SlideShare a Scribd company logo
1 of 47
3
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tự học là hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên đang học
tập tại các trường đại học. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa học,
có chất lượng, hiệu quả không chỉ là trách nhiệm của sự nghiệp giáo dục và đào
tạo của các trường đại học mà đây còn là trách nhiệm to lớn của cá nhân từng
người học. Trong quá trình học tập, việc xác định mục đích, xây dựng động cơ,
lựa chọn phương pháp, hình thức tự học hợp lý là cần thiết. Song điều quan
trọng là sinh viên phải có hệ thống kỹ năng tự học, điều này có ý nghĩa vô cùng
quan trọng đối với sinh viên, bởi lẽ muốn có kỹ năng nghề nghiệp trước hết phải
có kỹ năng làm việc độc lập, trên cơ sở phát huy tính tích cực nhận thức để
chiếm lĩnh hệ thống tri thức. Vì tri thức là sản phẩm của hoạt động, muốn nắm
vững tri thức và có tay nghề thì việc rèn luyện hệ thống kỹ năng tự học một cách
thường xuyên và nghiêm túc phải được chú trọng ngay từ khi còn ngồi trên ghế
nhà trường. Như vậy, để hoạt động học tập của sinh viên đạt chất lượng và hiệu
quả, sinh viên phải có tri thức và kỹ năng tự học. Chính kỹ năng tự học là điều
kiện vật chất bên trong để sinh viên biến động cơ tự học thành kết quả cụ thể và
làm cho sinh viên tự tin vào bản thân mình, bồi dưỡng và phát triển hứng thú,
duy trì tính tích cực nhận thức trong hoạt động tự học của họ.
Với đặc thù là học viên đào tạo cán bộ chính trị tại Học viện cán bộ, với
nhiều nội dung môn học khác nhau, trong quá trình học tập các môn
KHXH&NV chiếm thời lượng rất lớn trong nội dung chương trình đào tạo. Việc
học tốt các môn KHXH&NV giúp cho học viên hình thành thế giới quan
phương pháp luận duy vật biện chứng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách
mạng, cùng với việc rèn luyện tay nghề CTĐ, CTCT, đây là điều không thể
thiếu đối với một người cán bộ chính trị. Để học tốt các môn KHXH&NV thì
việc tự học đóng vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên hiện nay việc tự học của
học viên còn nhiều bất cập, hầu hết khi tiếp xúc với các môn KHXH&NV học
viên còn khá lúng túng trong việc tìm ra phương pháp học tập hợp lý. Vì vậy tác
4
giả chọn vấn đề : Nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH&NV đối với học
viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Để góp phần nâng cao chất lượng GD – ĐT trong các Học viện, nhà
trường, trong thời gian qua đã có những bài viết, những nội dung nghiên cứu về
nâng cao chất lượng tự học của học viên, sinh viên nhưng chưa có đề tài nào
nghiên cứu về “Nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH&NV đối với học
viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ”. Vì vậy tác giả chọn đề tài đi
nghiên cứu, luận giải về nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH&NV đối
với học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ lý luận, thực tiễn định hướng phương pháp tự học cho
đội ngũ học viên đào tạo cán bộ chính trị tai Học viện cán bộ hiện nay, đề xuất
các giải pháp tự học cho đội ngũ này, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đội
ngũ cán bộ chính trị của quân đội trong thời kỳ mới.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ lý luận nâng cao chất lượng tự học của đối tượng học viên đào
tạo cán bộ chính trị
- Đánh giá thực trạng của việc tự học các môn KHXH&NV của học viên
đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng tự học các môn
KHXH & NV cho đội ngũ học viên đào tạo cán bộ chính trị trong thời kỳ mới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu việc nâng cao chất lượng tự học các
môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
5
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối quan điểm
của Đảng cộng sản Việt nam về giáo dục đào tạo, lý luận phương pháp tự học
hiện đại
- Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh, lôgic, khảo sát thực tiễn để nghiên cứu
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài có thể làm tài liệu nghiên cứu góp phần nâng cao chất lượng tự học
của học viên trong quá trình học tập các môn khoa học xã hội – nhân văn và tài
liệu tham khảo cho giáo viên cũng như tất cả bạn đọc quan tâm
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm : Phần mở đầu, kết luận, 2 chương, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục
6
Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn việc nâng cao chất lượng tự học các môn
khoa học xã hội và nhân văn của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học
viện cán bộ.
1.1. Cơ sở lý luận việc nâng cao chất lượng tự học và đặc điểm tự học
các môn khoa học xã hội và nhân văn của học viên đào tạo cán bộ chính trị
ở Học viện cán bộ.
1.1.1. Cơ sở lý luận.
Trong GD – ĐT dạy và học có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại
với nhau, trong đó người dạy giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc truyền thụ
nội dung kiến thức và phương pháp học tập cho người học; đề xuất yêu cầu
nhiệm vụ học tập; chỉ đạo, tổ chức, điều khiển người học thực hiện tốt các yêu
cầu, nhiệm vụ học tập; nắm thông tin ngược một cách thường xuyên thông qua
các hình thức, phương pháp dạy học và các sản phẩm của người học; tiếp tục đề
xuất những yêu cầu, nhiệm vụ học tập mới trên cơ sở xử lý các thông tin ngược;
phân tích đánh giá kết quả học tập và giảng dạy. Dưới tác động sư phạm của
người dạy, người học là khách thể, tiếp thu một cách có ý thức những tác động
đó, để tiến hành hoạt động nhận thức của mình. Song quá trình nhận thức là một
quá trình phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc mỗi người một cách
chủ động, sáng tạo, người học là chủ thể nhận thức, tự giác, tích cực, độc lập,
tiến hành các hoạt động nhận thức của mình, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ học
tập. Người học phải: tự ý thức các yêu cầu, nhiệm vụ học tập một cách đầy đủ
chính xác; phát hiện các mâu thuẫn nhận thức và tự lực giải quyết nó, dưới sự
chỉ đạo của người dạy; tự phát hiện những điểm mạnh, điểm yếu trong quá trình
học tập của bản thân thông qua các sản phẩm học tập của mình; tự đề xuất
những yêu cầu học tập mới đối với bản thân trên cơ sở xử lý các thông tin ngược
bên trong; tự phân tích, tự đánh giá kết quả học tập. Từ sự phân tích vai trò và
những hành động cơ bản của người dạy và người học như trên, chúng ta càng
thấy sự gắn bó tương hỗ giữa hai mặt hoạt động này, trong đó người học có vai
trò hết sức quan trọng trong việc tự học, tự nghiên cứu của mình.
7
Học là quá trình tự biến đổi mình và làm phong phú mình bằng cách chọn
nhập và xử lý thông tin lấy từ môi trường xung quanh. Dạy là việc giúp cho
người học tự mình chiếm lĩnh những kiến thức, kỹ năng và hình thành hoặc biến
đổi những tình cảm, thái độ. Đó là quan niệm tổng quát về dạy và học theo cách
tiếp cận thông tin, từ đó người dạy có vai trò giúp cho người học chọn, nhập và
xử lý thông tin để biến thành tri thức chứ không phải là nguồn truyền thông tin
cho người học. Việc học phụ thuộc vào mối quan hệ giảng viên – học viên, vai
trò của giảng viên và học viên biến động qua mối quan hệ này. Một mặt, giảng
viên có thể đơn thuần là người truyền đạt kiến thức; sinh viên hoàn toàn phụ
thuộc vào điều mà người giảng bài nói hoặc làm, họ là “người tiếp nhận” hơn là
“người học”. Mặt khác, giảng viên có thể đóng vai trò hướng dẫn, hoặc người
tạo điều kiện thuận lợi, sinh viên được giúp đỡ để chủ động lập kế họach học tập
của mình.
Trong giai đoạn hiện nay với việc đổi mới nội dung, phương pháp GD –
ĐT, lấy người học làm trung tâm, người dạy chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn
và tổ chức cho học viên tự mình chủ động tiếp cận với giáo trình tài liệu, vì vậy
việc tự học, tự tìm kiếm tri thức của người học lại càng có vai trò quyết định
trong nâng cao chất lượng GD – ĐT.
Xuất phát từ lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác – Lênin, dưới ánh
sáng lý luận đó, việc lĩnh hội các kiến thức, kỹ xảo được xem là một quá trình
phản ánh thế giới khách quan vào trong ý thức của người học. Đó là quá trình
vận động của tư duy, là sự giải quyết mâu thuẫn nội tại, từ chỗ chưa hiểu biết
đến chỗ hiểu biết, từ chỗ hiểu biết chưa đầy đủ chưa chính xác đến đầy đủ và
chính xác hơn, từ chỗ chưa có kỹ năng đến có kỹ năng giải quyết những vấn đề
thực tiễn đặt ra. Sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong ý thức của con
người không phải là một hành động tức thời, giản đơn, thụ động, máy móc mà là
một quá trình phức tạp của sự hoạt động tích cực sáng tạo. Về cơ bản, hoạt động
học tập diễn ra theo quy luật nhận thức chung, mà tự học nằm trong quá trình
học tập. Quá trình nhận thức của người học về cơ bản được quy định bởi quy
luật nhận thức chung, quy luật đó được Lênin khái quát “Từ trực quan sinh động
8
đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn …”1
Điều đó có nghĩa
là quá trình đi từ nhận thức cảm tính đến lý tính và quay trở về thực tiễn. Người
học thu thập các tài liệu cảm tính từ những tác động của người dạy và phương
tiện trực quan dạy học. Trên cơ sở các tài liệu cảm tính đó, người học sử dụng
các thao tác tư duy để xử lý chế biến, nghiền ngẫm thông tin học tập, gạt bỏ
những cái vụn vặt, ngẫu nhiên bên ngoài, nắm lấy cái bản chất, quy luật của sự
vật, hiện tượng, nghĩa là nắm được cái khái niệm, định nghĩa, quy luật. Và cuối
cùng học tập là sự vận dụng các kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng đã tiếp thu được vào
giải quyết các nhiệm vụ lý luận và thực tiễn đặt ra. Trong quá trình học tập,
người học không những chỉ lĩnh hội các kiến thức đã được khoa học khám phá
mà còn tìm ra những tri thức mới. Vì vậy hoạt động nhận thức của người học
được diễn ra trong điều kiện: có người dạy chỉ đạo, có tài liệu, các phương tiện
kỹ thuật dạy học, khả năng tự học của cá nhân người học, trong đó khả năng tự
học của người học là một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình nhận
thức.
Trong các giáo trình, tài liệu, có nhiều tác giả đã đưa ra các định nghĩa
khác nhau về tự học, sau đây là một số định nghĩa cơ bản:
- Nhà tâm lý học N.ARubakin coi: Tự tìm lấy kiến thức – có nghĩa là tự
học. Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong thực
tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm
ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến tri thức
của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng , kỹ xảo của chủ thể.
- Trong cuốn “Học tập hợp lí” R.Retke chủ biên, coi “Tự học là việc hoàn
thành các nhiệm vụ khác không nằm trong các lần tổ chức giảng dạy” - Theo tác
giả Lê Khánh Bằng: thì tự học (self learning) là tự mình suy nghĩ, sử dụng các
năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học nhất
định
- Theo Giáo sư Đặng Vũ Hoạt và Phó giáo sư Hà Thị Đức trong cuốn “Lý
luận dạy học đại học” thì “Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại
học. Đó là một hình thức nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri
9
thức và kỹ năng do chính người học tự tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp,
theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã được qui định.
- Theo tác giả Nguyễn Văn Đạo: “Tự học phải là công việc tự giác của
mỗi người do nhận thức được đúng vai trò quyết định của nó đến sự tích luỹ
kiến thức cho bản thân, cho chất lượng công việc mình đảm nhiệm, cho sự tiến
bộ của xã hội”
- Theo Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học – là tự mình động
não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng
hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của
mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung
thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại,
lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi..vv...) để
chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành
sở hữu của mình”2
.
Từ những quan điểm về tự học nêu trên, có thể đi đến định nghĩa về tự
học như sau: Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập tự
chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống bằng hành động của
chính mình nhằm đạt được mục đích nhất định.
Như vậy tự học là hình thức học tập độc lập của người học nhằm lĩnh hội,
củng cố và vận dụng các kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng. Tự học có những đặc điểm
nổi bật sau đây: Là một hình thức tổ chức dạy học mang tính chất cá nhân;
người học tự tổ chức quá trình nhận thức của mình, thể hiện tính tự giác, tích
cực độc lập, sáng tạo của bản thân; người dạy giữ vai trò chỉ đạo, định hướng,
song không trực tiếp can thiệp vào quá trình tự lĩnh hội của người học; tự học
giúp cho người học củng cố, mở rộng, đào sâu, hệ thống hóa, khái quát hóa kiến
thức, rèn luyện kỹ xảo, tư duy độc lập, sáng tạo, vận dụng vào giải quyết các
nhiệm vụ thực tiễn.
Các hình thức tự học:
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau:
10
* Hình thức 1: Cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc lập
không có sách và sự hướng dẫn của giáo viên.
Hình thức này gọi là tự nghiên cứu của các nhà khoa học. Kết quả của quá
trình nghiên cứu đi đến sự sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa học mới,
đây thể hiện đỉnh cao của hoạt động tự học. Dạng tự học này phải được dựa trên
nền tảng một niềm khao khát, say mê khám phá tri thức mới và đồng thời phải
có một vốn tri thức vừa rộng, vừa sâu. Tới trình độ tự học này người học không
thầy, không sách mà chỉ cọ sát với thực tiễn vẫn có thể tổ chức có hiệu quả hoạt
động của mình.
* Hình thức 2: Tự học có sách nhưng không có giáo viên bên cạnh.
Ở hình thức tự học này có thể diễn ra ở hai mức:
Thứ nhất, tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của thầy:
Trường hợp này người học tự học để hiểu, để thấm các kiến thức trong
sách qua đó sẽ phát triển về tư duy, tự học hoàn toàn với sách là cái đích mà mọi
người phải đạt đến để xây dựng một xã hội học tập suốt đời.
Thứ hai, tự học có thầy ở xa hướng dẫn:
Mặc dù thầy ở xa nhưng vẫn có các mối quan hệ trao đổi thông tin giữa
thầy và trò bằng các phương tiện trao đổi thông tin thô sơ hay hiện đại dưới
dạng phản ánh và giải đáp các thắc mắc, làm bài, kiểm tra, đánh giá,...
* Hình thức 3: Tự học có sách, có thầy giáp mặt một số tiết trong ngày,
sau đó sinh viên về nhà tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên
Trong quá trình học tập trên lớp, người thầy có vai trò là nhân tố hỗ trợ,
chất xúc tác thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò với vai
trò là chủ thể của quá trình nhận thức: tự giác, tích cực, say mê, sáng tạo tham
gia vào quá trình học tập. Mối quan hệ giữa thầy và trò chính là mối quan hệ
giữa Nội lực và Ngoại lực, Ngoại lực dù quan trọng đến mấy cũng chỉ là chất
xúc tác thúc đẩy Nội lực phát triển.
Trong quá trình tự học ở nhà, tuy người học không giáp mặt với thầy,
nhưng dưới sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động tự sắp xếp kế hoạch huy động mọi trí tuệ và kỹ năng của
11
bản thân để hoàn những yêu cầu do giáo viên đề ra. Tự học của người học theo
hình thức này liên quan trực tiếp với yêu cầu của giáo viên, được giáo viên định
hướng về nội dung, phương pháp tự học để người học thực hiện. Như vậy ở hình
thức tự học thứ ba này quá trình tự học của sinh viên có liên quan chặt chẽ với
quá trình dạy học, chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố tổ chức
và quản lý quá trình dạy học của giảng viên và quá trình tự học của học viên.
Trong GD – ĐT cán bộ chính trị nói chung và cán bộ chính trị ở Học viện
cán bộ nói riêng phần lớn thời gian và khối lượng kiến thức học tập, nâng cao
tay nghề của người cán bộ chính trị tập trung vào các môn KHXH&NV. Việc
học tập, lĩnh hội kiến thức các môn KHXH&NV có vai trò ý nghĩa hết sức quan
trọng, là tiền đề để cho người cán bộ chính trị có thế giới quan, phương pháp
luận khoa học trong việc nhận thức, đánh giá thực tiễn. Các môn KHXH&NV
rất đa dạng như: triết học, kinh tế - chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, lịch
sử, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, tâm lý giáo dục học, lôgic
học … có thể nói rằng các môn KHXH&NV là hệ thống những tri thức về xã
hội và về con người. Nếu tách bạch ra thì khoa học xã hội nghiên cứu về xã hội,
còn khoa học nhân văn nghiên cứu về con người. Có những khoa học nghiên
cứu xã hội như một chính thể phát triển qua thời gian: đó là sử học (cổ, trung,
cận, hiện đại) và những khoa liên quan như khảo cổ học, dân tộc học. Có những
khoa học nghiên cứu xã hội như một cấu trúc gồm nhiều yếu tố hợp thành (cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội và ý thức xã hội) cũng như
những mặt khác nhau của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, luật pháp, đạo đức,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật tâm lí... đó là khoa học xã hội hiểu theo nghĩa hẹp.
Nếu lấy con người làm đối tượng nghiên cứu, coi con người, tính người là trung
tâm như hàm nghĩa của khái niệm khoa học nhân văn thì chưa đủ, bởi con người
là chủ thể của ý thức, của tư duy. Vì vậy khoa học nhân văn còn gồm cả những
khoa học triết học, trong đó có triết học (nghiên cứu về thế giới quan, về lí luận
nhận thức), lôgic học (nghiên cứu về tư duy trừu tượng) …
Từ vấn đề trên ta thấy việc tự học các môn KHXH&NV là hoạt động nhận
thức, có mục đích của cá nhân, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng
12
lực trí tuệ để chiếm lĩnh các tri thức về xã hội và con người, biến các lĩnh vực đó
trở thành sở hữu của mình. Tự học các môn KHXH&NV là việc tiếp thu một
cách có tổ chức các tri thức về xã hội và con người, dựa vào công tác tự học một
cách có hệ thống.
Trong quá trình tự học các môn KHXH&NV thì chất lượng giữ vai trò
quyết định. Chất lượng là một khái niệm rất trừu tượng, đa chiều, đa nghĩa, được
xem từ nhiều bình diện khác nhau, đây là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi
trong đời sống xã hội. Triết học Mác-Lênin chỉ rõ: mọi sự vật, hiện tượng của
hoạt động xã hội bao giờ cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng. Mọi quan hệ
qua lại giữa chất và lượng của sự vật, hiện tượng quy định sự tồn tại, phát triển
của chính bản thân sự vật. Quan niệm chung nhất theo từ điển Tiếng việt “Chất
lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự việc”3
.
Nghĩa là khi phân tích đánh giá bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào hay hoạt động
của cá nhân hoặc tập thể đều phải gắn với yếu tố, thuộc tính quy định sự tồn tại,
phát triển tạo nên giá trị đích thực của hiện tượng, hoạt động đó, không được
tuyệt đối hoá hoặc tách rời các yếu tố, thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng hoạt
động cụ thể, đòi hỏi phải có phương pháp xem xét, đánh giá cụ thể, không thể áp
dụng một phương pháp chung cho mọi sự vật, hiện tượng; đặc biệt là đối với
con người và hoạt động thực tiễn của con người trong lĩnh vực hoạt động xã hội.
Vì vậy Đánh giá chất lượng người ta căn cứ vào giá trị, giá trị xã hội và do xã
hội quy định.
Biểu hiện tập trung chất lượng tự học là ở nhân cách của người học viên;
tức là mức độ chuyển biến nhận thức, sự tích luỹ thêm kinh nghiệm thực tiễn
của mỗi học viên trong học tập, rèn luyện phù hợp với chức trách, nhiệm vụ
được giao. Trên bình diện chung nhất có thể hiểu chất lượng tự học các môn
KHXH&NV là hiệu quả chuyển biến nhận thức của cá nhân người học trong quá
trình tự giác, tự động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ để chiếm lĩnh
các tri thức về xã hội và con người.
Tiêu chí đánh giá chất lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên
đào tạo cán bộ ở Học viện cán bộ.
13
Tiêu chí là điều được quy định dùng làm chuẩn để phân loại đánh giá.
Theo đó, tiêu chí được thể hiện ở các chỉ số, thông số, chỉ tiêu dùng làm thước
đo để dựa vào đó so sánh, đánh giá kết quả tự học các môn KHXH&NV của học
viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ. Các chỉ số, thông số, chỉ tiêu
càng chính xác, cụ thể bao nhiêu thì việc đánh giá chất lượng tự học các môn
KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ càng chính
xác bấy nhiêu. Với cách tiếp cận đó, khi đánh giá chất lượng tự học các môn
KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ cần dựa
vào trên các nhóm tiêu chí sau:
Một là, kết quả nhận thức về nội dung các môn KHXH&NV, đây là tiêu
chí rất quan trọng bởi vì trong quá trình tự học các môn KHXH&NV biểu hiện
của kết quả nhận thức nội dung các môn KHXH&NV thông qua việc người học
đã xác định được tầm quan trọng của các môn KHXH&NV hay chưa, đã nắm
vững bản chất, nội dung vấn đề, nội dung bài học đến đâu, biết liên hệ, vận
dụng, lý luận vào thực tiễn như thế nào… thông qua những kết quả đó mà đánh
giá được chất lượng tự học các môn KHXH&NV của người học
Hai là, chất lượng tự học các môn KHXH&NV được đánh giá bằng kết
quả học tập thông qua kiểm tra, thi kết thúc môn. Trong quá trình tự học các
môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ, để
biết được khả năng tiếp thu kiến thức của bản thân đến đâu, thì kết quả kiểm tra
đánh giá của giảng viên phản ánh thực chất chất lượng học tập của người học.
Ba là, thể hiện qua chất lượng tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài,
chất lượng thảo luận xêmina. Trong các giờ thảo luận hay xêmina việc học viên
tham gia đóng góp ý kiến xây dựng bài như thế nào, có sôi nổi hay không, có
giải quyết được lý luận và thực tiễn hay không … điều đó đánh giá được việc
chuẩn bị bài của học viên tốt hay không tốt, đánh giá được chất lượng tự học của
học viên ở mức nào.
Bốn là, thông qua hoạt động thực tiễn CTĐ, CTCT ở đơn vị. Chúng ta
biết rằng chất lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ
chính trị ở Học viện cán bộ có tốt hay không được đánh giá bằng rất nhiều tiêu
14
chí trong đó có hoạt động thực tiễn ở đơn vị, đặc biệt là hoạt động CTĐ, CTCT
là một tiêu chí quan trọng, thông qua hoạt động này có thể đánh giá được việc
vận dụng những kiến thức KHXH&NV vào trong thực tiễn hoạt động CTĐ,
CTCT của người học đến đâu, từ đó đánh giá được chất lượng tự học các môn
KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ.
1.1.2. Đặc điểm về việc tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn
của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ.
Các môn KHXH&NV bao gồm: triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa
xã hội khoa học, tâm lý học, giáo dục học, pháp luật, văn học, nghệ thuật…
nghiên cứu sự vận động, biến đổi và phát triển của tự nhiên, xã hội và con
người, vì vậy việc tự học các môn khoa học này có những đặc điểm riêng, Hơn
thế nữa khi học các môn khoa học này là nền tảng cho các môn khoa học khác
và tạo một thế giới quan, cách nhìn nhận vấn đề của bản thân một cách khách
quan hơn.
Về đặc điểm các môn KHXH&NV xét một cách tổng thể nó mang tính
phổ biến, bởi lẽ KHXH&NV là khoa học nghiên cứu về xã hội, con người và
cộng đồng người. Xưa nay, phàm làm bất kỳ việc gì thì cũng phải động chạm
đến những hiểu biết về xã hội, con người và cộng đồng người, cho nên kiến thức
KHXH&NV hiện hữu ở khắp mọi nơi và cần đến ở khắp mọi nơi. Trong phạm
vi một quốc gia, một công trình nghiên cứu khoa học tự nhiên và công nghệ thì
giỏi lắm cũng chỉ có vài trăm người đọc (in được vài trăm bản) còn một công
trình nghiên cứu KHXH&NV thường có tới vài nghìn, thậm chí vài vạn người
đọc. Vì vậy việc tiếp cận những môn này không phải là chuyện khó khăn, việc
tự học và tự nghiên cứu các môn này có sự khó, dễ khác nhau tùy thuộc vào sự
tiếp cận và khả năng của từng người.
Nghiên cứu các môn KHXH&NV liên quan mật thiết đến lĩnh vực chính
trị xã hội, đạo đức nhân cách, tư tưởng, văn hóa của dân tộc cho nên đây là một
lĩnh vực rất quan trọng. Chúng ta đều biết, những sai lầm về kinh tế, kỹ thuật để
lại hậu quả lớn, nhưng vẫn có thể khắc phục được trong một thời gian nhất định.
Thế nhưng những sai lầm thuộc về lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, giáo
15
dục… sẽ để lại hậu quả vô cùng nghiêm trọng và lâu dài, có khi mất đến hàng
chục, hàng trăm năm mới khắc phục được. Vì vậy người học viên đào tạo cán bộ
chính trị ở Học viện cán bộ phải nhận thức được đặc điểm, tầm quan trọng của
KHXH&NV, từ đó có phương pháp học tập, nghiên cứu, củng cố vững chắc
kiến thức về KHXH&NV làm điều kiện cho công tác sau này đạt hiệu quả cao.
Trong thực tiễn, bất cứ công việc nào, bất cứ ngành nghề nào cũng như
bất cứ môn học nào cũng đều có độ khó, dễ riêng của nó, tuỳ theo cách cảm
nhận, cách tiếp thu và lòng đam mê của mỗi người mà những cái đó trở nên dễ
đối với người này cũng như sẽ trở nên khó đối với người khác. Khi học các môn
KHXH&NV cũng vậy, đều là những môn học đòi hỏi người học phải chịu khó
đọc nhiều tài liệu, nghiên cứu, tìm hiểu và nắm vững bản chất vấn đề, bởi vì học
các môn này khá trừu tượng, nhiều thuật ngữ khó, có tính lý luận, tính khái quát
cao; luôn quan hệ mật thiết với thực tiễn xã hội; luôn có sự thống nhất cao giữa
tính khoa học và tính tư tưởng; luôn mang tính chiến đấu… khi nghiên cứu nếu
người học không có phương pháp tự học tốt và không biết cách tiếp cận thì sẽ
khiến cho người học bị ngập vào trong các khái niệm, phạm trù, quy luật… vì
vậy người học phải tự tìm cho mình phương pháp nghiên cứu các môn này một
cách hiệu quả nhất.
Với những đặc điểm riêng như trên vì thế để học tốt các môn KHXH&NV
nói riêng và các môn học khác nói chung thì trước hết tinh thần tự học, tự
nghiên cứu, miệt mài, chăm chỉ là rất quan trọng. Trước khi lên lớp người học tự
nghiên cứu, tham khảo tài liệu trước, ghi và đánh dấu những nội dung khó hiểu
hoặc vướng mắc để trên lớp cùng trao đổi với bạn bè hoặc giảng viên. Trên lớp
tập trung chú ý nghe giảng tranh thủ ghi tốc ký những nội dung, các ví dụ, dẫn
chứng của giảng viên để làm cơ sở cho việc nghiên cứu, trao đổi, thảo luận. Sau
mỗi buổi học, luôn chủ động trao đổi những nội dung còn vướng mắc với giảng
