30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Đề tài: Vị trí, vai trò của giáo dục Nho giáo trong xã hội phong kiến Việt Nam
1. Website: http://www.docs. vnEmaH: !ienhe@docs. vn Te! S: 0918.775.368
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ lâu, giáo dục - đào tạo đã trở thành vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với
sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Giáo dục không chỉ góp phần hoàn
thiện con nguời mà còn tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, chính trị,
văn hoá xã hội. Đặc biệt, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nuớc ta,
giáo dục đuợc coi là quốc sách hàng đầu đối với công cuộc xây dựng, đất nuớc. Hồ
Chí Minh đã từng dạy "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội truớc hết phải có những
con nguời xã hội chủ nghĩa". Con nguời xã hội chủ nghĩa không phải tự dung mà có
đuợc mà phải trải qua quá trình học tập và rèn luyện. Việc học tập ở đây là tiếp thu
những tri thức khoa học tiến bộ của thời đại, đồng thời biết kế thừa và phát huy
những di sản văn hoá của dân tộc, nhân loại để hội nhập với xu thế phát triển chung
của thế giới.
Đe giáo dục đạt hiệu quả cao, bên cạnh việc đề ra chủ truơng, chính sách
mới, tiếp thu những tu tuởng giáo dục mới, chúng ta cần phải kế thừa, phát huy
truyền thống quý báu của dân tộc đó là nền giáo dục Nho học.
Nho giáo du nhập vào nuớc ta cách đây khoảng hơn 2000 năm và gắn liền
với sự hình thành và phát triển của chế độ và xã hội phong kiến Việt Nam. Nó đã
trở thành hệ tu tuởng, công cụ thống trị của giai cấp phong kiến và ảnh huởng tới
nhiều mặt của đời sống xã hội Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị và giáo
dục khoa cử. Nho giáo và giáo dục Nho giáo đã trở thành một phần không thể thiếu
trong di sản văn hoá dân tộc.Vì vậy khi nghiên cứu tu tuởng truyền thống của dân
tộc không thể bỏ qua vị trí, vai trò của giáo dục Nho giáo trong lịch sử.Việc tìm
hiểu về giáo dục Nho giáo còn giúp chúng ta có những đánh giá toàn diện hơn
2. Website: http://www.docs. vnEmaH: !ienhe@docs. vn Te! S: 0918.775.368
2
giáo dục Nho giáo từ đó khắc phục hạn chế và kế thừa những giá trị tích cực của nó
vào hệ thống giáo dục đào tạo ở nước ta hiện nay. Từ những lý do trên, tôi chọn vấn
đề "Vị trí, vai trò của giáo dục Nho giáo trong xã hội phong kiến Việt Nam" làm đề
tài niên luận.
2. Tình hình nghiên cứu
Giáo dục là một trong những nội dung cơ bản của Nho giáo. Nghiên cứu về
giáo dục Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong chế độ phong kiến Việt Nam không
còn là đề tài mới mẻ. Có rất nhiều công trình đã nghiên cứu về vấn đề này dưới
nhiều góc độ và phương pháp tiếp cận khác nhau của các tá giả như: Nho học và
Nho học ở Việt Nam của Nguyễn Tài Thư; Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nguyễn Tài
Thư (Chủ biên); Nho học ở Việt Nam giáo dục và thi cử - Nguyễn Thế Long, Sự
phát triển giáo dục và chế độ thi cử ở Việt Nam thời phong kiến - Nguyễn Tiến
Cường, Giáo dục và khoa cử Việt Nam - Nguyễn Quang Thắng..
Nền giáo dục khoa cử của triều đại phong kiến Việt Nam đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu khác nhau như: Lịch triều hiến chương loại chí của Phan
Huy Chú và Đại Việt sử kỷ toàn thư do Ngô Sĩ Liên soạn... Tuy nhiên các công
trình này mới chỉ dừng lại ở việc liệt kê các sự kiện lịch sử của các triều đại phong
kiến Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực, kể cả giáo dục - khoa cử từ đó đưa ra nhận
xét, đánh giá của mình.
