pháp luật.
Thứ hai, Việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản đúng sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện một loạt các nguyên tắc tiến bộ được
thừa nhận trong Nhà nước pháp quyền như: nguyên tắc pháp chế, trách nhiệm
do lỗi, trách nhiệm cá nhân, bình đẳng trước pháp luật hình sự, nguyên tắc
công minh nhân đạo và nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm. Định tội
danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản đúng góp phần đưa
các quy định của pháp luật, nhất là quy định của BLHS vào thực tiễn cuộc
sống. Điều này đúng như GS. TS Võ Khánh Vinh đã viết:
Đạo luật hình sự thể hiện ý chí về mặt Nhà nước của nhân
dân ta đối với vấn đề đấu tranh với tình hình tội phạm... Việc tuân
thủ nghiêm chỉnh đạo luật hình sự trong khi định tội danh là điều
27. 19
kiện cần thiết và quan trọng của việc thực hiện chính sách của Nhà
nước nhằm khắc phục tình trạng tội phạm ở nước ta [26, tr.28].
Thứ ba, Việc định tội danh đúng đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác các quy phạm
pháp luật tố tụng hình sự về tạm giam, về thẩm quyền điều tra, xét xử qua đó
góp phần hữu hiệu cho việc bảo vệ các quyền và tự do dân chủ của công dân
trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
Thứ tư, Việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản đúng, còn thể hiện nhà nước ta thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế về
quyền con người, vì quyền sở hữu tài sản là một trong những quyền cơ bản của
con người mà pháp luật quốc gia và quốc tế đều quan tâm bảo vệ. Hiến pháp
năm 2013 của Việt Nam (điều 32) cũng quy định: “1. Mọi người có quyền sở
hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để danh, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản
xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; 2.
Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ” [25].
Do quyền sở hữu tài sản nói trên bị hành vi phạm tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản nên định tội danh có chức năng góp phần xác định trách
nhiệm hình sự, đấu tranh phòng chống lại hành vi phạm tội này góp phần
quan trọng trong phòng chống oan sai, phòng, chống việc lạm dụng quyền lực
của một số người có chức, có quyền tha hóa biến chất xâm hại đến quyền, lợi
ích hợp pháp của người dân.
Thứ năm, định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản đúng còn góp phần củng cố lòng tin của người dân vào công lý và sự chí
công, vô tư của các cơ quan bảo vệ pháp luật; củng cố lòng tin của các nhà
đầu tư nước ngoài về tính minh bạch và đúng đắn của pháp luật Việt Nam.
* Đối với hoạt động định tội danh sai:
Định tội danh sai không chỉ làm việc quyết định hình phạt không
28. 20
đúng, không công bằng mà còn áp dụng không có căn cứ, không công bằng
hoặc không áp dụng một loạt các biện pháp pháp lý khác (quyết định hình
phạt bổ sung…), áp dụng hoặc không áp dụng đại xá, miễn trách nhiệm hình
sự, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tính toán không đúng thời hiệu, án
tích… Cũng không kém phần có hại và bất công những trường hợp ngược
lại, khi hành vi của người có lỗi cấu thành tội phạm nghiêm trọng hơn nhưng
lại được định tội danh theo tội nhẹ hơn. Trong trường hợp đó, người có lỗi
chịu hình phạt ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt đáng lẽ người đó phải
chịu theo pháp luật, còn tội phạm lại được giảm nhẹ về đạo đức, chính trị và
pháp lý một cách thiếu cơ sở. Điều đó làm giảm hiệu quả của công tác đấu
tranh với tình hình tội phạm mà cùng lúc gây sự công phẫn hợp pháp, công
bằng của nhân dân, làm nảy sinh những quan niệm không đúng về thực trạng
và các biện pháp đấu tranh với tội phạm, làm giảm uy tín của các cơ quan tư
pháp. Rõ ràng đó là những vi phạm nghiêm trọng các đòi hỏi của nguyên tắc
công bằng, pháp chế [43, tr.29].
Việc định tội danh sai đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản sẽ dẫn đến các hậu quả sau:
Thứ nhất, Việc định tội danh sai đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả tiêu cực như: không đảm bảo
được tính công minh có căn cứ đúng pháp luật, truy cứu trách nhiệm hình sự
người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, xâm phạm thô bạo danh dự nhân phẩm
các quyền tự do dân chủ của công dân là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa
nhận trong Hiến pháp và pháp luật, làm giảm lòng tin của người dân vào công
lý và sự chí công, vô tư của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Thứ hai, Việc định tội danh sai đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản làm giảm uy tín của cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế XHCN,
ảnh hưởng đến hiệu quả của đấu tranh phòng chống tội phạm này.