viên, hoặc bạn bè, tranh thủ tìm hiểu, tham khảo những kiến thức trên thư viện,
lên mạng Internet tìm thêm tài liệu để đào sâu nghiên cứu, mở rộng các vấn đề
mà bài giảng đề cập kết hợp với tài liệu, sách giáo khoa trong giờ tự học... Đối
16
với các môn KHXH&NV, nếu biết tự học tập, tự nghiên cứu thì ai cũng có thể
học giỏi.
1.1.3. Đặc điểm đối tượng đào tạo cán bộ chính trị.
Thứ nhất: Với đối tượng là quân nhân chuyên nghiệp (đã có bằng trung
cấp về chuyên môn kỹ thuật), thi tuyển theo qui chế của nhà trường. Ưu điểm
của đối tượng này có kiến thức về chuyên môn kỹ thuật bậc trung cấp, các tố
chất cần thiết để phát triển thành cán bộ chính trị viên đã được bộc lộ qua thời
kỳ đào tạo trung cấp và quá trình hoạt động thực tiễn quân sự ở các đơn vị, đối
tượng này 100% là Đảng viên có nhận thức và động cơ tốt khi thi vào trường,
trong học tập có ý thức tự giác cao, có những kinh nghiệm nhất định trong thực
tiễn ở trong môi trường quân đội cho nên việc vận dụng các kiến thức
KHXH&NV vào thực tiễn có sự thuận lợi. Tuy nhiên với đối tượng này còn bộc
lộ nhiều điểm yếu trong quá trình tự học, tự nghiên cứu các môn KHXH&NV.
Thứ hai: đối tượng là cán bộ trung đội trưởng, có bằng cử nhân quân sự
cấp phân đội, được tuyển chọn về đào tạo cán bộ chính trị, đặc điểm của đối
tượng này là, đã được trang bị khối lượng kiến thức về cử nhân quân sự cơ bản,
có động cơ phấn đấu, những phẩm chất cần thiết để phát triển và hoàn thành
nhiệm vụ của người cán bộ chính trị viên đã được bộc lộ qua rèn luyện trong
thời kỳ đào tạo cử nhân quân sự và thực tiễn quản lý chỉ huy đơn vị. Đối tượng
này, đã hoàn thành mục tiêu về học vấn và mục tiêu về chức vụ chỉ huy cấp
phân đội theo qui định của bộ quốc phòng, có những kinh nghiệm quản lý chỉ
huy, nên thuận lợi cho việc đào tạo chức vụ chính trị viên, có kinh nghiệm trong
học đại học, có kinh nghiệm nhất định trong tự học, tự nghiên cứu. Có thể nói
đây là đối tượng phù hợp để tạo ra chất lượng và hiệu quả đáp ứng yêu cầu đào
tạo chính trị viên hiện nay. Tuy nhiên đối tượng này chất lượng tự học các môn
KHXH&NV cũng có những hạn chế nhất định đó là: những đối tượng này trước
kia hầu hết đều học về kiến thức quân sự hoặc kiến thức về khoa học tự nhiên là
chính, cho nên khi vào trường tiếp xúc với các môn KHXH&NV đa phần còn
nhiều lúng túng, chưa có cách tiếp cận khoa học, chưa có phương pháp học tập
hiệu quả.
17
Như vậy, đối tượng đầu vào cho đào tạo chính trị viên ở Học viện cán bộ
hiện nay gồm nhiều nguồn, mỗi nguồn lại có những đặc điểm riêng chi phối đến
quá trình đào tạo nói chung, chất lượng tự học các môn KHXH&NV nói riêng.
Qua các đối tượng trên ta thấy: Việc nâng cao chất lượng tự học các môn
KHXH&NV có những thuận lợi và khó khăn nhất định, cần phải có những giải
pháp tích cực và mang tính đồng bộ.
1.2. Thực trạng chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân
văn của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ hiện nay.
1.2.1. Những kết quả đã đạt được trong quá trình tự học các môn
KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ trong
thời gian qua.
Đối với học viên
Xuất phát từ đặc điểm đối tượng đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán
bộ đa phần là những quân nhân có kinh nghiệm trong thực tiễn hoạt động quân
sự, được tuyển chọn hoặc qua tuyển sinh có chất lượng đầu vào khá tốt, có nhận
thức chính trị cao vì vậy đa phần học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện
cán bộ đã nhận thức tốt nhiệm vụ học tập và rèn luyện tại trường, có động cơ
phấn đấu học tập, rèn luyện để trở thành người cán bộ chính trị.
Trong quá trình học tập học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán
bộ đã cơ bản có nhận thức tốt về vị trí, vai trò của việc tự học, tự nghiên cứu;
thấy được việc tự học, tự nghiên cứu là hình thức đòi hỏi tính độc lập cao, đặc
biệt là đối với các môn KHXH&NV, qua đó giúp bản thân củng cố, mở rộng,
đào sâu, hệ thống hóa kiến thức, đồng thời người học bước đầu cũng đã rèn
luyện được kỹ năng, kỹ xảo, phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, vận dụng và giải
quyết được những vấn đề thực tiễn đặt ra một cách khoa học. Đã chủ động tìm
hiểu những đặc điểm, yêu cầu của môn học nắm được những thuận lợi, khó khăn
trong quá trình học tập, qua đó rút ra những biện pháp khắc phục khó khăn, lập
kế hoạch học tập và chuẩn bị đầy đủ về vật chất, tâm lí, thể lực cho quá trình học
tập. Việc xây dựng kế hoạch nghiên cứu của cá nhân cơ bản đã có tính khoa học
18
và đã được triển khai thực hiện khá nghiêm túc, phát huy vai trò chủ thể trong
hoạt động nhận thức, biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo.
Học viên bước đầu đã biết độc lập tiếp xúc tài liệu trước khi nghe giảng
và xử lý thông tin sau khi nghe giảng viên giảng bài. Đã tự giác, nỗ lực tự học,
tự rèn, xây dựng động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn, nắm vững mục tiêu, yêu
cầu và nhiệm vụ GD–ĐT, tích cực, chủ động, tìm tòi, lựa chọn cho mình một
phương pháp học tập hợp lý, thường xuyên rút kinh nghiệm, cải tiến phương
pháp tự học của mình cho phù hợp với từng môn học.
Đa số học viên đã tận dụng được thời gian trong việc tự học, chịu khó tìm
tòi, nghiên cứu giáo trình, tài liệu, trên thư viện cũng như trên mạng internet.
Theo kết quả điều tra đối với học viên đào tạo cán bộ chính trị: Trong giờ tự
học, đồng chí có nghiên cứu giáo trình, tài liệu trên thư viện hay trên các
website không? có 80% trả lời thường xuyên, 18% thỉnh thoảng, 2% ít khi, 0%
chưa khi nào. Với kết quả này cho thấy việc tự nghiên cứu giáo trình, tài liệu của
học viên rất tích cực, tự giác.
Phần đông học viên đã nắm được những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, pháp luật của Nhà nước và các kiến thức
KHXH&NV; biết liên hệ, vận dụng có hiệu quả những kiến thức đã được học
vào thực tiễn và công tác của mình. Tỷ lệ học viên đạt kết quả học tập khá cao.
Qua khảo sát thực tế kết quả kiểm tra, thi kết thúc các môn KHXH&NV thì có
100% đạt yêu cầu, trong đó có 50% - 60% khá giỏi.
Về đội ngũ giảng viên
Trong GD – ĐT luôn được Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện, các cơ
quan chức năng, các khoa giảng viên đặc biệt quan tâm đến việc đổi mới toàn
diện về nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, trong đó chú trọng bồi
dưỡng quá trình tự học, tự rèn luyện của học viên. Thường xuyên quán triệt mục
tiêu, yêu cầu đào tạo cho học viên. Xây dựng động cơ, thái độ, trách nhiệm, ý
thức tự giác học tập, rèn luyện, khắc phục khó khăn, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tích cực bồi dưỡng phương pháp, kinh nghiệm học
tập, tập bài, luyện tập và thường xuyên rút kinh nghiệm về phương pháp tự học,
19
đánh giá tinh thần, thái độ, trách nhiệm học tập của người học một cách khách
quan, do đó đa số học viên có thái độ học tập đúng đắn, xây dựng ý trí quyết tâm
cao, tích cực học tập, rèn luyện, tổ chức mạn đàm, thảo luận tìm ra những
phương pháp học tập thích hợp hiệu quả với từng môn học. Học viên đã nắm
được kiến thức và khả năng vận dụng các kiến thức vào trong quá trình học tập,
công tác nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ theo mục tiêu yêu cầu đào tạo đề ra.
Bước đầu đã phát huy được tính độc lập, tự chủ của học viên, chú ý đến
việc hướng dẫn học viên tự học, tự nghiên cứu, phát huy tính dân chủ công khai
trong quá trình dạy học, tạo điều kiện để học viên tự điều chỉnh để nâng cao chất
lượng học tập, rèn luyện thái độ và phương pháp học tập, tự nghiên cứu một
cách sáng tạo. Đã kết hợp sử dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp theo
từng môn học. Giảng viên chỉ giảng tập trung vào những nội dung cơ bản, gắn
với thực tiễn xã hội của từng môn học, từng ngành học …định hướng cho học
viên tự nghiên cứu giáo trình, các tài liệu tham khảo và tự cập nhật, bổ sung các
thông tin liên quan.
Ngoài ra trong những năm qua, đội ngũ giảng viên Khoa KHXH&NV đã
không ngừng trau dồi trình độ kiến thức, rèn luyện phẩm chất đạo đức, tích cực
nghiên cứu học tập để nâng cao trình độ mọi mặt đủ sức hoàn thành mọi nhiệm
vụ huấn luyện được giao. Nhiều giảng viên đã đạt học vị tiến sỹ, thạc sỹ, có
năng lực thực sự trong công tác nghiên cứu khoa học và giảng dạy, đủ khả năng
đảm nhiệm tốt nhiệm vụ giảng dạy ở bậc đại học và sau đại học, đây là cơ sở, là
tiềm lực đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giảng dạy các môn KHXH&NV
cho các đối tượng học viên đáp ứng yêu cầu đào tạo chính trị viên của nhà
trường
Về tổ chức quản lý học viên
Việc quản lý, duy trì kỷ luật kết hợp với quản lý chất lượng tự học của
học viên ở Học viện cán bộ đã làm cho quá trình đào tạo trở lên khép kín từ
khâu trang bị kiến thức đến khâu tổ chức cuộc sống. Hệ thống nơi ăn, ở tập
trung tuân theo chế độ, điều lệnh, điều lệ của Quân Đội, có hệ thống chỉ huy, hệ
thống Đảng, các tổ chức quần chúng đã giúp cho việc quản lý chặt chẽ không
20
chỉ chất lượng tự học mà cả chất lượng hoạt động thưc tiễn, không chỉ năng lực
mà cả phẩm chất chính trị tư tưởng. Cũng thông qua đó mà làm cho mọi học
viên trong một tập thể có cùng chung nhiều ý tưởng, có sự gắn bó, đoàn kết với
nhau trên tình yêu thương đồng chí, đồng đội, luôn có tinh thần giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ trong học tập, qua đây tạo ra được môi trường giáo dục tốt, tạo ra
không khí thi đua sôi nổi giữa các cá nhân với nhau trong việc tự học nắm bắt
kiến thức.
Hệ thống chỉ huy các cấp trong Học viện cán bộ được tổ chức một cách
khá chặt chẽ, đã nắm bắt, định hướng một cách kịp thời tư tưởng, hành động của
học viên, duy trì nghiêm túc các chế độ trong ngày, đảm bảo cho học viên có thể
phát huy khả năng của cá nhân trong việc tự học, tự nghiên cứu của mình, đã
quản lý tốt thời gian, chất lượng học tập của học viên trong các giờ tự ôn, tạo
điều kiện thuận lợi nhất môi trường học tập cho học viên. Vì vậy chất lượng tự
học, tự nghiên cứu của học viên được nâng cao.
Cán bộ quản lý đã tổ chức bồi dưỡng, giúp đỡ cho học viên về phương
pháp tự học, hàng tháng đã có những buổi sinh hoạt chuyên đề nâng cao chất
lượng tự học cho học viên, việc tổ chức rút kinh nghiệm học tập tháng cho từng
lớp đã dần đi vào nề nếp. Kết quả cho thấy qua việc bồi dưỡng, giúp đỡ của cán
bộ quản lý phần đông học viên đã dần hình thành được kỹ năng tiếp cận kiến
thức, có những phương pháp học tập phù hợp với khả năng của mình.
1.2.2 Những hạn chế trong việc tự học các môn khoa học xã hội và
nhân văn của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ hiện nay
Đối với học viên
Hiện nay, thiếu sót trong phương pháp tự học của học viên thể hiện ở
nhiều mặt, học thiếu hệ thống về kiến thức xã hội do đặc điểm đối tượng đào tạo
trước đây là những nhân viên chuyên môn kỹ thuật, họ được đào tạo qua trường
trung cấp kỹ thuật, học tập các môn chuyên ngành kỹ thuật là chính, họ ít quan
tâm đến các môn KHXH&NV, vì vậy mà cách học và cách tiếp cận một vấn đề
đôi khi chưa khoa học, trong khi học có khi chỉ căn cứ vào nguồn tài liệu là sách
giáo khoa ít tham khảo tài liệu có liên quan, chọn nội dung học để đối phó với
21
thi cử, học thuộc lòng ít suy nghĩ, đặt lại vấn đề. Tất cả cách tự học không khoa
học trên dẫn tới hậu quả là kiến thức không vững bền và điều quan trọng là
không rèn cho người học sự suy luận, tính lôgic về nội dung kiến thức.
Độ tuổi của học viên đào tạo cán bộ chính trị viên tàu cũng ảnh hưởng
phần nào đến quá trình học tập, phần lớn các học viên đều là những quân nhân
chuyên nghiệp đã học qua các trường trung cấp kỹ thuật, độ tuổi trung bình
khoảng 29 tuổi, có những khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức bậc đại học và
kiến thức về các môn KHXH&NV, điều này ảnh hưởng nhiều đến chất lượng tự
học, tự nghiên cứu của học viên. Theo kết quả điều tra: Theo đồng chí chất
lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên hiện nay như thế nào? có 18%
đạt hiệu quả, 72% bình thường, 10% chưa hiệu quả
Việc nắm kiến thức các môn KHXH&NV, nhất là hiểu bản chất, khả năng
phân tích khái quát, tổng hợp vấn đề… ở học viên còn chưa cao; khả năng liên
hệ, vận dụng, gắn nội dung lý luận với thực tiễn và nghề nghiệp của một số học
viên còn hạn chế. Đặc biệt, vẫn còn tồn tại một số học viên lười học, lười rèn
luyện.
Thực trạng chất lượng tự học các môn KHXH&NV cuả học viên chưa cao
đó là học viên chưa tận dụng hết thời gian trong giờ tự học cũng như trong thời
gian nhàn rỗi, chưa lập được kế hoạch tự học một cách khoa học. Mặt khác đặc
điểm của các môn KHXH&NV là phải đọc nhiều, nghiên cứu nhiều tài liệu,
giành nhiều thời gian tự học nhưng người học còn chủ quan, ít đào sâu suy nghĩ.
Kết quả điều tra cho thấy: Trong những ngày nghỉ giờ nghỉ đồng chí có thường
hay tự nghiên cứu các môn KHXH&NV không? có 50% trả lời ít khi, 25% thỉnh
thoảng, 20% thường xuyên, 5% chưa khi nào. Kết quả này cho thấy, tuy học
viên đã có ý thức tự giác trong việc đầu tư thời gian cho tự học, nhưng việc tận
dụng thời gian cho việc tự học chưa nhiều.
Học viên chưa có phương pháp học phù hợp, chịu ảnh hưởng của phương
pháp học truyền thống là “học thuộc lòng”; chưa có thái độ và tâm lí học tập
đúng đắn nên không tích cực tham gia vào bài giảng của giáo viên, chưa đào sâu
nghiên cứu tài liệu theo yêu cầu của giảng viên đưa ra; chưa có thói quen hoặc
22
lười làm việc, đóng góp vào bài giảng của giảng viên. Qua điều tra: học viên có
thường xuyên phát biểu đóng góp ý kiến, xây dựng bài trong giờ học các môn
KHXH&NV không? Kết quả 20% thường xuyên, 32% thỉnh thoảng, 40% ít khi,
8% chưa khi nào. Trong quá trình học, phần lớn học viên còn lệ thuộc vào bài
giảng của giảng viên, chưa tích cực nghiên cứu giáo trình, tài liệu. Do đó trong
giờ thảo luận và thực hành học viên ít tranh luận làm sáng tỏ những vấn đề thực
tiễn đặt ra, hoặc ý kiến tranh luận chưa sâu, cách lập luận giải quyết vấn đề chưa
chặt chẽ, thiếu tính lôgic khoa học.
Trong quá trình đào tạo, phần lớn học viên thường ở vị trí khách thể, thụ
động tiếp thu kiến thức và tìm cách tái hiện những điều giảng viên đã giảng trên
lớp. Cách thức học tập này đã trở thành một thói quen của không ít học viên.
Thực trạng trên dẫn đến học viên nắm thực chất vấn đề còn hạn chế, chưa chịu
khó đào sâu suy nghĩ, tiếp thu kiến thức thụ động, thường rập khuôn một chiều
theo thầy và chấp nhận những giải pháp quen thuộc.
Đối với giảng viên
Trong những năm qua, Học viện cán bộ đã coi trọng công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ giảng viên nên chất lượng dạy học ngày càng một tăng lên. Tuy
nhiên, phương pháp, quy trình giới thiệu của giảng viên có lúc chưa kích thích
được tính say mê, hứng thú, sáng tạo của người học. Việc sử dụng phương pháp
giảng dạy để phù hợp với từng môn học, từng đối tượng là một vấn đề đặt ra, đối
với phương pháp thuyết trình thì giảng viên trình bày nội dung cần truyền đạt
cho học viên bằng cách nêu vấn đề theo nội dung yêu cầu, sau đó phân tích, giải
thích, lấy ví dụ dẫn chứng, chứng minh những nội dung cần truyền đạt cho học
viên lĩnh hội. Quá trình này diễn ra theo một chiều thầy giảng, trò nghe và ghi
chép, sau đó về học bài. Trong quá trình giảng rất ít có sự phản hồi thông tin
ngược chiều của học viên. Sử dụng phương pháp thuyết trình trong giảng dạy có
nhiều ưu điểm: trong một thời gian ngắn giảng viên có thể chuyển tải được khối
lượng thông tin nhiều cho học viên. Nhưng nếu chỉ sử dụng một phương pháp
này trong giảng bài sẽ làm cho học viên trở thành đối tượng thụ động, không
phát huy được tính chủ động sáng tạo, đôi khi gây ức chế về mặt tâm lý, học
23
viên cảm thấy mệt mỏi và không tập trung vào nội dung của bài giảng. Theo một
kết quả điều tra, việc sử dụng phương pháp thuyết trình có 35% chú ý ghi, 18%
chú ý nghe, 2% lơ đãng, 45% chú ý lắng nghe và ghi chép cẩn thận. Như vậy,
chất lượng hiệu quả bài giảng chưa thực sự cao, học viên còn thụ động, giảng
viên dạy cái gì học cái đó.
Trong những năm qua việc đổi mới phương pháp giảng dạy đặt ra nhiều
vấn đề, trong đó có việc bồi dưỡng, định hướng, giúp đỡ học viên về phương
pháp tự học, tuy giảng viên đã có những định hướng cho học viên về cách tiếp
cận vấn đề phù hợp với từng nội dung môn học, nhưng việc bồi dưỡng, định
hướng đó vẫn chưa được thường xuyên, liên tục.
Trong kiểm tra, thi đánh giá kết quả vẫn còn có bất cập cần phải cải tiến
như: ra đề thi có học phần còn đơn giản, chưa đòi hỏi tính suy luận và sáng tạo
của người học; đội ngũ cán, bộ giảng viên có lúc chưa thống nhất quan điểm
đánh giá, còn chịu tác động yếu tố khác; kết quả thi có bài còn chưa phản ánh
đúng, chính xác chất lượng của người học. Mặt khác, ở một số học viên chưa có
nhận thức đúng đắn về mục đích, động cơ, trách nhiệm trong học tập, còn có
biểu hiện dựa dẫm, ỉ lại, ngại học, ngại rèn (học đối phó qui chế, chưa có ý thức
học để làm việc và để học tiếp trong suốt đời quân ngũ của mình).
Đối với các tổ chức, đội ngũ cán bộ quản lý
Hệ thống chỉ huy các cấp tuy đã có sự kiểm tra sát sao trong việc duy trì
học viên trong các giờ tự ôn, tuy nhiên việc quản lý hiệu quả còn chưa cao; hệ
thống tổ chức cán bộ quản lý ở các Hệ, tiểu đoàn học viên ở Học viện cán bộ
còn nổi nên những bất cập, cán bộ quản lý trực tiếp (lớp trưởng) là những học
viên kiêm nhiệm, kinh nghiệm về quản lý chưa nhiều, việc duy trì các chế độ
còn nhiều lỏng lẻo, cán bộ lớp còn ngại nhắc nhở học viên trong các giờ tự ôn,
việc duy trì thời gian tự ôn có lúc còn chưa nghiêm túc, chưa có phương pháp tổ
chức trong việc tự học của học viên, cán bộ cấp trên có lúc chưa kiểm tra kịp
thời việc tự học của học viên, việc bồi dưỡng phương pháp tự học cho học viên
còn chưa thường xuyên… tất cả những nguyên nhân trên đều ảnh hưởng rất
nhiều đến chất lượng tự học của học viên.
24
Nguyên nhân
Ưu điểm
Một là, học viên cơ bản đã nhận thức đầy đủ và sâu sắc vị trí, vai trò của
việc tự học, tự nghiên cứu các môn KHXH&NV, đã có tính tự giác trong tự học,
tự rèn, xây dựng động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn, trau dồi kiến thức về mọi
mặt đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ, chức trách của người cán bộ chính trị.
Hai là, trong quá trình GD–ĐT được sự quan tâm thường xuyên của Đảng
ủy, ban giám đốc Học viện, sự chỉ đạo, hướng dẫn của các phòng, khoa giáo
viên đã quan tâm đến việc đổi mới toàn diện về nội dung chương trình, phương
pháp giáo dục, trong đó chú trọng bồi dưỡng để nâng cao chất lượng tự học, tự
rèn luyện của học viên.
Ba là, đội ngũ cán bộ quản lý có kinh nghiệm trong quản lý học viên, có
trình độ, năng lực công tác tốt, duy trì nghiêm các chế độ, có sự kiểm tra, đôn
đốc, nhắc nhở và bồi dưỡng học viên nâng cao chất lượng tự học, xây dựng
được môi trường học tập, rèn luyện tốt đảm bảo được tính định hướng trong quá
trình học tập, rèn luyện của học viên.
Nhược điểm
Có thể nhận định, việc chất lượng tự học các môn KHXH&NV vẫn còn
những bất cập nêu trên là do:
Thứ nhất: Phương pháp học tập của học viên tuy có nhiều tiến bộ, song
nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Học viên các lớp chuyên môn kỹ
thuật đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ đã qua đào tạo ở các trường trung
cấp kỹ thuật trong toàn quân và qua ít nhất 3 năm công tác thực tiễn tại đơn vị, họ
đã có trình độ nhận thức nhất định đó là điều kiện thuận lợi trong quá trình học
tập, tuy nhiên việc nắm bắt về phương pháp học ở bậc đại học còn hạn chế.
Thứ hai: Công tác quản lý học viên trong giờ tự học cũng còn những bất
cập, sự kiểm tra của cán bộ quản lý có lúc chưa được thường xuyên.
Ba là: Tác động mặt trái của kinh tế thị trường và các tệ nạn xã hội đã dẫn
đến một số học viên có nhận thức chưa đúng về vị trí, vai trò của việc học tập
25
các môn KHXH&NV, tư tưởng ngại học và vi phạm kỷ luật trong học tập, thi cử
là điều khó tránh khỏi.
Bốn là: Trong những năm gần đây, số lượng môn học tăng, trong khi đó
đội ngũ giảng viên lại thiếu, cường độ giảng dạy lớn. Thời gian qua mặc dù nhà
trường cũng đã có sự đổi mới về phương pháp học tập theo phương pháp mới,
đã có nhiều hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học như dạy học nhóm,
xêmina… tuy nhiên trong quá trình thực tế còn tồn tại nhiều bất cập. Một bộ
phận giảng viên có phần e ngại khi đổi mới, tìm kiếm phương pháp giảng dạy
theo hướng hiện đại.
1.2.3. Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng tự học.
Trong tiến trình phát triển chung của nhân loại, tri thức có vai trò thúc đẩy
sự tiến bộ của xã hội, sự phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia đều dựa trên
nền tảng tri thức, muốn có tri thức thì phải phát triển giáo dục. Như Bác Hồ
thường nói “Non sông Việt Nam có vẻ vang, có sánh vai cùng các cường quốc
năm châu hay không? Chính là nhờ phần lớn công học tập ở các cháu”, dù cho
giáo dục không phải là phương thuốc thần kì có thể thực hiện được mọi mơ ước
song dù sao nó cũng là một con đường hơn mọi con đường khác huớng vào phục
vụ phát triển toàn diện con người. Ý thức được tầm quan trọng đó của tri thức
giáo dục, nước ta coi giáo dục và đào tạo là quốc sách, Đảng và nhà nước ta
đang nỗ lực xây dựng một xã hội học tập với phương hướng, con đường thực
hiện là kết hợp đến trường, giáo dục từ xa và tự học. Trong đó tự học để trưởng
thành là vô cùng quan trọng.
Một trong những đặc trưng cơ bản, quan trọng nhất trong xã hội tự học là
tư tưởng tự học tập suốt đời. Vì “việc học không bao giờ là muộn”. Quan niệm
tự học suốt đời nổi lên trong thời đại ngày nay như một chìa khoá mở cửa đi vào
thế kỉ 21 - thế giới của nền kinh tế tri thức. Nó đáp ứng những thách thức của
một thế giới đang thay đổi nhanh chóng trên mọi lĩnh vực. Xuất phát từ sự phát
triến của tri thức không bao giờ dừng lại mà luôn phát triển Trong xã hội tự học
người ta học vì: học để biết, học để làm người, học để làm việc, học để chung
26
sống – những động cơ này luôn thôi thúc con người ta phải luôn học tập để đạt
đến chân- thiện-mỹ.
V.I Lênin nói : "Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm
giầu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả kho tàng tri thức mà nhân loại đã
tạo ra "4
muốn hiểu biết được tất cả kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra thì
trước tiên con người phải biết tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực
trí tuệ của mình để tìm tòi học hỏi, tức là phải có khả năng tự học. Tự học là nói
đến nội lực của người học, chất lượng của học tuỳ thuộc chủ yếu vào nội lực, dù
điều kiện tác động từ bên ngòai đối với họat động học tốt đến mấy, nhưng nếu
con người không có đủ nỗ lực bản thân để tự học, tự biến đổi mình đến mức cần
thiết thì không thể nào đạt được mục tiêu mong muốn.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên có vị trí nhất định
trong bộ máy nhà nước, do đó phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ
hiểu biết mọi mặt, có tư duy độc lập và sáng tạo, cải tiến phương pháp làm việc,
nâng cao chất lượng công tác. Theo Người, vấn đề học tập là “suốt đời” chứ
không phải chỉ là lớp học, khoá học hoặc mang tính “thời vụ”, rồi sau đó lại
“đâu vào đấy”. Người chống thói qua loa đại khái, lười học, lười suy nghĩ dẫn
đến tình trạng khi giải quyết công việc thì “được chăng hay chớ”, “gặp đâu làm
đấy”, chất lượng công việc thấp, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Do đó,
Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải “Ham học tập để nâng cao trình độ của
mình”5
và coi đây là một tiêu chuẩn, một giá trị đạo đức của người cán bộ, đảng
viên, từ đó, Người vạch rõ phương hướng, nhiệm vụ đối với cán bộ, đảng viên là
không được sao nhãng việc học tập, phải tu dưỡng không ngừng, đối với người
cán bộ “chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”.6
Người đặt lên
hàng đầu “lấy tự học làm cốt”7
, cán bộ, đảng viên phải biết “tự động học tập”,
phải xác định tư tưởng cho đúng, học tập phải trở thành nhu cầu, thói quen, hành
vi hàng ngày của cán bộ, đảng viên. Cán bộ nào lười học, lười suy nghĩ, không
thường xuyên tiếp nhận, cập nhật thông tin mới, những hiểu biết mới cũng là
một biểu hiện suy thoái về đạo đức.
27
Nghị quyết 14/2005 của Chính phủ về việc đổi mới giáo dục đại học –
Cao đẳng đã đặt ra vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục đại học, trong đó việc
đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình đào tạo và phương pháp dạy học là
một trong những yêu cầu cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Một trong những
đòi hỏi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường đại học
– cao đẳng là giúp cho sinh viên có khả năng tự học tự nghiên cứu. Nghị quyết
Trung ương 2 khoá VIII khẳng định: “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của
người học. Từng bước áp dụng các phương pháp dạy học tiên tiến và phương
tiện dạy dạy học hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian
tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên; nhất là sinh viên đại học”. Trong khoản b
điều 36, luật Giáo dục cũng ghi rõ “Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng
việc bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát
triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực
nghiệm ứng dụng”.
Có thể nói, chất lượng tự học là nhân tố trực tiếp trong việc nâng cao chất
lượng đào tạo ở các trường đại học. Khi một học sinh trở thành một sinh viên
đại học, họ bắt đầu phải làm quen với phương thức học tập hoàn toàn mới mẻ. Ở
trung học, học sinh chỉ cần nắm vững những kiến thức được cô giáo truyền
giảng ở trên lớp là đủ và giáo viên kiểm tra, đánh giá học sinh qua việc thuộc bài
là được. Song ở đại học thì khác hẳn, tự học đóng vai trò hết sức quan trọng,
quyết định đến chất lượng GD–ĐT ở đại học, tự học là phương pháp, cách thức
cơ bản của mỗi sinh viên phải quán triệt. Bởi vì, phương hướng chủ yếu của
trường đại học là biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo mà thực chất
là làm cho sinh viên tự hoàn thiện và làm phong phú thêm vốn tri thức bằng sự
