SlideShare a Scribd company logo
1 of 87
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------------
NGUYỄN TẤN CHINH
XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------------
NGUYỄN TẤN CHINH
XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập và nghiên cứu, đến nay tôi đã hoàn thành luận
văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự với đề
tài: “Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh”. Trước hết tôi xin chân
thành cảm ơn quý thầy cô trong Khoa Luật hình sự và tố tụng hình sự đã định
hướng cho tôi trong việc chọn lựa đề tài trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn –
người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết, tận tình hướng dẫn và góp ý cho tôi
trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2019
Học viên
Nguyễn Tấn Chinh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, do tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn
Tất Viễn. Các số liệu, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa được
sử dụng trong bất cứ một nghiên cứu nào khác.
Tôi cam đoan mọi tham khảo trong luận văn này đều được ghi rõ nguồn
gốc, trích dẫn rõ ràng. Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy định viết luận
văn, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2019
Học viên
Nguyễn Tấn Chinh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT HỎI TẠI
PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM.........................................................................6
1.1. Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự và tính chất của việc xét hỏi ............6
1.1.1.Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự ....................................................6
1.1.2. Tính chất của việc xét hỏi...........................................................................8
1.1.3. Vai trò của Tòa án trong việc xét hỏi.......................................................10
1.1.4. Các nguyên tắc của việc xét hỏi...............................................................12
1.2. Mối tương quan giữa xét hỏi và các thủ tục tố tụng khác trong phiên tòa hình
sự sơ thẩm..............................................................................................................17
1.2.1. Xét hỏi và thủ tục bắt đầu phiên tòa.........................................................17
1.2.2. Xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa...........................................................18
1.2.3. Xét hỏi và thủ tục nghị án, tuyên án.........................................................18
1.3. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ 1945 đến
nay về xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. ........................................................19
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
1988....................................................................................................................19
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
2003....................................................................................................................21
1.3.3. Giai đoạn từ 2003 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
............................................................................................................................23
1.3.4. Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 ............................................................................................................24
Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ 2015 VỀ XÉT HỎI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10,
TP. HỒ CHÍ MINH.................................................................................................27
2.1. Chủ thể thực hiện quyền xét hỏi....................................................................27
2.1.1. Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa................................................................27
2.1.2. Hội thẩm nhân dân...................................................................................29
2.1.3. Kiểm sát viên ............................................................................................31
2.1.4. Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
............................................................................................................................34
2.1.5. Người giám định.......................................................................................38
2.1.6. Người định giá tài sản..............................................................................39
2.2. Thi hành các quy định về nội dung xét hỏi.....................................................40
2.3. Thi hành các quy định về trình tự xét hỏi.......................................................47
2.4. Thi hành các quy định về công bố lời khai, xem xét vật chứng tại phiên tòa 52
2.5. Nguyên nhân và những hạn chế, vướng mắc..................................................57
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ĐÚNG CÁC QUY
ĐỊNH VỀ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM ..........................59
3.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về xét hỏi.......60
3.2. Tăng cường hướng dẫn thực hiện các quy định của BLTTHS về xét hỏi......63
3.3. Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng xét hỏi của Thẩm
phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm tại phiên tòa. ........................................................66
3.4. Đề cao trách nhiệm và đảm bảo quyền của người bào chữa trong xét hỏi.....73
KẾT LUẬN..............................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX Hội đồng xét xử
HTND Hội thẩm nhân dân
KSV Kiểm sát viên
TAND Tòa án nhân dân
VKS Viện kiểm sát
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tư pháp là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
ta từ khi Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới được ban hành, công tác tư pháp đã có những
chuyển biến nhất định. Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW,
ngày 02-6-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì công tác tư pháp
đã có những đổi mới căn bản. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt
động của các cơ quan tư pháp được xác định rõ hơn và từng bước được củng cố,
kiện toàn; Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án có chuyển biến tốt; Công
tác xét xử được xem xét thận trọng, đúng pháp luật, tình trạng tồn đọng án phúc
thẩm đã cơ bản được khắc phục; Tỷ lệ khám phá án, điều tra, truy tố, xét xử đạt cao
và năm sau đều cao hơn năm trước; Chủ trương “nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên toà” được triển khai thực hiện, tạo không khí dân chủ trong các phiên toà, vai
trò của các luật sư được nhìn nhận tích cực hơn...
Bên cạnh những kết quả nêu trên, hệ thống tư pháp, trong đó có tư pháp hình
sự còn bộc lộ những bất cập, hạn chế như chưa có sự phân định hợp lý giữa các chức
năng cơ bản của tố tụng, dẫn đến việc quy định vai trò, thẩm quyền cụ thể của từng
chủ thể tố tụng và trình tự tiến hành các thủ tục tố tụng chưa phù hợp, cơ chế bảo đảm
thực hiện quyền của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là cơ chế bảo đảm quyền
bào chữa của bị can, bị cáo chưa hoàn thiện; ý kiến tranh luận, tranh tụng của các luật
sư vẫn chưa thực sự được coi trọng, không ít bản án, quyết định của Tòa án chưa thực
sự dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa, dẫn đến số lượng các bản án bị huỷ, sửa
còn chiếm tỷ lệ khá cao; Phương pháp điều tra, xét hỏi vẫn là phương pháp chủ yếu
được áp dụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng v.v… Những vướng mắc, bất cập nêu
trên đã ảnh hưởng đến kết quả đấu tranh phòng, chống tội phạm và yêu cầu bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp
Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự là thủ tục trọng tâm, quan trọng của giai
đoạn xét xử vụ án hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có những thay đổi về quy
2
định thủ tục xét hỏi so với các Bộ luật tố tụng hình sự được ban hành trước đó,
nhưng vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề về pháp luật thực định và cả việc áp dụng pháp
luật trên thực tế. Đổi mới và hoàn thiện thủ tục xét hỏi không phải là vấn đề mới
được đặt ra, nhưng những gì đạt được hiện nay chưa đáp ứng được cao nhất yêu cầu
cải cách tư pháp, vẫn còn tồn tại nhiều tranh luận khi áp dụng các quy định của Bộ
luật TTHS trong xét xử. Do đó, trên cơ sở phân tích những mặt ưu điểm, tiến bộ của
quy định thủ tục xét hỏi hiện hành, bên cạnh đó cũng chỉ ra những hạn chế, bất cập
cần bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng xét hỏi cũng là
một trong những giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm.
Từ những phân tích nêu trên, học viên chọn đề tài: “Xét hỏi tại phiên tòa sơ
thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân Quận
10, Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề xét hỏi tại phiên tòa hình sự được một số tác giả đề cập trong các bài
viết đăng trên tạp chí chuyên ngành, các luận án, luận văn, sách chuyên khảo, cụ thể
là:
- Luận văn thạc sỹ Luật học của Nguyễn Trương Tín (2007), Tranh tụng tại
phiên tòa hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam,
bảo vệ tại Trường Đại Học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sỹ Luật học của Võ Hồng Phúc (2016), Hoàn thiện thủ tục
xét hỏi tại phiên tòa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp, bảo vệ tại trường Đại
Học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sỹ Luật học Đặng Minh Phương (2013), Hoạt động xét hỏi
của Kiểm sát viên trong Tố tụng hình sự Việt Nam) bảo vệ tại trường Đại Học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận án TS của Nguyễn Văn Hiển (2011), Nguyên tắc tranh tụng trong tố
tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ Luật
học, Học viện Khoa học xã hội.
3
- Bài viết “Một số vấn đề về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự theo Bộ luật
tố tụng hình sự 2003” của tác giả Đinh Văn Quế.
- Bài viết “Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm,” của Lê Thị Thúy
Nga đăng trên Tạp chí Luật học số 07/2008.
- Bài viết của PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn “Hoàn thiện một số quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục phiên tòa sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp”, Tạp chí Luật học, số 10/2009
- Bài viết “Quá trình hình thành và phát triển thủ tục xét hỏi, tranh luận tại
phiên tòa hình sự sơ thẩm của pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ” của tác
giả Nguyễn Ngọc Kiên, Tạp chí Kiểm sát số 11/2014.
- Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, Chủ biên. GS.TS. Võ Khánh
Vinh, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 2013;
- Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, TS. Nguyễn Ngọc Kiên,
Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2017 và một số công trình khác có liên quan.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập nhiều vấn đề về thủ tục xét hỏi
liên quan đến áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 được ban hành cũng bắt đầu bộc lộ vướng mắc. Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn
áp dụng pháp luật TTHS cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện thủ tục xét hỏi trong
phiên tòa sơ thẩm hình sự..
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận và các quy định pháp luật TTHS về xét hỏi tại phiên tòa
sơ thẩm, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định này từ thực tiễn TAND Quận 10,
TP. Hồ Chí Minh, đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp
luật về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ cơ
bản sau đây:
4
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật của thủ tục xét hỏi tại phiên
tòa sơ thẩm hình sự.
- Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về xét hỏi trong hoạt động xét xử
sơ thẩm từ thực tiễn TAND Quận 10, TP. Hồ Chí Minh.
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm thi hành đúng các quy định pháp luật về thủ
tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự theo pháp luật TTHS Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Tòa án nhân dân Quận 10, TP Hồ Chí Minh
- Phạm vi thời gian: từ năm 2014 đến năm 2019
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu cụ thể
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến được
vận dụng để nghiên cứu tính thống nhất của toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, tính
thống nhất nội tại của thủ tục xét xử sơ thẩm hình sự. Nguyên lý về sự phát triển,
quy luật lượng đổi-chất đổi được sử dụng để nghiên cứu quá trình hoàn thiện chế
định pháp luật về xét hỏi trong TTHS. Các phạm trù nội dung và hình thức, khả
năng và hiện thực được sử dụng để nghiên cứu về xét hỏi trong các mô hình tố tụng
hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong Luận văn gồm: phương pháp hệ
thống, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh luật học, phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần vào quá trình nghiên cứu một
cách có hệ thống, toàn diện các vấn đề của thủ tục xét hỏi qua đó đề ra các kiến nghị
5
giải pháp bảo đảm áp dụng đúng đắn các quy định pháp luật TTHS về xét hỏi tại
phiên tòa sơ thẩm.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài có ý nghĩa thực tiễn trong việc nâng cao chất lượng xét hỏi tại phiên
tòa sơ thẩm hình sự ở TAND Quận 10, TP. Hồ Chí Minh và có thể là tài liệu tham
khảo cho một số TAND cấp quận.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
của Luận văn được cấu trúc thành 3 Chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về xét hỏi tại phiên tòa hình sự
sơ thẩm.
Chương 2: Thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015
về xét hỏi tại Tòa án nhân dân Quận 10.
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm thi hành đúng các quy định của Bộ luật
TTHS về xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT HỎI TẠI PHIÊN
TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM
1.1. Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự và tính chất của việc xét hỏi
1.1.1.Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự
Xét xử sơ thẩm được xem là việc xét xử lần thứ nhất do Tòa án có thẩm
quyền thực hiện theo quy định pháp luật. Đây là một giai đoạn của tố tụng hình sự,
sau khi đã kết thúc giai đoạn điều tra, truy tố. Xét xử được thực hiện bằng một
phiên tòa mà tại đó, các tài liệu, chứng cứ, lời trình bày, tranh luận và cả các tình
tiết, nội dung chưa từng công bố hay thu thập trước đó được xem xét, đánh giá công
khai ngay tại phiên tòa để đi đến việc xác định tội phạm và hành vi phạm tội. Xét
xử sơ thẩm được xem là giai đoạn quan trọng nhất của việc thực hiện quyền tư
pháp, vì là xem xét vụ án về nội dung. Giai đoạn này có vai trò đặc biệt quan trọng,
tác động đến toàn bộ hệ thống tư pháp. Nếu xét xử tốt, khách quan, đúng pháp luật,
công lý được thực hiện ngay ở cấp sơ thẩm, quyền lợi của người dân sẽ được thực
hiện nhanh chóng, thuận lợi, hạn chế việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm. Việc nâng cao chất lượng xét xử ở cấp cơ sở là yêu cầu hàng đầu của cải cách
tư pháp, là khâu đột phá của cải cách tư pháp, có ý nghĩa quyết định đến các nội
dung khác của cải cách, bắt buộc phải thực hiện tại phiên tòa sơ thẩm có thể đánh
giá được sự công bằng, bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội mà trong đó, Tòa
án ở giữa có quyền “cầm cân nảy mực”, những quyền và lợi ích hợp pháp mà bên
yếu thế hơn nhận được, quyền con người có được đề cao hay không, khả năng của
cơ quan tiến hành tố tụng và của những người tham gia tố tụng đến đâu trong việc
tìm ra sự thật khách quan để không bỏ lọt tội phạm và cũng không làm oan người
vô tội. Phiên tòa sơ thẩm không chỉ xem xét chứng cứ mà còn đòi hỏi các chủ thể
tham gia tố tụng phải đưa ra các lý lẽ thuyết phục, sắc bén, nhanh chóng phù hợp
với diễn biến phiên tòa và các tài liệu có liên quan thu thập được. Do đó, tổ chức tốt
một phiên tòa sơ thẩm cũng là phương pháp để nâng cao kinh nghiệm xét xử, nâng
7
cao khả năng tranh tụng, bảo vệ quan điểm của các chủ thể tham gia như luật sư,
người bào chữa, kiểm sát viên.
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, lần đầu tiên vụ án hình sự được
đưa ra xem xét công khai với tất cả các chứng cứ thu thập được trong giai đoạn điều
tra cùng với các chứng cứ mới được xem xét một cách khách quan, toàn diện, trực
tiếp. Tại phiên tòa bị cáo thực hiện quyền của mình như tự mình bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa, được quyền trình bày quan điểm gỡ tội của mình trước Hội
đồng xét xử.
Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng khác phải thực hiện nhiệm
vụ theo đúng quy định của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo sử dụng các quyền của
mình, tránh sự xâm phạm các quyền đối với bị cáo. Phiên tòa sơ thẩm là cơ hội để bị
cáo sử dụng các quyền của mình lần đầu tiên tại phiên tòa một cách công khai. Đây là
điểm khác với giai đoạn điều tra. Vì vậy phiên tòa HSST trước hết phải tuân thủ
những nguyên tắc cơ bản được quy định trong Bộ luật TTHS: Bảo đảm pháp chế xã
hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm quyền bào chữa của
người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, xác định
sự thật của vụ án và nguyên tắc suy đoán vô tội…Trong những nguyên tắc chung
được quy định tại BLTTHS 2015 thì hiện nay, nguyên tắc suy đoán vô tội và
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử tại các phiên tòa sơ thẩm của Việt Nam chưa
thực sự được đảm bảo. Việc xét hỏi trong thủ tục tranh tụng tại phiên tòa đã bộc lộ
nhiều hạn chế, dẫn đến phiên tòa hình sự sơ thẩm tập trung vào việc luận tội, xét hỏi
dựa trên những chứng cứ thu thập được tại các giai đoạn tố tụng trước đó, các cơ
quan tiến hành tố tụng về một phía và bị can, bị cáo, người bảo vệ quyền lợi ích cho
bị can, bị cáo về một phía yếu hơn.
Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, theo quy định của Hiến pháp và Bộ luật tố tụng
hình sự, Hội đồng tham gia xét xử phải có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân và
Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử biểu
quyết theo đa số. Tuy nhiên, trên thực tế Hội thẩm chưa phát huy hết vai trò chủ
8
động, tích cực của mình trong quá trình xét xử, đặc biệt ở việc xét hỏi gần như phụ
thuộc hoàn toàn vào Thẩm phán, hỏi không làm rõ được nội dung vụ án, hỏi không
đúng trọng tâm hoặc không tham gia xét hỏi. Do đó trong công tác chuẩn bị xét xử
và điều hành diễn biến tại phiên tòa, trách nhiệm của Chủ tọa phiên tòa rất nặng nề.
Kết thúc phiên tòa hình sự sơ thẩm cũng là lúc ban hành các phán quyết liên quan
đến hành vi phạm tội, tội phạm và hình phạt bị cáo phải chịu hay giải phóng bị can,
bị cáo khỏi sự trừng phạt của pháp luật.
Những yếu tố trên cho thấy, xét xử sơ thẩm hình sự có vị trí quan trọng trong
suốt quá trình tố tụng, khi lần đầu tiên các chứng cứ thu thập được trong hồ sơ được