29. 21
1.2. Cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của định tội danh đối với tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
1.2.1. Cơ sở pháp lý của định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản
Xác định tội danh là một vấn đề hết sức quan trọng, là giai đoạn cơ
bản trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Tất cả các hoạt động tố tụng
từ khởi tố, điều tra, truy tố suy cho cùng là nhằm phục vụ cho việc định tội
được chính xác.
Trong trường hợp định tội không chính xác sẽ dẫn đến kết án sai,
không phù hợp với sự thật khách quan của vụ án, xử lý oan người vô tội, để
lọt tội phạm, xử nhẹ hoặc nặng hơn so với tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội. Việc xử lý thiếu chính xác như thế sẽ xâm phạm đến
những quyền và lợi ích của công dân, làm giảm uy tín của các cơ quan tư
pháp, vi phạm pháp chế, ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm.
GS. TSKH. Lê Cảm cho rằng:
Về cơ bản, những căn cứ pháp lý của việc định tội danh có
thể được hiểu trên hai bình diện (hoặc theo hai nghĩa) rộng và hẹp
dưới đây:
- Trên bình diện rộng (hay hiểu theo nghĩa cả về nội dung và
hình thức) thì những căn cứ pháp lý của việc định tội danh là hệ
thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý
duy nhất (trực tiếp) cũng như hệ thống các quy phạm luật tố tụng
hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý bổ trợ (gián tiếp) cho toàn bộ
quá trình xác định các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội
được thực hiện là tội phạm.
- Trên bình diện hẹp (chỉ hiểu theo nghĩa về nội dung) thì
những căn cứ pháp lý của việc định tội danh là chỉ có hệ thống các
30. 22
quy phạm luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất (trực
tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu của hành vi nguy
hiểm cho xã hội được thực hiện là tội phạm [4, tr.26, 27].
Với tư cách là một đạo luật, đồng thời là một văn bản quy phạm pháp
luật duy nhất quy định về tội danh, BLHS quy định chỉ có người nào xâm
phạm đến quan hệ được luật hình sự bảo vệ (tức được quy định trong BLHS)
thì mới bị coi là có tội và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà họ
đã thực hiện. Bất kỳ trường hợp nào khi tiến hành truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội đều phải nêu rõ căn cứ điều luật của BLHS được áp
dụng để xử lý. Như vậy, việc áp dụng quy định của BLHS cũng chính là việc
chuyển hóa nội dung quy định về tội phạm của luật hình sự trong quá trình xét
xử vụ án hình sự.
Tuy nhiên, việc định tội không phải chỉ chuyển hóa những nội dung của
điều luật quy định về tội phạm cụ thể. Mỗi mô hình pháp lý về tội phạm cụ
thể của BLHS thông thường không phản ánh đầy đủ các đặc điểm, các dấu
hiệu về tội phạm. Vì vậy, tự bản thân nó chưa thể là một cơ sở đầy đủ cho
việc định tội. Về mặt cấu trúc, các tội phạm cụ thể được quy định trong luật
hình sự thường chỉ là sự mô tả cơ bản về những dấu hiệu thuộc về khách thể
và mặt khách quan, đôi khi tội phạm cụ thể được mô tả đơn giản đến mức chỉ
nêu ra tên tội phạm mà không kèm theo bất cứ một sự mô tả nào. Những dấu
hiệu về chủ thể và mặt chủ quan thường ít được quy định hoặc coi như hệ quả
đương nhiên của hành vi phạm
1.2.1.1. Cơ sở pháp lý về nội dung của định tội danh đối với tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.
* BLHS - cơ sở pháp lý trực tiếp của việc định tội danh vì BLHS được
coi là nguồn trực tiếp và duy nhất ghi nhận toàn bộ hệ thống các quy phạm
pháp luật hình sự được áp dụng trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội
31. 23
phạm nói chung cũng như quá trình định tội danh và quyết định hình phạt nói
riêng [4, tr.27]. Bởi vậy, khi định tội danh phải dựa vào quy định ở cả hai
phần của BLHS đó là các quy phạm pháp luật ở phần chung và các quy phạm
pháp luật phần các tội phạm cụ thể. Hai nhóm quy phạm pháp luật này có mối
liên quan hữu cơ, thống nhất với nhau trong quá trình định tội danh và quyết
định hình phạt. Để áp dụng được các quy phạm pháp luật phần riêng phải dựa
vào các quy phạm pháp luật phần chung và ngược lại các quy phạm pháp luật
phần chung nếu không có các quy phạm pháp luật phần riêng thì chúng hoàn
toàn không có ý nghĩa. Chính vì vậy mà các dấu hiệu trong mỗi CTTP được
quy định trong cả phần chung và phần riêng.