nỗ lực tự học, tự nghiên cứu. Sinh viên đại học, học phương pháp là chủ yếu.
Giờ đây, thầy cô giáo đóng vai trò là những người hướng dẫn học tập, và các giờ
lên lớp chỉ cung cấp được những kiến thức cơ bản nhất, những tài liệu cơ bản,
còn việc học tập của sinh viên là sắp xếp trình tự, thời gian để nghiên cứu nắm
tài liệu cơ sở và cả tài liệu tham khảo mở rộng. Thêm vào đó, không còn sự
28
kiểm tra sát sao của giáo viên, kết quả học tập được đánh giá bằng việc tiếp thu
tài liệu, kiến thức, tìm ra tri thức mới... Kết quả này phụ thuộc vào bản thân sinh
viên là chủ yếu. Công tác tự học của sinh viên ngày càng tăng lên, ngày càng đòi
hỏi nhiều cố gắng nỗ lực vì chỉ có việc tự học mới trang bị cho mình kiến thức
mới nhất, khoa học nhất và thu được nhiều kinh nghiệm cho thực tiễn hoạt động
và đạt kết quả như mong muốn.
Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng tự học còn giữ vai trò lớn lao trong việc
nâng cao thành tích, hoạt động trí tuệ của sinh viên trong việc hiểu và tiếp thu tri
thức mới, nhiều nhà giáo dục nổi tiếng đã nêu lên sự cấp thiết phải khéo léo tổ
chức việc tự học cho sinh viên. Tự học với sự nỗ lực và tư duy sáng tạo đã tạo
điều kiện cho việc tìm hiểu tri thức một cách sâu sắc, hiểu rõ bản chất của chân
lý. Trong quá trình tự học, sinh viên sẽ gặp nhiều vấn đề mới và việc đi tìm giải
đáp cho những vấn đề ấy là cách tốt nhất để kích thích hoạt động trí tụê cho sinh
viên. Nếu thiếu đi sự nỗ lực tự học của bản thân sinh viên thì kết quả không thể
cao cho dù có điều kiện ngoại cảnh thuận lợi đến mấy (thầy giỏi, tài liệu hay).
Theo Aditxterrec: "Chỉ có truyền thụ tài liệu của giáo viên mà thôi thì dù có
nghệ thuật đến đâu chăng nữa cũng không đảm bảo được việc lĩnh hội tri thức
của học sinh. Nắm vững kiến thức thực sự lĩnh hội chân lý, cái đó học sinh phải
tự mình làm lấy bằng trí tụê của bản thân", điều đó lại khẳng định thêm vai trò
của việc nâng cao chất lượng tự học. Tự học được tổ chức tốt không những cung
cấp cho sinh viên những kiến thức mới, bổ ích mà còn giúp họ rất nhiều trong
công việc sau này khi họ trở thành những người chủ thực sự góp phần xây dựng
đất nước. Họ có năng lực hoạt động thực tiễn hay không? Chất lượng công tác
như thế nào? phụ thuộc phần lớn vào chất lượng tự học. Xã hội ngày càng phát
triển và ngày càng có nhiều phát kiến vĩ đại thì cần phải có những con người
toàn diện. Bí quyết để chiến thắng là trang bị cho mình những tri thức toàn diện,
đây cũng là nhiệm vụ đặt ra cho công tác tự học, không chỉ có vậy, tự học còn
có vai trò to lớn trong việc giáo dục, hình thành nhân cách cho sinh viên. Việc tự
học rèn luyện cho sinh viên thói quen độc lập suy nghĩ, độc lập giải quyết vấn đề
khó khăn trong nghề nghiệp, trong cuộc sống, giúp cho họ tự tin hơn trong việc
29
lựa chọn cuộc sống cho mình. Hơn thế, tự học thúc đẩy sinh viên lòng ham học,
ham hiểu biết, khát khao vươn tới những đỉnh cao của khoa học, sống có hoài
bão, ước mơ. Do vậy, mỗi sinh viên hãy xây dựng cho mình một thói quen, một
phương thức để nâng cao chất lượng tự học một cách tốt nhất.
Như vậy có thể khái quát rằng tự học là một hình thức học nhằm giúp cho
người học lĩnh hội, củng cố kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, trong quá trình tự học,
người học tự xử lý thông tin đã lĩnh hội, tìm tòi khám phá tri thức mới, vận dụng
tri thức vào giải quyết các nhiệm vụ học tập, từng bước biến tri thức do người
dạy truyền đạt kiến thức trong tài liệu thành kiến thức của bản thân, từ đó giúp
cho người học phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, hình thành niềm tin khoa học,
sự hứng thú, say mê học tập. Trong các nhà trường quân đội, hoạt động tự học
còn tạo điều kiện cho học viên nắm được cách thức tổ chức quản lý hoạt động tự
học, đảm nhiệm được chức trách người cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý hoạt
động tự học của bộ đội ở đơn vị được đảm nhiệm một cách có hiệu quả.
Năng lực hoạt động thực tiễn của người cán bộ chính trị có được thông
qua kết quả tác động tổng hợp của các hoạt động: GD – ĐT ở các nhà trường, tự
học tập, tự tu dưỡng bản thân của người cán bộ…trong các hoạt động đó, hình
thức tự học tập, tự tu dưỡng, đặc biệt là chất lượng tự học các môn KHXH&NV
có vai trò vị trí rất quan trọng, nó luôn thâm nhập, đan quện và là một nhân tố
trực tiếp góp phần tạo nên kết quả, chất lượng, uy tín của người cán bộ chính trị.
Suy đến cùng, nguồn gốc sâu xa của mọi sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng đều thông qua quá trình tự thân vận động, là một trong những yếu tố trực
tiếp quyết định đến chất lượng và hiệu quả trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện
của mình. Người cán bộ chính trị muốn có năng lực hoạt động thực tiễn tốt trước
hết phải tận dụng được tối đa thời gian học tập, rèn luyện mà bản thân được đào
tạo trong trường, phát huy hết khả năng trong việc tự học để không ngừng nâng
cao trình độ về mọi mặt, trong đó trình độ nhận thức về các môn KHXH&NV là
một trong những điều kiện cần thiết để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
công tác Đảng, công tác chính trị của người cán bộ chính trị.
30
Kết luận chương 1
Nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo
cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ hiện nay là một nội dung quan trọng, trực
tiếp góp phần bồi dưỡng, rèn luyện trình độ kiến thức lý luận, khả năng tư duy
sáng tạo, trình độ tổ chức hoạt động thực tiễn, phương pháp tác phong công tác
của người chính trị viên được hình thành phát triển trong quá trình học tập rèn
luyện tại Học viện cán bộ.
Xuất phát từ cơ sở lý luận việc nâng cao chất lượng tự học, sự cần thiết
phải nâng cao chất lượng tự học và đặc điểm tự học các môn KHXH&NV; xuất
phát từ thực trạng chất lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo
cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ hiện nay, vì vậy yêu cầu phải nâng cao chất
lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học
viện cán bộ là vấn đề cấp thiết hiện nay.
31
Chương 2
Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng tự học các môn
khoa học xã hội và nhân văn của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học
viện cán bộ hiện nay.
Để nâng cao chất lượng tự học nói chung và tự học các môn KHXH&NV
của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ hiện nay cần có những
giải pháp mang tính đồng bộ, sự kết hợp của nhiều yếu tố chủ quan và khách
quan đó là những yếu tố trực tiếp chi phối đến hoạt động và chất lượng tự học
của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ hiện nay, vì vậy cần tập
trung vào một số giải pháp cơ bản sau.
2.1. Nâng cao nhận thức về việc tự học các môn khoa học xã hội và
nhân văn cho học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ.
Đây là giải pháp quan trọng cả trong lý luận và thực tiễn người học. Chủ
tịch Hồ Chí Minh thường nói: Muốn học tập, rèn luyện có kết quả tốt thì phải có
động cơ đúng, trách nhiệm cao, tự học, tự rèn luyện cũng giống như “mài ngọc
luyện vàng”, ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Người chỉ
ra rằng “Năng lực của con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, mà
một phần lớn do công tác luyện tập mà có”. Với Hồ Chí Minh, tự học được xem
như một quy luật tồn tại, sự tự khẳng định và phát triển cá nhân; là điều kiện tiên
quyết để hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực toàn diện của mỗi
người. Điều quan trọng hàng đầu, người học xác định rõ mục đích học tập và
xây dựng động cơ học tập đúng đắn. Theo Người, mục đích của việc học tập là:
“Học để làm việc, làm người, làm cán bộ, học để phụng sự đoàn thể, phụng sự
giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”8
Trước hết mỗi học viên cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc vị trí, vai trò của
việc tự học, tự nghiên cứu; cần thấy tự học, tự nghiên cứu là hình thức đòi hỏi
tính độc lập cao, qua đó giúp cho bản thân củng cố, mở rộng, đào sâu, hệ thống
hóa kiến thức, đồng thời rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, phát triển tư duy độc lập,
sáng tạo, vận dụng và giải quyết được những vấn đề thực tiễn đặt ra một cách
khoa học.
32
Yêu cầu từng học viên xây dựng kế hoạch nghiên cứu của cá nhân đảm
bảo tính khoa học, triển khai thực hiện nghiêm túc, chống thái độ đơn giản, xem
nhẹ hoặc biểu hiện đối phó. Bên cạnh đó, với mỗi nội dung, môn học thì mỗi
người cần biết lựa chọn phương pháp phù hợp. Thái độ và trách nhiệm học tập
của học viên với các môn KHXH&NV được thể hiện rõ ở việc nhận thức đúng
đắn về mục đích, yêu cầu, nội dung cần đạt được của từng môn học cũng như
tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo trong quá trình học tập. Đó là quá trình
mỗi học viên phát huy vai trò chủ thể trong hoạt động nhận thức, biến quá trình
đào tạo thành tự đào tạo. Để có được động cơ thái độ trách nhiệm học tập đúng
đắn, nhất thiết phải thông qua công tác giáo dục của nhà trường, giảng viên, cán
bộ quản lý, các tổ chức trong đơn vị và đặc biệt là quá trình tự giáo dục, sự nỗ
lực, tự giác vươn lên của người học. Ngay từ đầu mỗi học viên cần phải tự giác
quán triệt một cách nghiêm túc về mục tiêu yêu cầu đào tạo của Nhà trường
cũng như yêu cầu về phẩm chất năng lực của người cán bộ chính trị. Phải nhận
thức đúng đắn việc học tập đó là ''Học để biết, học để làm người, học để làm cán
bộ, để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân''.
Muốn vậy, mỗi học viên phải chủ động tìm hiểu những đặc điểm, yêu cầu
của môn học nắm được những thuận lợi, khó khăn trong quá trình học tập. Qua
đó, rút ra những biện pháp khắc phục khó khăn, lập kế hoạch học tập và chuẩn
bị đầy đủ về vật chất, tâm lí, thể lực cho quá trình học tập. Ngoài ra từng học
viên phải luôn có ý thức tự rèn luyện bản thân, xây dựng ý chí và nghị lực để sẵn
sàng vượt qua mọi khó khăn trở ngại trong học tập, luôn đặt ra những yêu cầu
cao trong học tập để tự mình phấn đấu vươn lên đạt cho được yêu cầu đó. Đồng
thời, tích cực đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, tư tưởng ngại khó, ngại
khổ; tư tưởng ỉ lại, trông chờ vào các mối quan hệ để được điểm cao. Trên thực
tế, những hạn chế này vẫn còn tồn tại không ít ở người học, cần phải được khắc
phục triệt để trong thời gian tới.
2.2. Phát huy vai trò của các tổ chức, cán bộ quản lý, giảng viên khoa
xã hội trong việc bồi dưỡng, nâng cao chất lượng tự học cho học viên đào
tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ.
33
Một là: Tiếp tục đổi mới nội dung chương trình, phương pháp dạy học.
Chương trình nội dung dạy học phải được đổi mới theo hướng đảm bảo
thực hiện mục đích giáo dục toàn diện của Đảng, đảm bảo được tính hiện đại,
tính tư tưởng, tính giáo dục, không ngừng tăng cường tính thực tiễn, đồng thời
phải làm cho các kiến thức ngày càng mang tính tổng hợp, khái quát, đáp ứng
với sự phát triển tư duy của người học. Phương pháp dạy học phải tiếp tục đổi
mới theo hướng “dạy cách học”, nhằm trang bị cho người học phương pháp tự
học, tự nghiên cứu để họ có thể sử dụng suốt đời. Tăng cường các phương pháp
dạy học thực hành, đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học nhằm nâng cao trình độ hiện đại của các phương pháp dạy học. Vì
vậy phương pháp dạy học của giảng viên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả
năng tư duy, tích cực của học viên. Trong một bài học, giảng viên nên kết hợp
nhiều phương pháp giảng dạy để học viên có thể nắm bài một cách tốt nhất.
Để phát huy được tính tự giác, tích cực trong tự học, tự nghiên cứu của
học viên đào tạo cán bộ chính trị, giảng viên cần định hướng đúng chủ đề, lĩnh
vực nghiên cứu; xác định rõ giá trị thực tiễn của vấn đề, tức là hướng tới coi
trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho học viên
phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng tự nghiên cứu trong hoạt động thực
tiễn sau này. Bên cạnh đó giảng viên cần kịp thời phát hiện, uốn nắn những sai
lệch trong nhận thức của học viên để họ ngày càng hoàn thiện.
Trước mỗi bài giảng, giảng viên chỉ rõ những tài liệu mà người học cần
tìm đọc là những tài liệu nào? ở đâu? trong tài liệu đó thì cần phải đọc chỗ nào
và ghi chép ra sao? Đồng thời, giảng viên nêu ra vấn đề mà học viên cần chuẩn
bị trước thông qua những câu hỏi gợi mở, hay những bài tập… để yêu cầu người
học phải chuẩn bị trước khi buổi học diễn ra. Chính nhờ có quá trình chuẩn bị tài
liệu trước cho nên người học hoàn toàn chủ động thực hiện nhiệm vụ của mình
trong suốt buổi học.
Sau mỗi bài giảng: giảng viên yêu cầu học viên về nhà tiếp tục đọc phần
nào mà trên lớp chưa thực hiện xong, giảng viên giới thiệu thêm tài liệu tham
khảo yêu cầu học viên nghiên cứu đọc thêm để mở rộng kiến thức đồng thời đưa
34
ra những câu hỏi để kiểm tra khả năng tự đọc, tự nghiên cứu của sinh viên ở nhà
như thế nào.
Để nâng cao ý thức tự học, tự rèn luyện, người học không những phải có
động cơ thái độ tự học đúng đắn mà còn phải có phương pháp tự học khoa học.
Vì vậy cần bồi dưỡng cho học viên kỹ năng nghe, đọc sách ghi nhớ bài, làm bài
tập, chuẩn bị thảo luận, thu thập thông tin, tự nghiên cứu, biết tập trung tư
tưởng, tiết kiệm thời gian, xây dựng kế hoạch tự học… đáp ứng yêu cầu của
Nghị quyết 86/NQ – ĐUQSTW của Đảng ủy quân sự Trung ương về công tác
giáo dục – đào tạo trong tình hình mới “Đẩy mạnh việc vận dụng phương pháp
dạy học hiện đại, sát thực tế, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và bồi
dưỡng năng lực tư duy, rèn luyện năng lực hoạt động thực tiễn cho người học ”.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, yêu cầu đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán
bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới cần có nhiều giải pháp đồng
bộ và sự kết hợp của nhiều yếu tố, nhưng trong đó vấn đề đẩy mạnh, nâng cao
quá trình tự học tập và tự nghiên cứu của người học lên ngang tầm với yêu cầu
nhiệm vụ là vấn đề cấp bách và quan trọng. Khi hướng dẫn học viên tự nghiên
cứu, giảng viên căn cứ vào những vấn đề đã lựa chọn khêu gợi cho học viên
cách tiếp cận vấn đề nội dung nghiên cứu, yêu cầu đạt được, phương pháp
nghiên cứu, hướng vận dụng liên hệ thực tiễn, các tài liệu nghiên cứu, tham
khảo. Trong quá trình người học tự học tập, tự nghiên cứu, giảng viên cần giúp
đỡ những vấn đề người học chưa giải quyết được, chưa thống nhất về nhận thức
hoặc những vấn đề mới nảy sinh để đưa ra giải quyết tiếp trong quá trình thảo
luận. Những nội dung hướng dẫn tự nghiên cứu là những nội dung trong chương
trình huấn luyện, gắn với hoạt động thực tiễn, những tài liệu nghiên cứu và tổ
chức kiểm tra, thi đánh giá kết quả nhằm khắc phục tình trạng học lệch, học tủ
và thụ động trong quá trình học tập của người học
Để tạo nhu cầu tự thân cho mỗi học viên trong quá trình tự học tập,
nghiên cứu thì các khoa chuyên ngành KHXH&NV cần thường xuyên tổ chức
sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt học thuật, hội thảo khoa học có sự tham gia của
học viên. Trong đánh giá kết quả thu hoạch, tiểu luận… các khoa cũng cần phải
35
đặt ra yêu cầu cao hơn cả về nội dung, phương pháp trình bày, kỹ năng lập luận,
từ đó khắc phục thái độ tự thỏa mãn, dừng lại của học viên. Sau những lần viết
thu hoạch, tiểu luận, tham luận khoa học của học viên nên tổ chức tiến hành rút
kinh nghiệm để họ tự đánh giá đúng khả năng, trình độ, tự học, tự nghiên cứu
của bản thân, qua đó điều chỉnh phương pháp, khắc phục những hạn chế nhằm
nâng cao hơn nữa chất lượng tự học, tự nghiên cứu.
Hai là: Phát huy vai trò các tổ chức, cán bộ quản lý, trong nâng cao chất
lượng tự học, tự nghiên cứu của học viên.
Trong sự nghiệp giáo dục đào tạo tại nhà trường đội ngũ cán bộ quản lý
không chỉ là người lãnh đạo, chỉ huy ở các đơn vị mà còn là người thầy trực tiếp,
người tổ chức huấn luyện, giáo dục, rèn luyện cho mỗi học viên hình thành ở họ
những phẩm chất cần thiết về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tác phong công
tác... chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho học viên.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đơn vị của Học viện cán bộ là những
người cán bộ ưu tú được rèn luyện học tập tại các học viện, nhà trường trong
quân đội, có kinh nghiệm lãnh đạo chỉ huy đơn vị. Họ là những người có lập
trường tư tưởng vững vàng, có niềm tin tuyệt đối vào Đảng, vào con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Họ
là những người có bản lĩnh vững vàng, được đào tạo cơ bản nên có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cao, có kinh nghiệm trong quản lý, mặt khác họ cũng là
những giảng viên dày dặn kinh nghiệm được đưa về các tiểu đoàn, hệ để trải qua
thực tiễn, vì vậy đây là yếu tố quan trọng giúp người chỉ huy đơn vị trở thành
một tấm gương sáng, là người thầy trực tiếp để học viên noi theo. Mọi lời nói,
cử chỉ, hành động, thái độ, phong cách ứng xử của họ đều là những bài học có
tác động trực tiếp đến việc hình thành bản lĩnh phong cách cho người học.
Người cán bộ đơn vị là những người có kinh nghiệm chỉ huy, quản lý học viên,
là người thường xuyên sống gần gũi với học viên. Do đó, là người nắm bắt và
hiểu sâu sắc nhất về tâm tư nguyện vọng, trình độ kiến thức năng lực của học
viên, đây là điều kiện thuận lợi để đội ngũ cán bộ quản lý xây dựng cho người
học có thái độ, động cơ học tập đúng đắn. Đội ngũ cán bộ quản lý phải thường
36
xuyên tổ chức phương pháp tự học tập, rèn luyện cho học viên, hàng tháng tổ
chức những buổi rút kinh nghiệm học tập, lấy ý kiến đóng góp của học viên từ
đó đề ra những phương pháp học tập hiệu quả Ngoài ra, cán bộ đơn vị còn có
trách nhiệm chăm lo đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần cho người học tạo điều
kiện để họ yên tâm học tập, rèn luyện.
Để nâng cao ý thức tự học, tự nghiên cứu của học viên trước hết cán bộ
quản lý cần quán triệt kỹ nhiệm vụ huấn luyện, nhất là quán triệt sâu sắc mục
đích, yêu cầu, nội dung học tập của từng đề mục để từ đó xây dựng cho người
học động cơ, thái độ và ý thức trách nhiệm học tập đúng đắn; quán triệt cho đơn
vị tự giác chấp hành nghiêm các quy định trên giảng đường, chấp hành nghiêm
kỷ luật, duy trì hiệu quả giờ tự học của học viên, đồng thời động viên bộ đội
khắc phục khó khăn quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ huấn luyện trong mọi
điều kiện. Nắm chắc nội dung, tiến trình huấn luyện, hiệp đồng chặt chẽ với
giảng viên, cơ quan và đơn vị bảo đảm vật chất huấn luyện đủ về số lượng, có
chất lượng tốt, bảo đảm đúng thời gian địa điểm huấn luyện.
Cán bộ quản lý luôn bám sát đơn vị, theo dõi nắm chắc chất lượng học tập
đến từng học viên, qua từng ngày, từng đề mục, trao đổi cùng giảng viên lập kế
hoạch học tập, kế hoạch hoạt động phương pháp, kế hoạch bồi dưỡng cho từng
đối tượng (giỏi, khá, trung bình, yếu), đặc biệt là kế hoạch tổ chức ôn luyện
ngoài giờ. Quá trình ôn luyện, cán bộ quản lý có thể tham gia cùng giảng viên để
uốn nắn, sửa sai cho người học. Tránh tư tưởng khoán trắng cho giảng viên, coi
chất lượng học tập là trách nhiệm của giảng viên, còn cán bộ quản lý chỉ có
trách nhiệm bảo đảm thời gian, vật chất và duy trì kỷ luật...
Lãnh đạo, chỉ huy cần tích cực truyền đạt kinh nghiệm hoạt động thực tiễn
cho học viên, định hướng rõ những nội dung đã học, có chế độ kiểm tra thường
xuyên việc tự học, tự rèn của học viên, có chính sách biểu dương, khen thưởng,
nhân rộng điển hình người tốt, việc tốt, đơn vị tốt, kiên quyết xử lý nghiêm
những học viên vi phạm kỷ luật. Đồng thời đưa vấn đề tự học, tự rèn luyện của
học viên vào nghị quyết lãnh đạo của tổ chức đảng, vào kế hoạch công tác của
37
đơn vị. Tinh thần, thái độ, trách nhiệm và kết quả tự học tập, tự rèn luyện của
học viên phải là một tiêu chí để đánh giá khen thưởng cuối năm.
Ba là: bảo đảm tốt cơ sở vật chất, tài liệu phục vụ tự học, tự nghiên cứu
của học viên
Đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất cho quá trình tự học, tự nghiên cứu của
học viên là một yêu cầu cần thiết. Trên cơ sở chương trình đào tạo của nhà
trường, cơ quan chức năng cần xây dựng và thiết kế chương trình phù hợp và
cân đối giữa thời gian tự nghiên cứu với các chương trình dạy học khác; phối
hợp với khoa chuyên ngành bổ sung đưa vào chương trình nghiên cứu những nội
dung có giá trị lý luận và đáp ứng được sự đòi hỏi của thực tiễn.
Công tác bảo đảm cơ sở, vật chất, tài liệu có ảnh hưởng quan trọng đến
chất lượng học tập, nghiên cứu của học viên, nhất là trong thời đại tri thức mạng
như hiện nay. Mặc dù Học viện cán bộ đã có hệ thống thư viện điện tử, với các
mạng nội bộ và mạng internet khai thác trong thư viện cũng như ở trung tâm tin
học… Tuy nhiên, để công tác bảo đảm tài liệu đạt chất lượng tốt hơn, các cơ
quan chức năng cần rà soát, tính toán số đầu sách, tài liệu tương ứng với số
lượng học viên hàng năm để đảm bảo đầy đủ; bổ sung kịp thời tài liệu tham
khảo có liên quan, tăng về số lượng và chủng loại các tài liệu như sách tham
khảo, sách chuyên khảo, chuyên đề khoa học đã được nghiệm thu, công bố; báo,
tạp chí chuyên ngành. Bên cạnh đó mở rộng giao lưu liên kết mạng với các học
viện, nhà trường ngoài quân đội, các trung tâm nghiên cứu và ứng dụng khoa
học trong và ngoài quân đội. Hàng năm tăng cường hội thảo khoa học ở cấp
khoa và học viện, tạo điều kiện để học viên các chuyên ngành vừa tích cực
nghiên cứu tham gia thông qua đó nắm các thông tin tri thức khoa học.
Sử dụng tốt các hình thức, biện pháp, phương tiện dạy học vào trong quá
trình đào tạo đội ngũ chính trị viên. Phương tiện giảng dạy là những công cụ hỗ
trợ trong tiết học trên lớp nhằm làm sáng tỏ những điều cần trình bày của giảng
viên và trực quan hóa các nội dung giảng dạy, giúp học viên tiếp thu dễ dàng
tham gia học tập một cách chủ động tích cực. Các phương tiện giảng dạy được
đề cập ở đây có thể sử dụng cho giảng dạy nhiều nội dung, nhiều đối tượng khác
38
nhau, khác với giáo cụ chỉ thích hợp cho một môn học, một đối tượng nhất định.
Việc sử dụng phương tiện trong giảng dạy không những đòi hỏi phải thay đổi
cách giảng dạy và học tập truyền thống, thụ động mà còn đáp ứng yêu cầu của
phương pháp giảng dạy hiện đại, lôi cuốn học viên tham gia chủ động tích cực
vào học tập, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Hiện nay, trong
các nhà trường quân đội có điều kiện thuận lợi đảm bảo cho công tác giảng dạy
như: sự trưởng thành nhanh chóng của đội ngũ giáo viên; bề dày kinh nghiệm
truyền thống trong giảng dạy của các nhà trường; cơ sở vật chất phục vụ cho
công tác đào tạo đang từng bước được cũng cố, tăng cường. Nếu sử dụng tốt các
phương tiện dạy học hiện đại vào dạy học thì chất lượng dạy học sẽ nâng lên.
2.3. Phát huy vai trò tích cực của cá nhân học viên đào tạo cán bộ
chính trị trong việc nâng cao chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và
nhân văn ở Học viện cán bộ.
+ Nhận thức về vai trò tích cực của cá nhân học viên đào tạo cán bộ
chính trị trong việc nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH&NV.
Nhận thức là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con
người, trong hoạt động nhận thức người học có vai trò là chủ thể lĩnh hội kiến
thức. Kết quả nhận thức phụ thuộc rất lớn vào tính tích cực chủ động của mỗi
người. Bởi vậy, trong quá trình huấn luyện muốn có kết quả cao, cùng với việc
phát huy vai trò của người dạy, người học phải phát huy vai trò chủ thể, tích cực,
tự giác, sáng tạo trong học tập.
Thực tế cho thấy, quá trình tự học chỉ mang lại kết quả, khi học viên có
nhận thức đúng, tích cực chủ động, biết biến quá trình đào tạo thành quá trình tự
đào tạo. Với các môn KHXH&NV việc phát huy tính tích cực chủ động trong
quá trình học tập của người học càng có ý nghĩa quan trọng.
Để nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội,
trong quá trình đào tạo tại Học viện cán bộ, vấn đề phát huy tính tích cực, chủ
động tự học tập, rèn luyện của học viên là biện pháp rất quan trọng. Bởi vì kết
quả GD – ĐT phụ thuộc rất lớn vào sự nỗ lực chủ quan của chính đội ngũ học
viên. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “ Tiếp
KHÓA LUẬN: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC CÁC MÔN KHXH&NV ĐỐI VỚI HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHÍNH TRỊ Ở HỌC VIỆN CÁN BỘ
KHÓA LUẬN: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC CÁC MÔN KHXH&NV ĐỐI VỚI HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHÍNH TRỊ Ở HỌC VIỆN CÁN BỘ
KHÓA LUẬN: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC CÁC MÔN KHXH&NV ĐỐI VỚI HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHÍNH TRỊ Ở HỌC VIỆN CÁN BỘ
KHÓA LUẬN: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC CÁC MÔN KHXH&NV ĐỐI VỚI HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHÍNH TRỊ Ở HỌC VIỆN CÁN BỘ
KHÓA LUẬN: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC CÁC MÔN KHXH&NV ĐỐI VỚI HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHÍNH TRỊ Ở HỌC VIỆN CÁN BỘ
KHÓA LUẬN: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC CÁC MÔN KHXH&NV ĐỐI VỚI HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHÍNH TRỊ Ở HỌC VIỆN CÁN BỘ
KHÓA LUẬN: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC CÁC MÔN KHXH&NV ĐỐI VỚI HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHÍNH TRỊ Ở HỌC VIỆN CÁN BỘ
KHÓA LUẬN: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC CÁC MÔN KHXH&NV ĐỐI VỚI HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHÍNH TRỊ Ở HỌC VIỆN CÁN BỘ
KHÓA LUẬN: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC CÁC MÔN KHXH&NV ĐỐI VỚI HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHÍNH TRỊ Ở HỌC VIỆN CÁN BỘ
KHÓA LUẬN: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC CÁC MÔN KHXH&NV ĐỐI VỚI HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHÍNH TRỊ Ở HỌC VIỆN CÁN BỘ
KHÓA LUẬN: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC CÁC MÔN KHXH&NV ĐỐI VỚI HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHÍNH TRỊ Ở HỌC VIỆN CÁN BỘ

More Related Content

Similar to KHÓA LUẬN: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC CÁC MÔN KHXH&NV ĐỐI VỚI HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHÍNH TRỊ Ở HỌC VIỆN CÁN BỘ

Bai thu hoach cuoi khoa mb
Bai thu hoach cuoi khoa mbBai thu hoach cuoi khoa mb
Bai thu hoach cuoi khoa mbMybinh Khuong
 
SKKN Tổ chức, hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm trong giờ học vật lí- phần đi...
SKKN Tổ chức, hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm trong giờ học vật lí- phần đi...SKKN Tổ chức, hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm trong giờ học vật lí- phần đi...
SKKN Tổ chức, hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm trong giờ học vật lí- phần đi...nataliej4
 
Modunl 6 Xây Dựng Môi Trường Học Tập Cho Học Sinh THCS
Modunl 6 Xây Dựng Môi Trường Học Tập Cho Học Sinh THCS Modunl 6 Xây Dựng Môi Trường Học Tập Cho Học Sinh THCS
Modunl 6 Xây Dựng Môi Trường Học Tập Cho Học Sinh THCS nataliej4
 
Luận văn: Biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ - Đ...
Luận văn: Biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ - Đ...Luận văn: Biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ - Đ...
Luận văn: Biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ - Đ...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
tổng-hợp-nội-dung.docx
tổng-hợp-nội-dung.docxtổng-hợp-nội-dung.docx
tổng-hợp-nội-dung.docxNguynPhngTrang7
 
Chuyên đề 1 nhóm 1-đhsp anh a-k6
Chuyên đề 1 nhóm 1-đhsp anh a-k6Chuyên đề 1 nhóm 1-đhsp anh a-k6
Chuyên đề 1 nhóm 1-đhsp anh a-k6Tran Dao
 
Tạo hứng thú và phát triển năng lựchọc sinh thông qua các phương pháp và kỹ t...
Tạo hứng thú và phát triển năng lựchọc sinh thông qua các phương pháp và kỹ t...Tạo hứng thú và phát triển năng lựchọc sinh thông qua các phương pháp và kỹ t...
Tạo hứng thú và phát triển năng lựchọc sinh thông qua các phương pháp và kỹ t...HanaTiti
 
Tâm lý học sư phạm, giao tiếp trong sư phạm.
Tâm lý học sư phạm, giao tiếp trong sư phạm.Tâm lý học sư phạm, giao tiếp trong sư phạm.
Tâm lý học sư phạm, giao tiếp trong sư phạm.Nguyễn Bá Quý
 
THIẾT KẾ CÁC HOẠT ĐỘNG ĐÓNG VAI NHẰM BỒI DƢỠNG, PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP...
THIẾT KẾ CÁC HOẠT ĐỘNG ĐÓNG VAI NHẰM BỒI DƢỠNG, PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP...THIẾT KẾ CÁC HOẠT ĐỘNG ĐÓNG VAI NHẰM BỒI DƢỠNG, PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP...
THIẾT KẾ CÁC HOẠT ĐỘNG ĐÓNG VAI NHẰM BỒI DƢỠNG, PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP...HanaTiti
 
Luận văn: Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Sư ...
Luận văn: Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Sư ...Luận văn: Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Sư ...
Luận văn: Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Sư ...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm ở trường THPT Trần Hưng Đạo
Nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm ở trường THPT Trần Hưng ĐạoNâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm ở trường THPT Trần Hưng Đạo
Nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm ở trường THPT Trần Hưng Đạohieu anh
 

Similar to KHÓA LUẬN: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC CÁC MÔN KHXH&NV ĐỐI VỚI HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHÍNH TRỊ Ở HỌC VIỆN CÁN BỘ (20)

Đề tài: To foster self-learning capacity for students of pedagogical chemical...
Đề tài: To foster self-learning capacity for students of pedagogical chemical...Đề tài: To foster self-learning capacity for students of pedagogical chemical...
Đề tài: To foster self-learning capacity for students of pedagogical chemical...
 
