Download báo cáo kết quả nghiên cứu và ứng dụng sáng kiến với đề tài: Phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn ở trường THPT. Ứng dụng vào thực tiễn dạy học truyện ngắn “Người trong bao” của Sê-khôp
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Đề tài: Phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn THPT, HAY
1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT TRẦN HƯNG ĐẠO
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến:
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT. ỨNG DỤNG VÀO THỰC TIỄN
DẠY HỌC BÀI “NGƯỜI TRONG BAO” CỦA SÊ-KHÔP
Tác giả sáng kiến: Trịnh Lan Anh
Mã sáng kiến: 095101
Tam Dương, tháng 02 năm 2020
2. 1
1.Giớithiệu đề tài
Từ xưa đến nay, công việc của người giáo viên, nhất là người giáo viên
dạy văn vốn nhọc nhằn và cũng thật cao quý bởi “Mặt trời mọc rồi lặn, mặt
trăng tròn lại khuyết nhưng ánh sáng mà người thầy rọi vào ta sẽ còn mãi trong
cuộc đời” (Quách Mạt Nhược). Vinh quang của người thầy bao giờ cũng hóa
thân trong thành công của học trò. Thành công của người thầy dạy văn suy cho
cùng chính là vun đắp cho các thế hệ học trò có những rung cảm văn chương,
biết yêu những điều tốt lành, hướng thiện, biết ghét và biết tránh những thói xấu
xa, bạc ác... Môn văn còn giúp cho các em hình thành các kĩ năng sống, hình
thành và phát triển năng lực còn khuất lấp, để mai này ra cuộc đời, cần lắm cho
bài học về sự thành công.
Có điểu, ở mỗi thời điểm lịch sử khác nhau đòi hỏi người thầy cần có
những phương pháp và kĩ thuật khác nhau. Trong bối cảnh hiện nay, môn văn
đang đứng trước nguy cơ bị học trò “quay lưng” do nhiều nguyên nhân: do tác
động của cơ chế thị trường; do quan niệm đã trở thành thâm căn cố đế - “lập
thân tối hạ thị văn chương”(Viên Mai); do sự hạn hẹp trong việc tuyển sinh và
tuyển dụng…Nhưng có một nguyên nhân cơ bản còn xuất phát từ thực tế dạy
học hiện nay: việc đổi mới phương pháp dạy học còn hạn chế, chưa thật nhiều
tiết học được đầu tư công phu, phương pháp chưa phù hợp để các em có những
tiết học không chỉ được “say” với văn chương, có những rung cảm sâu sắc từ
vốn sống và kiến thức người thầy truyền thụ. Hơn thế nữa, người giáo viên thật
sự tạo ra những “sân chơi trí tuệ” để học trò thể hiện và phát huy năng lực. Bởi
lẽ, nhu cầu tự khẳng định bản thân hơn bao giờ hết đã trở thành một nhu cầu
mạnh mẽ trong giới trẻ hiện nay.
Do đó, việc đổi mới dạy học để phát huy năng lực học sinh là tất yếu, là
phù hợp với xu thế chung của thời đại và sự tiến bộ của xã hội. Để có giờ học
tốt, đòi hỏi cả giáo viên và học sinh đều phát huy tối đa trí lực. Thay đổi phương
pháp dạy truyền thống bằng dạy học phát triển năng lực sẽ hứa hẹn những bất
ngờ về khả năng của trò. Mỗi giờ học trở thành mỗi giờ khám phá, sáng tạo và
giáo viên sẽ là người khơi nguồn cho mọi đam mê, tạo sân chơi trí tuệ để học
sinh tự phát hiện ra năng lực trong mình bấy lâu nay còn tiềm ẩn chưa được dịp
bộc lộ.
Từ thực tế dạy học trong năm qua, người viết chọn bài “Người trong bao”
(Sêkhôp) – một tác phẩm văn học nước ngoài tưởng khô cứng và thường không
được giáo viên và học sinh chú ý trong chương trình Ngữ văn để minh họa cho
3. 2
việc dạy học phát huy năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn ở nhà trường
THPT hiện nay của mình. Người viết hi vọng những ứng dụng thực tiễn của
mình sẽ có những đóng góp cho con đường đi tìm những phương pháp dạy học
văn còn nhiều tranh biện trong nhà trường hiện nay.
2. Tênsáng kiến
Phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn ở trường THPT. Ứng
dụng vào thực tiễn dạy học truyện ngắn “Người trong bao” của Sê-khôp
3. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: Trịnh Lan Anh
- Địa chỉ : Trường THPT Trần Hưng Đạo - Tam Dương - Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại: 0947845888
- Email: trinhlananh.gvtranhungdao@vinhphuc.edu.vn
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trịnh Lan Anh
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Chương trình ngữ văn lớp 11. Cụ thể bài “Người trong bao” (Sêkhốp) nhằm
phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn.
6. Ngàysáng kiến được áp dụng lần đầu : 22/2/ 2019
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DẠY HỌC THEO ĐỊNH
HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH MÔN NGỮ VĂN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Khái niệm nănglực
Năng lực là vấn đề rộng với nhiều định nghĩa khác nhau:
Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê (chủ biên) thì năng lực có thể
được hiểu theo hai nét nghĩa:
(1) Chỉ một khả năng, điều kiện tự nhiên có sẵn để thực hiện một hoạt
động nào đó [4]
(2) Là một phẩm chấttâm sinh lí tạo cho con người có khả năng để hoàn
thành một hoạt động nào đó có chất lượng cao [4].
Hiểu theo (1) năng lực là một khả năng có thực, được bộc lộ ra thông qua
việc thành thạo một hoặc một số kĩ năng nào đó của người học. Hiểu theo (2)
năng lực là một một cái gì đó sẵn có ở dạng tiềm năng của người học có thể giúp
họ giải quyết những tình huống có thực trong cuộc sống. Như vậy, từ hai nét
nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu năng lực là một cái gì đó vừa tồn tại ở dạng tiềm
4. 3
năng vừa là một khả năng được bộc lộ thông qua quá trình giải quyết những
tình huống có thực trong cuộc sống.
Theo PGS.TS.Nguyên Công Khanh dẫn: “Năng lực là khả năng cá nhân
đáp ứng các yêu cầu phức hợp và thực hiện thành công nhiệm vụ trong một bối
cảnh cụ thể” (OECD, 2002) [2].
Như vậy, năng lực cũng hàm chứa trong nó tính sẵn sàng hành động,
động cơ, ý chí và trách nhiệm xã hội để có thể sử dụng một cách thành công và
có trách nhiệm các giải pháp… trong những tình huống thay đổi.
Có thể nhận thấy điểm chung cốt lõi của các cách hiểu trên về khái niệm
“năng lực” chính là khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ để giải
quyết một tình huống có thực trong cuộc sống. Từ đó chúng ta có thể nhận định
năng lực của học sinh phổ thông chính là khả năng vận dụng kết hợp kiến thức,
kĩ năng và thái độ để thực hiện tốt các nhiệm vụ học tập, giải quyết có hiệu quả
những vấn đề có thực trong cuộc sống của các em.
1.1.2. Cácnăng lực của học sinh
*Cácnăng lựcchung
Theo cuốn Tài liệu tập huấn Dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập
theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Ngữ văn của Bộ giáo dục và
Đào tạo, 2014 có:
Các năng lực chung, cốt lõi: Năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề,
năng lực sáng tạo, năng lực quản lí bản thân
, Các năng lực xã hội: Năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác
Các năng lực công cụ: Năng lực tính toán, Năng lực sử dụng ngôn ngữ,
Năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông.
*Cácnăng lựcchuyên biệt của môn Ngữ văn
Năng lực sử dụng tiếng Việt , năng lực đọc – hiểu bản (năng lực đọc
văn), năng lực tạo lập văn bản (năng lực làm văn), năng lực thưởng thức văn
học/ cảm thụ thẩm mỹ .
Từ việc phát huy các năng lực sẽ giúp hình thành trong học sinh 6 phẩm
chất: Yêu gia đình, quê hương đất nước; Nhân ái khoan dung; Trung thực, tự
trọng, chí công, vô tư; Tự lập, tự tin, tự chủ; Có trách nhiệm với bản thân, cộng
đồng, đất nước, nhân loại; Nghĩa vụ công dân.
1.1.3. Đánh giá theo năng lực học sinh
5. 4
Theo quan niệm truyền thống: đánh giá chỉ là đánh giá một chiều: giáo viên
đánhgiá học sinhvà việc đánhgiá thườngchỉ đượcthực hiệnchủ yếu dựa vào điểm
số của các bài kiểm tra cuối kì hoặc điểm số của các bài kiểm tra một tiết.
Theo quan điểm dạy học tích cực: thì việc đánh giá phải diễn ra đa chiều:
kết hợp đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò, có thể tham chiếu thêm sự
đánh giá lẫn nhau giữa trò và trò. Việc đánh giá nên được diễn ra thường xuyên,
liên tục trong suốt quá trình học chứ không chỉ mang tính chất định kì như kiểm
tra học kì hoặc giữa kì. Giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh tự đánh giá
không chỉ bằng điểm số mà phản hồi lại cho giáo viên những nỗ lực, quá trình
phấn đấu và kết quả mà mình đạt được.
Theo Nguyễn Công Khanh thì “đánh giá học sinh theo cách tiếp cận
năng lực là đánh giá theo chuẩn về sản phẩm đầu ra… nhưng sản phẩm đó
không chỉ là kiến thức, kĩ năng mà chủ yếu là khả năng vận dụng kiến thức, kĩ
năng và thái độ cần có để thực hiện nhiệm vụ học tập đạttới một chuẩn nào đó”
Như vậy, đánh giá theo năng lực học sinh theo cách hiểu này đòi hỏi phải đáp
ứng hai điều kiện chính là: phải có sản phẩm đầu ra và sản phẩm đó phải đạt
được một chuẩn nào đó theo yêu cầu.
Như vậy đánh giá theo năng lực không chỉ là đánh giá việc thực hiện
nhiệm vụ học tập của học sinh mà phải hướng tới việc đánh giá khả năng vận
dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ của học sinh để thực hiện nhiệm vụ học tập
theo một chuẩn nhất định. Đánh giá theo năng lực phải dựa trên việc miêu tả rõ
một sản phẩm đầu ra cụ thể mà cả hai phía giáo viên và học sinh đều biết và có
thể đánh giá được sự tiến bộ của học sinh dựa vào mức độ mà các em thực hiện
sản phẩm.
1.1.4. Mộtsố hình thức đánhgiá
Đánh giá năng lực (ĐGNL) không chỉ là việc đánh giá việc thực hiện
nhiệm vụ hoặc hành động học tập. Nó bao hàm “việc đo lường khả năng tiềm ẩn
của học sinh và đo lường việc sử dụng những kiến thức, kỹ năng, và thái độ cần
có để thực hiện nhiệm vụ học tập tới một chuẩn nào đó” ĐGNL dựa trên việc
miêu tả các sản phẩm đầu ra cụ thể, rõ ràng tới mức giáo viên, học sinh và các
bên liên quan đều có thể hình dung tương đối khách quan và chính xác về thành
quả của học sinh sau quá trình học tập. ĐGNL cũng cho phép nhìn ra tiến bộ của
học sinh dựa trên mức độ thực hiện các sản
Đánh giá học sinh theo cách tiếp cận năng lực là đánh giá theo chuẩn về
sản phẩm đầu ra… nhưng sản phẩm đó không chỉ là kiến thức, kĩ năng, mà chủ
6. 5
yếu là khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ cần có để thực hiện
nhiệm vụ học tập đạt tới một chuẩn nào đó.
Sử dụng các phương pháp không truyền thống: quan sát, phỏng vấn sâu
và hội thảo, nhật ký người học, hồ sơ học tập, bài tập lớn, đánh giá thực hành
(bao gồm tập hợp bài tập và các sản phẩm…), học sinh tự đánh giá và đánh giá
lẫn nhau….
Để đánh giá năng lực học sinh, giáo viên có thể thực hiện đánh giá qua:
việc tổ chức dạy học trên lớp và theo dự án.