Bên cạnh các công trình trên còn có nhiều luận văn, luận án và các bài viết
trên tạp chí nghiên cứu lịch sử, tạp chí giáo dục lý luận, tạp chí triết học... như "Đôi
điều suy nghĩ về đối tượng giáo dục giáo hoá" của Nguyễn Thanh Bình, "Quan
điểm của Khổng Tử về giáo dục và đào tạo con người" của Doãn Chính... Nhìn
chung các công trình đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về tư tưởng giáo dục
Nho giáo và sự phát triển của giáo dục Nho giáo trong chế độ phong kiến ở Việt
Nam với những khía cạnh và góc độ khác nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về giáo
dục
3. Website: http://www.docs. vnEmail :Henhe@docs. vn Te! S: 0918.775.368
3
Nho giáo vẫn chưa có sự đánh giá đầy đủ về vai trò, vị trí của nó trong xã hội phong
kiến Việt Nam.
Vì vậy, tôi chọn đề tài trên với mong muốn làm sáng tỏ một số nội dung của
giáo dục Nho giáo và vai trò của nó trong sự phát triển của xã hội phong kiến Việt
Nam thế kỷ XV.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Đe tài tập trung làm rõ ảnh hưởng và vai trò của giáo dục Nho
giáo đối với xã hội phong kiến Việt Nam thế kỷ XV.
- Nhiệm vụ:
+Làm rõ cơ sở kinh tế, xã hội cho sự ra đời của Nho giáo và giáo dục Nho
giáo.
+ Trình bày một số nội dung cơ bản của giáo dục Nho giáo
+ Trình bày sơ lược về quá trình du nhập và phát triển cùng những điều kiện
kinh tế - xã hội cho sự ra đời của giáo dục Nho giáo.
+ Đánh giá về vai trò, vị trí của giáo dục Nho giáo trong sự phát triển của xã
hội phong kiến thế kỷ XV.
4. Cơ sở lý luận và phuơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin về lịch sử
triết học.
- Phương pháp luận: nghiên cứu sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và quan điểm của chủ nghĩa Mác về lịch sử triết học. Ngoài ra,
nghiên cứu còn sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp logic - lịch
sử.
5. Đổi tuợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: giáo dục Nho giáo và vị trí, vai trò của nó trong xã
hội phong kiến thế kỷ XV.
- Phạm vi nghiên cứu: Nền giáo dục khoa cử nước ta thế kỷ XV.
6. Kết cấu của niên luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
5. Website: http://www.docs. vnEmaH: !ienhe@docs. vn Te! S: 0918.775.368
5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I - NHO GIÁO VÀ GIÁO DỤC KHOA CỬ
1.1. NHỮNG TIỀN ĐỀ VÀ NỘI DUNG CỦA GIÁO DỤC NHO GIÁO.
1.1.1. Nho giáo và tiền đề kinh tế - xã hội cho sự ra đời của giáo dục
Nho giáo
Nho giáo xuất hiện ở Trung Quốc vào khoảng thế kỷ VI truớc công nguyên
duới thời Xuân Thu do Khổng Tử (551 - 479 TCN) sáng lập. Trải qua những thăng
trầm của lịch sử, Nho giáo ngày càng đuợc bổ sung, phát triển và hoàn thiện hơn ở
những khía cạnh, mức độ khác nhau.
Ra đời trong bối cảnh xã hội Trung Quốc buớc vào thời kỳ chuyển giao từ
hình thái chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến kiểu Phuơng Đông nên Nho giáo
thời kỳ này chịu ảnh huởng của sự biến đổi sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội.Giống nhu các bộ phận của kiến trúc thuợng tầng, là một
học thuyết chính trị xã hội nên Nho giáo nảy sinh và tồn tại trên một cơ sở hạ tầng,
một tồn tại xã hội nhất định.