kiểm chứng công khai tại phiên tòa, các quan điểm chính thức của Viện kiểm sát
được đưa ra, những lập luận để bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo được trình bày.
Tòa án với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp giữ vị trí trung tâm trong
việc điều hành và kiểm soát diễn biến phiên tòa, xem xét các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ, xem xét tội danh và điều khoản áp dụng, đồng thời giải quyết quyền lợi
của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị hại…trong cùng một vụ án. Quan
trọng nhất là kết thúc phiên tòa hình sự sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đưa ra quyết
định bị cáo có tội hay không có tội, tội phạm và hình phạt cụ thể dành cho bị cáo.
Cũng tại giai đoạn này, quyền kháng cáo của bị cáo được đặt ra. Trong khi ở cấp
phúc thẩm, bị cáo đã không còn quyền kháng cáo. Đề cao tính chất đặc biệt của xét
xử sơ thẩm hình sự, qua đó cho thấy việc xét hỏi theo đúng trình tự thủ tục, xét hỏi
có khoa học và bám sát nội dung vụ án là tiền đề chuẩn bị cho việc nghị án, tuyên
án chính xác, khách quan, đúng người đúng tội, hạn chế tối đa oan sai cũng như hạn
chế tiến hành giải quyết thủ tục kháng cáo sau phiên tòa sơ thẩm, làm kéo dài thời
gian giải quyết một vụ án hình sự.
1.1.2. Tính chất của việc xét hỏi
Bộ luật TTHS không đưa ra định nghĩa thế nào là thủ tục xét hỏi mà chỉ quy
định về trình tự, thủ tục, nội dung xét hỏi và các vấn đề khác có liên quan đến thủ
tục hỏi tại một phiên tòa hình sự. Tuy vậy, trong các tài liệu nghiên cứu và giảng
dạy, các tác giả đã đưa ra định nghĩa về thủ tục xét hỏi, Giáo trình Luật TTHS Việt
9
Nam của trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa: “Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa
được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự nhằm xem xét công khai những chứng
cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra và chứng cứ mới để chứng minh vụ án”.
Định nghĩa này đánh giá hoạt động xét hỏi chủ yếu ở việc xem xét chứng cứ và
chưa nêu bật được những vấn đề quan trọng khác trong thủ tục xét hỏi như về mặt
chủ thể và vai trò trung tâm của giai đoạn xét hỏi trong toàn bộ quá trình xét xử sơ
thẩm một vụ án hình sự.
Theo quan điểm của tác giả Đinh Văn Quế: “Xét hỏi là thủ tục chính của
phiên tòa sơ thẩm, trong đó Tòa án cùng các bên tranh tụng xem xét, kiểm tra
chứng cứ của bên buộc tội, thu thập trong hồ sơ vụ án cũng như các chứng cứ do
bên bào chữa đề xuất được Tòa án chấp nhận nhằm làm sáng tỏ các tình tiết, sự
kiện khách quan của vụ án” [18, tr.3-10]. Tại định nghĩa này, tác giả đã đề cập đến
chủ thể thực hiện hoạt động xét hỏi, trong đó Tòa án đóng vai trò quan trọng trong
việc đánh giá các chứng cứ trong vụ án để đạt được mục đích là tìm ra sự thật khách
quan. Tuy nhiên, định nghĩa chưa nêu được đầy đủ các hoạt động khác trong thủ tục
xét hỏi, bởi việc xem xét chứng cứ chỉ là một trong các hoạt động trong thủ tục này.
Tác giả Võ Hồng Phúc cho rằng: “Thủ tục xét hỏi là hoạt động trung tâm
trong quá trình xét xử vụ án hình sự và cũng là hoạt động quan trọng nhất để xác
định sự thật vụ án. Trong đó, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa và
những người khác theo quy định của pháp luật thực hiện bằng cách đặt câu hỏi trực
tiếp cho bị cáo và những người tham gia tố tụng; xem xét chứng cứ, kết luận điều
tra, bản cáo trạng; xem xét hiện trường xảy ra vụ án nhằm kiểm tra công khai tất cả
tình tiết liên quan đến vụ án tại phiên tòa” [16, tr.7]. Định nghĩa về xét hỏi mà tác
giả Võ Hồng Phúc đưa ra là tương đối toàn diện. Qua các ý kiến trên đây, có thể
thấy xét hỏi tại phiên tòa hình sự là một hoạt động tố tụng được thực hiện bởi những
chủ thể khác nhau như Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Người bào chữa,
Người giám định…việc xét hỏi phải theo một trình tự tố tụng chặt chẽ được quy
định tại BLTTHS. Mục đích của việc xét hỏi nhằm xem xét lại các chứng cứ được
thu thập tại giai đoạn điều tra, các chứng cứ mới được đưa ra tại phiên tòa. Thông
10
qua việc xét hỏi, xác định được sự thật khách quan của vụ án, đi đến mục đích
chứng minh có hay không tội phạm và hành vi phạm tội.
Việc hỏi và trả lời phải được tiến hành công khai, trực tiếp bằng lời nói tại
phiên tòa và thủ tục hỏi phải diễn ra liên tục bắt đầu từ sau khi Kiểm sát viên đọc
bản cáo trạng và chấm dứt tại thời điểm Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần
hỏi và chuyển sang phần Kiểm sát viên trình bày luận tội và các chủ thể khác thực
hiện quyền bào chữa tại phiên tòa. Có thể nói, tại phiên tòa, thủ tục xét hỏi đóng vai
trò vô cùng quan trọng, là bước quyết định để làm sáng tỏ vụ án, xác định lại những
người, những tình tiết có liên quan hoặc không liên quan, qua đó có thể quyết định
có cần thu thập thêm chứng cứ hay không? Giai đoạn này làm tiền đề cho phần
tranh luận và tuyên án. Khi đã tuyên án, Chủ tọa phiên tòa không được quyền trở lại
phần xét hỏi. Do đó, toàn bộ hoạt động chứng minh tội phạm tại phiên tòa và xem
xét toàn diện các vật chứng, lời nói, lời bào chữa.... được diễn ra chủ yếu trong giai
đoạn xét hỏi.
Tại giai đoạn xét hỏi, các chủ thể tham gia tố tụng thực hiện quyền hỏi theo
những mục đích khác nhau tùy vào vai trò của mình. Chủ tọa, Hội thẩm thực hiện
việc hỏi để tìm ra sự thật của vụ án, Kiểm sát viên hỏi để bảo vệ cho quan điểm
trong cáo trạng truy tố của mình, người bào chữa hỏi để bảo vệ quyền lợi cho thân
chủ của mình... Tuy nhiên, tất cả đều đi đến mục đích chung là chứng minh có hay
không tội phạm và việc xét hỏi trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan của vụ
án, không nhằm mục đích che giấu tội phạm hoặc làm sai lệch nhận thức về hành vi
phạm tội và các dấu hiệu tội phạm.
1.1.3. Vai trò của Tòa án trong việc xét hỏi
Trước khi chuyển sang mô hình tố tụng xét hỏi kết hợp với tranh tụng (theo
tinh thần và nội dung Bộ luật TTHS năm 2015), tố tụng hình sự Việt Nam trong
một thời gian dài xác định việc tìm kiếm sự thật chủ yếu bằng phương pháp điều
tra, thẩm vấn. Phương pháp này được sử dụng ở tất cả các giai đoạn tố tụng.
Phương pháp điều tra được thực hiện dưới hình thức xét hỏi, chủ thể của việc xét
hỏi đầu tiên và trước hết sau khi Viện kiểm sát công bố bản cáo trạng thuộc về Hội
11
đồng xét xử và được quyền hỏi toàn bộ các vấn đề liên quan đến nội dung vụ án.
Sau việc xét hỏi của Hội đồng xét xử, pháp luật quy định thẩm quyền hỏi của Kiểm
sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự...Trong mô hình tố
tụng hình sự thẩm vấn, Tòa án có vai trò tích cực, chủ động trong việc xác định sự
thật của vụ án, khác với mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, mô hình tố tụng thẩm
vấn trao cho Tòa án quyền chủ động rất lớn trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án
hình sự, việc xét xử tại phiên tòa thực chất là giai đoạn Tòa án tiếp tục củng cố tài
liệu, chứng cứ trên cơ sở dữ liệu do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát lập nên.
Điểm giống nhau trong chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan kể trên với Tòa án là
cùng có trách nhiệm chứng minh tội phạm, đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người
đúng tội.
Tòa án được tiếp xúc hồ sơ vụ án ngay từ trước khi mở phiên tòa, thời gian
nghiên cứu hồ sơ tương đối dài. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, Tòa án được
quyền trả lại hồ sơ cho Viện kiệm sát để điều tra bổ sung, hoặc khi có căn cứ cho
rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác, khi phát hiện có sự vi
phạm thủ tục tố tụng. Hội đồng xét xử thông qua hoạt động xét hỏi, xem xét chứng
cứ, tài liệu tại phiên tòa để đi đến kết luận cuối cùng về tội phạm và hình phạt.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án tuy có chức năng, nhiệm vụ khác
nhau nhưng trong tố tụng hình sự, các nhiệm vụ chức năng của ba cơ quan được
quy định cũng đều nhằm mục đích đảm bảo sự minh bạch trong hoạt động chứng
minh sự thật vụ án. Các cơ quan này có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau
mà trong đó, Tòa án giữ vị trí trung tâm và là cơ quan sau cùng có thẩm quyền
quyết định, kết luận lại tất cả các hoạt động thu thập được ở giai đoạn trước đó,
quyết định tính hợp pháp và thuyết phục của chứng cứ do các cơ quan đưa ra và
tuyên án để khép lại vụ án hình sự.
Tố tụng hình sự nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam phân biệt các
chức năng của TTHS bao gồm: buộc tội, xét xử và bào chữa, trong đó Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm chứng minh bị can phạm tội, Tòa án là cơ quan
xét xử và người bào chữa cho bị can, bị cáo thực hiện chức năng bào chữa. Việc
12
phân định rõ chức năng nhằm mục đích tạo ra bình đẳng giữa các chủ thể tham gia
tố tụng, chủ yếu là bên buộc tội và bên gỡ tội. Sự bình đẳng ở đây không chỉ là địa
vị pháp lý, về quyền và nghĩa vụ của các bên mà thừa nhận khả năng ngang bằng
nhau của các bên trong hoạt động chứng minh, đưa ra yêu cầu và giải quyết yêu
cầu. Trong phạm vi xét hỏi, nếu bên buộc tội được sử dụng những quyền gì khi
tham gia tố tụng thì bên buộc tội cũng được áp dụng những quyền đó, ví dụ quyền
đặt câu hỏi, quyền xem xét chứng cứ. Còn về Tòa án, việc phân định chức năng
phải xác định Tòa án là cơ quan độc lập và khách quan trong xét xử.
Xét hỏi là thủ tục trọng tâm tại phiên tòa sơ thẩm, vì tính chất đặc biệt quan
trọng của nó nên BLTTHS năm 2015 đã hướng dẫn thủ tục này khá đầy đủ bằng
Mục V - Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử cần vận dụng linh hoạt
các quy định trong quá trình xét hỏi để đạt được mục đích chứng minh tội phạm, đổi
mới việc xét hỏi kết hợp với tranh tụng theo xu hướng tiếp cận gần hơn với các nền
lập pháp tiên tiến trên thế giới, kết hợp giữa mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn và
mô hình tố tụng hình sự tranh tụng. Qua đó góp phần thực hiện chủ trương và định
hướng được xác định tại các Nghị quyết số 49-NQ/TW và Nghị quyết số 48 –
NQ/TW của Bộ chính trị, đó là cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo
hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện; bảo
đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất
lượng tranh tụng tại Tòa án làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là
khâu đột phá để nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp.
1.1.4. Các nguyên tắc của việc xét hỏi
Trong xét hỏi tại phiên tòa, các cơ quan tiến hành TTHS, người tiến hành
TTHS cũng như những người tham gia TTHS cần tuân thủ các nguyên tắc TTHS
với các yêu cầu cụ thể sau đây:
- Việc xét hỏi phải công khai: Công khai phái sinh từ nguyên tắc Hiến định là
Tòa án xét xử công khai…trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước…Tòa án có
thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai (Điều 67 – Hiến pháp 1946, Điều 101
– Hiến pháp 1959, Điều 133 – Hiến pháp 1980, Điều 131 – Hiến pháp 1992, Điều
13
103 – Hiến pháp 2013, Điều 18 BLTTHS 2003). Tòa án đóng vai trò quan trọng
trong công tác xét xử, đại diện cho quyền lực nhà nước, nhân danh Nhà nước trong
việc quyết định số phận pháp lý của một công dân, do đó việc xét xử và xét hỏi
công khai là nguyên tắc đầu tiên cần tuyệt đối tuân thủ, có xét xử và xét hỏi công
khai thì nhân dân và các cơ quan quyền lực khác mới thực hiện được quyền giám
sát của mình. Qua đó mới đánh giá được tính công bằng, khách quan và đảm bảo
được pháp chế xã hội. Việc ghi nhận nguyên tắc này ngay trong Hiến pháp đã thể
hiện quan điểm của nhà lập pháp trong việc bảo vệ quyền con người, với mục đích
cao nhất là hướng đến một nền tư pháp mà không ai bị đối xử bất công, cho dù
người đó đang bị cáo buộc phạm tội và sắp đối mặt với những hình phạt của pháp
luật.
Nguyên tắc xét hỏi công khai đặt ra yêu cầu xem xét, đánh giá chứng cứ và
đưa ra kết luận cuối cùng, tất cả phải được diễn ra tại phiên tòa, có sự tham gia của
các cơ quan khác ngoài Tòa án, của những người tham gia phiên tòa, tham gia tố
tụng như Luật sư, người làm chứng, bị hại, người nhà bị cáo và cả những người
tham dự phiên tòa mà không có bất kỳ sự liên quan nào đến vụ án. Nguyên tắc này
dần trở nên quan trọng trong thời điểm hiện nay khi nhu cầu bảo vệ cao hơn nữa
quyền con người, quyền và lợi ích cơ bản, hợp pháp của công dân đang được đặt ra
trong xã hội hiện đại.
Nguyên tắc xét hỏi công khai không được quy định thành điều luật cụ thể
nhưng trong các quy định về thủ tục tại phiên tòa thì được thể hiện ở nhiều nội dung
khác nhau như Kiểm sát viên công bố bản cáo trạng, công bố lời khai trong giai
đoạn điều tra, truy tố. Những vấn đề khác như xem xét hiện trường, tài liệu đồ vật
không thể đưa đến phiên tòa, cả việc phải công khai các băng ghi âm, ghi hình khi
bị cáo cho rằng bị bức cung, nhục hình, các báo cáo tài liệu của cơ quan, tổ chức về
những tình tiết của vụ án trong trường hợp không có đại diện của cơ quan, tổ chức
tham dự thì Hội đồng xét xử công bố tài liệu, báo cáo đó tại phiên tòa cũng cho thấy
việc xét xử, xét hỏi công khai gần như được tiến hành và tuân thủ suốt quá trình tố
tụng của một vụ án hình sự. Nguyên tắc công khai phải được thực hiện nghiêm túc
14
theo trình tự pháp luật quy định là nền tảng cho tính thuyết phục của bản án, quyết
định của Tòa án và đi đến mục đích cuối cùng là chứng minh sự thật khách quan
của vụ án.
- Việc xét hỏi phải tiến hành trực tiếp, bằng lời nói: Cũng như nguyên tắc xét
hỏi công khai, nguyên tắc xét hỏi trực tiếp, bằng lời nói và liên tục không được quy
định bằng điều luật cụ thể mà xuất phát từ quy định tại Điều 250 BLTTHS 2015:
“Xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục”. Nguyên tắc xét hỏi trực tiếp đặt ra yêu
cầu những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng phải có mặt tại
phiên tòa, trừ những trường hợp đặc biệt được pháp luật cho phép vắng mặt tại
phiên tòa mà không ảnh hưởng đến việc xét xử. Trên cơ sở đó, chủ thể thực hiện
việc hỏi bao gồm thành viên Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên… trực tiếp dùng lời
nói để hỏi những người liên quan khác nhằm làm sáng tỏ các tình tiết, khẳng định
lại các tình tiết và củng cố toàn diện các vấn đề khác để Hội đồng xét xử xem xét
trước khi tuyên án. Việc hỏi trực tiếp phải do chính chủ thể hỏi thực hiện, nhưng
phạm vi hỏi, nội dung hỏi còn tùy thuộc vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình mà pháp luật cho phép.
Việc hỏi trực tiếp tại phiên tòa cũng là một hoạt động cần thiết của Hội đồng
xét xử, vì trước khi mở phiên tòa, Hội đồng xét xử chỉ nghiên cứu những tài liệu có
trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát chuyển đến. Thông qua việc
xét hỏi trực tiếp bị cáo tại phiên tòa, Hội đồng xét xử mới có thể đánh giá chính xác
hành vi phạm tội của bị cáo có phù hợp, có liên quan với chứng cứ trong hồ sơ vụ
án hay không? Việc xét hỏi trực tiếp có thể nói là nhiệm vụ quan trọng, là trách
nhiệm của Hội đồng xét xử khi Hội đồng xét xử không phải là cơ quan thu thập
chứng cứ tại giai đoạn điều tra truy tố, không trực tiếp hỏi cung và tiếp xúc với bị
can, bị cáo, nên để tìm ra sự thật của vụ án, xác định đúng người, đúng tội và tránh
oan sai thì không có hoạt động nào thực tế hơn là việc xét hỏi trực tiếp. Nguyên tắc
này cũng đảm bảo cho tính độc lập trong xét xử của Tòa án, thông qua việc hỏi trực
tiếp, Hội đồng xét xử có thể quyết định khác với cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố,
có thể đề nghị trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.
15
Xét hỏi bằng lời nói là việc hai nhóm chủ thể khác nhau, một bên nêu câu hỏi
và một bên trả lời. Để có thể đạt được mục đích trao đổi thông tin thì phải dùng lời
nói. Và “Chỉ bằng lời nói người ta mới trình bày chính xác những suy nghĩ và nhận
xét của mình. Vì vậy, không thể xét xử mà không nghe lời khai về các chứng cứ
buộc tội, gỡ tội và yêu cầu của các người có quyền lợi và nghĩa vụ được giải quyết
trong vụ án” [1, tr.145]. Bên được hỏi có quyền trả lời hoặc im lặng trước câu hỏi
của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng khác đặt ra. Quyền im lặng là
quyền cơ bản và phổ biến của công dân tại nhiều nước trên thế giới nhưng tại Việt
Nam chỉ chính thức ghi nhận khi BLTTHS 2015 có hiệu lực thi hành. Tuy nhà lập
pháp không quy định cụ thể thành “Quyền im lặng của bị can, bị cáo” nhưng tinh
thần của quy định này được thể hiện gián tiếp tại Điều 60 – Điểm d, BLTTHS 2015
và Điều 61 – Điểm h: “… Không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Theo đó, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên
tòa, bị can, bị cáo có thể không khai báo hoặc không bắt buộc trả lời các câu hỏi của
Hội đồng xét xử và những người khác nếu nhận thấy có thể bất lợi cho mình. Trước
tình huống này, Hội đồng xét xử sẽ tiếp tục hỏi những người khác và xem xét
những vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án theo quy định tại Khoản 3 - Điều
309 BLTTHS 2015.
Hội đồng xét xử bắt buộc phải dùng lời nói trong toàn bộ quá trình xét xử,
nhưng bị can, bị cáo có quyền không trả lời là một quy định tiến bộ của pháp luật tố
tụng hình sự, đưa tinh thần bảo vệ quyền con người, quyền công dân tiến gần hơn
đến các nền pháp luật tiến bộ trên thế giới. Trước những cơ quan đại diện cho quyền
lực nhà nước, bị can, bị cáo là bên yếu thế hơn được bảo vệ, không phải đặt mình
vào tình thế bất lợi khi phải đưa ra câu trả lời để chống lại mình.
Nguyên tắc xét hỏi bằng lời nói được pháp luật dự liệu cả trong trường hợp
bị cáo, bị hại, đương sự, người làm chứng không biết tiếng Việt, là người câm,
người điếc. Khi đó cần phải có người phiên dịch để dịch cho họ nghe, hiểu lời trình
bày, các câu hỏi, câu trả lời tại phiên tòa, nội dung quyết định của Hội đồng xét xử
và các vấn đề khác có liên quan đến họ.
16
Có thể nói xét xử bằng lời nói là cách thức, phương pháp của nguyên tắc xét
xử trực tiếp. Phiên tòa nơi thể hiện đầy đủ nhất ba chức năng cơ bản của Tố tụng
hình sự là chức năng xét xử, chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội. Và cả ba chức
năng này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, để có thể hiểu, lắng nghe ý kiến của các
bên, trình bày quan điểm đối đáp thì cả ba chức năng được các bên truyền đạt, thể
hiện ý chí bằng lời nói. Qua đó, tính công khai minh bạch của một phiên tòa được
đảm bảo, là cơ sở nền tảng cho việc bảo vệ quyền con người ngay tại Tòa án.
- Việc xét hỏi phải liên tục: Bên cạnh yếu tố trực tiếp, bằng lời nói của việc
xét hỏi thì tính liên tục cũng là yêu cầu không thể thiếu trong quá trình xét xử một
vụ án hình sự. Bởi từ khi bắt đầu khai mạc phiên tòa cho đến khi kết thúc phiên tòa
bằng việc Tòa tuyên án, rất nhiều nội dung cần được làm rõ, nhiều người liên quan
có thể đưa ra nhiều chứng cứ, tài liệu khác nhau, do đó tính liên tục của việc xét hỏi
sẽ đảm bảo cho quá trình tố tụng đi theo một trình tự chặt chẽ, nhanh gọn, hạn chế
kéo dài phiên tòa và cũng nhằm mục đích để cơ quan tiến hành tố tụng, những
người tham gia tố tụng tập trung vào các tình tiết của vụ án, có cái nhìn khách quan,
cô đọng, rõ ràng không mơ hồ về việc xét xử của Tòa án cho đến giai đoạn kết thúc.
Quá trình xét xử gồm nhiều thủ tục nối tiếp nhau, thủ tục trước đó là căn cứ để phát
