SlideShare a Scribd company logo
1 of 100
Download to read offline
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
Đồng Chủ biên:
GS.VS. Phạm Minh Hạc
PGS.TS. Lê Đức Phúc
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng
đến phát triển nguồn lực con người, coi đó là yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững. Để tạo được nguồn nhân lực, đáp
ứng những đòi hỏi ngày càng cao trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương (khoá VIII) Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã nêu yêu cầu xây dựng năm đức tính của
con người Việt Nam trong giai đoạn mới. Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp
hành Trung ương (khoá IX) nhấn mạnh “Nâng cao chất lượng, hiệu quả
nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam theo năm đức tính được xác định
trong Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII)… Đẩy mạnh giáo dục về chủ nghĩa
xã hội, bồi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, tạo chuyển biến rõ
rệt về bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống năng lực, trí tuệ người Việt Nam…”
Nhằm cung cấp cho bạn đọc tài liệu nghiên cứu và tham khảo về vấn
đề nhân cách con người, góp phần quán triệt sau hơn Nghị quyết Trung ương
5 (khoá VIII) và Nghị quyết Trung ương 10 (khoá IX), Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia xuất bản cuốn sách “Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách” do GS.
VS. Phạm Minh Hạc và PGS. TS. Lê Đức Phúc chủ biên.
Cuốn sách gồm một số bài viết đi sâu phân tích vấn đề nhân cách dưới
góc độ tâm lý học, các khía cạnh lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu nhân
cách con người; cách tiếp cận và phương pháp luận nghiên cứu nhân cách;
các mặt chủ yếu trong cấu trúc nhân cách như: nhu cầu, động cơ, thái độ, ý
thức, v.v…, trên cơ sở đó xây dựng mô hình nhân cách con người Việt Nam
thời kỳ mới, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước
Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc
Tháng 8 năm 2004
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
LỜI NÓI ĐẦU
Thế kỷ XXI đang mở ra những triển vọng to lớn đối với việc tiếp tục đổi
mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Sự nghiệp đó đòi hỏi phải “phát triển văn hoá, con người và nguồn nhân lực
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Đây cũng là tên Chương trình
khoa học – công nghiệp cấp nhà nước 2001 – 2005, mã số KX05, trong đó có
đề tài KX05-07 với tiêu đề: “Xây dựng con người Việt Nam theo định hướng
xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc
tế”
Một trong những nhiệm vụ của đề tại này là nghiên cứu sự phát triển
nhân cách con người Việt Nam đáp ứng những yêu cầu thời đại.
Trong thời gian đầu, nhóm nghiên cứu đã xác định những cơ sở lý luận
và phương pháp luận, tạo sự định hướng thống nhất cho quá trình thực hiện.
Cuốn sách này bao gồm những bài viết của nhiều tác giả về nhân cách,
được bàn xét chủ yếu từ góc độ tâm lý học và chia thành ba phần cơ bản: Lý
luận, phương pháp luận và phương pháp. Mong rằng những nội dung đã trình
bày ở đây sẽ được độc giả quan tâm và góp ý với sự thông cảm về những
thiếu sót của chúng tôi.
Hà nội, tháng 5 năm 2004
CÁC TÁC GIẢ
Phần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
A. NGHIÊN CỨU CON NGƯỜI VÀ NHÂN CÁCH CON NGƯỜI
GS.VS. PHẠM MINH HẠC
I. Về khái niệm con người, cá thể và cá nhân
Con người với tư cách là tột đỉnh tiến hoá của thế giới sinh vật, và tiếp
tục phát triển thành cá thể, cá nhân và nhân cách. Khi con người là đại diện
của loài ta gọi là cá thể. Với tư cách là thành viên xã hội ta gọi nó là cá nhân
như là một thực thể độc lập, và khi nó có đủ khả năng để trở thành chủ thể
của hoạt động học tập, lao động, vui chơi, con người trở thành nhân cách.
Nội hàm của bốn khái niệm này thật ra có phần đan xen lẫn nhau,
chồng lấn lên nhau. Cách phân biệt các nội hàm vừa trình bày ở đây là một
cách, tất nhiên là rất tương đối. Theo đó, nhiều khi người ta nói "cá thể người”
là thành phần của loài người đã bứt ra khỏi loài vật vừa chứa đựng thành tựu
tiến hoá của thế giới vật chất, nhất là của thế giới sinh vật, tức là vẫn chịu sự
chi phối của các thế giới đó, vừa thoát ra ngoài vòng cương tỏa của các thế
giới đó, tức là đứng ngoài sự chi phối của các thế giới đó: vừa chịu tác động
của các quy luật trong vũ trụ (luật "trường"...) vừa chịu tác động của các quy
luật sinh vật, vừa bắt đầu chịu tác động của các quy luật xã hội.
