Luận Văn Thạc Sĩ Giáo Dục Pháp Luật Cho Công Chức Cấp Xã - Từ Thực Tiễn Thành Phố Hà Nội đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích. Nếu như bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0932.091.562 để được hỗ trợ tải nhé.
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
Luận Văn Thạc Sĩ Giáo Dục Pháp Luật Cho Công Chức Cấp Xã
1. HÀ NỘI - 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ THÚY
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
CÔNG CHỨC CẤP XÃ - TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Tham Khảo Thêm Tài Liệu Tại Luanvanpanda.com
Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Thuê Tiểu Luận, Báo Cáo, Khoá Luận, Luận Văn
Zalo/Telegram Hỗ Trợ : 0932.091.562
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
2. HÀ NỘI - 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ THÚY
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
CÔNG CHỨC CẤP XÃ - TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 60 38 01 02
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN NHO THÌN
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học
và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện
Hành chính Quốc gia.
Vậy, tôi viết bản cam đoan này đề nghị Học viện Hành chính Quốc gia
xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Thúy
4. LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô hiện đang công tác tại Học viện
Hành chính Quốc gia và các thầy cô giảng dạy lớp LH2.B1 đã tạo điều kiện
tốt nhất cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trƣờng.
Xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Nho Thìn, ngƣời thầy kính
mến đã hết lòng quan tâm, giúp đỡ tận tình, hƣớng dẫn nghiên cứu tạo điều
kiện cho tôi hoàn thành luận văn.
Xin đƣợc cảm ơn các đồng chí, đồng nghiệp tại Sở Nội vụ Hà Nội,
Phòng Nội vụ huyện Phú Xuyên và bè bạn đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực
hiện nghiên cứu đề tài.
Xin phép gửi lời cảm ơn Ban Giám đốc Học viện, Ban lãnh đạo khoa
Sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình vừa học tập và
nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Tác giả
Nguyễn Thị Thúy
5. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1. CÔNG CHỨC CẤP XÃ ....................................................................... 11
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm công chức cấp xã............................................. 11
1.1.2.Vai trò của công chức cấp xã........................................................................ 15
1.2. GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ .................... 16
1.2.1. Quan niệm về giáo dục pháp luật.......................................................... 16
1.2.2. Khái niệm giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã .................................. 24
1.2.3. Đặc trƣng của giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã............................. 28
1.2.4. Chủ thể và đối tƣợng giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã...............32
1.2.5. Nội dung giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã.............................. 36
1.2.6. Hình thức và phƣơng pháp giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã . 38
1.2.7. Vai trò của giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã ............................. 41
1.3. YÊU CẦU VÀ ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO CHO GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ .................................................. 44
1.3.1. Yêu cầu đối với giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã......................... 44
1.3.2. Điều kiện đảm bảo cho giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã ............. 45
Tiểu kết Chương 1.......................................................................................... 48
6. Chƣơng 2
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
2.1. KHÁI QUÁT VỀ THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ TÌNH HÌNH CÔNG
CHỨC CẤP XÃ Ở THÀNH PHỐ........................................................ 49
2.1.1. Khái quát về Thành phố Hà Nội............................................................ 49
2.1.2. Tình hình công chức cấp xã ở Hà Nội .................................................. 52
2.2. ĐIỂM ĐẶC THÙ VÀ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO CÔNGCHỨC CẤP XÃ Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI............. 57
2.2.1.Đặc thù của giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã ở Thành phố Hà Nội.57
2.2.2. Sự tác động của vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã
hội đến công tác giáo dục pháp luật đối với công chức cấp xã ở thành
phố Hà Nội............................................................................................ 60
2.3. THỰC TRẠNG HÌNH THỨC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG
CHỨC CẤP XÃ Ở HÀ NỘI HIỆN NAY............................................. 63
2.3.1. Khái quát chung .................................................................................... 63
2.3.2. Giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã thông qua các hình thức đào
tạo, bồi dƣỡng ....................................................................................... 64
2.3.3. Giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã thông qua các hình thức khác ......73
2.4. THỰC TRẠNG CHỦ THỂ, ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG, CƠ SỞ PHÁP
LÝ, NGUỒN LỰC ĐẦU TƢ CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở HÀ NỘI HIỆN NAY ................................ 82
2.4.1. Chủ thể của giáo dục pháp luật ............................................................. 82
2.4.2. Công chức cấp xã.................................................................................. 84
2.4.3. Nội dung giáo dục pháp luật ................................................................. 85
2.4.4. Hình thức giáo dục pháp luật ................................................................ 86
2.4.5. Cơ sở pháp lý của công tác giáo dục pháp luật..................................... 86
2.4.6. Nguồn lực đầu tƣ cho giáo dục pháp luật ............................................. 88
Tiểu kết Chương 2.......................................................................................... 89
Chƣơng 3
7. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ
3.1. QUAN ĐIỂM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ.............................................................. 91
3.1.1. Giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã phải đảm bảo tính thƣờng
xuyên, liên tục bằng nhiều hình thức .................................................... 91
3.1.2. Giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã đáp ứng yêu cầu nâng cao
tính chuyên nghiệp, tôn trọng, tuân thủ pháp luật, tôn trọng bảo đảm
các quyền con ngƣời, quyền công dân.................................................. 93
3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
CÔNGCHỨCCẤP XÃTỪ THỰC TIỄNTHÀNH PHỐ HÀNỘI 96
3.2.1. Hoàn thiện chƣơng trình, nội dung để đảm bảo chất lƣợng đào tạo, bồi
dƣỡng nghiệp vụ đối với công chức ..................................................... 96
3.2.2. Củng cố, nâng cao chất lƣợng của các cơ sở đào tạo, bồi dƣỡng tham gia
công tác giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã ................................. 98
3.2 3. Áp dụng đa dạng các hình thức giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã 102
3.2.4. Kết hợp giáo dục pháp luật và kỹ năng thực hành pháp luật cho công
chức cấp xã.......................................................................................... 106
3.2.5. Kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục quyền con ngƣời, phòng chống
tham nhũng cho công chức cấp xã...................................................... 108
3.2.6. Bảo đảm kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dƣỡng, phổ biến, giáo dục
pháp luật cho công chức cấp xã .......................................................... 110
3.2.7. Một số giải pháp khác đối với Thành phố Hà Nội.............................. 112
Tiếu kết Chương 3........................................................................................ 113
KẾT LUẬN .................................................................................................. 114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 116
8. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CBCC: Cán bộ công chức
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
ĐTBD: Đào tạo bồi dƣỡng
GDPL: Giáo dục pháp luật
HĐND: Hội đồng nhân dân
PBGDPL: Phổ biến, giáo dục pháp luật
QLHC: Quản lí hành chính
QLHCNN: Quản lí hành chính nhà nƣớc
QLNN: Quản lí nhà nƣớc
UBND: Ủy ban nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
9. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta trong công cuộc đổi mới đất
nƣớc hiện nay là một đòi hỏi cấp thiết, phù hợp với những đòi hỏi khách quan
của đất nƣớc và xu thế chung của thời đại. Một trong những đặc trƣng cơ bản
của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đó là đảm bảo tính tối
cao của luật trong việc điều chỉnh tất cả các mối quan hệ xã hội. Vì vậy việc
đào tạo bồi dƣỡng kiến thức pháp luật cho công chức là việc làm rất quan
trọng và cần thiết, bởi công chức là bộ phận cấu thành nên bộ máy nhà nƣớc,
thay mặt nhà nƣớc và gắn liền với vận mệnh của đất nƣớc. Thông qua những
hoạt động cụ thể của công chức thì chức năng nhiệm vụ của nhà nƣớc mới
đƣợc thực hiện. Là ngƣời sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, hơn ai hết
Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rất rõ vị trí, vai trò của cán bộ. Ngƣời chỉ rõ: “Cán
bộ là cái gốc của mọi công việc” [20, tr.269]. “Muôn việc thành công hoặc
thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” [20, tr.240]. “Bất cứ chính sách, công
tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì
hỏng việc, tức là lỗ vốn [21, tr.46]. Cũng theo Ngƣời: muốn có cán bộ tốt thì
Đảng phải làm tốt công tác huấn luyện cán bộ, “huấn luyện cán bộ là công
việc gốc của Đảng” [20, tr.269]. Theo Ngƣời, huấn luyện cán bộ phải toàn
diện, đồng thời phải chuyên sâu và có phƣơng pháp khoa học.
Ở nƣớc ta, công chức làm việc ở cả bốn cấp hành chính trong cơ quan,
tổ chức của Đảng cộng sản Việt Nam, nhà nƣớc, các tổ chức chính trị - xã hội.
Trong đó công chức xã, phƣờng, thị trấn (gọi chung là cấp xã) có một vị trí,
vai trò đặc biệt quan trọng đây là nơi trực tiếp tổ chức, vận động nhân dân
thực hiện đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nƣớc, tăng cƣờng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân là cầu nối giữa nhà nƣớc và nhân dân. Tất cả những hoạt động đó có
10. 2
thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào chất lƣợng công chức cấp xã,
ảnh hƣởng đến sức mạnh của hệ thống chính trị ở cơ sở, tác động trực tiếp
đến sự nghiệp cách mạng và đổi mới của Đảng và Nhà nƣớc ta. Qua mỗi giai
đoạn lịch sử khác nhau nhà nƣớc ta đã có những chính sách cụ thể về giáo dục
pháp luật nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp cũng nhƣ kiến thức
pháp luật cho công chức cấp xã, làm cho chất lƣợng của công chức cấp xã
ngày càng đƣợc nâng cao về mọi mặt đặc biệt là việc sử dụng pháp luật vào
quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội tại cơ sở phần nào đáp ứng đƣợc yêu cầu
trong thời kỳ mới hiện nay.
Hà Nội là Thủ đô của nƣớc ta, có địa bàn tự nhiên rộng lớn, cơ sự pha
trộn nhiều loại địa hình, tính chất đô thị xen lẫn nông thôn. Thực hiện chủ
trƣơng của Đảng, nhiều năm qua, đội ngũ công chức cấp xã ở Hà Nội đã và
đang đƣợc kiện toàn, nâng cao chất lƣợng. Chất lƣợng tuyển dụng, sử dụng,
đào tạo công chức cấp xã dần đƣợc nâng cao, góp phần to lớn trong những
thành tựu của quản lý hành chính nhà nƣớc ở các cơ sở và trên toàn Thành
phố. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành công vụ, công chức cấp xã gặp không
ít khó khăn, thậm chí còn có những sai phạm, vi phạm pháp luật, đạo đức
công vụ. Trong điều kiện xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, nền hành chính
hiệu lực, hiệu quả, phục vụ nhân dân, chính quyền địa phƣơng đƣợc kiện toàn
tổ chức theo hƣớng tăng cƣờng sự năng động của các cấp, nhất là cấp cơ sở,
thì vai trò của công chức cấp xã càng quan trọng, có ý nghĩa quyết định tới
hoạt động quản lý hành chính nhà nƣớc của chính quyền cấp xã. Bản thân các
cơ sở có vững mạnh thì bộ máy hành chính của Thành phố mới có thể vững
mạnh, đủ để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của Thành phố. Thực tiễn
này cho thấy, cũng nhƣ nhiều địa phƣơng khác, việc ĐTBD kiến thức pháp
luật cho công chức cấp xã ở Hà Nội là điều rất cần thiết. Khi ý thức pháp luật
của công chức đƣợc nâng cao, sẽ góp phần đảm bảo các trật tự trong quản lý
11. 3
hành chính nhà nƣớc, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc, tích cực
bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân.