- Phần chung bao gồm các quy phạm quy định nhiệm vụ, nguyên tắc của
luật hình sự, cơ sở trách nhiệm hình sự, hiệu lực của Bộ luật hình sự, các khái
niệm chung về tội phạm và hình phạt. Bộ luật hình sự năm 1999 có 10 chương,
ví dụ chương I quy định về những điều khoản cơ bản, chương II quy định về
hiệu lực của Bộ luật hình sự, chương III quy định về tội phạm, chương IV quy
định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, chương V quy định về hình
phạt… Các quy phạm pháp luật hình sự được quy định tại Phần chung như về
lỗi, hiệu lực áp dụng của tội phạm, các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng
phạm, tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội… giúp người định tội danh
nhận biết được một cách nhanh chóng và chính xác các dấu hiệu của cấu thành
tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng,
CTTP đặc biệt tăng nặng hay CTTP giảm nhẹ) của tội phạm này.
Trong khoa học pháp lý hình sự, một hành vi nguy hiểm cho xã hội
được định tính và định lượng là tội phạm là tổng thể biện chứng hàng loạt
những dấu hiệu khác nhau về khách quan cũng như chủ quan được gọi là cấu
CTTP. Nói một cách cụ thể hơn, CTTP bao gồm mô hình pháp lý về tội phạm
cụ thể và những nội dung khác của BLHS quy định về tội phạm và các vấn đề
có liên quan.
32. 24
Tuy vậy, cũng cần lưu ý rằng việc xác định một hành vi là nguy hiểm
cho xã hội là tội phạm còn phụ thuộc vào những tình tiết loại trừ tính nguy
hiểm và tính trái pháp luật hình sự của hành vi. Trong những trường hợp
nhất định, những hành vi nguy hiểm cho xã hội có bề ngoài giống với một
tội phạm nhưng lại thỏa mãn một số điều kiện khác được quy định trong
BLHS nên không được coi là nguy hiểm cho xã hội và trái pháp luật hình sự
nữa. Đó là những trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, điển
hình nhất là Phòng vệ chính đáng (Điều 15 Bộ luật hình sự) và tình thế cấp
thiết (Điều 16 BLHS). Việc thực hiện hành vi trong phòng vệ chính đáng
hoặc tình thế cấp thiết gắn liền với việc gây ra (hoặc cũng có thể là đe dọa
gây ra) một thiệt hại nào đó đến lợi ích được pháp luật hình sự bảo vệ trong
trường hợp bình thường nhưng để nhằm bảo vệ một lợi ích khác của Nhà
nước, của tập thể hay của công dân. Hành vi được thực hiện trong những
trường hợp đó không phải là tội phạm.
Như vậy, nếu BLHS thể hiện sự đánh giá về mặt pháp lý của Nhà nước
đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội, thì định tội danh đối với tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản chính là việc xác định sự phù hợp của
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP
được quy định trong Phần chung BLHS. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc
khi định tội danh đối với một hành vi phạm tội cụ thể.
- Phần riêng (phần các tội phạm) trong BLHS gồm các quy phạm quy
định dấu hiệu pháp lý của các tội phạm cụ thể, là cơ sở pháp lý thống nhất để
giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự. Phần riêng Bộ luật hình sự
quy định một nhóm tội phạm cụ thể nhất định trong mỗi chương, từ chương
XI đến chương XXIV, quy định 14 nhóm tội phạm khác nhau. Đối với tội hủy
hoại hoặc cố ý là hư hỏng tài sản được quy định tại điều 143 của BLHS. Điều
luật quy định tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản gồm hai phần, đó là
phần quy định và phần chế tài.
33. 25
Phần quy định là phần nêu ra và mô tả một tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản, khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự quy định: "Người nào hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ hai triệu
đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm mươi triệu đồng nhưng
gây thiệt hại nghiêm trọng..." [21, tr.133]. Trong luật hình sự Việt Nam có
các loại quy định như quy định giản đơn, quy định mô tả, quy định viện dẫn.
Phần chế tài là phần xác định loại và mức độ hình phạt đối với người
thực hiện tội phạm đã nêu trong phần quy định. Có thể nói chế tài phản ánh sự
đánh giá của nhà làm luật về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
loại tội phạm cụ thể [38, tr.31]. Phần chế tài được quy định trong khoản 1
điều 143 BLHS “....thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt
tù từ sáu tháng đến ba năm”.
