SlideShare a Scribd company logo
1 of 105
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHAN VIỆT HÙNG
BIÖN PH¸P NG¡N CHÆN TRONG GIAI §O¹N
XÐT Xö S¥ THÈM - Lý LUËN Vµ THùC TIÔN
¸P DôNG TR£N §ÞA BµN THµNH PHè Hµ NéI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHAN VIỆT HÙNG
BIÖN PH¸P NG¡N CHÆN TRONG GIAI §O¹N
XÐT Xö S¥ THÈM - Lý LUËN Vµ THùC TIÔN
¸P DôNG TR£N §ÞA BµN THµNH PHè Hµ NéI
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin
cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Kính đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Phan Việt Hùng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM .................... 11
1.1. Khái quát về giai đoạn xét xử sơ thẩm ......................................... 11
1.2 Đặc điểm, ý nghĩa, căn cứ việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm...................................................... 14
1.2.1 Đặc điểm của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai
đoạn xét xử...................................................................................... 14
1.2.2 Mục đích- Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm.................................................................. 21
1.2.3. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm ....... 27
1.3. Những biện pháp ngăn chặn được quy định trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm................................................................................32
1.3.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bắt người ............ 32
1.3.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam.... 35
1.3.3. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về cấm đi khỏi
nơi cư trú ........................................................................................39
1.3.4. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp
bảo lĩnh ..........................................................................................40
1.3.5. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm .............................................41
Kết luận chương 1 ...................................................................................... 44
Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN TỪ 01/01/2008
ĐẾN HẾT NĂM 2012.....................................................................45
2.1. Thực trạng...................................................................................... 45
2.2. Nguyên nhân của thực trạng......................................................... 50
Kết luận chương 2 ...................................................................................... 54
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU
QUẢ TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM................................. 56
3.1. Dự báo về tình hình tội phạm trong thời gian tới ........................56
3.1.1. Dự báo về tình hình phạm tội trong thời gian tới.............................. 56
3.1.2. Những loại tội phạm sẽ xảy ra nhiều trong thời gian tới...................57
3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn......................................................................59
3.2.1. Tòa án cấp sơ thẩm cần nhận thức đúng đắn về việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn ........................................................................59
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống những quy định của pháp luật có liên quan
đến việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn....................................... 61
3.2.3. Cơ quan tiến hành tố tụng cần thực hiện tốt những qui định của
pháp luật về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.............72
3.2.4. Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ và đảm bảo các điều kiện
công tác nhằm thực hiện tốt việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn ......76
3.2.5. Giải pháp về tăng cường công tác chỉ đạo và kiểm sát, kiểm tra
việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự và tuyên truyền giáo dục pháp luật cho quần chúng
nhân dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật là điều kiện để
bảo đảm việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn. .............................. 78
3.2.6. Giải pháp về việc xử lý các trường hợp vi phạm.............................. 81
Kết luận chương 3 ...................................................................................... 87
KẾT LUẬN................................................................................................. 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................91
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nội dung
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
BPNC Biện pháp ngăn chặn
CP Chính phủ
CQĐT Cơ quan điều tra
CT Chỉ thị
HĐXX Hội đồng xét xử
LTTHS Luật tố tụng hình sự
NQ Nghị quyết
NXB Nhà xuất bản
SL Sắc lệnh
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
TTHS Tố tụng hình sự
TW Trung ương
UBTVQH Ủy ban thường vụ quốc hội
VKS Viện kiểm sát
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1. Số lượng các biện pháp ngăn chặn được áp dụng tại
Toà án Hà Nội 50
Bảng 2.2. Số lượng, tỷ lệ các biện pháp ngăn chặn được áp
dụng tại Toà án Hà Nội 50
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các biện pháp ngăn chặn (BPNC) là những chế định vô cùng quan
trọng được quy định tại BLTTHS. Việc quy định và áp dụng đúng đắn các
BPNC trong thực tế hoạt động tố tụng sẽ tác động rất lớn đến việc giải
quyết có hiệu quả nhiệm vụ của luật tố tụng hình sự (TTHS) là phát hiện
nhanh chóng và xử lý kịp thời, công minh đối với những hành vi nguy
hiểm cho xã hội, ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục được thực hiện,
đồng thời không làm oan người vô tội, bảo đảm được các quyền và lợi ích
hợp pháp của mọi công dân.
Trải qua quá trình lịch sử lập pháp từ sau khi giành được chính quyền
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, những BPNC cũng đã được Nhà
nước ta quy định rải rác hoặc xen kẽ trong một số văn bản về hình sự hoặc tố
tụng hình sự như các Lệnh, Sắc lệnh, Luật, Sắc luật… và các bản Hiến pháp
năm 1946, 1959, 1980 cũng đều có quy định về quyền cơ bản của công dân.
Tuy nhiên, những chế định về BPNC chỉ được quy định chi tiết, cụ thể ở lần
pháp điển hóa đầu tiên BLTTHS năm 1988 (được Quốc hội thông qua ngày
29 tháng 6 năm 1988 và sau đó được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990.
1992 và 2000) tại Chương V. Đến lần pháp điển hóa thứ 2 vào năm 2003, chế
định BPNC được quy định tại Chương VI của BLTTHS. Về các BPNC và căn
cứ áp dụng các BPNC, Điều 79 BLTTHS năm 2003 cơ bản vẫn giữ nguyên
như quy định tại Điều 61 BLTTHS năm 1988, đó là:
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ
bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố
2
tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật
này có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây:
bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [26].
Kế thừa và phát triển, BLTTHS năm 2003 ra đời cũng đã quy định cụ
thể, chi tiết hơn về thẩm quyền của những cơ quan THTT và những người
THTT trong việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế các BPNC.
BLTTHS năm 2003 cũng đã quy định về từng BPNC và các căn cứ,
thời hạn, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) và những
người THTT trong việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế đối với từng BPNC. Mặc
dù BLTTHS quy định về 6 BPNC (như đã nêu trên) nhưng không phải cơ
quan THTT nào cũng có thẩm quyền như nhau trong việc áp dụng, hủy bỏ,
thay thế BPNC, ví như: CQĐT có quyền áp dụng tất cả các BPNC nhưng đối
với biện pháp bắt (bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội
quả tang, bắt người đang có lệnh truy nã), tạm giữ, tạm giam thì tùy trường
hợp phải được phê chuẩn của VKS (trong một thời hạn cụ thể nhất định).
Đối với VKS thì có quyền áp dụng, phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ
một số BPNC do CQĐT ban hành. Riêng đối với Tòa án thì chỉ có quyền áp
dụng các BPNC sau: bắt (bắt và tạm giam để bảo đảm cho việc xét xử và thi
hành án, bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án); tạm giam; cấm đi khỏi nơi
cư trú; bảo lĩnh; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm mà không có
quyền áp dụng biện pháp tạm giữ. Mọi quyết định áp dụng, hủy bỏ, thay thế
BPNC của Tòa án (của Chánh án, Phó Chánh án; Thẩm phán là Chánh tòa,
Phó Chánh tòa phúc thẩm TANDTC; HĐXX; Thẩm phán chủ tọa phiên tòa)
đều không cần phê chuẩn của VKS.
Có thể nói, BPNC là một đặc thù của tố tụng hình sự. Trong đó biện
pháp bắt, tạm giữ, tạm giam là những biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng, là
3
vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị - xã hội, nó tác động trực tiếp đến
quyền con người, quyền tự do đi lại, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân. Việc bị áp dụng những biện pháp đó đồng thời ảnh hưởng đến sinh
mạng chính trị, danh dự, uy tín của con người và cả dư luận xã hội.
Ở mỗi giai đoạn tố tụng hình sự, việc áp dụng BPNC nào là thuộc thẩm
quyền của cơ quan THTT ở giai đoạn đó. Thực tiễn xét xử cho thấy, khi hồ sơ
vụ án hình sự do VKS chuyển đến, thông thường Tòa án vẫn tiếp tục áp dụng
BPNC do cơ quan THTT trước đó áp dụng, ví dụ như trước đó bị can đang bị
tạm giam mà tính đến ngày xét xử thời hạn tạm giam đã hết thì Tòa án ra
Lệnh tạm giam, nếu trước đó bị can được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi
cư trú thì Tòa án vẫn tiếp tục áp dụng biện pháp này, rất ít khi Tòa án áp dụng
biện pháp ngăn chặn khác.
Mặc dù BLTTHS quy định về các BPNC như vậy nhưng thực tế các cơ
quan THTT và đặc biệt là Tòa án rất ít khi áp dụng 2 BPNC là bảo lĩnh và đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư
trú thì Tòa án thường áp dụng trong trường hợp trước đó bị can, bị cáo đang
được áp dụng biện pháp này hoặc Tòa án hủy bỏ biện pháp tạm giam do cơ
quan THTT trước đó áp dụng và thay thế bằng biện pháp này.
Về thẩm quyền áp dụng BPNC của Tòa án, các biện pháp bắt và tạm
giam (để bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án), tạm giam, cấm đi khỏi nơi
cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là các biện pháp
được áp dụng ở giai đoạn chuẩn bị xét xử. Tại phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa
cũng có thể quyết định bắt giữ đối với người gây rối trật tự tại phiên tòa
(nhưng đây là chỉ là biện pháp xử lý hành chính trong tố tụng hình sự) hoặc
trong trường hợp người có hành vi hành hung người khác tại phiên tòa đến
mức cấu thành tội phạm thì thực hiện việc bắt người phạm pháp quả tang theo
quy định của Điều 82 BLTTHS. Riêng đối với biện pháp bắt tạm giam bị cáo
sau khi tuyên án là do HĐXX quyết định.
4
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, biện
pháp nhằm xây dựng một nền tư pháp lành mạnh, mang bản chất nhân dân,
hoạt động thực sự có hiệu quả. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của
Bộ Chính trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới"; Nghị quyết số 48 - NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị "về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020" xác định: "Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư
pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng
thuận tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư
pháp" [3]. Và tiếp đó, Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị "về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" cũng đã khẳng định:
…, xác định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động
trọng tâm;… Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền,
hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm.
Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với
một số loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [4].
Như vậy, Đảng và Nhà nước đã xác định vai trò, vị trí rất quan trọng
của Tòa án trong tiến trình cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Và thực tiễn xét xử ở giai đoạn sơ thẩm cũng cho
thấy, rất ít khi Tòa án áp dụng biện pháp bắt tạm giam đối với bị can, bị cáo
đang được tại ngoại. Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải thực sự cần
thiết và tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, nếu không thực sự ảnh
hưởng đến việc xét xử và thi hành án thì không cần bắt tạm giam. Trong
trường hợp bị cáo bị xử phạt tù thì sau khi bản án có hiệu lực pháp luật sẽ bắt
bị cáo chấp hành hình phạt trong trại giam (vì chế độ giam giữ đối với người
chấp hành hình phạt tù khác với chế độ tạm giam). Mặt khác, trong quá trình
5
chuẩn bị xét xử đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giam, qua nghiên cứu hồ sơ,
nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam (do bị cáo có thể được
hưởng chế định án treo theo quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự hoặc có thể
bị xử phạt không phải là hình phạt tù) thì Tòa án có thể quyết định hủy bỏ
biện pháp tạm giam và thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn khác mà
không nhất thiết phải đợi xét xử để trả tự do cho bị cáo (mặc dù thời gian tạm
giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt nhưng như vậy
cũng không có lợi cho bị cáo).
Tuy nhiên, đối với 2 BPNC là bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị
để bảo đảm thì gần như không được các cơ quan THTT áp dụng. Các cơ quan
THTT thường "ngại" khi áp dụng 2 biện pháp này, có thể một phần là do chưa
có sự hướng dẫn cụ thể, chi tiết từ các cơ quan có thẩm quyền. Đây là 2
BPNC có thể được áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam và có thể nói đây
là 2 biện pháp ít nghiêm khắc hơn tạm giam, được áp dụng trong trường hợp
không cần thiết phải tạm giam, nhưng thấy cần phải ngăn ngừa bị can, bị cáo
tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập
của cơ quan THTT.
Trong xu thế phát triển chung của thế giới cũng như việc thực hiện tinh
thần chỉ đạo của Đảng, Tòa án cần phát huy hơn nữa vai trò và vị trí của mình
trong công cuộc cải cách tư pháp, đặc biệt là cần chủ động, mạnh dạn trong
việc áp dụng các BPNC không phải là tạm giam, nhất là đối với những tội
phạm về kinh tế hoặc liên quan đến vấn đề bồi thường mà bị can, bị cáo đã
bồi thường thiệt hại, sửa chữa, khắc phục hậu quả.
Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: "Biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm - lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn
thành phố Hà Nội" làm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học với mong muốn
cố gắng nghiên cứu một cách tổng thể về các BPNC do Tòa án áp dụng trong
6
giai đoạn xét xử sơ thẩm được quy định tại BLTTHS hiện hành, từ đó đưa ra
những đề xuất nhằm khắc phục những thiếu sót, nhược điểm trong công tác
xây dựng và thi hành pháp luật, góp phần nâng cao hơn nữa tính hiệu quả,
tính thực tiễn của vấn đề này để phục vụ tốt hơn nữa cho các hoạt động tư
pháp hình sự ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Các BPNC là những chế định rất quan trọng trong BLTTHS. Về các
BPNC được quy định trong BLTTHS năm 1988 và sau này là BLTTHS năm
2003, đã có rất nhiều giáo trình giảng dạy ở bậc đại học, cao đẳng như Trường
Đại học Luật Hà Nội, khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, khoa Luật của các
học viện như Học viện Cảnh sát, Học viện An ninh, Trường Cao đẳng Kiểm sát
Hà Nội, Học viện Tư pháp đã đề cập, nghiên cứu về các BPNC, không những
thế các BPNC còn là đối tượng nghiên cứu của một số tài liệu chuyên khảo
hoặc bình luận như: "Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự" (Viện
Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp - 1990, 1992); "Bình luận khoa học
Bộ luật tố tụng hình sự" (Võ Khánh Vinh- chủ biên, Nxb Công an nhân dân,
2004); "Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự" (Nxb Chính trị
quốc gia, 1994) của Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật; "Những điều cần
biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam đúng pháp luật" (Nxb Chính trị quốc gia,
1993) của Phạm Thanh Bình - Nguyễn Vạn Nguyên; "Các biện pháp ngăn
chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng" (Nxb Công an nhân dân,
1995) của Nguyễn Vạn Nguyên; các bài viết của các tác giả Nguyễn Vạn
Nguyên, Mai Bộ, Phạm Thanh Bình, Nguyễn Văn Điệp, Vũ Gia Lâm, Nguyễn
Nông, Vũ Tiến Trí... đăng trên các tạp chí, đặc san chuyên ngành, và các
BPNC còn là đối tượng nghiên cứu để hướng dẫn áp dụng pháp luật vào thực
tiễn như các thông tư liên ngành, đơn ngành, các chỉ thị, công văn hướng dẫn
của các cơ quan Công an, VKS, Tòa án, Bộ Tư pháp, Nghị quyết của Hội đồng
7
thẩm phán TANDTC v.v... Tuy nhiên, các bài viết, sách… đó hầu hết chỉ đề
cập chủ yếu đến các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc các BPNC nhưng
do CQĐT, VKS áp dụng ở giai đoạn trước hoặc sau khi khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố bị can. Cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu
một cách chuyên sâu, đầy đủ, toàn diện về đề tài "BPNC trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm-lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội".
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu
của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đưa ra các luận giải khoa học và
một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao vị trí, vai trò, hiệu quả áp dụng
của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với việc áp dụng, hủy bỏ, thay
thế các BPNC trong tố tụng hình sự Việt Nam nói chung và nhất là trên địa
bàn thành phố Hà Nội nói riêng, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân và vì dân. Qua đó, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải
cách Tư pháp và hoàn thiện pháp luật của nước ta giai đoạn từ nay đến năm
2020, bảo đảm quyền dân chủ của công dân theo đúng đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về những
BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội, luận văn
tập trung vào những vấn đề sau:
- Khái quát các vấn đề lý luận cơ bản về các BPNC trong TTHS Việt
Nam. Trong đó nghiên cứu sơ lược quá trình hình thành và phát triển của
pháp luật về các BPNC; nghiên cứu và phân tích pháp luật thực định về các
BPNC, từ đó đưa ra các khái niệm về các BPNC nói chung và các khái niệm
về từng BPNC nói riêng.
8
- Nghiên cứu thực trạng áp dụng các BPNC trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội từ khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực
cho đến hết năm 2012; Tham khảo việc áp dụng BPNC trong pháp luật tố
tụng hình sự ở một số nước trên thế giới, tìm hiểu nguyên nhân của những
vướng mắc, tồn tại, bất cập giữa các quy định luật và thực tiễn.
- Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao tính hiệu quả trong
việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế BPNC của Tòa án trên địa bàn thành phố Hà Nội..
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thẩm quyền áp dụng, đối tượng
áp dụng, thời hạn áp dụng, thủ tục áp dụng (kể cả hủy bỏ hoặc thay thế) các
BPNC của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà
Nội, trong đó luận văn tập trung nghiên cứu nhiều hơn về những điểm bất
cập, vướng mắc trong việc quy định và áp dụng các BPNC.
3.4. Phạm vi và thời gian nghiên cứu
BPNC là những chế định lớn và phức tạp trong luật TTHS, vì vậy trong
