1. Hậu sản là khoảng thời gian 6 -8 tuần sau sanh, trong thời gian đó cơ quan sinh dục và các cơ quan
khác của cơ thể trở về trạng thái bình thường như trước khi có thai. Những thay đổi sinh lý trong thai
kỳ trở về bình thường trong khoảng 1 -2 tuần sau sanh. Tái khám lần đầu vào tuần thứ 4-6 sau sanh.
SINH LÝ THỜI KỲ HẬU SẢN
CO HỒI TỬ CUNG
Tử cung nặng khoảng 1000g và có thể tích 5000ml ngay sau sanh, so với bình thường là nặng 70g và
dung tích 5ml. Ngay sau sanh, có thể sờ thấy dễ dàng đáy tử cung ở khoảng giữa khớp về và rốn. Sự
giảm nhanh kích thước tử cung là do xổ thai, nhau và nước ối, cùng với sự giảm kích thích hormone.
Co hồi tử cung còn do sự tự hủy của các protein trong tế bào cơ tử cung dẫn đến giảm kích thước tế
bào nhưng giữ nguyên số lượng. Do các thay đổi này, tử cung trở về nằm trong khung chậu khoảng 2
tuần sau sanh, và trở lại kích thước bình thường vào 6 tuần sau sanh. Ngay sau sanh, tử cung được
cầm máu nhờ các sợi cơ trơn thành mạch co lại và cơ tử cung siết chặt các mạch máu
SẢN DỊCH
Do cơ tử cung co lại, những cục máu đông trong tử cung được tống xuất và huyết khối được thành lập
trong các mạch máu lớn ở nơi nhau bám. Trong 3 ngày đầu, phần màng rụng cón lại biệt hóa thành
lớp niêm mạc nông mà sau đó hoại tử và bong ra, và một lớp đáy liên kết với cơ tử cung. Lớp đáy
này chứa các tuyến nội mạc tử cung và là cơ sở để tái tạo nội mạc tử cung mới.
Sản dịch chảy nhiều lúc đầu và giảm dần số lượng sau 2-3 ngày sau sanh, mặc dù có thể kéo dài vài
tuần. Sản dịch thường được phân loại thành: 1) sản dịch đỏ: giống như máu kinh trong vài ngày đầu,
phần lớn chứa máu và mảnh vụn màng rụng bong ra 2) sản- thanh dịch: loãng và ít máu hơn trong
những ngày tiếp theo 3) sản dịch mủ: màu trắng hơi đục, có thể kéo dài trong vài tuần và sản phụ có
thể nhầm đó là bệnh lý, cần giải thích và trấn an sản phụ. Ở những sản phụ cho con bú, sản dịch
thường ra hết nhanh hơn, có thể do tử cung co hồi nhanh hơn bởi sự co cơ tử cung liên quan với cho
con bú. Ở vài sản phụ, lượng sản dịch nhiều lên trong 1-2 tuần sau sanh vì tại nơi nhau bám phần mô
đang tái tạo bị bong ra.
CỔ TỬ CUNG VÀ ÂM ĐẠO
Trong vài giờ sau sanh, cổ tử cung dần hồi phục và sau 1 tuần, đường kính khoảng 1cm (khám vừa 1
ngón tay). Hình dạng tròn của cổ tử cung ở sản phụ con so sẽ thay bằng cổ ngoài tử cung hình mõm
cá nằm ngang do sang chấn trong quá trình sanh. Mô âm hộ và âm đạo trở lại bình thường trong vài
ngày, mặc dù lớp nhầy âm đạo cho thấy tình trạng thiếu estrogen nếu sản phụ cho con bú, do chức
năng buồng trứng bị ức chế trong thời gian cho con bú. Các cơ sàn chậu phục hồi dần trương lực.
Có thể tăng trương lực các cơ âm đạo bằng bài tập luyện Kegel, gồm luyện co thắt các nhóm cơ này
lặp đi lặp lại
PHỤC HỒI CHỨC NĂNG BUỒNG TRỨNG
Ở sản phụ không cho con bú, thời gian đến khi rụng trứng trở lại trung bình là 45 ngày và ở người cho
con bú là 189 ngày. Sự rụng trứng bị ức chế ở phụ nữ cho con bú do nồng độ prolactin tăng lên. Ở
những người này, prolactin duy trì ở nồng độ cao trong 6 tuần, trong khi đó ớ người không cho con bú
prolactin trờ lại bình thường sau 3 tuần. Nồng độ estrogen giảm ngay sau sanh ở đa số sản phụ, và bắt
đầu tăng lại 2 tuần sau sanh nếu không tiến hành cho con bú. Khả năng rụng trứng tăng lên nếu só lần
và thời gian cho con bú giảm
2. THÀNH BỤNG
Các sợi đàn hồi ở da và các cơ thẳng bụng bị kéo dãn hồi phục lại như cũ thường chậm và nhanh hơn
nều tập luyện. Những nếp rạn da màu trắng thường mờ đi sau một thời gian. Hiện tượng “tách đôi cơ
thẳng bụng” thường tự mất đi.