Bai thu hoach cuoi khoa mb
Bai thu hoach cuoi khoa mbBai thu hoach cuoi khoa mb
Bai thu hoach cuoi khoa mb
 
BÀI MẪU Khóa luận phương pháp dạy học, HAY, 9 DIỂM
BÀI MẪU Khóa luận phương pháp dạy học, HAY, 9 DIỂMBÀI MẪU Khóa luận phương pháp dạy học, HAY, 9 DIỂM
BÀI MẪU Khóa luận phương pháp dạy học, HAY, 9 DIỂM
 
HƯỚNG DẪN PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC MÔN TRIẾT HỌC CHO SINH VIÊN  - TẢI FREE ZALO: 0...
HƯỚNG DẪN PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC MÔN TRIẾT HỌC CHO SINH VIÊN   - TẢI FREE ZALO: 0...HƯỚNG DẪN PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC MÔN TRIẾT HỌC CHO SINH VIÊN   - TẢI FREE ZALO: 0...
HƯỚNG DẪN PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC MÔN TRIẾT HỌC CHO SINH VIÊN  - TẢI FREE ZALO: 0...
 
SKKN Tổ chức, hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm trong giờ học vật lí- phần đi...
SKKN Tổ chức, hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm trong giờ học vật lí- phần đi...SKKN Tổ chức, hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm trong giờ học vật lí- phần đi...
SKKN Tổ chức, hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm trong giờ học vật lí- phần đi...
 
Modunl 6 Xây Dựng Môi Trường Học Tập Cho Học Sinh THCS
Modunl 6 Xây Dựng Môi Trường Học Tập Cho Học Sinh THCS Modunl 6 Xây Dựng Môi Trường Học Tập Cho Học Sinh THCS
Modunl 6 Xây Dựng Môi Trường Học Tập Cho Học Sinh THCS
 
Đề tài: Phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn THPT, HAY
Đề tài: Phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn THPT, HAYĐề tài: Phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn THPT, HAY
Đề tài: Phát triển năng lực học sinh trong dạy học Ngữ văn THPT, HAY
 
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ triết học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ triết học, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Luận văn thạc sĩ triết học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ triết học, HAY, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ - Đ...
Luận văn: Biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ - Đ...Luận văn: Biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ - Đ...
Luận văn: Biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ - Đ...
 
tổng-hợp-nội-dung.docx
tổng-hợp-nội-dung.docxtổng-hợp-nội-dung.docx
tổng-hợp-nội-dung.docx
 
Đề tài: Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy Địa lí ở trường t...
Đề tài: Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy Địa lí ở trường t...Đề tài: Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy Địa lí ở trường t...
Đề tài: Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy Địa lí ở trường t...
 
Chuyên đề 1 nhóm 1-đhsp anh a-k6
Chuyên đề 1 nhóm 1-đhsp anh a-k6Chuyên đề 1 nhóm 1-đhsp anh a-k6
Chuyên đề 1 nhóm 1-đhsp anh a-k6
 
Tạo hứng thú và phát triển năng lựchọc sinh thông qua các phương pháp và kỹ t...
Tạo hứng thú và phát triển năng lựchọc sinh thông qua các phương pháp và kỹ t...Tạo hứng thú và phát triển năng lựchọc sinh thông qua các phương pháp và kỹ t...
Tạo hứng thú và phát triển năng lựchọc sinh thông qua các phương pháp và kỹ t...
 
Tâm lý học sư phạm, giao tiếp trong sư phạm.
Tâm lý học sư phạm, giao tiếp trong sư phạm.Tâm lý học sư phạm, giao tiếp trong sư phạm.
Tâm lý học sư phạm, giao tiếp trong sư phạm.
 
THIẾT KẾ CÁC HOẠT ĐỘNG ĐÓNG VAI NHẰM BỒI DƢỠNG, PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP...
THIẾT KẾ CÁC HOẠT ĐỘNG ĐÓNG VAI NHẰM BỒI DƢỠNG, PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP...THIẾT KẾ CÁC HOẠT ĐỘNG ĐÓNG VAI NHẰM BỒI DƢỠNG, PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP...
THIẾT KẾ CÁC HOẠT ĐỘNG ĐÓNG VAI NHẰM BỒI DƢỠNG, PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP...
 
nhóm 5B-DH11STHB.docx
nhóm 5B-DH11STHB.docxnhóm 5B-DH11STHB.docx
nhóm 5B-DH11STHB.docx
 
Luận văn: Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Sư ...
Luận văn: Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Sư ...Luận văn: Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Sư ...
Luận văn: Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Sư ...
 
ĐỀ TÀI: Một số biện pháp giáo dục lấy trẻ làm trung cho trẻ 4-5 tuổi, HAY!
ĐỀ TÀI: Một số biện pháp giáo dục lấy trẻ làm trung cho trẻ 4-5 tuổi, HAY!ĐỀ TÀI: Một số biện pháp giáo dục lấy trẻ làm trung cho trẻ 4-5 tuổi, HAY!
ĐỀ TÀI: Một số biện pháp giáo dục lấy trẻ làm trung cho trẻ 4-5 tuổi, HAY!
 
Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, trẻ 4-5 tuổi!
Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, trẻ 4-5 tuổi!Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, trẻ 4-5 tuổi!
Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, trẻ 4-5 tuổi!
 
Nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm ở trường THPT Trần Hưng Đạo
Nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm ở trường THPT Trần Hưng ĐạoNâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm ở trường THPT Trần Hưng Đạo
Nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm ở trường THPT Trần Hưng Đạo
 

More from OnTimeVitThu

Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công tyLuận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công tyOnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VNLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VNOnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...OnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...OnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...OnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bảnLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bảnOnTimeVitThu
 
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...OnTimeVitThu
 
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnTiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnOnTimeVitThu
 
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dínhTiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dínhOnTimeVitThu
 
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAOTIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAOOnTimeVitThu
 
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍOnTimeVitThu
 
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍOnTimeVitThu
 
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍOnTimeVitThu
 
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...OnTimeVitThu
 
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...OnTimeVitThu
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...OnTimeVitThu
 
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công tyLuận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công tyOnTimeVitThu
 
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần OnTimeVitThu
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...OnTimeVitThu
 
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...OnTimeVitThu
 

More from OnTimeVitThu (20)

Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công tyLuận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VNLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
 
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
 
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
 
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bảnLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
 
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
 
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnTiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
 
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dínhTiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
 
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAOTIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
 
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
 
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
 
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
 
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
 
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
 
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công tyLuận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
 
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
 
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
 

Recently uploaded

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 

Recently uploaded (19)

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 

KHÓA LUẬN: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC CÁC MÔN KHXH&NV ĐỐI VỚI HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHÍNH TRỊ Ở HỌC VIỆN CÁN BỘ