phạm vi của một luận văn thạc sĩ khó có thể nghiên cứu và giải quyết hết mọi
vấn đề. Vì vậy, luận văn chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu nội dung của các
quy định về thẩm quyền, đối tượng, thời hạn, thủ tục áp dụng các BPNC trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội với thực trạng áp dụng
chúng, nghiên cứu nguyên nhân của những bất cập, vướng mắc trong quá trình
áp dụng lý luận vào thực tiễn, từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp
luật thực định về các BPNC do Tòa án áp dụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các BPNC trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội từ khi BLTTHS có
hiệu lực đến hết năm 2012.
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật;
9
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học xã hội và khoa học pháp lý cụ thể phù hợp với yêu
cầu của từng vấn đề nghiên cứu như: phương pháp phân tích tài liệu, nghiên
cứu lịch sử, tổng hợp, so sánh, thống kê Tư pháp…
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Điểm mới của luận văn thể hiện ở chỗ: đây là lần đầu tiên, các BPNC
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm được nghiên cứu một cách hệ thống và toàn
diện, kết quả của quá trình nghiên cứu không những tìm ra các nhược điểm
trong công tác xây dựng và thực thi pháp luật mà còn đưa ra được những kiến
nghị đề xuất nhằm góp phần vào việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật
TTHS, góp phần thúc đẩy việc áp dụng các quy định về các BPNC trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vào thực tiễn thực thi pháp luật được nghiêm minh,
chính xác, áp dụng đúng pháp luật, bảo đảm quyền con người đến mức tối đa
trong chế độ dân chủ của chúng ta.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về những vấn đề lý luận và thực
tiễn về BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo LTTHS Việt Nam, nó có
những đóng góp nhất định về mặt khoa học cho việc nghiên cứu, áp dụng trong
thực tiễn (tuy nhiên vẫn còn bị hạn chế vì mới chỉ dừng lại ở cấp độ một Luận
văn thạc sĩ), đồng thời góp phần tăng cường sự nhận thức đúng đắn của nhân
dân, cán bộ, công chức nhất là những người THTT thuộc cơ quan Tòa án trên
địa bàn thành phố Hà Nội về thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng, thời hạn
áp dụng, thủ tục áp dụng (kể cả hủy bỏ hoặc thay thế) các BPNC của Tòa án
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam;
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định về việc áp
dụng, hủy bỏ, thay thế các BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, góp phần
nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm nhưng
10
cũng đồng thời bảo đảm nguyên tắc tôn trọng quyền tự do, dân chủ của nhân
dân, tôn trọng quyền con người.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận án gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Chương 2: Thực trạng áp dụng các BPNC trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ
01/01/2008 đến hết năm 2012.
Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong việc áp
dụng BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
11
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
1.1. Khái quát về giai đoạn xét xử sơ thẩm
Xét xử sơ thẩm là một trong những giai đoạn của Tố tụng hình sự,
trong đó Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án,
quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật về tội phạm và hành vi của
người thực hiện tội phạm. Vì vậy, xét xử là giai đoạn trung tâm của TTHS.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau,
trong đó có thể nói giai đoạn xét xử là giai đoạn giữ vai trò quan trọng. Tại
phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện những chứng cứ được kiểm tra
công khai và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ, Tòa án xác định
một người có tội hay không có tội; nếu bị cáo thực hiện hành vi phạm tội thì
đó là tội gì, được qui định tại điều khoản nào trong Bộ luật hình sự. Ngoài
việc ra bản án, Tòa án còn có quyền ra các quyết định cần thiết khác nhằm
giải quyết vụ án.
Sau khi xét xử sơ thẩm, theo nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét
xử, bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị
theo quy định của pháp luật. Trong thời hạn luật định mà không có kháng cáo
kháng nghị thì bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật nhưng nếu bị
kháng cáo kháng nghị thì vụ án sẽ được giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Như vậy, có thể nói xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu do Tòa án cấp có
thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật (ngoại trừ một số trường
hợp xét xử sơ thẩm nhưng không phải lần đầu do vụ án sau khi xét xử xong bị
hủy và buộc phải điều tra hoặc xét xử sơ thẩm lại); được tiến hành sau khi
Tòa án nhận được Cáo trạng quyết định truy tố bị can (Quyết định truy tố bị
12
can trong trường hợp thủ tục rút gọn) và hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển
đến. Do vậy, mọi tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ được Tòa án xem xét,
kiểm tra nhằm đưa ra các phán quyết khách quan, phù hợp với quy định của
pháp luật. Tất cả những tài liệu, chứng cứ được thu thập trong giai đoạn điều
tra, truy tố có trong hồ sơ được Tòa án đưa ra kiểm tra công khai tại phiên tòa
thông qua việc xét hỏi và tranh luận. Xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu nên
trong giai đoạn này Tòa án phải giải quyết toàn bộ các vấn đề của vụ án trên
cơ sơ Cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Như vậy, Xét xử sơ thẩm phải giải quyết các vấn đề:
- Xem xét và giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật
nhằm bảo vệ chế độ, pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ tài sản của nhà nước,
của tập thể, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; góp phần đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
- Trên cơ sở truy tố của Viện kiểm sát, Tòa án tiến hành giải quyết vụ
án bằng việc ra bản án, quyết định xác định bị cáo có tội hay không phạm tội;
quyết định hình phạt và các biện pháp tư pháp khác dựa trên cơ sở các chứng
cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên và những người
tham gia tố tụng khác.
- Trường hợp không đủ căn cứ để đưa vụ án ra xét xử theo trình tự sơ
thẩm, Tòa án tiến hành giải quyết vụ án bằng việc ra quyết định đình chỉ vụ
án, tạm đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật.
- Qua việc xét hỏi và tranh luận công khai, dân chủ tại phiên tòa, Hội
đồng xét xử kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ những chứng cứ, tình tiết của vụ án
đã có trong hồ sơ và tại phiên tòa, đưa ra phán quyết cuối cùng.
- Thông qua việc xét xử và đặc biệt là thông qua phiên tòa công khai,
các phiên tòa lưu động, giai đoạn xét xử sơ thẩm góp phần phổ biến, giáo dục,
nâng cao ý thức pháp luật, giáo dục công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp
13
luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội, nâng cao ý thức đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm cũng như các vi phạm pháp luật khác.
Với vai trò và ý nghĩa đặc biệt như trên, việc xác định thẩm quyền xét
xử sơ thẩm của Tòa án có ý nghĩa quan trọng và là cơ sở để xác định thẩm
quyền xét xử Tòa án trong các giai đoạn tiếp theo.
Thẩm quyền của Tòa án theo nghĩa chung nhất được hiểu là quyền xem
xét và giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Tòa án ra bản
án nhân danh Nhà nước và Bản án của Tòa án cụ thể đường lối, chính sách,
quan điểm của Nhà nước đối với xử lý người có hành vi phạm tội.
Trong Luật tố tụng hình sự, theo nghĩa rộng, thẩm quyền xét xử của
Tòa án bao gồm quyền xem xét và giải quyết và quyền giải quyết vụ án, ra
bản án hoặc các quyết định khác như quyết định đình chỉ vụ án, quyết định
tạm đình chỉ vụ án…Theo đó, thẩm quyền của Tòa án bao gồm hai yếu tố có
liên quan chặt chẽ với nhau là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội
dung. Thẩm quyền về hình thức là quyền xem xét và phạm vi xem xét hay nói
cách khác là giới hạn xét xử của Tòa án; thẩm quyền nội dung là quyền hạn
giải quyết, quyết định của Tòa án đối với những vấn đề được xem xét.
Thẩm quyền xét xử của Tòa án cần phải dựa vào các căn cứ sau:
- Đường lối, chính sách của Đảng;
- Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;
- Trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ của Thẩm phán cũng như Điều tra
viên, Kiểm sát viên;
- Biên chế và cơ sở vật chất;
- Tình hình phạm tội và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm…
Dựa vào những căn cứ trên, tại Phần thứ ba-chương XV-Bộ luật tố tụng
hình sự quy định về Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo sự việc, theo
lãnh thổ và theo đối tượng.
14
1.2 Đặc điểm, ý nghĩa, căn cứ việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
1.2.1 Đặc điểm của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai
đoạn xét xử
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng
được áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế, trong đó có biện pháp ngăn chặn.
Biện pháp ngăn chặn là chế định pháp lý quan trọng được quy định tại
Bộ luật tố tụng hình sự. Năm 1988 khi Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam đầu
tiên ra đời các biện pháp ngăn chặn đã được quy định tại chương V và một số
điều ở các chương khác. Kế thừa và phát triển, năm 2003 Bộ luật tố tụng hình
sự được chỉnh lý và các biện pháp ngăn chặn được quy định tại chương VI.
Khi Bộ luật tố tụng hình sự chưa ra đời, các biện pháp ngăn chặn được
quy định xen kẽ trong các văn bản khác nhau về tổ chức bộ máy Nhà nước
như: Sắc lệnh số 13/SL ngày 24.11.1946 về tổ chức Tòa án và ngạch Thẩm
phán; Sắc lệnh số 13/SL ngày 20.7.1946 về tổ chức bộ máy Tư pháp và Công
an; Sắc lệnh 85/SL ngày 07.11.1950 về cải cách bộ máy tư pháp.
Sau năm 1954, các biện pháp ngăn chặn được quy định trong Luật 103-
SL/005 ngày 20.5.1957 về việc đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất
khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân; Sắc luật 02-SL
ngày 18.6.1957 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định
những trường hợp phạm pháp quả tang và trường hợp khẩn cấp; Nghị định
301-Ttg ngày 10.7.1957 của Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và Sắc luật số 02/SL ngày 15.3.1976 cuả Chính phủ cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quy định các biện pháp ngăn chặn như:
bắt bình thường, bắt khẩn cấp, bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam...
Các văn bản pháp luật hình sự thời kỳ trước khi có Bộ luật tố tụng hình
sự dùng thuật ngữ các biện pháp cưỡng chế để chỉ nội dung các biện pháp
15
ngăn chặn quy định trong luật tố tụng hiện hành. Cách gọi đó không phản ánh
chính xác nội dung, phạm vi và mục đích của biện pháp ngăn chặn vì ngoài
biện pháp ngăn chặn thì biện pháp cưỡng chế của Tố tụng hình sự còn có các
biện pháp khác như: biện pháp điều tra thu thập chứng cứ, biện pháp bảo đảm
cho việc giải quyết vụ án...
Luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định hệ thống các biện pháp ngăn
chặn tương đối đầy đủ bao gồm: “bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư
trú, bảo lãnh, đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo” [26, Điều 61]. Năm 2003, Bộ
luật tố tụng hình sự sửa đổi, bổ sung vẫn kế thừa và giữ nguyên các biện pháp
ngăn chặn được quy định trong luật tố tụng hình sự năm 1988.
Những biện pháp ngăn chặn được áp dụng với mục đích ngăn chặn
không cho tội phạm xảy ra gây thiệt hại cho xã hội, không để người phạm tội
tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật, đồng thời, việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn còn nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan tiến
hành tố tụng giải quyết vụ án như không để người phạm tội có thể xóa bỏ dấu
vết phạm tội, tiêu hủy chứng cứ, làm giả chứng cứ, thông cung giữa những
người phạm tội hoặc người làm chứng, đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo,
bị án khi có yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng... Với mục đích như vậy,
biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự khác với biện pháp cưỡng chế khác
và hình phạt trong Luật hình sự.
Biện pháp cưỡng chế của Luật tố tụng hình sự là những biện pháp bảo
đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành bản án hình sự nhanh
chóng, khách quan theo quy định của pháp luật hình sự. Biện pháp cưỡng chế
mà Luật tố tụng hình sự quy định bao gồm: các biện pháp ngăn chặn, các biện
pháp thu thập chứng cứ như: khám xét nhà, đồ vật, thư tín, xét hỏi bị can, lấy
lời khai người làm chứng, nhận dạng đối chất...Những biện pháp bảo đảm cho
16
các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án như: kê biên tài sản, áp
giải bị can... Như vậy, biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự có nội dung
và phạm vi rộng hơn rất nhiều so với biện pháp ngăn chặn và không chỉ nhằm
mục đích ngăn chặn tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ
án của các cơ quan tiến hành tố tụng mà còn nhằm mục đích răn đe, phòng
ngừa tội phạm...
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do
Tòa án áp dụng đối với người phạm tội và thông qua việc trừng trị nhằm mục
đích giáo dục cải tạo phạm tội, phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung. Hình
phạt là một trong những biện pháp tác động của trách nhiệm hình sự, là hậu quả
pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu do hành vi phạm tội của
mình gây ra, vì vậy cơ sở để áp dụng hình phạt đối với một người khi họ có
hành vi thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật tố
tụng hình sự, còn biện pháp ngăn chặn là một trong các biện pháp cưỡng chế
của tố tụng hình sự được áp dụng khi có căn cứ và trong phạm vi quy định của
Luật tố tụng hình sự. Hình phạt chỉ do Tòa án quyết định áp dụng đối với người
phạm tội, còn biện pháp ngăn chặn thì do nhiều cơ quan, người người có quyền
áp dụng. Hình phạt có nội dung trừng trị, còn các biện pháp ngăn chặn không
mang nội dung đó mặc dù khi áp dụng nó hạn chế quyền tự do thân thể, tự do
đi lại trong một thời gian nhất định của người bị áp dụng, nó chỉ mang tính
phòng ngừa và nội dung là tạo điều kiện để làm rõ các tình tiết của vụ án góp
phần vào việc xử lý tội phạm. Là hai chế định ở hai ngành luật khác nhau, hình
phạt và các biện pháp ngăn chặn khác nhau về bản chất pháp lý cũng như điều
kiện áp dụng, vì thế mọi nhận thức áp dụng biện pháp ngăn chặn để trấn áp,
trừng trị người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là sai lầm.
Đối tượng bị cáp dụng các biện pháp ngăn chặn là bị can, bị cáo, người
phạm tội quả tang hoặc người mà cơ quan tiến hành tố tụng có tài liệu, chứng
17
cứ nghi họ phạm tội. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn các cơ quan có
thẩm quyền chỉ được tiến hành trong phạm vi, giới hạn cũng như thủ tục mà
Luật tố tụng hình sự quy định. Ngoài các đối tượng kể trên không ai có thể bị
áp dụng các biện pháp ngăn chặn, mọi hành vi áp dụng các biện pháp ngăn
chặn không đúng đối tượng, thẩm quyền, căn cứ cũng như thủ tục đều bị coi
là vi phạm pháp luật, người có hành vi vi phạm pháp luật tuy theo tính chất và
mức độ có thể bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn là những người tiến
hành tố tụng có thẩm quyền của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
hoặc những người có chức vụ trong các cơ quan khác được giao thực hiện
một số hoạt động tố tụng, công dân tham gia vào việc bắt người phạm tội quả
tang. Tùy theo tính chất, đặc điểm của từng giai đoạn tố tụng, chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan, Luật tố tụng hình sự quy định cho cơ quan đó được
áp dụng tất cả hay một số các biện pháp ngăn chặn và trong phạm vi, giới hạn
cũng như theo thủ tục của Luật tố tụng hình sự.
Nội dung của các biện pháp ngăn chặn là hạn chế quyền tự do thân thể,
tự do đi lại, quyền về tài sản... trong một thời gian, do vậy ảnh hưởng đến các
quyền cơ bản cơ bản của công dân, đặc biệt là quyền tự do thân thể được quy
định trong Hiến pháp. Vì vậy, so với các biện pháp cưỡng chế khác của Tố
tụng hình sự thì biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc hơn nên khi áp
dụng các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải cân nhắc thận trọng, tránh áp
dụng tràn lan, tùy tiện, gây thiệt hại lợi ích hợp pháp của công dân. Luật tố
tụng hình sự nước ta quy định các biện pháp ngăn chặn nhằm mục đích ngăn
chặn tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án nhưng cũng
đồng thời đòi hỏi khi áp dụng các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân, không được áp dụng tùy tiện, chỉ
khi nào thật cần thiết mới được áp dụng và trong khuôn khổ quy định của
pháp luật tố tụng hình sự.
18
BLTTHS Việt Nam hiện hành mặc dù không đưa ra một khái niệm về
BPNC, tuy nhiên tại Điều 79 BLTTHS 2003 cũng đã quy định các căn cứ áp
dụng các BPNC như sau:
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị
can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp
tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, thì cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát hoặc Tòa án có thể áp dụng một trong những biện pháp
ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo
lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [32, Điều 79].
Các căn cứ này cũng đã phản ánh một phần bản chất của của các BPNC
của pháp luật TTHS Việt Nam. Tuy nhiên, BPNC là biện pháp cưỡng chế tố
tụng rất nghiêm khắc, đòi hỏi phải có sự phân định rõ ràng về chủ thể áp
dụng, về thẩm quyền áp dụng, về đối tượng bị áp dụng, về căn cứ và mục đích
áp dụng để từ đó mới có thể hiểu một cách thấu đáo và vận dụng đúng đắn
vào thực tiễn.
- Giáo trình luật TTHS Việt Nam - Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
cho rằng: “BPNC là biện pháp cưỡng chế trong TTHS áp dụng với bị can, bị
cáo, người phạm tội quả tang và người cần phải bắt trong trường hợp khẩn
cấp. Nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm của họ, ngăn chặn người đó gây khó
khăn cho việc điều tra truy tố, xét xử và tiếp tục phạm tội hoặc trốn” [65].
Các tài liệu nêu trên về cơ bản đã nêu được một phần khái niệm về các
BPNC, tuy nhiên vẫn chưa đưa ra được một khái niệm đầy đủ, khoa học chứa
đựng tất cả các yếu tố cấu thành nên BPNC thể hiện ở các dấu hiệu đặc trưng
như căn cứ áp dụng, mục đích, thẩm quyền áp dụng và đối tượng bị áp dụng
BPNC. Một khái niệm hoàn chỉnh, chính xác về các biện pháp ngăn chặn thì
trong khái niệm đó phải hàm chứa tất cả các dấu hiệu đặc trưng của các
BPNC như: căn cứ áp dụng; mục đích áp dụng; thẩm quyền áp dụng và đối
tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn.
19
Từ sự phân tích trên, chúng tôi rút ra khái niệm về các biện pháp ngăn
chặn như sau:
Các biện pháp ngăn chặn là các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng
hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo và người chưa bị khởi tố về hình
sự để kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, cũng như
không cho họ có những hành động làm cản trở hoạt động điều tra, xét xử
hoặc thi hành án hình sự.
Như vậy, với khái niệm trên chúng ta có thể thấy Biện pháp ngăn chặn
có những đặc điểm sau:
Đặc điểm thứ nhất: Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế
Đặc điểm thứ hai: Biện pháp ngăn chặn chỉ áp dụng đối với các đối