HỆ TIM MẠCH
Những thay đổi của hệ tim mạch trong thai kỳ sẽ trở lại bình thường 2-3 tuần sau sanh. Ngay sau
sanh, thể tích huyết tường giảm khoảng 1000ml, chủ yếu do mất máu khi sanh. Trong thời kỳ hậu sản
gần, có một sự dịch chuyển đáng kể lượng dịch ngoại bào vào trong lòng mạch. Hiện tượng tăng cung
lượng tim trong thai kỳ vẫn có thể còn trong vài giờ đầu sau sanh. Nhịp mạch nhanh trong thai kỳ vẫn
còn trong 1 giờ sau sanh, sau đo giảm dần.
Sau sanh cân nặng giảm khoảng 5 kg do lợi tiểu và mất dịch ngoại bào. Sụt cân nhiều hơn thay đổi về
mức độ và số lượng trên mỗi bệnh nhân
HỆ TẠO MÁU
Sự tăng bạch cầu
Sau sanh, cơ tử cung co bóp gây ra sự truyền máu tự thân ở một mức độ nào đó đẩy hồng cầu vào
trong lòng mạch
HỆ TIẾT NIỆU
Độ lọc cầu thận thể hiện chức năng thận và vẫn cao trong vài tuần đầu sau sanh, sau đó trở về bình
thường. Do đó các thuốc thải trừ qua nước tiểu cần phải tăng liều trong thời gian này. Sự giãn niệu
quản và bể thận phục hồi sau 6 -8 tuần. Niệu đạo có thể bị phù nề sau sanh ngả âm đạo, gây bí tiểu
tạm thời. Khoảng 7% sản phụ bị tiểu không tự chủ (tiểu són), nhưng thường giảm bớt sau 3 tháng
QUẢN LÝ THỜI KỲ HẬU SẢN GẦN
NẰM VIỆN
Nếu không có biến chứng, thời gian nằm viện hậu sản là 48h sau sanh ngả âm đạo và 96h sau mổ bẳt
con, không kể ngày sanh. Có thể rút ngắn thời gian nằm viện nếu thỏa các tiêu chí bảo đảm sức khỏa
mẹ và bé, như mẹ không sốt, mạch nhiệt huyết áp bình thường, lượng và màu sản dịch phù hợp với
giai đoạn hồi phục, không có bất thường trên lâm sàng, cận lâm sàng hay tâm lý; người mẹ đủ sức
thực hiện các sinh hoạt đi lại, ăn uống, tư chăm sóc mình và chăm sóc con. Them vào đó, người mẹ
cần được trợ giúp vừa phải trong vài ngày đầu sau xuất viện và cần được hướng dẫn về cách sinh hoạt
trong thời kỳ hậu sản, cách tập luyện, những khó chịu thường gặp và biện pháp làm giảm.
Trong thời gian nằm viện, nên chú trọng chuẩn bị cho người mẹ cách chăm sóc bé, cách nuôi con đặc
biệt là nuôi bằng sữa mẹ, các xét nghiệm bắt buộc cho trẻ sơ sinh. Nếu bệnh nhân được xuất viện
sớm, bác sĩ được khuyến khích đến thăm khám tại nhà hoặc qua điện thoại trong vòng 48h
SỰ GẮN KẾT MẸ CON
Trong thời gian đầu sau sanh, cha mẹ thường dành hết thời gian chăm sóc bé. Người mẹ nên tiếp xúc
gần gũi với bé. Cần sắp xếp khoa phòng để tạo thuận lợi cho việc này bằng cách giảm những can
thiệp y khoa không cần thiết và khuyến khích sự tham gia của người cha và những người thân khác
3. trong gia đình. Các điều dưỡng viên có thể quan sát sự tương tác giữa bé và cha mẹ và can thiệp khi
cần thiết.