1.1.4.1. Đánhgiá qua tổchức dạy học trên lớp
Đây là hình thức dạy học phổ biến nhất trong nhà trường. Trong quá trình
tổ chức dạy học thì phương pháp dạy học (PPDH) và kĩ thuật dạy học (KTDH)
là quan trọng nhất. PPDH có thể hiểu là hình thức, cách thức hành động của GV
và HS nhằm thực hiện những mục tiêu dạy học xác định, phù hợp với những nội
dung và điều kiện dạy học cụ thể. PPDH cụ thể quy định những mô hình hành
động của giáo viên và học sinh. Kĩ thuật dạy học (KTDH) là những biện pháp,
cách thức hành động của giáo viên trong các tình huống hành động nhỏ nhằm
thực hiện và điều khiển quá trình dạy học (QTDH)
Mỗi QĐDH có những PPDH cụ thể phù hợp với nó; mỗi PPDH cụ thể có
các KTDH đặc thù. Tuy nhiên, có những PPDH cụ thể phù hợp với nhiều
QĐDH, cũng như có những KTDH được sử dụng trong nhiều PPDH khác nhau
(Ví dụ: kĩ thuật đặt câu hỏi được dùng cho cả phương pháp đàm thoại và phương
pháp thảo luận). Có rất nhiều phương pháp, song người ứng dụng một số
phương pháp dạy học tích cực sau:
a. Phát huy năng lực qua phương pháp hoạt động nhóm
Dạy học nhóm còn được gọi bằng những tên khác nhau như: Dạy học hợp
tác, Dạy học theo nhóm nhỏ, trong đó HS của một lớp học được chia thành các
nhóm nhỏ, trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các
nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc
của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp.
Dạy học nhóm nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực, tính
trách nhiệm; phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp của HS.
b. Phát huy năng lực bằng phương pháp giảiquyếtvấn đề
Phát hiện và giải quyết vấn đề (GQVĐ) là PPDH đặt ra trước HS các vấn
đề nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, chuyển
7. 6
HS vào tình huống có vấn đề , kích thích họ tự lực, chủ động và có nhu cầu
mong muốn giải quyết vấn đề.
c. Phát huy năng lực học sinh qua phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho HS thực hành, “ làm thử” một số
cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. `Đây là phương pháp nhằm
giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ
thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc “diễn” không phải là
phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận sau phần
diễn ấy.
d. Pháthuy năng lực học sinh phương pháp trò chơi
Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho HS tìm hiểu một vấn
đề hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua
một trò chơi nào đó.
Trò chơi phải được luân phiên, thay đổi một cách hợp lí để không gây
nhàm chán cho HS. Sau khi chơi, giáo viên cần cho HS thảo luận để nhận ra ý
nghĩa giáo dục của trò chơi
1.1.4.2. Đánhgiáqua hồ sơ học sinh
Hồ sơ học tập của học sinh là một bộ sưu tập có mục đích và có tổ chức
những công việc của học sinh, được tích lũy trong suốt một thời gian và thể hiện
sự nỗ lực, tiến trình của học sinh và những gì các em đạt được. Có thể phân loại
Hồ sơ học tập:
*Hồ sơ đọc – hình thức đánhgiá năng tiếp nhận văn bản
Hồ sơ đọc này có thể là một hồ sơ lưu trữ tất cả tài liệu đọc độc lập của
các em. Nó được học sinh dùng để chuẩn bị bài mới, ghi chép lại nhận xét của
các em về bài học, ở mức độ cao hơn là đọc những tác phẩm bên ngoài sách
khoa (theo gợi ý của giáo viên hoặc theo sở thích cá nhân của học sinh). Hình
thức cụ thể của hồ sơ đọc cần được giáo viên hướng dẫn cho học sinh và đảm
bảo tất cả các em đều hiểu và có thể làm được.
* Hồ sơ bài viết – hình thức đánhgiá năng lựctạo lập văn bản
Hồ sơ bài viết có thể hiểu là hồ sơ theo dõi sát sao quá trình tạo lập các
loại văn bản của người học trong suốt học kì hoặc cả năm. Giáo viên không chỉ
xem hồ sơ bài viết này như một phản hồi của người học mà còn phải xác định rõ
với học sinh nó là một căn cứ để đánh giá năng lực tạo lập văn bản của các em.
Theo hình thức đánh giá này, hồ sơ bài viết sẽ được giáo viên xem xét và thảo
luận với từng học sinh mỗi cuối học kì để đánh giá mức độ phát triển của các
8. 7
em. Từ đó giáo viên có thể đánh giá cả quá trình học của học sinh, cụ thể hơn là
sự tiến bộ của học sinh qua từng bài viết.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực tiễn tổ chức dạy học
Chương trình theo cách tiếp cận nội dung thì dạy cho học sinh biết cái gì;
Còn chương trình hướng đến năng lự’*c cho học sinh là học sinh làm được gì
trên cơ sở các em biết. Như vậy năng lực là đích, là đầu ra của giáo dục. Với
cách tiếp cận như vậy nó sẽ chi phối các yếu tố của chương trình như mục tiêu -
tức là dạy để làm gì; nội dung dạy học - tức dạy cái gì; phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học - tức là học bằng cách nào; và cuối cùng là thi, kiểm tra,
đánh giá và chất lượng giáo dục.
. Để phát huy năng lực của học sinh, cần trăn trở và tìm tòi hướng đi mới
cho mỗi bài dạy, cách tổ chức sao cho phù hợp với từng bài và từng đối tượng
học sinh. Từ đó, có thể thấy rõ sự khác biệt giữa dạy học truyền thống và dạy
học theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
1.2.1.1.Thựctrạng dạy học truyền thống
Dạy học văn hiện nay đang chịu sự tác động của cơ chế thị trường, vị thế
môn văn trong nhà trường THPT bấy lâu bị “xem nhẹ”. Các em năng động hơn
cũng đồng nghĩa với nguy cơ sống thực dụng nhiều hơn. Học sinh không nhận
thức vai trò của môn văn là để bồi đắp tâm hồn, rèn luyện kĩ năng giao tiếp, tạo
lập văn bản, để trau dồi vốn sống và nhân cách nữa. Cách dạy học thụ động
truyền thống dường như không còn phù hợp với sự nhạy bén của học sinh thời
nay.
1.2.1.2. Dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh
Để phát huy năng lực của người học, giáo viên luôn phải chủ động trong
việc tổ chức giờ học. Tức là quá trình chuẩn bị cho một tiết học là khâu quan
trọng nhất. Tùy đặc thù từng bài cũng như các phân môn khác nhau sẽ định
hướng hình thành năng lực học sinh khác nhau. Mục đích phát triển năng lực
nào sẽ đề ra phương pháp và cách thức nấy.
Đểtổ chức tốt mộtgiờ dạytheo đinh hướngpháttriển năng lực học sinh trước
hết giáo viên cầnđịnhhướng nhữngnăng lực mà học sinh cần được phát huy trong
giờ dạy. Sauđó hìnhdungracác công việc học sinh có thể hoàn thành, phân công
nhiệm vụ cho các nhóm. Cuối cùng là kiểm tra đánh giá kết quả.
9. 8
Thực tiễn dạy học cho thấy học sinh vô cùng hứng thú với các tiết học
này. Có thể lập bảng so sánh tiết dạy học truyền thống với tiết dạy học phát triển
năng lực học sinh như sau:
Đối
Tượng
Phương pháp dạy học ngữ văn
truyền thống
Phướng pháp dạy học Ngữ
văn theo định hướng phát
triển
năng lực
Học
sinh
HS khó nhớ bài học, không nắm vững
hay tiếp thu được nội dung kiến thức
HS nhớ và có ấn tượng sâu sắc
về bài học, hiểu và nắm vững
kiến thức ngay trên lớp
HS không hợp tác, thụ động, lười tư
duy, xa thực tiễn.
HS chủ động hợp tác, biết vận
dụng kiến thức để liên hệ vào
thực tiễn.
HS còn mất tập trung trong giờ học. HS tập trung tham gia giờ học.
HS chưa thể hiện được bản thân,
thiếu tự tin, hạn chế về kĩ năng giao
tiếp…
HS được thể hiện quan điểm cá
nhân, kiến thức được tiếp nhận
đa chiều. HS tự tin, tự chủ có kĩ
năng giao tiếp tốt
HS thiếu tính sáng tạo, không có khả
năng tư duy độc lập, khẻ năng hợp tác
và tự học, tự quản hạn chế.
- HS chủ động hợp tác, tinh
thần tự học và tự quản tốt
- HS sáng tạo
Giáo
viên
GV làm việc nhiều nên đôikhi ham
truyền tải một chiều dẫn tới thụ
động, mệt mỏi
GV làm việc ít, chủ động
truyền đạt kiến thức cơ bản,
chính xác, khoa học, có trọng
tâm.
Phương pháp dạy học đơn điệu,
không đổi mới phương pháp dạy học,
chưa tíchhợp được kiến thức liên
môn…
Giáo viên đạt được mục tiêu
kiến thức - kỹ năng của bài dạy.
Giờ học sinh động, có thể tích
hợp kiến thức liên môn theo
chủ đề.
Giáo viên cònáp đặt kiến thức, còn
tồn tại tình trạng “thầyđọc, trò chép”
Giờ học sinh động, hấp dẫn, sôi
nổi, không khí thân thiện, bài
giảng lôi cuốn.
10. 9
GV dạy chay, thiếu đồ dùng DH
Phương tiện, phương pháp hỗ
trợ phù hợp, linh hoạt, có tính
tích hợp, lồng ghép kiến thức
thực tế
1.2.2. Thực tiễn kiểm tra đánh giá
Qua thực tiễn dạy học, sự khác biệt cách kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học với kiểm tra, đánh giá kiểu dạy học
truyền thống như sau:
TT
Kiểm tra, đánh giá
kiểu truyền thống
Kiểm tra, đánh giá theo hướng
bồi dưỡng năng lực tự học
1 Chú trọng kiểm tra tri thức, kỹ năng
Chú trọng kiểm tra năng lực độc
lập, sáng tạo, năng lực tự học.
2
Đánh giá kết quả học tập theo các
tiêu chí:kiến thức, kỹ năng
Đánh giá kết quả học tập theo các
tiêu chí: Độc lập, sáng tạo
3 Thầy giữ vị trí độctôn trong đánh giá.
Kết hợp đánh giá của thầy với tự
đánh giá và đánh giá lẫn nhau của trò.
Xưa nay, đánh giá kết quả học tập là việc làm của thầy giáo, học sinh là
đối tượng được đánh giá. Trong dạy học theo hướng định hướng phát triển năng
lực thì người thầy cần bồi dưỡng cho trò khả năng tự kiểm tra đánh giá sản
phẩm học tập của mình, đánh giá lẫn nhau, để điều chỉnh cách học sao cho có
hiệu quả nhất.
11. 10
CHƯƠNG 2
ỨNG DỤNG DẠY HỌC NGỮ VĂN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT
2.1. Phát triển năng lực học sinh qua hình thức tổ chức dạy học trên lớp
Trong thực tiễn dạy học, với mỗi đối tượng khác nhau giáo viên có những
phương pháp, kĩ thuật dạy học khác nhau. Để phát huy năng lực của học sinh
không thể không ứng dụng các phương pháp kĩ thuật (đã nêu ở chương 1).
Người viết bài vận dụng các phương pháp, kĩ thuật đó vào quy trình dạy học trên
lớp để phát triển các năng lực học sinh.
Môn Ngữ văn nói riêng và các môn học khác nói chung không còn đơn
điệu nếu người giáo viên không ngừng trau dồi chuyên môn, đam mê nghề
nghiệp, luôn “giữ lửa” và “truyền lửa” đến các em học sinh. Nhưng hơn hết là
học sinh cần thoát khỏi cái vỏ tự ti, thụ động, được khích lệ thể hiện năng lực
của bản thân. Năng lực ấy cần phải được học sinh trong lớp ghi nhận, giáo viên
đánh giá thỏa đáng, kịp thời.
Các năng lực của học sinh luôn đồng thời được thể hiện nếu như người
giáo viên biết định hướng và tổ chức cho các em học sinh. Trong các tiết dạy
học theo định hướng này, người viết đề xuất và thực hiện theo quy trình sau:
Các bước
tiến hành
Quy trình thực hiện dạy học theo định hướng
phát triển năng lực học sinh
Bước 1 Xác định mục tiêu theo chuấn KT- KN, các năng lực cần hướng
tới
Bước 2 Xây dựng tiến trình, nội dung, kết cấu bài dạy
Bước 3 Giao nhiệm vụ cụ thể. Cần yêu cầu học sinh có sản phẩm đầu ra.
Thống nhất về thang điểm và tiêu chí giá năng lực học sinh
Bước 4 Chuẩn bị chu đáo về phương tiện, kĩ thuật dạy học. Cần đầu tư
thời gian chuẩn bị phiếu học tập, hình dung ra các phần làm việc
của học sinh để chuẩn bị tư liệu, kiến thức, phương tiện bổ trợ.
Bước 5 Tổ chức tiết dạy theo định hướng phát triển năng lực
Bước 6
Đánh giá năng lực học sinh theo các tiêu chí đã xây dựng.
Cần lưu lại các sản phẩm của học sinh để làm tư liệu
Mỗi quy trình được coi là một nhiệm vụ học tập. Mỗi nhiệm vụ học tập lại
có những phương pháp, kĩ thuật dạy học riêng đề phát huy năng lực học sinh.