Nhận thức rõ đƣợc nội dung này, nhiều năm qua, ngành Nội vụ và Tƣ
pháp Thành phố Hà Nội đã tích cực tham mƣu giúp Thành ủy, UBND Thành
phố tập trung đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ cho công chức
này. Thành ủy Hà Nội đã ban hành 02 chƣơng trình thành ủy có nghĩa hết sức
quan trọng đối với công tác giáo dục pháp luật cho công chức nói riêng và
toàn thể cán bộ, nhân dân toàn Thành phố nói chung. Đó là chƣơng trình số
08 - CTr/TU của Thành ủy Hà Nội ngày 18/10/2011 về việc Đẩy mạnh cải
cách hành chính, nâng cao trách nhiệm và chất lƣợng phục vụ của cán bộ,
công chức, viên chức giai đoạn 2011-2015; Chƣơng trình số 09 - CTr/TU của
Thành ủy Hà Nội ngày 18/10/2011 về việc đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2011-2015. Về
phía UBND thành phố Hà Nội cũng ban hành kế hoạch số 221/KH-UBND
ngày 19/12/2014 về phổ biến GDPL trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2015;
Quyết định số 6709/QĐ-UBND ngày 16/12/2014 của UBND thành phố Hà
Nội về việc phê duyệt chỉ tiêu kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức
cơ quan của Đảng, Ủy ban mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Chính trị - Xã hội;
cán bộ, công chức, viên chức nhà nƣớc; cán bộ, công chức xã, phƣờng, thị
trấn của thành phố Hà Nội năm 2015. Qua đào tạo, bồi dƣỡng giai đạn 2011-
2015, trình độ, năng lực, hiểu biết của cán bộ, công chức ở Thành phố Hà đã
đƣợc nâng lên rõ rệt, tăng cƣờng khả năng hoàn thành công việc và nâng cao
hiệu quả lao động, góp phần cải thiện và thay đổi hình ảnh về nền hành chính
ở Thành phố. Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc, sự hiểu biết pháp
luật, ý thức pháp luật của công chức, nhất là công chức cấp xã ở Hà Nội còn
nhiều hạn chế, dẫn tới những vi phạm pháp luật, thiếu sót, buông lỏng quản
lý, thậm chí còn có thái độ “vô cảm”, gây phiền hà, vòi vĩnh ngƣời dân khi
12. 4
giải quyết thủ tục hành chính. Đây không gì khác là những biểu hiện của sự
thiếu văn hóa, mà dƣới góc độ luật học, có nguyên nhân từ sự khiếm khuyết
trong ý thức pháp luật của công chức. Do đó, giáo dục pháp luật cho công
chức cấp xã ở Hà Nội hiện nay là vấn đề cần đƣợc nhìn nhận một cách thấu
đáo.
Ở khía cạnh khác, nội dung pháp luật của nƣớc ta những năm qua đã có
nhiều đổi mới, đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi khác cho hoạt động giáo dục
pháp luật. Trƣớc những yêu cầu mới của đất nƣớc, sự nghiệp xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc và sự ra đời của những văn bản luật quan trọng, liên quan mật
thiết đến đời sống nhân dân nhƣ: Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam 2013, Luật Đất đai 2013, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, Luật Hộ
tịch 2014, Luật Bảo hiểm y tế 2008, sửa đổi năm 2014, Luật Bảo hiểm xã hội
2014, Luật Căn cƣớc công dân 2014... và những văn bản Luật khác sẽ đƣợc
sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới để phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Đặc
biệt là các quy định về quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Những vấn đề này đã đặt ra cho công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ,
công chức nói chung và công chức cấp xã nói riêng với nhiều nhiệm vụ mới,
ở một tầm cao hơn, đòi hỏi tƣ duy về công tác giáo dục pháp luật mới hơn,
toàn diện hơn, thiết thực và khoa học hơn.
Với những lý do trình bày ở trên tôi đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài
"Giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã - Từ thực tiễn thành phố Hà Nội"
làm Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp – Luật Hành chính. Từ đó,
việc nghiên cứu đề tài sẽ có thể góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật
nói chung và giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã nói riêng trên địa bàn
thành phố Hà Nội hiện nay cũng nhƣ tại các địa phƣơng khác ở nƣớc ta. Đây là
cơ sở để các chủ thể giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã có thể tham khảo
để đƣa ra đƣợc những nội dung, hình thức, kế hoạch giáo dục pháp luật phù
13. 5
hợp cho công chức cấp xã.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Khảo sát cho thấy có nhiều nghiên cứu liên quan tới vấn đề giáo dục
pháp luật cho công chức cấp xã ở những mức độ và phạm vi khác nhau. Có
thể kể tới các nghiên cứu tiêu biểu đƣợc công bố sau:
* Nhóm công trình nghiên cứu về giáo dục pháp luật, giáo dục pháp
luật cho cán bộ, công chức
- Trần Công Lý (2009), Giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ, công
chức ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Quản lý hành chính công, Hà Nội.
Luận án này đƣợc hoàn thành tại Học viện Hành chính (Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh), trong đó tác giả luận bàn về giáo dục ý
thức pháp luật chứ không phải giáo dục pháp luật. Mặc dù cũng bàn đến các
vấn đề về chủ thể, đối tƣợng, nội dung, phƣơng pháp, hình thức giáo dục ý
thức pháp luật gắn với đối tƣợng cán bộ, công chức; song về thực chất chúng
đều dựa trên nền của giáo dục pháp luật.
- Nguyễn Quốc Sửu (2011), Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức
hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Trong cuốn sách, tác giả
tập trung phân tích tƣơng đối toàn diện, có hệ thống về giáo dục pháp luật cho
cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa cả về lý luận và thực tiễn; làm rõ khái niệm mục đích, mục
tiêu của giáo dục pháp luật; đƣa ra các tiêu chí để xác định, phân loại chủ thể,
đối tƣợng, nội dung, phƣơng pháp và hình thức giáo dục pháp luật cho cán bộ,
công chức hành chính; chỉ ra những nét đặc thù về chủ thể, đối tƣợng, nội
dung, phƣơng pháp và hình thức giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức
hành chính, làm sáng tỏ yêu cầu khách quan của việc nâng cao chất lƣợng,
hiệu quả giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính, từ đó, đề xuất
14. 6
và luận chứng tính khả thi của các giải pháp nâng cao chất lƣợng giáo dục
pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vấn đề giáo dục pháp luật gắn với một đối tƣợng cụ thể và ở một địa
bàn nhất định cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều luận văn thạc sĩ luật học.
Có thể điểm qua một số luận văn đƣợc bảo vệ trong thời gian gần đây:
- Bùi Thị Diễm Trang (2010), Hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật
đối với đoàn viên, thanh niên trên địa bàn thành phố Hà Nội trong tiến trình
hội nhập phát triển của đất nước, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội. Trong luận văn này, tác giả đã tập trung làm sáng tỏ về
mặt lý luận các khái niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật và hoạt động phổ
biến, giáo dục pháp luật; phân tích, đánh giá đặc điểm và thực trạng hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật cho đoàn viên thanh niên trên địa bàn thành phố
Hà Nội; đề xuất những giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật cho đoàn viên thanh niên trên địa bàn thành phố
Hà Nội, góp phần thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị tƣ tƣởng cho thế hệ
trẻ trƣớc những yêu cầu phát triển mới của đất nƣớc.
- Nguyễn Thanh Tùng (2011), Giáo dục pháp luật cho đồng bào công
giáo ở tỉnh Đồng Nai hiện nay, Luật văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội. Tác giả
tập trung phân tích một số vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật cho đồng bào
công giáo ở tỉnh Đồng Nai, đánh giá thực trạng công tác giáo dục pháp luật
cho đồng bào công giáo ở tỉnh Đồng Nai và nguyên nhân của thực trạng đó;
trên cơ sở đó, đề xuất phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm tăng cƣờng công tác
giáo dục pháp luật cho đồng bào công giáo ở tỉnh Đồng Nai hiện nay.
Ngoài ra, có thể kể thêm một số công trình luận văn thạc sĩ luật học,
nhƣ: Nguyễn Ngọc Hoàng (2000), Đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo
trung học chính trị ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội;
15. 7
Trần Văn Trầm (2002), Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa
bàn tỉnh Bình Định - thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà
Nội; Nguyễn Thị Phƣơng (2008), Giáo dục pháp luật cho nông dân tỉnh Bến
Tre, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội... Các luận văn kể trên ở những mức
độ khác nhau đã tập trung nghiên cứu về mục đích, mục tiêu, chủ thể, đối
tƣợng, nội dung, phƣơng pháp, hình thức giáo dục pháp luật cho các đối
tƣợng cụ thể; đánh giá thực trạng, chỉ ra những kết quả đạt đƣợc cũng nhƣ các
hạn chế của công tác giáo dục pháp luật cho các đối tƣợng; phân tích những
yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động giáo dục pháp luật; từ đó, đề xuất các giải
pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho các đối tƣợng.
Những công trình nghiên cứu trên đều có giá trị tham khảo đối với tác
giả luận văn ở chừng mực các nội dung có liên quan đến đề tài luận văn
* Nhóm công trình nghiên cứu về cán bộ, công chức cấp xã, giáo dục
công chức cấp xã
Bao gồm các công trình nghiên cứu đề cập theo từng vấn đề cụ thể liên
quan đến cán bộ, công chức cấp xã trên các khía cạnh nhƣ tiêu chuẩn đối với
cán bộ, công chức cấp xã; về bầu cử và thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân (UBND) cấp xã; về giáo dục; chế độ, chính sách... đó là: Đề tài khoa học
cấp Bộ năm 2001 nghiên cứu về “Đổi mới chính sách đối với cán bộ chính
quyền cơ sở đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính” của Bộ Nội vụ; Dự án
năm 2004 về “Điều tra thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp nâng
cao chất lượng cán bộ Hội đồng nhân dân các cấp và cán bộ 4 chuyên trách
cơ sở” do Bộ Nội vụ chủ trì, đã đánh giá thực trạng chất lƣợng cán bộ Hội
đồng nhân dân (HĐND) và cán bộ, công chức cơ sở, chỉ ra những nguyên
nhân và từ đó đề xuất giải pháp nâng cao chất lƣợng, năng lực công tác của
cán bộ HĐND và cán bộ, công chức cơ sở. Sách chuyên khảo về “Hệ thống
chính trị cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay” do GS.TS. Hoàng Chí Bảo (chủ
biên), nghiên cứu hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn từ quan điểm lý luận
16. 8
đến lịch sử và thực tiễn; đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của chính
quyền cơ sở và chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở ở nông thôn; đƣa ra
một số phƣơng hƣớng và giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục kiện toàn chính
quyền và cán bộ ở cơ sở nƣớc ta hiện nay. TS. Vũ Đức Đán với bài “Vấn đề
giáo dục cán bộ chính quyền cơ sở” đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nƣớc, số
5, 2002; TS. Nguyễn Hữu Đức với bài “Từ đặc điểm, tính chất cán bộ, công
chức cơ sở để xây dựng chế độ, chính sách phù hợp” đăng trên Tạp chí Tổ
chức nhà nƣớc, số 8, 2003; TS. Lê Chi Mai với bài “Giáo dục cán bộ chính
quyền cơ sở - vấn đề và giải pháp” đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 20, 2002;
TS. Thang Văn Phúc với bài "Những định hướng đổi mới công tác giáo dục
cán bộ, công chức nhà nước theo yêu cầu cải cách hành chính tổng thể
(2001- 2010)" đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nƣớc, số 9, 2003.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận và pháp lý của hoạt động giáo
dục pháp luật cho cán bộ, công chức, Luận văn nghiên cứu thực trạng hoạt
động giáo dục pháp luật (GDPL) cho công chức cấp xã ở Hà Nội hiện nay, để
đề xuất giải pháp cụ thể phục vụ cho công tác GDPL cho công chức cấp xã ở
Hà Nội những năm tới, và có giá trị tham khảo cho các địa phƣơng khác.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về GDPL cho công chức cấp xã.