Trong quá trình định tội danh, các quy phạm pháp luật hình sự tại Phần
các tội phạm quy định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm tương ứng giúp
cho chúng ta xác định sự giống nhau của các dấu hiệu của một hành vi nguy
hiểm cho xã hội cụ thể được thực hiện có phù hợp với các dấu hiệu của CTTP
cụ thể do điều luật quy định tương ứng hay không. Như vậy, điều quan trọng
trong quá trình định tội danh là phải tìm được những dấu hiệu cơ bản, điển
hình và quan trọng nhất phải có những dấu hiệu cần và đủ để xác định thực
chất của hành vi xảy ra trên thực tế.
Khi định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, chủ
thể định tội danh phải căn cứ vào quy định của BLHS. Điều 143 BLHS năm
1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định về tội phạm này như sau:
1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của
người khác gây thiệt hại từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu
đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng
hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về
34. 26
tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Để che giấu tội phạm khác;
đ) Vì lý do công vụ của người bị hại;
e) Tái phạm nguy hiểm;
g) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng
đến dưới hai trăm triệu đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng
đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng
trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng
đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Trong quá trình định tội danh, các quy phạm pháp luật hình sự tại Phần
các tội phạm quy định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm tương ứng giúp
cho chúng ta xác định sự giống nhau của các dấu hiệu của một hành vi nguy
35. 27
hiểm cho xã hội cụ thể được thực hiện có phù hợp với các dấu hiệu của CTTP
cụ thể do điều luật quy định tương ứng hay không. Như vậy, điều quan trọng
trong quá trình định tội danh là phải tìm được những dấu hiệu cơ bản, điển
hình và quan trọng nhất phải có những dấu hiệu cần và đủ để xác định thực
chất của hành vi xảy ra trên thực tế.
* Căn cứ vào các tình tiết có ý nghĩa định tội
Tình tiết hình sự được hiểu là những biểu hiện của tội phạm bao gồm
những biểu hiện của hành vi phạm tội, những điều kiện, đặc điểm của người
phạm tội, những hoàn cảnh, tình huống, đối tượng có ảnh hưởng trực tiếp đến
việc thực hiện tội phạm qua đó phản ánh tính nguy hiểm của tội phạm, trách
nhiệm hình sự của người phạm tội phản ánh quan điểm của Nhà nước ta về tội
phạm cũng như chính sách hình sự của Nhà nước ta [14].
Tình tiết hình sự được phân thành: tình tiết định tội, tình tiết định
khung, tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết loại trừ
trách nhiệm hình sự, tình tiết miễn trách nhiệm hình sự…trong đó, tình tiết
định tội là tình tiết có ý nghĩa và là một trong những căn cứ quyết định trong
hoạt động định tội danh.
Tình tiết định tội là những tình tiết, biểu hiện của tội phạm phù hợp với
các dấu hiệu định tội (dấu hiệu CTTP cơ bản) của tội cụ thể trong BLHS.
Tình tiết định tội là tình tiết thực tế của vụ án cụ thể được sử dụng để xác định
người phạm tội trong vụ án đó đã phạm tội gì. Đó là những tình tiết thoả mãn
dấu hiệu định tội đã được quy định trong luật.
Định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là hoạt
động nhận thức, là quá trình xem xét, xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội
đã thực hiện có là tội phạm hay không trên cơ sở đối chiếu các tình tiết thực tế
của hành vi với các dấu hiệu của CTTP, tìm ra sự phù hợp giữa hành vi nguy
hiểm cho xã hội đã thực hiện với CTTP cụ thể của tội hủy hoại hoặc cố ý làm
36. 28
hư hỏng tài sản được quy định tại điều 143 của BLHS. Nếu các dấu hiệu trong
CTTP cụ thể được thỏa mãn thì hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện là
hành vi phạm tội và hành vi đó mang tội danh mà CTTP đó phản ánh.
Tình tiết định tội được hiểu là tình tiết thực tế của vụ án cụ thể được sử
dụng để xác định người phạm tội trong vụ án đó đã phạm tội gì. Đó là những
tình tiết thỏa mãn dấu hiệu định tội đã được quy định trong luật hình sự. Các
tình tiết hình sự luôn gắn với sự kiện phạm tội, phản ánh tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và những đặc điểm riêng biệt của
người phạm tội. Khi các tình tiết phù hợp và thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội
phạm cơ bản của tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự sẽ cho phép xác định
được người phạm tội đã phạm tội gì, theo điều nào trong Bộ luật hình sự.