sinh các nội dung cần xem xét ở thủ tục sau, có mối quan hệ nhân quả với nhau, vì
vậy nếu để phiên tòa gián đoạn hoặc tạm ngừng quá lâu, khi bắt đầu lại một phiên
tòa mới sẽ gây khó khăn cho những người tham gia trong việc xâu chuỗi các tình
tiết, thiếu sót trong việc đánh giá toàn diện chứng cứ sẽ dễ dẫn đến phán quyết sai
lầm hoặc nhận định vấn đề chưa đầy đủ, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của bị
can, bị cáo. Hội đồng xét xử phải làm việc liên tục, trừ thời gian nghỉ theo luật định,
giai đoạn nghị án cũng là lúc Hội đồng xét xử làm việc và trong suốt quá trình diễn
ra phiên tòa, có thành viên Hội đồng xét xử dự khuyết tham gia nếu thành viên
chính thức của Hội đồng xét xử không thể có mặt. Trong khi đang tham gia xét xử
một vụ án, Hội đồng xét xử không được tham gia tố tụng đối với một vụ án khác.
Như vậy, tại phiên tòa sơ thẩm với vị trí là cấp xét xử thứ nhất, nguyên tắc
xét hỏi công khai, bằng lời nói và liên tục được thể hiện toàn diện nhất, dựa trên cáo
17
trạng của Viện kiểm sát thì phiên tòa được tiến hành, “ Không có buộc tội thì không
có xét xử”. Để phiên tòa sơ thẩm diễn ra nhanh chóng, khách quan thì những
nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự cần được thực thi nghiêm túc trong các giai
đoạn của một vụ án hình sự, đặc biệt chú trọng đến các hoạt động công khai diễn ra
ngay tại phiên tòa.
1.2. Mối tương quan giữa xét hỏi và các thủ tục tố tụng khác trong phiên
tòa hình sự sơ thẩm.
1.2.1. Xét hỏi và thủ tục bắt đầu phiên tòa
Thủ tục bắt đầu phiên tòa là thủ tục bắt buộc phải có đối với bất kỳ phiên tòa
sơ thẩm hình sự nào được mở. Thủ tục xét hỏi và thủ tục bắt đầu phiên tòa được quy
định trong Mục V. Hai thủ tục này độc lập với nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ,
được tiến hành theo trình tự liên tiếp. Xét hỏi vừa tiếp nối thủ tục bắt đầu phiên tòa
nhưng cũng là tiền đề cho thủ tục nghị án và tuyên án. Trước khi tiến hành thủ tục
xét hỏi, phải đảm bảo đúng thành phần những người tham gia tố tụng và những
người tiến hành tố tụng, đây là yếu tố đảm bảo việc xét xử trước hết phải đúng
người, xác định những người có liên quan đến vụ án như nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người làm chứng… Tại thủ tục khai mạc phiên tòa, Thẩm phán – chủ tọa
phiên tòa phải đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, nội dung của Quyết định này ghi
nhận gần như đầy đủ thành phần tham gia xét xử và những người được triệu tập đến
phiên tòa, xét xử vụ án gì và tư cách tham gia tố tụng của từng người. Những người
có mặt, vắng mặt tại phiên tòa đều có những quyền, nghĩa vụ riêng biệt tùy thuộc
vào tư cách tham gia tố tụng. Thẩm phán phải phổ biến quyền và nghĩa vụ cho họ
biết. Thủ tục bắt đầu phiên tòa sẽ là cơ sở để Tòa án xét hỏi và nghe ý kiến trình bày
của những người có mặt tại phiên tòa ở các phần thủ tục tiếp theo.
Tại giai đoạn này, có thể phiên tòa sẽ được tiếp tục hoặc Hội đồng xét xử
quyết định hoãn nếu xét thấy không đảm bảo về thủ tục tố tụng và việc xét xử sẽ
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người vắng mặt và có mặt. Do
đó, khi phiên tòa phải hoãn thì cũng không thể tiến hành thủ tục xét hỏi. Thủ tục bắt
đầu phiên tòa có thể cung cấp thêm những người làm chứng hoặc những tài liệu, đồ
18
vật mới…mà trước đó không được đề cập trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Những người được kiểm tra căn cước trong giai đoạn này sẽ được xét hỏi hoặc được
trình bày ở các giai đoạn tiếp theo. Vì vậy, để phiên tòa được tiến hành xuyên suốt,
liên tục thì cũng cần kiểm tra đầy đủ thủ tục bắt đầu.
1.2.2. Xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa
Xét hỏi và tranh luận là hai thủ tục riêng biệt, độc lập, tuy cùng nằm trong
phần tranh tụng tại phiên tòa. Thủ tục xét hỏi theo mô hình tố tụng hiện nay thuộc
nhiệm vụ chính của Hội đồng xét xử gồm Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa, các hội
thẩm và Kiểm sát viên. Tranh luận là thủ tục tố tụng được thực hiện sau phần xét
hỏi, sau khi các nội dung chủ yếu về mặt chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét, trừ
khi thấy cần thiết, thì Hội đồng xét xử có thể quay trở lại phần xét hỏi, thông
thường khi Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần hỏi thì mới chuyển sang phần
tranh luận. Phần thủ tục tranh luận thể hiện rõ nhất ý chí, các quan điểm, lập luận để
bảo vệ quyền và lợi ích cho bị cáo, bác bỏ quan điểm buộc tội của Viện kiểm sát
hoặc đưa ra các tình tiết, chứng cứ nhằm mục đích giảm nhẹ hình phạt mà bị cáo
phải chịu, thường phần tranh luận, người bào chữa sẽ đưa ra quan điểm về tội phạm
và hình phạt dưới mức án đề nghị của Viện kiểm sát.
Thủ tục xét hỏi và thủ tục tranh luận có mối quan hệ mật thiết với nhau, vì
chứng cứ, tài liệu của vụ án được kiểm tra, đánh giá tính đúng đắn tại phần xét hỏi.
Đây là cơ sở để các bên đưa ra lập luận của mình tại phần tranh luận dựa trên các
chứng cứ được Hội đồng xét xử xem xét tại phiên tòa. Có thể nói xét hỏi là tiền đề
của tranh luận, là cơ sở để các bên xây dựng luận cứ cho phần tranh luận. Do đó để
việc tranh luận thật sự có hiệu quả, đáp ứng được ý chí của các bên thì phần xét hỏi
phải chi tiết, cụ thể, đi vào những nội dung chính, quan trọng của vụ án.
1.2.3. Xét hỏi và thủ tục nghị án, tuyên án
Thủ tục nghị án và tuyên án là phần thủ tục cuối cùng của một phiên tòa hình
sự, được tiến hành liền ngay sau thủ tục tranh luận. Đến giai đoạn này, Tòa án, bên
buộc tội và bên gỡ tội đã nắm được toàn bộ diễn biến, chứng cứ, nội dung và quan
điểm của các bên. Thủ tục nghị án và tuyên án, vai trò chính thuộc về Hội đồng xét
19
xử, Viện kiểm sát không tham gia vào phần thủ tục này.Kết quả của thủ tục xét hỏi,
tranh luận là cơ sở để Hội đồng xét xử nghị án đưa ra quyết định cuối cùng của vụ
án. Hội đồng xét xử biểu quyết theo đa số từng vấn đề và chỉ được căn cứ vào
những chứng cứ, tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ,
toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa,
người tham gia tố tụng khác. Việc đánh giá chứng cứ khách quan, toàn diện là cơ sở
để Hội đồng xét xử ban hành một bản án thuyết phục.
1.3. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ
1945 đến nay về xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự.
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
1988
Luật tố tụng hình sự được hình thành và dần dần phát triển thành một ngành
luật độc lập. Trong pháp luật TTHS, thủ tục xét hỏi cũng có những thay đổi theo sự
phát triển của ngành luật này. Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của Việt Nam được
ban hành năm 1988, thủ tục xét hỏi cũng được ghi nhận thành thủ tục riêng biệt.
Trong những năm đầu của nền tư pháp dân chủ nhân dân, các văn bản pháp
luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đã được ban hành. Sắc lệnh
33C ngày 13/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa
về thành lập Tòa án quân sự, sau đó được bổ sung bằng Sắc lệnh số 21 ngày
14/2/1946; Sắc lệnh 46-SL ngày 10/10/1945 về tổ chức đoàn thể luật sư, Sắc lệnh
13 ngày 24/1/1946 về tổ chức tòa án và các ngạch thẩm phán, theo đó có Tòa án sơ
cấp (đặt ở cấp huyện, quận, châu), Tòa án đệ nhị cấp (đặt ở cấp tỉnh, thành phố),
Tòa thượng thẩm (đặt ở 3 kỳ). Sau Tổng tuyển cử, Hiến pháp năm 1946 được ban
hành, quy định cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm: Toà án
tối cao; các Toà án phúc thẩm; các Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp. Sắc lệnh 69/SL
ngày 18/6/1949 được cụ thể hóa bằng Nghị định số 01/NĐ ngày 12 tháng 1 năm
1950 của Bộ tư pháp về mở rộng quyền bào chữa...Để đáp ứng yêu cầu dân chủ hóa
nền tư pháp, Sắc lệnh 85 ngày 22/5/1950 đổi tên tòa án sơ cấp thành “Tòa án nhân
dân”; Phụ thẩm được đổi thành Hội thẩm nhân dân. Qua đó, thủ tục xét hỏi còn
20
được thể hiện gián tiếp trong các văn bản liên quan đến quyền bào chữa của bị can
do Hội nghị tư pháp thông qua ngày 20/6/1956. Thông tư 22 – HCTP ngày
18/12/1957 của Bộ Tư pháp trả lời một số điểm về quyền bào chữa.
Vào cuối những năm 1950 đã có những thay đổi lớn về hệ thống tư pháp.
Năm 1958, Quốc hội quyết định thành lập Tòa án nhân dân tối cao và Viện công tố
Trung ương, là các cơ quan thuộc Chính phủ. Đến năm 1959, Hiến pháp mới được
ban hành, trên cơ sở đó, Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân 1960 ra đời, với việc thành lập hệ thống Tòa án nhân dân và Viện kiểm
sát nhân dân. Trong đó Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao
là các thiết chế thuộc Quốc hội. Sau khi giải phóng miền Nam 91975), Chính phủ
Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 01 –
SL/67 ngày 15/3/1976 về tổ chức Tòa án nhân dân. Khi đất nước thống nhất về mặt
nhà nước (1976) thì hệ thống Tòa án và Viện kiểm sát được hướng dẫn hoạt động
theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1960.
Hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trong giai đoạn này được Tòa án nhân
dân Tối cao hướng dẫn bằng “Bản hướng dẫn trình tự sơ thẩm về hình sự” và Thông
tư số 16-TATC ngày 17/9/1974. Sau khi Hiến pháp 1980 ra đời, Luật Tổ chức Tòa
án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1981 được ban hành cho phù
hợp với Hiến pháp mới.
Theo quy định trong các văn bản nói trên thì trình tự xét hỏi trong phiên tòa
sơ thẩm hình sự được bắt đầu là việc xét hỏi của Hội đồng xét xử, tiếp theo là Kiểm
sát viên, người bào chữa, nguyên đơn dân sự. Thủ tục xét hỏi được bắt đầu bằng
việc Thư ký được Chủ tọa phiên tòa yêu cầu đọc bản cáo trạng. Việc xét hỏi bắt đầu
từ hỏi bị cáo, người bị hại, người làm chứng. Vai trò của Hội đồng xét xử tại thủ tục
xét hỏi trong giai đoạn này cũng giống như hiện nay khi vẫn giữ quyền hỏi chính và
hỏi toàn bộ nội dung vụ án. Khi xét hỏi: “Hội đồng xét xử phải lắng nghe những lời
khai của bị cáo nhưng chủ tọa phiên tòa phải kịp thời căn cứ vào những chứng cứ và
lý lẽ vững chắc, vạch ra những điều mà bị cáo khai không đúng, nhưng cần tránh
việc tranh cãi tay đôi với bị cáo”. Vai trò của Kiểm sát viên theo hướng dẫn này rất
21
mờ nhạt, không thực sự có hiệu quả trong thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, chỉ thực hiện
quyền hỏi những người tham gia tố tụng khác sau phần hỏi của Chủ tọa phiên tòa:
“Sau khi Hội đồng xét xử hỏi xong một việc thì chủ tọa phiên tòa cần hỏi đại diện
Viện kiểm sát và người bào chữa có hỏi thêm gì không”. Trong trường hợp bị cáo
không thừa nhận thì “ nên yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân phát hiểu thêm về vấn đề
nào bị cáo còn chối cãi” [26]. Một điểm bất hợp lý tại giai đoạn này là phần công bố
cáo trạng lại do thư ký phiên tòa đọc. Điều này chưa phù hợp với chức năng, nhiệm
vụ của Kiểm sát viên.
Có thể nói, thủ tục xét xử tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong giai đoạn từ
năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật TTHS năm 1988 chưa được hệ thống
thành một văn bản cụ thể, các quy định còn nằm tản mạn trong các văn bản hướng
dẫn thi hành, các sắc lệnh, các công văn hướng dẫn nội bộ. Nội dung quy định về
thủ tục cũng chưa thực sự khoa học, đặt vai trò của Hội đồng xét xử là trung tâm
của thủ tục xét hỏi, vai trò của Kiểm sát viên chưa được đề cao, vai trò của người
bào chữa cũng chưa đạt được hiệu quả nhất định. Giai đoạn đất nước sau giải phóng
còn phải giải quyết nhiều vấn đề còn tồn đọng của chiến tranh, trình độ lập pháp
còn hạn chế, vì vậy phiên tòa hình sự sơ thẩm trong giai đoạn này chắc chắn còn
nhiều thiếu sót và tính dân chủ chưa được đề cao đúng mức. Tuy nhiên, cũng phải
ghi nhận sự quan tâm, nỗ lực của Nhà nước ta trong việc xây dựng ngành tư pháp
nói chung, không ngừng nâng cao chất lượng xét xử.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
2003
Pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn này đã có bước phát triển cả về mặt
nội dung và hình thức với việc pháp điển hóa pháp luật TTHS lần thứ nhất vào năm
1988. Bộ luật tố tụng hình sự 1988 được thông qua tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội
khóa VIII đã tập hợp và pháp điển những quy định riêng rẽ, tản mạn được ban hành
trong các văn bản khác nhau về chung một mối – văn bản có giá trị pháp lý cao là
Luật. Lần đầu tiên, Bộ luật tố tụng hình sự 1988 quy định trình tự, thủ tục để tiến
hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự làm tiền đề cho
22
việc phối hợp, thực hiện đồng bộ giữa các cơ quan thực thi pháp luật. Công tác xét
xử giai đoạn này cũng được nâng cao về mặt chất lượng cũng như cách thức tổ chức
phiên tòa được chuẩn hóa hơn các giai đoạn trước.
Tiếp tục kế thừa và phát huy những nguyên tắc chủ đạo, tinh thần thượng tôn
pháp luật và đảm bảo quyền con người, quyền được đối xử công bằng trước pháp
luật của công dân, tiếp thu tinh hoa những tư tưởng tiến bộ của Hiến pháp 1946,
Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, đặc biệt là các Luật Tổ chức TAND và Luật tổ
chức VKSND năm 1960, năm 1981, Bộ luật tố tụng 1988 đã có nhiều nguyên tắc
tiến bộ và được ghi nhận như nguyên tắc “ Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản
án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” ( Điều 10), nguyên tắc đảm bảo
quyền bào chữa của bị can, bị cáo ( Điều 12), nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng
trước Tòa án ( Điều 20) và các quy định nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể tham gia tố tụng khác. Bộ luật tố tụng hình sự 1988 quy định về thủ
tục xét hỏi tại Chương XIX, từ Điều 180 đến Điều 190. Chủ thể hỏi theo quy định là
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người
giám định. Trình tự xét hỏi theo thứ tự là Hội đồng xét xử hỏi chính, sau đó Kiểm
sát viên, người bào chữa hỏi…cụ thể:
“1- Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về
từng tội của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý.
2- Khi xét hỏi từng người, chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến các hội thẩm
nhân dân, sau đó đến kiểm sát viên, người bào chữa. Những người tham gia phiên
toà cũng có quyền đề nghị với chủ toạ phiên toà hỏi thêm về những tình tiết cần làm
sáng tỏ. Người giám định được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám
định.
3- Trong khi xét hỏi, Hội đồng xét xử xem xét những vật chứng có liên quan
trong vụ án”
Về cơ bản, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm trong giai đoạn này cũng bao
gồm việc công bố bản cáo trạng, xác định nội dung và thứ tự xét hỏi, hỏi, công bố
lời khai tại cơ quan điều tra, xem xét, kiểm tra chứng cứ. Nhưng có thay đổi so với
23
giai đoạn trước ở việc thư ký không còn đọc bản cáo trạng mà là nhiệm vụ của
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Quy định này thay đổi là hợp lý, Kiểm sát viên
phải đọc bản cáo trạng vì đây chính là quan điểm công khai buộc tội bị cáo của
Viện kiểm sát, chức năng này phải do Kiểm sát viên thực hiện mà không phải là đối
tượng nào khác. Tuy có sự thay đổi lớn về việc quy định trình tự, thủ tục xét hỏi so
với các văn bản trước đó nhưng trong quá trình thi hành, áp dụng cũng đã bộc lộ
nhiều điểm chưa hợp lý. Bộ luật tố tụng hình sự được sửa đổi lần đầu tiên năm
1990, đến năm 1992, sau khi Hiến pháp 1992 được thông qua, Bộ luật tố tụng hình
sự 1988 tiếp tục có sự thay đổi, bằng việc Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLTTHS 1988 cho phù hợp với Hiến pháp. Đồng thời, Luật tổ
chức TAND 1992, Luật tổ chức VKSND 1992, Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội
Thẩm 1993, Pháp lệnh về KSV 1993, Pháp lệnh về Tòa án quân sự 1993, Pháp lệnh
về Viện kiểm sát quân sự 1993. Năm 2000, lần thứ ba, BLTTHS 1988 được sửa đổi
bổ sung nhiều quy định nhưng thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm nhìn chung
không có sự thay đổi.
Bộ luật tố tụng hình sự 1988 lần đầu tiên tổng hợp và quy định khá chi tiết về
trình tự thủ tục xét hỏi làm cơ sở cho việc áp dụng thống nhất pháp luật tại phiên
tòa, góp phần làm cho phiên tòa sơ thẩm được công khai, minh bạch, nâng cao chất
lượng xét xử cả về nội dung xét hỏi và cách thức tổ chức phiên tòa.
1.3.3. Giai đoạn từ 2003 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
2015.
Bộ luật TTHS năm 2003 được ban hành (thay cho Bộ luật TTHS năm 1988)
đã phản ánh những dấu ấn đầu tiên của cải cách tư pháp theo tinh thần và nội dung
của Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Việc tiến hành tranh tụng tại
phiên tòa theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW được bắt đầu thực hiện theo hướng
dẫn tại Thông báo số 01- TB/BCĐCCTP, ngày 31-5-2002 của Ban Chỉ đạo Cải cách tư
pháp Trung ương. Bộ luật TTHS năm 2003 đã từng bước tiếp cận chủ trương bảo đảm
tranh tụng để việc xét xử khách quan và toàn diện hơn. Về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa
24
sơ thẩm, Bộ luật TTHS năm 2003 quy định khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên
tòa hỏi trước rồi đến các hội thẩm, sau đó đến kiểm sát viên, người bào chữa, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự. Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề
nghị với Chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám
định được hỏi về những vấn đề liên quan đến giám định.
Thực chất thủ tục này là việc người tiến hành tố tụng bao gồm Hội đồng xét
xử, kiểm sát viên, Luật sư tiến hành hỏi bị cáo, người làm chứng và những người
liên quan khác để xác minh các chứng cứ trong hồ sơ vụ án và làm rõ những tình
tiết có liên quan để xác định sự thật khách quan của vụ án.
Như vậy, BLTTHS năm 2003 không quy định phải hỏi ai trước, ai sau. Tùy
từng vụ án, chủ tọa có kế hoạch xét hỏi hợp lý trên cơ sở nội dung từng vụ án cụ thể
cũng như thái độ khai báo của người tham gia tố tụng. Nội dung xét hỏi tập trung
làm rõ tình tiết định tội, định khung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị
cáo…
1.3.4. Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015
Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận những thành tựu đậm nét của cải cách tư
pháp trong lĩnh vực xét xử. Hiến pháp ghi nhận những tư tưởng tiến bộ, hướng đến
mục tiêu bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa và tôn trọng, bảo vệ cao nhất quyền
con người. Trên tinh thần đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 khẳng định tiếp tục
duy trì và phát huy những ưu điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn; đồng thời, tham
khảo kinh nghiệm quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của mô hình
tố tụng tranh tụng, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử. Một trong những mục tiêu quan trọng của việc ban hành
BLTTHS năm 2015 là phải tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đặt ra trong thực tiễn; xác
lập đầy đủ cơ sở pháp lý để quá trình phát hiện, xử lý tội phạm được tiến hành chính
xác, kịp thời, góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc
sống bình yên của nhân dân, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển. Từ yêu cầu đó,
BLTTHS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng, trong đó, nhằm thể
25
hiện rõ nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, không chia thành thủ tục xét hỏi và thủ