tượng là bị can, bị cáo và người chưa bị khởi tố về hình sự (nhưng người này
có dấu hiếu đã thực hiện tội phạm);
Đặc điểm thứ ba: Biện pháp ngăn chặn dùng để ngăn chặn tội phạm,
ngăn ngừa người thực hiện tội phạm tiếp tục phạm tội, ngăn chặn không cho
người phạm tội có những hành động làm cản trở các hoạt động điều tra, xét
xử hoặc thi hành án hình sự.
Biện pháp ngăn chặn là một chế định pháp lý quan trọng của Luật tố
tụng hình sự. Trước khi Bộ luật tố tụng hình sự ra đời, các biện pháp ngăn
chặn được quy định trong Luật số 103-SL/005 ngày 20.5.1957, Sắc luật số
002-SL ngày 18.6.1957 của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Sắc
luật 02-SL ngày 15.3.1957 của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền
Nam Việt Nam bao gồm các quy định về việc bắt người, giam, tha, khám xét
và được gọi là những biện pháp cưỡng chế.
Những biện pháp ngăn chặn là một trong những nhóm của biện pháp
cưỡng chế. Những biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để
kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây
20
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như để đảo bảo thi hành án.
Những biện pháp ngăn chặn khi được áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các
quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản
pháp luật khác.
Kế thừa có chọn lọc và phát triển luật tố tụng hình sự của Nhà nước ta
từ sau Cách mạng tháng tám đến nay, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy
định những biện pháp ngăn chặn trong Chương VI. Những biện pháp cưỡng
chế trong tố tụng hình sự có nội dung tương đối rộng và cụ thể, được chia
thành ba nhóm:
Nhóm 1: Gồm những biện pháp nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm,
ngăn ngừa người có hành vi phạm tội bỏ trốn hoặc có hành vi gây khó khăn
cho quá trình giải quyết vụ án như: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư
trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Nhóm 2: Gồm những biện pháp bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ
như khám xét người, khám xét chỗ ở, địa điểm nơi làm việc, khám nghiệm
hiện trường, xem xét dấu vết trên thân thể…
Nhóm 3: Gồm những biện pháp bảo đảm sự thuận lợi cho hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án như kê biên tài sản, áp giải bị can, bị cáo, người
bị kết án, dẫn giải người làm chứng, những biện pháp xử lý do Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa áp dụng đối với người có hành vi phạm nội quy phiên tòa.
Trong ba nhóm biện pháp cưỡng chế trên, các biện pháp ngăn chặn
nằm ở nhóm thứ nhất, được quy định cụ thể từ Điều 79 đến Điều 94 Bộ luật tố
tụng hình sự.
Tại Bộ luật tố tụng hình sự quy định:
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ
bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
sẽ tiếp tục phạm tội, cung như khi cần đảm bảo thi hành án, Cơ
21
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố
tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn
chặn sau đây: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo
lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [32, Điều 79].
1.2.2. Mục đích- Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Để giải quyết một vụ án hình sự, các Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án
phải tiến hành nhiều hành vi tố tụng khác nhau nhằm thu thập chứng cứ
chứng minh tội phạm và người phạm tội; áp dụng hình phạt và buộc người đã
thực hiện hành vi phạm tội phải chịu hình phạt hoặc các chế tài pháp lý khác.
Quá trình này không chỉ đòi hỏi các hoạt động tích cực của Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán mà còn là những hoạt động của những người tham
gia tố tụng khác như: người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự,
bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng... với những quyền và nghĩa vụ
nhất định khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên, không phải bao giờ bị can, bị cáo
hoặc những người bị nghi là thực hiện hành vi phạm tội (thuật ngữ này dùng
để chỉ những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang)
cũng thực hiện nghĩa vụ của mình một cách tự giác; nhiều trường hợp họ cố
tình trốn tránh hoặc gây cản trở cho các hoạt động tố tụng. Vì vậy, để ngăn
chặn và phòng ngừa họ không thực hiện nghĩa vụ, việc pháp luật quy định và
cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những
người khác theo luật định được áp dụng các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam
trong những trường hợp nhất định, đối với những đối tượng nhất định là hết
sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong cuộc đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm ở nước ta.
Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là những biện pháp
cưỡng chế của Nhà nước thể hiện tính mệnh lệnh quyền uy trong phương
22
pháp điều chỉnh của luật tố tụng hình sự. Áp dụng đúng đắn các biện pháp
ngăn chặn có ý nghĩa rất lớn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cụ thể:
- Áp dụng đúng đắn biện pháp ngăn chặn sẽ đảm bảo cho quá trình giải
quyết vụ án hình sự khách quan, toàn diện, không có sự oan sai xảy ra.
- Áp dụng các biện pháp ngăn chặn là đảm bảo quan trọng trong việc
tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các quy định về căn cứ áp
dụng biện pháp ngăn chặn là nhằm đạt được mục tiêu ngăn chặn và phòng
chống tội phạm. Tuy nhiên, không phải vì thế mà cơ quan tiến hành tố tụng áp
dụng một cách tùy tiện, thiếu căn cứ. Do đó, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng
phải tiến hành đúng trình tự, thủ tục và phải thận trọng trong hoạt động này.
Ví dụ: Khi bắt người phải có đại diện của chính quyền xã, phường, thị
trấn hoặc đại diện cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư trú hoặc làm việc và
phải có người láng giềng chứng kiến.
- Áp dụng biện pháp ngăn chặn góp phần bảo vệ trật tự xã hội và chế
độ XHCN, bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công
dân và các quan hệ xã hội khác cần được bảo vệ đồng thời trấn áp một cách
kiên quyết tội phạm xảy ra vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh.
- Những biện pháp ngăn chặn thể hiện sự chuyên chính của Nhà nước
xã hội chủ nghĩa trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Tội phạm về bản chất là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây ra hoặc đe
dọa gây ra những thiệt hại cho những mối quan hệ xã hội quan trọng được
luật hình sự bảo vệ. Tội phạm trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền
vững và ổn định của chế độ Nhà nước, chế độ kinh tế- chính trị, xã hội, đến
tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân cũng
như quy tắc của cuộc sống xã hội- xã hội chủ nghĩa. Do đó, Nhà nước ta coi
việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh
23
nhằm tiến tới loại trừ hiện tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội là một
trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và phải được tiến hành một cách kiên
quyết, triệt để, không khoan nhượng. Việc quy định và đảm bảo thực hiện các
biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự là biểu hiện cụ thể của
quan điểm đó của Nhà nước.
Để giải quyết một vụ án hình sự, các Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án
phải tiến hành nhiều hành vi tố tụng khác nhau nhằm thu thập chứng cứ
chứng minh tội phạm và người phạm tội; áp dụng hình phạt và buộc người đã
thực hiện hành vi phạm tội phải chịu hình phạt hoặc các chế tài pháp lý khác.
Quá trình này không chỉ đòi hỏi các hoạt động tích cực của Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán mà còn là những hoạt động của những người tham
gia tố tụng khác như: người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự,
bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng... với những quyền và nghĩa vụ
nhất định khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên, không phải bao giờ bị can, bị cáo
hoặc những người bị nghi là thực hiện hành vi phạm tội (thuật ngữ này dùng
để chỉ những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang)
cũng thực hiện nghĩa vụ của mình một cách tự giác; nhiều trường hợp họ cố
tình trốn tránh hoặc gây cản trở cho các hoạt động tố tụng. Vì vậy, để ngăn
chặn và phòng ngừa họ không thực hiện nghĩa vụ, việc pháp luật quy định và
cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những
người khác theo luật định được áp dụng các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam
trong những trường hợp nhất định, đối với những đối tượng nhất định là hết
sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong cuộc đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm ở nước ta.
BLTTHS cho phép khi cần thiết Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án được
áp dụng BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam và kịp thời thay đổi hoặc hủy bỏ các
BPNC đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa.
24
Tinh thần đó được thể hiện ở sự quy định chặt chẽ về căn cứ, thẩm quyền ra
lệnh, thời hạn áp dụng cũng như chế độ đối xử đối với người bị áp dụng. Khi
đã hết thời hạn tạm giữ, tạm giam thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm
giữ, tạm giam hoặc xét cần thiết thì áp dụng BPNC khác.
Đối với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam trong các giai đoạn điều tra,
truy tố, xét xử BLTTHS đều quy định việc trả lại tự do hoặc thay đổi bằng
BPNC khác nếu thấy rằng những việc đó không cần thiết nữa.
Mọi công dân căn cứ vào quy định của pháp luật về việc bắt, tạm giữ,
tạm giam sẽ kiểm tra được tính đúng đắn của việc áp dụng các BPNC này,
qua đó bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của mình.
Các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam không chỉ thể hiện tính cưỡng chế
của Nhà nước đối với người có hành vi xâm hại các quyền của công dân mà
còn là một phương tiện hữu hiệu để bảo vệ các quyền đó khi nó có nguy cơ bị
xâm hại hoặc đang bị xâm hại. Các BPNC đó tuy hạn chế một số quyền của
công dân đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người bị nghi là thực hiện hành vi
phạm tội, nhưng mặt khác lại bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội,
quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân khác.
Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nên
những hoạt động của Nhà nước không nhằm mục đích nào khác là phục vụ
quyền lợi của nhân dân lao động. Bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa là một
chế độ dân chủ trong đó các quyền của công dân được tôn trọng, pháp luật
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Pháp luật XHCN không
cho phép một hành vi trái pháp luật nào xâm phạm đến các quyền và lợi ích
của công dân dù đó là hành vi của cơ quan nhà nước hay những người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ các quy định về bắt, tạm giữ, tạm
giam là nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng. Các cơ quan này phải hoạt
25
động theo đúng nhiệm vụ, quyền hạn và thủ tục do pháp luật quy định. Cơ
quan tiến hành tố tụng không những tự mình phải tuân theo các quy định của
BLTTHS mà còn phải kịp thời ngăn chặn mọi vi phạm pháp luật của những
người tiến hành tố tụng. Mọi hành vi trái với quy định của pháp luật về việc
bắt, tạm giữ, tạm giam đều bị xử lý nghiêm khắc, có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo Điều 119 BLHS về tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật.
Quy định về các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam còn thể hiện tính nhân
đạo ở các quy định về việc bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành
niên hay tại BLTTHS: "Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang
thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà
nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác,
trừ trường hợp đặc biệt" [32, Điều 88, Khoản 2].
Bộ luật còn quy định việc chăm lo người thân thích và bảo quản tài sản
của người bị tạm giam, tạm giữ:
Khi người bị tạm giam, tạm giữ có con chưa thành niên dưới mười bốn
tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu không có người chăm
sóc, thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó
cho người thân thích chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm
giam không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm
giam giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom.
Tại BLTTHS quy định: “Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam
có nhà hoặc tài sản khác mà không có người chăm nom, bảo quản thì cơ quan
ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam phải áp dụng những biện pháp bảo
quản thích đáng” [32, Điều 90, khoản 1, 2].
Tòa án, với vai trò là cơ quan duy nhất có quyền đưa ra phán quyết đối
với người bị truy tố về tội danh và hình phạt tùy theo mức độ hành vi đã phạm
tội, do vậy việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với các bị cáo có ý nghĩa hết
26
sức đặc biệt. Đối với các cơ quan điều tra, khi áp dụng các biện pháp ngăn
chặn còn phụ thuộc vào sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp, và khi cơ
quan điều tra và cơ quan truy tố áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì cả đều
có thể bị Tòa án sau khi xem xét hồ sơ vụ án có thể thay đổi việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn mà không cần có sự phê chuẩn của bất kỳ cơ quan nào,
việc thay đổi áp dụng các biện pháp ngăn chặn này cũng không bị bất kỳ cơ
quan nào có thể thay đổi lại. Như vậy, vai trò của Tòa án trong giai đoạn xét
xử (sơ thẩm hay phúc thẩm) là rất lớn, rất quan trọng và cần phát huy trong
mỗi vụ án riêng biệt để đảm bảo mỗi vụ án, mỗi bị cáo khi được đưa ra xét xử
vừa được đảm bảo công bằng, vừa mang tính giáo dục cao đối bị cáo cũng
như cộng đồng.
Tuy nhiên, trong thực tế việc Tòa án thay đổi các biện pháp ngăn chặn
đối với các bị cáo là rất hạn chế, mà chủ yếu Tòa án chỉ tiếp tục áp dụng biện
pháp ngăn chặn mà cơ quan truy tố trước đó đã sử dụng, trong khi đó căn cứ
vào mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân của bị cáo và
những diễn biến thực tế Tòa án có thể áp dụng để thay đổi áp dụng biện pháp
ngăn chặn nặng hơn hoặc nhẹ hơn đối với bị cáo.
Ví dụ: Bị cáo Nguyễn Văn A, sinh năm 1978, trú tại số 9 ngách 2 Định
Công, Hoàng Mai, Hà Nội; bị truy tố về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1
Điều 138 BLHS; sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án Thẩm phán xét thấy bị cáo
khai nhận hành vi phạm tội, số tiền chiếm đoạt 15 triệu đồng đã được khắc
phục cho người bị hại, lần đầu phạm tội, có nơi cư trú rõ. Trong trường hợp
này có thể xem xét áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo,
tuy nhiên Thẩm phán đã không áp dụng BPNC này đối với bị cáo mà vẫn áp
dụng biện pháp tạm giam đối với bị cáo. Việc không thay đổi biện pháp ngăn
chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo trong trường hợp này là có phần
nghiêm khắc đối với bị cáo.
27
Trong trường hợp này Tòa án không thay đổi áp dụng BPNC đối với bị
cáo vì nhiều lý do, nhưng lý do cơ bản mà người Thẩm phán không dám đề
xuất với người có thẩm quyền thay đổi BPNC đối với bị cáo A vì sợ bất kỳ
một sơ suất nhỏ không đảm bảo được sự có mặt của bị cáo khi xét xử và đảm
bảo công tác thi hành án sau khi tuyên án.
1.2.3. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Áp dụng các biện pháp ngăn chặn là cần thiết trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn thực chất là
sự tác động trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân. Vì vậy, khi áp dụng
các biện pháp ngăn chặn phải hết sức cẩn trọng, không thể có sự tùy tiện khi
quyết định áp dụng các biện pháp này.
Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn nhất thiết phải tuân thủ tuyệt đối
các quy định của pháp luật, đảm bảo việc ra quyết định áp dụng các biện pháp
ngăn chặn có căn cứ, đúng pháp luật.
Theo Điều 79 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, để áp dụng các biện
pháp ngăn chặn phải dựa vào những căn cứ sau:
1.2.3.1. Kịp thời ngăn chặn tội phạm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện, mỗi tội phạm xảy ra đều có thể gây ra hoặc đe dọa
gây ra thiệt hại cho một hay nhiều quan hệ xã hội là khách thể được Luật hình
sự bảo vệ. Việc kịp thời ngăn chặn tội phạm, không để tội phạm xảy ra hoặc
không để người phạm tội có điều kiện kết thúc hành vi phạm tội của mình gây
ra hậu quả nguy hại cho xã hội là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách.
Căn cứ này thường áp dụng để bắt người trong những trường hợp sau:
- Bắt người trong trường hợp khẩn cấp khi có căn cứ để cho rằng một
người nào đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng; khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội
28
phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm
mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; khi thấy có dấu hiệu của
tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét
thấy cần thiết ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
- Bắt người phạm tội quả tang khi phát hiện một người đang thực hiện tội
phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt.
Như vậy, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, sau khi nhận hồ sơ từ Viện
kiểm sát chuyển sang, khi thụ lý vụ án nếu xét thấy cần phải tiếp tục giam
người phạm tội để đảm bảo việc xét xử và thi hành án, Tòa án tiếp tục ra lệnh
giam đối với bị can (hoặc bị cáo) kể từ ngày thụ lý vụ án hoặc kể từ ngày hết
thời hạn tạm giam của cơ quan tiến hành tố tụng trước đó (Đ88-BLTTHS).
1.2.3.2. Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt
động xét xử
Việc bị can, bị cáo có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án cũng như
việc quản lý giám sát được bị can, bị cáo về con người cũng như hành vi của
họ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử. Nếu bị can, bị cáo trốn
tránh hoặc có hành vi gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
thì việc xác định sự thật khách quan của vụ án sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì
vậy, Tố tụng hình sự quy định khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử là một trong các căn cứ áp dụng
biện pháp ngăn chặn.
Đối tượng để áp dụng căn cứ này thường là các bị can, bị cáo, người bị
truy nã. Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang còn áp
dụng đối với người chưa bị khởi tố khi có căn cứ cho rằng họ sẽ gây khó khăn
cho việc điều tra, khám phá tội phạm.
Căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố,
xét xử được thể hiện qua việc bỏ trốn, làm giả chứng cứ hoặc tiêu hủy chứng
29
cứ, có sự câu kết, bàn bạc giữa những người đồng phạm với nhau trốn tránh
pháp luật, mua chuộc, đe dọa, khống chế người làm chứng, người bị hại…
1.2.3.3. Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội
Đối với bị can, bị cáo có biểu hiện tiếp tục phạm tội thì việc áp dụng
biện pháp cách ly họ với xã hội hoặc hạn chế các điều kiện để họ không thể
tiếp tục phạm tội là rất cần thiết.
Bộ luật tố tụng hình sự quy định khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo
sẽ tiếp tục phạm tội là căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn.
Khi áp dụng căn cứ này cần phải phân biệt với căn cứ “để kịp thời ngăn
chặn tội phạm”. Mặc dù cả hai căn cứ đều nhằm ngăn chặn không để tội phạm
xảy ra. Tuy nhiên, hai căn cứ này khác nhau ở chỗ mỗi căn cứ đều có đối
tượng áp dụng khác nhau; căn cứ “để kịp thời ngăn chặn tội phạm” được áp
dụng đối với những người chưa bị khởi tố về hình sự đối với hành vi được xác