* Căn cứ vào quy định của pháp luật khác
Khi định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
để biết một trường hợp có dấu hiệu của tội phạm này hay không hoặc để
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản, căn cứ chủ yếu là BLHS. Ngoài ra, các văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xử
lý vụ án hình sự nhằm đảm bảo xử đúng người, đúng tội. Các văn bản quy
phạm pháp luật đó như:
- Các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự gồm: Nghị quyết của
Quốc hội về thi hành BLHS; nghị quyết của hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định của BLHS; thông tư liên tịch
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau hoặc với các cơ quan hữu quan
khác (như thông tư liên tịch giữa Tòa án nhân dân tối cao với Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Công an…). Các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên
hướng dẫn chi tiết việc áp dụng những quy định của BLHS (mô tả chi tiết các
dấu hiệu định tội mà BLHS không mô tả hoặc mô tả chung chưa cụ thể).
37. 29
Trong định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
ngoài việc áp dụng BLHS, BLTTHS, việc định tội danh còn căn cứ vào các văn
bản pháp luật khác nhau như Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Tòa án nhân dân tối
cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương
XIV "Các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm 1999",
Các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan
Loại văn bản này khá nhiều và mang tính chuyên ngành, trong đó, chỉ
có một số quy định trong văn bản đó được áp dụng để làm cơ sở xác định tội
danh như: Luật phòng chống tham nhũng, Luật giao thông đường bộ, Luật
phòng chống ma túy, Pháp lệnh phòng chống mại dâm, Luật an ninh quốc
gia… Tuy nhiên, các văn bản này chỉ giữ vai trò thứ yếu. Nó bổ sung và quy
định cụ thể hơn, chi tiết hơn nhằm giải thích rõ và bổ trợ cho các quy định của
Bộ luật hình sự.
1.2.1.2. Cơ sở pháp lý về hình thức của định tội danh đối với tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
* BLTTHS - cơ sở pháp lý gián tiếp của việc định tội danh. Trong quá
trình định tội danh khi hiểu theo nghĩa rộng, nếu các quy phạm BLHS đóng vai
trò là cơ sở pháp lý duy nhất trực tiếp (về nội dung) thì các quy phạm pháp luật
tố tụng hình sự là cơ sở pháp lý gián tiếp không kém quan trọng [4, tr.30].
Cơ sở pháp lý về hình thức được hiểu là các băn bản pháp luật quy định
về thủ tục tố tụng làm cơ sở cho việc định tội danh và giải quyết vụ án hình
sự. GS. TSKH. Lê Văn Cảm cho rằng:
Mặc dù các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự ở chừng
mực nhất định có ý nghĩa gián tiếp đối với việc định tội danh
nhưng chúng có ý nghĩa pháp lý quan trọng đối với việc bảo vệ
38. 30
các quyền và tự do của công dân trong lĩnh vực pháp luật hình sự,
nhất là trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam hiện nay [4, tr.30, 31].
Nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác,
nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội BLTTHS quy định trình tự, thủ tục các
giai đoạn tố tụng, điều này cũng có nghĩa rằng mọi hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng như cơ quan điều tra ở giai đoạn khởi tố, Viện kiểm sát ở
giai đoạn truy tố và Tòa án ở giai đoạn xét xử phải tuân theo đúng các quy
định của BLTTHS
- Pháp luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục tố tụng đối với
vụ án hình sự nói chung. Đó là khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án, trong mỗi khâu này đều có trình tự tiến hành và theo một thủ tục tố
tụng nhất định.
- Pháp luật tố tụng hình sự quy định về chứng cứ, về trình tự, thủ tục
thu thập, kiểm tra, đánh giá, sử dụng chứng cứ chứng minh đối với tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự,
các cơ quan tiến hành tố tụng phải bằng các biện pháp hợp pháp thu thập và
phản ánh chứng cứ thu thập được trong những nguồn mà BLTTHS quy định.
Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng bởi nếu không chứng minh được sự tồn
tại tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và người thực hiện hành vi đó
thì không thể định tội danh đối với tội phạm này.
- Ngoài ra, pháp luật tố tụng hình sự còn quy định các vấn đề khác liên
quan đến việc thay đổi tội danh, việc tách hoặc nhập vụ án hình sự và các vấn
đề khác phục vụ cho định tội danh định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản.
39. 31
1.2.2. Cơ sở khoa học của định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản
Cơ sở khoa học của định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
hỏng tài sản chính là CTTP.
Theo quan điểm của GS - TSKH Lê Cảm thì CTTP là tổng hợp các dấu
hiệu pháp lý (khách quan và chủ quan) do luật hình sự quy định thể hiện một
hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể là tội phạm, tức là căn cứ vào các dấu
hiệu đó một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm [4, tr.35].
Về nội dung của CTTP là các yếu tố cần và đủ cho việc định tội, nó là
các dấu hiệu điển hình nhất, đặc trưng nhất có tính lặp đi lặp lại trong các
hành vi phạm tội cùng loại nói lên bản chất của tội phạm ấy và được nhà làm
luật pháp điển hóa trong BLHS. Chỉ có trên cơ sở xác nhận sự phù hợp đầy đủ
các dấu hiệu của CTTP thì mới có căn cứ để khẳng định hành vi của một
người bị luật hình sự cấm và bị trở thành người phạm tội.