Trên lĩnh vực kinh tế: Thời Xuân Thu, nền kinh tế Trung Quốc có sự chuyển
biến từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Việc sử dụng đồ sắt trong sản xuất đã
đem lại những buớc tiến mới cho sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp. Trong
sản xuất thủ công nghiệp cũng đạt đuợc nhiều thành tựu thúc đẩy một loạt các ngành
nghề thủ công nghiệp ra đời và phát triển nhu luyện sắt, rèn, đúc...
Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công nghiệp, thuơng nghiệp cũng đạt đuợc
nhiều thành tựu. Sự ra đời của tiền tệ đã thúc đẩy các ngành thuơng nghiệp cùng
nhiều trung tâm buôn bán trao đổi hàng hoá đuợc mở rộng hơn.
6. Website: http://www.docs. vnEmaH: !ienhe@docs. vn Te! S: 0918.775.368
6
Thành thị xuất hiện và trở thành một cơ sở kinh tế độc lập. Lúc này, trong xã hội
hình thành tầng lớp quý tộc mới có thế lực, tranh giành quyền lực với tầng lớp quý
tộc cũ. Vì vậy mà nhu cầu cho con em quý tộc học hành và thi đỗ ra làm quan đã
trở nên phổ biến. Đây chính là tiền đề cho việc dạy học và đề cao giáo dục đạo đức
nhằm duy trì và ổn định trật tự xã hội.
Trên lĩnh vực xã hội: Cuối Xuân Thu đầu Chiến Quốc, xã hội Trung Quốc
đang buớc dần sang chế độ phong kiến sơ kỳ nên Tông pháp của nhà Chu không
còn đuợc coi trọng nhu truớc. Các nuớc Chu hầu nổi lên, thôn tính lẫn nhau lấn át
nhà Chu. Mâu thuẫn trong giai cấp thống trị ngày càng trở nên gay gắt dẫn tới tình
trạng trật tự lễ, nghĩa, cuơng thuờng bị đảo lộn, các quan hệ đạo đức suy đồi "Chu
hầu lấn quyền thiên tử, đại phu lấn quyền chu hầu, tôi giết vua, con giết cha, trật tự
xã hội rối loạn"[35;4]. Trong bối cảnh loạn lạc đó một vấn đề lớn đặt ra: cách tổ
chức và quản lý xã hội theo mô hình nhà Chu không còn phù hợp nữa. Và vấn đề là
làm thế nào để thiết lập lại trật tự, kỷ cuơng đua xã hội vào thế ổn định để phát
triển.
Chính trong thời đại lịch sử với những biến động, rối ren nhu trên đã làm
nảy sinh một loạt các nhà tu tuởng, các truờng phái triết học khác nhau. Tất cả đều
đứng trên lập truờng của giai cấp mình để tranh luận, phê phán lẫn nhau về một
biện pháp khắc phục tình trạng "vô đạo" của xã hội đuơng thời. Lịch sử gọi đây là
thời kỳ "Bách gia tranh minh", "Bách gia chu tử" (trăm nhà trăm thày). Trong đó,
xuất hiện nhiều nhà tu tuởng, nhiều hệ thống, truờng phái triết học nhu Nho giáo,
Đạo giáo, Mặc gia, Pháp gia...
Một bộ phận hết sức quan trọng của học thuyết Nho giáo là tu tuởng về giáo
dục. Tu tuởng giáo dục đuợc coi là một trong những nội dung cơ bản của Nho giáo
và nó đuợc xem nhu một thành tố gắn liền với tu tuởng chính trị, xã hội, đạo đức..
Trong quan niệm của các nhà nho, xã hội lý tưởng chỉ có thể thực hiện được
khi mọi người được giáo dục, giáo hoá và có đạo đức. "Giáo dục cũng là một trong
những biện pháp chính trị để xây dựng một xã hội ổn định, thái bình, thịnh trị, có
trật tự kỷ cương và tạo ra mẫu người lý tưởng" [3; 41]. Muốn cho Nho giáo có thể
thấm sâu đến mọi tầng lớp trong xã hội thì không có con đường nào khác ngoài việc
7. Website: http://www.docs. vnEmaH: !ienhe@docs. vn Te! S: 0918.775.368
7
truyền bá tư tưởng qua con đường giáo dục cùng với sự thịnh trị của chế độ phong
kiến, Nho giáo ngày càng khẳng định vị trí của mình trong xã hội. Nhờ đó, giáo dục
Nho giáo cũng được đẩy mạnh để tuyển lựa những người trung thành với bộ máy
cai trị, góp phần vào sự phát triển của chế độ phong kiến.