Tiến lên một bước nữa trong thang phát triển ta có "cá nhân người":
một thành viên của xã hội, kẻ mang tổng hòa các quan hệ xã hội, vừa chịu
ảnh hưởng của chúng, vừa góp phần tạo ra chúng. Từ đây sự tồn tại và phát
triển của con người sau khi cơ thể, nhất là não bộ đã định hình xong ở tuổi
thiếu niên (13-14 tuổi), và đến tuổi thanh niên (trên dưới 20 tuổi) chủ yếu diễn
ra ở ngoài cơ thể, theo quy luật xã hội, hay nói chính xác hơn, theo quy luật
xã hội - lịch sử hay lịch sử - văn hoá. Và bậc thang tiếp theo, cũng là bậc
thang cao nhất, là “nhân cách người" - chủ thể của hoạt động, đưa tính cá thể
lên trình độ khá hoàn chỉnh, tính cá nhân (cá tính) lên trình độ mới với nét đặc
trưng là con người phân biệt được khách thể và chủ thể: phân biệt được tồn
tại ở ngoài tác động vào ta, tác động ở trong ta vào ta, phân biệt khi nào bản
thân ta là chủ thể, khi nào bản thân ta là khách thể. Mác và Ăngghen trong
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đã nhấn mạnh đến cá tính con người.
Anhstanh cũng đã khẳng định: "Đôi khi người ta coi nhà trường chỉ là công cụ
chuyển giao phần lớn kiến thức đến thế hệ trẻ. Nhưng sự thật không phải như
vậy. Tri thức thì khô cằn, còn nhà trường thì phải phục vụ cuộc sống sinh
động. Nhà trường phải phát triển ở cá thể các phẩm chất và năng lực có giá
trị cho cuộc sống xã hội. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là phá hủy các
cá nhân hay các cá nhân trở thành các công cụ đơn thuần của cộng đồng,
như những bầy ong, đàn bứớm. Một cộng đồng toàn những cá thể đồng loạt
giống nhau, không có độc đáo cá nhân và mục đích cá nhân - thì sẽ là một
cộng đồng nghèo, không có khả năng phát triển. Ngược lại, nhà trường phải
có mục tiêu là đào tạo ra những cá thể suy nghĩ và hành động độc lập -
những người này coi việc phục vụ xã hội là có ý nghĩa sống còn của mọi
người". Và, như đã trình bày ở trên khi nói về hoạt động, con người với tư
cách là "nhân cách người" đặt ra được mục đích của hoạt động, có động cơ
(động lực nội tại) và biết vận hành các điều kiện khách quan để tạo ra thao
tác, hành động và từng hoạt động cụ thể và cả dòng hoạt động (dòng đời) để
đạt từng mục đích cụ “thể" đến mục đích bộ phận và cuối cùng là mục đích
của cuộc đời (đường đời, cuộc sống, lý tưởng), thể hiện một lối sống, một
nhân sinh quan, một thế giới quan. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã mong muốn mỗi cá nhân con người phải có tính
độc lập, có cá tính.
Khái niệm người, con người hết sức phức tạp, nhiều khi người ta gọi là
"tồn lại người” - một tồn tại mang các đặc điểm của con người, loài người, xã
hội. Có khi người ta gọi con người là một hệ thống tích hợp mang cả đặc
điểm của vũ trụ, giới sinh học, xã hội, sinh lý, tâm lý, chứa đựng tất cả các
cấp độ (hình thức) phản ánh: cơ học, sinh học, xã hội, tâm lý. Đến đây ta tiếp
cận vấn đề cấu trúc người.
Cấu trúc người, cấu trúc nhân cách là vấn đề rất phức tạp, rất khó, phải
dày công nghiên cứu. Cấu trúc con người bao gồm cả cấu trúc nhân cách,
không chỉ ở trong con người mà còn nằm ở ngoài con người. Điều này phù
hợp với quan niệm của Mác: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hỏa các mối quan hệ xã hội". Đây là tinh thần cốt lõi của
phương pháp tiếp cận lịch sử - xã hại, hoạt động - nhân cách đối với việc
nghiên cứu con người. Chúng ta có thể tiếp thu các quan niệm trên, đặt toàn
bộ cấu trúc người trong mối quan hệ giữa bản thân với bản thân, và một loạt
quan hệ khác mình và người khác, bản thân với xã hội, với tự nhiên và với vũ
trụ, v.v.. Trước mắt, chúng ta tập trung vào vấn đề con người và xã hội.