Cấu trúc của CTTP có 04 yếu tố là khách thể, mặt khách quan, mặt chủ
quan và chủ thể.
CTTP là một trong những yếu tố quan trọng nhất, có liên quan mật thiết
đến tội phạm, và là tổng hợp các dấu hiệu pháp lý (khách quan và chủ quan)
do luật hình sự quy định thể hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể là
tội phạm, tức là căn cứ vào các dấu hiệu đó một hành vi nguy hiểm cho xã hội
bị coi là tội phạm. Dấu hiệu pháp lý hay dấu hiệu cấu thành của một loại tội
phạm có tính đặc trưng và điển hình cho loại tội phạm ấy, nó phản ánh đầy đủ
bản chất và đủ để phân biệt loại tội phạm này với các tội phạm khác. Tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có các dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm
cơ bản được mô tả trong Khoản 1 Điều 143 BLHS năm 1999, gồm:
1.2.2.1. Khách thể của tội phạm
Khoa học luật hình sự cho rằng, trong hệ thống những quan hệ xã hội
40. 32
phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, các quan hệ xã hội có ý nghĩa khác
nhau đối với sự củng cố và phát triển của xã hội, được Nhà nước bảo vệ bằng
những quy phạm pháp luật khác nhau. Khách thể bảo vệ của luật hình sự là
những quan hệ xã hội được Nhà nước xác định cần được bảo vệ bằng những
quy phạm pháp luật hình sự. Những quan hệ xã hội đó sẽ là khách thể của tội
phạm trong trường hợp chúng bị gây thiệt hại hoặc bị đe dọa gây thiệt hại ở
mức độ nhất định.
Khách thể của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là những
hành vi xâm phạm đến quyền ở hữu tài sản của người khác. Sự gây thiệt hại
này phải phản ánh được đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội.
Khách thể của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản không xâm
phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng
là một điểm khác với một số tội xâm phạm sở hữu khác. Tội phạm được thực
hiện bằng hành vi hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản, xâm phạm trực tiếp đến
quyền sở hữu của công dân, tập thể, Nhà nước.
Đối tượng tác động của tội phạm: Như mọi hành vi phạm tội khác,
hành vi xâm phạm sở hữu cũng có đối tượng tác động cụ thể đó là tài sản - đối
tượng vật chất nhờ đó có sự tồn tại của quan hệ sở hữu. Tài sản theo điều 172
Bộ luật dân sự Việt Nam bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ có trị giá được
bằng tiền và các quyền về tài sản.
Khi xác định đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu nói
chung tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nói riêng cần chú ý:
- Một số vật có thực do tính chất và công dụng đặc biệt không được coi là
đối tượng tác động của các tội hoặc một số tội xâm phạm sở hữu mà là đối tượng
tác động của các hành vi phạm tội khác như công trình, phương tiện giao thông
vận tải, thông tin liên lạc, các loại vũ khí quân dụng, tài nguyên rừng..
41. 33
- Vật khi không còn là tài sản vì đã bị chủ tài sản hủy bỏ cũng sẽ không
còn là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu như gia súc của nông
trường đã bị chôn do mắc bệnh hoặc thuốc chữa bệnh đã bị hủy bỏ do hết thời
gian sử dụng....
- Tiền luôn luôn có thể là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu.
- Giấy tờ trị giá được bằng tiền có thể là phương tiện phạm tội giúp
người phạm tội có thể xâm phạm sở hữu. Trong một số trường hợp giấy tờ có
thể là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu.
- Quyền về tài sản nói chung cũng không thể là đối tượng tác động của
các tội xâm phạm sở hữu nhưng những giấy tờ thể hiện quyền về tài sản như
hóa đơn lĩnh hàng... có thể là đối tượng tác động của nhóm tội này trong
những trường hợp nhất định [38, tr.363].
1.2.2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố cơ bản cấu
thành tội phạm. Mặt khách quan được hiểu là mặt bên ngoài của tội phạm,
bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra và tồn tại bên ngoài thế giới
khách quan. Việc nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm có vai trò rất
quan trọng trong việc định tội và định khung hình phạt, và thông qua mặt
khách quan chúng ta cũng có thể xác định được mặt chủ quan, chủ thể và
khách thể của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm biểu hiện rõ nét nhất các yếu tố của tội
phạm mà con người có thể nhận biết trực tiếp được bao gồm các yếu tố:
- Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội;
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội;
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả;
- Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công cụ,
phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội…).