* Quan niệm của Nho giáo về tính người và vai trò của giáo dục Nho giáo
trong việc thay đối bản tính con người.
Vấn đề tính người là một trong những nội dung cơ bản của Nho giáo. Nó
không chỉ gắn bó, liên quan tới vấn đề nguồn gốc, bản chất con người mà còn đặt
cơ sở, nền tảng cho các nhà Nho giáo đề xuất tư tưởng giáo dục của mình. Đây
được xem như phương thức hữu hiệu nhất để đưa xã hội từ loạn lạc về thái bình,
thịnh trị.
Người đầu tiên đề cập tới vấn đề bản tính con người trong phái Nho giáo là
Khổng Tử. Trong sách Luận ngữ, có tới 3 lần ông nhắc tới chữ "tính" luận về tính
ông nói "Bản tính người ta gần đều giống nhau, nhưng chịu ảnh hưởng khác nhau
mà xa nhau" [14; 614], Theo Khổng Tử, tính của con người khi mới sinh ra là hoàn
toàn trong trắng, ngây thơ, tự nhiên, chưa bị thay đổi bởi hoàn cảnh bên ngoài. Vì
cái bản tính ấy có được do trời nên mọi người đều có bản tính giống nhau. Nhưng
trong quá trình học tập, tiếp xúc, do sự tác động của các yếu tố bên ngoài nên bản
tính của con người có thể bị thay đổi. Điều đó làm cho mọi người trở nên khác
nhau. "Người ta sinh ra vốn ngay thẳng, kẻ cong vạy mà vẫn còn
Sống chẳng qua nhờ may mắn thoát chết" [14; 332]. Khổng Tử còn khẳng định rằng
để giữ được bản tính lành trong mỗi con người thì họ phải được giáo dục, giáo hoá.
Mặc dù, chưa bàn nhiều đến vấn đề "tính người" song những tư tưởng, những quan
niệm của Khổng Tử đưa ra có ý nghĩa to lớn với các nhà nho sau này.
Tiếp thu và kế thừa quan điểm của Khổng Tử, Mạnh Tử cho rằng: "Bản tính
người ta vốn thiện cũng như nước chảy xuống thấp vậy" [14; 1193]. Ở đây, Mạnh
Tử giải thích về tính người thiên về khía cạnh những giá trị xã hội. Con người ta
sinh ra vốn đã thiện đó là điểm phân biệt giữa con người với loài cầm thú. Con
người sở dĩ trở thành bất thiện là do vật dục sai khiến, do hoàn cảnh tác động. Tư
tưởng này là sự kế thừa và phát triển tư tưởng "tính người" của Khổng Tử. Mạnh
8. Website: http://www.docs. vnEmaH: !ienhe@docs. vn Te! S: 0918.775.368
8
Tử cũng đề cao vai trò của giáo dục, giáo hoá trong việc tu dưỡng bản tính thiện
của con người.
Đối lập với quan niệm của Mạnh Tử, Tuân Tử khẳng định: bản tính con
người là ác, thiện là do con người làm ra. Tuân Tử xuất phát từ việc nhìn nhận con
người từ bản năng tự nhiên khác với Mạnh Tử xuất phát từ nhìn nhận, xem xét con
người từ phương diện đạo đức, xã hội. Tuy coi bản tính con người là ác nhưng Tuân
Tử cho rằng có thể uốn nắn được cái bản tính ấy nhờ giáo hoá, giáo dục mà phương
thức tốt nhất để loại trừ nó là học tập, rèn luyện.