- Phân tích để làm rõ về thực trạng hoạt động GDPL kiến thức pháp
luật cho công chức cấp xã ở Hà Nội để thấy đƣợc những điểm tích cực cần
phát huy và những hạn chế cần phải khắc phục.
- Đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lƣợng hoạt động GDPL cho
công chức xã trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
17. 9
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hoạt động GDPL cho công chức cấp xã.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về hoạt động GDPL cho công chức cấp
xã trên địa bàn Thành phố từ năm 2011 đến nay.
Hoạt động GDPL cho công chức cấp xã theo Luật Phổ biến, giáo dục
pháp luật, theo pháp luật về đào tạo, bồi dƣỡng công chức hiện hành.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên phƣơng pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; ngoài ra còn sử
dụng một số phƣơng pháp cụ thể nhƣ phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, quan sát.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần hệ thống hóa các quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh, của Đảng và nhà nƣớc về GDPL cho công chức cấp xã.
- Đánh giá thực trạng về kiến thức pháp luật của công chức cấp xã trên
địa bàn Thành phố Hà Nội, thấy đƣợc những ƣu điểm, hạn chế của công tác
ĐTBD kiến thức pháp luật và đƣa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất
lƣợng ĐTBD kiến thức pháp luật của công chức cấp xã trên địa bàn Thành
phố đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nƣớc
trong việc quản lý nhà nƣớc đối với công chức cấp xã, các cơ sở đào tạo có
chức năng ĐTBD công chức cấp xã và cho tất cả những cá nhân, tổ chức quan
tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
18. 10
Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã.
Chương 2: Giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã ở thành phố Hà
Nội hiện nay.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lƣợng giáo dục pháp
luật cho công chức cấp xã hiện nay.
19. 11
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1. CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm công chức cấp xã
1.1.1.1. Khái niệm công chức cấp xã
Cấp xã là một cấp hành chính ở nƣớc ta. Theo Hiến pháp năm 2013, các
đơn vị hành chính của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đƣợc phân
định nhƣ sau: Nƣớc chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng; Tỉnh chia
thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc Trung ƣơng
chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tƣơng đƣơng;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành
phƣờng và xã; quận chia thành phƣờng (Điều 110, Hiến pháp 2013). Nhƣ vậy,
cấp xã bao gồm xã, phƣờng, thị trấn.
Chính quyền ở cấp xã gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
đƣợc tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt do luật định; tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến
pháp và pháp luật tại địa phƣơng; quyết định các vấn đề của địa phƣơng do luật
định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nƣớc cấp trên. Hội đồng nhân
dân cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở địa phƣơng, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phƣơng bầu ra,
chịu trách nhiệm trƣớc Nhân dân địa phƣơng và cơ quan nhà nƣớc cấp trên.
Uỷ ban nhân dân ở cấp xã do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ
quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nƣớc ở địa
phƣơng, chịu trách nhiệm trƣớc Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà
nƣớc cấp trên. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở
20. 12
địa phƣơng; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện
các nhiệm vụ do cơ quan nhà nƣớc cấp trên giao. (Điều 111, Hiến pháp 2013).
Để thực hiện thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cấp
xã, nhân sự sẽ đƣợc thiết lập ở Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, gồm
các cán bộ, công chức và nhân viên, ngƣời lao động khác.
Về công chức cấp xã, theo Điều 4 Luật CBCC thì công chức cấp xã là
công dân Việt Nam đƣợc tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp
vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hƣởng lƣơng từ ngân
sách nhà nƣớc. Họ khác với cán bộ cấp xã. Cán bộ cấp xã là công dân Việt
Nam, đƣợc bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thƣờng trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thƣ, Phó Bí thƣ Đảng ủy, ngƣời đứng đầu tổ
chức chính trị – xã hội.
Điều 61, khoản 3 Luật CBCC 2008 xác định những ngƣời là công chức
cấp xã, gồm: Trƣởng Công an, Chỉ huy quân sự, Văn phòng thống kê, Địa chính
xây dựng - Đô thị và Môi trƣờng (đối với phƣờng, thị trấn) hoặc Địa chính -
Nông nghiệp - Đô thị và Môi trƣờng (đối với Kinh tế - Tài chính - Kế toán, Tƣ
pháp - Hộ tịch, Văn hóa - Xã hội). Công chức cấp xã do cấp huyện quản lý.
Điều 3 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 về
chức danh, số lƣợng, một số chế độ, chính sách đối với CBCC ở xã, phƣờng,
thị trấn chỉ rõ: công chức cấp xã gồm 7 chức danh: Trƣởng Công an; Chỉ huy
trƣởng Quân sự; Văn phòng – thống kê; Địa chính – xây dựng – đô thị và môi
trƣờng (đối với phƣờng, thị trấn) hoặc địa chính – nông nghiệp – xây dựng và
môi trƣờng (đối với xã); Tài chính – kế toán; Tƣ pháp – hộ tịch; Văn hóa – xã
hội. Số lƣợng công chức cấp xã đƣợc bố trí theo loại đơn vị hành chính cấp
xã; cụ thể nhƣ sau: Cấp xã loại 1: không quá 25 ngƣời; Cấp xã loại 2: không
quá 23 ngƣời; Cấp xã loại 3: không quá 21 ngƣời.
Nhƣ vậy, ở chính quyền cấp xã, công chức chỉ có đối với các chức danh
21. 13
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, tức chỉ có công chức hành chính. Đây là
điểm khác biệt trong tổ chức cán bộ công chức giữa cấp xã với các cấp khác
trong bộ máy nhà nƣớc, hệ thống chính trị ở nƣớc ta.
Từ những nội dung phân tích trên có thế đƣa ra khái niệm công chức
cấp xã nhƣ sau: Công chức cấp xã là công dân Việt Nam trong biên chế, được
hưởng lương từ ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật, làm việc tại
UBND cấp xã, được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn theo quy định
của pháp luật gắn với từng vị trí việc làm được xác định cụ thể về số lượng,
tên gọi, chức năng hoạt động nhằm thực hiện nhiệm vụ của tổ chức bộ máy
chính quyền cấp xã.
1.1.1.2. Đặc điểm công chức cấp xã
Thứ nhất, công chức cấp xã đƣợc tổ chức thành một để thực hiện nhiệm
vụ của chính quyền cấp xã. công chức cấp xã gồm các cá nhân đáp ứng các
yêu cầu về học vấn, chuyên môn, kỹ năng, phẩm chất đạo đức, chính trị, sức
khỏe; có mối quan hệ với nhau trong công tác để thực hiện các nhiệm vụ quản
lý nhà nƣớc trên các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân. Do
vậy, việc đánh giá đối với công chức cấp xã cần chú ý tới tính “ ”, tức là sự
đồng bộ trong tổ chức và hoạt động của công chức cấp xã.
Thứ hai, hoạt động của công chức cấp xã là hoạt động chấp hành, đƣợc sử
dụng quyền lực nhà nƣớc, góp phần làm cho hoạt động QLNN nói chung có hiệu
lực, hiệu quả. Đây là điểm khác biệt giữa công chức cấp xã với cán bộ trong các
cơ quan dân cử (HĐND), đoàn thể chính trị - xã hội) ở cấp xã.
Thứ ba, công chức cấp xã hoạt động liên tục, ổn định, thƣờng xuyên,
giải quyết các công việc hàng ngày ở cấp xã; là ngƣời trực tiếp làm việc với
dân, sát dân nhất. Vì vậy, công chức xã có một vị trí, vai trò quan trọng mang
tính đặc thù. Do đó, cần có những tiêu chí, phƣơng pháp đánh giá riêng đối
với công chức cấp xã.
22. 14
Thứ tư, do tính chất công việc, nhu cầu sử dụng, và khả năng đáp
ứng mà hiện nay so với công chức chính quyền Trung ƣơng và cấp chính
quyền địa phƣơng khác thì tiêu chuẩn đối với công chức cấp xã có tiêu
chuẩn thấp hơn, và thực tế hiện nay, này còn nhiều hạn chế về trình độ
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, chƣa đạt chuẩn, nhất là đối với cấp xã ở
vùng nông thôn, vùng núi, dân tộc thiểu số. Vì vậy trong quản lý hành
chính nhà nƣớc, muốn nâng cao chất lƣợng công chức cấp xã cần thay đổi
phƣơng pháp quản lý, thay đổi cách nhìn nhận, xây dựng các tiêu chí và
phƣơng pháp đánh giá đúng đối với này.
Thứ năm, công chức cấp xã chủ yếu đƣợc tuyển dụng từ những ngƣời
của địa phƣơng, do đó, một mặt họ am hiểu văn hóa, phong tục địa phƣơng
nên họ dễ gần dân và dễ nắm bắt đƣợc mọi thay đổi, biến động trong quần
chúng; mặt khác, công chức cấp xã thƣờng có xu hƣớng cục bộ địa phƣơng,
sẵn sàng bảo vệ lợi ích nhóm mà mình đại diện, nhƣ lợi ích dòng họ, lợi ích
tộc ngƣời, thôn cƣ trú... vì vậy, việc chia rẽ đoàn kết nội bộ ở cơ sở theo
nhóm quyền lực, hay hiện tƣợng bè phái trong công chức ở mỗi xã thƣờng
xảy ra ở nhiều địa phƣơng; tâm lý “một ngƣời làm quan cả họ đƣợc nhờ” hay
hiện tƣợng mà dƣ luận xã hội vẫn đề cập “ngƣời quan họ làm quan theo họ”
vẫn diễn ra phổ biến.