Trong quá trình dạy học, tôi vận dụng chủ yêu các phương pháp, kĩ thuật sau:
12. 11
phương pháp hoạt động nhóm, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đóng vai,
phương pháp tổ chức trò chơi…Mỗi phương pháp tôi lại ứng dụng những kĩ
thuật phù hợp như kĩ thuật sơ đồ tư duy, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật giao
nhiệm vụ…
2.1.1. Pháthuy năng lực qua phương pháp hoạt động nhóm
Khi dạy học theo định hướng phát triển năng lực qua hoạt động nhóm
người viết thường áp dụng theo cách thưc sau:
* Hoạt động nhóm trên lớp :
Bước 1:Thành lập nhóm
Bước 2: Xác định nhiệm vụ của các nhóm, yêu cầu về thời gian và
sản phẩm đấu ra
Bước 3: Trình bày kết quả
Bước 4: Đánh giá
* Hoạt động nhóm khi về nhà: HS nhận nhiệm vụ và thực hiện theo các cách
Bước 1: Chuẩn bị chỗ làm việc
Bước 2: Lập kế hoạch làm việc
Bước 3: Thoả thuận quy tắc làm việc
Bước 4: Tiến hành giải quyết các nhiệm vụ
Bước 5: Chuẩn bị báo cáo kết quả.
Trong bước phân công nhiệm vụ và yêu cầu sản phẩm đầu ra: giáo viên
phân công nhiệm vụ cần xác định đúng mức độ công việc có phù hợp với từng
học sinh, nhóm học sinh không? Phải chú ý là học sinh nào cũng được giao
nhiệm vụ, đòi hỏi cá nhân hoặc nhóm học sinh có sự tương tác. Tránh hiện
tượng chỉ có rất ít học sinh tham gia, các học sinh khác ỉ lại vào những bạn có
năng lực hơn mình. Muốn vậy, giáo viên cần hướng dẫn nhóm học sinh lập Sổ
theo dõi chuyên cần. Trong cuốn sổ đó ghi rõ các thành viên trong nhóm, nhiệm
vụ được phân công, công việc tham gia và hoàn thành. Học sinh trong nhóm có
thể tự đánh giá năng lực của nhau, từ đó là cơ sở cho giáo viên đánh giá.
Khi phân nhóm giáo viên cần linh hoạt và đổi mới cách chia nhóm để
các em có cơ hội giao tiếp, hợp tác, thấu hiểu giữa các thành viên. Để xây dựng
các nhóm tôi căn cứ vào đặc điểm cụ thể của nhiệm vụ, của bài, đối tượng học
sinh như:
- Tùy thuộc từng nhiệm vụ cụ thể mà số lượng học sinh có thể nhiều hay ít
- Có thể chia nhóm HS theo không gian có thể căn cứ vào vị trí ngồi trên
lớp, theo địa phương để dễ dàng trao đổi.
13. 12
- Phân nhóm theo sở thích và năng lực của học sinh.
- Phân nhóm sau một trò chơi cụ thể…
Nhiệm vụ của các nhóm có thể giống nhau, hoặc mỗi nhóm nhận một
nhiệm vụ khác nhau, là các phần trong một chủ đề chung. Chú ý khi tổ chức
phòng làm việc, phòng học, cần kê bàn ghế cho thân thiện, phù hợp với hoạt
động nhóm.
2.1.2 Pháthuy năng lực qua phương pháp dạy học nêu vấn đề
Đây là phương pháp khá phổ biến trong các giờ dạy học ngữ văn. Để học
sinh có thể phát triển năng lực tự học, tự quản, giải quyết vấn đề, giải quyết các
tình huống thực tiễn...giáo viên cần vận dụng phương pháp này một cách linh
hoạt. Để thực hiện phương pháp này, người viết đã vận dụng theo quy trình sau:
Chuyển vấn đề đến học sinh
Quy trình Học sinh thu thập thông tin
Giải quyết vấn đề Đề ra phương án giải quyết
Thực hiện phương án phù hợp
Đánh giá hiệu quả
Tuy nhiên người viết bài thấy rằng, trong quá trình thực hiện phương pháp
nêu vấn cần lưu ý: vấn đề/ tình huống phải hù hợp với chủ đề bài học, phù hợp
với trình độ nhận thức của học sinh, gần gũi với cuộc sống thực của các em, có
cách thể hiện bằng hình ảnh sinh động và cách giải quyết tối ưu đối với mỗi em
có thể giống hoặc khác nhau.
Ví dụ, khi dạy bài “Đàn ghi ta của Lorca”, để tìm hiểu 6 dòng thơ đầu,
sau khi nêu vấn đề giáo viên phân công nhiệm vụ cho học sinh:
Làm rõ hình tượng Lorca trong bối cảnh chính trị và nghệ thuật của Tây
Ban Nha thế kỉ XIX?
Để thực hiện nhiệm vụ này, nhóm học sinh 12A3 đưa ra cách giải quyết
vần đề theo trình tự sau:
14. 13
Một Lorca bất tử và bất hạnh qua
hình ảnh“những tiếng đàn bọt nước”
Một Lorca anh dũng trên đấu trường
cách tân nghệ thuật và bảo vệ công lí
Một Lorca cô đơn trong không gian
mênh mông và thời gian thăm thẳm
Với quy trình này, rõ ràng học sinh đã thể hiện được năng lực giải quyết
vấn đề, tự học, tự quản bản thân tốt. Hay khi giáo viên nêu tình huống:
Hãy chứng minh rằng sông Hương là dòng sông âm nhạc và thi ca? khi
dạy học bài “Ai đã đặttên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhóm
học sinh được giao đã thực hiện như sau:
- Cử đại diện hát một đoạn của bài hát về sông Hương, xứ Huế
- Sông Hương là cái nôi hình thành nên nền âm nhạc cổ điển Huế. Chiếu 1
đoạn clip về ca Huế trên sông Hương để minh họa
- Khẳng định niềm tự hào và tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường với Huế.
Gần đây nhất, khi tổ chức dạy học theo hướng phát triển năng lực bài
“Ông già và biển cả” (Hêminh- uê), giáo viên giao việc cho các nhóm lần lượt
tìm hiểu các vấn đề trong tác phẩm. Trong đó, khi nhóm 1 trình bày về nguyên
lí ”Tảng băng trôi” , các em có cách giải quyết vấn đề như sơ đồ sau:
Rõ ràng để có được sơ đồ này, học sinh phải phát huy được năng lực tự
học, tự quản và hợp tác tốt.
Một hình tượng bi tráng để người đọc
cảm phục và xót thương
15. 14
Nhóm thứ 2, phân tích hình tượng ông lão đánh cá Xantriagô, ngoài phần
sơ đồ kiến thức, học sinh đã cho cả lớp xem clip trong bộ phim cùng tên, sau đó
rút ra đặc điểm nhân vật bằng sơ đồ tư duy.
Như vậy có thể khẳng định phương pháp dạy học nêu vấn đề là một trong
phương pháp chủ đạo và tích cực để định hướng học sinh chủ đạo tiếp nhận kiến thức.
Kiến thức học sinh như thế nào, sản phẩm của học sinh tốt hay không phụ thuộc vào
cách tổ chức và nêu vấn đề của người dạy có độc đáo vàphù hợp hay không.
2.1.3. Pháthuy năng lực qua phương pháp đóng vai
Đây là phương pháp được học sinh hứng thú nhất. Không phải bài nào
cũng có thể áp dụng phương pháp phân vai nhưng nếu ứng dụng vào những bài
phù hợp sẽ mang lại hiệu quả tích cực. Để thực hiện phương pháp đóng vai,
người viết thực hiện theo quy trình sau:
Bước 1: Giáo viên nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống, yêu cầu
đóng vai cho từng nhóm. Trong đó có quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian
đóng vai của mỗi nhóm
Bước 2: Các nhóm thảo luận, lên kế hoach về nội dung, phân công các
thành viên trong nhóm tham gia.
Bước 3: Tổ chức cho lớp nhận xét về cách tổ chức phân vai, diễn xuất.
Giáo viên đánh giá năng lực của học sinh
Khi thực hiện phương pháp đóng vai, giáo viên cần lưu ý: Tình huống phải
phù hợp với lứa tuổi, trình độ học sinh, lớp học. Thứ hai, tình huống không nên
quá phức tạp, cần diễn ra trong thời gian cụ thể, không cho học sinh trước kịch
bản, lời thoại để rèn cho học sinh năng lực tạo lập văn bản. Nên có hoá trang và
đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của tiểu phẩm đóng vai.
Trong chương trình Ngữ văn có nhiều bài có thể cho học sinh sử dụng
phương pháp đóng vai, nhất là những bài đọc văn. Người viết bài đã thực hiện
những tiết dạy có sử dụng phương pháp này và nhận thấy giờ học đạt được hiệu
quả và học sinh có “sân khấu” để thể hiện năng lực rõ rệt. Chẳng hạn, thay vì
việc đọc hay tóm tắt văn bản truyện ngắn “Chí Phèo” (Nam Cao), giáo viên đã
phân lớp thành ba nhóm thực hiện các nhiệm vụ sau:
Nhóm 1: Tìm hiểu đoạn trước khi Chí Phèo gặp thị Nở và dựng lại chân
dung Chí Phèo trong cơn say. Thời gian diễn xuất 2 phút.
Nhóm 2: Tìm hiểu đoạn Chí Phèo gặp thị Nở và tái hiện lại bằng tiểu
phẩm trong vòng 3 phút.
16. 15
Nhóm 3: Tìm hiểu đoạn cuối của truyện “Chí Phèo” và tái hiện lại bằng
tiểu phẩm. Thời gian diễn xuất 2 phút.
Với cách phân vai như vậy, giờ học không còn nhàm chán, học sinh rất
háo hức mong đợi một giờ văn khi các em được “đồng sáng tạo” với tác giả,
được hóa thân vào nhân vật. Hơn thế nữa các năng lực như giải quyết vấn đề, tự
học, giao tiếp, sử dụng tiếng Việt, tạo lập văn bản, đọc hiểu...được thể hiện.
Quan trọng nhất là rèn cho các em tinh thần tự tin và tự chủ bản thân. Phương
pháp dạy học phân vai có thể ứng dụng trong nhiều tác phẩm khác như đoạn
trích: “ChíPhèo”, “Ngườitrong bao”, “Ngườicầm quyền khôi phụcuy quyền”
- V. Huygô), “Vợ nhặt” ...và cả trong dạy học văn học dân gian.
2.1.4. Pháthuy năng lực qua phương pháp tổ chức trò chơi
Trong quá trình dạy học, để thay đổi không khí giờ học giáo viên có thể
khéo léo lồng ghép phương pháp tổ chức trò chơi trong một số bài học. Phương
pháp này khiến kiến thức được truyền thụ tự nhiên, tăng cường sự tập trung cho
các tiết dạy. Ví dụ như, khi dạy bài Diễn đạt trong văn nghị luận (Ngữ văn 12)
giáo viên có thể đưa ra một loạt dữ liệu, trong đó có những từ dùng sai hoặc
chưa chuẩn. Từ đó chia nhóm tổ chức cuộc thi Ai nhanh hơn. Nhóm nào phát
hiện nhiều từ sai, sửa sai được nhiều hơn nhóm đó thắng. Dạy bài Phát biểu tự
do giáo viên có thể sử dụng phương pháp trò chơi thông qua trò Hái hoa dân
chủ. Mỗi bông hoa là một chủ đề phát biểu theo yêu cầu của giáo viên hoặc
nhóm học sinh tự đặt cho nhau. Cho thời gian chuẩn bị, bốc thăm trả lời.
Ở một số bài học có thể đưa trò chơi vào phần củng cố. Các trò chơi có
thể ứng dụng như: Nhìn hình bắt chữ (Giáo viên chuẩn bị tranh, ảnh tư liệu liên
quan, yêu cầu học sinh tìm từ ngữ tương ứng để trả lời); “Trình bày một phút”
(giáo viên chia nhóm, mỗi nhóm đặt một câu hỏi cho nhóm bạn về vấn đề liên
quan đến bài học yêu cầu nhóm bạn trả lời trong một phút. Nhóm thắng là nhóm
có câu tra lời ngắn gọn, hàm súc và độc đáo nhất. Các câu hỏi cũng như các câu
trả lời học sinh đưa ra sẽ giúp củng cố quá trình học tập của các em và cho giáo
viên thấy được các em đã hiểu vấn đề như thế nào. Qua hình thức tổ chức như
vậy, các em hình thành được năng lực giao tiếp, năng lực sử dụng ngôn ngữ,
năng lực tự quản bản thân tốt...