Quan niệm về bản tính con người của Tuân Tử và Mạnh Tử có sự đối lập,
trái ngược nhau song đều thống nhất ở chỗ: Có thể giáo hoá giáo dục để hướng con
người tới điều thiện. Tuy nhiên, trong học thuyết của mình cả hai ông đều chưa
nhận thấy được con người là thực thể thống nhất giữa cái tự nhiên và cái xã hội.
Ngoài những quan niệm trên thì con người phải kể đến thuyết tính người của
Cáo Tử "Bản tính của con người ta như nước chảy... không phân biệt thiện với bất
thiện" [14; 1193]. Trong tư tưởng của Cáo Tử, tính người của con người không
thiện cũng không ác nhưng nó có thể thay đổi tuỳ theo sự tác động của hoàn cảnh
xã hội và việc giáo dục tu dưỡng của mỗi con người.
Mặc dù có sự khác nhau trong quan niệm về bản tính vốn có của con người
nhưng các nhà Nho đều khẳng định rằng: Bản tính của con người không phải nhất
thành bất biến mà có thể thay đổi thông qua sự tác động của giáo dục, hoàn cảnh.
Phương thức tốt nhất để giữ được tính thiện, loại trừ tính ác là con người luôn suy
nghĩ và hành động theo điều thiện, tu dưỡng, rèn luyện bằng nhân, lễ, nghĩa, trí,tín.
Đó là điều có thể lý giải tại sao Nho giáo lại coi trọng giáo dục, đề cao giáo hoá và
coi đây là công cụ cai trị.
1.1.2. Một số nội dung cơ bản của giáo dục Nho giáo
Mục đích của giảo dục. Nhằm đào tạo ra lớp người đáp ứng yêu cầu của giai
cấp thống trị, bảo vệ đặc quyền lợi của giai cấp phong kiến, duy trì, ổn định trật tự
xã hội. Quan trọng hơn, giáo dục Nho giáo có mục đích đào tạo ra những bậc quân
tử là những con người mẫu mực có tài trí, đạo đức đem hiểu biết của mình áp dụng
vào cuộc sống và cai trị thiên hạn . Ngoài ra giáo dục Nho giáo còn giáo dục đạo lý
9. Website: http://www.docs. vnEmaH: !ienhe@docs. vn Te! S: 0918.775.368
9
làm người cho dân chúng để họ tuân theo những quy định phép tắc của lễ giáo
phong kiến, khuyên họ an phận thủ thường sống theo đúng danh phận của mình.
Tóm lại, tất cả đều nhằm mục đích đưa xã hội từ loạn lạc trở về thái bình thịnh trị
để củng cố, bảo vệ quyền lợi địa vị của giai cấp phong kiến. Mục đích của giáo dục
Nho giáo không nằm ngoài mục tiêu chính trị.
Đối tượng của giáo dục: Trong Luận ngữ Khổng Tử nói "hữu giáo vô loại"
tức là giáo dục không phân biệt kẻ sang người hèn, kẻ cao người thấp. Nho giáo
không chỉ coi tầng lớp quý tộc, thống trị là đối tượng của giáo dục mà người dân
bình thường cũng là đối tượng của giáo dục, giáo hoá. Nhưng thực tế thì không phải
mọi người dân đều là đối tượng của giáo dục, giáo hoá. Bởi vì thứ nhất, trong xã
hội phong kiến thì người dân không phải ai cũng có điều kiện để học tập, đặc biệt là
người nghèo khổ. Thứ hai, một mặt ông chủ trương “hữu giáo vô loại” nhưng mặt
khác, ở chỗ khác thì đối với người nông dân, những người hèn kém về mặt đạo đức
thì ông lại áp dụng chính sách ngu dân. Đặc biệt, Nho giáo không tính đến vai trò
của người phụ nữ và kẻ tiểu nhân trong việc giáo dục, giáo hoá. . Mạnh Tử cho rằng
không phải mọi người dân đều là đối tượng của giáo dục. Theo ông, điểm khác
nhau giữa con người và con vật chính là ở tứ thiện tâm: Trắc ẩn, tu ố, cung kính, thị
phi. Ở kẻ tiểu nhân thì ngay từ khi lọt lòng mẹ đã mất đi những điều này. Tức là
trong quan niệm của Mạnh Tử thì kẻ tiểu nhân không thể là đối tượng của giáo dục.