BIẾN CHỨNG HẬU SẢN
Nhiễm trùng xảy ra ở 5% bênh nhân, băng huyết sau sanh nặng xảy ra ở 1% bệnh nhân. Ngay sau khi
xổ nhau, sờ tử cung bằng 2 tay để xác định có gò chắc không. sờ tử cung qua thành bụng cần lặp lại
thường xuyên sau sanh để đề phòng đờ tử cung. Cân dùng băng vệ sinh và theo dõi lượng máu chảy
ra, cùng với mạch huyết áp trong vài giờ đầu sau sanh để phát hiện mất máu nhiều
Vài bệnh nhân sẽ trải qua một đợt xuất huyết âm đạo nhiều trong khoảng ngày thứ 8-14 sau sanh,
thường liên quan đên bong tróc và tống xuất mảng mô chết nơi nhau bám. Tình trạng này sẽ tự giới
hạn và không cần điều trị gì thêm ngoài trấn an bệnh nhân. Nếu xuất huyết kéo dài hay quá nhiều
được gọi là băng huyết sau sanh muộn xảy ra ở 1% case. Điều trị bằng oxytocin hoặc “hút chân không
buồng tử cung”. Hút thường có kết quả tốt ở đa số trường hợp , cho dù có sót nhau hay không (
thường xảy ra ở 1/3 số case)
4. Thuốc giảm đau
Sau khi sinh ngã âm đạo, thuốc giảm đau (bao gồm cả kem bôi lidocaine) có thể cần thiết để làm
giảm đau do cắt tầng sinh môn và tạo điều kiện cho mẹ có thể cử động. Tốt nhất phải kê thuốc
dựa theo nhu cầu cơ bản của sản phụ và theo đơn của hậu sản. Nhiều sản phụ phải trải qua cơn
đau khủng khiếp trong 24 giờ đầu sau khi mổ lấy thai. Kỹ thuật giảm đau gồm gây tê tủy sống
hoặc ngoài màng cứng, bệnh nhân kiểm soát thuốc giảm đau (patient-controlled analgesia)
ngoài màng cứng hoặc tiêm tĩnh mạch, và thuốc giảm đau mạnh dùng đường uống.
Bất kể dùng đường nào, các opioid đều có thể gây suy hô hấp và giảm nhu động ruột
Giám sát và theo dõi chặt chẽ để được đảm bảo là tất cả các bệnh nhân hậu sản đều nhận được
thuốc này.
Đi lại
Bệnh nhân hậu sản nên được khuyến khích đi lại càng sớm càng tốt sau khi sanh. Họ nên được
cung cấp hỗ trợ ban đầu, đặc biệt với các bệnh nhân phải mổ lấy thai. Đi lại sớm giúp tránh bí
tiểu, ngăn ngừa huyết khối tĩnh mạch hậu sản và thuyên tắc phổi.
Chăm sóc vú
Căng tức vú ở phụ nữ không cho con bú xảy ra trong vài ngày hậu sản đầu tiên và giảm dần đi
sau giai đoạn này. Nếu vú bị đau, có thể hỗ trợ bằng một cái áo ngực vừa vặn. Chườm đá và
thuốc giảm đau có thể làm giảm sự khó chịu. Sản phụ không muốn cho con bú nên được khuyến
khích tránh kích thích đầu vú và nên được tư vấn về việc nặn sữa bằng tay.
Tắc ống dẫn sữa và viêm vú có thể làm vú to đau sau sanh. Viêm vú, hoặc sự nhiễm trùng của
mô vú, thường xảy ra ở phụ nữ cho con bú và đặc trưng bởi sốt đột ngột khởi phát, đau khu trú
và sưng. Viêm vú thường do nhiễm Staphylococcus aureus, streptococcus nhóm A hoặc B, β
Hemophylus, và E.coli. Điều trị bao gồm tiếp tục cho con bú hoặc làm trống vú bằng một dụng
cụ hút sữa, và sử dụng kháng sinh thích hợp. Sữa mẹ vẩn còn an toàn cho trẻ sơ sinh đủ tháng,
khỏe mạnh.
Dấu hiệu của abces vú tương tự như viêm vú, nhưng có kèm theo một khối di động. Sốt kéo dài
dù đã điều trị kháng sinh cho bệnh viêm vú cũng có thể gợi ý tới abces. Điều trị đòi hỏi phải dẫn
lưu ổ abces và dùng kháng sinh kèm theo.