42. 34
Trong mặt khách quan của tội phạm, hành vi khách quan là biểu hiện
cơ bản, những biểu hiện của mặt khách quan chỉ có ý nghĩa khi có hành vi
khách quan, không có hành vi khách quan thì không có tội phạm.
Đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là tội có cấu
thành tội phạm vật chất. Về mặt khách qua cấu thành tội phạm tội này có
ba dấu hiệu:
- Hành vi khách quan của tội này là hành vi hủy hoại tài sản hoặc hành
vi làm hư hỏng tài sản.
Hành vi hủy hoại là hành vi làm cho tài sản mất giá trị sử dụng ở mức
độ không còn hoặc khó có khả năng khôi phục lại được. Hành vi đó có thể là
hành động (như đập, phá đốt...) hoặc không hành động (như không tắt máy
khi có sự cố dẫn đến máy bị hư hỏng hoàn toàn...). Hành vi hủy hoại có thể
được thực hiện bằng phương pháp và phương tiện hoặc công cụ phạm tội
khác nhau. Người phạm tội có thể đập phá tài sản bằng tay không hoặc có
công cụ phạm tội. Họ có thể hủy hoại tài sản bằng thuốc nổ hoặc thuốc độc,
bằng hóa chất hoặc bằng cách đốt cháy. Hình thức hành vi phạm tội (hành
động hay không hành động) cũng như phương pháp, phương tiện hay công cụ
phạm tội không có ý nghĩa về mặt định tội mà chỉ có thể có ý nghĩa đối với
việc quyết định hình phạt [38, tr.397].
Hành vi làm hư hỏng tài sản là hành vi làm giá trị sử dụng của tài sản bị
mất ở mức độ còn có điều kiện khôi phục lại được. Như vậy cả hai hành vi
hủy hoại tài sản và làm hư hỏng tài sản đều là hành vi làm mất giá trị sử dụng
của tài sản. Sự khác nhau của hai hành vi này là ở mức độ làm mất giá trị sử
dụng của tài sản.
Hậu quả của tội phạm: CTTP tội này đòi hỏi có hậu quả là tài sản bị
hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng. Tội phạm coi là hoàn thành khi hậu quả này đã
xảy ra. Khác với tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản và tội thiếu
43. 35
trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước dấu hiệu hậu
quả ở tội này không đòi hỏi phải là thiệt hại nghiêm trọng. Điều luật đòi hỏi
mức độ thiệt hại của hậu quả của tội phạm trong trường hợp bình thường phải
từ 2.000.000 đồng trở lên. Trong các trường hợp khác, hậu quả của tội phạm
không đòi hỏi ở mức độ như vậy. Các trường hợp đó là:
- Gây hậu quả nghiêm trọng;
- Đã bị xử phạt hành chính về hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản của người khác;
- Đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm
Như vậy, trong những trường hợp này, hành vi hủy hoại hoặc làm hư
hỏng tài sản có giá trị lớn hay nhỏ đều có thể thỏa mãn dấu hiệu hậu quả của
tội này. Tuy nhiên nếu giá trị tài sản bị hủy hoại hoặc làm hư hỏng quá nhỏ và
do vậy dẫn đến tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể thì hành
vi hủy hoại hoặc làm hư hỏng không bị coi là tội phạm (khoản 4 điều 8
BLHS). Cần phân biệt trường hợp này với trường hợp phạm tội chưa đạt là
trường hợp vì nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội nên hành vi
chưa gây ra thiệt hại hoặc mới chỉ gây ra thiệt hại không đáng kể.
Quan hệ nhân quả là dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Người có hành chỉ phải chịu trách nhiệm hình
sự về thiệt hại tài sản bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng nếu giữa thiệt hại này và
hành vi của họ có quan hệ nhân quả với nhau. Nghĩa là thiệt hại đó do chính
hành vi của họ gây ra. Việc xác định quan hệ nhân quả là cần thiết để tránh
sai lầm là buộc người không gây ra thiệt hại phải chịu TNHS.