  • 1. 3 Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Tự học là hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên đang học tập tại các trường đại học. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa học, có chất lượng, hiệu quả không chỉ là trách nhiệm của sự nghiệp giáo dục và đào tạo của các trường đại học mà đây còn là trách nhiệm to lớn của cá nhân từng người học. Trong quá trình học tập, việc xác định mục đích, xây dựng động cơ, lựa chọn phương pháp, hình thức tự học hợp lý là cần thiết. Song điều quan trọng là sinh viên phải có hệ thống kỹ năng tự học, điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sinh viên, bởi lẽ muốn có kỹ năng nghề nghiệp trước hết phải có kỹ năng làm việc độc lập, trên cơ sở phát huy tính tích cực nhận thức để chiếm lĩnh hệ thống tri thức. Vì tri thức là sản phẩm của hoạt động, muốn nắm vững tri thức và có tay nghề thì việc rèn luyện hệ thống kỹ năng tự học một cách thường xuyên và nghiêm túc phải được chú trọng ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Như vậy, để hoạt động học tập của sinh viên đạt chất lượng và hiệu quả, sinh viên phải có tri thức và kỹ năng tự học. Chính kỹ năng tự học là điều kiện vật chất bên trong để sinh viên biến động cơ tự học thành kết quả cụ thể và làm cho sinh viên tự tin vào bản thân mình, bồi dưỡng và phát triển hứng thú, duy trì tính tích cực nhận thức trong hoạt động tự học của họ. Với đặc thù là học viên đào tạo cán bộ chính trị tại Học viện cán bộ, với nhiều nội dung môn học khác nhau, trong quá trình học tập các môn KHXH&NV chiếm thời lượng rất lớn trong nội dung chương trình đào tạo. Việc học tốt các môn KHXH&NV giúp cho học viên hình thành thế giới quan phương pháp luận duy vật biện chứng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, cùng với việc rèn luyện tay nghề CTĐ, CTCT, đây là điều không thể thiếu đối với một người cán bộ chính trị. Để học tốt các môn KHXH&NV thì việc tự học đóng vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên hiện nay việc tự học của học viên còn nhiều bất cập, hầu hết khi tiếp xúc với các môn KHXH&NV học viên còn khá lúng túng trong việc tìm ra phương pháp học tập hợp lý. Vì vậy tác
  • 2. 4 giả chọn vấn đề : Nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH&NV đối với học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Để góp phần nâng cao chất lượng GD – ĐT trong các Học viện, nhà trường, trong thời gian qua đã có những bài viết, những nội dung nghiên cứu về nâng cao chất lượng tự học của học viên, sinh viên nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu về “Nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH&NV đối với học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ”. Vì vậy tác giả chọn đề tài đi nghiên cứu, luận giải về nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH&NV đối với học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu. Mục tiêu nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ lý luận, thực tiễn định hướng phương pháp tự học cho đội ngũ học viên đào tạo cán bộ chính trị tai Học viện cán bộ hiện nay, đề xuất các giải pháp tự học cho đội ngũ này, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị của quân đội trong thời kỳ mới. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Làm rõ lý luận nâng cao chất lượng tự học của đối tượng học viên đào tạo cán bộ chính trị - Đánh giá thực trạng của việc tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH & NV cho đội ngũ học viên đào tạo cán bộ chính trị trong thời kỳ mới. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu việc nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận
  • 3. 5 Đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối quan điểm của Đảng cộng sản Việt nam về giáo dục đào tạo, lý luận phương pháp tự học hiện đại - Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lôgic, khảo sát thực tiễn để nghiên cứu 6. Ý nghĩa của đề tài Đề tài có thể làm tài liệu nghiên cứu góp phần nâng cao chất lượng tự học của học viên trong quá trình học tập các môn khoa học xã hội – nhân văn và tài liệu tham khảo cho giáo viên cũng như tất cả bạn đọc quan tâm 7. Kết cấu của đề tài Đề tài gồm : Phần mở đầu, kết luận, 2 chương, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
  • 4. 6 Chương 1 Cơ sở lý luận và thực tiễn việc nâng cao chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ. 1.1. Cơ sở lý luận việc nâng cao chất lượng tự học và đặc điểm tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ. 1.1.1. Cơ sở lý luận. Trong GD – ĐT dạy và học có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau, trong đó người dạy giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc truyền thụ nội dung kiến thức và phương pháp học tập cho người học; đề xuất yêu cầu nhiệm vụ học tập; chỉ đạo, tổ chức, điều khiển người học thực hiện tốt các yêu cầu, nhiệm vụ học tập; nắm thông tin ngược một cách thường xuyên thông qua các hình thức, phương pháp dạy học và các sản phẩm của người học; tiếp tục đề xuất những yêu cầu, nhiệm vụ học tập mới trên cơ sở xử lý các thông tin ngược; phân tích đánh giá kết quả học tập và giảng dạy. Dưới tác động sư phạm của người dạy, người học là khách thể, tiếp thu một cách có ý thức những tác động đó, để tiến hành hoạt động nhận thức của mình. Song quá trình nhận thức là một quá trình phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc mỗi người một cách chủ động, sáng tạo, người học là chủ thể nhận thức, tự giác, tích cực, độc lập, tiến hành các hoạt động nhận thức của mình, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. Người học phải: tự ý thức các yêu cầu, nhiệm vụ học tập một cách đầy đủ chính xác; phát hiện các mâu thuẫn nhận thức và tự lực giải quyết nó, dưới sự chỉ đạo của người dạy; tự phát hiện những điểm mạnh, điểm yếu trong quá trình học tập của bản thân thông qua các sản phẩm học tập của mình; tự đề xuất những yêu cầu học tập mới đối với bản thân trên cơ sở xử lý các thông tin ngược bên trong; tự phân tích, tự đánh giá kết quả học tập. Từ sự phân tích vai trò và những hành động cơ bản của người dạy và người học như trên, chúng ta càng thấy sự gắn bó tương hỗ giữa hai mặt hoạt động này, trong đó người học có vai trò hết sức quan trọng trong việc tự học, tự nghiên cứu của mình.
  • 5. 7 Học là quá trình tự biến đổi mình và làm phong phú mình bằng cách chọn nhập và xử lý thông tin lấy từ môi trường xung quanh. Dạy là việc giúp cho người học tự mình chiếm lĩnh những kiến thức, kỹ năng và hình thành hoặc biến đổi những tình cảm, thái độ. Đó là quan niệm tổng quát về dạy và học theo cách tiếp cận thông tin, từ đó người dạy có vai trò giúp cho người học chọn, nhập và xử lý thông tin để biến thành tri thức chứ không phải là nguồn truyền thông tin cho người học. Việc học phụ thuộc vào mối quan hệ giảng viên – học viên, vai trò của giảng viên và học viên biến động qua mối quan hệ này. Một mặt, giảng viên có thể đơn thuần là người truyền đạt kiến thức; sinh viên hoàn toàn phụ thuộc vào điều mà người giảng bài nói hoặc làm, họ là “người tiếp nhận” hơn là “người học”. Mặt khác, giảng viên có thể đóng vai trò hướng dẫn, hoặc người tạo điều kiện thuận lợi, sinh viên được giúp đỡ để chủ động lập kế họach học tập của mình. Trong giai đoạn hiện nay với việc đổi mới nội dung, phương pháp GD – ĐT, lấy người học làm trung tâm, người dạy chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn và tổ chức cho học viên tự mình chủ động tiếp cận với giáo trình tài liệu, vì vậy việc tự học, tự tìm kiếm tri thức của người học lại càng có vai trò quyết định trong nâng cao chất lượng GD – ĐT. Xuất phát từ lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác – Lênin, dưới ánh sáng lý luận đó, việc lĩnh hội các kiến thức, kỹ xảo được xem là một quá trình phản ánh thế giới khách quan vào trong ý thức của người học. Đó là quá trình vận động của tư duy, là sự giải quyết mâu thuẫn nội tại, từ chỗ chưa hiểu biết đến chỗ hiểu biết, từ chỗ hiểu biết chưa đầy đủ chưa chính xác đến đầy đủ và chính xác hơn, từ chỗ chưa có kỹ năng đến có kỹ năng giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong ý thức của con người không phải là một hành động tức thời, giản đơn, thụ động, máy móc mà là một quá trình phức tạp của sự hoạt động tích cực sáng tạo. Về cơ bản, hoạt động học tập diễn ra theo quy luật nhận thức chung, mà tự học nằm trong quá trình học tập. Quá trình nhận thức của người học về cơ bản được quy định bởi quy luật nhận thức chung, quy luật đó được Lênin khái quát “Từ trực quan sinh động
  • 6. 8 đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn …”1 Điều đó có nghĩa là quá trình đi từ nhận thức cảm tính đến lý tính và quay trở về thực tiễn. Người học thu thập các tài liệu cảm tính từ những tác động của người dạy và phương tiện trực quan dạy học. Trên cơ sở các tài liệu cảm tính đó, người học sử dụng các thao tác tư duy để xử lý chế biến, nghiền ngẫm thông tin học tập, gạt bỏ những cái vụn vặt, ngẫu nhiên bên ngoài, nắm lấy cái bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng, nghĩa là nắm được cái khái niệm, định nghĩa, quy luật. Và cuối cùng học tập là sự vận dụng các kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng đã tiếp thu được vào giải quyết các nhiệm vụ lý luận và thực tiễn đặt ra. Trong quá trình học tập, người học không những chỉ lĩnh hội các kiến thức đã được khoa học khám phá mà còn tìm ra những tri thức mới. Vì vậy hoạt động nhận thức của người học được diễn ra trong điều kiện: có người dạy chỉ đạo, có tài liệu, các phương tiện kỹ thuật dạy học, khả năng tự học của cá nhân người học, trong đó khả năng tự học của người học là một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình nhận thức. Trong các giáo trình, tài liệu, có nhiều tác giả đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về tự học, sau đây là một số định nghĩa cơ bản: - Nhà tâm lý học N.ARubakin coi: Tự tìm lấy kiến thức – có nghĩa là tự học. Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng , kỹ xảo của chủ thể. - Trong cuốn “Học tập hợp lí” R.Retke chủ biên, coi “Tự học là việc hoàn thành các nhiệm vụ khác không nằm trong các lần tổ chức giảng dạy” - Theo tác giả Lê Khánh Bằng: thì tự học (self learning) là tự mình suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học nhất định - Theo Giáo sư Đặng Vũ Hoạt và Phó giáo sư Hà Thị Đức trong cuốn “Lý luận dạy học đại học” thì “Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại học. Đó là một hình thức nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri
  • 7. 9 thức và kỹ năng do chính người học tự tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã được qui định. - Theo tác giả Nguyễn Văn Đạo: “Tự học phải là công việc tự giác của mỗi người do nhận thức được đúng vai trò quyết định của nó đến sự tích luỹ kiến thức cho bản thân, cho chất lượng công việc mình đảm nhiệm, cho sự tiến bộ của xã hội” - Theo Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học – là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi..vv...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”2 . Từ những quan điểm về tự học nêu trên, có thể đi đến định nghĩa về tự học như sau: Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập tự chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống bằng hành động của chính mình nhằm đạt được mục đích nhất định. Như vậy tự học là hình thức học tập độc lập của người học nhằm lĩnh hội, củng cố và vận dụng các kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng. Tự học có những đặc điểm nổi bật sau đây: Là một hình thức tổ chức dạy học mang tính chất cá nhân; người học tự tổ chức quá trình nhận thức của mình, thể hiện tính tự giác, tích cực độc lập, sáng tạo của bản thân; người dạy giữ vai trò chỉ đạo, định hướng, song không trực tiếp can thiệp vào quá trình tự lĩnh hội của người học; tự học giúp cho người học củng cố, mở rộng, đào sâu, hệ thống hóa, khái quát hóa kiến thức, rèn luyện kỹ xảo, tư duy độc lập, sáng tạo, vận dụng vào giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn. Các hình thức tự học: Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau:
  • 8. 10 * Hình thức 1: Cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc lập không có sách và sự hướng dẫn của giáo viên. Hình thức này gọi là tự nghiên cứu của các nhà khoa học. Kết quả của quá trình nghiên cứu đi đến sự sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa học mới, đây thể hiện đỉnh cao của hoạt động tự học. Dạng tự học này phải được dựa trên nền tảng một niềm khao khát, say mê khám phá tri thức mới và đồng thời phải có một vốn tri thức vừa rộng, vừa sâu. Tới trình độ tự học này người học không thầy, không sách mà chỉ cọ sát với thực tiễn vẫn có thể tổ chức có hiệu quả hoạt động của mình. * Hình thức 2: Tự học có sách nhưng không có giáo viên bên cạnh. Ở hình thức tự học này có thể diễn ra ở hai mức: Thứ nhất, tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của thầy: Trường hợp này người học tự học để hiểu, để thấm các kiến thức trong sách qua đó sẽ phát triển về tư duy, tự học hoàn toàn với sách là cái đích mà mọi người phải đạt đến để xây dựng một xã hội học tập suốt đời. Thứ hai, tự học có thầy ở xa hướng dẫn: Mặc dù thầy ở xa nhưng vẫn có các mối quan hệ trao đổi thông tin giữa thầy và trò bằng các phương tiện trao đổi thông tin thô sơ hay hiện đại dưới dạng phản ánh và giải đáp các thắc mắc, làm bài, kiểm tra, đánh giá,... * Hình thức 3: Tự học có sách, có thầy giáp mặt một số tiết trong ngày, sau đó sinh viên về nhà tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên Trong quá trình học tập trên lớp, người thầy có vai trò là nhân tố hỗ trợ, chất xúc tác thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò với vai trò là chủ thể của quá trình nhận thức: tự giác, tích cực, say mê, sáng tạo tham gia vào quá trình học tập. Mối quan hệ giữa thầy và trò chính là mối quan hệ giữa Nội lực và Ngoại lực, Ngoại lực dù quan trọng đến mấy cũng chỉ là chất xúc tác thúc đẩy Nội lực phát triển. Trong quá trình tự học ở nhà, tuy người học không giáp mặt với thầy, nhưng dưới sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động tự sắp xếp kế hoạch huy động mọi trí tuệ và kỹ năng của
  • 9. 11 bản thân để hoàn những yêu cầu do giáo viên đề ra. Tự học của người học theo hình thức này liên quan trực tiếp với yêu cầu của giáo viên, được giáo viên định hướng về nội dung, phương pháp tự học để người học thực hiện. Như vậy ở hình thức tự học thứ ba này quá trình tự học của sinh viên có liên quan chặt chẽ với quá trình dạy học, chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố tổ chức và quản lý quá trình dạy học của giảng viên và quá trình tự học của học viên. Trong GD – ĐT cán bộ chính trị nói chung và cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ nói riêng phần lớn thời gian và khối lượng kiến thức học tập, nâng cao tay nghề của người cán bộ chính trị tập trung vào các môn KHXH&NV. Việc học tập, lĩnh hội kiến thức các môn KHXH&NV có vai trò ý nghĩa hết sức quan trọng, là tiền đề để cho người cán bộ chính trị có thế giới quan, phương pháp luận khoa học trong việc nhận thức, đánh giá thực tiễn. Các môn KHXH&NV rất đa dạng như: triết học, kinh tế - chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, lịch sử, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, tâm lý giáo dục học, lôgic học … có thể nói rằng các môn KHXH&NV là hệ thống những tri thức về xã hội và về con người. Nếu tách bạch ra thì khoa học xã hội nghiên cứu về xã hội, còn khoa học nhân văn nghiên cứu về con người. Có những khoa học nghiên cứu xã hội như một chính thể phát triển qua thời gian: đó là sử học (cổ, trung, cận, hiện đại) và những khoa liên quan như khảo cổ học, dân tộc học. Có những khoa học nghiên cứu xã hội như một cấu trúc gồm nhiều yếu tố hợp thành (cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội và ý thức xã hội) cũng như những mặt khác nhau của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, luật pháp, đạo đức, tôn giáo, văn học, nghệ thuật tâm lí... đó là khoa học xã hội hiểu theo nghĩa hẹp. Nếu lấy con người làm đối tượng nghiên cứu, coi con người, tính người là trung tâm như hàm nghĩa của khái niệm khoa học nhân văn thì chưa đủ, bởi con người là chủ thể của ý thức, của tư duy. Vì vậy khoa học nhân văn còn gồm cả những khoa học triết học, trong đó có triết học (nghiên cứu về thế giới quan, về lí luận nhận thức), lôgic học (nghiên cứu về tư duy trừu tượng) … Từ vấn đề trên ta thấy việc tự học các môn KHXH&NV là hoạt động nhận thức, có mục đích của cá nhân, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng
  • 10. 12 lực trí tuệ để chiếm lĩnh các tri thức về xã hội và con người, biến các lĩnh vực đó trở thành sở hữu của mình. Tự học các môn KHXH&NV là việc tiếp thu một cách có tổ chức các tri thức về xã hội và con người, dựa vào công tác tự học một cách có hệ thống. Trong quá trình tự học các môn KHXH&NV thì chất lượng giữ vai trò quyết định. Chất lượng là một khái niệm rất trừu tượng, đa chiều, đa nghĩa, được xem từ nhiều bình diện khác nhau, đây là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội. Triết học Mác-Lênin chỉ rõ: mọi sự vật, hiện tượng của hoạt động xã hội bao giờ cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng. Mọi quan hệ qua lại giữa chất và lượng của sự vật, hiện tượng quy định sự tồn tại, phát triển của chính bản thân sự vật. Quan niệm chung nhất theo từ điển Tiếng việt “Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự việc”3 . Nghĩa là khi phân tích đánh giá bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào hay hoạt động của cá nhân hoặc tập thể đều phải gắn với yếu tố, thuộc tính quy định sự tồn tại, phát triển tạo nên giá trị đích thực của hiện tượng, hoạt động đó, không được tuyệt đối hoá hoặc tách rời các yếu tố, thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng hoạt động cụ thể, đòi hỏi phải có phương pháp xem xét, đánh giá cụ thể, không thể áp dụng một phương pháp chung cho mọi sự vật, hiện tượng; đặc biệt là đối với con người và hoạt động thực tiễn của con người trong lĩnh vực hoạt động xã hội. Vì vậy Đánh giá chất lượng người ta căn cứ vào giá trị, giá trị xã hội và do xã hội quy định. Biểu hiện tập trung chất lượng tự học là ở nhân cách của người học viên; tức là mức độ chuyển biến nhận thức, sự tích luỹ thêm kinh nghiệm thực tiễn của mỗi học viên trong học tập, rèn luyện phù hợp với chức trách, nhiệm vụ được giao. Trên bình diện chung nhất có thể hiểu chất lượng tự học các môn KHXH&NV là hiệu quả chuyển biến nhận thức của cá nhân người học trong quá trình tự giác, tự động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ để chiếm lĩnh các tri thức về xã hội và con người. Tiêu chí đánh giá chất lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ ở Học viện cán bộ.
  • 11. 13 Tiêu chí là điều được quy định dùng làm chuẩn để phân loại đánh giá. Theo đó, tiêu chí được thể hiện ở các chỉ số, thông số, chỉ tiêu dùng làm thước đo để dựa vào đó so sánh, đánh giá kết quả tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ. Các chỉ số, thông số, chỉ tiêu càng chính xác, cụ thể bao nhiêu thì việc đánh giá chất lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ càng chính xác bấy nhiêu. Với cách tiếp cận đó, khi đánh giá chất lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ cần dựa vào trên các nhóm tiêu chí sau: Một là, kết quả nhận thức về nội dung các môn KHXH&NV, đây là tiêu chí rất quan trọng bởi vì trong quá trình tự học các môn KHXH&NV biểu hiện của kết quả nhận thức nội dung các môn KHXH&NV thông qua việc người học đã xác định được tầm quan trọng của các môn KHXH&NV hay chưa, đã nắm vững bản chất, nội dung vấn đề, nội dung bài học đến đâu, biết liên hệ, vận dụng, lý luận vào thực tiễn như thế nào… thông qua những kết quả đó mà đánh giá được chất lượng tự học các môn KHXH&NV của người học Hai là, chất lượng tự học các môn KHXH&NV được đánh giá bằng kết quả học tập thông qua kiểm tra, thi kết thúc môn. Trong quá trình tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ, để biết được khả năng tiếp thu kiến thức của bản thân đến đâu, thì kết quả kiểm tra đánh giá của giảng viên phản ánh thực chất chất lượng học tập của người học. Ba là, thể hiện qua chất lượng tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài, chất lượng thảo luận xêmina. Trong các giờ thảo luận hay xêmina việc học viên tham gia đóng góp ý kiến xây dựng bài như thế nào, có sôi nổi hay không, có giải quyết được lý luận và thực tiễn hay không … điều đó đánh giá được việc chuẩn bị bài của học viên tốt hay không tốt, đánh giá được chất lượng tự học của học viên ở mức nào. Bốn là, thông qua hoạt động thực tiễn CTĐ, CTCT ở đơn vị. Chúng ta biết rằng chất lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ có tốt hay không được đánh giá bằng rất nhiều tiêu
  • 12. 14 chí trong đó có hoạt động thực tiễn ở đơn vị, đặc biệt là hoạt động CTĐ, CTCT là một tiêu chí quan trọng, thông qua hoạt động này có thể đánh giá được việc vận dụng những kiến thức KHXH&NV vào trong thực tiễn hoạt động CTĐ, CTCT của người học đến đâu, từ đó đánh giá được chất lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ. 1.1.2. Đặc điểm về việc tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ. Các môn KHXH&NV bao gồm: triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, tâm lý học, giáo dục học, pháp luật, văn học, nghệ thuật… nghiên cứu sự vận động, biến đổi và phát triển của tự nhiên, xã hội và con người, vì vậy việc tự học các môn khoa học này có những đặc điểm riêng, Hơn thế nữa khi học các môn khoa học này là nền tảng cho các môn khoa học khác và tạo một thế giới quan, cách nhìn nhận vấn đề của bản thân một cách khách quan hơn. Về đặc điểm các môn KHXH&NV xét một cách tổng thể nó mang tính phổ biến, bởi lẽ KHXH&NV là khoa học nghiên cứu về xã hội, con người và cộng đồng người. Xưa nay, phàm làm bất kỳ việc gì thì cũng phải động chạm đến những hiểu biết về xã hội, con người và cộng đồng người, cho nên kiến thức KHXH&NV hiện hữu ở khắp mọi nơi và cần đến ở khắp mọi nơi. Trong phạm vi một quốc gia, một công trình nghiên cứu khoa học tự nhiên và công nghệ thì giỏi lắm cũng chỉ có vài trăm người đọc (in được vài trăm bản) còn một công trình nghiên cứu KHXH&NV thường có tới vài nghìn, thậm chí vài vạn người đọc. Vì vậy việc tiếp cận những môn này không phải là chuyện khó khăn, việc tự học và tự nghiên cứu các môn này có sự khó, dễ khác nhau tùy thuộc vào sự tiếp cận và khả năng của từng người. Nghiên cứu các môn KHXH&NV liên quan mật thiết đến lĩnh vực chính trị xã hội, đạo đức nhân cách, tư tưởng, văn hóa của dân tộc cho nên đây là một lĩnh vực rất quan trọng. Chúng ta đều biết, những sai lầm về kinh tế, kỹ thuật để lại hậu quả lớn, nhưng vẫn có thể khắc phục được trong một thời gian nhất định. Thế nhưng những sai lầm thuộc về lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, giáo
  • 13. 15 dục… sẽ để lại hậu quả vô cùng nghiêm trọng và lâu dài, có khi mất đến hàng chục, hàng trăm năm mới khắc phục được. Vì vậy người học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ phải nhận thức được đặc điểm, tầm quan trọng của KHXH&NV, từ đó có phương pháp học tập, nghiên cứu, củng cố vững chắc kiến thức về KHXH&NV làm điều kiện cho công tác sau này đạt hiệu quả cao. Trong thực tiễn, bất cứ công việc nào, bất cứ ngành nghề nào cũng như bất cứ môn học nào cũng đều có độ khó, dễ riêng của nó, tuỳ theo cách cảm nhận, cách tiếp thu và lòng đam mê của mỗi người mà những cái đó trở nên dễ đối với người này cũng như sẽ trở nên khó đối với người khác. Khi học các môn KHXH&NV cũng vậy, đều là những môn học đòi hỏi người học phải chịu khó đọc nhiều tài liệu, nghiên cứu, tìm hiểu và nắm vững bản chất vấn đề, bởi vì học các môn này khá trừu tượng, nhiều thuật ngữ khó, có tính lý luận, tính khái quát cao; luôn quan hệ mật thiết với thực tiễn xã hội; luôn có sự thống nhất cao giữa tính khoa học và tính tư tưởng; luôn mang tính chiến đấu… khi nghiên cứu nếu người học không có phương pháp tự học tốt và không biết cách tiếp cận thì sẽ khiến cho người học bị ngập vào trong các khái niệm, phạm trù, quy luật… vì vậy người học phải tự tìm cho mình phương pháp nghiên cứu các môn này một cách hiệu quả nhất. Với những đặc điểm riêng như trên vì thế để học tốt các môn KHXH&NV nói riêng và các môn học khác nói chung thì trước hết tinh thần tự học, tự nghiên cứu, miệt mài, chăm chỉ là rất quan trọng. Trước khi lên lớp người học tự nghiên cứu, tham khảo tài liệu trước, ghi và đánh dấu những nội dung khó hiểu hoặc vướng mắc để trên lớp cùng trao đổi với bạn bè hoặc giảng viên. Trên lớp tập trung chú ý nghe giảng tranh thủ ghi tốc ký những nội dung, các ví dụ, dẫn chứng của giảng viên để làm cơ sở cho việc nghiên cứu, trao đổi, thảo luận. Sau mỗi buổi học, luôn chủ động trao đổi những nội dung còn vướng mắc với giảng viên, hoặc bạn bè, tranh thủ tìm hiểu, tham khảo những kiến thức trên thư viện, lên mạng Internet tìm thêm tài liệu để đào sâu nghiên cứu, mở rộng các vấn đề mà bài giảng đề cập kết hợp với tài liệu, sách giáo khoa trong giờ tự học... Đối