Các chẩn đoán phân biệt của một vú to, đau trong thời kỳ hậu sản
Căng sữa Viêm vú Tắc ống dẫn sữa
Khởi phát Từ từ Đột ngột Từ từ
Vị trí 2 bên 1 bên 1 bên
Sưng Toàn thể Khu trú Khu trú
Đau Toàn thể Kịch liệt, khu trú Khu trú
Triệu chứng toàn thân Tốt Bệnh Tốt
Sốt không có không
5. Tiêm chủng
Sản phụ không có kháng thể rubella có thể tiêm phòng rubella trong khoảng thời gian ngay sau
sinh. Không cần kiêng cho con bú sau khi chủng ngừa. Nếu sản phụ chưa được tiêm DPT
vaccine (bạch hầu – ho gà – uốn ván), và nếu từ lần cuối sản phụ được tiêm DTP tăng cường đã
cách nay ít nhất 2 năm, thì cô ta nên được tiêm 1 liều trước khi xuất viện. Nếu sản phụ có D âm,
và đã sinh một đứa trẻ có D dương hoặc một đứa trẻ sơ sinh yếu ớt có D dương, 300 micrograms
anti D immune globulin nên được cung cấp sau sinh, lý tưởng nhất là trong vòng 72 giờ sau sinh.
Liều này có thể là không đủ trong trường hợp có xuất huyết mẹ, chẳng hạn như nhau tiền
đạo,làm thao tác trong tử cung, và bóc nhau nhân tạo.
Tiêm chủng phổ biến với kháng nguyên bề mặt viêm gan B được đề nghị cho tất cả trẻ mới sinh
có cân nặng trên 2000g. Thêm vào đó, tất cả trẻ mới sinh phải được làm đầy đủ các xét nghiệm
sàng lọc.
Ruột và bàng quang
Sản phụ không có nhu động ruột vào ngày đầu hoặc thứ 2 sau sanh là bình thường, vì sản phụ
thường không ăn gì cả trong một thời gian dài. Làm mềm phân (thụt tháo?) có thể được chỉ định,
đặc biệt là khi sản phụ có may cắt tầng sinh môn độ bốn hoặc rách đến niêm mạc trực tràng.
Trĩ là tình trạng sung huyết của các tĩnh mạch trĩ. Phẫu thuật điều trị không được đề nghị trong
vòng ít nhất 6 tháng sau sanh để cho sự co hồi tự nhiên diễn ra. Tắm bồn (sitz bath), làm mềm
phân, và chuẩn bị khu vực là hữu ích, kết hợp với trấn an có thể giải quyết phần lớn các ca
thường gặp.
Phù mô xung quanh niệu đạo có thể gây bí tiểu tạm thời. Số lượng nước tiểu cần được theo dõi
trong 24 giờ đầu tiên sau sanh. Nếu phải đặt ống thông nhiều hơn 2 lần trong 24h đầu thì nên đặt
1 ống thông tiểu trong từ 1 đến 2 ngày
Chăm sóc tầng sinh môn
Trong suốt 24 giờ đầu, cơn đau ở tầng sinh môn có thể được làm giảm bằng cách dùng thuốc
giảm đau đường uống và thực hiện chườm lạnh để giảm sưng. Thuốc giảm đau cục bộ, bao gồm
miếng dán witch hazel hoặc thuốc xịt benzocaine, có thể giúp ích. Bắt đầu từ 24 giờ sau sanh,
liệu pháp nhiệt ẩm có thể sử dụng, tắm bồn (sitz bath) có thể giảm khó chịu cục bộ và thúc đẩy
lành bệnh.
Khi đau vùng tầng sinh môn không đáp ứng với thuốc giảm đau, có thể là do khối Hematoma
đang tiến triển, khi đó cần phải kỹ lại các thành âm đạo và trực tràng.
Nhiễm trùng vết cắt tầng sinh môn hiếm xảy ra (<0.1%), thường giới hạn trong lớp da và đáp
ứng với kháng sinh phổ rộng. Nứt vết mổ không thường xảy ra, với điều trị với từng cá nhân trên
cơ sở tính chất, mức độ của vết thương.