tục tranh luận như trước đây mà nhập chung thành thủ tục tranh tụng tại phiên tòa
(từ Điều 306 đến Điều 325). Điều 307 quy định:
a- Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng
tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định
người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý.
b- Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để
Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi.
Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi
thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ.
Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên
quan đến việc giám định, định giá tài sản.
c- Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử xem xét vật chứng có liên quan trong vụ án.
Như vậy, theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì chủ tọa phiên tòa điều
hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý. Khi xét hỏi,
chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán (trường hợp Hội đồng
3), Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự thực hiện việc hỏi.
Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị Chủ tọa phiên tòa hỏi
thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định, người định giá tài sản
được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản. Đồng
thời BLTTHS năm 2015 bổ sung cho bị cáo quyền được trực tiếp đặt câu hỏi với
các bị cáo khác, bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ, người làm chứng nếu
được Chủ tọa đồng ý thay vì đề nghị Chủ tọa hỏi (Điểm i khoản 2 Điều 61 các Điều
309, 310 và 311 Bộ luật TTHS 2015). Ý nghĩa của việc làm này để xác định toàn
diện, đầy đủ, khách quan nội dung vụ án, tránh oan sai, đảm bảo xét xử đúng quy
định của pháp luật.
26
Tiểu kết chương 1
Xét hỏi là thủ tục quan trọng trong quá trình xét xử vụ án hình sự, xuất phát
từ việc xét hỏi thì chứng cứ của vụ án được công khai và toàn bộ nội dung vụ án
được làm sáng tỏ. Qua những lần thay đổi pháp luật thực định, thủ tục xét hỏi đang
có sự chuyển biến tích cực khi tiến gần hơn đến việc kết hợp giữa xét hỏi và tranh
luận. Đây được xem là xu hướng đúng đắn và đem lại hiệu quả tích cực trong hoạt
động xét xử tại các cấp Tòa án. Không thể phủ nhận những quy định về thủ tục xét
hỏi đã dần hoàn thiện qua các lần pháp điển hóa, cho đến BLTTHS 2015 đã thể hiện
rõ rệt tinh thần cải cách khi kết hợp xét hỏi và tranh luận thành phần tranh tụng tại
phiên tòa. Nhưng trong quá trình thi hành BLTTHS kể từ khi thủ tục xét hỏi được
quy định chính thức là một thủ tục độc lập, vai trò của Tòa án vẫn chưa được giải
phóng để trở về đúng vị trí trọng tài. Các quy định của pháp luật đã bộc lộ hạn chế
về mặt chủ thể thực hiện xét hỏi (đặc biệt vai trò của Hội thẩm và Kiểm sát viên),
trình tự xét hỏi, nội dung khi xét hỏi và các quy định về công bố lời khai, xem xét
vật chứng tại phiên tòa.
27
Chương 2
THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015 VỀ XÉT HỎI
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, TP. HỒ CHÍ MINH
2.1. Chủ thể thực hiện quyền xét hỏi
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 không liệt kê thành nhóm những chủ thể thực
hiện quyền xét hỏi mà quy định trong các điều luật có liên quan ở Mục V – Thủ tục
tranh tụng tại phiên tòa. Theo quy định tại khoản 2, Điều 307 về trình tự xét hỏi thì
có thể phân biệt chủ thể hỏi bao gồm 2 nhóm: Những người tiến hành tố tụng và
những người tham gia tố tụng. Nhóm chủ thể hỏi là những người tiến hành tố tụng
gồm: Chủ tọa phiên tòa, Thẩm phán, Hội Thẩm, Kiểm sát viên. Và nhóm chủ thể
tham gia tố tụng gồm: Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, người giám định, người định giá tài sản, đồng thời người tham gia tố tụng
tại phiên tòa được quyền đề nghị chủ tọa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng
tỏ.
2.1.1. Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa là thành viên của Hội đồng xét xử và là
người điều hành chính thủ tục xét hỏi tại phiên tòa. Trách nhiệm của Hội đồng xét
xử nói chung và Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa nói riêng tại mỗi phiên tòa sơ thẩm
được quy định cụ thể: “Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về
từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc
hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý” – khoản 1, Điều 307 Bộ
luật tố tụng hình sự 2015. Quy định này cho thấy Hội đồng xét xử giữ vị trí rất quan
trọng khi tiến hành việc hỏi, phải đi tìm sự thật khách quan của vụ án và giải quyết
tất cả các vấn đề, các tình tiết của một vụ án. Với mô hình tố tụng hình sự đang áp
dụng ở nước ta hiện nay, Hội đồng xét xử được toàn quyền chủ động và tích cực xét
hỏi, quyền hạn của Hội đồng xét xử không bị giới hạn trong thủ tục hỏi. Nhưng
chính quy định này đã tồn tại nhiều bất cập và không hợp lý, khi Bộ luật TTHS năm
2015 thể hiện mô hình TTHS xét hỏi kết hợp với mô hình TTHS tranh tụng. Không
28
những thế, Hội đồng xét xử phải làm thay nhiệm vụ của các chủ thể khác khi tham
gia phiên tòa, vừa xét hỏi, vừa xem xét chứng cứ, tìm các tình tiết hợp lý và bất hợp
lý trong lời khai của bị cáo và đối khớp với hồ sơ vụ án, xem xét các yếu tố tăng
nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo... Hội đồng xét xử được trao
quyền hạn lớn nhưng cũng chính là rào cản để Hội đồng xét xử không tập trung vào
việc xem xét, đánh giá chứng cứ và nghe trình bày giữa bên buộc tội và gỡ tội. Tính
khách quan cũng vì thế mà chưa thực sự được đảm bảo.
Trong các giai đoạn giải quyết vụ án hình sự, thì chính thủ tục xét hỏi là giai
đoạn quan trọng nhất để các bên được biết quan điểm chính thức của bên đối kháng,
các chứng cứ cũng được chính thức công khai kiểm tra lại toàn bộ tại phiên tòa, do
đó, việc quy định không hợp lý về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố
tụng có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử mà trong
đó, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là người tiến hành TTHS được tiếp xúc với toàn
bộ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được nghiên cứu hồ sơ với khoảng thời gian
khá dài, nên việc quy định Chủ tọa phiên tòa hỏi chính và được hỏi về toàn bộ các
tình tiết có liên quan dễ dẫn đến tâm lý chủ quan, thiên về buộc tội theo hướng cơ
quan điều tra và Viện kiểm sát xây dựng hồ sơ. Đây là điểm chưa hợp lý, có thể gây
tâm lý bất ổn cho chính bị cáo về việc Hội đồng xét xử mở phiên tòa chỉ để hợp
thức hóa lời khai của họ cho đúng thủ tục. Thủ tục xét hỏi được diễn ra công khai
tại phiên tòa là cơ hội rất lớn cho bị cáo được thể hiện quan điểm của mình trước
cáo buộc của Viện kiểm sát, được trình bày những căn cứ để bảo vệ mình trước các
cơ quan tiến hành tố tụng, trong một vài trường hợp có thể làm đảo ngược hồ sơ vụ
án nếu trước đó bị cáo bị ép cung, nhục hình “Người dân có thể chưa tìm hoặc
không tìm thấy công lý ở giai đoạn trước nhưng được quyền hy vọng sẽ tìm thấy
công lý ở phiên tòa xét xử” [7, tr.45]. Với vai trò chủ chốt như hiện nay việc xét hỏi
được trao cho Hội đồng xét xử, mà hoạt động chính thuộc về Thẩm phán – chủ tọa
phiên tòa đã đặt ra yêu cầu khá cao cho chủ thể này khi phải thực sự phát huy tất cả
các kĩ năng, tâm lý, tâm trí để mục đích xem xét chứng cứ toàn diện nhất tại một
buổi xét xử. Hội đồng xét xử ở cấp sơ thẩm được quy định tại Điều 22, Điều 23 -
29
Chương II – Những nguyên tắc cơ bản – Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về việc thực
hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia và được xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật. Như vậy, khi xét xử, ngoài Chủ tọa phiên tòa thì Hội Thẩm nhân dân
cũng tham gia vào việc xét hỏi và đưa ra quyết định đối với bị cáo. Vai trò, trách
nhiệm của Hội thẩm nhân dân theo quy định là rất lớn và ngang quyền với Thẩm
phán nhưng trong thực tế lại chưa thực sự phát huy hiệu quả, thậm chí không đưa ra
ý kiến gì về việc đánh giá chứng cứ. Thẩm phán vẫn phải chịu trách nhiệm chính,
quyết định chính khi xét xử. Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu có xảy ra sai sót
thì chỉ có Thẩm phán mới phải chịu chế tài của quy định về trách nhiệm bồi thường,
kỉ luật. Do đó, xét về mặt khách quan, Thẩm phán phải thực sự tập trung tại mỗi
phiên tòa và có phần bao quát hết diễn biến phiên tòa để đưa ra quyết định, giữ vai
trò chủ động hơn Hội Thẩm nhân dân cũng là điều dễ hiểu.
2.1.2. Hội thẩm nhân dân
Có thể khẳng định, sự tham gia xét hỏi của Hội thẩm nhân dân tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm từ trước đến nay thực sự mờ nhạt, điều này diễn ra ngay cả ở những
phiên tòa của những vụ án lớn. Trong khi Chủ tọa phải xét hỏi, nghe Viện kiểm sát
trình bày cáo trạng, nghe ý kiến của bị cáo, của người bảo vệ quyền và lợi ích của bị
cáo, của đương sự, xem xét chứng cứ các bên đưa ra, đối chất, cân nhắc... phải hoạt
động quá nhiều tại phiên tòa thì Hội thẩm nhân dân chỉ là hình thức, một phiên tòa
sơ thẩm thông thường có hai Hội thẩm, ý kiến của hai Hội thẩm tại thủ tục nghị án
là chiếm đa số so với ý kiến của Chủ tọa phiên tòa, nên việc không phát huy hết tất
cả vai trò, trách nhiệm của Hội thẩm là một thiếu sót lớn.
Thực tiễn xét xử, khi Chủ tọa phiên tòa bắt đầu thủ tục xét hỏi, xét hỏi những
tình tiết quan trọng có liên quan đến vụ án hết thì thường Chủ tọa sẽ hỏi ý kiến của
Hội thẩm về việc có hỏi thêm các bị cáo hoặc hỏi các vấn đề khác nữa không,
nhưng Hội thẩm gần như chỉ hỏi cho đúng thủ tục hoặc không hỏi, các câu hỏi cũng
không tập trung đi sâu vào việc làm sáng tỏ các tình tiết khách quan, thường thì đề
cập đến khía cạnh đạo đức để bị cáo ăn năn, hối cải, thành khẩn khai báo. Pháp luật
tố tụng hình sự đang trao cho Hội thẩm nhân dân quyền ngang với Thẩm phán
30
nhưng trách nhiệm ràng buộc thì lại xem nhẹ, do đó Hội thẩm cho đến nay chưa có
cơ chế đảm bảo thực hiện. Trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ của Hội thẩm chưa được
đề cao đúng mức, do Hội thẩm được tuyển chọn từ nhiều nguồn nhân lực khác
nhau, có Hội thẩm đang trong quá trình công tác tại các cơ quan ban ngành nên việc
nghiên cứu hồ sơ còn chưa chú trọng, mặc dù Hội thẩm không bị ràng buộc về thời
gian nghiên cứu hồ sơ, việc xây dựng kế hoạch xét hỏi gần như không có, hoặc nếu
có thì không đạt chất lượng cao. Hội thẩm cũng có thể mắc những sai lầm về việc
định hình sẵn việc kết tội bị cáo, dẫn đến các phiên tòa chủ yếu xoay quanh việc kết
tội thay vì kiểm tra tính hợp pháp của chứng cứ và lời khai của những người tham
gia tố tụng “... thói quen khó sửa muốn tạo cho bị cáo khuất phục tại phiên tòa, làm
thay việc của Kiểm sát viên, chỉ tìm chứng cứ buộc tội bị cáo nếu sẵn có định kiến
là bị cáo có tội hoặc làm thay việc của luật sư, chỉ tìm những chứng cứ gỡ tội nếu
sẵn định kiến là bị cáo không có tội” [18, tr.3-10].
Điểm tích cực của chế định Hội thẩm nhân dân hiện nay là để tránh việc tại
phiên tòa, chỉ có Kiểm sát viên thực hiện việc cáo buộc, hoặc Chủ tọa phiên tòa do
quá tập trung vào việc xem xét chứng cứ và điều hành phiên xét xử mà mắc một vài
thiếu sót về mặt thủ tục, hoặc bỏ qua việc xét hỏi một số đương sự có liên quan
trong vụ án, sự có mặt của Hội Thẩm nhân dân tại phiên tòa có thể phát huy hết trí
tuệ của cả Hội đồng xét xử 3 người, hạn chế những sai lầm không đáng có trong quá
trình xét xử.
Tại phiên tòa hình sự ngày 04/4/2013, VKS truy tố bị cáo Bùi Quý S và bị
cáo Phạm Nguyễn Thế H về tội “Trộm cắp tài sản”, Hội thẩm tham gia phiên tòa
chỉ hỏi bị cáo: “Bị cáo có hối hận về hành vi trộm cắp của mình không?”, ngoài ra
không hỏi thêm gì về các nội dung khác của vụ án, còn Hội thẩm còn lại không
tham gia xét hỏi. Tại phiên tòa ngày 12/7/2013, Hội thẩm hỏi bị cáo: “Tại sao bị cáo
không đi làm mà lại đi cướp giật?” tác giả cho rằng việc Hội thẩm hỏi bị cáo như
vậy không đi sâu vào nội dung vụ án và không cần thiết. Phiên tòa ngày 19/6/2014,
bị cáo Đỗ Nguyễn Quốc C bị VKSND Quận 10 truy tố về tội “Cố ý gây thương
tích”, cả hai hội thẩm tham gia phiên tòa đều không tiến hành việc xét hỏi. Hay tại
31
phiên tòa ngày 12/6/2014, bị cáo Đặng Thanh H bị VKSND Quận 10 truy tố về tội
“trộm cắp tài sản” thì cả hai hội thẩm cũng không hỏi bị cáo bất cứ tình tiết nào của
vụ án. Rất nhiều các phiên tòa có hội thẩm tham gia tại Tòa án nhân dân Quận 10 có
Hội thẩm nhân dân nhưng Hội thẩm không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của
mình, nếu có đặt câu hỏi thì cũng không đúng trọng tâm “Bị cáo bỏ nhà đi được
mấy ngày rồi?” trong vụ án “Mua bán trái phép chất ma túy” , hay “Bị cáo tốt
nghiệp năm nào, tốt nghiệp loại gì” tác giả cho rằng những câu hỏi này không liên
quan đến việc làm sáng tỏ nội dung vụ án. Tại các phiên xử tại Tòa án nhân dân
Quận 10, thông thường Hội thẩm hay hỏi bị cáo có hối hận về hành vi của mình
không, và giáo dục đạo đức cho bị cáo ngay tại phiên tòa.
Việc quy định Hội đồng xét xử thực hiện quyền xét hỏi tại phiên tòa theo mô
hình thẩm vấn của nước ta hiện nay ít nhiều đã đạt được những hiệu quả nhất định
nhưng chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp, nâng cao tính tranh
tụng, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo tại phiên tòa. Không cần thiết phải
giao cho Hội đồng xét xử nhiệm vụ phải hỏi chính và bằng mọi cách tìm ra sự thật
khách quan của một vụ án chỉ bằng thủ tục hỏi tại phiên tòa, cần thiết phải sửa đổi
Bộ luật tố tụng hình sự, đặt Hội đồng xét xử về đúng chức năng, nhiệm vụ “phân
xử” bằng cách lắng nghe ý kiến và xem xét chứng cứ do các bên đưa ra tại phiên
tòa.
2.1.3. Kiểm sát viên
Kiểm sát viên là chủ thể thực hiện quyền xét hỏi tại phiên tòa – thực hành
quyền công tố bên cạnh quyền kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong phần xét hỏi tại
phiên tòa: “Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa phải bảo vệ cáo
trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo tại phiên tòa; chứng minh mọi luận điểm
trong cáo trạng bằng việc chủ động xét hỏi, thẩm vấn, đưa ra những chứng cứ trực
tiếp và những chứng cứ gián tiếp để chứng minh tội phạm, làm sáng tỏ đầy đủ các
tình tiết từng sự việc của vụ án” [2]. Để thực hiện quyền công tố tại phiên tòa –
chức năng chính của Viện Kiểm sát khi xét xử, Viện kiểm sát mở đầu thủ tục hỏi
bằng việc công bố bản cáo trạng. Đây là quan điểm buộc tội chính thức của Viện
32
kiểm sát một cách công khai, có buộc tội thì sẽ có xét xử, có buộc tội sẽ có gỡ tội.
Bằng cáo trạng của mình, những người tham gia vụ án hình sự có cái nhìn khái quát
về nội dung vụ án và những tình tiết có liên quan giữa hành vi và tội phạm của bị
cáo. Việc hỏi của Kiểm sát viên để chứng minh cho tính có căn cứ quan điểm buộc
tội của mình, hỏi để làm rõ bốn yêu tố cấu thành của tội phạm bao gồm chủ thể,
khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan. Do đó, cáo trạng truy tố được công bố tại
phiên tòa phải rõ ràng và thể hiện được các yếu tố trên, nhất là tính có căn cứ, nhân
quả của hành vi và tội phạm của bị cáo.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, vai trò của Kiểm sát viên không thật sự nổi
bật như ở các quốc gia theo mô hình tố tụng tranh tụng. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên
chỉ có quyền công bố cáo trạng, thẩm vấn bị cáo và nhân chứng khi Tòa án đã thẩm
vấn xong, đề nghị giám định, yêu cầu về các vấn đề mang tính thủ tục và các chứng
cứ tiếp theo. Sau khi các chứng cứ được đưa ra, Kiểm sát viên sẽ trình bày bản luận
tội, trong đó nêu tóm tắt kết quả thẩm vấn, các lập luận qua quá trình xét xử cùng
với đề nghị mức hình phạt cụ thể và các biện pháp bổ sung. Sau khi bản án có hiệu
lực pháp luật, tại một số quốc gia còn giao cho Cơ quan Công tố chịu trách nhiệm
thi hành bản án, quyết định của Tòa án (Điều 707, 708 Bộ luật tố tụng hình sự Cộng
Hòa Pháp). Vì tính chất, vai trò đặc biệt quan trọng của Kiểm sát viên trong mô
hình tố tụng thẩm vấn như ở nước ta hiện nay, đòi hỏi Kiểm sát viên phải thực thi
đúng nhiệm vụ chức trách của mình, phải có trách nhiệm với bản cáo trạng được
công bố, vì đây chính là cơ sở để khởi động những bước xem xét chứng cứ và trình
bày những bào chữa gỡ tội trong các thủ tục tiếp theo.
Cùng với Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên thực hiện việc hỏi bị cáo và những
người tham gia tố tụng khác, xem xét và kiểm tra các chứng cứ có liên quan đến vụ
án. Việc xét hỏi toàn diện của Viện kiểm sát tại phiên tòa, tuy được thực hiện sau
phần hỏi của Chủ tọa phiên tòa nhưng những câu hỏi để làm rõ thêm các tình tiết và
tiếp cận vụ án ở các khía cạnh khác nhau góp phần làm sáng tỏ vụ án và có khả
năng khai thác được những điểm bất hợp lý trong lời khai so với các chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án, qua đó nâng cao hiệu quả xét xử. Như đã trình bày ở các phần
33
trên, Hội đồng xét xử theo quy định hiện hành đang là chủ thể giữ quyền xét hỏi
chính và tích cực nhất, nhưng thực tế để đạt được hiệu quả tốt nhất thì việc xét hỏi
tại phiên tòa nên quy định là trách nhiệm chính của Viện kiểm sát. Vì đây mới chính
là chủ thể thực hiện việc cáo buộc đối với bị cáo, là chủ thể phê chuẩn các quyết
định liên quan đến bị cáo trước khi phiên tòa diễn ra. Đồng thời, thực hiện chức
năng kiểm sát trong giai đoạn điều tra, là cơ quan tiếp xúc với hồ sơ vụ án và nắm
các tình tiết của vụ án trước cả Hội đồng xét xử. Pháp luật tố tụng hình sự cần thay
đổi thứ tự xét hỏi để nâng cao tính chủ động của Kiểm sát viên.
Thực tế tại các phiên tòa, vai trò của Kiểm sát viên mờ nhạt, thậm chí sau khi
đọc cáo trạng thì Kiểm sát viên không hỏi thêm bất cứ câu hỏi nào với lý do Hội
đồng xét xử đã hỏi đầy đủ, chi tiết nên Kiểm sát viên không hỏi gì thêm. Trong một
số trường hợp, Kiểm sát viên đã hỏi lặp lại các câu hỏi của Hội đồng xét xử, hỏi
không làm sáng tỏ được vấn đề, không đáp ứng được yêu cầu của thủ tục xét hỏi.
Trong những trường hợp khác, tại phiên tòa có thêm những chứng cứ mới được bổ
sung và được Tòa án chấp nhận là chứng cứ có liên quan đến vụ án nhưng Kiểm sát
viên cũng đồng ý với ý kiến của Hội đồng xét xử mà không hỏi gì thêm. Tại phiên
tòa, bên buộc tội và bên gỡ tội cần tranh luận để bảo vệ cho từng quan điểm của mỗi
bên, tính tranh tụng phải được thể hiện vì đây là cơ hội để các bên chấp nhận hay
bác bỏ luận điểm của bên còn lại. Sau phiên tòa, mọi quan điểm đều là không chính
thống và không được thừa nhận. Đối với những vu án khá rõ ràng về mặt chứng cứ,
Kiểm sát viên gần như không hỏi và không tranh luận bất cứ nội dung nào khác.
Quy định pháp luật hiện nay đang trao cho Hội đồng xét xử quyền được hỏi khá
nhiều, hỏi đầu tiên nên Viện kiểm sát đã không ý thức được việc xét hỏi của mình,
Kiểm sát viên không chuẩn bị được đề cương xét hỏi. Xét hỏi tại phiên tòa khác với
xét hỏi trong giai đoạn điều tra cả về nguyên tắc tố tụng, hình thức, đặc điểm và các
thủ tục đối với từng người.
Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ngày 18/9/2013, bị cáo Cao Vũ Bảo Tr bị Viện
kiểm sát nhân dân Quận 10 truy tố về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, Đại diện
VKS tham gia phiên tòa chỉ hỏi đúng một câu duy nhất: “Cáo trạng truy tố bị cáo
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY
Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (19)

Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụngLuận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sựLuận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
 
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOTLuận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố
Luận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tốLuận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố
Luận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố
 
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAY
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAYTrả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAY
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAY
 
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOTQuyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
 
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử tại Quận 12, 9đ
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử tại Quận 12, 9đTrả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử tại Quận 12, 9đ
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử tại Quận 12, 9đ
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đLuận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
 
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sựLuận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
 
Luận văn thạc sĩ: Kiểm sát hoạt động điều tra, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kiểm sát hoạt động điều tra, HOTLuận văn thạc sĩ: Kiểm sát hoạt động điều tra, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kiểm sát hoạt động điều tra, HOT
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữuLuận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
 
Luận văn: Vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên, HOTLuận văn: Vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên, HOT
 

Similar to Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY

Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...Luận Văn 1800
 
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựBảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similar to Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY (20)

Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
 
Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, HAYNguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩmLuận văn: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
 
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Giám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.doc
Giám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.docGiám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.doc
Giám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.doc
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
 
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
 
Luận văn: Thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính tỉnh Hậu Giang
Luận văn: Thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính tỉnh Hậu GiangLuận văn: Thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính tỉnh Hậu Giang
Luận văn: Thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính tỉnh Hậu Giang
 
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựLuận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựBảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Đề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOT
Đề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOTĐề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOT
Đề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
 
Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự, HAY
Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự, HAYĐịa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự, HAY
Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự, HAY
 
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụngLuận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
 
Thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.doc
Thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.docThủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.doc
Thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.doc
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOT
Luận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOTLuận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOT
Luận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOT
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 

Recently uploaded (20)

Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 

Luận văn: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng, HAY

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI --------------------- NGUYỄN TẤN CHINH XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI --------------------- NGUYỄN TẤN CHINH XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN HÀ NỘI, năm 2019
  • 3. LỜI CẢM ƠN Sau thời gian học tập và nghiên cứu, đến nay tôi đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự với đề tài: “Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh”. Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong Khoa Luật hình sự và tố tụng hình sự đã định hướng cho tôi trong việc chọn lựa đề tài trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn – người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết, tận tình hướng dẫn và góp ý cho tôi trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2019 Học viên Nguyễn Tấn Chinh
  • 4. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, do tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn. Các số liệu, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng trong bất cứ một nghiên cứu nào khác. Tôi cam đoan mọi tham khảo trong luận văn này đều được ghi rõ nguồn gốc, trích dẫn rõ ràng. Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy định viết luận văn, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2019 Học viên Nguyễn Tấn Chinh
  • 5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM.........................................................................6 1.1. Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự và tính chất của việc xét hỏi ............6 1.1.1.Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự ....................................................6 1.1.2. Tính chất của việc xét hỏi...........................................................................8 1.1.3. Vai trò của Tòa án trong việc xét hỏi.......................................................10 1.1.4. Các nguyên tắc của việc xét hỏi...............................................................12 1.2. Mối tương quan giữa xét hỏi và các thủ tục tố tụng khác trong phiên tòa hình sự sơ thẩm..............................................................................................................17 1.2.1. Xét hỏi và thủ tục bắt đầu phiên tòa.........................................................17 1.2.2. Xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa...........................................................18 1.2.3. Xét hỏi và thủ tục nghị án, tuyên án.........................................................18 1.3. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ 1945 đến nay về xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. ........................................................19 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 1988....................................................................................................................19 1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2003....................................................................................................................21 1.3.3. Giai đoạn từ 2003 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2015. ............................................................................................................................23 1.3.4. Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ............................................................................................................24 Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015 VỀ XÉT HỎI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, TP. HỒ CHÍ MINH.................................................................................................27 2.1. Chủ thể thực hiện quyền xét hỏi....................................................................27 2.1.1. Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa................................................................27
  • 6. 2.1.2. Hội thẩm nhân dân...................................................................................29 2.1.3. Kiểm sát viên ............................................................................................31 2.1.4. Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự ............................................................................................................................34 2.1.5. Người giám định.......................................................................................38 2.1.6. Người định giá tài sản..............................................................................39 2.2. Thi hành các quy định về nội dung xét hỏi.....................................................40 2.3. Thi hành các quy định về trình tự xét hỏi.......................................................47 2.4. Thi hành các quy định về công bố lời khai, xem xét vật chứng tại phiên tòa 52 2.5. Nguyên nhân và những hạn chế, vướng mắc..................................................57 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM ..........................59 3.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về xét hỏi.......60 3.2. Tăng cường hướng dẫn thực hiện các quy định của BLTTHS về xét hỏi......63 3.3. Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng xét hỏi của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm tại phiên tòa. ........................................................66 3.4. Đề cao trách nhiệm và đảm bảo quyền của người bào chữa trong xét hỏi.....73 KẾT LUẬN..............................................................................................................77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX Hội đồng xét xử HTND Hội thẩm nhân dân KSV Kiểm sát viên TAND Tòa án nhân dân VKS Viện kiểm sát
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách tư pháp là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta từ khi Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới được ban hành, công tác tư pháp đã có những chuyển biến nhất định. Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì công tác tư pháp đã có những đổi mới căn bản. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp được xác định rõ hơn và từng bước được củng cố, kiện toàn; Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án có chuyển biến tốt; Công tác xét xử được xem xét thận trọng, đúng pháp luật, tình trạng tồn đọng án phúc thẩm đã cơ bản được khắc phục; Tỷ lệ khám phá án, điều tra, truy tố, xét xử đạt cao và năm sau đều cao hơn năm trước; Chủ trương “nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà” được triển khai thực hiện, tạo không khí dân chủ trong các phiên toà, vai trò của các luật sư được nhìn nhận tích cực hơn... Bên cạnh những kết quả nêu trên, hệ thống tư pháp, trong đó có tư pháp hình sự còn bộc lộ những bất cập, hạn chế như chưa có sự phân định hợp lý giữa các chức năng cơ bản của tố tụng, dẫn đến việc quy định vai trò, thẩm quyền cụ thể của từng chủ thể tố tụng và trình tự tiến hành các thủ tục tố tụng chưa phù hợp, cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là cơ chế bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo chưa hoàn thiện; ý kiến tranh luận, tranh tụng của các luật sư vẫn chưa thực sự được coi trọng, không ít bản án, quyết định của Tòa án chưa thực sự dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa, dẫn đến số lượng các bản án bị huỷ, sửa còn chiếm tỷ lệ khá cao; Phương pháp điều tra, xét hỏi vẫn là phương pháp chủ yếu được áp dụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng v.v… Những vướng mắc, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng đến kết quả đấu tranh phòng, chống tội phạm và yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự là thủ tục trọng tâm, quan trọng của giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có những thay đổi về quy
  • 9. 2 định thủ tục xét hỏi so với các Bộ luật tố tụng hình sự được ban hành trước đó, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề về pháp luật thực định và cả việc áp dụng pháp luật trên thực tế. Đổi mới và hoàn thiện thủ tục xét hỏi không phải là vấn đề mới được đặt ra, nhưng những gì đạt được hiện nay chưa đáp ứng được cao nhất yêu cầu cải cách tư pháp, vẫn còn tồn tại nhiều tranh luận khi áp dụng các quy định của Bộ luật TTHS trong xét xử. Do đó, trên cơ sở phân tích những mặt ưu điểm, tiến bộ của quy định thủ tục xét hỏi hiện hành, bên cạnh đó cũng chỉ ra những hạn chế, bất cập cần bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng xét hỏi cũng là một trong những giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm. Từ những phân tích nêu trên, học viên chọn đề tài: “Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề xét hỏi tại phiên tòa hình sự được một số tác giả đề cập trong các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành, các luận án, luận văn, sách chuyên khảo, cụ thể là: - Luận văn thạc sỹ Luật học của Nguyễn Trương Tín (2007), Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, bảo vệ tại Trường Đại Học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. - Luận văn thạc sỹ Luật học của Võ Hồng Phúc (2016), Hoàn thiện thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp, bảo vệ tại trường Đại Học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. - Luận văn thạc sỹ Luật học Đặng Minh Phương (2013), Hoạt động xét hỏi của Kiểm sát viên trong Tố tụng hình sự Việt Nam) bảo vệ tại trường Đại Học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. - Luận án TS của Nguyễn Văn Hiển (2011), Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.
  • 10. 3 - Bài viết “Một số vấn đề về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự 2003” của tác giả Đinh Văn Quế. - Bài viết “Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm,” của Lê Thị Thúy Nga đăng trên Tạp chí Luật học số 07/2008. - Bài viết của PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn “Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục phiên tòa sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Luật học, số 10/2009 - Bài viết “Quá trình hình thành và phát triển thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm của pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ” của tác giả Nguyễn Ngọc Kiên, Tạp chí Kiểm sát số 11/2014. - Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, Chủ biên. GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 2013; - Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, TS. Nguyễn Ngọc Kiên, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2017 và một số công trình khác có liên quan. Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập nhiều vấn đề về thủ tục xét hỏi liên quan đến áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được ban hành cũng bắt đầu bộc lộ vướng mắc. Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện thủ tục xét hỏi trong phiên tòa sơ thẩm hình sự.. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích Trên cơ sở lý luận và các quy định pháp luật TTHS về xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định này từ thực tiễn TAND Quận 10, TP. Hồ Chí Minh, đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp luật về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được những mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
  • 11. 4 - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật của thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. - Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về xét hỏi trong hoạt động xét xử sơ thẩm từ thực tiễn TAND Quận 10, TP. Hồ Chí Minh. - Đề xuất các giải pháp bảo đảm thi hành đúng các quy định pháp luật về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự theo pháp luật TTHS Việt Nam 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: Tòa án nhân dân Quận 10, TP Hồ Chí Minh - Phạm vi thời gian: từ năm 2014 đến năm 2019 5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu cụ thể 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến được vận dụng để nghiên cứu tính thống nhất của toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, tính thống nhất nội tại của thủ tục xét xử sơ thẩm hình sự. Nguyên lý về sự phát triển, quy luật lượng đổi-chất đổi được sử dụng để nghiên cứu quá trình hoàn thiện chế định pháp luật về xét hỏi trong TTHS. Các phạm trù nội dung và hình thức, khả năng và hiện thực được sử dụng để nghiên cứu về xét hỏi trong các mô hình tố tụng hình sự. 5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể Các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong Luận văn gồm: phương pháp hệ thống, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh luật học, phương pháp chuyên gia. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần vào quá trình nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện các vấn đề của thủ tục xét hỏi qua đó đề ra các kiến nghị
  • 12. 5 giải pháp bảo đảm áp dụng đúng đắn các quy định pháp luật TTHS về xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Đề tài có ý nghĩa thực tiễn trong việc nâng cao chất lượng xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự ở TAND Quận 10, TP. Hồ Chí Minh và có thể là tài liệu tham khảo cho một số TAND cấp quận. 7. Cơ cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của Luận văn được cấu trúc thành 3 Chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Chương 2: Thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về xét hỏi tại Tòa án nhân dân Quận 10. Chương 3: Các giải pháp bảo đảm thi hành đúng các quy định của Bộ luật TTHS về xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm
  • 13. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM 1.1. Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự và tính chất của việc xét hỏi 1.1.1.Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự Xét xử sơ thẩm được xem là việc xét xử lần thứ nhất do Tòa án có thẩm quyền thực hiện theo quy định pháp luật. Đây là một giai đoạn của tố tụng hình sự, sau khi đã kết thúc giai đoạn điều tra, truy tố. Xét xử được thực hiện bằng một phiên tòa mà tại đó, các tài liệu, chứng cứ, lời trình bày, tranh luận và cả các tình tiết, nội dung chưa từng công bố hay thu thập trước đó được xem xét, đánh giá công khai ngay tại phiên tòa để đi đến việc xác định tội phạm và hành vi phạm tội. Xét xử sơ thẩm được xem là giai đoạn quan trọng nhất của việc thực hiện quyền tư pháp, vì là xem xét vụ án về nội dung. Giai đoạn này có vai trò đặc biệt quan trọng, tác động đến toàn bộ hệ thống tư pháp. Nếu xét xử tốt, khách quan, đúng pháp luật, công lý được thực hiện ngay ở cấp sơ thẩm, quyền lợi của người dân sẽ được thực hiện nhanh chóng, thuận lợi, hạn chế việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc nâng cao chất lượng xét xử ở cấp cơ sở là yêu cầu hàng đầu của cải cách tư pháp, là khâu đột phá của cải cách tư pháp, có ý nghĩa quyết định đến các nội dung khác của cải cách, bắt buộc phải thực hiện tại phiên tòa sơ thẩm có thể đánh giá được sự công bằng, bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội mà trong đó, Tòa án ở giữa có quyền “cầm cân nảy mực”, những quyền và lợi ích hợp pháp mà bên yếu thế hơn nhận được, quyền con người có được đề cao hay không, khả năng của cơ quan tiến hành tố tụng và của những người tham gia tố tụng đến đâu trong việc tìm ra sự thật khách quan để không bỏ lọt tội phạm và cũng không làm oan người vô tội. Phiên tòa sơ thẩm không chỉ xem xét chứng cứ mà còn đòi hỏi các chủ thể tham gia tố tụng phải đưa ra các lý lẽ thuyết phục, sắc bén, nhanh chóng phù hợp với diễn biến phiên tòa và các tài liệu có liên quan thu thập được. Do đó, tổ chức tốt một phiên tòa sơ thẩm cũng là phương pháp để nâng cao kinh nghiệm xét xử, nâng
  • 14. 7 cao khả năng tranh tụng, bảo vệ quan điểm của các chủ thể tham gia như luật sư, người bào chữa, kiểm sát viên. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, lần đầu tiên vụ án hình sự được đưa ra xem xét công khai với tất cả các chứng cứ thu thập được trong giai đoạn điều tra cùng với các chứng cứ mới được xem xét một cách khách quan, toàn diện, trực tiếp. Tại phiên tòa bị cáo thực hiện quyền của mình như tự mình bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, được quyền trình bày quan điểm gỡ tội của mình trước Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng khác phải thực hiện nhiệm vụ theo đúng quy định của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo sử dụng các quyền của mình, tránh sự xâm phạm các quyền đối với bị cáo. Phiên tòa sơ thẩm là cơ hội để bị cáo sử dụng các quyền của mình lần đầu tiên tại phiên tòa một cách công khai. Đây là điểm khác với giai đoạn điều tra. Vì vậy phiên tòa HSST trước hết phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản được quy định trong Bộ luật TTHS: Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, xác định sự thật của vụ án và nguyên tắc suy đoán vô tội…Trong những nguyên tắc chung được quy định tại BLTTHS 2015 thì hiện nay, nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử tại các phiên tòa sơ thẩm của Việt Nam chưa thực sự được đảm bảo. Việc xét hỏi trong thủ tục tranh tụng tại phiên tòa đã bộc lộ nhiều hạn chế, dẫn đến phiên tòa hình sự sơ thẩm tập trung vào việc luận tội, xét hỏi dựa trên những chứng cứ thu thập được tại các giai đoạn tố tụng trước đó, các cơ quan tiến hành tố tụng về một phía và bị can, bị cáo, người bảo vệ quyền lợi ích cho bị can, bị cáo về một phía yếu hơn. Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, theo quy định của Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng tham gia xét xử phải có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử biểu quyết theo đa số. Tuy nhiên, trên thực tế Hội thẩm chưa phát huy hết vai trò chủ
  • 15. 8 động, tích cực của mình trong quá trình xét xử, đặc biệt ở việc xét hỏi gần như phụ thuộc hoàn toàn vào Thẩm phán, hỏi không làm rõ được nội dung vụ án, hỏi không đúng trọng tâm hoặc không tham gia xét hỏi. Do đó trong công tác chuẩn bị xét xử và điều hành diễn biến tại phiên tòa, trách nhiệm của Chủ tọa phiên tòa rất nặng nề. Kết thúc phiên tòa hình sự sơ thẩm cũng là lúc ban hành các phán quyết liên quan đến hành vi phạm tội, tội phạm và hình phạt bị cáo phải chịu hay giải phóng bị can, bị cáo khỏi sự trừng phạt của pháp luật. Những yếu tố trên cho thấy, xét xử sơ thẩm hình sự có vị trí quan trọng trong suốt quá trình tố tụng, khi lần đầu tiên các chứng cứ thu thập được trong hồ sơ được kiểm chứng công khai tại phiên tòa, các quan điểm chính thức của Viện kiểm sát được đưa ra, những lập luận để bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo được trình bày. Tòa án với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp giữ vị trí trung tâm trong việc điều hành và kiểm soát diễn biến phiên tòa, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, xem xét tội danh và điều khoản áp dụng, đồng thời giải quyết quyền lợi của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị hại…trong cùng một vụ án. Quan trọng nhất là kết thúc phiên tòa hình sự sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đưa ra quyết định bị cáo có tội hay không có tội, tội phạm và hình phạt cụ thể dành cho bị cáo. Cũng tại giai đoạn này, quyền kháng cáo của bị cáo được đặt ra. Trong khi ở cấp phúc thẩm, bị cáo đã không còn quyền kháng cáo. Đề cao tính chất đặc biệt của xét xử sơ thẩm hình sự, qua đó cho thấy việc xét hỏi theo đúng trình tự thủ tục, xét hỏi có khoa học và bám sát nội dung vụ án là tiền đề chuẩn bị cho việc nghị án, tuyên án chính xác, khách quan, đúng người đúng tội, hạn chế tối đa oan sai cũng như hạn chế tiến hành giải quyết thủ tục kháng cáo sau phiên tòa sơ thẩm, làm kéo dài thời gian giải quyết một vụ án hình sự. 1.1.2. Tính chất của việc xét hỏi Bộ luật TTHS không đưa ra định nghĩa thế nào là thủ tục xét hỏi mà chỉ quy định về trình tự, thủ tục, nội dung xét hỏi và các vấn đề khác có liên quan đến thủ tục hỏi tại một phiên tòa hình sự. Tuy vậy, trong các tài liệu nghiên cứu và giảng dạy, các tác giả đã đưa ra định nghĩa về thủ tục xét hỏi, Giáo trình Luật TTHS Việt
  • 16. 9 Nam của trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa: “Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự nhằm xem xét công khai những chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra và chứng cứ mới để chứng minh vụ án”. Định nghĩa này đánh giá hoạt động xét hỏi chủ yếu ở việc xem xét chứng cứ và chưa nêu bật được những vấn đề quan trọng khác trong thủ tục xét hỏi như về mặt chủ thể và vai trò trung tâm của giai đoạn xét hỏi trong toàn bộ quá trình xét xử sơ thẩm một vụ án hình sự. Theo quan điểm của tác giả Đinh Văn Quế: “Xét hỏi là thủ tục chính của phiên tòa sơ thẩm, trong đó Tòa án cùng các bên tranh tụng xem xét, kiểm tra chứng cứ của bên buộc tội, thu thập trong hồ sơ vụ án cũng như các chứng cứ do bên bào chữa đề xuất được Tòa án chấp nhận nhằm làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện khách quan của vụ án” [18, tr.3-10]. Tại định nghĩa này, tác giả đã đề cập đến chủ thể thực hiện hoạt động xét hỏi, trong đó Tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá các chứng cứ trong vụ án để đạt được mục đích là tìm ra sự thật khách quan. Tuy nhiên, định nghĩa chưa nêu được đầy đủ các hoạt động khác trong thủ tục xét hỏi, bởi việc xem xét chứng cứ chỉ là một trong các hoạt động trong thủ tục này. Tác giả Võ Hồng Phúc cho rằng: “Thủ tục xét hỏi là hoạt động trung tâm trong quá trình xét xử vụ án hình sự và cũng là hoạt động quan trọng nhất để xác định sự thật vụ án. Trong đó, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa và những người khác theo quy định của pháp luật thực hiện bằng cách đặt câu hỏi trực tiếp cho bị cáo và những người tham gia tố tụng; xem xét chứng cứ, kết luận điều tra, bản cáo trạng; xem xét hiện trường xảy ra vụ án nhằm kiểm tra công khai tất cả tình tiết liên quan đến vụ án tại phiên tòa” [16, tr.7]. Định nghĩa về xét hỏi mà tác giả Võ Hồng Phúc đưa ra là tương đối toàn diện. Qua các ý kiến trên đây, có thể thấy xét hỏi tại phiên tòa hình sự là một hoạt động tố tụng được thực hiện bởi những chủ thể khác nhau như Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Người bào chữa, Người giám định…việc xét hỏi phải theo một trình tự tố tụng chặt chẽ được quy định tại BLTTHS. Mục đích của việc xét hỏi nhằm xem xét lại các chứng cứ được thu thập tại giai đoạn điều tra, các chứng cứ mới được đưa ra tại phiên tòa. Thông
  • 17. 10 qua việc xét hỏi, xác định được sự thật khách quan của vụ án, đi đến mục đích chứng minh có hay không tội phạm và hành vi phạm tội. Việc hỏi và trả lời phải được tiến hành công khai, trực tiếp bằng lời nói tại phiên tòa và thủ tục hỏi phải diễn ra liên tục bắt đầu từ sau khi Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và chấm dứt tại thời điểm Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần hỏi và chuyển sang phần Kiểm sát viên trình bày luận tội và các chủ thể khác thực hiện quyền bào chữa tại phiên tòa. Có thể nói, tại phiên tòa, thủ tục xét hỏi đóng vai trò vô cùng quan trọng, là bước quyết định để làm sáng tỏ vụ án, xác định lại những người, những tình tiết có liên quan hoặc không liên quan, qua đó có thể quyết định có cần thu thập thêm chứng cứ hay không? Giai đoạn này làm tiền đề cho phần tranh luận và tuyên án. Khi đã tuyên án, Chủ tọa phiên tòa không được quyền trở lại phần xét hỏi. Do đó, toàn bộ hoạt động chứng minh tội phạm tại phiên tòa và xem xét toàn diện các vật chứng, lời nói, lời bào chữa.... được diễn ra chủ yếu trong giai đoạn xét hỏi. Tại giai đoạn xét hỏi, các chủ thể tham gia tố tụng thực hiện quyền hỏi theo những mục đích khác nhau tùy vào vai trò của mình. Chủ tọa, Hội thẩm thực hiện việc hỏi để tìm ra sự thật của vụ án, Kiểm sát viên hỏi để bảo vệ cho quan điểm trong cáo trạng truy tố của mình, người bào chữa hỏi để bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của mình... Tuy nhiên, tất cả đều đi đến mục đích chung là chứng minh có hay không tội phạm và việc xét hỏi trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan của vụ án, không nhằm mục đích che giấu tội phạm hoặc làm sai lệch nhận thức về hành vi phạm tội và các dấu hiệu tội phạm. 1.1.3. Vai trò của Tòa án trong việc xét hỏi Trước khi chuyển sang mô hình tố tụng xét hỏi kết hợp với tranh tụng (theo tinh thần và nội dung Bộ luật TTHS năm 2015), tố tụng hình sự Việt Nam trong một thời gian dài xác định việc tìm kiếm sự thật chủ yếu bằng phương pháp điều tra, thẩm vấn. Phương pháp này được sử dụng ở tất cả các giai đoạn tố tụng. Phương pháp điều tra được thực hiện dưới hình thức xét hỏi, chủ thể của việc xét hỏi đầu tiên và trước hết sau khi Viện kiểm sát công bố bản cáo trạng thuộc về Hội