2.1.4 . Kết quả đạtđược sau thực tiễn ứng dụng các phương pháp dạyhọc
phát triển năng lựchọc sinh
Qua việc ứng dụng các phương pháp/ kĩ thuật dạy học trên, học tôi thấy
các em hình thành đồng thời nhiều năng lực. Có thể mô tả bằng sơ đồ sau:
17. 16
Phương pháp
thảo luận nhóm
- Năng lực hợp tác, tự quản
- Năng lực tự học
- Năng lực CNTT
-Năng lực giải quyết vấn đề…
- Năng lực sáng tạo
Phương pháp
nêu vấn đề
Phương pháp
đóng vai
- Năng lực giải quyết tình huống thực
tiễn
- Năng lực giao tiếp
-Năng lực sử dụng tiếng Việt,
- Năng lực tạo lập văn bản
- Năng lực đọc hiểu…Phương pháp
tổ chức trò chơi
Qua các phương pháp trên các năng lực tiêu biểu được thể hiện như:
* Năng lực giải quyết vấn đề, tự học hợp tác , tự quản
Thực tế cho thấy khi đặt học sinh vào một tình huống đòi hỏi phải
có sự hợp tác giữa các thành viên sẽ duy trì được tinh thần đồng đội, tinh thần
đoàn kết, học sinh có cơ hội bộc lộ những lợi thế của mình. Học sinh cần có
những cách ứng xử hài hòa với nhau, học hỏi nhau.
Một sản phẩm của học sinh thể hiện năng lực tự học
Muốn học sinh có sản phẩm đầu ra và qua đó bộc lộ ý thức tự học, tự
nghiên cứuthì bản thân người thầy cũng cần hướng dẫn cho học sinh các phương
pháp, kĩ thuật, tự học như: kĩ thuật sơ đồ tư duy, phươngpháp thốngkê – phân loại,
so sánh, phân tích, tổng hợp…Có như vậy, việc tự học mới đạt hiệu quả.
Để phát triển năng giải quyết vấn đề học sinh sẽ phải hợp tác để hoàn
thành nhiệm vụ tốt nhất. Để đạt hiệu quả cao nhất trong hoạt động nhóm phát
huy năng lực hợp tác giáo viên đã ứng dụng những phương pháp, kĩ thuật dạy
học tíchcực như kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật giao nhiệm vụ, kĩ thuật đặt câu
hỏi, kĩ thuật mảnh ghép…Kết quả cho thấy học sinh luôn có sự tương tác giữa
18. 17
các thành viên trong và ngoài nhóm tốt. Những giờ học vì thế không còn nhàm
chán với các em.
* Năng lực Công nghệ thông tin và truyền thông
Đây là một trong những năng lực vượt trội của học sinh ngày nay. Học
sinh vốn thông minh và dễ tiếp thu cái mới. Chính vì thế cần phải tổ chức dạy
học để làm sao các em có cơ hội thể hiện và tự khám phá bản thân.
Để phát triển năng lực này, quan trọng nhất là giáo viên cần phải nêu
được tình huống, yêu cầu sản phẩm đầu ra cho học sinh. Học sinh có thể bộc lộ
khả năng này ở nhiều góc độ: Soạn thảo một văn bản, Thiết kế bài học trên
powerponrt, cắt video, lồng ghép âm thanh, tạo clip…Người viết bài luôn cảm
thấy bất ngờ trước năng lực các em thể hiện trong lĩnh vực này.
Khi dạy bài “Đàn ghi ta của Lorca” một nhóm học sinh khi phân tích câu
thơ “Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt” đã dựng lại bối cảnh chính trị và nghệ
thuật Tây Ban Nha thế kỉ XIX bằng việc minh họa clip đấu trường, vũ điệu
framenco…Điều này không chỉ thể hiện năng lực CNTT vượt trội và còn cả
năng lực giải quyết vấn đề, sáng tạo…
Còn rất nhiều những tiết học khác học sinh thể hiện được năng lực vượt
trội này của mình. Đây cũng là phần các em hứng thú và chủ động đấu tư về thời
gian, tâm sức. Thiết nghĩa, sân chơi trí tuệ ấy cần được nhân rộng như một điều
tất yếu.
* Năng lực sáng tạo
Mỗi một học sinh là một thế giới với những tư duy phong phú, những ý
tưởng không lặp lại. Năng lực sáng tạo của các em được biểu hiện rất phong
phú. Trong môn ngữ văn các em lại càng “biết khơi những nguồn chưa ai khơi
và sáng tạo những cái gì chưa có” (Nam Cao). Được biểu hiện như: có cách
cảm nhận và thể hiện độc lập, mới mẻ về một vấn đề văn học; Biết đề xuất ý
tưởng và giải pháp đề giải quyết vấn đề.
Năng lực sáng tạo thể hiện niềm đam mê và khát khao được tìm hiểu của
học sinh, không suy nghĩ theo lối mòn, đồng sáng tạo với mỗi tác phẩm văn
chương…Rõ ràng dạy học theo hướng phát triển năng lực không chỉ phá tan
không khí trầm lặng của lớp học mà đưa môn văn về đặc trưng của nó: một môn
học vừa là môn khoa học, vừa là môn nghệ thuật.
* Năng lực giải quyết các tình huống thực tiễn
Đây là nội dung mà phương pháp dạy học truyền thống thường không chú
trọng đến. Người viết bài quan niệm rằng, mục đích cao nhất của giáo dục
19. 18
không chỉ truyền tri thức mà qua tri thức hình thành vốn sống, kĩ năng và nhân
cách sống. Vì vậy trong quá trình dạy học đổi mới, người viết luôn gắn với các
vấn đề thực tiễn. Chẳng hạn, khi dạy học bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
(Hoàng Phủ Ngọc Tường), người viết tích hợp với môn giáo dục công dân qua
các câu hỏi tình huống sau trong phiếu học tập (Phụ lục 1):
Vấn đề thứ nhất: Theo em, nhà văn đã truyền cho chúng ta thông điệp
gì để góp phần bảo vệ dòng sông thiên nhiên, dòng sông lịch sử và văn hóa? (
Tích hợp với Bài 12 – Lớp 11: Chính sách tài nguyên và bảo vệ môi trường
(SGK Giáo dục công dân lớp 11 – tr 95)
Vấn đề thứ hai: Em cảm thấy đất nước ta như thế nào qua bài kí?
Bản thân em cần làm gì để góp phần bảo vệ môi trường trên những dòng
sông quê hương? (Tích hợp với Bài 16 – Lớp 10: Tự hoàn thiện bản thân)
Qua việc chủ động học tập và qua các tình huống dạy học, học sinh có
thể chủ động nhận thức được tình cảm bản thân, nhận biết tình cảm của người
khác và những biểu hiện của cuộc sống từ phương diện thẩm mĩ, làm chủ những
liên hệ, những giá trị con người và cuộc sống.
* Năng lực sử dụng tiếng Việtvà các năng lực chuyên biệt của môn Ngữ văn
* Năng lực sử dụng tiếng Việt
Thông qua những bài học cụ thể, học sinh biết vận dụng vốn ngôn ngữ phù
hợp trong hoạt độnggiao tiếp. Các bài đọc hiểu văn bản cũng tạo môi trường, bối
cảnh để học sinh được giao tiếp cùng tác giả và môi trường sống xung quanh,
nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt văn hóa, văn học. Dạy học theo hướng tích
cực là dạy theo quan điểm giao tiếp, coi trọng khả năng thực hành, vận dụng
những kiến thức tiếng Việt trong bối cảnh đa dạng của cuộc sống.
Trong các giờ dạy ngữ văn, nội dung dạy học tiếng Việt được thể hiện ở
các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết.
Bên cạnh đó còn thể hiện năng lực chuyên biệt của môn Ngữ văn như đọc
hiểu, thưởng thức, rung cảm thẩm mĩ văn chương.
Tóm lại, qua thực tiễn dạy học phát triển năng lực của học sinh ở trường
THPT, tôi nhận thấy lợi ích của phương pháp mới này không hề nhỏ. Định
hướng dạy học mới này tạo ra hướng dạy học đột phá trong môn ngữ văn nói
riêng và các môn khoa học khác nói chung. Cách nhìn nhận và đánh giá học sinh
vì thế chính xác và toàn diện hơn.
20. 19
CHƯƠNG 3
ỨNG DỤNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH QUA DẠY HỌC
TRUYỆN NGẮN “NGƯỜI TRONG BAO” CỦA SÊ-KHỐP
A.P.Sê-khốp (1860 – 1904), là đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa hiện thực
Nga thế kỉ XIX ở thể loại truyện ngắn và kịch. Ông là bậc thầy truyện ngắn của
Nga và của nhân loại, có vai trò quan trọng trong việc cách tân truyện ngắn thế
kỉ XX. Nhắc đến Sêkhốp người ta không chỉ nhắc tới số lượng tác phẩm đồ sộ
(khoảng hơn 500 truyện) với nhiều thành tựu kì vĩ mà còn ghi nhận ảnh hưởng
của ông đối với thể loại này qua nhiều cây bút truyện ngắn bậc thầy khác xuyên
suốt thế kỉ XX như Phôncơnơ, Hêminhuê, Macket… Sêkhôp có thể coi là người
mở đường cho thể loại truyện ngắn của nhân loại.
Truyện ngắn Sêkhốp không khoa trương mà bình lặng, đầy suy tư. Chỉ là
những truyện trong nhà, ngoài đường phố, những truyện đời thường nhưng
Sêkhôp đã đặt ra vấn đề lớn lao, phanh phui những thói xấu xa đê tiện, đấu tranh
cho sự tiến bộ của nhân loại. Với quan niệm “Người nghệ sĩ chân chính phải là
nhà nhân đạo trong cốt tủy”, ông “biết nói ngắn về những truyện dài”, trang
văn Sêkhôp vẫn đậm chất thơ và mạch ngầm văn bản thì vô cùng vô tận. Dẫu có
phong phú về mặt chủng loại đến đâu chăng nữa thì truyện Sêkhôp bao giờ cũng
toát lên cái nhìn nhân hậu về cuộc đời, toát lên cái không khí ngột ngạt, nhu cầu
vượt thoát cảnh ngộ thực tại.
Truyện ngắn “Người trong bao” được viết vào mùa hè năm 1898 thuộc
kiểu truyện luận đề của Sêkhốp khi xây dựng hình tượng Bêlicốp rất tiêu biểu
cho thế giới nhân vật của ông. Với tư cách là một nghệ sĩ – bác sĩ, Sêkhốp đã
thực sự tạo nên phong cách độc đáo của riêng mình. Là nhà văn hiện thực, con
mắt nghề nghiệp (từng là bác sĩ) đã giúp ông bắt mạch, lần tìm và mổ xẻ đúng
căn bệnh trầm kha của thời đại qua nhân vật Bêlicốp. Nhưng là nghệ sĩ trác
tuyệt, tâm hồn ông vươn tới tận miền thẳm sâu, đầy bí ẩn trong vô thức, trong
bản thể con người. Bêlicốp cô đơn và tẻ nhạt, sợ hãi và bạc nhược, máy móc
giáo điều và ích kỉ, kì quặc…Hình tượng nhân vật trong truyện ngắn được thể
hiện qua lối kể khách quan, kết cấu đặc sắc, chi tiết sắc bén, tình huống độc đáo,
giọng điệu hóm hỉnh và thâm thúy. Với những yếu tố đó, những thói xấu xa đê
tiện được sinh ra bởi xã hội Nga chuyên chế cuối thế kỉ XIX được Sêkhốp chuẩn
bệnh và giải phẫu. Cái nhìn của Sêkhôp xuất phát từ cảm quan nghệ sĩ: “cuộc
sống vẫn pháttriển theo quy luật riêng của nó. Ngay cả khi trong này nhân vật
21. 20
trăn trở không ngủ được vì bao điều day dứt âu lo thì ngoài kia mưa vẫn rả rích
rơi đều, hạt vẫn nảy mầm, cây vẫn đâm chồi nảy lộc và một ngày mới lại hé
rạng trên cõi nhân sinh” (Lê Huy Bắc)
“Người trong bao” là một truyện ngắn đặc sắc của Sêkhôp được tuyển
chọn đưa vào chương trình dạy học ở THPT. Tuy nhiên, trong tâm lí giáo viên
và học sinh thường ít coi trọng tác phẩm văn học nước ngoài nên thực trạng dạy
học các tác phẩm này còn “qua loa đại khái” mặc cho những tác phẩm được
tuyển chọn đều là những tác phẩm “kinh điển” của nhân loại “nằm ngoài những
định luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết ! (M. Y.
Saltykov-Shchedrin). Chính vì thế những văn bản văn học nước ngoài dễ rơi vào
quên lãng, các tiết học thiếu sự đầu tư công phu, học sinh tiếp nhận thụ động…
Người viết bài qua quá trình thực nghiệm và chọn việc dạy học truyện
ngắn “Người trong bao” minh họa cho việc phát huy năng lực trong dạy học
ngữ văn đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Trong chương này của SKKN, tôi mô tả
quá trình dạy học trên lớp và đề xuất phương án dạy học tích hợp theo dự án.