  • 14. 16 với các môn KHXH&NV, nếu biết tự học tập, tự nghiên cứu thì ai cũng có thể học giỏi. 1.1.3. Đặc điểm đối tượng đào tạo cán bộ chính trị. Thứ nhất: Với đối tượng là quân nhân chuyên nghiệp (đã có bằng trung cấp về chuyên môn kỹ thuật), thi tuyển theo qui chế của nhà trường. Ưu điểm của đối tượng này có kiến thức về chuyên môn kỹ thuật bậc trung cấp, các tố chất cần thiết để phát triển thành cán bộ chính trị viên đã được bộc lộ qua thời kỳ đào tạo trung cấp và quá trình hoạt động thực tiễn quân sự ở các đơn vị, đối tượng này 100% là Đảng viên có nhận thức và động cơ tốt khi thi vào trường, trong học tập có ý thức tự giác cao, có những kinh nghiệm nhất định trong thực tiễn ở trong môi trường quân đội cho nên việc vận dụng các kiến thức KHXH&NV vào thực tiễn có sự thuận lợi. Tuy nhiên với đối tượng này còn bộc lộ nhiều điểm yếu trong quá trình tự học, tự nghiên cứu các môn KHXH&NV. Thứ hai: đối tượng là cán bộ trung đội trưởng, có bằng cử nhân quân sự cấp phân đội, được tuyển chọn về đào tạo cán bộ chính trị, đặc điểm của đối tượng này là, đã được trang bị khối lượng kiến thức về cử nhân quân sự cơ bản, có động cơ phấn đấu, những phẩm chất cần thiết để phát triển và hoàn thành nhiệm vụ của người cán bộ chính trị viên đã được bộc lộ qua rèn luyện trong thời kỳ đào tạo cử nhân quân sự và thực tiễn quản lý chỉ huy đơn vị. Đối tượng này, đã hoàn thành mục tiêu về học vấn và mục tiêu về chức vụ chỉ huy cấp phân đội theo qui định của bộ quốc phòng, có những kinh nghiệm quản lý chỉ huy, nên thuận lợi cho việc đào tạo chức vụ chính trị viên, có kinh nghiệm trong học đại học, có kinh nghiệm nhất định trong tự học, tự nghiên cứu. Có thể nói đây là đối tượng phù hợp để tạo ra chất lượng và hiệu quả đáp ứng yêu cầu đào tạo chính trị viên hiện nay. Tuy nhiên đối tượng này chất lượng tự học các môn KHXH&NV cũng có những hạn chế nhất định đó là: những đối tượng này trước kia hầu hết đều học về kiến thức quân sự hoặc kiến thức về khoa học tự nhiên là chính, cho nên khi vào trường tiếp xúc với các môn KHXH&NV đa phần còn nhiều lúng túng, chưa có cách tiếp cận khoa học, chưa có phương pháp học tập hiệu quả.
  • 15. 17 Như vậy, đối tượng đầu vào cho đào tạo chính trị viên ở Học viện cán bộ hiện nay gồm nhiều nguồn, mỗi nguồn lại có những đặc điểm riêng chi phối đến quá trình đào tạo nói chung, chất lượng tự học các môn KHXH&NV nói riêng. Qua các đối tượng trên ta thấy: Việc nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH&NV có những thuận lợi và khó khăn nhất định, cần phải có những giải pháp tích cực và mang tính đồng bộ. 1.2. Thực trạng chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ hiện nay. 1.2.1. Những kết quả đã đạt được trong quá trình tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ trong thời gian qua. Đối với học viên Xuất phát từ đặc điểm đối tượng đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ đa phần là những quân nhân có kinh nghiệm trong thực tiễn hoạt động quân sự, được tuyển chọn hoặc qua tuyển sinh có chất lượng đầu vào khá tốt, có nhận thức chính trị cao vì vậy đa phần học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ đã nhận thức tốt nhiệm vụ học tập và rèn luyện tại trường, có động cơ phấn đấu học tập, rèn luyện để trở thành người cán bộ chính trị. Trong quá trình học tập học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ đã cơ bản có nhận thức tốt về vị trí, vai trò của việc tự học, tự nghiên cứu; thấy được việc tự học, tự nghiên cứu là hình thức đòi hỏi tính độc lập cao, đặc biệt là đối với các môn KHXH&NV, qua đó giúp bản thân củng cố, mở rộng, đào sâu, hệ thống hóa kiến thức, đồng thời người học bước đầu cũng đã rèn luyện được kỹ năng, kỹ xảo, phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, vận dụng và giải quyết được những vấn đề thực tiễn đặt ra một cách khoa học. Đã chủ động tìm hiểu những đặc điểm, yêu cầu của môn học nắm được những thuận lợi, khó khăn trong quá trình học tập, qua đó rút ra những biện pháp khắc phục khó khăn, lập kế hoạch học tập và chuẩn bị đầy đủ về vật chất, tâm lí, thể lực cho quá trình học tập. Việc xây dựng kế hoạch nghiên cứu của cá nhân cơ bản đã có tính khoa học
  • 16. 18 và đã được triển khai thực hiện khá nghiêm túc, phát huy vai trò chủ thể trong hoạt động nhận thức, biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo. Học viên bước đầu đã biết độc lập tiếp xúc tài liệu trước khi nghe giảng và xử lý thông tin sau khi nghe giảng viên giảng bài. Đã tự giác, nỗ lực tự học, tự rèn, xây dựng động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn, nắm vững mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ GD–ĐT, tích cực, chủ động, tìm tòi, lựa chọn cho mình một phương pháp học tập hợp lý, thường xuyên rút kinh nghiệm, cải tiến phương pháp tự học của mình cho phù hợp với từng môn học. Đa số học viên đã tận dụng được thời gian trong việc tự học, chịu khó tìm tòi, nghiên cứu giáo trình, tài liệu, trên thư viện cũng như trên mạng internet. Theo kết quả điều tra đối với học viên đào tạo cán bộ chính trị: Trong giờ tự học, đồng chí có nghiên cứu giáo trình, tài liệu trên thư viện hay trên các website không? có 80% trả lời thường xuyên, 18% thỉnh thoảng, 2% ít khi, 0% chưa khi nào. Với kết quả này cho thấy việc tự nghiên cứu giáo trình, tài liệu của học viên rất tích cực, tự giác. Phần đông học viên đã nắm được những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, pháp luật của Nhà nước và các kiến thức KHXH&NV; biết liên hệ, vận dụng có hiệu quả những kiến thức đã được học vào thực tiễn và công tác của mình. Tỷ lệ học viên đạt kết quả học tập khá cao. Qua khảo sát thực tế kết quả kiểm tra, thi kết thúc các môn KHXH&NV thì có 100% đạt yêu cầu, trong đó có 50% - 60% khá giỏi. Về đội ngũ giảng viên Trong GD – ĐT luôn được Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện, các cơ quan chức năng, các khoa giảng viên đặc biệt quan tâm đến việc đổi mới toàn diện về nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, trong đó chú trọng bồi dưỡng quá trình tự học, tự rèn luyện của học viên. Thường xuyên quán triệt mục tiêu, yêu cầu đào tạo cho học viên. Xây dựng động cơ, thái độ, trách nhiệm, ý thức tự giác học tập, rèn luyện, khắc phục khó khăn, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tích cực bồi dưỡng phương pháp, kinh nghiệm học tập, tập bài, luyện tập và thường xuyên rút kinh nghiệm về phương pháp tự học,
  • 17. 19 đánh giá tinh thần, thái độ, trách nhiệm học tập của người học một cách khách quan, do đó đa số học viên có thái độ học tập đúng đắn, xây dựng ý trí quyết tâm cao, tích cực học tập, rèn luyện, tổ chức mạn đàm, thảo luận tìm ra những phương pháp học tập thích hợp hiệu quả với từng môn học. Học viên đã nắm được kiến thức và khả năng vận dụng các kiến thức vào trong quá trình học tập, công tác nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ theo mục tiêu yêu cầu đào tạo đề ra. Bước đầu đã phát huy được tính độc lập, tự chủ của học viên, chú ý đến việc hướng dẫn học viên tự học, tự nghiên cứu, phát huy tính dân chủ công khai trong quá trình dạy học, tạo điều kiện để học viên tự điều chỉnh để nâng cao chất lượng học tập, rèn luyện thái độ và phương pháp học tập, tự nghiên cứu một cách sáng tạo. Đã kết hợp sử dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp theo từng môn học. Giảng viên chỉ giảng tập trung vào những nội dung cơ bản, gắn với thực tiễn xã hội của từng môn học, từng ngành học …định hướng cho học viên tự nghiên cứu giáo trình, các tài liệu tham khảo và tự cập nhật, bổ sung các thông tin liên quan. Ngoài ra trong những năm qua, đội ngũ giảng viên Khoa KHXH&NV đã không ngừng trau dồi trình độ kiến thức, rèn luyện phẩm chất đạo đức, tích cực nghiên cứu học tập để nâng cao trình độ mọi mặt đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ huấn luyện được giao. Nhiều giảng viên đã đạt học vị tiến sỹ, thạc sỹ, có năng lực thực sự trong công tác nghiên cứu khoa học và giảng dạy, đủ khả năng đảm nhiệm tốt nhiệm vụ giảng dạy ở bậc đại học và sau đại học, đây là cơ sở, là tiềm lực đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giảng dạy các môn KHXH&NV cho các đối tượng học viên đáp ứng yêu cầu đào tạo chính trị viên của nhà trường Về tổ chức quản lý học viên Việc quản lý, duy trì kỷ luật kết hợp với quản lý chất lượng tự học của học viên ở Học viện cán bộ đã làm cho quá trình đào tạo trở lên khép kín từ khâu trang bị kiến thức đến khâu tổ chức cuộc sống. Hệ thống nơi ăn, ở tập trung tuân theo chế độ, điều lệnh, điều lệ của Quân Đội, có hệ thống chỉ huy, hệ thống Đảng, các tổ chức quần chúng đã giúp cho việc quản lý chặt chẽ không
  • 18. 20 chỉ chất lượng tự học mà cả chất lượng hoạt động thưc tiễn, không chỉ năng lực mà cả phẩm chất chính trị tư tưởng. Cũng thông qua đó mà làm cho mọi học viên trong một tập thể có cùng chung nhiều ý tưởng, có sự gắn bó, đoàn kết với nhau trên tình yêu thương đồng chí, đồng đội, luôn có tinh thần giúp đỡ nhau cùng tiến bộ trong học tập, qua đây tạo ra được môi trường giáo dục tốt, tạo ra không khí thi đua sôi nổi giữa các cá nhân với nhau trong việc tự học nắm bắt kiến thức. Hệ thống chỉ huy các cấp trong Học viện cán bộ được tổ chức một cách khá chặt chẽ, đã nắm bắt, định hướng một cách kịp thời tư tưởng, hành động của học viên, duy trì nghiêm túc các chế độ trong ngày, đảm bảo cho học viên có thể phát huy khả năng của cá nhân trong việc tự học, tự nghiên cứu của mình, đã quản lý tốt thời gian, chất lượng học tập của học viên trong các giờ tự ôn, tạo điều kiện thuận lợi nhất môi trường học tập cho học viên. Vì vậy chất lượng tự học, tự nghiên cứu của học viên được nâng cao. Cán bộ quản lý đã tổ chức bồi dưỡng, giúp đỡ cho học viên về phương pháp tự học, hàng tháng đã có những buổi sinh hoạt chuyên đề nâng cao chất lượng tự học cho học viên, việc tổ chức rút kinh nghiệm học tập tháng cho từng lớp đã dần đi vào nề nếp. Kết quả cho thấy qua việc bồi dưỡng, giúp đỡ của cán bộ quản lý phần đông học viên đã dần hình thành được kỹ năng tiếp cận kiến thức, có những phương pháp học tập phù hợp với khả năng của mình. 1.2.2 Những hạn chế trong việc tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ hiện nay Đối với học viên Hiện nay, thiếu sót trong phương pháp tự học của học viên thể hiện ở nhiều mặt, học thiếu hệ thống về kiến thức xã hội do đặc điểm đối tượng đào tạo trước đây là những nhân viên chuyên môn kỹ thuật, họ được đào tạo qua trường trung cấp kỹ thuật, học tập các môn chuyên ngành kỹ thuật là chính, họ ít quan tâm đến các môn KHXH&NV, vì vậy mà cách học và cách tiếp cận một vấn đề đôi khi chưa khoa học, trong khi học có khi chỉ căn cứ vào nguồn tài liệu là sách giáo khoa ít tham khảo tài liệu có liên quan, chọn nội dung học để đối phó với
  • 19. 21 thi cử, học thuộc lòng ít suy nghĩ, đặt lại vấn đề. Tất cả cách tự học không khoa học trên dẫn tới hậu quả là kiến thức không vững bền và điều quan trọng là không rèn cho người học sự suy luận, tính lôgic về nội dung kiến thức. Độ tuổi của học viên đào tạo cán bộ chính trị viên tàu cũng ảnh hưởng phần nào đến quá trình học tập, phần lớn các học viên đều là những quân nhân chuyên nghiệp đã học qua các trường trung cấp kỹ thuật, độ tuổi trung bình khoảng 29 tuổi, có những khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức bậc đại học và kiến thức về các môn KHXH&NV, điều này ảnh hưởng nhiều đến chất lượng tự học, tự nghiên cứu của học viên. Theo kết quả điều tra: Theo đồng chí chất lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên hiện nay như thế nào? có 18% đạt hiệu quả, 72% bình thường, 10% chưa hiệu quả Việc nắm kiến thức các môn KHXH&NV, nhất là hiểu bản chất, khả năng phân tích khái quát, tổng hợp vấn đề… ở học viên còn chưa cao; khả năng liên hệ, vận dụng, gắn nội dung lý luận với thực tiễn và nghề nghiệp của một số học viên còn hạn chế. Đặc biệt, vẫn còn tồn tại một số học viên lười học, lười rèn luyện. Thực trạng chất lượng tự học các môn KHXH&NV cuả học viên chưa cao đó là học viên chưa tận dụng hết thời gian trong giờ tự học cũng như trong thời gian nhàn rỗi, chưa lập được kế hoạch tự học một cách khoa học. Mặt khác đặc điểm của các môn KHXH&NV là phải đọc nhiều, nghiên cứu nhiều tài liệu, giành nhiều thời gian tự học nhưng người học còn chủ quan, ít đào sâu suy nghĩ. Kết quả điều tra cho thấy: Trong những ngày nghỉ giờ nghỉ đồng chí có thường hay tự nghiên cứu các môn KHXH&NV không? có 50% trả lời ít khi, 25% thỉnh thoảng, 20% thường xuyên, 5% chưa khi nào. Kết quả này cho thấy, tuy học viên đã có ý thức tự giác trong việc đầu tư thời gian cho tự học, nhưng việc tận dụng thời gian cho việc tự học chưa nhiều. Học viên chưa có phương pháp học phù hợp, chịu ảnh hưởng của phương pháp học truyền thống là “học thuộc lòng”; chưa có thái độ và tâm lí học tập đúng đắn nên không tích cực tham gia vào bài giảng của giáo viên, chưa đào sâu nghiên cứu tài liệu theo yêu cầu của giảng viên đưa ra; chưa có thói quen hoặc
  • 20. 22 lười làm việc, đóng góp vào bài giảng của giảng viên. Qua điều tra: học viên có thường xuyên phát biểu đóng góp ý kiến, xây dựng bài trong giờ học các môn KHXH&NV không? Kết quả 20% thường xuyên, 32% thỉnh thoảng, 40% ít khi, 8% chưa khi nào. Trong quá trình học, phần lớn học viên còn lệ thuộc vào bài giảng của giảng viên, chưa tích cực nghiên cứu giáo trình, tài liệu. Do đó trong giờ thảo luận và thực hành học viên ít tranh luận làm sáng tỏ những vấn đề thực tiễn đặt ra, hoặc ý kiến tranh luận chưa sâu, cách lập luận giải quyết vấn đề chưa chặt chẽ, thiếu tính lôgic khoa học. Trong quá trình đào tạo, phần lớn học viên thường ở vị trí khách thể, thụ động tiếp thu kiến thức và tìm cách tái hiện những điều giảng viên đã giảng trên lớp. Cách thức học tập này đã trở thành một thói quen của không ít học viên. Thực trạng trên dẫn đến học viên nắm thực chất vấn đề còn hạn chế, chưa chịu khó đào sâu suy nghĩ, tiếp thu kiến thức thụ động, thường rập khuôn một chiều theo thầy và chấp nhận những giải pháp quen thuộc. Đối với giảng viên Trong những năm qua, Học viện cán bộ đã coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên nên chất lượng dạy học ngày càng một tăng lên. Tuy nhiên, phương pháp, quy trình giới thiệu của giảng viên có lúc chưa kích thích được tính say mê, hứng thú, sáng tạo của người học. Việc sử dụng phương pháp giảng dạy để phù hợp với từng môn học, từng đối tượng là một vấn đề đặt ra, đối với phương pháp thuyết trình thì giảng viên trình bày nội dung cần truyền đạt cho học viên bằng cách nêu vấn đề theo nội dung yêu cầu, sau đó phân tích, giải thích, lấy ví dụ dẫn chứng, chứng minh những nội dung cần truyền đạt cho học viên lĩnh hội. Quá trình này diễn ra theo một chiều thầy giảng, trò nghe và ghi chép, sau đó về học bài. Trong quá trình giảng rất ít có sự phản hồi thông tin ngược chiều của học viên. Sử dụng phương pháp thuyết trình trong giảng dạy có nhiều ưu điểm: trong một thời gian ngắn giảng viên có thể chuyển tải được khối lượng thông tin nhiều cho học viên. Nhưng nếu chỉ sử dụng một phương pháp này trong giảng bài sẽ làm cho học viên trở thành đối tượng thụ động, không phát huy được tính chủ động sáng tạo, đôi khi gây ức chế về mặt tâm lý, học
  • 21. 23 viên cảm thấy mệt mỏi và không tập trung vào nội dung của bài giảng. Theo một kết quả điều tra, việc sử dụng phương pháp thuyết trình có 35% chú ý ghi, 18% chú ý nghe, 2% lơ đãng, 45% chú ý lắng nghe và ghi chép cẩn thận. Như vậy, chất lượng hiệu quả bài giảng chưa thực sự cao, học viên còn thụ động, giảng viên dạy cái gì học cái đó. Trong những năm qua việc đổi mới phương pháp giảng dạy đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có việc bồi dưỡng, định hướng, giúp đỡ học viên về phương pháp tự học, tuy giảng viên đã có những định hướng cho học viên về cách tiếp cận vấn đề phù hợp với từng nội dung môn học, nhưng việc bồi dưỡng, định hướng đó vẫn chưa được thường xuyên, liên tục. Trong kiểm tra, thi đánh giá kết quả vẫn còn có bất cập cần phải cải tiến như: ra đề thi có học phần còn đơn giản, chưa đòi hỏi tính suy luận và sáng tạo của người học; đội ngũ cán, bộ giảng viên có lúc chưa thống nhất quan điểm đánh giá, còn chịu tác động yếu tố khác; kết quả thi có bài còn chưa phản ánh đúng, chính xác chất lượng của người học. Mặt khác, ở một số học viên chưa có nhận thức đúng đắn về mục đích, động cơ, trách nhiệm trong học tập, còn có biểu hiện dựa dẫm, ỉ lại, ngại học, ngại rèn (học đối phó qui chế, chưa có ý thức học để làm việc và để học tiếp trong suốt đời quân ngũ của mình). Đối với các tổ chức, đội ngũ cán bộ quản lý Hệ thống chỉ huy các cấp tuy đã có sự kiểm tra sát sao trong việc duy trì học viên trong các giờ tự ôn, tuy nhiên việc quản lý hiệu quả còn chưa cao; hệ thống tổ chức cán bộ quản lý ở các Hệ, tiểu đoàn học viên ở Học viện cán bộ còn nổi nên những bất cập, cán bộ quản lý trực tiếp (lớp trưởng) là những học viên kiêm nhiệm, kinh nghiệm về quản lý chưa nhiều, việc duy trì các chế độ còn nhiều lỏng lẻo, cán bộ lớp còn ngại nhắc nhở học viên trong các giờ tự ôn, việc duy trì thời gian tự ôn có lúc còn chưa nghiêm túc, chưa có phương pháp tổ chức trong việc tự học của học viên, cán bộ cấp trên có lúc chưa kiểm tra kịp thời việc tự học của học viên, việc bồi dưỡng phương pháp tự học cho học viên còn chưa thường xuyên… tất cả những nguyên nhân trên đều ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng tự học của học viên.
  • 22. 24 Nguyên nhân Ưu điểm Một là, học viên cơ bản đã nhận thức đầy đủ và sâu sắc vị trí, vai trò của việc tự học, tự nghiên cứu các môn KHXH&NV, đã có tính tự giác trong tự học, tự rèn, xây dựng động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn, trau dồi kiến thức về mọi mặt đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ, chức trách của người cán bộ chính trị. Hai là, trong quá trình GD–ĐT được sự quan tâm thường xuyên của Đảng ủy, ban giám đốc Học viện, sự chỉ đạo, hướng dẫn của các phòng, khoa giáo viên đã quan tâm đến việc đổi mới toàn diện về nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, trong đó chú trọng bồi dưỡng để nâng cao chất lượng tự học, tự rèn luyện của học viên. Ba là, đội ngũ cán bộ quản lý có kinh nghiệm trong quản lý học viên, có trình độ, năng lực công tác tốt, duy trì nghiêm các chế độ, có sự kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở và bồi dưỡng học viên nâng cao chất lượng tự học, xây dựng được môi trường học tập, rèn luyện tốt đảm bảo được tính định hướng trong quá trình học tập, rèn luyện của học viên. Nhược điểm Có thể nhận định, việc chất lượng tự học các môn KHXH&NV vẫn còn những bất cập nêu trên là do: Thứ nhất: Phương pháp học tập của học viên tuy có nhiều tiến bộ, song nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Học viên các lớp chuyên môn kỹ thuật đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ đã qua đào tạo ở các trường trung cấp kỹ thuật trong toàn quân và qua ít nhất 3 năm công tác thực tiễn tại đơn vị, họ đã có trình độ nhận thức nhất định đó là điều kiện thuận lợi trong quá trình học tập, tuy nhiên việc nắm bắt về phương pháp học ở bậc đại học còn hạn chế. Thứ hai: Công tác quản lý học viên trong giờ tự học cũng còn những bất cập, sự kiểm tra của cán bộ quản lý có lúc chưa được thường xuyên. Ba là: Tác động mặt trái của kinh tế thị trường và các tệ nạn xã hội đã dẫn đến một số học viên có nhận thức chưa đúng về vị trí, vai trò của việc học tập
  • 23. 25 các môn KHXH&NV, tư tưởng ngại học và vi phạm kỷ luật trong học tập, thi cử là điều khó tránh khỏi. Bốn là: Trong những năm gần đây, số lượng môn học tăng, trong khi đó đội ngũ giảng viên lại thiếu, cường độ giảng dạy lớn. Thời gian qua mặc dù nhà trường cũng đã có sự đổi mới về phương pháp học tập theo phương pháp mới, đã có nhiều hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học như dạy học nhóm, xêmina… tuy nhiên trong quá trình thực tế còn tồn tại nhiều bất cập. Một bộ phận giảng viên có phần e ngại khi đổi mới, tìm kiếm phương pháp giảng dạy theo hướng hiện đại. 1.2.3. Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng tự học. Trong tiến trình phát triển chung của nhân loại, tri thức có vai trò thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, sự phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia đều dựa trên nền tảng tri thức, muốn có tri thức thì phải phát triển giáo dục. Như Bác Hồ thường nói “Non sông Việt Nam có vẻ vang, có sánh vai cùng các cường quốc năm châu hay không? Chính là nhờ phần lớn công học tập ở các cháu”, dù cho giáo dục không phải là phương thuốc thần kì có thể thực hiện được mọi mơ ước song dù sao nó cũng là một con đường hơn mọi con đường khác huớng vào phục vụ phát triển toàn diện con người. Ý thức được tầm quan trọng đó của tri thức giáo dục, nước ta coi giáo dục và đào tạo là quốc sách, Đảng và nhà nước ta đang nỗ lực xây dựng một xã hội học tập với phương hướng, con đường thực hiện là kết hợp đến trường, giáo dục từ xa và tự học. Trong đó tự học để trưởng thành là vô cùng quan trọng. Một trong những đặc trưng cơ bản, quan trọng nhất trong xã hội tự học là tư tưởng tự học tập suốt đời. Vì “việc học không bao giờ là muộn”. Quan niệm tự học suốt đời nổi lên trong thời đại ngày nay như một chìa khoá mở cửa đi vào thế kỉ 21 - thế giới của nền kinh tế tri thức. Nó đáp ứng những thách thức của một thế giới đang thay đổi nhanh chóng trên mọi lĩnh vực. Xuất phát từ sự phát triến của tri thức không bao giờ dừng lại mà luôn phát triển Trong xã hội tự học người ta học vì: học để biết, học để làm người, học để làm việc, học để chung
  • 24. 26 sống – những động cơ này luôn thôi thúc con người ta phải luôn học tập để đạt đến chân- thiện-mỹ. V.I Lênin nói : "Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giầu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra "4 muốn hiểu biết được tất cả kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra thì trước tiên con người phải biết tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ của mình để tìm tòi học hỏi, tức là phải có khả năng tự học. Tự học là nói đến nội lực của người học, chất lượng của học tuỳ thuộc chủ yếu vào nội lực, dù điều kiện tác động từ bên ngòai đối với họat động học tốt đến mấy, nhưng nếu con người không có đủ nỗ lực bản thân để tự học, tự biến đổi mình đến mức cần thiết thì không thể nào đạt được mục tiêu mong muốn. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên có vị trí nhất định trong bộ máy nhà nước, do đó phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ hiểu biết mọi mặt, có tư duy độc lập và sáng tạo, cải tiến phương pháp làm việc, nâng cao chất lượng công tác. Theo Người, vấn đề học tập là “suốt đời” chứ không phải chỉ là lớp học, khoá học hoặc mang tính “thời vụ”, rồi sau đó lại “đâu vào đấy”. Người chống thói qua loa đại khái, lười học, lười suy nghĩ dẫn đến tình trạng khi giải quyết công việc thì “được chăng hay chớ”, “gặp đâu làm đấy”, chất lượng công việc thấp, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Do đó, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải “Ham học tập để nâng cao trình độ của mình”5 và coi đây là một tiêu chuẩn, một giá trị đạo đức của người cán bộ, đảng viên, từ đó, Người vạch rõ phương hướng, nhiệm vụ đối với cán bộ, đảng viên là không được sao nhãng việc học tập, phải tu dưỡng không ngừng, đối với người cán bộ “chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”.6 Người đặt lên hàng đầu “lấy tự học làm cốt”7 , cán bộ, đảng viên phải biết “tự động học tập”, phải xác định tư tưởng cho đúng, học tập phải trở thành nhu cầu, thói quen, hành vi hàng ngày của cán bộ, đảng viên. Cán bộ nào lười học, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận, cập nhật thông tin mới, những hiểu biết mới cũng là một biểu hiện suy thoái về đạo đức.