Thứ sáu, khác với công chức nhà nƣớc ở các cấp khác, công chức cấp
xã đều hội tụ đủ những đặc điểm, đặc trƣng cho các vai trò khác nhau mà họ
phải thể hiện nhƣ: Công dân, ngƣời đồng hƣơng, bà con, họ hàng, ngƣời đại
diện cho cộng đồng, cho Nhà nƣớc…Các vai trò này của công chức cấp xã có
tính thống nhất và mâu thuẫn, trong mỗi điều kiện, hoàn cảnh riêng, chi phối
các hoạt động công vụ của họ, nhất là trong việc giải quyết những vấn đề có
liên quan đến mối quan hệ giữa các lợi ích cá nhân – cộng đồng – nhà nƣớc.
Tất cả các đặc điểm trên của công chức cấp xã có ảnh hƣởng và chi
23. 15
phối đến năng lực thực thi công vụ, đến chất lƣợng và hiệu quả công việc.
Vì vậy, khi thực hiện nâng cao chất lƣợng công chức cấp xã, cần quan tâm
đến những đặc điểm này.
1.1.2.Vai trò của công chức cấp xã
Có thể nói, công chức nói chung, công chức chính quyền cấp xã nói
riêng đóng vai trò quyết định đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động QLNN của bất
kỳ quốc gia nào. Hoạt động QLHC là hoạt động chấp hành và điều hành tác
động sâu rộng tới mọi lĩnh vực, mọi quan hệ xã hội, hoạt động này là biện
pháp chủ yếu, quan trọng nhất để thực thi pháp luật, đảm bảo cho pháp luật
của Nhà nƣớc đƣợc thực hiện trên thực tế. Hoạt động của mỗi công chức
chính quyền cấp xã và công chức chính quyền cấp xã liên quan trực tiếp đến
chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của mỗi cơ quan QLHC, ảnh hƣởng đến hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của cả bộ máy QLHCNN.
Từ những phân tích trên có thể thấy vai trò của công chức chính quyền
cấp xã thể hiện cụ thể dƣới góc độ sau:
Thứ nhất, công chức cấp xã là lực lƣợng trực tiếp thực hiện các hoạt
động quản lý hành chính nhà nƣớc và cung ứng các dịch vụ công cho xã hội,
công dân. Do vậy, họ là ngƣời có vai trò quyết định trong việc đƣa pháp luật,
chính sách từ trên giấy vào cuộc sống.
Thứ hai, công chức cấp xã là cầu nối trong mối quan hệ giữa nhân dân
địa phƣơng với cơ quan nhà nƣớc ở địa phƣơng. Mọi nhu cầu, tâm tƣ nguyện
vọng của nhân dân địa phƣơng ở cơ sở đƣợc phản ánh thông qua những yêu
cầu, đề xuất, kiến nghị và quá trình thực hiện quyền trong lĩnh vực hành
chính chính trị của họ với công chức cấp xã. Công chức cấp xã ngoài việc
cung ứng dịch vụ công, giải quyết các yêu cầu đề xuất của công dân trong
phạm vi thẩm quyền còn tiếp nhận và phản ánh các kiến nghị, yêu cầu, đề
xuất của công dân về các vấn đề vƣợt quá thẩm quyền với cơ quan nhà nƣớc
24. 16
cấp trên, hƣớng dẫn nhân dân địa phƣơng thực hiện các quyền và nghĩa vụ
hành chính của mình đầy đủ và thuận tiện.
Thứ ba, với sự am hiểu văn hóa, thông thạo phong tục tập quán địa
phƣơng công chức cấp xã giúp chính quyền cấp xã bảo tồn và duy trì đƣợc
những giá trị văn hóa tốt đẹp của địa phƣơng, đồng thời sự nhạy bén với cái
mới, sáng tạo, linh hoạt của công chức cấp xã cũng giúp chính quyền cấp xã
loại bỏ đƣợc hủ tục lạc hậu, yếu tố cục bộ địa phƣơng trong quá trình
QLHCNN, điều mà công chức chính quyền cấp huyện và cấp tỉnh và trung
ƣơng khó nắm bắt và thực hiện hiệu quả.
Nhƣ vậy, công chức cấp xã góp phần rất quan trọng vào quá trình xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Công chức cấp xã cung ứng dịch
vụ công phục vụ nhu cầu đời sống nhân dân và xây dựng đất nƣớc. Công chức
cấp xã thông qua hoạt động QLHC là lực lƣợng quan trọng đảm bảo môi
trƣờng, điều kiện ổn định, thuận lợi cho công cuộc CNH, HĐH, cho sự nghiệp
xây dựng, phát triển toàn diện đất nƣớc ở cơ sở.
1.2. GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.2.1. Quan niệm về giáo dục pháp luật
1.2.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật
Kiến thức pháp luật đƣợc hiểu đơn giản là hiểu biết của con ngƣời về
pháp luật. Kiến thức pháp luật đƣợc chuyền tải qua nhiều hình thức, phƣơng
tiện, trong đó có hình thức giáo dục pháp luật. Ở mức độ hẹp, giáo dục pháp
luật là giáo dục về kiến thức pháp luật.
Giáo dục pháp luật là một trong những vấn đề lý luận cơ bản và có ý
nghĩa quyết định đối với nội dung của hàng loạt các khái niệm khác trong
lý luận giáo dục pháp luật và định hƣớng cho các hoạt động thực tiễn giáo
dục pháp luật.
Khái niệm giáo dục pháp luật đƣợc tiếp cận từ nhiều góc độ rộng, hẹp
25. 17
khác nhau tùy theo cơ sở xuất phát để nghiên cứu và vận dụng vào quá trình
giáo dục pháp luật cụ thể.
Thứ nhất, giáo dục pháp luật đƣợc coi là một bộ phận - một hệ thống
con của hệ thống giáo dục nói chung. Giáo dục pháp luật đƣợc khẳng định là
một bộ phận, một hoạt động có tính độc lập tƣơng đối và có mối quan hệ
tƣơng hỗ với các hệ thống con nhƣ kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức... tạo
nên một hệ thống các mối quan hệ xã hội tác động đến các cá nhân, làm hình
thành nên bản chất ngƣời - xã hội - lịch sử. Quan niệm này về giáo dục pháp
luật xuất phát từ nghĩa rộng nhất của thuật ngữ giáo dục, đồng nhất nó với quá
trình xã hội hóa cá nhân.
Quan niệm giáo dục pháp luật theo nghĩa rộng này có hai ý nghĩa quan
trọng sau đây: Một là, thấy đƣợc quá trình xã hội hóa cá nhân nói chung và
giáo dục pháp luật nói riêng chịu sự tác động, chi phối của nhiều yếu tố xã hội.
Hai là, không đồng nhất, không coi giáo dục pháp luật đã có trong giáo dục
chính trị, giáo dục đạo đức, do đó đã hạ thấp vai trò của giáo dục pháp luật.
Thứ hai, giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp là quá trình tác động (hoạt
động) có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch của nhà giáo dục (chủ thể giáo
dục pháp luật) để chuyển tải, truyền đạt những nội dung (thông tin, tri thức về
các bộ luật, đạo luật...), thông qua các phƣơng pháp giáo dục khoa học và
hình thức giáo dục phù hợp tới đối tƣợng tiếp nhận giáo dục (khách thể giáo
dục pháp luật) nhằm đạt đƣợc những mục tiêu, hiệu quả giáo dục nhất định.
Theo nghĩa hẹp nói trên, có thể định nghĩa: Giáo dục pháp luật là quá
trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, theo nội dung và thông
qua những phương pháp, hình thức nhất định từ phía chủ thể giáo dục đến
khách thể giáo dục nhằm làm hình thành và phát triển ở họ hệ thống tri thức
pháp luật, trình độ hiểu biết (nhận thức) về pháp luật, tình cảm, thói quen và
hành vi xử sự theo các chuẩn mực pháp luật.
26. 18
Nội dung định nghĩa giáo dục pháp luật nêu trên đề cập đến những khía
cạnh sau:
- Hoạt động giáo dục pháp luật là hoạt động có mục đích (chỉ bao hàm
những tác động mang tính chất tự giác) của chủ thể giáo dục pháp luật lên đối
tƣợng (cá nhân, tổ chức) cần và đƣợc giáo dục pháp luật với các nội dung,
nhiệm vụ cụ thể khác nhau.
- Quá trình giáo dục pháp luật luôn luôn là hoạt động có tổ chức, có kế
hoạch, tuân theo nội dung và chƣơng trình nhất định, dựa trên các phƣơng
pháp giáo dục khoa học, hiện đại và các hình thức giáo dục phù hợp nhằm
hiện thực hóa tối ƣu mục đích giáo dục pháp luật đã định.
- Suy cho cùng, quá trình giáo dục pháp luật phải đạt đƣợc hiệu quả đặt
ra. Hiệu quả của hoạt động giáo dục pháp luật phải đƣợc nhìn nhận, đánh giá
qua những mục tiêu đạt đƣợc từ quá trình này. Xuất phát từ định nghĩa giáo
dục pháp luật và vai trò của giáo dục pháp luật có thể khẳng định, giáo dục
pháp luật cho công chức cấp xã là hoạt động có định hƣớng, có tổ chức, thông
qua các phƣơng pháp đặc thù và bằng nhiều hình thức khác nhau, hƣớng tới
cung cấp, trang bị cho công chức cấp xã những tri thức, hiểu biết về các vấn
đề pháp luật nói chung, về các vấn đề pháp luật cụ thể liên quan đến hoạt
động công vụ nói riêng, nhằm làm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm
pháp luật và hành vi phù hợp với những yêu cầu, đòi hỏi của hệ thống pháp
luật hiện hành.
Vấn đề đặt ra là, có mối tƣơng quan nhƣ thế nào về các khái niệm
“Giáo dục pháp luật” với “Phổ biến pháp luật”, “Tuyên truyền pháp luật”. Về
mặt thuật ngữ, chúng là những thuật ngữ khác nhau nên khác nhau về nghĩa.
Sự khác nhau phụ thuộc vào cách hiểu thuật ngữ “Giáo dục” và sự tƣơng quan
giữa nó với “Tuyên truyền”, “Phổ biến”.
27. 19
Ở nƣớc ta, chƣa có định nghĩa pháp lý nào về ba thuật ngữ Giáo dục
pháp luật, Tuyên truyền pháp luật và Phổ biến pháp luật. Kể cả Luật Phổ biến,
giáo dục pháp luật 2012 cũng không đƣa ra định nghĩa pháp lý về giáo dục
pháp luật, phổ biến pháp luật. Thay vào đó, Luật này liệt kê các hình thức của
phổ biến, giáo dục pháp luật.
Còn theo cách hiểu hẹp hơn về thuật ngữ giáo dục, thì “Giáo dục”
thƣờng gắn liền với yếu tố trƣờng lớp, chƣơng trình, các nghĩa vụ và sự bắt
buộc. Còn Tuyên truyền pháp luật, Phổ biến pháp luật không nhấn mạnh
về yếu tố trƣờng lớp, nghĩa vụ của đối tƣợng đƣợc tuyên truyền, phổ biến, mà
nhấn mạnh tới yếu tố phƣơng thức chuyển tải một nội dung pháp luật, đó là
các hình thức: 1. Họp báo, thông cáo báo chí. 2. Phổ biến pháp luật trực tiếp;
tƣ vấn, hƣớng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật. 3.