3.1. Dạy học phát triển năng lực trên lớp qua truyện “Người trong bao”
(Sêkhốp)
Quy trình tổ chức dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh
đòi hỏi phải có sự đầu tư công phu của cả người dạy và người học. Trong đó
giáo viên vừa như người biên kịch, vừa lên kế hoạch xây dựng kịch bản, vừa là
đạo diễn. Học sinh chính là các diễn viên, là kĩ thuật âm thanh, ánh sáng, đạo cụ,
hóa trang…Có điều vai trò của đạo diễn là phải biết “phân vai”, phải nắm bắt
được năng lực của từng người để giao việc cho phù hợp. Quy trình dạy học theo
hướng phát triển năng lực trên lớp được tôi triển khai theo quy trình sau:
3.1.1. Chuẩn bị giáoán dạyhọc trên lớp
Để xây dựng giáo án theo định hướng phát triển năng lực, người viết chú
trọng đến 3 khâu: xác định mục tiêu, xây dựng nội dung bài học theo CKT-KN
và lựa chọn phương pháp, phương tiện – kĩ thuật dạy học. Từ cơ sở thực tiễn
(trong chương 1) người viết nhận thấy có sự khác biệt trong thiết kế giáo án cũ
và theo định hướng phát triển năng lực như sau:
22. 21
STT Đối tượng
so sánh
Giáo án cũ Giáo án phát triển năng lực
HS
1
Mục tiêu -Xác định mục tiêu dạy - Xác định mục tiêu dạy - mục
tiêu học, năng lực HS cần đạt
2
Nội dung
bài học
- Chú trọng truyền đạt tri
thức.
- Tập trung cho hoạt động
dạy
- Chú trọng truyền đạt tri thức
với phát triển kĩ năng, rèn
luyện thói quen tự học.
3
Phương
tiện/ kĩ
thuật
- Đơn giản, chỉ từ phía
người dạy
- Phong phú, cả từ phía người
dạy và người học
Từ nhận thức ấy, người viết bài xây dựng giáo án dạy học truyện ngắn
“Người trong bao”. Trong đó:
- Về mục tiêu chú ý đến việc hình thành năng lực học sinh
- Về nội dung: vẫn bám sát CKT-KN
- Về phương pháp-KTDH: chú ý ứng dụng các phương pháp: nêu vấn đề,
phương pháp hoạt động nhóm, phương pháp phân vai và phương pháp trò
chơi…Mỗi phương pháp lại ứng dụng kĩ thuật linh hoạt.
Trong giáo án, tôi chú ý đến việc tích hợp liên môn, tích hợp giáo dục
môi trường và liên hệ tới các tình huống thực tiễn đời sống…
Từ những định hướng trên, người viết xây dựng giáo án như sau:
NGƯỜI TRONG BAO
A.P.Sê-Khốp
A. Mục tiêu bài học
Giúp HS:
- Hiểu được giá trị tư tưởng truyện ngắn Người trongbao: phê phán sâu
sắc lối sống trong bao hèn nhát, cá nhân, ích kỷ và hủ lậu của một bộ phận trí
thức Nga cuối thế kỷ XIX, qua hình tượng người trong bao Be-li-cốp; Hiểu được
nghệ thuật truyện ngắn bậc thấy của Sêkhốp
- Có thái độ căm ghét và đấu tranh với sống thu mình trong bao: háo
danh, xu nịnh, giáo điều, hèn hạ trước quyền lực. Từ đó, góp phần xây dựng đạo
đức và lối sống trung thực, tự tin, lành mạnh, chan hòa với mọi người vì lý
tưởng cao đẹp.
23. 22
- Giúp HS nắm vững các kĩ năng: kĩ năng trình bày vấn đề, kĩ năng làm
văn nghị luận…
- Phát triển các năng lực của học sinh: Năng lực giải quyết vấn đề, tự học,
giao tiếp, công nghệ thông tin, sáng tạo, năng lực giải quyết các tình huống thực
tiễn, năng lực đọc – hiểu, sử dụng tiếng Việt...
B. Phương tiện / kĩ thuật thực hiện
- Phương tiện: SGK, CKT-KN, Giấy A0, bút dạ, bảng phụ, máy chiếu,
tranh ảnh, video...
- Kĩ thuật: Sơ đồ tư duy, nêu vấn đề, chia nhóm...
C. Cách thức tiến hành: Vận dụng linh hoạt các phương pháp: thảo luận nhóm,
nêu vấn đề, đóng vai, tổ chức trò chơi...
D – Tiến trình dạy học
1. Kiểm tra bài cũ
2: Giới thiệu bài mới
Năng
lực
Phương
tiện -KT,
nội dung
Tích hợp
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO
VIÊN VÀ HỌC SINH
NỘI DUNG CẦN ĐẠT
- Năng
lực tự
học
- Năng
lực sử
dụng
CNTT
và
Truyền
thông
- Năng
lực tự
quản
- Năng
lực
giao
tiếp
*Tích
hợp kiến
thức liên
môn
- Video
- Phiếu
học tập
- Bảng
phụ hoặc
giấy A0,
tranh ảnh
minh họa
- Sơ đồ tư
duy
- Trình
chiếu PP
- Tích hợp với môn địa lí, lịch sử:
Câu hỏi: Nêu ấn tượng của em về
nước Nga sau khi học các nội
dung về đất nước này trong môn
địa lí, lịch sử?
- HS trình bày vị trí của Nga
*GV chiếu video về nước Nga,
lịch sử và văn học Nga thế kỉ
XIX tạo tâm thế
- GV tổ chức lớp tìm hiểu tác giả,
tác phẩm.
Câu hỏi: Yêu cầu nhóm HS trình
bày những nét chính về cuộc đời
và sự nghiệp của A. Sêkhốp?
(Có sản phẩm kèm theo)
- GV phát phiếu học tập số 1
- Nhóm HS trình bày về tác giả,
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Vị trí
+ Sêkhốp là nhà văn nhân đạo
vĩ đại của nước Nga, của Châu
Âu mà còn của cả thế giới.
+ Là đại biểu lớn nhất của chủ
nghĩa hiện thực Nga thế kỉ XIX
về thể loại truyện ngắn và kịch,
là "nhà văn làm ta muôn thủa
say mê".
- Tiểu sử (SGK)
- Sự nghiệp văn học
+ Tác phẩm chính: Toàn tập
Sêkhốp gồm 30 tập trong đó có
15 tập truyện ngắn, 3 tập kịch,
12 tập thư từ, ghi chép, nghiên
cứu...-> di sản văn chương đồ
24. 23
- Năng
lực tự
học
- Năng
lực
hợp
tác, tự
quản,
sáng
tạo,
giao
tiếp
, sử
dụng
tiếng
Việt
- Năng
lực đọc
hiểu
- Phiếu
học tập
- Sơ đồ
grap
- Trang
phục: áo
bành tô,
giày cao
su, kính,
dao gọt
bút chì, ô,
mũ
tác phẩm
- HS vừa theo dõi nhóm 1 trình
bảy, vừa thu hoạch thông tin vào
Phiếu học tập số 1
- Học sinh trong nhóm bổ sung,
các nhóm khác nhận xét
- Giáo viên chốt kiến thức
Câu hỏi: Nêu ngắn gọn hoàn cảnh
ra đời của tác phẩm? Hãy đọc đáp
án câu 3 trong phiếu học tập số 1.
- GV nhấn mạnh về xã hội Nga thế
kỉ XIX.
- Yêu cầu nhóm 2 trình bày sản
phẩm .
Câu hỏi: Hãy tóm tắt truyện
“Người trong bao”. Hãy minh họa
bằng tiểu phẩm?
- Nhóm 2 trình bày sản phẩm và
thuyết minh cho sản phẩm của
mình.
- Các nhóm khác nhận xét. Giáo
viên nhận xét, đánh giá.
sộ, phong phú, độc đáo
+ Nội dung: thể hiện sâu sắc,
chân thật cuộc sống, tư tưởng
tình cảm của mọi tầng lớp nhân
dân Nga " trong buổi hoàng
hôn" của lịch sử. 2. Văn bản
a) Hoàn cảnh sáng tác
- Tác phẩm xuất bản năm: 1898
- Sáng tác trong thời gian nhà
văn dưỡng bệnh ở thành phố I-
an-ta, trên bán đảo Crưm, biển
Đen.
- Xã hội Nga cuối TH XIX đang
ngạt thở trong bầu không khí
chuyên chế nặng nề cuối thế kỉ
XIX. Môi trường xã hội ấy đã
đẻ ra lắm kiểu người kì quái.
b) Tóm tắt
Câu chuyện kể về một giáo viên
dạy tiếng Hilạp cái gì cũng ở
trong bao, từ ăn, ngủ, đồ dùng,
ngay cả ý nghĩ anh ta cũng dấu
trong bao. Lúc nào anh ta cũng
sống trong lo âu, sợ hãi thấy cái
gì cũng mờ ám và chỉ sợ "nhỡ
xảy ra chuyện gì". Mọi người ai
cũng sợ hắn.Mọi người gán
ghép anh ta với cô Varenka -
chị gái một giáo viên lịch sử
mới chuyển về trường. Một lần,
cả trường nhận được bức họa
châm biếm Bêlicốp và cô
Varenka khiến Bêlicốp rất xấu
hổ, day dứt và quyết định không
lấy vợ nữa. Anh đến nhà
Varenka để nói vài điều nhưng
chỉ gặp người em. Giữa hai
25. 24
người xảy ra tranh cãi, gây lộn.
Bêlicốp về nhà, ốm 1tháng rồi
chết. Vẻ mặt hắn trong quan tài
rất hiền lành dễ chịu, tươi tỉnh
như vui mừng cuối cùng hắn đã
được chui vào một cái bao và
không bao giờ phải trở ra nữa.
Nhưng vài tuần sau cuộc sống
của họ lại trở về như cũ khi
Bêlicốp còn sống. Cuộc sống
nặng nề, vô vị, mệt nhọc vì còn
nhiều người như thế nữa.
- Năng
lực
hợp tác
- Năng
lực giải
quyết
vấn đề
- Năng
lực
giao
tiếp
- Năng
lực giải
quyết
vấn đề
- Năng
lực
ngôn
ngữ
văn
chương
Phương
pháp nêu
vấn đề
Phương
pháp
thảo luận
nhóm
- Bút dạ
- Bảng
phụ
- Sơ đồ tư
duy
Nêu vấn đề: Truyện có nhân vật
nào là nhân vật chính? Vì sao?
Em có nhận xét gì về đặc điểm nổi
bật của Bêlicôp?
*GV cho HS làm việc nhóm
Nhóm 1: Tìm những chi tiết miêu
tả trang phục và những vật dụng
mà nhân vật Bê-li-cốp thường
mang bên mình? Qua đó, em nhận
xét gì về nhân vật này?
Nhóm 2: Trong công việc và mối
quan hệ với đồng nghiệp nhân vật
Bê-li-cốp có thói quen nào? Cho
biết biểu hiện trong sinh hoạt của
hắn khi ở nhà? Qua đó, em hiểu gì
về lối sống, tính cách Bê-li-cốp?
Nhóm 3: Nhân vật Bê-li-cốp có ý
nghĩ, quan điểm sống như thế
nào? Suy nghĩ của em về ý nghĩ,
quan điểm ấy? Từ đó, nhận xét về
tính cách Bê-li-cốp?
- HS thảo luận nhóm trong 3 phút.
- Giáo viên hướng dẫn HS làm
II. Đọc - hiểu văn bản
1. Hình tượng nhân vật Bêli
côp – “người trong bao”
a) Chân dung biếm họa
*Cách phục trang
- Ngoại hình trong bao
+ Trời rất đẹp vẫn đi giày cao
su, cầm ô, mặc áo bành tô ấm
cốt bông, đeo kính râm
+ Tai luôn nhét bông
+ Gương mặt dường như lúc
nào cũng ẩn giấu sau chiếc áo
bành tô cổ bẻ đứng lên.
+ Xe ngựa lúc nào cũng được
kéo mui khi ra đường.
+Khi ngủ, kéo chăn trùm đầu
kín mít, cửa sổ đóng kín mít,
buồng nóng bức, ngột ngạt.
- Vật dụng trong bao
+ cái ô, đồng hồ quả quít, chiếc
dao nhỏ để gọt bút chì ... đều
được để trong bao.
ngại tiếp xúc, va chạm lối
sống kì dị với “khát vọng mãnh
liệt thu mình vào trong một cái
26. 25
- Năng
lực
hợp tác
- Năng
lực giải
quyết
vấn đề
- Năng
lực
giao
tiếp
HS Nhóm
2 chuản
bị: Bút dạ,
Bảng phụ,
Sơ đồ tư
duy
GV hệ
thống
kiến thức
bằng sơ
đồ tư duy
việc, thu phiếu học tập số 1.
- HS nhóm 1 trình bày trong 2
phút về trang phục và vật dụng
của Bêlicốp
- GV gọi HS trong nhóm bổ sung.
Các nhóm khác nhận xét
- GV đánh giá sản phẩm của nhóm
1, chốt kiến thức
- HS nhóm 2 trình bày trong 2
phút về thói quen sinh hoạt của
Bêlicốp
- GV gọi HS trong nhóm bổ sung.