6. Biện pháp tránh thai
Chăm sóc hậu sản trong bệnh viện bao gồm cả biện pháp tránh thai. Xấp xỉ 15% phụ nữ không
cho con bú trở nên dễ thụ thai trong 6 tuần hậu sản. Thuốc tránh thai kết hợp estrogen-progestin
không có chống chỉ định ở người cho con bú, mặc dù nó có ức chế sự tiết sữa nhẹ. Progestin có
thể không tác động hoặc kích thích tiết sữa nhẹ. Sản phụ có thể xem xét bắt đầu với duy nhất
progesterone tránh thai trong 6 tuần nếu cho con bú mẹ hoàn toàn, hoặc trong 3 tuần nếu cho con
bú mẹ không hoàn toàn. Khối lượng cũng như thành phần của sữa mẹ cũng bị ảnh hưởng bất lợi
bởi sự tác động của biện pháp tránh thai nội tiết tố, và nó không hiệu quả cho sự phát triển của
trẻ sơ sinh. Các biện pháp tránh thai trong tử cung trong 4 đến 6 tuần hậu sản có thể được chấp
nhận ở một số bệnh nhân phù hợp.
Triệt sản sau sanh được thực hiện tại thời điểm mổ lấy thai hoặc sau khi sinh ngã âm đạo và
không nên được mở rộng trên bệnh nhân nằm viện. Lý tưởng nhất là thực hiện cắt ống dẫn trứng
trước khi tử cung co hồi đáng kể nhưng phải đánh giá đầy đủ về sức khỏe của mẹ và con. Cắt
ống dẫn trứng sau sanh có thể thực hiện với gây tê cục bộ, gây tê khu vực hoặc gây mê. Triệt sản
sau sanh yêu cầu phải tư vấn và được sự đồng ý của bệnh nhân trước khi vào chuyển dạ và sanh.
Sự đồng ý này phải được thu được trong lúc chăm sóc trước sinh, khi bệnh nhân có thể đưa ra
quyết định, xem xét các nguy cơ và lợi ích của các thủ thuật, và xem xét các phương pháp tránh
thai khác. Trong tất cả các trường hợp chuyển dạ hoặc sau khi sinh có biến chứng sản khoa, các
bác sĩ nên xem xét trì hoãn triệt sản. Các quy định liên bang và nhà nước cũng rất quan trọng để
xem xét.
Hoạt động tình dục
Việc giao hợp có thể được thực hiện nếu bệnh nhân thấy thoải mái, tuy nhiên, nguy cơ xuất
huyết và nhiễm trùng chỉ giảm xuống tối thiểu sau 2 tuần hậu sản. Phụ nữ nên được tư vấn, đặc
biệt là bà mẹ cho con bú, rằng việc giao hợp ban đầu có thể không thoải mái do thiếu chất bôi
trơn do sự giảm nồng độ estrogen, và sử dụng nước bôi trơn nhân tạo có thể hữu ích. Phụ nữ cho
con bú nên được tư vấn về việc sử dụng estrogen tại chỗ hoặc chất bôi trơn niêm mạc âm đạo để
làm tối thiểu cơn đau khi giao hợp do chấn thương các mô thiếu estrogen. Tư thế nằm trên của
người phụ nữ được khuyến khích vì họ có thể dễ dàng kiểm soát chiều sâu "thâm nhập" của
dương vật.
7. Chăm sóc h u s n
Hư ng d n s n ph
Hướng dẫn cho sản phụ vào thời iểm xuất viện không nên chỉ tập trung vào những vấn
ề hậu sản và tránh th thai. Đây còn là m t cơ h i t t đ tăng cư ng giá tr và s c n
thi t cho c m và bé. Nh ng thói quen nguy cơ cao như rư u, thu c lá, l m d ng
thu c nên đư c tư v n k càng cùng v i s can thi p h p lý. Bác sĩ cũng c n ph i
đánh giá tình tr ng tâm lý c a s n ph .
S ti t s a và cho con bú
S a m là ngu n dinh dư ng lý tư ng cho bé và đư c khuy n cáo r ng s n ph ch
nên cho con bú s a m vào 6 tháng đ u đ i
L i ích c a vi c cho bú s a m bao g m gi m nguy cơ viêm tai, nhi m trùng hô
h p, tiêu ch y, ch t non, d ng, ph n ng d ng, đái tháo đư ng thi u niên, gi m s
l n nh p vi n vào nh ng năm đ u đ i, tăng kh năng nh n th c. tr nhũ nhi, bú s a
m làm gi m nguy cơ viêm ru t non k t ho i t . L i ích c a m : gia tăng tình m con,
gi m kh năng sinh s n vì m t kinh khi ti t s a và gi m nguy cơ b các lo i K do nh y
c m hormon bao g m K vú.