Thông qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, internet, pa-
nô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải trên Công báo; đăng tải thông tin pháp
luật trên trang thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ
chức, khu dân cƣ…
Trong Luận văn này, Giáo dục pháp luật đƣợc hiểu theo nghĩa rộng,
bao hàm cả tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Theo đó, Tuyên truyền pháp
luật, Phổ biến pháp luật đƣợc hiểu là những dạng cụ thể, khác nhau của
Giáo dục pháp luật. Chúng đều là quá trình tác động có mục đích, có tổ
chức, có kế hoạch, theo nội dung và thông qua những phương pháp, hình thức
nhất định từ phía chủ thể đến khách thể giáo dục để chuyển tải thông tin, tri
thức pháp luật, pháp luật, khi đó mới đạt đƣợc mục đích của giáo dục là: “làm
hình thành và phát triển ở họ hệ thống tri thức pháp luật, trình độ hiểu biết
(nhận thức) về pháp luật, tình cảm, thói quen và hành vi xử sự theo các chuẩn
mực pháp luật”
Quan niệm về giáo dục pháp luật trên đây là cơ sở để hình thành quan
28. 20
niệm giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã.
1.2.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật
Giáo dục pháp luật bao gồm các mục đích cơ bản sau đây:
- Hình thành, làm sâu sắc và từng bƣớc mở rộng hệ thống tri thức pháp
luật của công dân (mục đích nhận thức). Đây là mục đích đầu tiên của giáo
dục pháp luật. Điều này xuất phát từ mối quan hệ giữa nhận thức với thái độ
và hành vi của chủ thể. Chính sự am hiểu pháp luật, sự nhận thức đúng đắn về
giá trị xã hội và vai trò điều chỉnh của pháp luật sẽ là điều kiện cần thiết để
hình thành tình cảm và lòng tin vào pháp luật ở mỗi công dân. Hơn nữa, tri
thức pháp luật còn giúp cho con ngƣời tổ chức một cách có ý thức hoạt động
của mình và tự đánh giá kiểm tra, đối chiếu hành vi với các chuẩn mực pháp
luật. Mục đích này đặc biệt quan trọng trong điều kiện nhƣ nƣớc ta hiện nay,
khi mà hiểu biết pháp luật của công dân còn thấp, còn chịu ảnh hƣởng tƣ
tƣởng và nếp sống của ngƣời sản xuất nhỏ, nhận thức về quyền và nghĩa vụ
của công dân chƣa đầy đủ.
- Hình thành tình cảm và lòng tin đối với pháp luật (mục đích cảm xúc
hay thái độ). Mục đích này rất quan trọng, vì nếu có tri thức pháp luật mà
không có tình cảm tôn trọng và lòng tin vào pháp luật cũng nhƣ các cơ quan
bảo vệ pháp luật thì con ngƣời rất dễ hành động chệch khỏi các chuẩn mực
pháp luật vì lợi ích riêng tƣ.
- Hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự theo pháp luật (mục
đích hành vi). Động cơ và hành vi hợp pháp là kết quả cuối cùng của cả quá
trình nhận thức pháp luật, đấu tranh nội tâm dƣới tác động của những yếu tố
tâm lý, tình cảm, lòng tin... Thói quen xử sự hợp pháp đƣợc hiểu là thói quen
tuân thủ các quy phạm hƣớng dẫn của pháp luật, thói quen thực hiện đúng
đắn, tận tâm các quyền và nghĩa vụ pháp lý, thói quen sử dụng và áp dụng các
tri thức pháp luật và các quy phạm pháp luật cụ thể để bảo vệ các quyền và
29. 21
nghĩa vụ hợp pháp của mình, của ngƣời khác, của Nhà nƣớc và của xã hội.
Việc phân chia các mục đích giáo dục pháp luật trên đây chỉ mang tính tƣơng
đối, giữa chúng có mối quan hệ đan xem qua lại trong mối liên hệ hữu cơ
thống nhất. Do đó, khi tiến hành giáo dục pháp luật đều phải hƣớng hoạt động
vào cả ba mục đích của giáo dục pháp luật.
1.2.1.3. Nội dung và hình thức của giáo dục pháp luật
Nội dung giáo dục pháp luật
Nội dung giáo dục pháp luật là một thành tố quan trọng của quá trình
giáo dục pháp luật, nó đƣợc xác định trên cơ sở mục đích, nhiệm vụ và
đồng thời xuất phát từ nhu cầu, đặc điểm của đối tƣợng giáo dục pháp luật.
Xác định đúng nội dung của giáo dục pháp luật sẽ bảo đảm cho giáo dục
pháp luật có chất lƣợng, đạt đƣợc các mục đích của giáo dục pháp luật, tạo
ra sự chuyển biến tích cực về nhận thức, thái độ và hành vi của các đối
tƣợng đƣợc giáo dục. Phạm vi của nội dung giáo dục pháp luật theo quan
điểm chung hiện nay bao gồm:
- Các thông tin về pháp luật gồm cả kiến thức cơ bản và văn bản pháp
luật thực định;
- Các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về tình hình vi phạm pháp
luật và tội phạm, về việc điều tra xử lý các vi phạm pháp luật;
- Các thông tin về kết quả nghiên cứu, điều tra xã hội học về thực hiện
áp dụng pháp luật đối với đời sống kinh tế xã hội, đối với từng đối tƣợng, các
tầng lớp dân cƣ. Đồng thời phản ánh những nhu cầu, nguyện vọng, ý kiến, đề
xuất của nhân dân, của các chuyên gia pháp luật trong việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật;
- Các thông tin hƣớng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân (nhƣ
các quyền, các nghĩa vụ pháp luật, các quy trình thủ tục để bảo vệ các quyền
hợp pháp).
30. 22
Hình thức giáo dục pháp luật
Qua thực tiễn cũng nhƣ qua nghiên cứu lý luận về nguyên tắc, nội
dung, chủ thể, đối tƣợng giáo dục pháp luật, hình thức giáo dục pháp luật
đƣợc chia làm hai loại:
- Các hình thức giáo dục pháp luật mang tính phổ biến, truyền thống
của giáo dục chính trị tƣ tƣởng nhƣ: Phổ biến, nói chuyện pháp luật tại các cơ
quan nhà nƣớc, các tổ chức quần chúng, các địa bàn dân cƣ; các hội nghị, hội
thảo pháp luật; các câu lạc bộ pháp luật; các đội thông tin cổ động pháp luật;
các cuộc thi tìm hiểu pháp luật; tuyên truyền qua báo chí và các phƣơng tiện
thông tin đại chúng khác; các hình thức văn học nghệ thuật; dạy và học pháp
luật trong các nhà trƣờng;
- Các hình thức giáo dục pháp luật đặc thù nhƣ: Các hoạt động định
hƣớng giáo dục pháp luật trong các hoạt động lập pháp, hành pháp và tƣ pháp
của các cơ quan nhà nƣớc (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án và Viện kiểm sát);
giáo dục pháp luật qua các hoạt động của các tổ chức xã hội, tổ chức nghề
nghiệp, tổ chức quần chúng (tổ hòa giải, tƣ vấn pháp lý...).
1.2.1.4. Chủ thể, khách thể, đối tượng giáo dục pháp luật
Chủ thể giáo dục pháp luật
Trong quan niệm của giáo dục học thì chủ thể giáo dục là thầy cô giáo
và tất cả những ngƣời làm công tác giáo dục khác. Trong đổi mới giáo dục
hiện nay, ngƣời học đƣợc coi là chủ thể, là trung tâm của quá trình giáo dục.
Tuy nhiên, xét từ góc độ chủ thể truyền giảng kiến thức thì giáo viên và các
chủ thể khác đóng vai trò chủ thể giáo dục.
Từ cách tiếp cận này có thể hiểu: Chủ thể giáo dục pháp luật là tất cả
những ngƣời mà theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội phải tham
gia vào việc thực hiện các mục đích giáo dục pháp luật. Các nghiên cứu lý
luận và thực tiễn đã xác định và thừa nhận có hai loại chủ thể giáo dục pháp
31. 23
luật: chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp với vị trí, nhiệm
vụ, yêu cầu trình độ và kỹ năng giáo dục pháp luật khác nhau. Chủ thể chuyên
nghiệp giáo dục pháp luật là những ngƣời mà chức năng, nhiệm vụ chủ yếu,
trực tiếp của họ là thực hiện các mục đích, nội dung giáo dục pháp luật (giảng
viên luật, các báo cáo viên, tuyên truyền viên về pháp luật...). Chủ thể không
chuyên nghiệp giáo dục pháp luật là những ngƣời mà chức năng chính không
phải là giáo dục pháp luật, nhƣng một trong các nhiệm vụ của họ là thông qua
hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện mục đích giáo dục pháp luật
(đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, cán bộ, công chức thuộc các
cơ quan hành pháp, tƣ pháp...).
Khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật
Quá trình giáo dục pháp luật thực chất là quan hệ xã hội giữa một bên
là ngƣời giáo dục (chủ thể) và một bên là ngƣời đƣợc giáo dục (khách thể hay
đối tƣợng). Mối quan hệ này có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các bên
tham gia trong mối quan hệ. Song chiều tác động chủ yếu vẫn là sự tác động,
chi phối của ngƣời giáo dục (chủ thể). Sự tác động giáo dục là những hoạt
động có ý thức, có định hƣớng, có kế hoạch, nhằm đạt tới những mục tiêu,
mục đích nhất định (bao gồm mục đích nhận thức, mục đích cảm xúc, mục
đích hành vi, thói quen xử sự theo pháp luật). Nói cách khác, chủ thể giáo dục
pháp luật tác động lên khách thể (đối tƣợng) giáo dục với những mong muốn
cụ thể là xây dựng đƣợc ý thức và những hành vi hợp pháp cho khách thể (đối
tƣợng) giáo dục pháp luật. Nhƣ vậy, khách thể (đối tƣợng) giáo dục pháp luật
ở đây không chỉ là cá nhân, những nhóm cộng đồng xã hội mà còn bào hàm
cả những yếu tố bên trong của họ nhƣ nhận thức, tình cảm, cảm xúc, hành vi
cụ thể của họ phù hợp với pháp luật. Từ phân tích trên cho thấy, khách thể
của giáo dục pháp luật cũng giống nhƣ khách thể của giáo dục nói chung, nó
mang tính đồng nhất với đối tƣợng giáo dục pháp luật. Vậy khách thể của
32. 24
giáo dục pháp luật đƣợc hiểu là những cá nhân, nhóm cộng đồng xã hội cùng
với ý thức và hành vi pháp luật của họ.
1.2.1.5. Mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục chính trị
tư tưởng, giáo dục đạo đức và các dạng giáo dục khác
Giáo dục pháp luật tuy có những nét đặc thù riêng, nhƣng phải đƣợc đặt
trong mối quan hệ chung đƣợc coi nhƣ một dạng giáo dục trong hệ thống giáo
dục. Giáo dục pháp luật khi đặt trong tổng thể của hệ thống giáo dục thì giáo
dục pháp luật có mối quan hệ khá mật thiết với các dạng giáo dục khác nhƣ:
giáo dục chính trị, đạo đức, lao động, kinh tế... Ngoài những dạng giáo dục có
mối quan hệ mật thiết với giáo dục pháp luật nhƣ đã nêu trên, còn nhiều dạng
giáo dục khác. Trong điều kiện đổi mới hiện nay, việc nghiên cứu mối quan
hệ tổ hợp, đan xen giữa các dạng giáo dục có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp
bách. Việc giáo dục pháp luật chỉ có thể đạt đƣợc mục đích và hiệu quả trong
mối quan hệ thống nhất, tổ hợp của cả hệ thống các hình thức giáo dục. Tất cả
các dạng giáo dục phải đƣợc phối hợp và tiến hành thƣờng xuyên trong mối
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
1.2.2. Khái niệm giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã
Giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã nói chung ở nƣớc ta trong
giai đoạn hiện nay là một trong những yêu cầu khách quan và cấp thiết, là
hoạt động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần làm hình thành ở họ ý
thức tôn trọng pháp luật, biết tuân thủ, chấp hành, sử dụng và áp dụng pháp
luật một cách chủ động, tích cực và đúng đắn nhằm phát huy vai trò, hiệu lực
của pháp luật trong công cuộc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Để có thể đƣa ra một định nghĩa giáo dục pháp luật cho công
chức cấp xã cần đề cập đến các khía cạnh sau:
Thứ nhất, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã là một dạng hoạt
động đƣợc thực hiện thông qua sự tƣơng tác giữa chủ thể giáo dục và đối
33. 25
tƣợng giáo dục dƣới các hình thức chủ yếu là đào tạo pháp luật, tập huấn
chuyên đề pháp luật và bồi dƣỡng kiến thức pháp luật.
Đào tạo pháp luật là hình thức giáo dục pháp luật dài hạn, do các cơ sở
giáo dục pháp luật (Trƣờng Đại học Luật, Khoa Luật) thực hiện, hƣớng tới
cung cấp, trang bị cho đối tƣợng ngƣời học hệ thống tri thức, hiểu biết pháp
luật về lý luận nhà nƣớc và pháp luật, luật Hiến pháp và các ngành luật cơ bản
trong hệ thống pháp luật quốc gia, luật quốc tế, các kỹ năng thực hành, vận
dụng pháp luật trong thực tiễn và các kiến thức khoa học bổ trợ khác. Các loại
hình đào tạo pháp luật chủ yếu là hệ chính quy tập trung (4 năm), hệ vừa làm
vừa học (4,5 năm - 5 năm), hệ đào tạo từ xa (5 năm). Kết quả của đào tạo
pháp luật là ngƣời học nhận bằng cử nhân luật - nền tảng để có thể học lên
bậc cao hơn (thạc sĩ luật, tiến sĩ luật). Những ngƣời có bằng cử nhân luật có
thể trở thành cán bộ, công chức chuyên ngành luật, làm việc trong các cơ
quan quản lý hành chính nhà nƣớc.
Tập huấn chuyên đề pháp luật là hình thức giáo dục pháp luật ngắn hạn,
do các chủ thể giáo dục pháp luật khác nhau (Trƣờng Đại học Luật, Khoa
Luật, Sở Tƣ pháp, Hội Luật gia...) thực hiện, hƣớng tới cung cấp cho công
chức cấp xã những kiến thức pháp luật về những văn bản quy phạm pháp luật
hoặc văn bản quy phạm pháp luật dƣới luật mới đƣợc ban hành, sửa đổi, bổ
sung, liên quan trực tiếp đến lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ hành chính -
công vụ mà họ đang đảm nhiệm. Thời gian tập huấn thƣờng từ 3 - 7 ngày tùy
theo nội dung chuyên đề.
Bồi dƣỡng kiến thức pháp luật là hình thức giáo dục pháp luật ngắn
hạn, do các chủ thể giáo dục pháp luật thực hiện, hƣớng tới bổ sung, cung cấp
lại, trang bị mới, cập nhật cho công chức cấp xã những kiến thức, hiểu biết
pháp luật cụ thể, thiết thực đối với công tác chuyên môn của họ. Thời gian bồi
dƣỡng có thể là 15 ngày, 1 tháng hoặc nhiều hơn tùy thuộc vào số lƣợng
34. 26
chuyên đề cần bồi dƣỡng.
Ngoài ra, còn có các hoạt động khác, nhƣ tuyên truyền, phổ biến, nói
chuyện pháp luật tại các cơ quan hành chính nhà nƣớc; tổ chức các hội nghị
chuyên đề, các hội thảo khoa học về các vấn đề pháp luật; tổ chức các cuộc
thi tìm hiểu pháp luật trong công chức cấp xã; phổ biến, tuyên truyền pháp
luật qua các loại sách, báo, tạp chí...
Thứ hai, hoạt động giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã là hoạt
động có định hƣớng, có mục đích, chỉ bao hàm những tác động mang tính
chất tự giác, tích cực của chủ thể giáo dục pháp luật lên đối tƣợng tiếp nhận
giáo dục pháp luật là công chức cấp xã với các nội dung, nhiệm vụ cụ thể.
Tính có định hƣớng, có mục đích trong hoạt động của chủ thể giáo dục pháp
luật mang tính khách quan, phản ánh những yêu cầu, đòi hỏi của hoạt động
hành chính - công vụ về kiến thức, hiểu biết pháp luật của công chức cấp xã,
đƣợc các chủ thể giáo dục pháp luật chuyển tải và biến nó thành nhu cầu,
động cơ bên trong của đối tƣợng tiếp nhận là công chức cấp xã. Quá trình
giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã chỉ thực sự đạt đƣợc mục đích và
hiệu quả khi họ thực sự tự giác, chủ động biến những yêu cầu pháp luật khách
quan thành nhu cầu nội tại của bản thân mỗi ngƣời.
Thứ ba, quá trình giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã luôn luôn là
hoạt động có tổ chức, có kế hoạch, tuân theo nội dung và chƣơng trình giáo
dục pháp luật cụ thể, đƣợc xây dựng dành riêng cho đối tƣợng này, dựa trên
các phƣơng pháp giáo dục khoa học, hiện đại và các hình thức giáo dục phù
hợp với cán bộ này nhằm hiện thực hóa tối ƣu mục đích giáo dục pháp luật
cho họ. Khía cạnh này của khái niệm giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã
có một số vấn đề cần lƣu ý: Giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã có
những điểm chung của quá trình giáo dục pháp luật cho các đối tƣợng xã hội
khác, nhƣ cũng có nội dung, chƣơng trình, phƣơng pháp, hình thức..., nhƣng
35. 27
chúng phải đƣợc đặt trong sự phù hợp, tƣơng thích với yêu cầu về kiến thức,
hiểu biết pháp luật và đòi hỏi về nghiệp vụ hành chính - công vụ của công
chức cấp xã và phải phù hợp với các đặc điểm hoạt động chuyên môn của cán
bộ này. Điều đó đòi hỏi phải tìm ra cách tiếp cận hoạt động giáo dục pháp luật
phù hợp với công chức cấp xã trên tất cả các phƣơng diện, từ nội dung
chƣơng trình, phƣơng pháp cho đến hình thức giáo dục pháp luật cho họ. Bên
cạnh đó, không đƣợc đồng nhất nội dung chƣơng trình đào tạo của các trƣờng
luật (đào tạo những ngƣời chuyên làm nghề luật) với nội chƣơng trình giáo
dục pháp luật dành riêng cho công chức cấp xã. Ngƣợc lại, việc đào tạo
những ngƣời làm việc trong các lĩnh vực chuyên về luật (cán bộ, công chức
chuyên ngành luật), tuy cũng là giáo dục pháp luật, nhƣng không thể xem đó
là đối tƣợng giáo dục pháp luật theo nghĩa công chức cấp xã nói chung.
Thứ tư, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã, ngoài việc cung cấp
những kiến thức, hiểu biết pháp luật cần thiết nói chung, các chủ thể giáo dục
pháp luật còn phải hết sức chú trọng trang bị cho họ những kiến thức, hiểu
biết chuyên sâu về pháp luật hành chính, các quy định của pháp luật về quản
lý nhà nƣớc trên các lĩnh vực..., trang bị các kỹ năng về tác nghiệp hành chính
- công vụ, các kỹ năng xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật. Đây là sự
khác biệt cơ bản giữa giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã với giáo dục
pháp luật cho đối tƣợng xã hội khác.
Thứ năm, suy cho cùng, quá trình giáo dục pháp luật cho công chức cấp
xã phải đạt đƣợc mục đích, hiệu quả đặt ra. Mục đích, hiệu quả của hoạt động
giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã phải đƣợc nhìn nhận, đánh giá qua
việc công chức cấp xã đạt đƣợc những mục tiêu cụ thể từ quá trình này. Đó là
các mục tiêu về nhận thức (sự tiếp thu, lĩnh hội, tích lũy những thông tin, tri
thức, hiểu biết về pháp luật nói chung, pháp luật hành chính nói riêng); mục
tiêu về thái độ, tình cảm (làm hình thành ở công chức cấp xã thái độ tôn trọng
36. 28
pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật; sự phê phán, lên án các hành vi phạm
pháp, phạm tội; sự công phẫn trƣớc các tội ác dã man; niềm tin vào tính công
bằng, nghiêm minh của pháp luật...); mục tiêu về hành vi (kỹ năng vận dụng
tri thức, hiểu biết pháp luật để giải quyết công việc chuyên môn thuộc lĩnh
vực hành chính - công vụ, hành vi pháp luật tích cực, lối sống theo pháp luật
trong công chức cấp xã).
Từ sự phân tích các khía cạnh nêu trên, có thể định nghĩa: Giáo dục
pháp luật cho công chức cấp xã là hoạt động có định hướng, có tổ chức,
thông qua các phương pháp đặc thù và bằng các hình thức chủ yếu là đào
tạo, tập huấn, bồi dưỡng pháp luật, hướng tới cung cấp, trang bị cho công
chức cấp xã những tri thức, hiểu biết về các vấn đề pháp luật nói chung, các
vấn đề pháp luật cụ thể liên quan đến hoạt động hành chính - công vụ nói
riêng; trang bị cho họ các kỹ năng xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật,
nhằm làm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp luật và hành vi
phù hợp với các yêu cầu của hệ thống pháp luật hiện hành cũng như những
đòi hỏi đặc thù của lĩnh vực hoạt động hành chính.
