GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
Gih1
1. Khủng khoảng , Triển vọng kinh tế tài chính thế giới và
tình trạng Lạm phát triển chậm ( Stag-flation ) của Việt
Nam - Chuyên gia ngân hàng và đầu tư Vũ Giản , Kiều bào
Thụy Sĩ
Trước tình hình tài chính, kinh tế thế giới có nhiều biến động, phóng viên
TTXVN tại Giơ-ne-vơ đã có buổi phóng vấn ông Vũ Giản, chuyên gia kinh tế
và tài chính tại Giơ-ne-vơ, Thụy Sĩ về tình hình và triển vọng tài chính, kinh tế
thế giới, những tác động đối với Việt Nam.
- Phóng viên: Với tư cách là một chuyên gia về kinh tế và tài chính tại Giơ-ne-
vơ, ông đánh giá như thế nào về tình hình tài chính thế giới trong thời gian
qua ?
- Chuyên gia Vũ Giản: Cuộc khủng tài chính Mỹ hiện nay thực chất bắt nguồn
từ cuộc khủng hoảng tài chính của nước này cách đây khoảng 20 năm trước.
Tại cuộc khủng hoảng năm 1987, người Mỹ đã thừa nhận, nước Mỹ đã nợ nước
ngoài quá nhiều và thực tế với sự vay nợ này, người Mỹ đã hưởng lợi và tiêu
dùng vượt quá khả năng trả nợ của mình. Tại thời điểm đó, giới chức Mỹ đã đề
ra một số biện pháp để tránh một cuộc khủng hoảng tương tự. Tuy nhiên,
những biện pháp này chỉ có hiệu quả trong khoảng 10 năm, và đến những năm
1995-1997, thị trường chứng khoán Mỹ lại một lần nữa bị khủng hoảng. Nhưng
quy mô cuộc khủng hoảng 95-97 nhẹ hơn khủng hoảng 1987 hay 2008 hiện
nay. Cuộc khủng hoảng 1995-1997 đã có những tác động xấu và gây ra cuộc
khủng hoảng tài chính nghiêm trọng tại Đông Nam Á năm 1997-1998. Sau đó,
chính phủ Mỹ đã không đề ra biện pháp gì mới để tránh khủng hoảng. Và các
chuyên gia đã bắt đầu nói và chờ đợi về một cuộc khủng hoảng tín dụng
( Credit Crunch ). Và đúng 10 năm sau, năm 2008 nổ ra cuộc khủng hoảng tín
dụng nhà đất tại Mỹ hiện nay.
2. Về nguyên nhân trực tiếp, của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay là do khủng
hoảng tín dụng nhà đất. Các ngân hàng tại Mỹ trước đây đã quá dễ dãi trong
việc cho vay tín dụng để mua nhà đất, họ đã cho khách hàng vay mua nhà vượt
quá khả năng tài chính của người mua. Có những ngân hàng Mỹ còn cho khách
hàng vay tới 110-120% giá trị của căn hộ họ cần mua. Vào thời điểm cách đây
10 năm, khí lãi suất cho vay còn thấp, thì những người có thu nhập trung bình
tại Mỹ cũng có thể mua được nhà và trả lãi cho ngân hàng được. Tuy nhiên, sau
đó lãi xuất ngân hàng bắt đầu tăng, nhưng người vay tiền ngân hàng để mua
nhà bắt đầu không thể trả nổi lãi ngân hàng, các ngân hàng bắt đầu phải siết nợ,
lấy lại ngôi nhà của người mua ( theo luật của Mỹ, chỉ 1 vài tháng mà người
vay không trả nổi nợ ngân hàng sẽ bị siết nợ ). Điều này dẫn đến kết quả bong
bóng nhà đất bị nổ, giá nhà đất sụt giảm. Dẫn tới khủng hoảng tín dụng nhà đất.
Vấn đề không chỉ dừng lại ở đây. Người Mỹ đã nghĩ ra ra 1 hình thức đầu tư
mới đó là cổ phần hóa các khoản nợ tín dụng nhà đất và đưa vào các Quỹ đầu
tư rủi ro ( hedge funds,alternative,derivatives ).