định là lý do dẫn đến việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với họ, còn để
ngăn chặn việc “bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội” chỉ áp dụng đối với các bị
can, bị cáo (những người đã bị khởi tố về hình sự hoặc đã bị Tòa án quyết
định đưa vụ án ra xét xử) khi có căn cứ cho rằng họ sẽ tiếp tục phạm tội.
Những căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội có thể xác
định trên các phương diện sau:
- Về nhân thân bị can, bi cáo: Bị can, bị cáo có nhân thân xấu, ví dụ: bị
cáo là người có ý thức chống đối giai cấp sâu sắc, những phần tử thuộc diện
lưu manh, côn đồ, hung hãn… bị can, bị cáo đã có nhiều tiền án tiền sự hoặc
những đối tượng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp (ví dụ: bị can, bị cáo là
người chuyên sống bằng các nghề như trộm cắp, lừa đảo…).
- Về hành vi của bị can, bị cáo: bị can, bị cáo đã có những biểu hiện sẽ
tiếp tục phạm tội như đe dọa trả thù người tố giác, đe dọa trả thù người bị hại,
người làm chứng và đã có sự chuẩn bị công cụ, phương tiên hoặc các điều
30
kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm và xét thấy bị can, bị cáo có khả
năng thực hiện được sự đe dọa đó.
1.2.3.4. Bảo đảm cho việc thi hành án
Thi hành án là một trong những giai đoạn quan trọng của tố tụng hình
sự nhằm thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nếu không thi
hành được thì bản án, quyết định đó không có giá trị gì.
Thi hành các bản án hoặc quyết định của Tòa án có liên quan trực tiếp
đến người bị kết án. Sự có mặt của người bị kết án khi bản án được thi hành là
rất cần thiết, đặc biệt là đối với người bị Tòa án quyết định áp dụng hình phạt
tù. Nếu người bị kết án trốn tránh hoặc có hành vi gây khó khăn thì việc thi
hành án sẽ không đạt kết quả. Do vậy, Bộ luật tố tụng hình sự quy định để
đảm bảo thi hành án trong các trường hợp nhất định là căn cứ áp dụng biện
pháp ngăn chặn.
Tòa án thường áp dụng căn cứ này trong một số trường hợp như:
- Đối với bị cáo không bị tạm giam nhưng Hội đồng xét xử Tòa án cấp
sơ thẩm tuyên hình phạt tù mà có căn cứ cho rằng nếu không hạn chế tự do
của bị cáo thì bị cáo có thể bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội.
Đối với bị cáo không bị tạm giam nhưng Hội đồng xét xử của Tòa án
cấp phúc thẩm tuyên hình phạt tù thì Hội đồng xét xử ra quyết định bắt tạm
giam ngay để đảm bảo thi hành án, trừ trường hợp bị cáo có lý do để hoãn thì
hành án phạt tù.
- Căn cứ hủy bỏ hay thay thế biện pháp ngăn chặn
Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn thực chất là vấn đề mềm hóa
cách xử sự trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự, nó có lợi cho đối tượng
hoặc tăng tính nghiêm khắc khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đồng thời
làm cơ sở cho việc vận dụng chính sách nhân đạo của Nhà nước.
31
+ Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn
Là việc các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định không tiếp tục áp
dụng biện pháp ngăn chặn đối với người đang bị áp dụng một biện pháp ngăn
chặn cụ thể [32].
Tại Điều 94 BLTTHS quy định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn được tiến
hành trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, khi vụ án bị đình chỉ
Khi cơ quan tiến hành tố tụng có tài liệu, chứng cứ, chứng tỏ có căn cứ
quy định tại Điều 107 BLTTHS những trường hợp không khởi tố vụ án hình
sự hoặc trường hợp người bị hại có đơn yêu cầu không khởi tố hoặc rút yêu
cầu khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 105 BLTTHS hoặc đã hết
thời hạn điều tra mà vẫn không chứng minh được bị can đã thực hiện tội
phạm Điều 164 BLTTHS.
Thứ hai, khi cơ quan tiến hành tố tụng thấy việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn không còn cần thiết nữa
Là việc cơ quan tiến hành tố tụng xem xét những yêu cầu phục vụ cho
việc điều tra, truy tố, xét xử như thu thập tài liệu đã đầy đủ, ý thức khai báo,
thái độ thành khẩn của bị can… thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ ra quyết định
hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn.
+ Thay thế biện pháp ngăn chặn
Là việc cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn khác
thay thế cho biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng (Có thể ít nghiêm khắc
hơn nhưng cũng có thể sẽ nghiêm khắc hơn).
Thay thế biện pháp ngăn chặn phải thỏa mãn những điều kiện sau:
 Yêu cầu giải quyết vụ án.
 Thái độ chấp hành của bị can, bị cáo đối với biện pháp ngăn chặn
đang được áp dụng.
32
Đảm bảo được các điều kiện này, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ tiến hành
thay thế biện pháp ngăn chặn. Cho phép cơ quan tiến hành tố tụng tạo điều kiện
thuận lợi hơn trong việc sử dụng chiến thuật tác động lên thái độ, tâm lý, ý thức
của bị can, bị cáo khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử vụ án [32, Điều 94].
1.3. Những biện pháp ngăn chặn được quy định trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm
Theo quy định tại Điều 79 BLTTHS 2003 thì các biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự bao gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư
trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [32].
1.3.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bắt người
Bắt người là biện pháp ngăn chặn có vị trí quan trọng trong quá trình
điều tra, xử lý vụ án hình sự. Bắt là một trong những hình thức thể hiện của
BPNC, có tính chất khởi đầu cho việc áp dụng các BPNC tiếp theo.
Đây là biện pháp có tính chất cưỡng chế nghiêm khắc của nhà nước,
nhằm tước bỏ quyền tự do thân thể của một người và hạn chế một số quyền,
lợi ích hợp pháp của họ, việc bắt nhất thiết phải tuân thủ các căn cứ, trình tự,
thủ tục theo pháp luật quy định. Do vậy, việc bắt người trong pháp luật tố
tụng hình sự của Nhà nước ta từ trước cho đến nay luôn luôn được xây dựng
theo hướng kế thừa có chọn lọc và từng bước hoàn thiện.
Bắt là BPNC nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trốn tránh pháp luật, nhằm tạo điều kiện
bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi.
BLTTHS 2003 quy định về bắt người bao gồm: Bắt bị can, bị cáo để
tạm giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp và bắt người trong trường hợp
phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã.
* Việc bắt bị can để tạm giam
Tại Điều 79 BLTTHS năm 2003 qui định các biện pháp và căn cứ áp
33
dụng các biện pháp ngăn chặn [32, Điều 79], Điều 80 quy định về việc bắt bị
can, bị cáo để tạm giam
Bắt hiểu theo nghĩa rộng: Bắt không phải là biện pháp trừng phạt của
pháp luật đối với người phạm tội mà là BPNC của hoạt động TTHS. Bắt đúng
người, bắt kịp thời có tác dụng ngăn chặn mọi âm mưu và thủ đoạn chống đối
của người phạm tội, không cho họ tiếp tục phạm tội, che giấu, trốn tránh hoặc
gây khó khăn cho việc xác định sự thật để giải quyết vụ án.
Bắt hiểu theo nghĩa hẹp: Đối với cá nhân người bị bắt là sự hạn chế một
số quyền tự do của cá nhân, là điểm khởi đầu của sự trừng phạt của pháp luật
nếu người đó là người thực hiện hành vi phạm tội, bởi vì khi thi hành án, thời
gian tạm giữ, tạm giam được khấu trừ vào thời gian thi hành án.
Bắt không theo quy định của pháp luật: bắt nhầm (bắt oan, sai) người
vô tội sẽ gây một tác hại rất lớn, không những các quy định của pháp luật bị
vi phạm, mà quyền bất khả xâm phạm của con người bị xâm hại, ảnh hưởng
đến quyền lợi của công dân được pháp luật bảo hộ. Từ đó nó ảnh hưởng xấu
đến lòng tin của nhân dân đối với cơ quan bảo vệ pháp luật, tạo điều kiện cho
các thế lực thù địch lợi dụng chiêu bài nhân quyền để chống phá Nhà nước ta.
Vì vậy, khi bắt người phải thể hiện thái độ kiên quyết đấu tranh chống tội
phạm, song cũng phải thận trọng khi xem xét đánh giá chứng cứ. Quá trình
thực hiện BLTTHS các cơ quan tư pháp như: Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao (VKSNDTC), Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Bộ Tư pháp,
đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật đơn ngành, liên ngành để
hướng dẫn việc áp dụng BPNC trong đó có biện pháp bắt.
Trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, để xác định được đối tượng cần
bắt tạm giam, nhằm tước bỏ điều kiện thực hiện phạm tội, gây khó khăn, cản
trở cho hoạt động xét xử, do tính chất mức độ nguy hiểm của chính bị cáo, đòi
hỏi Tòa án phải áp dụng một biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc đó là bắt bị
can để tạm giam.
34
Đối tượng bị bắt phải là bị cáo của vụ án, qua công tác nghiên cứu
hồ sơ và tình hình thực tế, người được giao nghiên cứu hồ sơ vụ án đề
xuất với người có thẩm quyền bắt bị cáo để đảm bảo công tác xét xử và
thi hành án [32, Điều 80].
Theo quy định tại điều 88 BLTTHS 2003, việc bắt bị can, bị cáo để tạm
giam được áp dụng trong những trường hợp sau:
- Bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng; đặc biệt nghiêm trọng;
- Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà
BLHS qui định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng
người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
có thể tiếp tục phạm tội.
Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con
dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư
trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn
khác, trừ những trường hợp sau đây: Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt
theo lệnh truy nã; Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn
khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng
đến việc điều tra, truy tố xét xử; Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm
an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam thì
họ sẽ nguy hại đến an ninh quốc gia [32, Điều 88].
Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam là:
Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và VKS quân sự các cấp; Chánh
án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ
chức vụ Chánh tòa, Phó chánh Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội
đồng xét xử; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp (trong trường hợp
này lệnh bắt phải được sự phê chuẩn của VKS cùng cấp trước khi thi hành).
35
Thủ tục bắt bị can để tạm giam:
Phải theo đúng quy định tại Điều 80 BLTTHS. Lệnh bắt của người có
thẩm quyền phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ người ra lệnh; họ
tên, địa chỉ người bị bắt, lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh
và phải có đóng dấu.
Người thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa
vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt.
Biên bản về việc bắt phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt,
nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến khi thi hành lệnh bắt,
những đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, những khiếu nại của người bị bắt; phải đọc
lệnh bắt cho người bị bắt và người chứng kiến cùng nghe, người thi hành lệnh
bắt, người bị bắt và người chứng kiến cùng ký vào biên bản; nếu có ý kiến
thắc mắc thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên.
Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam tại nơi cư trú phải có đại diện chính
quyền địa phương và người láng giềng của người đó chứng kiến. Khi tiến
hành bắt tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người
đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự
chứng kiến của đại diện chính quyền địa phương nơi người đó bị bắt.
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam không được bắt vào ban đêm (thời gian
ban đêm được tính từ 10h đêm hôm trước đến 6h sáng hôm sau), trừ trường
hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã được quy
định tại BLTTHS [32, Điều 80, 81, 82].
1.3.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp
tạm giam
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do CQĐT,
VKS, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;
phạm tội rất nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm
36
tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ
để cho rằng người đó có thể bỏ trốn hay cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử
hoặc tiếp tục phạm tội [32, Điều 88].
Đây là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất so với các biện pháp ngăn
chặn khác. Biện pháp này tước bỏ quyền tự do thân thể đồng thời còn hạn chế
một số quyền khác như quyền ứng cử, quyền bầu cử… của người bị áp dụng.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam (được qui định tại Điều 88
BLTTHS 2003, đã trình bày cụ thể ở phần bắt bị can, bị cáo).
- Thẩm quyền ra lệnh tạm giam: Những người có thẩm quyền ra lệnh
bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại Điều 80 BLTTHS có quyền
ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d
khoản 1 Điều 80 BLTTHS phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi
hành. Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét
phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, VKS phải ra quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. VKS phải hoàn trả hồ sơ
cho CQĐT ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn [29, Điều 80].
- Thủ tục tạm giam: Việc tạm giam phải có lệnh viết của người có thẩm
quyền. Sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam phải thông báo
ngay cho gia đình người bị tạm giam và chính quyền địa phương hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết.
- Thời hạn tạm giam để điều tra (Điều 120 BLTTHS): Thời hạn tạm
giam bị can để điều tra không quá 2 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng,
không quá 3 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 4 tháng đối với
tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng (khái niệm tội phạm được
quy định tại Điều 8 BLHS) [32, Điều 120].
Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian
dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay thế hay hủy bỏ biện
pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết hạn tạm giam, CQĐT
37
phải có văn bản để nghị VKS gia hạn tạm giam. Việc gia hạn tạm giam được
quy định như sau:
+ Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một
lần không quá 1 tháng.
+ Đối với tội phạm nghiêm trọng được gia hạn tạm giam hai lần, lần
thứ nhất không quá 2 tháng, lần thứ hai không quá 1 tháng.
+ Đối với tội phạm rất nghiêm trọng được gia hạn tạm giam hai lần, lần
thứ nhất không quá 3 tháng, lần thứ hai không quá 2 tháng.
+ Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam
3 lần, mỗi lần không quá 4 tháng.
Thẩm quyền gia hạn tạm giam của VKS được quy định như sau: theo
điểm a khoản 3 Điều 120 BLTTHS thì VKSND cấp huyện, VKS quân sự khu
vực có quyền gia hạn đối với tội phạm ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần
thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng và rất nghiêm trọng. Trong trường
hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì VKSND cấp
tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội ít
nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội nghiêm trọng, tội rất
nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng [32, Điều 120].
Trong trường hợp gia hạn tạm giam lần thứ nhất quy định tại điểm a
khoản 3 điều 120 BLTTHS đã hết mà vẫn chưa thể kết thúc điều tra và không
có căn cứ để hủy bỏ hoặc thay đổi biện pháp tạm giam thì VKSND cấp
huyện, VKS quân sự khu vực có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội
nghiêm trọng. VKSND cấp tỉnh, VKS quân sự quân khu có thể gia hạn tạm
giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp trung ương thì việc
gia hạn tạm giam thuộc thẩm quyền của VKSNDTC, VKS quân sự Trung ương.
Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, trong trường hợp thời hạn gia
38
hạn lần thứ hai quy định tại điểm b khoản 3 Điều 120 BLTTHS đã hết mà vụ
án có nhiều tình tiết phức tạp và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ
biện pháp tạm giam thì Viện trưởng VKSNDTC có thể gia hạn lần thứ ba.
Trong trường hợp cần thiết, đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì
Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm một lần nữa nhưng không
quá 4 tháng [32, Điều 120].
Như vậy, thời hạn tạm giam tối đa là: Đối với tội ít nghiêm trọng là
3 tháng, đối với tội phạm nghiêm trọng là 6 tháng, đối với tội phạm rất
nghiêm trọng là 9 tháng, đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là 16 tháng,
đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia là 20 tháng.
Trong khi tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm
giam thì CQĐT phải kịp thời đề nghị VKS hủy bỏ tạm giam để trả tự do cho
người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do
cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Chế độ tạm giam, tạm giữ: Qui định tại Điều 89 BLTTHS, Chế độ tạm
giam, tạm giữ khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt.
Nơi tạm giam, tạm giữ, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình
và các chế độ khác được thực hiện theo đúng những quy định của Chính phủ.
Hiện nay chúng ta đang áp dụng "Quy chế tạm giữ, tạm giam" theo Nghị định
số 89/1998/NĐ-CP ngày 07/01/1998.
Các biện pháp bảo hộ đối với người thân thích và tài sản đối với người
bị tạm giữ, tạm giam: Nếu người bị tạm giữ, tam giam đang có con chưa
thành niên dưới 14 tuổi và thân nhân là người tàn tật, già yếu mà không có
người chăm sóc thì cơ quan ra lệnh tạm giữ, tạm giam giao những người đó
cho người thân thích hoặc chính quyền sở tại chăm nom. Trường hợp người bị
39
tạm giam, tạm giữ có nhà hoặc tài sản khác mà không có người trông nom thì
cơ quan ra lệnh tạm giữ, tạm giam phải áp dụng những biện pháp bảo quản
thích hợp, sau đó phải thông báo cho người bị tạm giữ, tạm giam biết.
1.3.3. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về cấm đi khỏi
nơi cư trú (Điều 91 BLTTHS)
Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng đối
với bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo
giấy triệu tập của CQĐT, VKS, Tòa án [32, Điều 91].
Đối tượng bị áp dụng biện pháp này là bị can, bị cáo phạm tội ít
nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, thái
độ khai báo thành khẩn, có cơ sở để cho rằng họ không bỏ trốn, không gây
cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hay tiếp tục phạm tội.
Thẩm quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú: Là những người được quy
định tại khoản 1 Điều 80 BLTTHS, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên
tòa có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú [32, Điều 80].
Thủ tục: Bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan không đi khỏi nơi cư
trú của mình, phải có mặt đúng thời gian, địa điểm ghi trong giấy triệu tập.
Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng
biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú
và giao bị can, bị cáo cho xã, phường, thị trấn để quản lý, theo dõi. Trường
hợp bị can, bị cáo có lý do chính đáng phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải
được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú và
phải có giấy phép của cơ quan đã áp dụng biện pháp đó. Bị can, bị cáo vi
phạm lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
So với các biện pháp ngăn chặn khác như: bắt người, tạm giam, tạm giữ
thì biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú ít nghiêm khắc hơn, nó không tước bỏ
hoặc hạn chế quyền như tự do thân thể, quyền học tập, làm việc, ứng cử, bầu
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY

More Related Content

What's hot

Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

What's hot (20)

Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAYLuận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOTLuận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo pháp luật
Luận văn: Áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo pháp luậtLuận văn: Áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo pháp luật
Luận văn: Áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo pháp luật
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOTLuận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
 
Luận văn: Giám sát việc sử dụng ngân sách nhà nước theo Luật
Luận văn: Giám sát việc sử dụng ngân sách nhà nước theo LuậtLuận văn: Giám sát việc sử dụng ngân sách nhà nước theo Luật
Luận văn: Giám sát việc sử dụng ngân sách nhà nước theo Luật
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
 
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự tại Hà NộiLuận văn: Tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự tại Hà Nội
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
 
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOTLuận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật
 

Similar to Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY

Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdfBAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdfBlueSeaNguyen1
 
Bắt Người Trong Tố Tụng Hình Sự Và Việc Hoàn Thiện Pháp Luật Nhằm Nâng Cao Hi...
Bắt Người Trong Tố Tụng Hình Sự Và Việc Hoàn Thiện Pháp Luật Nhằm Nâng Cao Hi...Bắt Người Trong Tố Tụng Hình Sự Và Việc Hoàn Thiện Pháp Luật Nhằm Nâng Cao Hi...
Bắt Người Trong Tố Tụng Hình Sự Và Việc Hoàn Thiện Pháp Luật Nhằm Nâng Cao Hi...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

Similar to Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY (20)

Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
 
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOTVai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
 
Đề tài: Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luật
Đề tài: Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luậtĐề tài: Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luật
Đề tài: Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luật
 
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
 
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
 
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụngNgười tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
 
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAYĐề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOTLuận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAYLuận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
 
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdfBAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đLuận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
 
Luận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Luận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đángLuận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Luận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
 
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAYĐề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đLuận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đ
 
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAYLuận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
 
Bắt Người Trong Tố Tụng Hình Sự Và Việc Hoàn Thiện Pháp Luật Nhằm Nâng Cao Hi...
Bắt Người Trong Tố Tụng Hình Sự Và Việc Hoàn Thiện Pháp Luật Nhằm Nâng Cao Hi...Bắt Người Trong Tố Tụng Hình Sự Và Việc Hoàn Thiện Pháp Luật Nhằm Nâng Cao Hi...
Bắt Người Trong Tố Tụng Hình Sự Và Việc Hoàn Thiện Pháp Luật Nhằm Nâng Cao Hi...
 
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOTKiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 

Recently uploaded (20)

GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 

Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN VIỆT HÙNG BIÖN PH¸P NG¡N CHÆN TRONG GIAI §O¹N XÐT Xö S¥ THÈM - Lý LUËN Vµ THùC TIÔN ¸P DôNG TR£N §ÞA BµN THµNH PHè Hµ NéI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN VIỆT HÙNG BIÖN PH¸P NG¡N CHÆN TRONG GIAI §O¹N XÐT Xö S¥ THÈM - Lý LUËN Vµ THùC TIÔN ¸P DôNG TR£N §ÞA BµN THµNH PHè Hµ NéI Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí HÀ NỘI - 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Kính đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phan Việt Hùng
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU.......................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM .................... 11 1.1. Khái quát về giai đoạn xét xử sơ thẩm ......................................... 11 1.2 Đặc điểm, ý nghĩa, căn cứ việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm...................................................... 14 1.2.1 Đặc điểm của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử...................................................................................... 14 1.2.2 Mục đích- Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.................................................................. 21 1.2.3. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm ....... 27 1.3. Những biện pháp ngăn chặn được quy định trong giai đoạn xét xử sơ thẩm................................................................................32 1.3.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bắt người ............ 32 1.3.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam.... 35 1.3.3. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về cấm đi khỏi nơi cư trú ........................................................................................39 1.3.4. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bảo lĩnh ..........................................................................................40 1.3.5. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm .............................................41 Kết luận chương 1 ...................................................................................... 44
  • 5. Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN TỪ 01/01/2008 ĐẾN HẾT NĂM 2012.....................................................................45 2.1. Thực trạng...................................................................................... 45 2.2. Nguyên nhân của thực trạng......................................................... 50 Kết luận chương 2 ...................................................................................... 54 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM................................. 56 3.1. Dự báo về tình hình tội phạm trong thời gian tới ........................56 3.1.1. Dự báo về tình hình phạm tội trong thời gian tới.............................. 56 3.1.2. Những loại tội phạm sẽ xảy ra nhiều trong thời gian tới...................57 3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn......................................................................59 3.2.1. Tòa án cấp sơ thẩm cần nhận thức đúng đắn về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn ........................................................................59 3.2.2. Hoàn thiện hệ thống những quy định của pháp luật có liên quan đến việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn....................................... 61 3.2.3. Cơ quan tiến hành tố tụng cần thực hiện tốt những qui định của pháp luật về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.............72 3.2.4. Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ và đảm bảo các điều kiện công tác nhằm thực hiện tốt việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn ......76 3.2.5. Giải pháp về tăng cường công tác chỉ đạo và kiểm sát, kiểm tra việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự và tuyên truyền giáo dục pháp luật cho quần chúng nhân dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật là điều kiện để bảo đảm việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn. .............................. 78
  • 6. 3.2.6. Giải pháp về việc xử lý các trường hợp vi phạm.............................. 81 Kết luận chương 3 ...................................................................................... 87 KẾT LUẬN................................................................................................. 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................91
  • 7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Nội dung BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự BPNC Biện pháp ngăn chặn CP Chính phủ CQĐT Cơ quan điều tra CT Chỉ thị HĐXX Hội đồng xét xử LTTHS Luật tố tụng hình sự NQ Nghị quyết NXB Nhà xuất bản SL Sắc lệnh TANDTC Tòa án nhân dân tối cao TTHS Tố tụng hình sự TW Trung ương UBTVQH Ủy ban thường vụ quốc hội VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN Xã hội chủ nghĩa
  • 8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1. Số lượng các biện pháp ngăn chặn được áp dụng tại Toà án Hà Nội 50 Bảng 2.2. Số lượng, tỷ lệ các biện pháp ngăn chặn được áp dụng tại Toà án Hà Nội 50
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Các biện pháp ngăn chặn (BPNC) là những chế định vô cùng quan trọng được quy định tại BLTTHS. Việc quy định và áp dụng đúng đắn các BPNC trong thực tế hoạt động tố tụng sẽ tác động rất lớn đến việc giải quyết có hiệu quả nhiệm vụ của luật tố tụng hình sự (TTHS) là phát hiện nhanh chóng và xử lý kịp thời, công minh đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục được thực hiện, đồng thời không làm oan người vô tội, bảo đảm được các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân. Trải qua quá trình lịch sử lập pháp từ sau khi giành được chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, những BPNC cũng đã được Nhà nước ta quy định rải rác hoặc xen kẽ trong một số văn bản về hình sự hoặc tố tụng hình sự như các Lệnh, Sắc lệnh, Luật, Sắc luật… và các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 cũng đều có quy định về quyền cơ bản của công dân. Tuy nhiên, những chế định về BPNC chỉ được quy định chi tiết, cụ thể ở lần pháp điển hóa đầu tiên BLTTHS năm 1988 (được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 6 năm 1988 và sau đó được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990. 1992 và 2000) tại Chương V. Đến lần pháp điển hóa thứ 2 vào năm 2003, chế định BPNC được quy định tại Chương VI của BLTTHS. Về các BPNC và căn cứ áp dụng các BPNC, Điều 79 BLTTHS năm 2003 cơ bản vẫn giữ nguyên như quy định tại Điều 61 BLTTHS năm 1988, đó là: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố
  • 10. 2 tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [26]. Kế thừa và phát triển, BLTTHS năm 2003 ra đời cũng đã quy định cụ thể, chi tiết hơn về thẩm quyền của những cơ quan THTT và những người THTT trong việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế các BPNC. BLTTHS năm 2003 cũng đã quy định về từng BPNC và các căn cứ, thời hạn, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) và những người THTT trong việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế đối với từng BPNC. Mặc dù BLTTHS quy định về 6 BPNC (như đã nêu trên) nhưng không phải cơ quan THTT nào cũng có thẩm quyền như nhau trong việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế BPNC, ví như: CQĐT có quyền áp dụng tất cả các BPNC nhưng đối với biện pháp bắt (bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang có lệnh truy nã), tạm giữ, tạm giam thì tùy trường hợp phải được phê chuẩn của VKS (trong một thời hạn cụ thể nhất định). Đối với VKS thì có quyền áp dụng, phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ một số BPNC do CQĐT ban hành. Riêng đối với Tòa án thì chỉ có quyền áp dụng các BPNC sau: bắt (bắt và tạm giam để bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án, bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án); tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lĩnh; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm mà không có quyền áp dụng biện pháp tạm giữ. Mọi quyết định áp dụng, hủy bỏ, thay thế BPNC của Tòa án (của Chánh án, Phó Chánh án; Thẩm phán là Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm TANDTC; HĐXX; Thẩm phán chủ tọa phiên tòa) đều không cần phê chuẩn của VKS. Có thể nói, BPNC là một đặc thù của tố tụng hình sự. Trong đó biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam là những biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng, là
  • 11. 3 vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị - xã hội, nó tác động trực tiếp đến quyền con người, quyền tự do đi lại, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân. Việc bị áp dụng những biện pháp đó đồng thời ảnh hưởng đến sinh mạng chính trị, danh dự, uy tín của con người và cả dư luận xã hội. Ở mỗi giai đoạn tố tụng hình sự, việc áp dụng BPNC nào là thuộc thẩm quyền của cơ quan THTT ở giai đoạn đó. Thực tiễn xét xử cho thấy, khi hồ sơ vụ án hình sự do VKS chuyển đến, thông thường Tòa án vẫn tiếp tục áp dụng BPNC do cơ quan THTT trước đó áp dụng, ví dụ như trước đó bị can đang bị tạm giam mà tính đến ngày xét xử thời hạn tạm giam đã hết thì Tòa án ra Lệnh tạm giam, nếu trước đó bị can được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú thì Tòa án vẫn tiếp tục áp dụng biện pháp này, rất ít khi Tòa án áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Mặc dù BLTTHS quy định về các BPNC như vậy nhưng thực tế các cơ quan THTT và đặc biệt là Tòa án rất ít khi áp dụng 2 BPNC là bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú thì Tòa án thường áp dụng trong trường hợp trước đó bị can, bị cáo đang được áp dụng biện pháp này hoặc Tòa án hủy bỏ biện pháp tạm giam do cơ quan THTT trước đó áp dụng và thay thế bằng biện pháp này. Về thẩm quyền áp dụng BPNC của Tòa án, các biện pháp bắt và tạm giam (để bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án), tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là các biện pháp được áp dụng ở giai đoạn chuẩn bị xét xử. Tại phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa cũng có thể quyết định bắt giữ đối với người gây rối trật tự tại phiên tòa (nhưng đây là chỉ là biện pháp xử lý hành chính trong tố tụng hình sự) hoặc trong trường hợp người có hành vi hành hung người khác tại phiên tòa đến mức cấu thành tội phạm thì thực hiện việc bắt người phạm pháp quả tang theo quy định của Điều 82 BLTTHS. Riêng đối với biện pháp bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án là do HĐXX quyết định.
  • 12. 4 Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm xây dựng một nền tư pháp lành mạnh, mang bản chất nhân dân, hoạt động thực sự có hiệu quả. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"; Nghị quyết số 48 - NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị "về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020" xác định: "Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp" [3]. Và tiếp đó, Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị "về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" cũng đã khẳng định: …, xác định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm;… Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [4]. Như vậy, Đảng và Nhà nước đã xác định vai trò, vị trí rất quan trọng của Tòa án trong tiến trình cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Và thực tiễn xét xử ở giai đoạn sơ thẩm cũng cho thấy, rất ít khi Tòa án áp dụng biện pháp bắt tạm giam đối với bị can, bị cáo đang được tại ngoại. Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải thực sự cần thiết và tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, nếu không thực sự ảnh hưởng đến việc xét xử và thi hành án thì không cần bắt tạm giam. Trong trường hợp bị cáo bị xử phạt tù thì sau khi bản án có hiệu lực pháp luật sẽ bắt bị cáo chấp hành hình phạt trong trại giam (vì chế độ giam giữ đối với người chấp hành hình phạt tù khác với chế độ tạm giam). Mặt khác, trong quá trình
  • 13. 5 chuẩn bị xét xử đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giam, qua nghiên cứu hồ sơ, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam (do bị cáo có thể được hưởng chế định án treo theo quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự hoặc có thể bị xử phạt không phải là hình phạt tù) thì Tòa án có thể quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giam và thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn khác mà không nhất thiết phải đợi xét xử để trả tự do cho bị cáo (mặc dù thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt nhưng như vậy cũng không có lợi cho bị cáo). Tuy nhiên, đối với 2 BPNC là bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm thì gần như không được các cơ quan THTT áp dụng. Các cơ quan THTT thường "ngại" khi áp dụng 2 biện pháp này, có thể một phần là do chưa có sự hướng dẫn cụ thể, chi tiết từ các cơ quan có thẩm quyền. Đây là 2 BPNC có thể được áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam và có thể nói đây là 2 biện pháp ít nghiêm khắc hơn tạm giam, được áp dụng trong trường hợp không cần thiết phải tạm giam, nhưng thấy cần phải ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan THTT. Trong xu thế phát triển chung của thế giới cũng như việc thực hiện tinh thần chỉ đạo của Đảng, Tòa án cần phát huy hơn nữa vai trò và vị trí của mình trong công cuộc cải cách tư pháp, đặc biệt là cần chủ động, mạnh dạn trong việc áp dụng các BPNC không phải là tạm giam, nhất là đối với những tội phạm về kinh tế hoặc liên quan đến vấn đề bồi thường mà bị can, bị cáo đã bồi thường thiệt hại, sửa chữa, khắc phục hậu quả. Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: "Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm - lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội" làm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học với mong muốn cố gắng nghiên cứu một cách tổng thể về các BPNC do Tòa án áp dụng trong
  • 14. 6 giai đoạn xét xử sơ thẩm được quy định tại BLTTHS hiện hành, từ đó đưa ra những đề xuất nhằm khắc phục những thiếu sót, nhược điểm trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật, góp phần nâng cao hơn nữa tính hiệu quả, tính thực tiễn của vấn đề này để phục vụ tốt hơn nữa cho các hoạt động tư pháp hình sự ở Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu Các BPNC là những chế định rất quan trọng trong BLTTHS. Về các BPNC được quy định trong BLTTHS năm 1988 và sau này là BLTTHS năm 2003, đã có rất nhiều giáo trình giảng dạy ở bậc đại học, cao đẳng như Trường Đại học Luật Hà Nội, khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, khoa Luật của các học viện như Học viện Cảnh sát, Học viện An ninh, Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội, Học viện Tư pháp đã đề cập, nghiên cứu về các BPNC, không những thế các BPNC còn là đối tượng nghiên cứu của một số tài liệu chuyên khảo hoặc bình luận như: "Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự" (Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp - 1990, 1992); "Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự" (Võ Khánh Vinh- chủ biên, Nxb Công an nhân dân, 2004); "Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự" (Nxb Chính trị quốc gia, 1994) của Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật; "Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam đúng pháp luật" (Nxb Chính trị quốc gia, 1993) của Phạm Thanh Bình - Nguyễn Vạn Nguyên; "Các biện pháp ngăn chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng" (Nxb Công an nhân dân, 1995) của Nguyễn Vạn Nguyên; các bài viết của các tác giả Nguyễn Vạn Nguyên, Mai Bộ, Phạm Thanh Bình, Nguyễn Văn Điệp, Vũ Gia Lâm, Nguyễn Nông, Vũ Tiến Trí... đăng trên các tạp chí, đặc san chuyên ngành, và các BPNC còn là đối tượng nghiên cứu để hướng dẫn áp dụng pháp luật vào thực tiễn như các thông tư liên ngành, đơn ngành, các chỉ thị, công văn hướng dẫn của các cơ quan Công an, VKS, Tòa án, Bộ Tư pháp, Nghị quyết của Hội đồng
  • 15. 7 thẩm phán TANDTC v.v... Tuy nhiên, các bài viết, sách… đó hầu hết chỉ đề cập chủ yếu đến các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc các BPNC nhưng do CQĐT, VKS áp dụng ở giai đoạn trước hoặc sau khi khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. Cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, đầy đủ, toàn diện về đề tài "BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm-lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội". 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là đưa ra các luận giải khoa học và một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao vị trí, vai trò, hiệu quả áp dụng của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế các BPNC trong tố tụng hình sự Việt Nam nói chung và nhất là trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Qua đó, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách Tư pháp và hoàn thiện pháp luật của nước ta giai đoạn từ nay đến năm 2020, bảo đảm quyền dân chủ của công dân theo đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về những BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội, luận văn tập trung vào những vấn đề sau: - Khái quát các vấn đề lý luận cơ bản về các BPNC trong TTHS Việt Nam. Trong đó nghiên cứu sơ lược quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về các BPNC; nghiên cứu và phân tích pháp luật thực định về các BPNC, từ đó đưa ra các khái niệm về các BPNC nói chung và các khái niệm về từng BPNC nói riêng.
  • 16. 8 - Nghiên cứu thực trạng áp dụng các BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội từ khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực cho đến hết năm 2012; Tham khảo việc áp dụng BPNC trong pháp luật tố tụng hình sự ở một số nước trên thế giới, tìm hiểu nguyên nhân của những vướng mắc, tồn tại, bất cập giữa các quy định luật và thực tiễn. - Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao tính hiệu quả trong việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế BPNC của Tòa án trên địa bàn thành phố Hà Nội.. 3.3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng, thời hạn áp dụng, thủ tục áp dụng (kể cả hủy bỏ hoặc thay thế) các BPNC của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội, trong đó luận văn tập trung nghiên cứu nhiều hơn về những điểm bất cập, vướng mắc trong việc quy định và áp dụng các BPNC. 3.4. Phạm vi và thời gian nghiên cứu BPNC là những chế định lớn và phức tạp trong luật TTHS, vì vậy trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ khó có thể nghiên cứu và giải quyết hết mọi vấn đề. Vì vậy, luận văn chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu nội dung của các quy định về thẩm quyền, đối tượng, thời hạn, thủ tục áp dụng các BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội với thực trạng áp dụng chúng, nghiên cứu nguyên nhân của những bất cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn, từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định về các BPNC do Tòa án áp dụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội từ khi BLTTHS có hiệu lực đến hết năm 2012. 4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu - Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật;
  • 17. 9 - Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội và khoa học pháp lý cụ thể phù hợp với yêu cầu của từng vấn đề nghiên cứu như: phương pháp phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử, tổng hợp, so sánh, thống kê Tư pháp… 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn Điểm mới của luận văn thể hiện ở chỗ: đây là lần đầu tiên, các BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm được nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện, kết quả của quá trình nghiên cứu không những tìm ra các nhược điểm trong công tác xây dựng và thực thi pháp luật mà còn đưa ra được những kiến nghị đề xuất nhằm góp phần vào việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật TTHS, góp phần thúc đẩy việc áp dụng các quy định về các BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vào thực tiễn thực thi pháp luật được nghiêm minh, chính xác, áp dụng đúng pháp luật, bảo đảm quyền con người đến mức tối đa trong chế độ dân chủ của chúng ta. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về những vấn đề lý luận và thực tiễn về BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo LTTHS Việt Nam, nó có những đóng góp nhất định về mặt khoa học cho việc nghiên cứu, áp dụng trong thực tiễn (tuy nhiên vẫn còn bị hạn chế vì mới chỉ dừng lại ở cấp độ một Luận văn thạc sĩ), đồng thời góp phần tăng cường sự nhận thức đúng đắn của nhân dân, cán bộ, công chức nhất là những người THTT thuộc cơ quan Tòa án trên địa bàn thành phố Hà Nội về thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng, thời hạn áp dụng, thủ tục áp dụng (kể cả hủy bỏ hoặc thay thế) các BPNC của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam; - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định về việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế các BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm nhưng
  • 18. 10 cũng đồng thời bảo đảm nguyên tắc tôn trọng quyền tự do, dân chủ của nhân dân, tôn trọng quyền con người. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 3 chương. Chương 1: Những vấn đề lý luận về BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm Chương 2: Thực trạng áp dụng các BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ 01/01/2008 đến hết năm 2012. Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
  • 19. 11 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM 1.1. Khái quát về giai đoạn xét xử sơ thẩm Xét xử sơ thẩm là một trong những giai đoạn của Tố tụng hình sự, trong đó Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật về tội phạm và hành vi của người thực hiện tội phạm. Vì vậy, xét xử là giai đoạn trung tâm của TTHS. Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó có thể nói giai đoạn xét xử là giai đoạn giữ vai trò quan trọng. Tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện những chứng cứ được kiểm tra công khai và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ, Tòa án xác định một người có tội hay không có tội; nếu bị cáo thực hiện hành vi phạm tội thì đó là tội gì, được qui định tại điều khoản nào trong Bộ luật hình sự. Ngoài việc ra bản án, Tòa án còn có quyền ra các quyết định cần thiết khác nhằm giải quyết vụ án. Sau khi xét xử sơ thẩm, theo nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Trong thời hạn luật định mà không có kháng cáo kháng nghị thì bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật nhưng nếu bị kháng cáo kháng nghị thì vụ án sẽ được giải quyết theo trình tự phúc thẩm. Như vậy, có thể nói xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu do Tòa án cấp có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật (ngoại trừ một số trường hợp xét xử sơ thẩm nhưng không phải lần đầu do vụ án sau khi xét xử xong bị hủy và buộc phải điều tra hoặc xét xử sơ thẩm lại); được tiến hành sau khi Tòa án nhận được Cáo trạng quyết định truy tố bị can (Quyết định truy tố bị