Các nhóm khác nhận xét
- GV đánh giá sản phẩm của nhóm
2, chốt kiến thức
GV bình, mở rộng
Chính Cô-va-len-cô đã nói thẳng
vào mặt Bê-li-cốp những lời thô
bạo : “Ta là người trung thực và
với những người như “quý ngài”,
ta không muốn nói chuyện. Ta
không ưa những tên MÁCH LẺO”.
”. Cô-va-len-cô còn đặt tên cho
Bê-li-cốp là “Con nhện”. Phải
chăng con nhện luôn giăng những
sợi tơ, kết thành mạng để tự bảo
vệ mình, đồng thời đánh bẫy
những kẻ khác? Chỉ biết chắc một
điều, Bê-li-côp có tính xoi mói và
mách lẻo
vỏ, tạo ra cho mình một thứ bao
có thể ngăn cách, bảo vệ khỏi
những ảnh hưởng bên ngoài”,
“trốn tránh cuộc sống thực”.
=> Từ trang phục đến các vật
dụng đều trong bao, tạo cho
Bê- li- cốp trở thành cái bao
hữu hình. Đó là lối sống lập dị,
kì quặc.
* Thói quen sinh hoạt
- Nghề nghiệp: Giáo viên dạy
tiếng Hi Lạp cổ. Bêlicop cho
rằng cuộc sống hiện tại rất đáng
ghê tởm nên nhân vật thường ca
ngợi quá khứ
- Trong mối quan hệ với đồng
nghiệp
+ Bêlicốp đến nhà từng người,
ngồi im và không trò chuyện gì,
tự kéo ghế ngồi, ngồi im như
phỗng, Mắt nhìn xung quanh
như tìm kiếm vật gì, độ một giờ
sau thì cáo từ”.
+ Không nói nhưng sẵn sàng
đưa chuyện “đến tai ông hiệu
trưởng, ngài thanh tra”
+ Gọi đó là giữ gìn các mối
quan hệ.
- Nhà ở như một cái hộp. Khi ở
nhà trùm chăn kín mít…
-> Đó là thói quen kì quặc,
giao tiếp không thật lòng, cuộc
sống bị bao trùm trong không
khí giả tạo, đố kị, giáo điều,
rập khuôn, máy móc. Bản chất
là kẻ soi mói và mách lẻo. Cuộc
sống có những người như vậy,
27. 26
Năng
lực
hợp tác
- Năng
lực giải
quyết
vấn đề
- Năng
lực
giao
tiếp
Nhóm 3: -
Bút dạ
- Bảng
phụ
- Sơ đồ tư
duy
- Kĩ thuật
sơ đồ tư
duy
- Máy
chiếu
- GV gọi HS nhóm 3 trình bày
- HS nhóm 3 trình bày sản phẩm:
nhận xét về Ý nghĩ, quan điểm,
nhận thức của Bêlicop
- GV gọi HS trong nhóm bổ sung.
Các nhóm khác nhận xét
- GV đánh giá sản phẩm của nhóm
3, chốt kiến thức
- GV gọi HS nhóm 3 trình bày
- Gọi HS các nhóm khác nhận xét.
- GV nhận xét
- GV bình:
Điều đáng nói là: Bê-li-cốp
luôn thỏa mãn, hài lòng với lối
sống kì quái, hủ lậu của mình,
đáng buồn hơn là: nhân vật luôn tự
tin vào cách sống đúng mực của
mình, không hề biết và thể biết sự
tự nguyện, tự giác của một viên
chức mẫn cán, tuân thủ nghiêm
túc đã và đang khiến mọi người
sợ, chế giễu, khinh ghét và ghê
tởm... y đến như thế nào
- Cách sống, cách nghĩ bệnh hoạn,
cuộc sống bị kìm hãm, con người
bị bóp nghẹt trong lối sống nhà tù,
không được tự do thoải mái sống
theo nhu cầu nhân sinh. Quan
niệm và cách sống đó như nhà tù
cái đẹp, cái mới sẽ rất khó tồn
tại và phát triển.
* Ý nghĩ, quan điểm, nhận
thức
+ “ý nghĩ của mình... cố giấu
vào bao”
+ thường xuyên lo âu, nhỏ chịu
sợ hãi trước cuộc sống thường
nhật nhút nhát, ghê tởm hiện
tại.
+ Sợ ”nhỡ ra lại có chuyện gì,
sợ kẻ trộm...”, suốt đêm ... mơ...
những điều khủng khiếp”, “buổi
sáng... mặt... tái nhợt rầu rĩ”.
+ không dám làm trái mệnh
lệnh cấp trên để được yên ổn.
+ sợ phát kinh, mắt hoa lên khi
nhìn thấy thầy giáo, “đàn bà
con gái” đi xe đạp, người trẻ
tuổi mặc áo thêu ra đường, tay
cầm sách ... và cho đó là buông
thả, là không “còn ra cái thể
thống gì nữa" -> là một kẻ bảo
thủ và lên mặt dạy đời
+ Có những quan niệm, phê
phán khắc nghiệt trước hành
động của người khác, bắt họ thế
này mà không được làm thế kia,
không được sống theo những
điều mình thích. ( chuyện đuổi
hai học sinh, chuyện bà giáo đi
chơi với viên sĩ quan, chuyện ăn
mỡ bò với cá rô....)
=> khiến người khác chùn bước
trước cái mới, tạo ra không khí
nặng nề, ức chế. Con người
sống trong tâm trạng đề phòng,
28. 27
giam hãm ước mơ, khát vọng.
Cuộc sống vô nghĩa, mòn mỏi dần
dần giết chết con người.
Câu hỏi: Hãy nhận xét những nét
chính về nghệ thuật của Sêkhôp
khi khắc họa chân dung Bêlicôp?
- HS trả lời
Câu hỏi: Qua bức chân dung của
Bêlicốp em hãy nhận xét về ý
nghĩa của hình tượng “người
trong bao”?
dè chừng lẫn nhau, sống nhỏ
nhen, tầm thường.
=> lối sống ích kỉ, hệ quả của
chế độ phong kiến chuyên chế,
bảo thủ nên đã có những tác
động tiêu cực đến xã hội.
Nhận xét
* Nghệ thuật
- Hình tượng Bêlicôp được xây
dựng bằng ngòi bút trào phúng
châm biếm nhẹ nhàng, với nụ
cười hài hước hóm hỉnh.
- Sử dụng các chi tiết nghệ
thuật, các tình huống có vấn đề.
- Sử dụng lối trần thuật gián tiếp
* Ý nghĩa hình tượng: Bêlicôp
trở thành một điển hình nghệ
thuật, một kiểu người có tính
cách kì quặc, lập dị, cô độc,
hèn nhát, máy móc giáo điều.
Đó là kiểu người trong bao, lối
sống trong bao, tính cách trong
bao hay người mang vỏ ốc.
- Năng
lực xử
lí các
tình
huống
thực
tiễn
- Năng
lực
CNTT
và TT,
sử
dụng
tiếng
Phương
pháp nêu
vấn đề
- Máy
chiếu
Videocip
Phương
pháp nêu
*GV củng cố : yêu cầu phần
trình bày tình huống chuẩn bị
của nhóm 3
Câu hỏi: Từ việc tự tìm hiểu hình
tượng nhân vật Bêlicốp, hãy chỉ ra
đặc điểm của nhân vật. Theo em
kiểu người như Bêlicốp còn tồn tại
trong xã hội ngày nay không? Tìm
dẫn chứng minh họa.
- HS nhóm 3 trình bày
- HS các nhóm nhận xé. GV bình
* GV dặn dò: Yêu cầu HS chuẩn
bị, có sản phẩm của nhóm
*Nhóm 1: Tìm hiểu về cái chết
* Củng cố - dặn dò
- Truyện của Sê-khốp phản ánh
cái chế độ Sa hoàng tàn khốc,
ngột ngạt như một trại tập trung
khổng lồ. Chế độ đó đã đẻ ra
những kẻ như Bê-li-cốp và
những cái bao quái gở. Không
thể sống mãi như thế được. Cần
phải thay đổi. Đó là ý nghĩa của
hình tượng Bêlicốp và hình
tượng cái
- Lối sống trong bao của
Bêlicôp vẫn tồn tại trong xã hội
29. 28
Việt,
tự
quản,
sáng
tao…
vấn đề,
thảo luận
nhóm
của Bêlicốp. Theo em Bêlicốp
chết nhưng hiện tượng Bêlicốp
còn không?
*Nhóm 2: Tìm hiểu về những ảnh
hưởng của Bêlicôp khi còn sống
và khi đã chết?
*Nhóm 3: Ý nghĩa hình tượng cái
bao trong tác phẩm
hiện nay. Đây là một điển hình
nghệ thuật độc đáo, thể hiện tài
năng của Sekhop. Con người
hãy thoát khỏi lối sống trong
bao để hướng tới cuộc sống tươi
đẹp.
TIẾT 2
1. Kiểm tra bài cũ
- Hãy tóm tắt truyện ngắn Người trong bao? Nhận xét về bức chân dung biếm họa của
Bêlicốp?
- GV kiểm tra các phương tiện học tập của HS.
2. Bài mới
Năng
lực
Phương
pháp/
PT -KT,
Nội dung
tích hợp
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO
VIÊN VÀ HỌC SINH
NỘI DUNG CẦN ĐẠT
-Năng
CNTT
và TT,
Năng
lực tự
quản,
-Năng
lực
giao
tiếp
Phương
pháp nêu
vấn đề,
thảo luận
nhóm
+ Kĩ thuật
phân tích
phim
- Phương
tiện: Máy
chiếu
-Video
đoạn
phim
*Giáo viên nhắc lại những
nhiệm vụ đã giao ở tiết trước
cho các nhóm HS
*HS chuẩn bị trình bày
GV cho HS xem 1 đoạn video về
cuộc đối thoại giữa Côvalencô
và Bêlicôp
Câu hỏi: Vì sao Bêlicôp lại
chết?Có phải tiếng cười của
Varenca đã giết chết Bêlicôp
không?Em có nhận xét gì về chi
tiết nghệ thuật về tiếng cười của
Varenca?
- GV yêu cầu nhóm 1 trình bày
sản phẩm
- Các nhóm khác nhận xét, bổ
sung
- GV đánh giá sản phẩm nhóm 1.
II. Đọc – hiểu văn bản
1. Hình tượng nhân vật Bêlicôp
– “người trong bao”
a) Bức chân dung biếm họa
b) Cái chết của Bê-li-cốp
* Nguyên nhân
+ Trực tiếp: Do tiếng cười của
Varen ca
+ Nguyên nhân sâu xa: đó là sự
xung đột của hai lối sống trái
ngược nhau, sự xung đột của lối
sống trong bao khi tiếp cận với
thực tại
-> Sêkhốp đã đưa ra hai lối sống
khác nhau. Một lối sống tiêu cực
và một lối sống tích cực -> lối
sống của Bêlicốp không thể tồn
tại được trong hiện thực bởi
30. 29
-Năng
CNTT
và TT,
Năng
lực tự
quản,
-Năng
lực
giao
tiếp
- Năng
lực tự
học,
hợp
tác
“người
trong
bao” về
cái chết
của
Bêlicốp
- Giấy A0
- Máy
chiếu
- Giấy A0
Cho HS tìm hiểu chi tiết tiếng
cười của Varenka
Câu hỏi: Có ý kiến cho rằng
tiếng cười đó đã giết chết
Bêlicốp. Em có đồng ý không? Vì
sao?
GV nhấn mạnh: tiếng cười của
Varenka là chi tiết đắt giá của
Sêkhốp
Nhóm 2
Câu hỏi: Lối sống của Bêlicôp
ảnh hưởng đến mọi người như
thế nào khi còn sống và khi đã
chết? Điều đó có tốt không?
- HS nhóm 2 trình bày sản phẩm
và kết quả làm việc ở nhà
- Các nhóm khác nhận xét, bổ
sung.
- GV giảng bình: Đối tượng và
phạm vi bị Bêlicôp khống chế
rất rộng rãi: từ chính quyền đến
đoàn thể, từ đồng nghiệp đến khu
phố. Thời gian Bêlicốp khống
chế dài 15 năm
những hạn chế của nó.
* Kết quả: Bêlicôp chết
- Khi chết lối sống trong bao vẫn
còn được thể hiện. Bản tính thích
cô độc, hèn nhát đã được thỏa
mãn khi nằm trong bao.
-> Cái chết của Bêlicốp là sự tố
cáo gay gắt nhất xã hội Nga
chuyên chế, phê phán những lối
sống, nếp sống đơn độc, náu
mình trong bao, không tự do,
không khát vọng, không làm gì
để cuộc sống có ý nghĩa. Tư
tưởng này của Sêkhốp thển hiện
quan niệm nhân văn của ông,
luôn vì quyền sống của con
người
b. Ảnh hưởng của Bêlicốp
*Khi Bêlicốp còn sống
+Tất cả giáo viên, hiệu trưởng
đều sợ hắn và bị hắn khống chế
suốt 15 năm trời
+Các bà các cô không dám tổ
chức diễn kịch tại nhà, giới tu
hành không dám ăn thịt và đánh
bàn khi có mặt hắn.