Tuân Tử thì cho rằng kẻ tiểu nhân ngay từ khi sinh ra mãi mãi là kẻ tàn bạo,
gian ác thèm muốn của cải mà không biết tu dưỡng rèn luyện và họ không phải là
đối tượng của giáo dục.
Từ thời Hán trở đi, các nhà Nho cũng có cùng một quan niệm cho rằng thứ
dân, kẻ tiểu nhân không phải là đối tượng của giáo dục và cho dù có được học hành
thì dưới con mắt của các nhà Nho, người cầm quyền, thì họ cũng chỉ là những kẻ hạ
ngu "không nghe theo giáo hoá" khinh nhờn lời dạy của thánh nhân.
Như vậy, xét về đối tượng giáo dục, Nho giáo thể hiện tính chất bất bình
đẳng, tính chất giai cấp rõ rệt. Chứng tỏ, trong xã hội, mà giai cấp bóc lột là kẻ
thống trị thì không có nền giáo dục bình đẳng không phải ai cũng được học hành.
Nội dung của giảo dục Nho giảo.không nằm ngoài Tứ Thư, Ngũ Kinh và
10. Website: http://www.docs. vnEmaH: !ienhe@docs. vn Te! S: 0918.775.368
10
những lời dạy của bậc thánh hiền tức là không ngoài những nguyên lý đạo đức cơ
bản của Tam cương, Ngũ thường.
Trong nội dung giáo dục của mình, Nho giáo còn đề cao việc giáo dục đạo
trị nước" cho con người. Nho giáo còn chủ trương dùng hình, pháp và luật để giáo
hoá, giáo dục nhưng mục đích cuối cùng vẫn là duy trì trật tự xã hội bảo vệ lợi ích
giai cấp phong kiến.
Nhìn chung, nội dung giáo dục là sát với vấn đề thực tế nhưng hạn chế lớn
hất là chưa bao giờ dạy cho con người những tri thức về tự nhiên, khoa học tự
nhiên, lao động sản xuất. Vì vậy đã đào tạo ra những con người thuần tuý sách vở
chỉ biết nghe theo lời dạy của thánh hiền mà mất đi khả năng chủ động, sáng tạo
trong lĩnh vực sản xuất, thụ động trước những biến đổi của thời cuộc.
Phương pháp giáo dục: thứ nhất Nho giáo đề cao phương pháp nêu gương
trong giáo dục. Thứ hai là phương pháp "ôn cố nhi tri tân" (ôn cũ biết mới). Thứ ba
là phương pháp phân loại học trò. Phương pháp thứ tư mà Nho giáo chú trọng đến
là phương pháp "gợi mở vấn đề". Thứ năm là phương pháp học đi đôi với hành.
Nho giáo còn đưa ra nguyên tắc cho cả người dạy và người học "học không biết
chán, dạy không biết mỏi".
Mặc dù có nhiều điểm tiến bộ và tích cực song xét một cách tổng thể quan
niệm về nội dung, mục đích, đối tượng, phương pháp giáo dục của Nho giáo không
tránh khỏi những hạn chế do hoàn cảnh xã hội quy định. Với tất cả những gì đã làm
thì giáo dục Nho giáo được đánh giá cao và có ảnh hưởng tới giáo dục Việt Nam
nói riêng, xã hội phong kiến nói chung và cho tới ngày nay
11. Website: http://www.docs. vnEmaH: !ienhe@docs. vn Te! S: 0918.775.368
11
DOWNLOAD ĐỂ XEM ĐẦY ĐỦ NỘI DUNG
MÃ TÀI LIỆU: 51257
DOWNLOAD: + Link tải: Xem bình luận
Hoặc : + ZALO: 0932091562