  • 18. 11 đồng xét xử và được quyền hỏi toàn bộ các vấn đề liên quan đến nội dung vụ án. Sau việc xét hỏi của Hội đồng xét xử, pháp luật quy định thẩm quyền hỏi của Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự...Trong mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn, Tòa án có vai trò tích cực, chủ động trong việc xác định sự thật của vụ án, khác với mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, mô hình tố tụng thẩm vấn trao cho Tòa án quyền chủ động rất lớn trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án hình sự, việc xét xử tại phiên tòa thực chất là giai đoạn Tòa án tiếp tục củng cố tài liệu, chứng cứ trên cơ sở dữ liệu do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát lập nên. Điểm giống nhau trong chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan kể trên với Tòa án là cùng có trách nhiệm chứng minh tội phạm, đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người đúng tội. Tòa án được tiếp xúc hồ sơ vụ án ngay từ trước khi mở phiên tòa, thời gian nghiên cứu hồ sơ tương đối dài. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, Tòa án được quyền trả lại hồ sơ cho Viện kiệm sát để điều tra bổ sung, hoặc khi có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác, khi phát hiện có sự vi phạm thủ tục tố tụng. Hội đồng xét xử thông qua hoạt động xét hỏi, xem xét chứng cứ, tài liệu tại phiên tòa để đi đến kết luận cuối cùng về tội phạm và hình phạt. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án tuy có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng trong tố tụng hình sự, các nhiệm vụ chức năng của ba cơ quan được quy định cũng đều nhằm mục đích đảm bảo sự minh bạch trong hoạt động chứng minh sự thật vụ án. Các cơ quan này có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau mà trong đó, Tòa án giữ vị trí trung tâm và là cơ quan sau cùng có thẩm quyền quyết định, kết luận lại tất cả các hoạt động thu thập được ở giai đoạn trước đó, quyết định tính hợp pháp và thuyết phục của chứng cứ do các cơ quan đưa ra và tuyên án để khép lại vụ án hình sự. Tố tụng hình sự nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam phân biệt các chức năng của TTHS bao gồm: buộc tội, xét xử và bào chữa, trong đó Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm chứng minh bị can phạm tội, Tòa án là cơ quan xét xử và người bào chữa cho bị can, bị cáo thực hiện chức năng bào chữa. Việc
  • 19. 12 phân định rõ chức năng nhằm mục đích tạo ra bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tố tụng, chủ yếu là bên buộc tội và bên gỡ tội. Sự bình đẳng ở đây không chỉ là địa vị pháp lý, về quyền và nghĩa vụ của các bên mà thừa nhận khả năng ngang bằng nhau của các bên trong hoạt động chứng minh, đưa ra yêu cầu và giải quyết yêu cầu. Trong phạm vi xét hỏi, nếu bên buộc tội được sử dụng những quyền gì khi tham gia tố tụng thì bên buộc tội cũng được áp dụng những quyền đó, ví dụ quyền đặt câu hỏi, quyền xem xét chứng cứ. Còn về Tòa án, việc phân định chức năng phải xác định Tòa án là cơ quan độc lập và khách quan trong xét xử. Xét hỏi là thủ tục trọng tâm tại phiên tòa sơ thẩm, vì tính chất đặc biệt quan trọng của nó nên BLTTHS năm 2015 đã hướng dẫn thủ tục này khá đầy đủ bằng Mục V - Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử cần vận dụng linh hoạt các quy định trong quá trình xét hỏi để đạt được mục đích chứng minh tội phạm, đổi mới việc xét hỏi kết hợp với tranh tụng theo xu hướng tiếp cận gần hơn với các nền lập pháp tiên tiến trên thế giới, kết hợp giữa mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn và mô hình tố tụng hình sự tranh tụng. Qua đó góp phần thực hiện chủ trương và định hướng được xác định tại các Nghị quyết số 49-NQ/TW và Nghị quyết số 48 – NQ/TW của Bộ chính trị, đó là cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện; bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại Tòa án làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp. 1.1.4. Các nguyên tắc của việc xét hỏi Trong xét hỏi tại phiên tòa, các cơ quan tiến hành TTHS, người tiến hành TTHS cũng như những người tham gia TTHS cần tuân thủ các nguyên tắc TTHS với các yêu cầu cụ thể sau đây: - Việc xét hỏi phải công khai: Công khai phái sinh từ nguyên tắc Hiến định là Tòa án xét xử công khai…trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước…Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai (Điều 67 – Hiến pháp 1946, Điều 101 – Hiến pháp 1959, Điều 133 – Hiến pháp 1980, Điều 131 – Hiến pháp 1992, Điều
  • 20. 13 103 – Hiến pháp 2013, Điều 18 BLTTHS 2003). Tòa án đóng vai trò quan trọng trong công tác xét xử, đại diện cho quyền lực nhà nước, nhân danh Nhà nước trong việc quyết định số phận pháp lý của một công dân, do đó việc xét xử và xét hỏi công khai là nguyên tắc đầu tiên cần tuyệt đối tuân thủ, có xét xử và xét hỏi công khai thì nhân dân và các cơ quan quyền lực khác mới thực hiện được quyền giám sát của mình. Qua đó mới đánh giá được tính công bằng, khách quan và đảm bảo được pháp chế xã hội. Việc ghi nhận nguyên tắc này ngay trong Hiến pháp đã thể hiện quan điểm của nhà lập pháp trong việc bảo vệ quyền con người, với mục đích cao nhất là hướng đến một nền tư pháp mà không ai bị đối xử bất công, cho dù người đó đang bị cáo buộc phạm tội và sắp đối mặt với những hình phạt của pháp luật. Nguyên tắc xét hỏi công khai đặt ra yêu cầu xem xét, đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận cuối cùng, tất cả phải được diễn ra tại phiên tòa, có sự tham gia của các cơ quan khác ngoài Tòa án, của những người tham gia phiên tòa, tham gia tố tụng như Luật sư, người làm chứng, bị hại, người nhà bị cáo và cả những người tham dự phiên tòa mà không có bất kỳ sự liên quan nào đến vụ án. Nguyên tắc này dần trở nên quan trọng trong thời điểm hiện nay khi nhu cầu bảo vệ cao hơn nữa quyền con người, quyền và lợi ích cơ bản, hợp pháp của công dân đang được đặt ra trong xã hội hiện đại. Nguyên tắc xét hỏi công khai không được quy định thành điều luật cụ thể nhưng trong các quy định về thủ tục tại phiên tòa thì được thể hiện ở nhiều nội dung khác nhau như Kiểm sát viên công bố bản cáo trạng, công bố lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố. Những vấn đề khác như xem xét hiện trường, tài liệu đồ vật không thể đưa đến phiên tòa, cả việc phải công khai các băng ghi âm, ghi hình khi bị cáo cho rằng bị bức cung, nhục hình, các báo cáo tài liệu của cơ quan, tổ chức về những tình tiết của vụ án trong trường hợp không có đại diện của cơ quan, tổ chức tham dự thì Hội đồng xét xử công bố tài liệu, báo cáo đó tại phiên tòa cũng cho thấy việc xét xử, xét hỏi công khai gần như được tiến hành và tuân thủ suốt quá trình tố tụng của một vụ án hình sự. Nguyên tắc công khai phải được thực hiện nghiêm túc
  • 21. 14 theo trình tự pháp luật quy định là nền tảng cho tính thuyết phục của bản án, quyết định của Tòa án và đi đến mục đích cuối cùng là chứng minh sự thật khách quan của vụ án. - Việc xét hỏi phải tiến hành trực tiếp, bằng lời nói: Cũng như nguyên tắc xét hỏi công khai, nguyên tắc xét hỏi trực tiếp, bằng lời nói và liên tục không được quy định bằng điều luật cụ thể mà xuất phát từ quy định tại Điều 250 BLTTHS 2015: “Xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục”. Nguyên tắc xét hỏi trực tiếp đặt ra yêu cầu những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng phải có mặt tại phiên tòa, trừ những trường hợp đặc biệt được pháp luật cho phép vắng mặt tại phiên tòa mà không ảnh hưởng đến việc xét xử. Trên cơ sở đó, chủ thể thực hiện việc hỏi bao gồm thành viên Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên… trực tiếp dùng lời nói để hỏi những người liên quan khác nhằm làm sáng tỏ các tình tiết, khẳng định lại các tình tiết và củng cố toàn diện các vấn đề khác để Hội đồng xét xử xem xét trước khi tuyên án. Việc hỏi trực tiếp phải do chính chủ thể hỏi thực hiện, nhưng phạm vi hỏi, nội dung hỏi còn tùy thuộc vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà pháp luật cho phép. Việc hỏi trực tiếp tại phiên tòa cũng là một hoạt động cần thiết của Hội đồng xét xử, vì trước khi mở phiên tòa, Hội đồng xét xử chỉ nghiên cứu những tài liệu có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát chuyển đến. Thông qua việc xét hỏi trực tiếp bị cáo tại phiên tòa, Hội đồng xét xử mới có thể đánh giá chính xác hành vi phạm tội của bị cáo có phù hợp, có liên quan với chứng cứ trong hồ sơ vụ án hay không? Việc xét hỏi trực tiếp có thể nói là nhiệm vụ quan trọng, là trách nhiệm của Hội đồng xét xử khi Hội đồng xét xử không phải là cơ quan thu thập chứng cứ tại giai đoạn điều tra truy tố, không trực tiếp hỏi cung và tiếp xúc với bị can, bị cáo, nên để tìm ra sự thật của vụ án, xác định đúng người, đúng tội và tránh oan sai thì không có hoạt động nào thực tế hơn là việc xét hỏi trực tiếp. Nguyên tắc này cũng đảm bảo cho tính độc lập trong xét xử của Tòa án, thông qua việc hỏi trực tiếp, Hội đồng xét xử có thể quyết định khác với cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố, có thể đề nghị trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.
  • 22. 15 Xét hỏi bằng lời nói là việc hai nhóm chủ thể khác nhau, một bên nêu câu hỏi và một bên trả lời. Để có thể đạt được mục đích trao đổi thông tin thì phải dùng lời nói. Và “Chỉ bằng lời nói người ta mới trình bày chính xác những suy nghĩ và nhận xét của mình. Vì vậy, không thể xét xử mà không nghe lời khai về các chứng cứ buộc tội, gỡ tội và yêu cầu của các người có quyền lợi và nghĩa vụ được giải quyết trong vụ án” [1, tr.145]. Bên được hỏi có quyền trả lời hoặc im lặng trước câu hỏi của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng khác đặt ra. Quyền im lặng là quyền cơ bản và phổ biến của công dân tại nhiều nước trên thế giới nhưng tại Việt Nam chỉ chính thức ghi nhận khi BLTTHS 2015 có hiệu lực thi hành. Tuy nhà lập pháp không quy định cụ thể thành “Quyền im lặng của bị can, bị cáo” nhưng tinh thần của quy định này được thể hiện gián tiếp tại Điều 60 – Điểm d, BLTTHS 2015 và Điều 61 – Điểm h: “… Không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Theo đó, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị can, bị cáo có thể không khai báo hoặc không bắt buộc trả lời các câu hỏi của Hội đồng xét xử và những người khác nếu nhận thấy có thể bất lợi cho mình. Trước tình huống này, Hội đồng xét xử sẽ tiếp tục hỏi những người khác và xem xét những vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án theo quy định tại Khoản 3 - Điều 309 BLTTHS 2015. Hội đồng xét xử bắt buộc phải dùng lời nói trong toàn bộ quá trình xét xử, nhưng bị can, bị cáo có quyền không trả lời là một quy định tiến bộ của pháp luật tố tụng hình sự, đưa tinh thần bảo vệ quyền con người, quyền công dân tiến gần hơn đến các nền pháp luật tiến bộ trên thế giới. Trước những cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước, bị can, bị cáo là bên yếu thế hơn được bảo vệ, không phải đặt mình vào tình thế bất lợi khi phải đưa ra câu trả lời để chống lại mình. Nguyên tắc xét hỏi bằng lời nói được pháp luật dự liệu cả trong trường hợp bị cáo, bị hại, đương sự, người làm chứng không biết tiếng Việt, là người câm, người điếc. Khi đó cần phải có người phiên dịch để dịch cho họ nghe, hiểu lời trình bày, các câu hỏi, câu trả lời tại phiên tòa, nội dung quyết định của Hội đồng xét xử và các vấn đề khác có liên quan đến họ.
  • 23. 16 Có thể nói xét xử bằng lời nói là cách thức, phương pháp của nguyên tắc xét xử trực tiếp. Phiên tòa nơi thể hiện đầy đủ nhất ba chức năng cơ bản của Tố tụng hình sự là chức năng xét xử, chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội. Và cả ba chức năng này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, để có thể hiểu, lắng nghe ý kiến của các bên, trình bày quan điểm đối đáp thì cả ba chức năng được các bên truyền đạt, thể hiện ý chí bằng lời nói. Qua đó, tính công khai minh bạch của một phiên tòa được đảm bảo, là cơ sở nền tảng cho việc bảo vệ quyền con người ngay tại Tòa án. - Việc xét hỏi phải liên tục: Bên cạnh yếu tố trực tiếp, bằng lời nói của việc xét hỏi thì tính liên tục cũng là yêu cầu không thể thiếu trong quá trình xét xử một vụ án hình sự. Bởi từ khi bắt đầu khai mạc phiên tòa cho đến khi kết thúc phiên tòa bằng việc Tòa tuyên án, rất nhiều nội dung cần được làm rõ, nhiều người liên quan có thể đưa ra nhiều chứng cứ, tài liệu khác nhau, do đó tính liên tục của việc xét hỏi sẽ đảm bảo cho quá trình tố tụng đi theo một trình tự chặt chẽ, nhanh gọn, hạn chế kéo dài phiên tòa và cũng nhằm mục đích để cơ quan tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng tập trung vào các tình tiết của vụ án, có cái nhìn khách quan, cô đọng, rõ ràng không mơ hồ về việc xét xử của Tòa án cho đến giai đoạn kết thúc. Quá trình xét xử gồm nhiều thủ tục nối tiếp nhau, thủ tục trước đó là căn cứ để phát sinh các nội dung cần xem xét ở thủ tục sau, có mối quan hệ nhân quả với nhau, vì vậy nếu để phiên tòa gián đoạn hoặc tạm ngừng quá lâu, khi bắt đầu lại một phiên tòa mới sẽ gây khó khăn cho những người tham gia trong việc xâu chuỗi các tình tiết, thiếu sót trong việc đánh giá toàn diện chứng cứ sẽ dễ dẫn đến phán quyết sai lầm hoặc nhận định vấn đề chưa đầy đủ, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của bị can, bị cáo. Hội đồng xét xử phải làm việc liên tục, trừ thời gian nghỉ theo luật định, giai đoạn nghị án cũng là lúc Hội đồng xét xử làm việc và trong suốt quá trình diễn ra phiên tòa, có thành viên Hội đồng xét xử dự khuyết tham gia nếu thành viên chính thức của Hội đồng xét xử không thể có mặt. Trong khi đang tham gia xét xử một vụ án, Hội đồng xét xử không được tham gia tố tụng đối với một vụ án khác. Như vậy, tại phiên tòa sơ thẩm với vị trí là cấp xét xử thứ nhất, nguyên tắc xét hỏi công khai, bằng lời nói và liên tục được thể hiện toàn diện nhất, dựa trên cáo
  • 24. 17 trạng của Viện kiểm sát thì phiên tòa được tiến hành, “ Không có buộc tội thì không có xét xử”. Để phiên tòa sơ thẩm diễn ra nhanh chóng, khách quan thì những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự cần được thực thi nghiêm túc trong các giai đoạn của một vụ án hình sự, đặc biệt chú trọng đến các hoạt động công khai diễn ra ngay tại phiên tòa. 1.2. Mối tương quan giữa xét hỏi và các thủ tục tố tụng khác trong phiên tòa hình sự sơ thẩm. 1.2.1. Xét hỏi và thủ tục bắt đầu phiên tòa Thủ tục bắt đầu phiên tòa là thủ tục bắt buộc phải có đối với bất kỳ phiên tòa sơ thẩm hình sự nào được mở. Thủ tục xét hỏi và thủ tục bắt đầu phiên tòa được quy định trong Mục V. Hai thủ tục này độc lập với nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, được tiến hành theo trình tự liên tiếp. Xét hỏi vừa tiếp nối thủ tục bắt đầu phiên tòa nhưng cũng là tiền đề cho thủ tục nghị án và tuyên án. Trước khi tiến hành thủ tục xét hỏi, phải đảm bảo đúng thành phần những người tham gia tố tụng và những người tiến hành tố tụng, đây là yếu tố đảm bảo việc xét xử trước hết phải đúng người, xác định những người có liên quan đến vụ án như nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng… Tại thủ tục khai mạc phiên tòa, Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa phải đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, nội dung của Quyết định này ghi nhận gần như đầy đủ thành phần tham gia xét xử và những người được triệu tập đến phiên tòa, xét xử vụ án gì và tư cách tham gia tố tụng của từng người. Những người có mặt, vắng mặt tại phiên tòa đều có những quyền, nghĩa vụ riêng biệt tùy thuộc vào tư cách tham gia tố tụng. Thẩm phán phải phổ biến quyền và nghĩa vụ cho họ biết. Thủ tục bắt đầu phiên tòa sẽ là cơ sở để Tòa án xét hỏi và nghe ý kiến trình bày của những người có mặt tại phiên tòa ở các phần thủ tục tiếp theo. Tại giai đoạn này, có thể phiên tòa sẽ được tiếp tục hoặc Hội đồng xét xử quyết định hoãn nếu xét thấy không đảm bảo về thủ tục tố tụng và việc xét xử sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người vắng mặt và có mặt. Do đó, khi phiên tòa phải hoãn thì cũng không thể tiến hành thủ tục xét hỏi. Thủ tục bắt đầu phiên tòa có thể cung cấp thêm những người làm chứng hoặc những tài liệu, đồ
  • 25. 18 vật mới…mà trước đó không được đề cập trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Những người được kiểm tra căn cước trong giai đoạn này sẽ được xét hỏi hoặc được trình bày ở các giai đoạn tiếp theo. Vì vậy, để phiên tòa được tiến hành xuyên suốt, liên tục thì cũng cần kiểm tra đầy đủ thủ tục bắt đầu. 1.2.2. Xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa Xét hỏi và tranh luận là hai thủ tục riêng biệt, độc lập, tuy cùng nằm trong phần tranh tụng tại phiên tòa. Thủ tục xét hỏi theo mô hình tố tụng hiện nay thuộc nhiệm vụ chính của Hội đồng xét xử gồm Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa, các hội thẩm và Kiểm sát viên. Tranh luận là thủ tục tố tụng được thực hiện sau phần xét hỏi, sau khi các nội dung chủ yếu về mặt chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét, trừ khi thấy cần thiết, thì Hội đồng xét xử có thể quay trở lại phần xét hỏi, thông thường khi Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần hỏi thì mới chuyển sang phần tranh luận. Phần thủ tục tranh luận thể hiện rõ nhất ý chí, các quan điểm, lập luận để bảo vệ quyền và lợi ích cho bị cáo, bác bỏ quan điểm buộc tội của Viện kiểm sát hoặc đưa ra các tình tiết, chứng cứ nhằm mục đích giảm nhẹ hình phạt mà bị cáo phải chịu, thường phần tranh luận, người bào chữa sẽ đưa ra quan điểm về tội phạm và hình phạt dưới mức án đề nghị của Viện kiểm sát. Thủ tục xét hỏi và thủ tục tranh luận có mối quan hệ mật thiết với nhau, vì chứng cứ, tài liệu của vụ án được kiểm tra, đánh giá tính đúng đắn tại phần xét hỏi. Đây là cơ sở để các bên đưa ra lập luận của mình tại phần tranh luận dựa trên các chứng cứ được Hội đồng xét xử xem xét tại phiên tòa. Có thể nói xét hỏi là tiền đề của tranh luận, là cơ sở để các bên xây dựng luận cứ cho phần tranh luận. Do đó để việc tranh luận thật sự có hiệu quả, đáp ứng được ý chí của các bên thì phần xét hỏi phải chi tiết, cụ thể, đi vào những nội dung chính, quan trọng của vụ án. 1.2.3. Xét hỏi và thủ tục nghị án, tuyên án Thủ tục nghị án và tuyên án là phần thủ tục cuối cùng của một phiên tòa hình sự, được tiến hành liền ngay sau thủ tục tranh luận. Đến giai đoạn này, Tòa án, bên buộc tội và bên gỡ tội đã nắm được toàn bộ diễn biến, chứng cứ, nội dung và quan điểm của các bên. Thủ tục nghị án và tuyên án, vai trò chính thuộc về Hội đồng xét
  • 26. 19 xử, Viện kiểm sát không tham gia vào phần thủ tục này.Kết quả của thủ tục xét hỏi, tranh luận là cơ sở để Hội đồng xét xử nghị án đưa ra quyết định cuối cùng của vụ án. Hội đồng xét xử biểu quyết theo đa số từng vấn đề và chỉ được căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác. Việc đánh giá chứng cứ khách quan, toàn diện là cơ sở để Hội đồng xét xử ban hành một bản án thuyết phục. 1.3. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ 1945 đến nay về xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 1988 Luật tố tụng hình sự được hình thành và dần dần phát triển thành một ngành luật độc lập. Trong pháp luật TTHS, thủ tục xét hỏi cũng có những thay đổi theo sự phát triển của ngành luật này. Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của Việt Nam được ban hành năm 1988, thủ tục xét hỏi cũng được ghi nhận thành thủ tục riêng biệt. Trong những năm đầu của nền tư pháp dân chủ nhân dân, các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đã được ban hành. Sắc lệnh 33C ngày 13/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa về thành lập Tòa án quân sự, sau đó được bổ sung bằng Sắc lệnh số 21 ngày 14/2/1946; Sắc lệnh 46-SL ngày 10/10/1945 về tổ chức đoàn thể luật sư, Sắc lệnh 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức tòa án và các ngạch thẩm phán, theo đó có Tòa án sơ cấp (đặt ở cấp huyện, quận, châu), Tòa án đệ nhị cấp (đặt ở cấp tỉnh, thành phố), Tòa thượng thẩm (đặt ở 3 kỳ). Sau Tổng tuyển cử, Hiến pháp năm 1946 được ban hành, quy định cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm: Toà án tối cao; các Toà án phúc thẩm; các Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp. Sắc lệnh 69/SL ngày 18/6/1949 được cụ thể hóa bằng Nghị định số 01/NĐ ngày 12 tháng 1 năm 1950 của Bộ tư pháp về mở rộng quyền bào chữa...Để đáp ứng yêu cầu dân chủ hóa nền tư pháp, Sắc lệnh 85 ngày 22/5/1950 đổi tên tòa án sơ cấp thành “Tòa án nhân dân”; Phụ thẩm được đổi thành Hội thẩm nhân dân. Qua đó, thủ tục xét hỏi còn
  • 27. 20 được thể hiện gián tiếp trong các văn bản liên quan đến quyền bào chữa của bị can do Hội nghị tư pháp thông qua ngày 20/6/1956. Thông tư 22 – HCTP ngày 18/12/1957 của Bộ Tư pháp trả lời một số điểm về quyền bào chữa. Vào cuối những năm 1950 đã có những thay đổi lớn về hệ thống tư pháp. Năm 1958, Quốc hội quyết định thành lập Tòa án nhân dân tối cao và Viện công tố Trung ương, là các cơ quan thuộc Chính phủ. Đến năm 1959, Hiến pháp mới được ban hành, trên cơ sở đó, Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1960 ra đời, với việc thành lập hệ thống Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Trong đó Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao là các thiết chế thuộc Quốc hội. Sau khi giải phóng miền Nam 91975), Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 01 – SL/67 ngày 15/3/1976 về tổ chức Tòa án nhân dân. Khi đất nước thống nhất về mặt nhà nước (1976) thì hệ thống Tòa án và Viện kiểm sát được hướng dẫn hoạt động theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1960. Hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trong giai đoạn này được Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn bằng “Bản hướng dẫn trình tự sơ thẩm về hình sự” và Thông tư số 16-TATC ngày 17/9/1974. Sau khi Hiến pháp 1980 ra đời, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1981 được ban hành cho phù hợp với Hiến pháp mới. Theo quy định trong các văn bản nói trên thì trình tự xét hỏi trong phiên tòa sơ thẩm hình sự được bắt đầu là việc xét hỏi của Hội đồng xét xử, tiếp theo là Kiểm sát viên, người bào chữa, nguyên đơn dân sự. Thủ tục xét hỏi được bắt đầu bằng việc Thư ký được Chủ tọa phiên tòa yêu cầu đọc bản cáo trạng. Việc xét hỏi bắt đầu từ hỏi bị cáo, người bị hại, người làm chứng. Vai trò của Hội đồng xét xử tại thủ tục xét hỏi trong giai đoạn này cũng giống như hiện nay khi vẫn giữ quyền hỏi chính và hỏi toàn bộ nội dung vụ án. Khi xét hỏi: “Hội đồng xét xử phải lắng nghe những lời khai của bị cáo nhưng chủ tọa phiên tòa phải kịp thời căn cứ vào những chứng cứ và lý lẽ vững chắc, vạch ra những điều mà bị cáo khai không đúng, nhưng cần tránh việc tranh cãi tay đôi với bị cáo”. Vai trò của Kiểm sát viên theo hướng dẫn này rất
  • 28. 21 mờ nhạt, không thực sự có hiệu quả trong thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, chỉ thực hiện quyền hỏi những người tham gia tố tụng khác sau phần hỏi của Chủ tọa phiên tòa: “Sau khi Hội đồng xét xử hỏi xong một việc thì chủ tọa phiên tòa cần hỏi đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa có hỏi thêm gì không”. Trong trường hợp bị cáo không thừa nhận thì “ nên yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân phát hiểu thêm về vấn đề nào bị cáo còn chối cãi” [26]. Một điểm bất hợp lý tại giai đoạn này là phần công bố cáo trạng lại do thư ký phiên tòa đọc. Điều này chưa phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên. Có thể nói, thủ tục xét xử tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật TTHS năm 1988 chưa được hệ thống thành một văn bản cụ thể, các quy định còn nằm tản mạn trong các văn bản hướng dẫn thi hành, các sắc lệnh, các công văn hướng dẫn nội bộ. Nội dung quy định về thủ tục cũng chưa thực sự khoa học, đặt vai trò của Hội đồng xét xử là trung tâm của thủ tục xét hỏi, vai trò của Kiểm sát viên chưa được đề cao, vai trò của người bào chữa cũng chưa đạt được hiệu quả nhất định. Giai đoạn đất nước sau giải phóng còn phải giải quyết nhiều vấn đề còn tồn đọng của chiến tranh, trình độ lập pháp còn hạn chế, vì vậy phiên tòa hình sự sơ thẩm trong giai đoạn này chắc chắn còn nhiều thiếu sót và tính dân chủ chưa được đề cao đúng mức. Tuy nhiên, cũng phải ghi nhận sự quan tâm, nỗ lực của Nhà nước ta trong việc xây dựng ngành tư pháp nói chung, không ngừng nâng cao chất lượng xét xử. 1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2003 Pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn này đã có bước phát triển cả về mặt nội dung và hình thức với việc pháp điển hóa pháp luật TTHS lần thứ nhất vào năm 1988. Bộ luật tố tụng hình sự 1988 được thông qua tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa VIII đã tập hợp và pháp điển những quy định riêng rẽ, tản mạn được ban hành trong các văn bản khác nhau về chung một mối – văn bản có giá trị pháp lý cao là Luật. Lần đầu tiên, Bộ luật tố tụng hình sự 1988 quy định trình tự, thủ tục để tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự làm tiền đề cho