+ Dân chúng trong thành phố đâm
ra sợ tất cả: sợ nói to, sợ gửi thư,
làm quen, đọc sách, giúp người
nghèo dạy học chữ... Mọi người
dù có học thức vẫn chịu im lặng,
quy phục...
-> Cách sống ấy bao phủ từ
trường lên mọi người dân khiến
cuộc sống nhân bản của con
người bị mài mòn, con người
31. 30
Câu hỏi: Sự xuất hiện của ai
trong câu chuyện dự báo còn
nhiều Bêlicôp. Qua đó, tác giả
muốn nói gì?
- Sự xuất hiện của những người
đi giày, mang ô trong đám tang
Bêlicôp - Sự tiếp tục của những
người trong bao. Bà Karra - vợ
ông trưởng xóm và rất nhiều
người khác có lối sống trong
bao.
Gv nhấn mạnh
Bê-li-cốp là một tính cách
điển hình cho một kiểu người,
một hiện tượng xã hội đã và
đang tồn tại trong cuộc sống
của một bộ phận trí thức Nga
cuối thế kỉ XIX
sống nhàm chán, vô vị…sổng
trong kìm nén, lo âu, sợ sệt khiến
cuộc sống không còn ý nghĩa.
*Khi Bêlicôp đã chết
- Thái độ của mọi người: vui
mừng vì được sống tự do thoải
mái sau bao năm bị Bêlicốp soi
mói, kìm nén.
- Chưa đầy 1 tuần, cuộc sống lại
trở về như khi Bêlicốp còn sống.
Chính trong mỗi người có một cái
bao. Tương lai vẫn còn nhiều cái
bao như vậy
-> Sêkhốp chỉ ra tác hại của lối
sống ấy làm cho người nghèo nàn
nhân tính, nhân bản. Lối sống ấy
thật đáng phê phán và cần được
thay đổi.
*Tiểu kết
- Hình tượng Bêlicôp được xây
dựng bằng ngòi bút trào phúng
châm biếm nhẹ nhàng, với nụ
cười hài hước hóm hỉnh.
- Xây dựng hình tượng Bêlicốp,
tác giả muốn phê phán lối sống tù
hãm,vô vị, nhàm chán, tẻ nhạt vô
nghĩa, suốt ngày thu mình vào
trong cái bao đơn độc.
Năng
CNTT
và TT,
Năng
lực tự
quản,
-Năng
lực
giao
- Máy
chiếu
- Giấy A0
- Bài tập
trắc
*GV chuyển
* Câu hỏi trắc nghiệm: Hãy cho
biết, trong tác phẩm hình ảnh “
Cái bao” được nhắc đến mấy lần
?
A. 7 lần.
B. 10 lần.
C. 11 lần.
D. 12 lần.
2. Hình tượng cái bao
- Nghĩa thực: Theo Từ điển
Tiếng Việt : “Cái bao” là vật
dùng để bao, gói, đựng đồ vật,
hàng hóa …. Hình túi, hình hộp”
- Nghĩa chuyển
+ Cái bao hữu hình ( từ cặp kính,
ô, cái xe buông mui đến căn
phòng) và cái bao vô hình (qua
32. 31
tiếp
- Năng
lực tự
học,
hợp
tác
Câu hỏi: Cái bao - hình tượng
theo suốt nhân vật Bêlicôp làm
nổi bật độc đáo của nhân vật
này. Hãy nêu ý nghĩa của hình
tượng cái bao?
- Yêu cầu nhóm 3 trình bày sản
phẩm
.
Câu hỏi: Em có suy nghĩ gì về
lời phát ngôn của Kôvalencô
“Không thể sống như thế này
mãi được”
-> Cần có những con người thức
tỉnh, tiến bộ, thấy được nỗi buồn
của xã hội, nhận ra bản chất tiêu
cực của xã hội cũng như lối sống
trong bao kiểu Bêlicôp đang đầy
rẫy-> Cần phải vươn ra không
gian bao la để thở, tự do thấy
được đất trời.
đời sống tình cảm, tư tưởng, nghề
nghiệp, lối sống, mơ ước…) của
Bêlicôp
+ Cả XH Nga chuyên chế lúc bấy
giờ là một cái bao khổng lồ, bầu
không khí tởm lợm, ngột ngạt. Xã
hội ấy làm cho những người tiến
bộ, có lối sống thức tỉnh, có
lương tâm không thể sống được
- Nghĩa biểu trưng: Cái bao
tượng trưng cho cuộc sống tù
túng, vô vị, nhạt nhẽo, không ý
nghĩa không mục đích, khát vọng,
ước mơ. Đó là cuộc sống dung
tục, nhơ nhớt, mòn mỏi, han gỉ
đầy lo âu sợ sệt..Ở đó con người
không giữ được nhân phẩm hoặc
thoái hóa biến chất và có kết cục
bi thảm như Bêlicôp
=> Vấn đề tư tưởng mà Sêkhôp
đặt ra là: con người cần nhìn
nhận lại cách sống, làm cho
người biết xa lánh cuộc sống tù
túng, nhàn chán, vô nghĩa trong
khuôn khổ để sống có ý nghĩa.
-Năng
lực
giao
tiếp
- Năng
lực tự
học,
hợp
tác
- Em có nhận xét gì về truyện
ngắn Sêkhốp (cốt truyện, đề tài,
nhân vật, nghệ thuật xây dựng
nhân vật...)
- HS nhận xét và rút ra kết luận
về nghệ thuật và nội dung tác
phẩm.
GV giảng bình
Sêkhôp quan niệm truyện ngắn: "
biết nói ngắn nhũng truyện dài"
biến cái bình thường thành cái
không bình thường, " lời chật ý
III. TỔNG KẾT
1. Nghệ thuật
- Truyện ngắn của Sêkhôp vừa có
cái lạnh lùng của ngòi bút hiện
thực, lại vừa đậm chất trữ tình
của ngòi bút lãng mạn
- Ngôn ngữ trong sáng, giản dị, tự
nhiên.
2. Nội dung
- Từ cách sống, lối sống trong bao
của Bêlicôp và nhiều người trong
truyện, con người cần nhìn nhận
33. 32
rộng". truyện ngắn Sekhôp cô
đọng súc tích, hàm súc. Lựa
chọn chi tiết đắt có sức biểu hiện
cao nhất, gợi mở nhiều nhất, hiệu
quả cao nhất.
lại cách sống, làm cho người biết
xa lánh cuộc sống tù túng, nhàn
chán, vô nghĩa trong khuôn khổ
để sống có ý nghĩa.
- Truyện thể hiện ý nghĩa tư
tuởng, ý nghĩa phê phán và tư
tưởng nhân đạo của Sêkhôp
-Năng
lực sử
dụng
và giao
tiếp
tiếng
Việt,
sáng
tạo…
Phương
pháp tổ
chức trò
chơi
- Máy
chiếu
Phương
pháp
đóng vai
Câu 1: Trò chơi dân gian
Quan sát hình và chọn câu nói
dân gian (tục ngữ, thành ngữ…)
có nội dung tương tự nội dung
trong hình vẽ
Câu 2 – câu hỏi tình huống:
Theo em, Bêlicôp đáng thương
hay đáng trách? Hãy đóng vai
một luật sư để bảo vệ hoặc khiếu
nại Bêlicốp?
E. Củng cố - Dặn dò
1. Củng cố
Câu 1: Đáp án: “Mũ nỉ che tai”,
“Rụt cổ rùa”, “Len lén như rắn
mùng năm”, “Nhát như thỏ đế”,
“Co vòi, rụt cổ”, “Con ốc nằm
co”
2. Dặn dò
Hãy viết một đoạn kết khác cho
truyện ngắn “Người trong bao”.
3.1.2. Tổchức dạy theo địnhhướng phát triển năng lực trên lớp
3.1.2.1. Xácđịnhmụctiêu
Ỏ bài học này, mục tiêu cơ bản học sinh cần nắm được chính là bức chân
dung và lối sống kì quặc, lập dị, máy móc, giáo điều, bản chất hèn nhát của nhân
vật Beelicốp; thấy được ý nghĩa hình tượng cái bao. Bên cạnh đó giáo viên cần
giúp học sinh phát triển được những năng lực chung và năng lực chuyên biệt của
môn ngữ văn (trong phần cơ sở lí luận đã dẫn)
3.1.2.2. Giaonhiệm vụ
Trong quá trình thực hiện dạy học truyện ngắn “Người trong bao” của
Sêkhốp, người viết bài đã phân lớp ra thành các nhóm và giao việc cho các
nhóm chuẩn bị. Có thể cho học sinh tự phân nhóm và các thành viên đăng kí
tham gia các nhóm, miễn là công việc phải được giao cho tất cả học sinh, đảm
bảo sự tương đương về nhiệm vụ. Khi giao việc cho học sinh điều quan trọng
nhất là giáo viên phải mô tả cụ thể về sản phẩm đầu ra, thời gian trình bày trước
lớp tránh tình trạng người dạy không kiểm soát được phần trình bày của học
sinh sẽ cháy giáo án. Khi dạy tiết 1 bài “Người trong bao” người viết bài đã
phân nhóm học sinh như sau:
34. 33
NHÓM 1 – phương pháp nêu vấn đề
Công việc được giao Học sinh phải hệ thống hóa kiến thức bài học: Trình
bày những nét chính về tác giả Sêkhốp.
Yêu cầu cụ thể về
sản phẩm
- Sưu tầm tranh, ảnh và các tư liệu; Trình bày trên giấy
A0 dưới dạng sơ đồ tư duy và hình ảnh đính kèm.
- Khuyến khích học sinh ứng dụng công nghệ thông tin.
Yêu cầu về thời gian - Thời gian hoàn thành: 3 ngày
- Thời gian trình bày: 3 phút trên lớp
NHÓM 2 – phương pháp phân vai
Công việc được giao Tóm tắt và mô tả tóm tắt bằng sơ đồ. Có minh họa văn
bản bằng một tiểu phẩm.
Yêu cầu cụ thể về
sản phẩm
- Học sinh phải tóm tắt văn bản bằng sơ đồ. Có thể trình
bày trên giấy A0 hoặc làm trên phần mềm grap và trình
chiếu trên Powerpoint.
- Xây dựng tiểu phẩm theo phương pháp đóng vai: Tái
hiện lại hình tượng nhân vật Bêlicốp qua tiểu phẩm. Có
thể hư cấu dựa trên cốt truyện của Sêkhốp
Yêu cầu về thời gian - Thời gian hoàn thành: 3 ngày
- Thời gian trình bày: 4 phút trên lớp
Phương pháp phân vai của nhóm 2 mang lại những ưu điểm sau: học sinh
được rèn kĩ năng giao tiếp; tạo điều kiện làm phát triển óc sáng tạo của học sinh;
Gây hứng thú cho học sinh trong lớp; Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của
lời nói hoặc việc làm của vai diễn; Giáo viên có dịp kiểm tra việc tự học ở nhà,
nắm văn bản của học sinh.
Với yêu cầu này, học sinh có cơ hội thể hiện bản thân, tự tin, giờ học sôi
động. Tất cả học sinh đều có thể tham gia vai diễn trong vở kịch.
NHÓM 3 – giải quyết tình huống
Công việc được giao Giải quyết tình huống học tập: từ việc tự tìm hiểu hình
tượng nhân vật Bêlicốp, hãy chỉ ra đặc điểm của nhân
vật. Theo em kiểu người như Bêlicốp còn tồn tại trong xã
hội ngày nay không? Tìm dẫn chứng minh họa.
Yêu cầu cụ thể về
sản phẩm
- Học sinh tự nghiên cứu về đặc điểm nhân vật sau đó
liên hệ thực tế. Sản phẩm có thể trình bày trên giấy A0,
35. 34
trình bày dưới dạng một phóng sự.
- Khuyến khích học sinh tạo videoclip trên các phần
mềm ứng dụng hiện đại.
Yêu cầu về thời gian - Thời gian hoàn thành: 3 ngày
- Thời gian trình bày: 2 phút trên lớp
Công việc được giao của nhóm thứ 3 nằm trong nội dung dạy học của
giáo viên theo phương pháp nghiên cứu tình huống thực tiễn. Để thực hiện
nội dung này, học sinh phải thực hiện theo các bước cơ bản:
* Nhận biết tình huống
* Thu thập thông tin liên quan
* Tìm phương án giải quyết
3.1.2.3. Thống nhấtthang điểm
GV thống nhất với học sinh về thang điểm đánh giá cho sản phẩm. Thang
điểm đánh giá phải được giáo viên và học sinh cùng soạn thảo, đảm bảo hai bên
đều hiểu rõ và có thể sử dụng được. Đây là khâu quan trọng giúp học sinh có
động lực làm việc cũng như giúp giáo viên đánh giá năng lực học sinh một cách
toàn diện. Việc làm này người dạy cần xây dựng tiêu chí ngay từ đầu mỗi học kì.