  • 20. 12 can trong trường hợp thủ tục rút gọn) và hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến. Do vậy, mọi tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ được Tòa án xem xét, kiểm tra nhằm đưa ra các phán quyết khách quan, phù hợp với quy định của pháp luật. Tất cả những tài liệu, chứng cứ được thu thập trong giai đoạn điều tra, truy tố có trong hồ sơ được Tòa án đưa ra kiểm tra công khai tại phiên tòa thông qua việc xét hỏi và tranh luận. Xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu nên trong giai đoạn này Tòa án phải giải quyết toàn bộ các vấn đề của vụ án trên cơ sơ Cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Như vậy, Xét xử sơ thẩm phải giải quyết các vấn đề: - Xem xét và giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ chế độ, pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. - Trên cơ sở truy tố của Viện kiểm sát, Tòa án tiến hành giải quyết vụ án bằng việc ra bản án, quyết định xác định bị cáo có tội hay không phạm tội; quyết định hình phạt và các biện pháp tư pháp khác dựa trên cơ sở các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác. - Trường hợp không đủ căn cứ để đưa vụ án ra xét xử theo trình tự sơ thẩm, Tòa án tiến hành giải quyết vụ án bằng việc ra quyết định đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật. - Qua việc xét hỏi và tranh luận công khai, dân chủ tại phiên tòa, Hội đồng xét xử kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ những chứng cứ, tình tiết của vụ án đã có trong hồ sơ và tại phiên tòa, đưa ra phán quyết cuối cùng. - Thông qua việc xét xử và đặc biệt là thông qua phiên tòa công khai, các phiên tòa lưu động, giai đoạn xét xử sơ thẩm góp phần phổ biến, giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật, giáo dục công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp
  • 21. 13 luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội, nâng cao ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm cũng như các vi phạm pháp luật khác. Với vai trò và ý nghĩa đặc biệt như trên, việc xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án có ý nghĩa quan trọng và là cơ sở để xác định thẩm quyền xét xử Tòa án trong các giai đoạn tiếp theo. Thẩm quyền của Tòa án theo nghĩa chung nhất được hiểu là quyền xem xét và giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Tòa án ra bản án nhân danh Nhà nước và Bản án của Tòa án cụ thể đường lối, chính sách, quan điểm của Nhà nước đối với xử lý người có hành vi phạm tội. Trong Luật tố tụng hình sự, theo nghĩa rộng, thẩm quyền xét xử của Tòa án bao gồm quyền xem xét và giải quyết và quyền giải quyết vụ án, ra bản án hoặc các quyết định khác như quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án…Theo đó, thẩm quyền của Tòa án bao gồm hai yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung. Thẩm quyền về hình thức là quyền xem xét và phạm vi xem xét hay nói cách khác là giới hạn xét xử của Tòa án; thẩm quyền nội dung là quyền hạn giải quyết, quyết định của Tòa án đối với những vấn đề được xem xét. Thẩm quyền xét xử của Tòa án cần phải dựa vào các căn cứ sau: - Đường lối, chính sách của Đảng; - Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; - Trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ của Thẩm phán cũng như Điều tra viên, Kiểm sát viên; - Biên chế và cơ sở vật chất; - Tình hình phạm tội và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm… Dựa vào những căn cứ trên, tại Phần thứ ba-chương XV-Bộ luật tố tụng hình sự quy định về Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo sự việc, theo lãnh thổ và theo đối tượng.
  • 22. 14 1.2 Đặc điểm, ý nghĩa, căn cứ việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm 1.2.1 Đặc điểm của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng được áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế, trong đó có biện pháp ngăn chặn. Biện pháp ngăn chặn là chế định pháp lý quan trọng được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Năm 1988 khi Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam đầu tiên ra đời các biện pháp ngăn chặn đã được quy định tại chương V và một số điều ở các chương khác. Kế thừa và phát triển, năm 2003 Bộ luật tố tụng hình sự được chỉnh lý và các biện pháp ngăn chặn được quy định tại chương VI. Khi Bộ luật tố tụng hình sự chưa ra đời, các biện pháp ngăn chặn được quy định xen kẽ trong các văn bản khác nhau về tổ chức bộ máy Nhà nước như: Sắc lệnh số 13/SL ngày 24.11.1946 về tổ chức Tòa án và ngạch Thẩm phán; Sắc lệnh số 13/SL ngày 20.7.1946 về tổ chức bộ máy Tư pháp và Công an; Sắc lệnh 85/SL ngày 07.11.1950 về cải cách bộ máy tư pháp. Sau năm 1954, các biện pháp ngăn chặn được quy định trong Luật 103- SL/005 ngày 20.5.1957 về việc đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân; Sắc luật 02-SL ngày 18.6.1957 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định những trường hợp phạm pháp quả tang và trường hợp khẩn cấp; Nghị định 301-Ttg ngày 10.7.1957 của Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Sắc luật số 02/SL ngày 15.3.1976 cuả Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quy định các biện pháp ngăn chặn như: bắt bình thường, bắt khẩn cấp, bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam... Các văn bản pháp luật hình sự thời kỳ trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự dùng thuật ngữ các biện pháp cưỡng chế để chỉ nội dung các biện pháp
  • 23. 15 ngăn chặn quy định trong luật tố tụng hiện hành. Cách gọi đó không phản ánh chính xác nội dung, phạm vi và mục đích của biện pháp ngăn chặn vì ngoài biện pháp ngăn chặn thì biện pháp cưỡng chế của Tố tụng hình sự còn có các biện pháp khác như: biện pháp điều tra thu thập chứng cứ, biện pháp bảo đảm cho việc giải quyết vụ án... Luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định hệ thống các biện pháp ngăn chặn tương đối đầy đủ bao gồm: “bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo” [26, Điều 61]. Năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi, bổ sung vẫn kế thừa và giữ nguyên các biện pháp ngăn chặn được quy định trong luật tố tụng hình sự năm 1988. Những biện pháp ngăn chặn được áp dụng với mục đích ngăn chặn không cho tội phạm xảy ra gây thiệt hại cho xã hội, không để người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật, đồng thời, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án như không để người phạm tội có thể xóa bỏ dấu vết phạm tội, tiêu hủy chứng cứ, làm giả chứng cứ, thông cung giữa những người phạm tội hoặc người làm chứng, đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo, bị án khi có yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng... Với mục đích như vậy, biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự khác với biện pháp cưỡng chế khác và hình phạt trong Luật hình sự. Biện pháp cưỡng chế của Luật tố tụng hình sự là những biện pháp bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành bản án hình sự nhanh chóng, khách quan theo quy định của pháp luật hình sự. Biện pháp cưỡng chế mà Luật tố tụng hình sự quy định bao gồm: các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp thu thập chứng cứ như: khám xét nhà, đồ vật, thư tín, xét hỏi bị can, lấy lời khai người làm chứng, nhận dạng đối chất...Những biện pháp bảo đảm cho
  • 24. 16 các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án như: kê biên tài sản, áp giải bị can... Như vậy, biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự có nội dung và phạm vi rộng hơn rất nhiều so với biện pháp ngăn chặn và không chỉ nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng mà còn nhằm mục đích răn đe, phòng ngừa tội phạm... Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội và thông qua việc trừng trị nhằm mục đích giáo dục cải tạo phạm tội, phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung. Hình phạt là một trong những biện pháp tác động của trách nhiệm hình sự, là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu do hành vi phạm tội của mình gây ra, vì vậy cơ sở để áp dụng hình phạt đối với một người khi họ có hành vi thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, còn biện pháp ngăn chặn là một trong các biện pháp cưỡng chế của tố tụng hình sự được áp dụng khi có căn cứ và trong phạm vi quy định của Luật tố tụng hình sự. Hình phạt chỉ do Tòa án quyết định áp dụng đối với người phạm tội, còn biện pháp ngăn chặn thì do nhiều cơ quan, người người có quyền áp dụng. Hình phạt có nội dung trừng trị, còn các biện pháp ngăn chặn không mang nội dung đó mặc dù khi áp dụng nó hạn chế quyền tự do thân thể, tự do đi lại trong một thời gian nhất định của người bị áp dụng, nó chỉ mang tính phòng ngừa và nội dung là tạo điều kiện để làm rõ các tình tiết của vụ án góp phần vào việc xử lý tội phạm. Là hai chế định ở hai ngành luật khác nhau, hình phạt và các biện pháp ngăn chặn khác nhau về bản chất pháp lý cũng như điều kiện áp dụng, vì thế mọi nhận thức áp dụng biện pháp ngăn chặn để trấn áp, trừng trị người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là sai lầm. Đối tượng bị cáp dụng các biện pháp ngăn chặn là bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang hoặc người mà cơ quan tiến hành tố tụng có tài liệu, chứng
  • 25. 17 cứ nghi họ phạm tội. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn các cơ quan có thẩm quyền chỉ được tiến hành trong phạm vi, giới hạn cũng như thủ tục mà Luật tố tụng hình sự quy định. Ngoài các đối tượng kể trên không ai có thể bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn, mọi hành vi áp dụng các biện pháp ngăn chặn không đúng đối tượng, thẩm quyền, căn cứ cũng như thủ tục đều bị coi là vi phạm pháp luật, người có hành vi vi phạm pháp luật tuy theo tính chất và mức độ có thể bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn là những người tiến hành tố tụng có thẩm quyền của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc những người có chức vụ trong các cơ quan khác được giao thực hiện một số hoạt động tố tụng, công dân tham gia vào việc bắt người phạm tội quả tang. Tùy theo tính chất, đặc điểm của từng giai đoạn tố tụng, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, Luật tố tụng hình sự quy định cho cơ quan đó được áp dụng tất cả hay một số các biện pháp ngăn chặn và trong phạm vi, giới hạn cũng như theo thủ tục của Luật tố tụng hình sự. Nội dung của các biện pháp ngăn chặn là hạn chế quyền tự do thân thể, tự do đi lại, quyền về tài sản... trong một thời gian, do vậy ảnh hưởng đến các quyền cơ bản cơ bản của công dân, đặc biệt là quyền tự do thân thể được quy định trong Hiến pháp. Vì vậy, so với các biện pháp cưỡng chế khác của Tố tụng hình sự thì biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc hơn nên khi áp dụng các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải cân nhắc thận trọng, tránh áp dụng tràn lan, tùy tiện, gây thiệt hại lợi ích hợp pháp của công dân. Luật tố tụng hình sự nước ta quy định các biện pháp ngăn chặn nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án nhưng cũng đồng thời đòi hỏi khi áp dụng các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân, không được áp dụng tùy tiện, chỉ khi nào thật cần thiết mới được áp dụng và trong khuôn khổ quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
  • 26. 18 BLTTHS Việt Nam hiện hành mặc dù không đưa ra một khái niệm về BPNC, tuy nhiên tại Điều 79 BLTTHS 2003 cũng đã quy định các căn cứ áp dụng các BPNC như sau: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [32, Điều 79]. Các căn cứ này cũng đã phản ánh một phần bản chất của của các BPNC của pháp luật TTHS Việt Nam. Tuy nhiên, BPNC là biện pháp cưỡng chế tố tụng rất nghiêm khắc, đòi hỏi phải có sự phân định rõ ràng về chủ thể áp dụng, về thẩm quyền áp dụng, về đối tượng bị áp dụng, về căn cứ và mục đích áp dụng để từ đó mới có thể hiểu một cách thấu đáo và vận dụng đúng đắn vào thực tiễn. - Giáo trình luật TTHS Việt Nam - Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, cho rằng: “BPNC là biện pháp cưỡng chế trong TTHS áp dụng với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang và người cần phải bắt trong trường hợp khẩn cấp. Nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm của họ, ngăn chặn người đó gây khó khăn cho việc điều tra truy tố, xét xử và tiếp tục phạm tội hoặc trốn” [65]. Các tài liệu nêu trên về cơ bản đã nêu được một phần khái niệm về các BPNC, tuy nhiên vẫn chưa đưa ra được một khái niệm đầy đủ, khoa học chứa đựng tất cả các yếu tố cấu thành nên BPNC thể hiện ở các dấu hiệu đặc trưng như căn cứ áp dụng, mục đích, thẩm quyền áp dụng và đối tượng bị áp dụng BPNC. Một khái niệm hoàn chỉnh, chính xác về các biện pháp ngăn chặn thì trong khái niệm đó phải hàm chứa tất cả các dấu hiệu đặc trưng của các BPNC như: căn cứ áp dụng; mục đích áp dụng; thẩm quyền áp dụng và đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn.
  • 27. 19 Từ sự phân tích trên, chúng tôi rút ra khái niệm về các biện pháp ngăn chặn như sau: Các biện pháp ngăn chặn là các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo và người chưa bị khởi tố về hình sự để kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, cũng như không cho họ có những hành động làm cản trở hoạt động điều tra, xét xử hoặc thi hành án hình sự. Như vậy, với khái niệm trên chúng ta có thể thấy Biện pháp ngăn chặn có những đặc điểm sau: Đặc điểm thứ nhất: Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế Đặc điểm thứ hai: Biện pháp ngăn chặn chỉ áp dụng đối với các đối tượng là bị can, bị cáo và người chưa bị khởi tố về hình sự (nhưng người này có dấu hiếu đã thực hiện tội phạm); Đặc điểm thứ ba: Biện pháp ngăn chặn dùng để ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người thực hiện tội phạm tiếp tục phạm tội, ngăn chặn không cho người phạm tội có những hành động làm cản trở các hoạt động điều tra, xét xử hoặc thi hành án hình sự. Biện pháp ngăn chặn là một chế định pháp lý quan trọng của Luật tố tụng hình sự. Trước khi Bộ luật tố tụng hình sự ra đời, các biện pháp ngăn chặn được quy định trong Luật số 103-SL/005 ngày 20.5.1957, Sắc luật số 002-SL ngày 18.6.1957 của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Sắc luật 02-SL ngày 15.3.1957 của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam bao gồm các quy định về việc bắt người, giam, tha, khám xét và được gọi là những biện pháp cưỡng chế. Những biện pháp ngăn chặn là một trong những nhóm của biện pháp cưỡng chế. Những biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây
  • 28. 20 khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như để đảo bảo thi hành án. Những biện pháp ngăn chặn khi được áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác. Kế thừa có chọn lọc và phát triển luật tố tụng hình sự của Nhà nước ta từ sau Cách mạng tháng tám đến nay, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định những biện pháp ngăn chặn trong Chương VI. Những biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự có nội dung tương đối rộng và cụ thể, được chia thành ba nhóm: Nhóm 1: Gồm những biện pháp nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người có hành vi phạm tội bỏ trốn hoặc có hành vi gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án như: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Nhóm 2: Gồm những biện pháp bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ như khám xét người, khám xét chỗ ở, địa điểm nơi làm việc, khám nghiệm hiện trường, xem xét dấu vết trên thân thể… Nhóm 3: Gồm những biện pháp bảo đảm sự thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án như kê biên tài sản, áp giải bị can, bị cáo, người bị kết án, dẫn giải người làm chứng, những biện pháp xử lý do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa áp dụng đối với người có hành vi phạm nội quy phiên tòa. Trong ba nhóm biện pháp cưỡng chế trên, các biện pháp ngăn chặn nằm ở nhóm thứ nhất, được quy định cụ thể từ Điều 79 đến Điều 94 Bộ luật tố tụng hình sự. Tại Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cung như khi cần đảm bảo thi hành án, Cơ
  • 29. 21 quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [32, Điều 79]. 1.2.2. Mục đích- Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm Để giải quyết một vụ án hình sự, các Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án phải tiến hành nhiều hành vi tố tụng khác nhau nhằm thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội; áp dụng hình phạt và buộc người đã thực hiện hành vi phạm tội phải chịu hình phạt hoặc các chế tài pháp lý khác. Quá trình này không chỉ đòi hỏi các hoạt động tích cực của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán mà còn là những hoạt động của những người tham gia tố tụng khác như: người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng... với những quyền và nghĩa vụ nhất định khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên, không phải bao giờ bị can, bị cáo hoặc những người bị nghi là thực hiện hành vi phạm tội (thuật ngữ này dùng để chỉ những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) cũng thực hiện nghĩa vụ của mình một cách tự giác; nhiều trường hợp họ cố tình trốn tránh hoặc gây cản trở cho các hoạt động tố tụng. Vì vậy, để ngăn chặn và phòng ngừa họ không thực hiện nghĩa vụ, việc pháp luật quy định và cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những người khác theo luật định được áp dụng các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam trong những trường hợp nhất định, đối với những đối tượng nhất định là hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm ở nước ta. Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước thể hiện tính mệnh lệnh quyền uy trong phương
  • 30. 22 pháp điều chỉnh của luật tố tụng hình sự. Áp dụng đúng đắn các biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa rất lớn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cụ thể: - Áp dụng đúng đắn biện pháp ngăn chặn sẽ đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án hình sự khách quan, toàn diện, không có sự oan sai xảy ra. - Áp dụng các biện pháp ngăn chặn là đảm bảo quan trọng trong việc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các quy định về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn là nhằm đạt được mục tiêu ngăn chặn và phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, không phải vì thế mà cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng một cách tùy tiện, thiếu căn cứ. Do đó, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành đúng trình tự, thủ tục và phải thận trọng trong hoạt động này. Ví dụ: Khi bắt người phải có đại diện của chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đại diện cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư trú hoặc làm việc và phải có người láng giềng chứng kiến. - Áp dụng biện pháp ngăn chặn góp phần bảo vệ trật tự xã hội và chế độ XHCN, bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân và các quan hệ xã hội khác cần được bảo vệ đồng thời trấn áp một cách kiên quyết tội phạm xảy ra vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. - Những biện pháp ngăn chặn thể hiện sự chuyên chính của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Tội phạm về bản chất là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại cho những mối quan hệ xã hội quan trọng được luật hình sự bảo vệ. Tội phạm trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền vững và ổn định của chế độ Nhà nước, chế độ kinh tế- chính trị, xã hội, đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân cũng như quy tắc của cuộc sống xã hội- xã hội chủ nghĩa. Do đó, Nhà nước ta coi việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh
  • 31. 23 nhằm tiến tới loại trừ hiện tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và phải được tiến hành một cách kiên quyết, triệt để, không khoan nhượng. Việc quy định và đảm bảo thực hiện các biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự là biểu hiện cụ thể của quan điểm đó của Nhà nước. Để giải quyết một vụ án hình sự, các Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án phải tiến hành nhiều hành vi tố tụng khác nhau nhằm thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội; áp dụng hình phạt và buộc người đã thực hiện hành vi phạm tội phải chịu hình phạt hoặc các chế tài pháp lý khác. Quá trình này không chỉ đòi hỏi các hoạt động tích cực của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán mà còn là những hoạt động của những người tham gia tố tụng khác như: người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng... với những quyền và nghĩa vụ nhất định khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên, không phải bao giờ bị can, bị cáo hoặc những người bị nghi là thực hiện hành vi phạm tội (thuật ngữ này dùng để chỉ những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) cũng thực hiện nghĩa vụ của mình một cách tự giác; nhiều trường hợp họ cố tình trốn tránh hoặc gây cản trở cho các hoạt động tố tụng. Vì vậy, để ngăn chặn và phòng ngừa họ không thực hiện nghĩa vụ, việc pháp luật quy định và cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những người khác theo luật định được áp dụng các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam trong những trường hợp nhất định, đối với những đối tượng nhất định là hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm ở nước ta. BLTTHS cho phép khi cần thiết Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án được áp dụng BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam và kịp thời thay đổi hoặc hủy bỏ các BPNC đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa.
  • 32. 24 Tinh thần đó được thể hiện ở sự quy định chặt chẽ về căn cứ, thẩm quyền ra lệnh, thời hạn áp dụng cũng như chế độ đối xử đối với người bị áp dụng. Khi đã hết thời hạn tạm giữ, tạm giam thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm giam hoặc xét cần thiết thì áp dụng BPNC khác. Đối với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử BLTTHS đều quy định việc trả lại tự do hoặc thay đổi bằng BPNC khác nếu thấy rằng những việc đó không cần thiết nữa. Mọi công dân căn cứ vào quy định của pháp luật về việc bắt, tạm giữ, tạm giam sẽ kiểm tra được tính đúng đắn của việc áp dụng các BPNC này, qua đó bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của mình. Các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam không chỉ thể hiện tính cưỡng chế của Nhà nước đối với người có hành vi xâm hại các quyền của công dân mà còn là một phương tiện hữu hiệu để bảo vệ các quyền đó khi nó có nguy cơ bị xâm hại hoặc đang bị xâm hại. Các BPNC đó tuy hạn chế một số quyền của công dân đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người bị nghi là thực hiện hành vi phạm tội, nhưng mặt khác lại bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân khác. Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nên những hoạt động của Nhà nước không nhằm mục đích nào khác là phục vụ quyền lợi của nhân dân lao động. Bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa là một chế độ dân chủ trong đó các quyền của công dân được tôn trọng, pháp luật bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Pháp luật XHCN không cho phép một hành vi trái pháp luật nào xâm phạm đến các quyền và lợi ích của công dân dù đó là hành vi của cơ quan nhà nước hay những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ các quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam là nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng. Các cơ quan này phải hoạt
  • 33. 25 động theo đúng nhiệm vụ, quyền hạn và thủ tục do pháp luật quy định. Cơ quan tiến hành tố tụng không những tự mình phải tuân theo các quy định của BLTTHS mà còn phải kịp thời ngăn chặn mọi vi phạm pháp luật của những người tiến hành tố tụng. Mọi hành vi trái với quy định của pháp luật về việc bắt, tạm giữ, tạm giam đều bị xử lý nghiêm khắc, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 119 BLHS về tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật. Quy định về các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam còn thể hiện tính nhân đạo ở các quy định về việc bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên hay tại BLTTHS: "Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ trường hợp đặc biệt" [32, Điều 88, Khoản 2]. Bộ luật còn quy định việc chăm lo người thân thích và bảo quản tài sản của người bị tạm giam, tạm giữ: Khi người bị tạm giam, tạm giữ có con chưa thành niên dưới mười bốn tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu không có người chăm sóc, thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho người thân thích chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom. Tại BLTTHS quy định: “Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không có người chăm nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam phải áp dụng những biện pháp bảo quản thích đáng” [32, Điều 90, khoản 1, 2]. Tòa án, với vai trò là cơ quan duy nhất có quyền đưa ra phán quyết đối với người bị truy tố về tội danh và hình phạt tùy theo mức độ hành vi đã phạm tội, do vậy việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với các bị cáo có ý nghĩa hết
  • 34. 26 sức đặc biệt. Đối với các cơ quan điều tra, khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn phụ thuộc vào sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp, và khi cơ quan điều tra và cơ quan truy tố áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì cả đều có thể bị Tòa án sau khi xem xét hồ sơ vụ án có thể thay đổi việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn mà không cần có sự phê chuẩn của bất kỳ cơ quan nào, việc thay đổi áp dụng các biện pháp ngăn chặn này cũng không bị bất kỳ cơ quan nào có thể thay đổi lại. Như vậy, vai trò của Tòa án trong giai đoạn xét xử (sơ thẩm hay phúc thẩm) là rất lớn, rất quan trọng và cần phát huy trong mỗi vụ án riêng biệt để đảm bảo mỗi vụ án, mỗi bị cáo khi được đưa ra xét xử vừa được đảm bảo công bằng, vừa mang tính giáo dục cao đối bị cáo cũng như cộng đồng. Tuy nhiên, trong thực tế việc Tòa án thay đổi các biện pháp ngăn chặn đối với các bị cáo là rất hạn chế, mà chủ yếu Tòa án chỉ tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn mà cơ quan truy tố trước đó đã sử dụng, trong khi đó căn cứ vào mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân của bị cáo và những diễn biến thực tế Tòa án có thể áp dụng để thay đổi áp dụng biện pháp ngăn chặn nặng hơn hoặc nhẹ hơn đối với bị cáo. Ví dụ: Bị cáo Nguyễn Văn A, sinh năm 1978, trú tại số 9 ngách 2 Định Công, Hoàng Mai, Hà Nội; bị truy tố về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS; sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án Thẩm phán xét thấy bị cáo khai nhận hành vi phạm tội, số tiền chiếm đoạt 15 triệu đồng đã được khắc phục cho người bị hại, lần đầu phạm tội, có nơi cư trú rõ. Trong trường hợp này có thể xem xét áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo, tuy nhiên Thẩm phán đã không áp dụng BPNC này đối với bị cáo mà vẫn áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị cáo. Việc không thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo trong trường hợp này là có phần nghiêm khắc đối với bị cáo.
  • 35. 27 Trong trường hợp này Tòa án không thay đổi áp dụng BPNC đối với bị cáo vì nhiều lý do, nhưng lý do cơ bản mà người Thẩm phán không dám đề xuất với người có thẩm quyền thay đổi BPNC đối với bị cáo A vì sợ bất kỳ một sơ suất nhỏ không đảm bảo được sự có mặt của bị cáo khi xét xử và đảm bảo công tác thi hành án sau khi tuyên án. 1.2.3. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm Áp dụng các biện pháp ngăn chặn là cần thiết trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn thực chất là sự tác động trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân. Vì vậy, khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn phải hết sức cẩn trọng, không thể có sự tùy tiện khi quyết định áp dụng các biện pháp này. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn nhất thiết phải tuân thủ tuyệt đối các quy định của pháp luật, đảm bảo việc ra quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn có căn cứ, đúng pháp luật. Theo Điều 79 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, để áp dụng các biện pháp ngăn chặn phải dựa vào những căn cứ sau: 1.2.3.1. Kịp thời ngăn chặn tội phạm Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, mỗi tội phạm xảy ra đều có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho một hay nhiều quan hệ xã hội là khách thể được Luật hình sự bảo vệ. Việc kịp thời ngăn chặn tội phạm, không để tội phạm xảy ra hoặc không để người phạm tội có điều kiện kết thúc hành vi phạm tội của mình gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách. Căn cứ này thường áp dụng để bắt người trong những trường hợp sau: - Bắt người trong trường hợp khẩn cấp khi có căn cứ để cho rằng một người nào đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội
  • 36. 28 phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; khi thấy có dấu hiệu của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần thiết ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. - Bắt người phạm tội quả tang khi phát hiện một người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Như vậy, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, sau khi nhận hồ sơ từ Viện kiểm sát chuyển sang, khi thụ lý vụ án nếu xét thấy cần phải tiếp tục giam người phạm tội để đảm bảo việc xét xử và thi hành án, Tòa án tiếp tục ra lệnh giam đối với bị can (hoặc bị cáo) kể từ ngày thụ lý vụ án hoặc kể từ ngày hết thời hạn tạm giam của cơ quan tiến hành tố tụng trước đó (Đ88-BLTTHS). 1.2.3.2. Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động xét xử Việc bị can, bị cáo có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án cũng như việc quản lý giám sát được bị can, bị cáo về con người cũng như hành vi của họ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử. Nếu bị can, bị cáo trốn tránh hoặc có hành vi gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì việc xác định sự thật khách quan của vụ án sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, Tố tụng hình sự quy định khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử là một trong các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn. Đối tượng để áp dụng căn cứ này thường là các bị can, bị cáo, người bị truy nã. Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang còn áp dụng đối với người chưa bị khởi tố khi có căn cứ cho rằng họ sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, khám phá tội phạm. Căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử được thể hiện qua việc bỏ trốn, làm giả chứng cứ hoặc tiêu hủy chứng
  • 37. 29 cứ, có sự câu kết, bàn bạc giữa những người đồng phạm với nhau trốn tránh pháp luật, mua chuộc, đe dọa, khống chế người làm chứng, người bị hại… 1.2.3.3. Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội Đối với bị can, bị cáo có biểu hiện tiếp tục phạm tội thì việc áp dụng biện pháp cách ly họ với xã hội hoặc hạn chế các điều kiện để họ không thể tiếp tục phạm tội là rất cần thiết. Bộ luật tố tụng hình sự quy định khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội là căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn. Khi áp dụng căn cứ này cần phải phân biệt với căn cứ “để kịp thời ngăn chặn tội phạm”. Mặc dù cả hai căn cứ đều nhằm ngăn chặn không để tội phạm xảy ra. Tuy nhiên, hai căn cứ này khác nhau ở chỗ mỗi căn cứ đều có đối tượng áp dụng khác nhau; căn cứ “để kịp thời ngăn chặn tội phạm” được áp dụng đối với những người chưa bị khởi tố về hình sự đối với hành vi được xác định là lý do dẫn đến việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với họ, còn để ngăn chặn việc “bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội” chỉ áp dụng đối với các bị can, bị cáo (những người đã bị khởi tố về hình sự hoặc đã bị Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử) khi có căn cứ cho rằng họ sẽ tiếp tục phạm tội. Những căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội có thể xác định trên các phương diện sau: - Về nhân thân bị can, bi cáo: Bị can, bị cáo có nhân thân xấu, ví dụ: bị cáo là người có ý thức chống đối giai cấp sâu sắc, những phần tử thuộc diện lưu manh, côn đồ, hung hãn… bị can, bị cáo đã có nhiều tiền án tiền sự hoặc những đối tượng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp (ví dụ: bị can, bị cáo là người chuyên sống bằng các nghề như trộm cắp, lừa đảo…). - Về hành vi của bị can, bị cáo: bị can, bị cáo đã có những biểu hiện sẽ tiếp tục phạm tội như đe dọa trả thù người tố giác, đe dọa trả thù người bị hại, người làm chứng và đã có sự chuẩn bị công cụ, phương tiên hoặc các điều
  • 38. 30 kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm và xét thấy bị can, bị cáo có khả năng thực hiện được sự đe dọa đó. 1.2.3.4. Bảo đảm cho việc thi hành án Thi hành án là một trong những giai đoạn quan trọng của tố tụng hình sự nhằm thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nếu không thi hành được thì bản án, quyết định đó không có giá trị gì. Thi hành các bản án hoặc quyết định của Tòa án có liên quan trực tiếp đến người bị kết án. Sự có mặt của người bị kết án khi bản án được thi hành là rất cần thiết, đặc biệt là đối với người bị Tòa án quyết định áp dụng hình phạt tù. Nếu người bị kết án trốn tránh hoặc có hành vi gây khó khăn thì việc thi hành án sẽ không đạt kết quả. Do vậy, Bộ luật tố tụng hình sự quy định để đảm bảo thi hành án trong các trường hợp nhất định là căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn. Tòa án thường áp dụng căn cứ này trong một số trường hợp như: - Đối với bị cáo không bị tạm giam nhưng Hội đồng xét xử Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hình phạt tù mà có căn cứ cho rằng nếu không hạn chế tự do của bị cáo thì bị cáo có thể bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội. Đối với bị cáo không bị tạm giam nhưng Hội đồng xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hình phạt tù thì Hội đồng xét xử ra quyết định bắt tạm giam ngay để đảm bảo thi hành án, trừ trường hợp bị cáo có lý do để hoãn thì hành án phạt tù. - Căn cứ hủy bỏ hay thay thế biện pháp ngăn chặn Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn thực chất là vấn đề mềm hóa cách xử sự trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự, nó có lợi cho đối tượng hoặc tăng tính nghiêm khắc khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đồng thời làm cơ sở cho việc vận dụng chính sách nhân đạo của Nhà nước.
  • 39. 31 + Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn Là việc các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định không tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người đang bị áp dụng một biện pháp ngăn chặn cụ thể [32]. Tại Điều 94 BLTTHS quy định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn được tiến hành trong các trường hợp sau: Thứ nhất, khi vụ án bị đình chỉ Khi cơ quan tiến hành tố tụng có tài liệu, chứng cứ, chứng tỏ có căn cứ quy định tại Điều 107 BLTTHS những trường hợp không khởi tố vụ án hình sự hoặc trường hợp người bị hại có đơn yêu cầu không khởi tố hoặc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 105 BLTTHS hoặc đã hết thời hạn điều tra mà vẫn không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm Điều 164 BLTTHS. Thứ hai, khi cơ quan tiến hành tố tụng thấy việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không còn cần thiết nữa Là việc cơ quan tiến hành tố tụng xem xét những yêu cầu phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử như thu thập tài liệu đã đầy đủ, ý thức khai báo, thái độ thành khẩn của bị can… thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ ra quyết định hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn. + Thay thế biện pháp ngăn chặn Là việc cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn khác thay thế cho biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng (Có thể ít nghiêm khắc hơn nhưng cũng có thể sẽ nghiêm khắc hơn). Thay thế biện pháp ngăn chặn phải thỏa mãn những điều kiện sau:  Yêu cầu giải quyết vụ án.  Thái độ chấp hành của bị can, bị cáo đối với biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng.
  • 40. 32 Đảm bảo được các điều kiện này, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ tiến hành thay thế biện pháp ngăn chặn. Cho phép cơ quan tiến hành tố tụng tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc sử dụng chiến thuật tác động lên thái độ, tâm lý, ý thức của bị can, bị cáo khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử vụ án [32, Điều 94]. 1.3. Những biện pháp ngăn chặn được quy định trong giai đoạn xét xử sơ thẩm Theo quy định tại Điều 79 BLTTHS 2003 thì các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự bao gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [32]. 1.3.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bắt người Bắt người là biện pháp ngăn chặn có vị trí quan trọng trong quá trình điều tra, xử lý vụ án hình sự. Bắt là một trong những hình thức thể hiện của BPNC, có tính chất khởi đầu cho việc áp dụng các BPNC tiếp theo. Đây là biện pháp có tính chất cưỡng chế nghiêm khắc của nhà nước, nhằm tước bỏ quyền tự do thân thể của một người và hạn chế một số quyền, lợi ích hợp pháp của họ, việc bắt nhất thiết phải tuân thủ các căn cứ, trình tự, thủ tục theo pháp luật quy định. Do vậy, việc bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước ta từ trước cho đến nay luôn luôn được xây dựng theo hướng kế thừa có chọn lọc và từng bước hoàn thiện. Bắt là BPNC nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trốn tránh pháp luật, nhằm tạo điều kiện bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. BLTTHS 2003 quy định về bắt người bao gồm: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp và bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã. * Việc bắt bị can để tạm giam Tại Điều 79 BLTTHS năm 2003 qui định các biện pháp và căn cứ áp
  • 41. 33 dụng các biện pháp ngăn chặn [32, Điều 79], Điều 80 quy định về việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam Bắt hiểu theo nghĩa rộng: Bắt không phải là biện pháp trừng phạt của pháp luật đối với người phạm tội mà là BPNC của hoạt động TTHS. Bắt đúng người, bắt kịp thời có tác dụng ngăn chặn mọi âm mưu và thủ đoạn chống đối của người phạm tội, không cho họ tiếp tục phạm tội, che giấu, trốn tránh hoặc gây khó khăn cho việc xác định sự thật để giải quyết vụ án. Bắt hiểu theo nghĩa hẹp: Đối với cá nhân người bị bắt là sự hạn chế một số quyền tự do của cá nhân, là điểm khởi đầu của sự trừng phạt của pháp luật nếu người đó là người thực hiện hành vi phạm tội, bởi vì khi thi hành án, thời gian tạm giữ, tạm giam được khấu trừ vào thời gian thi hành án. Bắt không theo quy định của pháp luật: bắt nhầm (bắt oan, sai) người vô tội sẽ gây một tác hại rất lớn, không những các quy định của pháp luật bị vi phạm, mà quyền bất khả xâm phạm của con người bị xâm hại, ảnh hưởng đến quyền lợi của công dân được pháp luật bảo hộ. Từ đó nó ảnh hưởng xấu đến lòng tin của nhân dân đối với cơ quan bảo vệ pháp luật, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lợi dụng chiêu bài nhân quyền để chống phá Nhà nước ta. Vì vậy, khi bắt người phải thể hiện thái độ kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, song cũng phải thận trọng khi xem xét đánh giá chứng cứ. Quá trình thực hiện BLTTHS các cơ quan tư pháp như: Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Bộ Tư pháp, đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật đơn ngành, liên ngành để hướng dẫn việc áp dụng BPNC trong đó có biện pháp bắt. Trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, để xác định được đối tượng cần bắt tạm giam, nhằm tước bỏ điều kiện thực hiện phạm tội, gây khó khăn, cản trở cho hoạt động xét xử, do tính chất mức độ nguy hiểm của chính bị cáo, đòi hỏi Tòa án phải áp dụng một biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc đó là bắt bị can để tạm giam.
  • 42. 34 Đối tượng bị bắt phải là bị cáo của vụ án, qua công tác nghiên cứu hồ sơ và tình hình thực tế, người được giao nghiên cứu hồ sơ vụ án đề xuất với người có thẩm quyền bắt bị cáo để đảm bảo công tác xét xử và thi hành án [32, Điều 80]. Theo quy định tại điều 88 BLTTHS 2003, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam được áp dụng trong những trường hợp sau: - Bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng; đặc biệt nghiêm trọng; - Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà BLHS qui định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây: Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố xét xử; Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam thì họ sẽ nguy hại đến an ninh quốc gia [32, Điều 88]. Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam là: Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và VKS quân sự các cấp; Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó chánh Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp (trong trường hợp này lệnh bắt phải được sự phê chuẩn của VKS cùng cấp trước khi thi hành).
  • 43. 35 Thủ tục bắt bị can để tạm giam: Phải theo đúng quy định tại Điều 80 BLTTHS. Lệnh bắt của người có thẩm quyền phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ người ra lệnh; họ tên, địa chỉ người bị bắt, lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và phải có đóng dấu. Người thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt. Biên bản về việc bắt phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, những khiếu nại của người bị bắt; phải đọc lệnh bắt cho người bị bắt và người chứng kiến cùng nghe, người thi hành lệnh bắt, người bị bắt và người chứng kiến cùng ký vào biên bản; nếu có ý kiến thắc mắc thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên. Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam tại nơi cư trú phải có đại diện chính quyền địa phương và người láng giềng của người đó chứng kiến. Khi tiến hành bắt tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền địa phương nơi người đó bị bắt. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam không được bắt vào ban đêm (thời gian ban đêm được tính từ 10h đêm hôm trước đến 6h sáng hôm sau), trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã được quy định tại BLTTHS [32, Điều 80, 81, 82]. 1.3.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm
  • 44. 36 tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể bỏ trốn hay cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội [32, Điều 88]. Đây là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất so với các biện pháp ngăn chặn khác. Biện pháp này tước bỏ quyền tự do thân thể đồng thời còn hạn chế một số quyền khác như quyền ứng cử, quyền bầu cử… của người bị áp dụng. Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam (được qui định tại Điều 88 BLTTHS 2003, đã trình bày cụ thể ở phần bắt bị can, bị cáo). - Thẩm quyền ra lệnh tạm giam: Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại Điều 80 BLTTHS có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 BLTTHS phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. VKS phải hoàn trả hồ sơ cho CQĐT ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn [29, Điều 80]. - Thủ tục tạm giam: Việc tạm giam phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam phải thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và chính quyền địa phương hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. - Thời hạn tạm giam để điều tra (Điều 120 BLTTHS): Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 2 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 3 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 4 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng (khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS) [32, Điều 120]. Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay thế hay hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết hạn tạm giam, CQĐT
  • 45. 37 phải có văn bản để nghị VKS gia hạn tạm giam. Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau: + Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 1 tháng. + Đối với tội phạm nghiêm trọng được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá 2 tháng, lần thứ hai không quá 1 tháng. + Đối với tội phạm rất nghiêm trọng được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá 3 tháng, lần thứ hai không quá 2 tháng. + Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 3 lần, mỗi lần không quá 4 tháng. Thẩm quyền gia hạn tạm giam của VKS được quy định như sau: theo điểm a khoản 3 Điều 120 BLTTHS thì VKSND cấp huyện, VKS quân sự khu vực có quyền gia hạn đối với tội phạm ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng và rất nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì VKSND cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng [32, Điều 120]. Trong trường hợp gia hạn tạm giam lần thứ nhất quy định tại điểm a khoản 3 điều 120 BLTTHS đã hết mà vẫn chưa thể kết thúc điều tra và không có căn cứ để hủy bỏ hoặc thay đổi biện pháp tạm giam thì VKSND cấp huyện, VKS quân sự khu vực có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội nghiêm trọng. VKSND cấp tỉnh, VKS quân sự quân khu có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn tạm giam thuộc thẩm quyền của VKSNDTC, VKS quân sự Trung ương. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, trong trường hợp thời hạn gia
  • 46. 38 hạn lần thứ hai quy định tại điểm b khoản 3 Điều 120 BLTTHS đã hết mà vụ án có nhiều tình tiết phức tạp và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng VKSNDTC có thể gia hạn lần thứ ba. Trong trường hợp cần thiết, đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm một lần nữa nhưng không quá 4 tháng [32, Điều 120]. Như vậy, thời hạn tạm giam tối đa là: Đối với tội ít nghiêm trọng là 3 tháng, đối với tội phạm nghiêm trọng là 6 tháng, đối với tội phạm rất nghiêm trọng là 9 tháng, đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là 16 tháng, đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia là 20 tháng. Trong khi tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì CQĐT phải kịp thời đề nghị VKS hủy bỏ tạm giam để trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Chế độ tạm giam, tạm giữ: Qui định tại Điều 89 BLTTHS, Chế độ tạm giam, tạm giữ khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt. Nơi tạm giam, tạm giữ, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được thực hiện theo đúng những quy định của Chính phủ. Hiện nay chúng ta đang áp dụng "Quy chế tạm giữ, tạm giam" theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07/01/1998. Các biện pháp bảo hộ đối với người thân thích và tài sản đối với người bị tạm giữ, tạm giam: Nếu người bị tạm giữ, tam giam đang có con chưa thành niên dưới 14 tuổi và thân nhân là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc thì cơ quan ra lệnh tạm giữ, tạm giam giao những người đó cho người thân thích hoặc chính quyền sở tại chăm nom. Trường hợp người bị
  • 47. 39 tạm giam, tạm giữ có nhà hoặc tài sản khác mà không có người trông nom thì cơ quan ra lệnh tạm giữ, tạm giam phải áp dụng những biện pháp bảo quản thích hợp, sau đó phải thông báo cho người bị tạm giữ, tạm giam biết. 1.3.3. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều 91 BLTTHS) Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của CQĐT, VKS, Tòa án [32, Điều 91]. Đối tượng bị áp dụng biện pháp này là bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, thái độ khai báo thành khẩn, có cơ sở để cho rằng họ không bỏ trốn, không gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hay tiếp tục phạm tội. Thẩm quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú: Là những người được quy định tại khoản 1 Điều 80 BLTTHS, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú [32, Điều 80]. Thủ tục: Bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan không đi khỏi nơi cư trú của mình, phải có mặt đúng thời gian, địa điểm ghi trong giấy triệu tập. Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú và giao bị can, bị cáo cho xã, phường, thị trấn để quản lý, theo dõi. Trường hợp bị can, bị cáo có lý do chính đáng phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú và phải có giấy phép của cơ quan đã áp dụng biện pháp đó. Bị can, bị cáo vi phạm lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. So với các biện pháp ngăn chặn khác như: bắt người, tạm giam, tạm giữ thì biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú ít nghiêm khắc hơn, nó không tước bỏ hoặc hạn chế quyền như tự do thân thể, quyền học tập, làm việc, ứng cử, bầu