1.2.3. Đặc trƣng của giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã
Thứ nhất, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã là giáo dục cho đối
tƣợng ngƣời lớn; mà ngƣời lớn thì có nhiều đặc điểm về tâm lý, nhân cách,
học vấn, hiểu biết xã hội, quan hệ xã hội, lối sống, kinh nghiệm thực tế, công
việc... khác biệt so với đối tƣợng học sinh phổ thông, sinh viên chính quy. Sự
“chín chắn” này nhiều khi lại gây bất lợi cho chất lƣợng, hiệu quả công tác
giáo dục pháp luật. Nếu nhƣ học sinh phổ thông, sinh viên chính quy chỉ có
mỗi nhiệm vụ chủ yếu là học, có khả năng tập trung cao, có thể tiếp thu kiến
thức, hiểu bài nhanh và trí nhở tốt, dẫn đến kết quả học tập cao; thì đối tƣợng
ngƣời lớn lại khó có thể tập trung vào việc tiếp thu kiến thức do bị phân tâm
bởi nhiều yếu tố ngoại cảnh, nhƣ gia đình, công việc, họp hành, quan hệ..., trí
37. 29
nhở đã bị giảm sút, sự chủ quan, bệnh lƣời biếng.v.v. Kết quả là, chất lƣợng
giáo dục pháp luật cho ngƣời lớn không đƣợc nhƣ mong muốn của các bên
hữu quan. Các chủ thể giáo dục pháp luật cần thấu hiểu đặc trƣng này trong
quá trình giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã.
Thứ hai, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã là giáo dục pháp luật
cho đối tƣợng đặc biệt - những ngƣời đƣơng chức, đƣơng quyền, nhất là
những công chức có nhiều thâm niên. Vì thói quen chỉ biết ra lệnh, chỉ đạo
ngƣời khác, họ dễ mắc “bệnh nghề nghiệp” - cho rằng cái gì mình cũng biết -
nên thái độ của họ đối với giáo dục pháp luật là “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”,
trong khi thực tế không hẳn là nhƣ vậy. Với vị thế và tâm thế đó, họ tham dự
các khóa giáo dục pháp luật một cách miễn cƣỡng; nếu có vƣớng mắc gì về
điều kiện dự thi, kết quả học tập..., họ thƣờng viện dẫn đến các mối quan hệ
quen biết, viện cớ bận công việc “đại sự quốc gia”, tạo khó dễ, gây áp lực cho
các nhà giáo dục pháp luật. Có lẽ, đặc trƣng này chỉ có trong công tác giáo
dục pháp luật cho công chức cấp xã.
Thứ ba, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã cần giới hạn vào một
số dạng hoạt động nhất định xuất phát từ đặc thù công tác chuyên môn của
công chức cấp xã.
Giáo dục pháp luật nói chung bao gồm rất nhiều dạng hoạt động, mỗi
dạng hoạt động đƣợc chủ thể giáo dục pháp luật sử dụng phù hợp với mục
đích, yêu cầu và đối tƣợng tiếp nhận khác nhau. Công chức cấp xã là những
ngƣời đang làm việc trong cơ quan hành chính ở cấp xã; ở mức độ ít hay
nhiều, họ đều đã đƣợc trang bị những vốn kiến thức, hiểu biết pháp luật nhất
định vì họ đều đã tốt nghiệp các trƣờng trung cấp, cao đẳng hay đại học hoặc
tham dự các lớp đào tạo tiền công vụ (dành cho công chức cấp xã dự bị). Ở
mức độ tối thiểu, công chức cấp xã đã đƣợc học một ít kiến thức pháp luật
có trong môn Giáo dục công dân thuộc chƣơng trình trung học phổ thông,
38. 30
chƣơng “Pháp luật” trong môn học Chính trị ở các trƣờng trung cấp. Ở mức
độ cao hơn, họ có thể đã đƣợc học môn Pháp luật đại cương và một môn
Luật chuyên ngành tại trƣờng cao đẳng hay đại học mà họ đã tốt nghiệp. Ở
trình độ cao, công chức cấp xã có thể đã tốt nghiệp cử nhân luật hoặc cử
nhân hành chính. Bên cạnh đó, họ tự tìm hiểu, cập nhật thêm các thông tin,
kiến thức pháp luật từ các kênh, các nguồn khác nhau nhằm bổ khuyết và
phục vụ cho công tác chuyên môn hàng ngày. Với tính chất nền tảng kiến
thức, hiểu biết pháp luật nhƣ vậy, chúng tôi cho rằng, công tác giáo dục
pháp luật cho công chức cấp xã chỉ nên giới hạn trong các hoạt động mang
tính chính thức, gồm đào tạo pháp luật, bồi dƣỡng kiến thức pháp luật và tập
huấn chuyên đề pháp luật.
Thứ tư, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã đòi hỏi tính chuyên
ngành, chuyên nghiệp cao. Công chức cấp xã là những ngƣời thực thi
QLHCNN nên họ rất cần đến kiến thức pháp luật; bởi lẽ, trong nhà nƣớc pháp
quyền, pháp luật có một vị trí độc tôn, đòi hỏi mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân,
ngay cả nhà nƣớc - ngƣời ban hành pháp luật - cũng phải đặt mình dƣới sự tác
động, điều chỉnh của pháp luật. Điều đó có nghĩa, công chức cấp xã phải
gƣơng mẫu, đi đầu trong “sống, làm việc theo pháp luật”. Do đó, ngoài kiến
thức chuyên môn, họ rất cần đƣợc trang bị kiến thức, hiểu biết pháp luật, nhất
là kiến thức pháp luật chuyên ngành. Nhận định về vấn đề này, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng nói: cán bộ là những ngƣời đem chính sách của Đảng, của
Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, cán bộ
đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để
đặt chính sách đúng, vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc.
Để thực hiện tốt công vụ đƣợc giao, công chức cấp xã, trƣớc hết, phải
có sự hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc, phải thi hành nhiệm vụ, công vụ theo
39. 31
đúng quy định của pháp luật; chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về thi hành
nhiệm vụ, công vụ của mình. Vì vậy, nội dung giáo dục pháp luật cho họ phải
là những kiến thức pháp luật có tính hệ thống, tính chuyên ngành, chuyên
nghiệp cao, liên quan mật thiết đến lĩnh vực hành chính - công vụ và các quy
định của pháp luật về quản lý nhà nƣớc trên các lĩnh vực.
Thứ năm, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã đòi hỏi phải có sự
lựa chọn, phân loại cụ thể, hợp lý về đối tƣợng tiếp nhận giáo dục pháp
luật. Ở mỗi lĩnh vực công việc lại có những yêu cầu riêng và có những văn
bản pháp luật khác nhau điều chỉnh, quy định phạm vi, chức năng, nhiệm
vụ cho mỗi ngành.
Bên cạnh đó, trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật hiện có của các đối
tƣợng tiếp nhận giáo dục pháp luật cũng khác nhau. Có những công chức cấp
xã đã có trình độ cử nhân luật, cử nhân hành chính trƣớc khi trở thành công
chức cấp xã nên nhu cầu thông tin pháp luật của họ khác với nhu cầu của
những ngƣời chƣa đƣợc đào tạo chính quy, bài bản hoặc hiện giờ mới đang
tham gia các khóa giáo dục, đào tạo pháp luật. Tính chất nông-sâu, rộng-hẹp
trong nhu cầu kiến thức, hiểu biết pháp luật của mỗi nhóm đối tƣợng công
chức cấp xã cũng khác nhau.
Thứ sáu, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã đòi hỏi phải sử dụng
phƣơng pháp và hình thức giáo dục pháp luật phù hợp. Về nguyên tắc, chủ thể
giáo dục pháp luật phải căn cứ vào mục đích, mục tiêu, nội dung chƣơng trình
và đối tƣợng của giáo dục pháp luật để lựa chọn và sử dụng phƣơng pháp giáo
dục, hình thức tổ chức giáo dục pháp luật cho phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả
của hoạt động này. Giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã có những nét đặc
thù về nội dung và đối tƣợng nên chủ thể giáo dục pháp luật cần chủ động tìm
ra các phƣơng pháp và hình thức tổ chức tối ƣu nhất.
Thứ bảy, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã là giáo dục cho các
40. 32
chủ thể thực hiện giáo dục pháp luật cho đối tƣợng khác. Trong hoạt động
giáo dục pháp luật, công chức cấp xã có “vai trò kép”. Họ vừa là đối tƣợng
tiếp nhận giáo dục pháp luật, lại vừa là chủ thể giáo dục pháp luật. Trong mối
quan hệ với giáo dục pháp luật cho chính công chức cấp xã thì họ là đối tƣợng
tiếp nhận giáo dục pháp luật. Với vai trò là đối tƣợng tiếp nhận giáo dục pháp
luật, họ phải đảm bảo các mục đích, yêu cầu của giáo dục pháp luật. Còn với
vai trò là công chức cấp xã với các tầng lớp nhân dân thì công chức cấp xã trở
thành chủ thể giáo dục pháp luật. Vì vậy, vai trò của họ có tác động rất lớn
đến sự hiểu biết, nhận thức, thái độ, tình cảm của nhân dân đối với pháp luật.
Do đặc điểm này nên trong giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã, ngoài
nội dung pháp luật chuyên ngành, còn phải chú ý cung cấp cho họ kiến thức,
kỹ năng về phƣơng pháp và hình thức giáo dục pháp luật, giáo dục cho công
chức cấp xã ý thức về vai trò là “công bộc” của dân.
1.2.4. Chủ thể và đối tƣợng giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã
1.2.4.1. Chủ thể giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã
Theo lý luận giáo dục học, chủ thể giáo dục là thầy, cô giáo và tất cả
những ngƣời làm công tác giáo dục khác. Vận dụng lý luận này vào lĩnh vực
giáo dục pháp luật, có thể hiểu, chủ thể giáo dục pháp luật là tất cả những
ngƣời mà theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội phải tham gia vào
việc thực hiện các mục đích, mục tiêu của giáo dục pháp luật cho đối tƣợng
tiếp nhận giáo dục pháp luật. Đó là những nhà giáo dục pháp luật. Tuy nhiên,
cách hiểu này mới chỉ nhìn thấy một chiều cạnh của chủ thể giáo dục pháp
luật là những ngƣời trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia truyền đạt nội dung,
chƣơng trình giáo dục pháp luật, mà chƣa nhìn thấy một thành tố vô cùng
quan trọng khác của chủ thể giáo dục pháp luật - các cơ sở giáo dục, đào tạo
về pháp luật. Chính các cơ sở giáo dục, đào tạo pháp luật với hệ thống cơ sở
vật chất, bộ máy tổ chức, cán bộ, với hoạt động quản lý và sự vận hành của
41. 33
nó, cùng với các nhà giáo dục pháp luật (thầy, cô giáo, chuyên gia...) mới tạo
nên chủ thể giáo dục pháp luật với đầy đủ ý nghĩa của khái niệm này. Nhƣ
vậy, chủ thể giáo dục pháp luật cần đƣợc nhìn nhận từ cả hai phƣơng diện: cơ
sở giáo dục, đào tạo về pháp luật và các nhà giáo dục pháp luật.