Điểm kiểm tra thường xuyên cần căn cứ vào cả quá trình học tập chứ không nhất
thiết chỉ căn cứ vào một lần lên bảng hay chỉ một vài bài kiểm tra. Giáo viên
hoàn toàn có thể cộng điểm khuyến khích cho những học sinh có năng lực và
tích cực trong học tập. Học sinh không chỉ được khẳng định và thể hiện tài năng
của mình mà còn được ghi nhận bằng điểm số. Trong đó, giáo viên có thể áp
dụng hai cách:
Thứ nhất: cho học sinh tự đánh giá năng lực của bản thân và các thành
viên trong nhóm. Nhóm trưởng sẽ báo cáo tinh thần tham gia của các thành viên
ở các mức độ: tích cực, chưa tích cực, chưa tham gia hoặc hiệu quả, chưa hiệu
quả, chưa tham gia. Các em hoàn toàn có thể tự kiểm điểm bản thân và tự đánh
giá năng lực của mình và của bạn.
Thứ hai: Dự trên sản phẩm của các nhóm và cá nhân học sinh, căn cứ vào
việc báo cáo tiến độ của các nhóm giáo viên đánh giá, nhận xét và rút kinh
nghiệm cho các nhóm cũng như cá nhân học sinh. Làm sao khen hay chê đều
đúng người đúng việc, nên động viên, khuyến khích và ghi nhận kịp thời những
học sinh tích cực. Với những học sinh chưa tích cực cần xem lại việc phân công
nhiệm vụ xem đã phù hợp chưa để điều chỉnh. Tuyệt đối không được chỉ trích
36. 35
học trò, thay vào đó cần động viên và khích lệ các em một cách công tâm và
khách quan.
Giáo viên ngoài cuốn sổ điểm cá nhân nên lập thêm bảng điểm ghi nhận
quá trình học tập trên lớp. Bảng điểm này là cơ sở để giáo viên cộng điểm cho
học sinh trong mỗi học kì. Khi thực hiện nhiệm vụ, các nhóm làm tốt và học
sinh nào thực hiện tốt sẽ được cộng điểm trong cuốn sổ Theo dõi chuyên cần
ngoài sổ điểm.
3.1.2.4. Tổchức thực hiện
* Tạo tâm thế hình thành năng lực học sinh
Mở đầu, giáo viên tích hợp kiến thức môn địa lí, lịch sử (học sinh đã học
về địa lí Liên bang Nga trong chương trình lớp 11) bằng câu hỏi kiểm tra tích
hợp: ấn tượng của em về nước Nga sau khi học về đất nước này qua môn địa lí,
lịch sử là gì? (về diện tích, lịch sử…). Học sinh trình bày trong khoảng 1 phút.
Để tạo tâm thế và ấn tượng về tiết dạy là khâu rất quan trọng nên người
viết bài chú ý giới thiệu về thiên nhiên, đất nước con người Nga, lịch sử Nga
thế kỉ XIX (bởi bối cảnh lịch sử có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra đời của tác
phẩm). Từ đó nêu vị trí của Sêkhốp. Người viết thể hiện điều này trong thời gian
2 phút qua một videpclip.
Trong videoclip chứa lượng thông tin cô đọng, khái lược nhất. Clip là tập
hợp hình ảnh, kiến thức được lồng nhạc Nga bi tráng và hào hùng do chính giáo
viên giảng dạy thu âm lời thuyết mình. HS nghe và xem những hình ảnh và
thông tin cơ bản sau đó sẽ hoàn thiện phiếu học tập.
Clip đã tạo ra hiệu ứng tích cực, đưa học sinh sống với không gian văn
hóa của nước Nga thế kỉ XIX.
Sau khi tạo tâm thế giáo viên hướng dẫn HS vào các HDDH
*Hoạt động 1: Tìm hiểu những nét chính về tác giả, tác phẩm
Giáo viên sử dụng phương pháp nêu vấn đề
Thực ra, hoạt động này vốn quen thuộc có thể dẫn đến nhàm chán trong
các giờ học văn nếu giáo viên không chủ động và sáng tạo hướng dẫn học sinh
tiếp nhận kiến thức. Cái chính là cần tạo tâm thế hứng khởi cho học trò. Muốn
vậy giáo viên có phương pháp phù hợp. Khi dạy bài “Người trong bao”, người
viết định hướng cho học sinh chú ý những điểm sau:
- Sau khi phát videoclip, giáo viên yêu cầu học sinh cả lớp sẽ cập nhật
thông tin từ videoclip và phần chuẩn bị của nhóm 1 điền vào phiếu học tập số 1
37. 36
(có phụ lục kèm theo). Với phiếu học tập này hình thành cho các em năng lực
giao tiếp thể hiện 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết.
- Giáo viên yêu cầu học sinh trong nhóm bổ sung, các nhóm khác nhận
xét. Giáo viên củng cố và nhấn mạnh hai nội dung chính: Vị trí của A.P. Sêkhôp
và nội dung trong truyện ngắn Sêkhốp. Thông tin về tác giả ở mức nhận biết,
hoàn cảnh ra đời của văn bản yêu cầu HS điền vào phiếu học tập. Giáo viên có
thể kiểm tra ngay kết quả của học sinh.
Sau hoạt động của nhóm 1, nhóm 2 trình bày bản tóm tắt tác phẩm bằng
sơ đồ grap và tái hiện truyện ngắn bằng vở kịch trong vòng 3 phút “Blicôp –
Một người tình si”
*Hoạt động 2: Đọc – hiểu văn bản
Phương pháp chủ đạo: thảo luận nhóm
Khi soạn giáo án phần này, giáo viên chú ý đến năng lực hợp tác, năng lực
giao tiếp và giải quyết vấn đề của học sinh.
Để đạt được mục tiêu đó, giáo viên tăng cường cho học sinh thảo luận
nhóm trên lớp. Làm thế nào để đảm bảo kiến thức cơ bản theo CKT-KN mà giáo
viên không phải là người truyền thụ một chiều; làm thế nào để các em có cơ hội
hợp tác, thể hiện quan điểm của mình mà giờ học không bị “cháy giáo án”; làm
thế nào để các nhóm học sinh có sự tương tác, tự rút ra bài học cho mình từ phần
làm việc của bạn? Với trăn trở ấy, tôi đã tổ chức hoạt động dạy học theo các
nguyên tắc sau:
1. Xác định đúng trọng tâm kiến thức, đưa ra những câu hỏi nêu vấn đề
để định hướng học sinh tìm hiểu những vấn đề trọng tâm. Các câu hỏi cho mỗi
nhóm phải có mức độ tương đương. Ở tiết 1 dạy học “Người trong bao” khi tìm
hiểu hình tượng nhân vật Bêlicôp, giáo viên nêu vấn đề, sau đó đưa ra 3 câu hỏi
với mức độ tương đương nhau, giao cho 3 nhóm thảo luận như sau:
38. 37
Nhóm 1: Tìm những chi tiết miêu tả trang
phục và những vật dụng mà nhân vật Bê-li-
cốp thường mang bên mình? Qua đó, em
nhận xét gì về nhân vật này?
Nhóm 2: Trong mối quan hệ với đồng
nghiệp nhân vật Bê-li-cốp có thói quen
nào? Cho biết biểu hiện trong sinh hoạt
của hắn khi ở nhà? Qua đó, em hiểu gì
về lối sống, tính cách Bê-li-cốp?
Nhóm 3: Nhân vật Bê-li-cốp có ý nghĩ, quan
điểm sống như thế nào? Suy nghĩ của em về ý nghĩ,
quan điểm ấy? Từ đó, nhận xét về tính cách
Bê-li-cốp?
HOẠT ĐỘNG NHÓM
Ở tiết 2, giáo viên cũng giao nhiệm vụ cho các nhóm chuẩn bị chiếm lĩnh
kiến thức với các câu hỏi với mức độ tương đương:
Nhóm 1: Tìm hiểu về cái chết của Bêlicốp (nguyên nhân và ý nghĩa) . Theo em
Beelicốp chết nhưng hiện tượng Bêlicốp còn không?
Nhóm 2: Tìm hiểu về những ảnh hưởng của Bêlicôp khi còn sống và khi đã
chết?
Nhóm 3: Em hãy lí giải và trình bày nghĩa hình tượng cái bao trong tác phẩm.
Bên cạnh những câu hỏi thảo luận nhóm để các em thể hiện năng lực hợp
tác, tự quản, giải quyết vấn đề, giáo viên thường xuyên đặt ra các câu hỏi mang
tính ứng dụng thực tiễn, tích hợp với các nội dung giáo dục. Ví dụ, sau khi học
sinh rút ra đặc điểm tính cách Bêlicôp: một kẻ hèn nhát, bạc nhược, sống kì
quặc, luôn sợ hãi, ích kỉ, máy móc, là sản phẩm của xã hội Nga chuyên chế cuối
thế kỉ XIX, giáo viên đặt câu hỏi tích hợp giáo dục môi trường: Vậy cần phải
xây dựng xã hội như thế nào để con người được sống là mình, với ý nghĩa đích
thực? Đây là phương thức hướng học sinh tới một năng lực tiếp theo – năng lực
giải quyết các tình huống thực tiễn.
Hoạt động 3: Hướng dẫn học sinh tổng kết, củng cố - dặn dò
Trong phương pháp dạy học Ngữ văn truyền thống, phần cũng cố dặn dò
thường bị xem nhẹ. Giáo viên thường lướt rất nhanh hoặc bỏ qua. Tuy nhiên đối
với giờ dạy theo định hướng phát triển năng lực thì đây là phần hết sức quan
39. 38
trọng. Phần này vừa là điểm nhấn lại kiến thức cơ bản trong toàn bài, vừa mang
tính giáo dục sâu sắc. Theo người viết bài, ở phần củng cố, nhất định giáo viên
phải nâng cao vấn đề đặt ra trong giờ học theo các hướng:
- Chốt lại kiến thức cơ bản
- Mở rộng nâng cao vấn đề gắn với thực tiễn
- Tích hợp với các môn học khác cùng chủ đề để tăng cường hiệu quả
giáo dục.
Khi định hướng dạy học truyện ngắn “Người trong bao”, giáo viên luôn
chú ý gắn bài học với thực tiễn đời sống xã hội để học sinh có sự kết nối giữa
bài học – thực tiễn. Cụ thể, phần củng cố tiết 1 giáo viên đã nêu câu hỏi cho
nhóm HS chuẩn bị ở nhà: Từ việc tự tìm hiểu hình tượng nhân vật Bêlicốp, hãy
chỉ ra đặcđiểm của nhân vật. Theo em kiểu người như Bêlicốp còn tồn tại trong
xã hội ngày nay không? Tìm dẫn chứng minh họa.
Giáo viên định hướng sản phẩm của nhóm học sinh có thể trình bày trên
giấy A0, tranh ảnh, powerponrt, video clip…Kết quả, học sinh nhận thức vấn đề
ngoài sự mong đợi của giáo viên. Các em thể hiện khả năng giải quyết các tình
hống thực tiễn xuất sắc khi trình bày kiến thức hài hòa với sản phẩm được ứng
dụng CNTT.
Ngoài ra, giáo viên đặt ra tình huống để học sinh thể hiện năng lực sáng
tạo và sử dụng tiếng Việt như sau: Theo em, Bêlicôp đáng thương hay đáng
trách? Lớp chia làm hai nhóm, một đóng vai một luật sư để bảo vệ Bêlicôp, một
đóng vai người tố cáo, khiếu nại Bêlicốp?
Như trên là những định hướng để tổ chức một giờ học theo hướng phát
triển năng lực học sinh. Thiết nghĩ, một giờ học như vậy quả thực cả giáo viên
và học sinh đều vô cùng vất vả, nhưng “hoa quả lại rất ngọt ngào”.
3.1.3. Kếtquả dạy học trên lớp theo định hướng phát triển năng lực
Hình thức đánh giá năng lực thông qua việc dạy học truyện ngắn “Người
trong bao” là một hình thức rất phù hợp đối với môn Ngữ văn cũng như đối với
những yêu cầu cơ bản của đánh giá theo năng lực. Hiện nay ở nhà trường phổ
thông, việc đánh giá năng lực của học sinh vẫn còn được áp dụng khá dè dặt. Đa
số giáo viên còn ngại dạy học theo định hướng phát triển năng lực xem đó như
là một hình thức hoạt động chỉ trong rất ít các giờ thao giảng chứ chưa thường
xuyên. Việc đánh giá năng lực học sinh chưa thường xuyên trong cả kì học.