Ch ng ch đ nh cho con bú:
• S n ph nhi m HIV
• S n ph đang b lao ph i không đc ti p xúc v i tr đ n khi đã đư c đi u
tr hoàn toàn và không còn kh năng lây nhi m, có th l y s a m riêng
và cho tr bú, tr nh ng trư ng h p hi m viêm vú do lao.
• S n ph đang hóa tr , truy n các ch t ch ng chuy n hóa ho c x tr không
nên cho con bú cho đ n khi đư c thanh th i hoàn toàn các ch t trên.
• Tr có galactoz trong máu không đư c cho bú s a m vì nh y c m v i
lactose.
• S n ph s d ng nh ng lo i thu c không h p pháp không nên cho con
bú.
N ng đ thu c trong s a m là 1 trong nh ng v n đ c n quan tâm đ i v i
nh ng bà m cho con bú. <1% lư ng thu c đưa vào cơ th xu t hi n trong s a m .
Đi u này c n đư c lưu ý khi kê toa cho s n ph . Nh ng lo i thu c đ c tr c m dùng khi
cho con bú g m: lithium carbonate, tetracyline, bromocriptine, methotrexate & nh ng
ch t phóng x . L m d ng quá các ch t sau cũng b c m khi cho con bú: amphetamine,
cocaine, heroin, maijuana & phencyclidine (PCP).
8. Sau sinh, s gi m n ng đ estrogen và các hormon nhau thai là nhân t chính
lo i b s c ch ho t đ ng prolactine. Và đ ng tác bú c a bé kích thích gi i phóng
oxytocin t tuy n yên. Gia tăng n ng đ oxytocine trong máu kích thích tuy n vú tăng
ti t s a. Đ ng th i oxytocin cũng làm tăng co rút t cung vì v y gia tăng s co h i t
cung th i kì h u s n. Prolactin cũng đư c kích thích gi i phóng khi khi bé bú làm tăng
ti t acid béo, lactose, & casein. S a non đư c s n xu t trong 5 ngày đ u sau sinh và
s đư c thay d n băng s a m . S a non ch a nhi u khoáng ch t và protein nhưng ít
ch t béo và đư ng hơn s a m , m c dù ch a nhi u huy t c u béo là các t bào bi u
mô thoái hóa m . S a non cũng ch a immuno globulin A, giúp b o v bé kh i nhi u
b nh đư ng ru t. V sau, kho ng ngay 3-6 sau sinh s a đư c s n xu t.
Đ s a đư c s n xu t ph i có đ y đ insulin, cortisol, & thyroid hormon & đ y đ
dư ng ch t và nư c trong kh u ph n ăn c a m . Ngư i m c n t i thi u 1800 kcal m i
ngày và thêm 500 kcal m i ngày đ ti t s a. T t c vitamin tr vitamin K đ u có trong
s a m , nhưng vì chúng bi n đ i theo nhi u hàm lư ng khác nhau nên vi c b sung
vitamin cho m là r t c n thi t. Có th cung c p thêm vitamin K cho tr đ phòng ng a
xu t huy t nhũ nhi
Chăm sóc núm vú r t quan tr ng trong vi c cho con bú s a m . Núm vú c n
đư c r a s ch b ng nư c và đ thoáng 15-20’ sau khi cho con bú. Có th bôinh ng
d ng kem như lanolin hay thu c m A & D khi c m th y căng c ng núm vú. Núm vú b
n t s làm vi c cho con bú tr nên c c kì khó, nên t m th i ngưng cho bé bú, ti t s a
cho bé u ng riêng trong th i ch h i ph c.
Lo âu, tr m c m h u s n
BA LO I R I LO N TINH TH N TH I KÌ H U S N
Bu n r u, lo âu Tr m c m R i lo n tinh th n
% 70 - 80 >=10 0.1 - 0.2
Xu t hi n 2-4 ngày sau sinh 2 tu n – 12 tháng
sau sinh
2-3 ngày sau sinh
Kéo dài 2-3 ngày, gi i pháp
trong 10 ngày
3-14 tháng Tùy s n ph
Tri u ch ng M t ng nh , d
khóc, m t m i, d
kích đ ng, m t t p
trung, chán n n,
bu n phi n, th t
v ng
D kích đ ng, tâm
tr ng không n
đ nh, m t ng , ám
nh, lo l ng, các
tri u ch ng này t
hơn vào bu i chi u
Tương t như h i
ch ng não: r i
lo n, đãng trí, d b
phân tán
Đi u tr Ko, s n ph t đi u
ch nh
Thu c ch ng tr m
c m, Li u pháp tâm
lý
Thu c