  • 29. 22 việc phối hợp, thực hiện đồng bộ giữa các cơ quan thực thi pháp luật. Công tác xét xử giai đoạn này cũng được nâng cao về mặt chất lượng cũng như cách thức tổ chức phiên tòa được chuẩn hóa hơn các giai đoạn trước. Tiếp tục kế thừa và phát huy những nguyên tắc chủ đạo, tinh thần thượng tôn pháp luật và đảm bảo quyền con người, quyền được đối xử công bằng trước pháp luật của công dân, tiếp thu tinh hoa những tư tưởng tiến bộ của Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, đặc biệt là các Luật Tổ chức TAND và Luật tổ chức VKSND năm 1960, năm 1981, Bộ luật tố tụng 1988 đã có nhiều nguyên tắc tiến bộ và được ghi nhận như nguyên tắc “ Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” ( Điều 10), nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo ( Điều 12), nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng trước Tòa án ( Điều 20) và các quy định nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia tố tụng khác. Bộ luật tố tụng hình sự 1988 quy định về thủ tục xét hỏi tại Chương XIX, từ Điều 180 đến Điều 190. Chủ thể hỏi theo quy định là Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người giám định. Trình tự xét hỏi theo thứ tự là Hội đồng xét xử hỏi chính, sau đó Kiểm sát viên, người bào chữa hỏi…cụ thể: “1- Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về từng tội của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý. 2- Khi xét hỏi từng người, chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến các hội thẩm nhân dân, sau đó đến kiểm sát viên, người bào chữa. Những người tham gia phiên toà cũng có quyền đề nghị với chủ toạ phiên toà hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định. 3- Trong khi xét hỏi, Hội đồng xét xử xem xét những vật chứng có liên quan trong vụ án” Về cơ bản, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm trong giai đoạn này cũng bao gồm việc công bố bản cáo trạng, xác định nội dung và thứ tự xét hỏi, hỏi, công bố lời khai tại cơ quan điều tra, xem xét, kiểm tra chứng cứ. Nhưng có thay đổi so với
  • 30. 23 giai đoạn trước ở việc thư ký không còn đọc bản cáo trạng mà là nhiệm vụ của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Quy định này thay đổi là hợp lý, Kiểm sát viên phải đọc bản cáo trạng vì đây chính là quan điểm công khai buộc tội bị cáo của Viện kiểm sát, chức năng này phải do Kiểm sát viên thực hiện mà không phải là đối tượng nào khác. Tuy có sự thay đổi lớn về việc quy định trình tự, thủ tục xét hỏi so với các văn bản trước đó nhưng trong quá trình thi hành, áp dụng cũng đã bộc lộ nhiều điểm chưa hợp lý. Bộ luật tố tụng hình sự được sửa đổi lần đầu tiên năm 1990, đến năm 1992, sau khi Hiến pháp 1992 được thông qua, Bộ luật tố tụng hình sự 1988 tiếp tục có sự thay đổi, bằng việc Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS 1988 cho phù hợp với Hiến pháp. Đồng thời, Luật tổ chức TAND 1992, Luật tổ chức VKSND 1992, Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội Thẩm 1993, Pháp lệnh về KSV 1993, Pháp lệnh về Tòa án quân sự 1993, Pháp lệnh về Viện kiểm sát quân sự 1993. Năm 2000, lần thứ ba, BLTTHS 1988 được sửa đổi bổ sung nhiều quy định nhưng thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm nhìn chung không có sự thay đổi. Bộ luật tố tụng hình sự 1988 lần đầu tiên tổng hợp và quy định khá chi tiết về trình tự thủ tục xét hỏi làm cơ sở cho việc áp dụng thống nhất pháp luật tại phiên tòa, góp phần làm cho phiên tòa sơ thẩm được công khai, minh bạch, nâng cao chất lượng xét xử cả về nội dung xét hỏi và cách thức tổ chức phiên tòa. 1.3.3. Giai đoạn từ 2003 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Bộ luật TTHS năm 2003 được ban hành (thay cho Bộ luật TTHS năm 1988) đã phản ánh những dấu ấn đầu tiên của cải cách tư pháp theo tinh thần và nội dung của Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Việc tiến hành tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW được bắt đầu thực hiện theo hướng dẫn tại Thông báo số 01- TB/BCĐCCTP, ngày 31-5-2002 của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương. Bộ luật TTHS năm 2003 đã từng bước tiếp cận chủ trương bảo đảm tranh tụng để việc xét xử khách quan và toàn diện hơn. Về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa
  • 31. 24 sơ thẩm, Bộ luật TTHS năm 2003 quy định khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các hội thẩm, sau đó đến kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với Chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định được hỏi về những vấn đề liên quan đến giám định. Thực chất thủ tục này là việc người tiến hành tố tụng bao gồm Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, Luật sư tiến hành hỏi bị cáo, người làm chứng và những người liên quan khác để xác minh các chứng cứ trong hồ sơ vụ án và làm rõ những tình tiết có liên quan để xác định sự thật khách quan của vụ án. Như vậy, BLTTHS năm 2003 không quy định phải hỏi ai trước, ai sau. Tùy từng vụ án, chủ tọa có kế hoạch xét hỏi hợp lý trên cơ sở nội dung từng vụ án cụ thể cũng như thái độ khai báo của người tham gia tố tụng. Nội dung xét hỏi tập trung làm rõ tình tiết định tội, định khung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo… 1.3.4. Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận những thành tựu đậm nét của cải cách tư pháp trong lĩnh vực xét xử. Hiến pháp ghi nhận những tư tưởng tiến bộ, hướng đến mục tiêu bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa và tôn trọng, bảo vệ cao nhất quyền con người. Trên tinh thần đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 khẳng định tiếp tục duy trì và phát huy những ưu điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn; đồng thời, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Một trong những mục tiêu quan trọng của việc ban hành BLTTHS năm 2015 là phải tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đặt ra trong thực tiễn; xác lập đầy đủ cơ sở pháp lý để quá trình phát hiện, xử lý tội phạm được tiến hành chính xác, kịp thời, góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển. Từ yêu cầu đó, BLTTHS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng, trong đó, nhằm thể
  • 32. 25 hiện rõ nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, không chia thành thủ tục xét hỏi và thủ tục tranh luận như trước đây mà nhập chung thành thủ tục tranh tụng tại phiên tòa (từ Điều 306 đến Điều 325). Điều 307 quy định: a- Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý. b- Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi. Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản. c- Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử xem xét vật chứng có liên quan trong vụ án. Như vậy, theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý. Khi xét hỏi, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán (trường hợp Hội đồng 3), Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi. Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị Chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản. Đồng thời BLTTHS năm 2015 bổ sung cho bị cáo quyền được trực tiếp đặt câu hỏi với các bị cáo khác, bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ, người làm chứng nếu được Chủ tọa đồng ý thay vì đề nghị Chủ tọa hỏi (Điểm i khoản 2 Điều 61 các Điều 309, 310 và 311 Bộ luật TTHS 2015). Ý nghĩa của việc làm này để xác định toàn diện, đầy đủ, khách quan nội dung vụ án, tránh oan sai, đảm bảo xét xử đúng quy định của pháp luật.
  • 33. 26 Tiểu kết chương 1 Xét hỏi là thủ tục quan trọng trong quá trình xét xử vụ án hình sự, xuất phát từ việc xét hỏi thì chứng cứ của vụ án được công khai và toàn bộ nội dung vụ án được làm sáng tỏ. Qua những lần thay đổi pháp luật thực định, thủ tục xét hỏi đang có sự chuyển biến tích cực khi tiến gần hơn đến việc kết hợp giữa xét hỏi và tranh luận. Đây được xem là xu hướng đúng đắn và đem lại hiệu quả tích cực trong hoạt động xét xử tại các cấp Tòa án. Không thể phủ nhận những quy định về thủ tục xét hỏi đã dần hoàn thiện qua các lần pháp điển hóa, cho đến BLTTHS 2015 đã thể hiện rõ rệt tinh thần cải cách khi kết hợp xét hỏi và tranh luận thành phần tranh tụng tại phiên tòa. Nhưng trong quá trình thi hành BLTTHS kể từ khi thủ tục xét hỏi được quy định chính thức là một thủ tục độc lập, vai trò của Tòa án vẫn chưa được giải phóng để trở về đúng vị trí trọng tài. Các quy định của pháp luật đã bộc lộ hạn chế về mặt chủ thể thực hiện xét hỏi (đặc biệt vai trò của Hội thẩm và Kiểm sát viên), trình tự xét hỏi, nội dung khi xét hỏi và các quy định về công bố lời khai, xem xét vật chứng tại phiên tòa.
  • 34. 27 Chương 2 THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015 VỀ XÉT HỎI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, TP. HỒ CHÍ MINH 2.1. Chủ thể thực hiện quyền xét hỏi Bộ luật tố tụng hình sự 2015 không liệt kê thành nhóm những chủ thể thực hiện quyền xét hỏi mà quy định trong các điều luật có liên quan ở Mục V – Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa. Theo quy định tại khoản 2, Điều 307 về trình tự xét hỏi thì có thể phân biệt chủ thể hỏi bao gồm 2 nhóm: Những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng. Nhóm chủ thể hỏi là những người tiến hành tố tụng gồm: Chủ tọa phiên tòa, Thẩm phán, Hội Thẩm, Kiểm sát viên. Và nhóm chủ thể tham gia tố tụng gồm: Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người giám định, người định giá tài sản, đồng thời người tham gia tố tụng tại phiên tòa được quyền đề nghị chủ tọa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. 2.1.1. Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa là thành viên của Hội đồng xét xử và là người điều hành chính thủ tục xét hỏi tại phiên tòa. Trách nhiệm của Hội đồng xét xử nói chung và Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa nói riêng tại mỗi phiên tòa sơ thẩm được quy định cụ thể: “Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý” – khoản 1, Điều 307 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Quy định này cho thấy Hội đồng xét xử giữ vị trí rất quan trọng khi tiến hành việc hỏi, phải đi tìm sự thật khách quan của vụ án và giải quyết tất cả các vấn đề, các tình tiết của một vụ án. Với mô hình tố tụng hình sự đang áp dụng ở nước ta hiện nay, Hội đồng xét xử được toàn quyền chủ động và tích cực xét hỏi, quyền hạn của Hội đồng xét xử không bị giới hạn trong thủ tục hỏi. Nhưng chính quy định này đã tồn tại nhiều bất cập và không hợp lý, khi Bộ luật TTHS năm 2015 thể hiện mô hình TTHS xét hỏi kết hợp với mô hình TTHS tranh tụng. Không
  • 35. 28 những thế, Hội đồng xét xử phải làm thay nhiệm vụ của các chủ thể khác khi tham gia phiên tòa, vừa xét hỏi, vừa xem xét chứng cứ, tìm các tình tiết hợp lý và bất hợp lý trong lời khai của bị cáo và đối khớp với hồ sơ vụ án, xem xét các yếu tố tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo... Hội đồng xét xử được trao quyền hạn lớn nhưng cũng chính là rào cản để Hội đồng xét xử không tập trung vào việc xem xét, đánh giá chứng cứ và nghe trình bày giữa bên buộc tội và gỡ tội. Tính khách quan cũng vì thế mà chưa thực sự được đảm bảo. Trong các giai đoạn giải quyết vụ án hình sự, thì chính thủ tục xét hỏi là giai đoạn quan trọng nhất để các bên được biết quan điểm chính thức của bên đối kháng, các chứng cứ cũng được chính thức công khai kiểm tra lại toàn bộ tại phiên tòa, do đó, việc quy định không hợp lý về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử mà trong đó, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là người tiến hành TTHS được tiếp xúc với toàn bộ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được nghiên cứu hồ sơ với khoảng thời gian khá dài, nên việc quy định Chủ tọa phiên tòa hỏi chính và được hỏi về toàn bộ các tình tiết có liên quan dễ dẫn đến tâm lý chủ quan, thiên về buộc tội theo hướng cơ quan điều tra và Viện kiểm sát xây dựng hồ sơ. Đây là điểm chưa hợp lý, có thể gây tâm lý bất ổn cho chính bị cáo về việc Hội đồng xét xử mở phiên tòa chỉ để hợp thức hóa lời khai của họ cho đúng thủ tục. Thủ tục xét hỏi được diễn ra công khai tại phiên tòa là cơ hội rất lớn cho bị cáo được thể hiện quan điểm của mình trước cáo buộc của Viện kiểm sát, được trình bày những căn cứ để bảo vệ mình trước các cơ quan tiến hành tố tụng, trong một vài trường hợp có thể làm đảo ngược hồ sơ vụ án nếu trước đó bị cáo bị ép cung, nhục hình “Người dân có thể chưa tìm hoặc không tìm thấy công lý ở giai đoạn trước nhưng được quyền hy vọng sẽ tìm thấy công lý ở phiên tòa xét xử” [7, tr.45]. Với vai trò chủ chốt như hiện nay việc xét hỏi được trao cho Hội đồng xét xử, mà hoạt động chính thuộc về Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa đã đặt ra yêu cầu khá cao cho chủ thể này khi phải thực sự phát huy tất cả các kĩ năng, tâm lý, tâm trí để mục đích xem xét chứng cứ toàn diện nhất tại một buổi xét xử. Hội đồng xét xử ở cấp sơ thẩm được quy định tại Điều 22, Điều 23 -
  • 36. 29 Chương II – Những nguyên tắc cơ bản – Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về việc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia và được xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Như vậy, khi xét xử, ngoài Chủ tọa phiên tòa thì Hội Thẩm nhân dân cũng tham gia vào việc xét hỏi và đưa ra quyết định đối với bị cáo. Vai trò, trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân theo quy định là rất lớn và ngang quyền với Thẩm phán nhưng trong thực tế lại chưa thực sự phát huy hiệu quả, thậm chí không đưa ra ý kiến gì về việc đánh giá chứng cứ. Thẩm phán vẫn phải chịu trách nhiệm chính, quyết định chính khi xét xử. Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu có xảy ra sai sót thì chỉ có Thẩm phán mới phải chịu chế tài của quy định về trách nhiệm bồi thường, kỉ luật. Do đó, xét về mặt khách quan, Thẩm phán phải thực sự tập trung tại mỗi phiên tòa và có phần bao quát hết diễn biến phiên tòa để đưa ra quyết định, giữ vai trò chủ động hơn Hội Thẩm nhân dân cũng là điều dễ hiểu. 2.1.2. Hội thẩm nhân dân Có thể khẳng định, sự tham gia xét hỏi của Hội thẩm nhân dân tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ trước đến nay thực sự mờ nhạt, điều này diễn ra ngay cả ở những phiên tòa của những vụ án lớn. Trong khi Chủ tọa phải xét hỏi, nghe Viện kiểm sát trình bày cáo trạng, nghe ý kiến của bị cáo, của người bảo vệ quyền và lợi ích của bị cáo, của đương sự, xem xét chứng cứ các bên đưa ra, đối chất, cân nhắc... phải hoạt động quá nhiều tại phiên tòa thì Hội thẩm nhân dân chỉ là hình thức, một phiên tòa sơ thẩm thông thường có hai Hội thẩm, ý kiến của hai Hội thẩm tại thủ tục nghị án là chiếm đa số so với ý kiến của Chủ tọa phiên tòa, nên việc không phát huy hết tất cả vai trò, trách nhiệm của Hội thẩm là một thiếu sót lớn. Thực tiễn xét xử, khi Chủ tọa phiên tòa bắt đầu thủ tục xét hỏi, xét hỏi những tình tiết quan trọng có liên quan đến vụ án hết thì thường Chủ tọa sẽ hỏi ý kiến của Hội thẩm về việc có hỏi thêm các bị cáo hoặc hỏi các vấn đề khác nữa không, nhưng Hội thẩm gần như chỉ hỏi cho đúng thủ tục hoặc không hỏi, các câu hỏi cũng không tập trung đi sâu vào việc làm sáng tỏ các tình tiết khách quan, thường thì đề cập đến khía cạnh đạo đức để bị cáo ăn năn, hối cải, thành khẩn khai báo. Pháp luật tố tụng hình sự đang trao cho Hội thẩm nhân dân quyền ngang với Thẩm phán
  • 37. 30 nhưng trách nhiệm ràng buộc thì lại xem nhẹ, do đó Hội thẩm cho đến nay chưa có cơ chế đảm bảo thực hiện. Trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ của Hội thẩm chưa được đề cao đúng mức, do Hội thẩm được tuyển chọn từ nhiều nguồn nhân lực khác nhau, có Hội thẩm đang trong quá trình công tác tại các cơ quan ban ngành nên việc nghiên cứu hồ sơ còn chưa chú trọng, mặc dù Hội thẩm không bị ràng buộc về thời gian nghiên cứu hồ sơ, việc xây dựng kế hoạch xét hỏi gần như không có, hoặc nếu có thì không đạt chất lượng cao. Hội thẩm cũng có thể mắc những sai lầm về việc định hình sẵn việc kết tội bị cáo, dẫn đến các phiên tòa chủ yếu xoay quanh việc kết tội thay vì kiểm tra tính hợp pháp của chứng cứ và lời khai của những người tham gia tố tụng “... thói quen khó sửa muốn tạo cho bị cáo khuất phục tại phiên tòa, làm thay việc của Kiểm sát viên, chỉ tìm chứng cứ buộc tội bị cáo nếu sẵn có định kiến là bị cáo có tội hoặc làm thay việc của luật sư, chỉ tìm những chứng cứ gỡ tội nếu sẵn định kiến là bị cáo không có tội” [18, tr.3-10]. Điểm tích cực của chế định Hội thẩm nhân dân hiện nay là để tránh việc tại phiên tòa, chỉ có Kiểm sát viên thực hiện việc cáo buộc, hoặc Chủ tọa phiên tòa do quá tập trung vào việc xem xét chứng cứ và điều hành phiên xét xử mà mắc một vài thiếu sót về mặt thủ tục, hoặc bỏ qua việc xét hỏi một số đương sự có liên quan trong vụ án, sự có mặt của Hội Thẩm nhân dân tại phiên tòa có thể phát huy hết trí tuệ của cả Hội đồng xét xử 3 người, hạn chế những sai lầm không đáng có trong quá trình xét xử. Tại phiên tòa hình sự ngày 04/4/2013, VKS truy tố bị cáo Bùi Quý S và bị cáo Phạm Nguyễn Thế H về tội “Trộm cắp tài sản”, Hội thẩm tham gia phiên tòa chỉ hỏi bị cáo: “Bị cáo có hối hận về hành vi trộm cắp của mình không?”, ngoài ra không hỏi thêm gì về các nội dung khác của vụ án, còn Hội thẩm còn lại không tham gia xét hỏi. Tại phiên tòa ngày 12/7/2013, Hội thẩm hỏi bị cáo: “Tại sao bị cáo không đi làm mà lại đi cướp giật?” tác giả cho rằng việc Hội thẩm hỏi bị cáo như vậy không đi sâu vào nội dung vụ án và không cần thiết. Phiên tòa ngày 19/6/2014, bị cáo Đỗ Nguyễn Quốc C bị VKSND Quận 10 truy tố về tội “Cố ý gây thương tích”, cả hai hội thẩm tham gia phiên tòa đều không tiến hành việc xét hỏi. Hay tại
  • 38. 31 phiên tòa ngày 12/6/2014, bị cáo Đặng Thanh H bị VKSND Quận 10 truy tố về tội “trộm cắp tài sản” thì cả hai hội thẩm cũng không hỏi bị cáo bất cứ tình tiết nào của vụ án. Rất nhiều các phiên tòa có hội thẩm tham gia tại Tòa án nhân dân Quận 10 có Hội thẩm nhân dân nhưng Hội thẩm không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, nếu có đặt câu hỏi thì cũng không đúng trọng tâm “Bị cáo bỏ nhà đi được mấy ngày rồi?” trong vụ án “Mua bán trái phép chất ma túy” , hay “Bị cáo tốt nghiệp năm nào, tốt nghiệp loại gì” tác giả cho rằng những câu hỏi này không liên quan đến việc làm sáng tỏ nội dung vụ án. Tại các phiên xử tại Tòa án nhân dân Quận 10, thông thường Hội thẩm hay hỏi bị cáo có hối hận về hành vi của mình không, và giáo dục đạo đức cho bị cáo ngay tại phiên tòa. Việc quy định Hội đồng xét xử thực hiện quyền xét hỏi tại phiên tòa theo mô hình thẩm vấn của nước ta hiện nay ít nhiều đã đạt được những hiệu quả nhất định nhưng chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp, nâng cao tính tranh tụng, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo tại phiên tòa. Không cần thiết phải giao cho Hội đồng xét xử nhiệm vụ phải hỏi chính và bằng mọi cách tìm ra sự thật khách quan của một vụ án chỉ bằng thủ tục hỏi tại phiên tòa, cần thiết phải sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự, đặt Hội đồng xét xử về đúng chức năng, nhiệm vụ “phân xử” bằng cách lắng nghe ý kiến và xem xét chứng cứ do các bên đưa ra tại phiên tòa. 2.1.3. Kiểm sát viên Kiểm sát viên là chủ thể thực hiện quyền xét hỏi tại phiên tòa – thực hành quyền công tố bên cạnh quyền kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong phần xét hỏi tại phiên tòa: “Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa phải bảo vệ cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo tại phiên tòa; chứng minh mọi luận điểm trong cáo trạng bằng việc chủ động xét hỏi, thẩm vấn, đưa ra những chứng cứ trực tiếp và những chứng cứ gián tiếp để chứng minh tội phạm, làm sáng tỏ đầy đủ các tình tiết từng sự việc của vụ án” [2]. Để thực hiện quyền công tố tại phiên tòa – chức năng chính của Viện Kiểm sát khi xét xử, Viện kiểm sát mở đầu thủ tục hỏi bằng việc công bố bản cáo trạng. Đây là quan điểm buộc tội chính thức của Viện
  • 39. 32 kiểm sát một cách công khai, có buộc tội thì sẽ có xét xử, có buộc tội sẽ có gỡ tội. Bằng cáo trạng của mình, những người tham gia vụ án hình sự có cái nhìn khái quát về nội dung vụ án và những tình tiết có liên quan giữa hành vi và tội phạm của bị cáo. Việc hỏi của Kiểm sát viên để chứng minh cho tính có căn cứ quan điểm buộc tội của mình, hỏi để làm rõ bốn yêu tố cấu thành của tội phạm bao gồm chủ thể, khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan. Do đó, cáo trạng truy tố được công bố tại phiên tòa phải rõ ràng và thể hiện được các yếu tố trên, nhất là tính có căn cứ, nhân quả của hành vi và tội phạm của bị cáo. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, vai trò của Kiểm sát viên không thật sự nổi bật như ở các quốc gia theo mô hình tố tụng tranh tụng. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên chỉ có quyền công bố cáo trạng, thẩm vấn bị cáo và nhân chứng khi Tòa án đã thẩm vấn xong, đề nghị giám định, yêu cầu về các vấn đề mang tính thủ tục và các chứng cứ tiếp theo. Sau khi các chứng cứ được đưa ra, Kiểm sát viên sẽ trình bày bản luận tội, trong đó nêu tóm tắt kết quả thẩm vấn, các lập luận qua quá trình xét xử cùng với đề nghị mức hình phạt cụ thể và các biện pháp bổ sung. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, tại một số quốc gia còn giao cho Cơ quan Công tố chịu trách nhiệm thi hành bản án, quyết định của Tòa án (Điều 707, 708 Bộ luật tố tụng hình sự Cộng Hòa Pháp). Vì tính chất, vai trò đặc biệt quan trọng của Kiểm sát viên trong mô hình tố tụng thẩm vấn như ở nước ta hiện nay, đòi hỏi Kiểm sát viên phải thực thi đúng nhiệm vụ chức trách của mình, phải có trách nhiệm với bản cáo trạng được công bố, vì đây chính là cơ sở để khởi động những bước xem xét chứng cứ và trình bày những bào chữa gỡ tội trong các thủ tục tiếp theo. Cùng với Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên thực hiện việc hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, xem xét và kiểm tra các chứng cứ có liên quan đến vụ án. Việc xét hỏi toàn diện của Viện kiểm sát tại phiên tòa, tuy được thực hiện sau phần hỏi của Chủ tọa phiên tòa nhưng những câu hỏi để làm rõ thêm các tình tiết và tiếp cận vụ án ở các khía cạnh khác nhau góp phần làm sáng tỏ vụ án và có khả năng khai thác được những điểm bất hợp lý trong lời khai so với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua đó nâng cao hiệu quả xét xử. Như đã trình bày ở các phần
  • 40. 33 trên, Hội đồng xét xử theo quy định hiện hành đang là chủ thể giữ quyền xét hỏi chính và tích cực nhất, nhưng thực tế để đạt được hiệu quả tốt nhất thì việc xét hỏi tại phiên tòa nên quy định là trách nhiệm chính của Viện kiểm sát. Vì đây mới chính là chủ thể thực hiện việc cáo buộc đối với bị cáo, là chủ thể phê chuẩn các quyết định liên quan đến bị cáo trước khi phiên tòa diễn ra. Đồng thời, thực hiện chức năng kiểm sát trong giai đoạn điều tra, là cơ quan tiếp xúc với hồ sơ vụ án và nắm các tình tiết của vụ án trước cả Hội đồng xét xử. Pháp luật tố tụng hình sự cần thay đổi thứ tự xét hỏi để nâng cao tính chủ động của Kiểm sát viên. Thực tế tại các phiên tòa, vai trò của Kiểm sát viên mờ nhạt, thậm chí sau khi đọc cáo trạng thì Kiểm sát viên không hỏi thêm bất cứ câu hỏi nào với lý do Hội đồng xét xử đã hỏi đầy đủ, chi tiết nên Kiểm sát viên không hỏi gì thêm. Trong một số trường hợp, Kiểm sát viên đã hỏi lặp lại các câu hỏi của Hội đồng xét xử, hỏi không làm sáng tỏ được vấn đề, không đáp ứng được yêu cầu của thủ tục xét hỏi. Trong những trường hợp khác, tại phiên tòa có thêm những chứng cứ mới được bổ sung và được Tòa án chấp nhận là chứng cứ có liên quan đến vụ án nhưng Kiểm sát viên cũng đồng ý với ý kiến của Hội đồng xét xử mà không hỏi gì thêm. Tại phiên tòa, bên buộc tội và bên gỡ tội cần tranh luận để bảo vệ cho từng quan điểm của mỗi bên, tính tranh tụng phải được thể hiện vì đây là cơ hội để các bên chấp nhận hay bác bỏ luận điểm của bên còn lại. Sau phiên tòa, mọi quan điểm đều là không chính thống và không được thừa nhận. Đối với những vu án khá rõ ràng về mặt chứng cứ, Kiểm sát viên gần như không hỏi và không tranh luận bất cứ nội dung nào khác. Quy định pháp luật hiện nay đang trao cho Hội đồng xét xử quyền được hỏi khá nhiều, hỏi đầu tiên nên Viện kiểm sát đã không ý thức được việc xét hỏi của mình, Kiểm sát viên không chuẩn bị được đề cương xét hỏi. Xét hỏi tại phiên tòa khác với xét hỏi trong giai đoạn điều tra cả về nguyên tắc tố tụng, hình thức, đặc điểm và các thủ tục đối với từng người. Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ngày 18/9/2013, bị cáo Cao Vũ Bảo Tr bị Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 truy tố về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, Đại diện VKS tham gia phiên tòa chỉ hỏi đúng một câu duy nhất: “Cáo trạng truy tố bị cáo