Theo đó, các ngân hàng nước ngoài cũng mua các cổ phần có chứa các khoản
nợ tín dụng nhà đất này mà không biết tới hậu quả của nó. Và kết quả là khi các
khoản nợ không đòi được thì những cố phiếu này cũng bị mất giá theo. Tình
hình này đã khiến một loại các ngân hàng tại Mỹ bị phá sản, trong đó lớn nhất
phải kể đến là ngân hàng chuyên về đầu tư Lehman Brothers. Người Mỹ đã sai
lầm khi không nhanh chóng cứu Lehman Brothers, để cho ngân hàng này bị
phá sản, điều này tạo nên tâm lý rất xấu đối với thị trường chứng khoán Mỹ và
thế giới. Tuy rằng, Mỹ cũng đã ra tay cứu trợ các ngân hàng và công ty tài
chính lớn khác, nhưng vẫn không thể xóa bỏ được tâm lý sợ hãi đang lan tràn
trên khắp thị trường chứng khoán Mỹ và thế giới.
Các hình thức cứu trợ tài chính khác nhau tại châu Âu
Khủng hoảng tài chính Mỹ đã nhanh chóng lan sang châu Âu qua trung gian là
các Quỹ đầu tư rủi ro chuyên buôn bán các cổ phần nợ tín dụng nhà đất. Rút
kinh nghiệm từ Mỹ, chính phủ các nước châu Âu đã nhanh chóng bỏ tiền ra
cứu trợ các ngân hàng hoặc công ty tài chính gặp khó khăn ngay từ lúc đầu.
Phần lớn các nước châu Âu bỏ tiền thẳng vào các ngân hàng hoặc công ty tài
chính để trở thành cổ đông của những ngân hàng hoặc công ty này như các
nước Anh, Pháp Bỉ. Riêng tại Thụy Sĩ lại có cách cứu trợ rất riêng và tỏ ra khá
hiệu quả. Ngân hàng Trung ương Thụy Sĩ đã cho ngân hàng UBS Thụy Sĩ vay
60 tỷ Franc Thụy Sĩ trong vòng 3 năm ( lãi suất mỗi tháng là 12,5% ) để xóa
những nợ xấu từ các cổ phiếu chứa các khoản nợ tín dụng nhà đất, bằng cách
mở một 1 công ty để đưa những khoản nợ xấu vào đó (UBS cũng đóng góp
10% số tiền được vay vào công ty này). Đây là hình thức cứu trợ khác các nước
3. châu Âu khác, có thể gọi là “trách nhiệm hóa” ngân hàng UBS. Theo thời gian,
cổ phiếu có chứa các khoản nợ tín dụng nhà đất nêu trên nếu lên giá trở lại,
UBS có thể bán và vẫn có thể sinh lời. Cách thức cứu trợ trên của ngân hàng
Trung ương Thụy Sĩ có tác dụng làm cho các ngân hàng đang gặp khó khăn
hiện tại có trách nhiệm hơn.
- PV: Theo ông, đã có tác động của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay lên
nền kinh tế thực chưa và các tác động đó là gì ?
- Ông Vũ Giản: Nhìn chung, cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay đã có những
tác động tới nền kinh tế thực. Khi mà tâm lý lo sợ trong dân chúng đã lan tràn,
đông đảo người dân đã ra ngân hàng để rút tiền, hoặc chuyển tiền từ ngân hàng
này sang ngân hàng kia, tiêu dùng đã giảm rõ rệt làm ảnh hưởng tới hoạt động
sản xuất, thất nghiệp gia tăng, lĩnh vực dịch vụ và du lịch cũng bị thất thu
nhiều…Trong kinh tế học, dấu hiệu để phát hiện ra khủng hoảng kinh tế của 1
quốc gia là dựa vào chỉ số phát triển âm liên tiếp trong 2 quý liền, thực tế, Mỹ
đã có chỉ số phát triển âm liên tiếp trong 2 quý. Trong khi đó, tại Anh, Thủ
tướng Anh cũng đã tuyên bố nước Anh cũng đang bắt đầu bước vào giai đoạn
khủng hoảng kinh tế.
- PV: Với những tác động nêu trên của khủng hoảng tài chính, ông đánh giá
như thế nào về triển vọng của kinh tế, tài chính thế giới ?
- Ông Vũ Giản: Những kế hoạch cứu trợ thị trường tài chính của chính phủ Mỹ
và châu Âu về cơ bản đã có hiệu quả về ngắn hạn. Tuy nhiên, về trung hạn và
dài hạn thì cần phải cải tổ lại hệ thống tài chính thế giới như đề xuất của Tổng
thống Pháp Nicolas Sarkozy. Lý do là hệ thống tài chính thế giới hiện nay đã
được hình thành sau chiến tranh thế giới thứ II, năm 1945, tại Bretton Woods,
Mỹ, các quốc gia thắng trận đứng đầu là Mỹ đã lập ra 2 tổ chức là Ngân hàng
Thế giới ( World Bank ) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế ( IMF ). Hai tổ chức này chỉ
có nhiệm vụ hỗ trợ các quốc gia chậm phát triển hoặc hỗ trợ các quốc gia phát
triển trong trường hợp bị khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, 2 tổ chức này không
có các chế tài xử phạt những quốc gia vi phạm các quy luật của hệ thống tài
chính quốc tế. Do vậy, hiện nay EU và Chủ tịch Liên minh châu Âu Nicolas
Sarkozy đang đàm phán với Mỹ nhất là Tổng thống tương lai của Mỹ để lập ra
một tổ chức tài chính thế giới có thể được gọi là World Finance Organisation
(WFO).
Về triển vọng tình hình tài chính thế giới, sẽ có 2 kịch bản:
Kịch bản 1 : Lạc quan
4. Theo đó kinh tế Mỹ và thế giới sẽ chỉ bị suy thoái ở 1 trong 2 quý đầu năm
2009. Với điều kiện, tâm lý của người tiêu dùng ổn định, không còn ngân hàng
bị phá sản nữa. Hơn nữa, các bộ máy sản xuất tại Mỹ vẫn còn nguyên vẹn và
vẫn còn khả năng sản xuất cung ứng cho người tiêu dùng.
Kịch bản 2 : bi quan
Xảy ra khi mà một cơ quan như WFO chưa được thiết lập. Bởi để lập ra WFO
cần phải có thời gian, hơn nữa, quá trình tiến tới thiết lập WFO sẽ gặp phải rào
cản có lẽ từ phía Mỹ, quốc gia được hưởng lợi từ trước cuộc khủng hoảng tài
chính này.
Tôi thiên về kịch bản 1 hơn, nếu WFO chưa sớm được thành lập, tình trạng tài
chính thế giới theo chiều hướng bi quan dẫn tới khủng hoảng kinh tế, kéo theo
một loạt các ngân hàng bị phá sản, cũng như có các quốc gia bị kiệt quệ như
trường hợp của Aixơlen phải cầu cứu sự cứu trợ World Bank và IMF.
- PV: Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới hiện nay có những tác động như thế
nào tới Việt Nam ?
- Ông Vũ Giản: Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính Mỹ và châu Âu đã có
những ảnh hưởng rất xấu tới thị trường tài chính châu Á với mức độ ảnh hưởng
khác nhau. Những quôc gia bị ảnh hưởng mạnh nhất là những nước có sự hội
nhập sâu rộng vào thị trường tài chính thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Loan, Singapo, Malaixia…Những quốc gia bị ảnh hưởng ở mức độ vừa phải là
Trung Quốc, do Trung Quốc có một thị trường tiêu thụ nội địa rộng lớn, nên
mức độ ảnh hưởng sẽ là ở mức độ vừa phải. Đối với Việt Nam tuy chưa hội
nhập sâu vào thị trường tài chính thế giới, tuy nhiên, do hoạt động sản xuất của
ta chủ yếu hướng vào xuất khẩu và chưa khai thác tốt được thị trường trong
nước rộng lớn với hơn 80 triệu dân. Do vậy, mức độ ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng này là khá lớn đối với Việt Nam.
Trước tiên, thị trường chứng khoán của Việt Nam khó có thể tránh khỏi những
ảnh hưởng bất lợi từ thị trường chứng khoán thế giới. Đặc biệt, khi thị trường
chứng khoán tại Việt Nam còn non trẻ, tâm lý của các nhà đầu tư còn chưa
vững vàng, ảnh hưởng từ thị trường bên ngoài tới thị trường chứng khoán trong
nước là không thể tránh khỏi.
Ảnh hưởng thứ 2 cần đề cập tới đó là hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Thị
trường xuất khẩu của Việt Nam bị thu hẹp do khủng hoảng tài chính thế giới.
Trong khi đó, kinh tế Việt Nam lại đang nhập siêu với tỷ lệ lớn, hơn 5%.
5. Ảnh hưởng thứ 3 là hoạt động tín dụng tại Việt Nam bị thắt chặt ảnh hưởng tới
hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khiến nhiều doanh nghiệp vừa và
nhỏ bị phá sản. Theo thông tin của Chủ tịch Hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt
Nam, tính tới nay đã có tới 200.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam bị
phá sản.
Ngoài ra, thời điểm khủng hoảng tài chính thế giới diễn ra đúng vào thời điểm
nền kinh tế Việt Nam đang gặp khó khăn. Đây cũng chính là thách thức rất lớn
đối với kinh tế Việt Nam hiện nay.
- PV: Để vượt qua những khó khăn hiện nay, cần phải có những giải pháp gì
cho nền kinh tế Việt Nam, thưa ông ?
- Ông Vũ Giản: Theo tôi, cần phải thực hiện những giải pháp như sau: + Chú
trọng các hoạt động sản xuất hướng vào người tiêu dùng trong nước thay vì
hướng ra xuất khẩu. Tạo các mẫu mã hợp nhu cầu và thời trang với người tiêu
dùng trong nước để thay thế dần các hàng ngoại nhập (để người tiêu dùng
không vọng ngoại nữa mà là hướng nội), nhằm giảm nhập siêu (cân bằng cán
cân thương mại), thay thế dần các thị trường xuất khẩu đang bị thu hẹp do
khủng hoảng tài chính thế giới. Điều này cũng cho phép ta khuyến khích phát
triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ (vì các doanh nghiệp vừa và nhỏ gần với
người tiêu dùng trong nước hơn, các tổng công ty nhà nước thì chỉ hướng tới
các hoạt động xuất khẩu mà thôi). Theo đó, ngân hàng nhà nước nên có chính
sách tín dụng linh hoạt hơn, thực tế là giảm lãi suất ngân hàng nhằm giúp các
doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể vay để đầu tư cho hoạt động sản xuất phục vụ
thị trường trong nước thay thế hàng ngoại nhập vào Việt Nam. Không nên vì
khủng hoảng tài chính thế giới mà thắt chặt quá tín dụng gây ra hàng loạt vụ
phá sản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nêu trên. Ngoài ra, chúng ta cũng nên
rút kinh nghiệm của các nước Mỹ và châu Âu, cần giữ nguyên trạng hệ thống
sản xuất để khi kinh tế phát triển trở lại, thì đã có sẵn bộ máy để bắt tay ngay
vào sản xuất phục vụ người tiêu dùng. Cố gắng tránh hàng loạt các vụ phá sản
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ vì các rào cản tín dụng.
- Cuộc khủng hoảng tài chính này cũng là một bài học cho các Tổng công ty,
doanh nghiệp nhà nước đã bỏ các ngành nghề chính thống của mình để quay
sang đầu tư hay đầu cơ vào các lĩnh vực chứng khoán và bất động sản để kiếm
lời nhanh hơn, nhưng với cuộc khủng hoảng tài chính và chứng khoán này họ
buộc phải quay lại với ngành nghề chính thống của mình.
- Chính sách chống lạm phát 8 điểm hiện nay của chính phủ là rất tốt, tuy
nhiên, cần phải có sự triển khai thực hiện toàn diện. Chính sách này đã đạt
được hiệu quả trong tháng 9/2008. Tuy nhiên, mục tiêu đề ra là giảm lạm phát
6. xuống 15% trong năm 2009 là rất khó, bởi lạm phát trong năm 2007 là 12, 5%
và dự tính lạm phát trong năm 2008 là 25 tới 30%, do vậy để giảm lạm phát
xuống còn một nửa trong năm 2009 là mục tiêu khó có thể thực hiện được.
Ngoài ra, để thực hiện chính sách 8 điểm giảm lạm phát của chính phủ cũng
cần phải có sự phối hợp, tham gia của nhiều bộ ngành, cơ quan, địa phương,
các doanh nghiệp nhà nước, chứ không riêng gì một mình doanh nghiệp vừa và
nhỏ phải chịu thiệt vì chính sách thắt chặt tiền tệ của chính phủ.
- Để thoát khỏi tình trạng kinh tế”lạm-phát-triển chậm” hay Stagflation
( economic stagnation-Inflation ) hiện nay-vì dậm chân tại chỗ và bị lạm phát
đe dọa, dùng vũ khí chống lạm phát là chưa đủ, cần phải có chính sách làm sao
để lạm phát vừa đủ để kinh tế vẫn phát triển.Đồng thời cũng ngừng đặt ra mục
tiêu là kinh tế phải phát triển cao hơn lạm phát.
- Chính phủ cũng cần phải có chính sách phát triển toàn diện đồng đều quanh 2
trục doanh nghiệp chính của nền kinh tế là doanh nghiệp vừa và nhỏ và các
doanh nghiệp, tổng công ty nhà nước.
Nói tóm lại, trong chữ “nguy cơ” khủng hoảng có chữ“nguy hiểm” và “cơ hội”.
Do vậy, trong bất cứ cuộc khủng hoảng nào, có nguy hiểm nhưng cũng có
nhiều cơ hội cho những người biết nắm bắt đúng cơ hội để tiếp tục phát
triển.Trên đây là những mong muốn và hy vọng mà tôi dành cho nền kinh tế
nước nhà.
- PV: Xin cảm ơn ông
Trần Đức Hùng