Nhìn trên phƣơng diện thứ nhất, chủ thể giáo dục pháp luật cho công
chức cấp xã - cơ sở giáo dục, đào tạo về pháp luật - có thể là các Trƣờng Đại
học Luật, các Khoa Luật, Học viện Hành chính Quốc gia, Trƣờng Bồi dƣỡng
cán bộ, công chức, viên chức (thuộc Bộ Nội vụ), các Trƣờng Chính trị tỉnh,
các Trung tâm bồi dƣỡng chính trị quận, huyện; ngoài ra, có thể kể tới các cơ
quan nhƣ Học viện Tƣ pháp, Hội Luật gia, Liên đoàn Luật sƣ... (chủ yếu với
hình thức tập huấn, bồi dƣỡng). Chính các cơ sở giáo dục, đào tạo luật là nơi
chuẩn bị các điều kiện vật chất (phòng học, thƣ viện, phƣơng tiện nghe-nhìn...),
xây dựng, ban hành và quản lý nội dung, chƣơng trình giáo dục, đào tạo pháp
luật (khung chƣơng trình, giáo trình, sách tham khảo...), tuyển dụng và quản lý
cán bộ, giảng viên (thầy giáo, cô giáo, cán bộ quản lý, chuyên viên), thực hiện
kế hoạch tuyển sinh (chiêu sinh, phân loại đối tƣợng, xếp lớp...), triển khai
giảng dạy, kiểm tra, đánh giá và công nhận tốt nghiệp - những yếu tố không thể
thiếu của hoạt động giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã.
Nhìn trên phƣơng diện thứ hai, chủ thể giáo dục pháp luật cho công
chức cấp xã - các nhà giáo dục pháp luật - bao gồm chủ thể giáo dục pháp luật
chuyên nghiệp và chủ thể giáo dục pháp luật không chuyên nghiệp, đều đảm
trách các nhiệm vụ giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã. Chủ thể giáo
dục pháp luật chuyên nghiệp là những ngƣời chuyên làm công tác giáo dục,
đào tạo về pháp luật trong các cơ sở giáo dục, đào tạo luật, đƣợc đào tạo
chuyên về pháp luật, có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu và trực tiếp là thực hiện
các mục đích, mục tiêu, nội dung giáo dục pháp luật. Đó chính là các thầy, cô
giáo đang tham gia giảng dạy trong các cơ sở đào tạo luật, cán bộ chỉ đạo,
42. 34
thực hiện công tác giáo dục pháp luật ở các cơ quan tƣ pháp... Chủ thể giáo
dục pháp luật không chuyên nghiệp là những ngƣời có chức năng, nhiệm vụ
chính không phải là giáo dục pháp luật, mà thông qua hoạt động chuyên môn,
nghiệp vụ để thực hiện các mục đích, mục tiêu của giáo dục pháp luật, nhƣ
chuyên gia pháp luật, luật sƣ...
Theo tác giả, chủ thể giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã chủ yếu
phải là các nhà giáo dục pháp luật chuyên nghiệp - những người có trình độ
thạc sĩ, tiến sĩ, có thâm niên công tác và kinh nghiệm thực tiễn phong phú;
ngoài ra, có thể sử dụng các chuyên gia pháp luật khi nội dung giáo dục pháp
luật là những vấn đề liên quan trực tiếp đến lĩnh vực chuyên môn của họ.
1.2.4.2. Đối tượng của giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã
Đối tƣợng của giáo dục pháp luật chính là những ngƣời chịu sự tác động
của chủ thể giáo dục pháp luật, trực tiếp tham gia vào quá trình giáo dục pháp
luật để tiếp thu, hấp thụ những thông tin, kiến thức pháp luật xuất phát từ nhu
cầu hình thành, tích lũy, củng cố hay nâng cao vốn tri thức, hiểu biết pháp luật
của bản thân, đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống, của công tác
chuyên môn, nghiệp vụ. Đối tƣợng của giáo dục pháp luật cho công chức cấp
xã là công chức cấp xã. Xuất phát từ những nhu cầu, mục tiêu khác nhau, các
công chức cấp xã tham dự vào hoạt động giáo dục pháp luật.
Công chức cấp xã gồm những ngƣời đang làm việc trong ủy ban nhân
dân cấp xã, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội thuộc quyền quản lý của Ủy
ban nhân dân cấp xã, từ văn hóa, thể thao, giáo dục, tài nguyên - môi trƣờng,
cho đến xây dựng, nông nghiệp, địa chính, tƣ pháp... Việc tuyển dụng công
chức cấp xã vào làm việc tại Ủy ban nhân dân lúc đầu chủ yếu dựa trên bằng
cấp, lĩnh vực chuyên môn, ngành nghề mà họ đƣợc đào tạo, ít chú ý đến
những đòi hỏi về kiến thức, hiểu biết pháp luật. Chỉ đến khi va chạm với thực
tế cuộc sống, tác nghiệp hành chính - công vụ, giải quyết các công việc hành
43. 35
chính liên quan đến lợi ích của nhà nƣớc và công dân... mới nảy sinh nhu cầu
của công chức cấp xã về kiến thức pháp luật và vận dụng chúng vào thực tiễn
công tác. Nhƣ vậy, chính thực tiễn thực thi công vụ đã làm nảy sinh nhu cầu
cần đƣợc giáo dục pháp luật của công chức cấp xã.
Mặt khác, ngoài kiến thức chuyên môn, nền tảng kiến thức, hiểu biết
pháp luật của công chức nói chung, trong đó có công chức cấp xã là rất khác
nhau, tiếp nhận từ các nguồn thông tin khác nhau. Ở các vùng sâu, vùng xa,
miền núi, trình độ tối thiểu về pháp luật của cán bộ, công chức cấp xã có thể
là đã đƣợc học một ít kiến thức pháp luật có trong môn Giáo dục công dân
thuộc chƣơng trình trung học phổ thông, chƣơng “Pháp luật” trong môn học
Chính trị ở các trƣờng trung cấp hoặc kiến thức về nhà nƣớc và pháp luật
trong chƣơng trình trung cấp chính trị. Ở một trình độ cao hơn, công chức cấp
xã cấp xã, huyện, tỉnh có thể đã đƣợc học môn Pháp luật đại cương và một
môn Luật chuyên ngành tại trƣờng cao đẳng hay đại học mà họ đã tốt nghiệp.
Chẳng hạn, các công chức hành chính làm việc ở các cơ quan quản lý kinh tế,
đã tốt nghiệp Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân, thì có thể họ đã đƣợc học
môn Pháp luật đại cƣơng và môn Luật Kinh tế. Ở trình độ cao, công chức cấp
xã có thể đã tốt nghiệp cử nhân luật hoặc cử nhân hành chính. Ví dụ, công
chức cấp xã cấp xã đã tốt nghiệp đại học luật thì đã đƣợc trang bị tƣơng đối
đầy đủ, hệ thống kiến thức, hiểu biết pháp luật; nhƣng công chức hành chính
cấp bộ, dù đã tốt nghiệp Học viện Hành chính Quốc gia, lại chỉ đƣợc trang bị
kiến thức Lý luận nhà nƣớc và pháp luật, Luật hành chính, Luật đất đai... Hệ
thống pháp luật luôn luôn đƣợc sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện cho
phù hợp với thực tiễn cuộc sống; vì vậy, dù là cán bộ, công chức thuộc cấp
nào, ngành nào, đã có kiến thức pháp luật ở trình độ nào, thì họ vẫn cần đến
giáo dục pháp luật để bổ khuyết, cập nhật thông tin, kiến thức pháp luật mới
với mức độ yêu cầu, đòi hỏi khác nhau.
44. 36
Chính vì vậy, các cơ sở giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cần
căn cứ vào nhu cầu, mục tiêu, trình độ kiến thức pháp luật đã có, cấp hành
chính, lĩnh vực chuyên môn của mỗi công chức cấp xã để tổ chức, bố trí các
lớp đào tạo, bồi dưỡng một cách hợp lý nhất, lựa chọn nội dung, giảng viên
và hình thức giáo dục phù hợp với từng nhóm đối tượng. Sự phân hóa đối
tƣợng công chức cấp xã tham gia giáo dục pháp luật theo các tiêu chí nêu trên
là hết sức cần thiết để giảm thiểu sức ngƣời, sức của mà vẫn đạt hiệu quả cao;
đồng thời, tìm ra nội dung, phƣơng pháp và hình thức giáo dục pháp luật phù
hợp với từng nhóm đối tƣợng. Điều quan trọng hơn là phải phân loại đối
tượng theo chức danh để có chương trình giáo dục pháp luật cho cán bộ,
công chức lãnh đạo, quản lý khác với chương trình dành cho cán bộ, công
chức thừa hành.
1.2.5. Nội dung giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã giai đoạn 2003-2007
(theo Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17/01/2003 của Thủ tƣớng Chính
phủ phê duyệt chƣơng trình phổ biến giáo dục pháp luật từ năm 2003-2007)
tập trung vào nội dung: phổ biến, quán triệt, học tập các quy định pháp luật về
cán bộ, công chức, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng,
hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan, đơn vị; chú
trọng các quy định pháp luật chuyên ngành gắn với chuyên môn, nghiệp vụ
của từng cán bộ, công chức. Đối với công chức cấp xã cần nắm vững các quy
định, trình tự, thủ tục liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm
của chính quyền cơ sở; quy định pháp luật về các quyền tự do, dân chủ, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân; trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo;
quy chế tiếp công dân; quy chế dân chủ ở cơ sở; các văn bản quy phạm pháp
luật của địa phƣơng.
Từ năm 2008 đến nay, trên thực tế, phổ biến, giáo dục pháp luật cho
công chức cấp xã đƣợc thực hiện theo Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày
45. 37
12/03/2008 của Thủ tƣớng Chính phủ về Phê duyệt chƣơng trình phổ biến,
giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012. Theo đó, một trong những nội
dung của mục tiêu chung hƣớng tới là “Tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
về ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của cán bộ”, về nội dung: “Nội
dung pháp luật đƣợc lựa chọn tuyên truyền phù hợp với từng đối tƣợng, địa
bàn. Tập trung tuyên truyền văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến đời
sống cán bộ, nhân dân và những văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội,
Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ và các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền
khác ban hành. Chú trọng tuyên truyền, phổ biến quy định pháp luật liên quan
đến hội nhập kinh tế quốc tế; phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí; phòng, chống các tệ nạn xã hội; an toàn giao thông; vệ sinh
an toàn thực phẩm; thực hiện quy chế dân chủ cơ sở...”
Đó chính là cơ sở pháp lý để các chủ thể giáo dục pháp luật triển khai
xây dựng các chƣơng trình giáo dục pháp luật với nội dung phù hợp với đặc
điểm, tình hình của từng nhóm công chức cấp xã theo các tiêu chí phân loại
đã đề cập ở phần trên.
Có thể phân nhóm các nội dung giáo dục pháp luật cho công chức cấp
xã nhƣ sau:
- Giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã về cơ cấu, tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cấp xã, kiến thức pháp luật về cơ
cấu, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cấp xã.
- Giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã về trình tự, thủ tục thực
hiện các hoạt động quản lý nhà nước thuộc thẩm quyền của cấp xã.
- Giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã về quyền tự do dân chủ và
lợi ích hợp pháp của công dân.
- Giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã về khiếu nại, tố cáo và giải
quyết khiếu nại, tố cáo; tiếp công dân, phòng chống tham nhũng, lãng phí.
- Giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã về thực hiện dân chủ ở cơ sở