Chẳng hạn như giải quyết như thế nào mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi
ích tập thể, lợi ích nhà nước phù hợp với cơ sở khoa học của nó để sử dụng
con người với tư cách là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội
Nghiên cứu cấu trúc người nói chung, cấu trúc tâm lý, cấu trúc nhân
cách nói riêng, phải đề cập một loạt cặp phạm trù sau đây
Đi theo các khái niệm này, các cặp phạm trù này là các quan niệm khác
nhau về cấu trúc của con người như thể xác – tâm hồn. Còn tâm linh là gì?
Có cái gọi là tâm linh không? Trong tiếng Việt ta bắt gặp “ba hồn, bảy vía”,
“hồn xiêu phách lạc”, v.v… Có phải đây là các đại lượng trong cấu trúc con
người không? Trong đó, khái niệm con người là khái niệm công cụ trung tâm
của chương trình nghiên cứu con người, vì vậy đề tài phương pháp luận và
các đề tài khác phải quan tâm thích đáng đến khái niệm này. Chắc chắn
chúng ta phải thảo luận nhiều lần, ở đây dừng lại nói thêm một cách khái
quán về khái niệm cực kỳ phong phú này. Từ xa xưa cho đến bây giờ vẫn còn
tồn tại một cách hiểu con người như là một tồn tại thần bí. Có lúc người ta lại
coi con người như là cây sậy biết nói. Hiểu như vậy thì chỉ thấy (hoặc nhấn
mạnh) khả năng nói dường như quyết định cuộc đời. Có khi lại thấy không
hiểu nổi chính mình, nên có giả định rằng hình như trong mỗi người trần mắt
thịt mà ta trông thấy lại có một con người bé xíu - con người tâm linh, mắt ta
không thấy, con người "tí hon" này điều khiển con người thể xác kia. Theo
cách nhìn này, con người mà ta thấy được chỉ là một thân xác giống như
muôn loài trên trái đất. Còn cái phần khó hiểu kia thuộc về con người "tí hon”
vô hình đầy ma lực, và do đó đầy bí ẩn. Nhưng cứ quan sát kỹ, suy ngẫm
sâu, điểm qua các thành tựu triết học, tâm lý học. v.v. dần dần thấy ra chẳng
làm gì có con người "tí hon” trong con người thân xác, mọi thứ do con người
làm ra cũng từ con người thân xác này cả. Nhưng thân xác con người, nhìn
nột cách kinh nghiệm chủ nghĩa, đâu có khác gì mấy so với các loại động vật
bậc cao, cũng phải ăn, uống, sinh đẻ, sống chết. Thế là người ta đưa ra lý
thuyết "con người bản năng", con người là một tồn tại sinh vật, hoặc có người
cho con người từ lúc hình thành tế bào trứng đến lúc 2 tuổi là tồn tại sinh vật,
và theo đây mọi sự sống của con người, mọi thứ do con người làm ra đều bắt
nguồn từ bản năng. Đúng là con người có bản năng, nhưng bản năng ở
người khác nhiều, khác về chất so với bản năng của động vật. Quan sát hàng
ngày về cách ăn, cách ở, cách bảo tồn và phát triển loài, v v; cũng đủ giúp
chúng ta hiểu ra một chân lý triết học như Ph.Ăngghen đã chỉ ra, bản năng
của con người đã được ý thức hóa. Thật khó chó thể chấp nhận cái lý thuyết
"con người bản năng" được.
Trong thời đại văn minh cổ đại, ta đã thấy vai trò của công cụ lao động
quyết định sự tiến bộ của loài người nên có lúc người ta đưa ra khái niệm
"con người kỹ thuật” để chỉ tồn tại sống có đặc trưng là biết sử dụng công cụ
lao động. Khi xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, có thể chế xã hội, và
con người sống trong vòng cương toả của các thể chế xã hội thì xã hội nào
cũng có chính tri của nó, từ đó nảy sinh lý thuyết "con người chính trị", mọi
ứng xử của con người đều có tính chất chính trị. Lý thuyết này gần với lý
thuyết "con người xã hội" - con người là tồn tại xã hội.