Mặt khác, cũng cần lưu ý rằng quan hệ sở hữu tài sản không chỉ bị xâm
hại bởi tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (và các tội xâm phạm sở
hữu tài sản quy định tại Chương XIV Bộ luật hình sự) mà còn bị các hành vi
phạm tội khác, quy định trong các chương khác của BLHS gây thiệt hại. Tuy
44. 36
nhiên vì không đủ yếu tố CTTP khác nhưng đủ yếu tố cấu thành tội hủy hoại
tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nên cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố
vụ án theo Điều 143 Bộ luật Hình sự:
Ví dụ: Bản án số 11/2012/HSST ngày 17/01/2012 của Tòa án nhân dân
thành phố Nam Định. Do mâu thuẫn từ trước giữa Trần Quốc Chiến và chị
Doãn Thị Hằng là vợ của Nguyễn Hoàng Kiên nên khoảng 21h ngày
28/6/2011 Kiên đi xe máy đến đoạn gần cầu Đò Quan - thành phố Nam Định
thì gặp anh Chiến cùng Trần Trọng Đức đang đi trên 01 chiếc xe máy. Kiên
đã vượt xe lên chặn đầu xe Chiến lại hai bên dẫn đến xô xát. Lúc đó anh
Nguyễn Hồng Thái đi qua can ngăn lên Kiên và Thái đi về quán karaoke hát.
Khi Kiên đang hát thì Lê Văn Đức gọi điện Kiên đã kể lại lý do sô xát với
Chiến. Đức đã gọi điện thoại cho Chiến để hòa giải thì Chiến lại thách đố bảo
xuống nhà nói chuyện. Vì vậy Kiên, Đức và Thái đã đi 01 xe máy đến nhà
Chiến và mang theo 01 khẩu súng Trung Quốc bắn đạn khói và hai thanh đao
dài 60cm. Khi đến nhà Chiến, thấy Chiến cùng với Trần Trọng Đức cầm tuýp
sắt đứng ở cửa còn Lê Trọng Đức và Phạm Lôi Phong đứng ở vỉa hè. Chiến
chửi bọn Kiên, Lê Văn Đức, Thái đồng thời ném 01 tuyp sắt về phía bọn
Kiên. Kiên cầm khẩu súng bắn đạn khói chạy thẳng vào nhà bắn vào Chiến
làm khói mù mịt, Lê Văn Đức cầm tuýp sắt và dao xông vào trong nhà đâm
Chiến một nhát vào sườn phải, Thái chém vào ngón tay út bàn tay phải của
Chiến làm Chiến đứt gân gấp. Thái còn vung dao chém 01 nhát trượt khuỷu
tay trái Lê Trọng Đức làm rách da, chảy máu. Lúc này lực lượng công an
phường Phan Đình Phùng đến nên Kiên, Lê Văn Đức, Thái đi về. Thấy vậy
Chiến hai tay cầm hai tuýp sắt chạy ra vỉa hè đứng chửi và ném về phía bọn
Kiên. Ngay lập tức bọn Kiên, Lê Văn Đức, Thái quay lại đuổi theo Chiến,
Chiến dùng bình hoa và tuýp sắt ném về phía bọn Kiên làm Lê Văn Đức bị
rách da, chảy máu. Lê Văn Đức liền cầm 01 đoạn gỗ dài khoảng 20cm ném
45. 37
vỡ màn hình chiếc tivi tinh thể lỏng 42 inch của gia đình Chiến, hai bên tiếp
tục dùng một số vật là gạch đá ném nhau làm hư hỏng thêm một số tài sản
khác của gia đình Chiến. Hội đồng định giá tài sản đã xác định trị giá số tài
sản bị hủy hoại trên là 22.265.000 đồng. Trong quá trình điều tra giải quyết vụ
án Nguyễn Hoàng Kiên đã tự nguyện bồi thường theo thỏa thuận với anh Trần
Quốc Chiến, nên Chiến đã có đơn miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
Kiên, Lê Văn Đức, Thái về tội “Cố ý gây thương tích” và từ chối giám định tỉ
lệ thương tật. Cơ quan điều tra đã ra quyết định khởi tố bị can đối với Lê Văn
Đức về tội “hủy hoại tài sản”. Tòa án đã áp dụng khoản 1 điều 143, điểm b, h,
p khoản 1 điều 46 BLHS xử phạt bị cáo Lê Văn Đức 09 tháng tù nhưng cho
hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng.
1.2.2.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm là thể thống nhất của mặt khách quan và mặt chủ quan. Mặt
khách quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm, mặt
chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội. Mặt
chủ quan của tội phạm không tồn tại một cách độc lập mà luôn gắn liền với
mặt khách quan của tội phạm. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm động cơ
phạm tội, mục đích phạm tội và lỗi của người phạm tội, trong đó lỗi được
phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm.
Lỗi là dấu hiệu quan trọng nhất trong mặt chủ quan của tội phạm. Lỗi
là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, được biểu hiện dưới hình thức
cố ý hoặc vô ý. Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có
lỗi khi hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn cách xử sự trái pháp luật hình
sự trong khi họ có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn cách xử
sự phù hợp với pháp luật. Lỗi trong luật hình sự Việt Nam là lỗi cá nhân, lỗi
của một con người cụ thể khi thực hiện hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội.