1. CÁC MŨI KHÂU DA THƯỜNG DÙNG
1. MỤC TIÊU:
Nắm rõ nguyên tắc khâu da và các kỹ
thuật khâu da cơ bản.
Thực hiện đúng thao tác cầm kẹp
phẫu tích.
Thực hiện đúng thao tác cầm kẹp
mang kim.
Thực hiện đúng thao tác cột chỉ bằng
dụng cụ.
Khâu được mũi khâu rời, mũi khâu
đệm dọc (mũi khâu Blair Donati).
2. PHÂN BỐ THỜI GIAN:
Giới thiệu mục tiêu: 1 phút
Trình bày nội dung: 14 phút
Thực hành: 60 phút
Đánh giá: 10 phút
3. NỘI DUNG:
3.1 Nguyên tắc:
Khâu đúng theo từng lớp giải phẫu
học: cân với cân, cơ với cơ, mô dưới da với
mô dưới da và da với da. Mục đích khâu
đúng lớp giải phẫu là loại bỏ được khoảng
chết dưới đường khâu.
Hai bờ mép da phải được ráp đúng và
khép kín với nhau, không chênh nhau, hoặc
lộn ra ngoài, hoặc quặp vào trong.
Sau khi khâu, hai mép vết khâu phải
không so le nhau, nghĩa là không để bên
thừa, bên thiếu. Muốn vậy, ban đầu trước
khi rạch da phải làm mốc trước, hoặc trước
khi khâu phải căng 2 mép vết mổ hoặc vết
thương và ước lượng khoảng cách của các
mũi khâu ở 2 bờ đường khâu. Một cách
khắc phục khác cho phẫu thuật viên chưa
nhiều kinh nghiệm là kỹ thuật chia đôi,
nghĩa là khâu ở giữa một mũi chuẩn, sau đó
tuần tự chia đều ra 2 mép vết mổ.
Siết chỉ vừa đủ chặt để khép 2 mép da
lại với nhau. Tránh siết chỉ quá chặt sẽ gây
thiếu máu nuôi và để lại sẹo phụ.
3.2 Chỉ, dụng cụ và cách sử dụng:
a. Chỉ:
Chỉ để sử dụng may da thường là chỉ
không tiêu. Tốt nhất vẫn là chỉ tơ (chỉ silk)
hoặc chỉ Nylon vì các chỉ này ít tạo phản
ứng mô tại chỗ.
Đường kính sợi chỉ tùy thuộc vào vị
trí may. thường dùng nhất là chỉ 3-0, nếu ở
vùng mặt hoặc bàn tay thì dùng chỉ nhỏ hơn
(4-0 hoặc 5-0).
Kim sử dụng may da là kim tam giác,
kim này có tính xuyên cắt tốt vì da là mô
rất dai.
b. Kẹp phẫu tích có mấu:
Có 2 cách cầm kẹp phẫu tích:
- Cầm giống kiểu cầm viết.
- Cầm theo kiếu cầm "bút lông" của
cụ đồ.
2. c. Kẹp mang kim:
Có 2 cách cầm kẹp mang kim:
- Cầm theo cách cầm kéo hoặc kẹp
cầm máu: Thao tác này được thực hiện khi
khâu ở nông, mô không quá dai, quá dày và
không cần sử dụng hết độ sấp ngửa của bàn
tay.
- Cầm trong lòng bàn tay: Vòng thứ
nhất của kẹp mang kim tựa vào mô cái, đầu
ngón cái tựa lên cành trên kẹp; ngón trỏ tựa
lên một cành của kẹp hoặc giao điểm giữa 2
cành để điều chỉnh cho động tác chính xác;
ba ngón còn lại nâng cành thứ hai của kẹp.
Cách cầm này sử dụng khi khâu những mô
quá dai hoặc quá dày (ví dụ cân cơ), khi sử
dụng cách cầm này biên độ xoay kẹp cũng
nhiều hơn.
Kim khâu được kẹp ở 1/3 sau thân
kim và chỉ được kẹp ở đầu kẹp mang kim.
3.3 Các mũi khâu cơ bản:
Khi khâu da có thể áp dụng nhiều loại
mũi khâu khác nhau như mũi khâu rời, mũi
khâu liên tục, mũi khâu đệm...Tùy thuộc
nhiều yếu tố như tính thẩm mỹ, vị trí (mặt,
chi, bụng, lưng...), lớp mỡ dưới da nhiều
hay ít mà khoảng cách giữa các mũi khâu
có thể từ 1mm đến 1cm miễn sao giữa hai
mũi khâu không có khoảng hở. Khâu gần
với chỉ nhỏ thì tốt và chắc hơn so với khâu
xa với chỉ to. Khi khâu, mũi kim hợp với
mặt da một góc 600
, chiều lấy mô cũng theo
chiều cong của kim và phải lấy hết bề dày
mô dưới da.
a. Mũi khâu rời:
Sau mỗi mũi khâu, chỉ được buộc lại
và cắt. Đây là mũi khâu được áp dụng rộng
rãi nhất. Thực hiện mũi khâu này chiếm
nhiều thời gian, tuy nhiên, lợi điểm của nó
là nếu một mũi khâu bị đứt thì các mũi còn
lại vẫn có thể giữ chắc vết thương.
3. b. Mũi khâu liên tục:
Sau mũi khâu đầu tiên ở một mép của
vết mổ, ta tiến hành cột chỉ nhưng không
cắt. các mũi khâu tiếp theo sẽ được thực
hiện liên tục đến mép còn lại của vết mổ.
Cuối đường khâu, ta cột chỉ một lần nữa để
kết thúc. Mũi khâu liên tục này còn được
gọi là mũi khâu vắt. Lợi điểm của mũi khâu
này là nhanh và phân bố đều lực ép dọc
theo đường khâu. Nhược điểm là cần phải
có người phụ để căng sợi chỉ và nếu có mệt
điểm nào trên sợi chỉ đứt thì sẽ bung hết cả
đường khâu.
c. Mũi khâu đệm ngang:
Sau khi xuyên qua 2 bờ da như mũi
khâu rời, ta khâu thêm một mũi sát hai mép
da theo chiều ngược lại. Vị trí kim cách
mép vết mồ 1mm và đâm sâu 1mm.
Mũi khâu đệm này còn được gọi là
mũi Blair Donati. Mũi này thích hợp trong
những trường hợp khó ráp hai mép vết mổ
chính xác với nhau như trong trường hợp
khâu da người lớn tuồi, khâu ở vùng da
chùng hoặc nhão. Nhược điểm của mũi
khâu đệm ngang là rối loạn tuần hoàn da.
d. Mũi khâu trong da:
Mũi khâu trong da là mũi khâu liên
tục được khâu trong lớp bì ngay sát dưới
lớp biểu bì. Chỉ khâu được neo ở một đầu
của vết mổ bằng một nút thắt chỉ to hoặc
bằng một mũi khâu thông thường. Sau đó
chỉ khâu được khâu luồn liên tục dưới da để
khép kín vết mổ. Ở cuối đường khâu, ta neo
tương tự giống như đầu vết mổ kia.
Lợi điểm của mũi khâu trong da là
không có sẹo chân chỉ. Mũi khâu trong da
có thể áp dụng cho những vết mổ sạch và
da vùng vết mổ không dễ bị căng, co kéo
(Ví dụ vết mổ hạch ở cổ, vết mổ bướu lành
ở vú, vết mổ thoát vị bẹn).
e. Mũi khâu góc
Đối với các vết thương có góc hình
chữ V, T hay Y, ta sử dụng mũi khâu góc.
Mũi may này xuất phát từ bể mặt da của
một bờ vết thương xuống lớp bì, sau đó qua
4. lớp bì của các bờ vết thương khác và cuối
cùng quay trở lại da của bờ ban đầu. Mũi
may góc giúp tránh tình trạng thiếu máu
nuôi ở các góc của vết thương.
3.1 Cột chỉ bằng dụng cụ:
Nguyên tắc là luôn luôn để kẹp ở
giữa, trên sợi chỉ, và buộc đúng chiều (đầu
kẹp mang kim lần đầu qua trái, lần sau qua
phải hoặc lần đầu hướng gần, lần sau
hướng xa) để tạo thành nút vuông. Một chi
tiết sai thì nút buộc không phải nút vuông
và làm mũi khâu không chắc.
Nút thắt chỉ nằm lệch một bên so với
đường khâu.
Tài liệu tham khảo:
1.Nguyễn Hồng Ri (2007), "Nguyên
tắc và kỹ thuật cơ bản", Phẫu thuật thực
hành, Nhà xuất bản Y học, TP.HCM, tr.51-
55.
2. Mihály Boros (2006), "Basic
wound-closing methods: sutures and clips",
Surgical Techniques, Innovariant Ltd.,
Szeged, pp. 32-44.
3. Zuber, Thomas J.; Mayeaux (2004),
"Dermatology", Atlas of Primary Care
Procedures, Lippincott Williams &
Wilkins, Philadelphia, pp. 109 - 133.