  • 25. 27 Nghị quyết 14/2005 của Chính phủ về việc đổi mới giáo dục đại học – Cao đẳng đã đặt ra vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục đại học, trong đó việc đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình đào tạo và phương pháp dạy học là một trong những yêu cầu cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Một trong những đòi hỏi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường đại học – cao đẳng là giúp cho sinh viên có khả năng tự học tự nghiên cứu. Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII khẳng định: “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp dạy học tiên tiến và phương tiện dạy dạy học hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên; nhất là sinh viên đại học”. Trong khoản b điều 36, luật Giáo dục cũng ghi rõ “Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm ứng dụng”. Có thể nói, chất lượng tự học là nhân tố trực tiếp trong việc nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại học. Khi một học sinh trở thành một sinh viên đại học, họ bắt đầu phải làm quen với phương thức học tập hoàn toàn mới mẻ. Ở trung học, học sinh chỉ cần nắm vững những kiến thức được cô giáo truyền giảng ở trên lớp là đủ và giáo viên kiểm tra, đánh giá học sinh qua việc thuộc bài là được. Song ở đại học thì khác hẳn, tự học đóng vai trò hết sức quan trọng, quyết định đến chất lượng GD–ĐT ở đại học, tự học là phương pháp, cách thức cơ bản của mỗi sinh viên phải quán triệt. Bởi vì, phương hướng chủ yếu của trường đại học là biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo mà thực chất là làm cho sinh viên tự hoàn thiện và làm phong phú thêm vốn tri thức bằng sự nỗ lực tự học, tự nghiên cứu. Sinh viên đại học, học phương pháp là chủ yếu. Giờ đây, thầy cô giáo đóng vai trò là những người hướng dẫn học tập, và các giờ lên lớp chỉ cung cấp được những kiến thức cơ bản nhất, những tài liệu cơ bản, còn việc học tập của sinh viên là sắp xếp trình tự, thời gian để nghiên cứu nắm tài liệu cơ sở và cả tài liệu tham khảo mở rộng. Thêm vào đó, không còn sự
  • 26. 28 kiểm tra sát sao của giáo viên, kết quả học tập được đánh giá bằng việc tiếp thu tài liệu, kiến thức, tìm ra tri thức mới... Kết quả này phụ thuộc vào bản thân sinh viên là chủ yếu. Công tác tự học của sinh viên ngày càng tăng lên, ngày càng đòi hỏi nhiều cố gắng nỗ lực vì chỉ có việc tự học mới trang bị cho mình kiến thức mới nhất, khoa học nhất và thu được nhiều kinh nghiệm cho thực tiễn hoạt động và đạt kết quả như mong muốn. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng tự học còn giữ vai trò lớn lao trong việc nâng cao thành tích, hoạt động trí tuệ của sinh viên trong việc hiểu và tiếp thu tri thức mới, nhiều nhà giáo dục nổi tiếng đã nêu lên sự cấp thiết phải khéo léo tổ chức việc tự học cho sinh viên. Tự học với sự nỗ lực và tư duy sáng tạo đã tạo điều kiện cho việc tìm hiểu tri thức một cách sâu sắc, hiểu rõ bản chất của chân lý. Trong quá trình tự học, sinh viên sẽ gặp nhiều vấn đề mới và việc đi tìm giải đáp cho những vấn đề ấy là cách tốt nhất để kích thích hoạt động trí tụê cho sinh viên. Nếu thiếu đi sự nỗ lực tự học của bản thân sinh viên thì kết quả không thể cao cho dù có điều kiện ngoại cảnh thuận lợi đến mấy (thầy giỏi, tài liệu hay). Theo Aditxterrec: "Chỉ có truyền thụ tài liệu của giáo viên mà thôi thì dù có nghệ thuật đến đâu chăng nữa cũng không đảm bảo được việc lĩnh hội tri thức của học sinh. Nắm vững kiến thức thực sự lĩnh hội chân lý, cái đó học sinh phải tự mình làm lấy bằng trí tụê của bản thân", điều đó lại khẳng định thêm vai trò của việc nâng cao chất lượng tự học. Tự học được tổ chức tốt không những cung cấp cho sinh viên những kiến thức mới, bổ ích mà còn giúp họ rất nhiều trong công việc sau này khi họ trở thành những người chủ thực sự góp phần xây dựng đất nước. Họ có năng lực hoạt động thực tiễn hay không? Chất lượng công tác như thế nào? phụ thuộc phần lớn vào chất lượng tự học. Xã hội ngày càng phát triển và ngày càng có nhiều phát kiến vĩ đại thì cần phải có những con người toàn diện. Bí quyết để chiến thắng là trang bị cho mình những tri thức toàn diện, đây cũng là nhiệm vụ đặt ra cho công tác tự học, không chỉ có vậy, tự học còn có vai trò to lớn trong việc giáo dục, hình thành nhân cách cho sinh viên. Việc tự học rèn luyện cho sinh viên thói quen độc lập suy nghĩ, độc lập giải quyết vấn đề khó khăn trong nghề nghiệp, trong cuộc sống, giúp cho họ tự tin hơn trong việc
  • 27. 29 lựa chọn cuộc sống cho mình. Hơn thế, tự học thúc đẩy sinh viên lòng ham học, ham hiểu biết, khát khao vươn tới những đỉnh cao của khoa học, sống có hoài bão, ước mơ. Do vậy, mỗi sinh viên hãy xây dựng cho mình một thói quen, một phương thức để nâng cao chất lượng tự học một cách tốt nhất. Như vậy có thể khái quát rằng tự học là một hình thức học nhằm giúp cho người học lĩnh hội, củng cố kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, trong quá trình tự học, người học tự xử lý thông tin đã lĩnh hội, tìm tòi khám phá tri thức mới, vận dụng tri thức vào giải quyết các nhiệm vụ học tập, từng bước biến tri thức do người dạy truyền đạt kiến thức trong tài liệu thành kiến thức của bản thân, từ đó giúp cho người học phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, hình thành niềm tin khoa học, sự hứng thú, say mê học tập. Trong các nhà trường quân đội, hoạt động tự học còn tạo điều kiện cho học viên nắm được cách thức tổ chức quản lý hoạt động tự học, đảm nhiệm được chức trách người cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý hoạt động tự học của bộ đội ở đơn vị được đảm nhiệm một cách có hiệu quả. Năng lực hoạt động thực tiễn của người cán bộ chính trị có được thông qua kết quả tác động tổng hợp của các hoạt động: GD – ĐT ở các nhà trường, tự học tập, tự tu dưỡng bản thân của người cán bộ…trong các hoạt động đó, hình thức tự học tập, tự tu dưỡng, đặc biệt là chất lượng tự học các môn KHXH&NV có vai trò vị trí rất quan trọng, nó luôn thâm nhập, đan quện và là một nhân tố trực tiếp góp phần tạo nên kết quả, chất lượng, uy tín của người cán bộ chính trị. Suy đến cùng, nguồn gốc sâu xa của mọi sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng đều thông qua quá trình tự thân vận động, là một trong những yếu tố trực tiếp quyết định đến chất lượng và hiệu quả trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện của mình. Người cán bộ chính trị muốn có năng lực hoạt động thực tiễn tốt trước hết phải tận dụng được tối đa thời gian học tập, rèn luyện mà bản thân được đào tạo trong trường, phát huy hết khả năng trong việc tự học để không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt, trong đó trình độ nhận thức về các môn KHXH&NV là một trong những điều kiện cần thiết để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị của người cán bộ chính trị.
  • 28. 30 Kết luận chương 1 Nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ hiện nay là một nội dung quan trọng, trực tiếp góp phần bồi dưỡng, rèn luyện trình độ kiến thức lý luận, khả năng tư duy sáng tạo, trình độ tổ chức hoạt động thực tiễn, phương pháp tác phong công tác của người chính trị viên được hình thành phát triển trong quá trình học tập rèn luyện tại Học viện cán bộ. Xuất phát từ cơ sở lý luận việc nâng cao chất lượng tự học, sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tự học và đặc điểm tự học các môn KHXH&NV; xuất phát từ thực trạng chất lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ hiện nay, vì vậy yêu cầu phải nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ là vấn đề cấp thiết hiện nay.
  • 29. 31 Chương 2 Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ hiện nay. Để nâng cao chất lượng tự học nói chung và tự học các môn KHXH&NV của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ hiện nay cần có những giải pháp mang tính đồng bộ, sự kết hợp của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan đó là những yếu tố trực tiếp chi phối đến hoạt động và chất lượng tự học của học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ hiện nay, vì vậy cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau. 2.1. Nâng cao nhận thức về việc tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn cho học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ. Đây là giải pháp quan trọng cả trong lý luận và thực tiễn người học. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói: Muốn học tập, rèn luyện có kết quả tốt thì phải có động cơ đúng, trách nhiệm cao, tự học, tự rèn luyện cũng giống như “mài ngọc luyện vàng”, ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Người chỉ ra rằng “Năng lực của con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, mà một phần lớn do công tác luyện tập mà có”. Với Hồ Chí Minh, tự học được xem như một quy luật tồn tại, sự tự khẳng định và phát triển cá nhân; là điều kiện tiên quyết để hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực toàn diện của mỗi người. Điều quan trọng hàng đầu, người học xác định rõ mục đích học tập và xây dựng động cơ học tập đúng đắn. Theo Người, mục đích của việc học tập là: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ, học để phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”8 Trước hết mỗi học viên cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc vị trí, vai trò của việc tự học, tự nghiên cứu; cần thấy tự học, tự nghiên cứu là hình thức đòi hỏi tính độc lập cao, qua đó giúp cho bản thân củng cố, mở rộng, đào sâu, hệ thống hóa kiến thức, đồng thời rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, vận dụng và giải quyết được những vấn đề thực tiễn đặt ra một cách khoa học.
  • 30. 32 Yêu cầu từng học viên xây dựng kế hoạch nghiên cứu của cá nhân đảm bảo tính khoa học, triển khai thực hiện nghiêm túc, chống thái độ đơn giản, xem nhẹ hoặc biểu hiện đối phó. Bên cạnh đó, với mỗi nội dung, môn học thì mỗi người cần biết lựa chọn phương pháp phù hợp. Thái độ và trách nhiệm học tập của học viên với các môn KHXH&NV được thể hiện rõ ở việc nhận thức đúng đắn về mục đích, yêu cầu, nội dung cần đạt được của từng môn học cũng như tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo trong quá trình học tập. Đó là quá trình mỗi học viên phát huy vai trò chủ thể trong hoạt động nhận thức, biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo. Để có được động cơ thái độ trách nhiệm học tập đúng đắn, nhất thiết phải thông qua công tác giáo dục của nhà trường, giảng viên, cán bộ quản lý, các tổ chức trong đơn vị và đặc biệt là quá trình tự giáo dục, sự nỗ lực, tự giác vươn lên của người học. Ngay từ đầu mỗi học viên cần phải tự giác quán triệt một cách nghiêm túc về mục tiêu yêu cầu đào tạo của Nhà trường cũng như yêu cầu về phẩm chất năng lực của người cán bộ chính trị. Phải nhận thức đúng đắn việc học tập đó là ''Học để biết, học để làm người, học để làm cán bộ, để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân''. Muốn vậy, mỗi học viên phải chủ động tìm hiểu những đặc điểm, yêu cầu của môn học nắm được những thuận lợi, khó khăn trong quá trình học tập. Qua đó, rút ra những biện pháp khắc phục khó khăn, lập kế hoạch học tập và chuẩn bị đầy đủ về vật chất, tâm lí, thể lực cho quá trình học tập. Ngoài ra từng học viên phải luôn có ý thức tự rèn luyện bản thân, xây dựng ý chí và nghị lực để sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn trở ngại trong học tập, luôn đặt ra những yêu cầu cao trong học tập để tự mình phấn đấu vươn lên đạt cho được yêu cầu đó. Đồng thời, tích cực đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, tư tưởng ngại khó, ngại khổ; tư tưởng ỉ lại, trông chờ vào các mối quan hệ để được điểm cao. Trên thực tế, những hạn chế này vẫn còn tồn tại không ít ở người học, cần phải được khắc phục triệt để trong thời gian tới. 2.2. Phát huy vai trò của các tổ chức, cán bộ quản lý, giảng viên khoa xã hội trong việc bồi dưỡng, nâng cao chất lượng tự học cho học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ.
  • 31. 33 Một là: Tiếp tục đổi mới nội dung chương trình, phương pháp dạy học. Chương trình nội dung dạy học phải được đổi mới theo hướng đảm bảo thực hiện mục đích giáo dục toàn diện của Đảng, đảm bảo được tính hiện đại, tính tư tưởng, tính giáo dục, không ngừng tăng cường tính thực tiễn, đồng thời phải làm cho các kiến thức ngày càng mang tính tổng hợp, khái quát, đáp ứng với sự phát triển tư duy của người học. Phương pháp dạy học phải tiếp tục đổi mới theo hướng “dạy cách học”, nhằm trang bị cho người học phương pháp tự học, tự nghiên cứu để họ có thể sử dụng suốt đời. Tăng cường các phương pháp dạy học thực hành, đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học nhằm nâng cao trình độ hiện đại của các phương pháp dạy học. Vì vậy phương pháp dạy học của giảng viên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tư duy, tích cực của học viên. Trong một bài học, giảng viên nên kết hợp nhiều phương pháp giảng dạy để học viên có thể nắm bài một cách tốt nhất. Để phát huy được tính tự giác, tích cực trong tự học, tự nghiên cứu của học viên đào tạo cán bộ chính trị, giảng viên cần định hướng đúng chủ đề, lĩnh vực nghiên cứu; xác định rõ giá trị thực tiễn của vấn đề, tức là hướng tới coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho học viên phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng tự nghiên cứu trong hoạt động thực tiễn sau này. Bên cạnh đó giảng viên cần kịp thời phát hiện, uốn nắn những sai lệch trong nhận thức của học viên để họ ngày càng hoàn thiện. Trước mỗi bài giảng, giảng viên chỉ rõ những tài liệu mà người học cần tìm đọc là những tài liệu nào? ở đâu? trong tài liệu đó thì cần phải đọc chỗ nào và ghi chép ra sao? Đồng thời, giảng viên nêu ra vấn đề mà học viên cần chuẩn bị trước thông qua những câu hỏi gợi mở, hay những bài tập… để yêu cầu người học phải chuẩn bị trước khi buổi học diễn ra. Chính nhờ có quá trình chuẩn bị tài liệu trước cho nên người học hoàn toàn chủ động thực hiện nhiệm vụ của mình trong suốt buổi học. Sau mỗi bài giảng: giảng viên yêu cầu học viên về nhà tiếp tục đọc phần nào mà trên lớp chưa thực hiện xong, giảng viên giới thiệu thêm tài liệu tham khảo yêu cầu học viên nghiên cứu đọc thêm để mở rộng kiến thức đồng thời đưa
  • 32. 34 ra những câu hỏi để kiểm tra khả năng tự đọc, tự nghiên cứu của sinh viên ở nhà như thế nào. Để nâng cao ý thức tự học, tự rèn luyện, người học không những phải có động cơ thái độ tự học đúng đắn mà còn phải có phương pháp tự học khoa học. Vì vậy cần bồi dưỡng cho học viên kỹ năng nghe, đọc sách ghi nhớ bài, làm bài tập, chuẩn bị thảo luận, thu thập thông tin, tự nghiên cứu, biết tập trung tư tưởng, tiết kiệm thời gian, xây dựng kế hoạch tự học… đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết 86/NQ – ĐUQSTW của Đảng ủy quân sự Trung ương về công tác giáo dục – đào tạo trong tình hình mới “Đẩy mạnh việc vận dụng phương pháp dạy học hiện đại, sát thực tế, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và bồi dưỡng năng lực tư duy, rèn luyện năng lực hoạt động thực tiễn cho người học ”. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, yêu cầu đào tạo cán bộ chính trị ở Học viện cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới cần có nhiều giải pháp đồng bộ và sự kết hợp của nhiều yếu tố, nhưng trong đó vấn đề đẩy mạnh, nâng cao quá trình tự học tập và tự nghiên cứu của người học lên ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ là vấn đề cấp bách và quan trọng. Khi hướng dẫn học viên tự nghiên cứu, giảng viên căn cứ vào những vấn đề đã lựa chọn khêu gợi cho học viên cách tiếp cận vấn đề nội dung nghiên cứu, yêu cầu đạt được, phương pháp nghiên cứu, hướng vận dụng liên hệ thực tiễn, các tài liệu nghiên cứu, tham khảo. Trong quá trình người học tự học tập, tự nghiên cứu, giảng viên cần giúp đỡ những vấn đề người học chưa giải quyết được, chưa thống nhất về nhận thức hoặc những vấn đề mới nảy sinh để đưa ra giải quyết tiếp trong quá trình thảo luận. Những nội dung hướng dẫn tự nghiên cứu là những nội dung trong chương trình huấn luyện, gắn với hoạt động thực tiễn, những tài liệu nghiên cứu và tổ chức kiểm tra, thi đánh giá kết quả nhằm khắc phục tình trạng học lệch, học tủ và thụ động trong quá trình học tập của người học Để tạo nhu cầu tự thân cho mỗi học viên trong quá trình tự học tập, nghiên cứu thì các khoa chuyên ngành KHXH&NV cần thường xuyên tổ chức sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt học thuật, hội thảo khoa học có sự tham gia của học viên. Trong đánh giá kết quả thu hoạch, tiểu luận… các khoa cũng cần phải
  • 33. 35 đặt ra yêu cầu cao hơn cả về nội dung, phương pháp trình bày, kỹ năng lập luận, từ đó khắc phục thái độ tự thỏa mãn, dừng lại của học viên. Sau những lần viết thu hoạch, tiểu luận, tham luận khoa học của học viên nên tổ chức tiến hành rút kinh nghiệm để họ tự đánh giá đúng khả năng, trình độ, tự học, tự nghiên cứu của bản thân, qua đó điều chỉnh phương pháp, khắc phục những hạn chế nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng tự học, tự nghiên cứu. Hai là: Phát huy vai trò các tổ chức, cán bộ quản lý, trong nâng cao chất lượng tự học, tự nghiên cứu của học viên. Trong sự nghiệp giáo dục đào tạo tại nhà trường đội ngũ cán bộ quản lý không chỉ là người lãnh đạo, chỉ huy ở các đơn vị mà còn là người thầy trực tiếp, người tổ chức huấn luyện, giáo dục, rèn luyện cho mỗi học viên hình thành ở họ những phẩm chất cần thiết về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tác phong công tác... chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho học viên. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đơn vị của Học viện cán bộ là những người cán bộ ưu tú được rèn luyện học tập tại các học viện, nhà trường trong quân đội, có kinh nghiệm lãnh đạo chỉ huy đơn vị. Họ là những người có lập trường tư tưởng vững vàng, có niềm tin tuyệt đối vào Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Họ là những người có bản lĩnh vững vàng, được đào tạo cơ bản nên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có kinh nghiệm trong quản lý, mặt khác họ cũng là những giảng viên dày dặn kinh nghiệm được đưa về các tiểu đoàn, hệ để trải qua thực tiễn, vì vậy đây là yếu tố quan trọng giúp người chỉ huy đơn vị trở thành một tấm gương sáng, là người thầy trực tiếp để học viên noi theo. Mọi lời nói, cử chỉ, hành động, thái độ, phong cách ứng xử của họ đều là những bài học có tác động trực tiếp đến việc hình thành bản lĩnh phong cách cho người học. Người cán bộ đơn vị là những người có kinh nghiệm chỉ huy, quản lý học viên, là người thường xuyên sống gần gũi với học viên. Do đó, là người nắm bắt và hiểu sâu sắc nhất về tâm tư nguyện vọng, trình độ kiến thức năng lực của học viên, đây là điều kiện thuận lợi để đội ngũ cán bộ quản lý xây dựng cho người học có thái độ, động cơ học tập đúng đắn. Đội ngũ cán bộ quản lý phải thường
  • 34. 36 xuyên tổ chức phương pháp tự học tập, rèn luyện cho học viên, hàng tháng tổ chức những buổi rút kinh nghiệm học tập, lấy ý kiến đóng góp của học viên từ đó đề ra những phương pháp học tập hiệu quả Ngoài ra, cán bộ đơn vị còn có trách nhiệm chăm lo đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần cho người học tạo điều kiện để họ yên tâm học tập, rèn luyện. Để nâng cao ý thức tự học, tự nghiên cứu của học viên trước hết cán bộ quản lý cần quán triệt kỹ nhiệm vụ huấn luyện, nhất là quán triệt sâu sắc mục đích, yêu cầu, nội dung học tập của từng đề mục để từ đó xây dựng cho người học động cơ, thái độ và ý thức trách nhiệm học tập đúng đắn; quán triệt cho đơn vị tự giác chấp hành nghiêm các quy định trên giảng đường, chấp hành nghiêm kỷ luật, duy trì hiệu quả giờ tự học của học viên, đồng thời động viên bộ đội khắc phục khó khăn quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ huấn luyện trong mọi điều kiện. Nắm chắc nội dung, tiến trình huấn luyện, hiệp đồng chặt chẽ với giảng viên, cơ quan và đơn vị bảo đảm vật chất huấn luyện đủ về số lượng, có chất lượng tốt, bảo đảm đúng thời gian địa điểm huấn luyện. Cán bộ quản lý luôn bám sát đơn vị, theo dõi nắm chắc chất lượng học tập đến từng học viên, qua từng ngày, từng đề mục, trao đổi cùng giảng viên lập kế hoạch học tập, kế hoạch hoạt động phương pháp, kế hoạch bồi dưỡng cho từng đối tượng (giỏi, khá, trung bình, yếu), đặc biệt là kế hoạch tổ chức ôn luyện ngoài giờ. Quá trình ôn luyện, cán bộ quản lý có thể tham gia cùng giảng viên để uốn nắn, sửa sai cho người học. Tránh tư tưởng khoán trắng cho giảng viên, coi chất lượng học tập là trách nhiệm của giảng viên, còn cán bộ quản lý chỉ có trách nhiệm bảo đảm thời gian, vật chất và duy trì kỷ luật... Lãnh đạo, chỉ huy cần tích cực truyền đạt kinh nghiệm hoạt động thực tiễn cho học viên, định hướng rõ những nội dung đã học, có chế độ kiểm tra thường xuyên việc tự học, tự rèn của học viên, có chính sách biểu dương, khen thưởng, nhân rộng điển hình người tốt, việc tốt, đơn vị tốt, kiên quyết xử lý nghiêm những học viên vi phạm kỷ luật. Đồng thời đưa vấn đề tự học, tự rèn luyện của học viên vào nghị quyết lãnh đạo của tổ chức đảng, vào kế hoạch công tác của
  • 35. 37 đơn vị. Tinh thần, thái độ, trách nhiệm và kết quả tự học tập, tự rèn luyện của học viên phải là một tiêu chí để đánh giá khen thưởng cuối năm. Ba là: bảo đảm tốt cơ sở vật chất, tài liệu phục vụ tự học, tự nghiên cứu của học viên Đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất cho quá trình tự học, tự nghiên cứu của học viên là một yêu cầu cần thiết. Trên cơ sở chương trình đào tạo của nhà trường, cơ quan chức năng cần xây dựng và thiết kế chương trình phù hợp và cân đối giữa thời gian tự nghiên cứu với các chương trình dạy học khác; phối hợp với khoa chuyên ngành bổ sung đưa vào chương trình nghiên cứu những nội dung có giá trị lý luận và đáp ứng được sự đòi hỏi của thực tiễn. Công tác bảo đảm cơ sở, vật chất, tài liệu có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng học tập, nghiên cứu của học viên, nhất là trong thời đại tri thức mạng như hiện nay. Mặc dù Học viện cán bộ đã có hệ thống thư viện điện tử, với các mạng nội bộ và mạng internet khai thác trong thư viện cũng như ở trung tâm tin học… Tuy nhiên, để công tác bảo đảm tài liệu đạt chất lượng tốt hơn, các cơ quan chức năng cần rà soát, tính toán số đầu sách, tài liệu tương ứng với số lượng học viên hàng năm để đảm bảo đầy đủ; bổ sung kịp thời tài liệu tham khảo có liên quan, tăng về số lượng và chủng loại các tài liệu như sách tham khảo, sách chuyên khảo, chuyên đề khoa học đã được nghiệm thu, công bố; báo, tạp chí chuyên ngành. Bên cạnh đó mở rộng giao lưu liên kết mạng với các học viện, nhà trường ngoài quân đội, các trung tâm nghiên cứu và ứng dụng khoa học trong và ngoài quân đội. Hàng năm tăng cường hội thảo khoa học ở cấp khoa và học viện, tạo điều kiện để học viên các chuyên ngành vừa tích cực nghiên cứu tham gia thông qua đó nắm các thông tin tri thức khoa học. Sử dụng tốt các hình thức, biện pháp, phương tiện dạy học vào trong quá trình đào tạo đội ngũ chính trị viên. Phương tiện giảng dạy là những công cụ hỗ trợ trong tiết học trên lớp nhằm làm sáng tỏ những điều cần trình bày của giảng viên và trực quan hóa các nội dung giảng dạy, giúp học viên tiếp thu dễ dàng tham gia học tập một cách chủ động tích cực. Các phương tiện giảng dạy được đề cập ở đây có thể sử dụng cho giảng dạy nhiều nội dung, nhiều đối tượng khác
  • 36. 38 nhau, khác với giáo cụ chỉ thích hợp cho một môn học, một đối tượng nhất định. Việc sử dụng phương tiện trong giảng dạy không những đòi hỏi phải thay đổi cách giảng dạy và học tập truyền thống, thụ động mà còn đáp ứng yêu cầu của phương pháp giảng dạy hiện đại, lôi cuốn học viên tham gia chủ động tích cực vào học tập, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Hiện nay, trong các nhà trường quân đội có điều kiện thuận lợi đảm bảo cho công tác giảng dạy như: sự trưởng thành nhanh chóng của đội ngũ giáo viên; bề dày kinh nghiệm truyền thống trong giảng dạy của các nhà trường; cơ sở vật chất phục vụ cho công tác đào tạo đang từng bước được cũng cố, tăng cường. Nếu sử dụng tốt các phương tiện dạy học hiện đại vào dạy học thì chất lượng dạy học sẽ nâng lên. 2.3. Phát huy vai trò tích cực của cá nhân học viên đào tạo cán bộ chính trị trong việc nâng cao chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện cán bộ. + Nhận thức về vai trò tích cực của cá nhân học viên đào tạo cán bộ chính trị trong việc nâng cao chất lượng tự học các môn KHXH&NV. Nhận thức là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người, trong hoạt động nhận thức người học có vai trò là chủ thể lĩnh hội kiến thức. Kết quả nhận thức phụ thuộc rất lớn vào tính tích cực chủ động của mỗi người. Bởi vậy, trong quá trình huấn luyện muốn có kết quả cao, cùng với việc phát huy vai trò của người dạy, người học phải phát huy vai trò chủ thể, tích cực, tự giác, sáng tạo trong học tập. Thực tế cho thấy, quá trình tự học chỉ mang lại kết quả, khi học viên có nhận thức đúng, tích cực chủ động, biết biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Với các môn KHXH&NV việc phát huy tính tích cực chủ động trong quá trình học tập của người học càng có ý nghĩa quan trọng. Để nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội, trong quá trình đào tạo tại Học viện cán bộ, vấn đề phát huy tính tích cực, chủ động tự học tập, rèn luyện của học viên là biện pháp rất quan trọng. Bởi vì kết quả GD – ĐT phụ thuộc rất lớn vào sự nỗ lực chủ quan của chính đội ngũ học viên. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “ Tiếp