Các lý thuyết trên: "con người bản năng”, "con người kỹ thuật", "con
người chính trị", "con người xã hội"... đều nói lên một tiêu chí cực kỳ quan
trọng của con người. Nói tổng quát hơn, bản chất con người không phải là cái
gì có sẵn, hay là cái gì nhất thành bất biến, mà bản chất con người là cái gì
đó được hình thành nên hay bộc lộ ra trong cuộc sống của nó. Trong cuộc
sống bằng hoạt động của bản thân, con người mới chịu tác động của các
quan hệ xã hội và nhờ đó con người hội nhập vào các quan hệ đó, góp phần
củng cố, phát triển các quan hệ đó. Toàn bộ tồn tại khách quan xung quanh
con người tác động vào con người thông qua các quan hệ xã hội (quan hệ
sản xuất, quan hệ chính trị, quan hệ giai cấp, quan hệ cộng đồng, quan hệ
nhóm. v.v.), hoặc dưới hình thức của các quan hệ xã hội mà tác động vào con
người. Ngược lại, con người có tác động trở lại vào tồn tại khách quan (môi
trường tự nhiên, môi trường sinh sống, gia đình, các quan hệ, thể chế xã hội,
v.v.). Con người bao giờ cũng cùng với những người khác (nhóm, cộng đồng,
giai cấp, dân tộc, v.v.) lao động, học tập vui chơi, đấu tranh, xây dựng. Chính
trong quá trình học tập, lao động... đó con người thiết lập nên các mối quan
hệ xã hội.
Có một số nhà nghiên cứu lo ngại quá nhấn mạnh tính xã hội trong con
người thì coi nhẹ phần thể xác. Hay nói như trong tiếng Việt: nặng về -phần
"Người", nhẹ về phần "Con". Họ đưa ra quan niệm coi con người là tồn tại
sinh vật - xã hội (có người coi đứa trẻ sơ sinh đến lúc 2 tuổi là tồn tại sinh vật,
và sau 2 tuổi là tồn tại xã hội). Thật ra, quan niệm này không khác gì lắm so
với quan niệm coi con người như là "Cây gậy biết nói". Mới nghe tưởng như
đó là một quan niệm phù hợp với thực tế khách quan: con người có thể xác
và có tâm hồn, có bản năng và có ý thức, có vật chất và có tinh thần... Nhưng
thử hỏi con người có "xác" mà không "hồn” thì đâu còn là con người! ở con
người bình thường, cuộc sống bản năng cũng đã được ý thức hoá, ở con
người không bình trường, tức là con người bệnh hoạn, con người sa đọa, con
người của bộ máy phát xít, diệt chủng là những con người trở lại với thú tính,
đâu còn cơ chế "ý thức hoá".
Gần đây, có một số tác giả lại đưa ra quan niệm con người như là “cái
máy có suy nghĩ", “cái máy biết lựa chọn", "cái máy biết yêu đương", các
rôbốt. Đúng là trong hoạt đồng thần kinh của con người cũng như trong cuộc
sống của con người có cơ chế tự điều chỉnh, tự thích nghi, sáng tạo... hết sức
hoàn thiện mà không có một máy nào sánh kịp, tuy có khoa học phỏng sinh
dựa vào cơ thể một số động vật và người lập mô hình sáng tạo ra máy móc.
Người ta sáng chế ra máy tính, vi xử lý, máy đánh cờ, máy làm thơ... Có thể
một số thao tác hay công việc nào đó trong cuộc sống hàng ngày được
chương trình hóa đến khi rất hợp lý thì thành thói quen tốt, làm cho cuộc sống
thoải mái, nhẹ nhàng, ít tốn năng lượng mà hiệu quả lại cao. Nhưng con
người vẫn là con người, không phải là cái máy.
Theo quan niệm của chúng tôi, con người, kể cả trẻ em, là chủ thể của
hoạt động. Con người có muốn nhớ thì mới nhớ, con người suy nghĩ, con
người tiếp thu... Mỗi người là chủ thể của hoạt động, hoạt động lao động,
hoạt động vui chơi, hoạt động học tập...và khi ấy con người có nhân cách. Ví
dụ, khi trẻ chơi thì rõ: đúng là trẻ miệt mài, say sưa, có thể nói dường như
quên hết mọi thứ, tức là nó là chủ thể của hoạt động vui chơi, cốt được chơi.
Người lao động cũng vậy, bình thường họ làm một cách nghiêm túc, có trách
nhiệm, có lương tâm và nhắm tới sản phẩm mà lao động phải đạt tới theo quy
trình sản xuất, được xã hội chấp nhận, trân trọng, đánh giá cao, nói tóm lại,
theo thang giá trị của nhóm người, cộng đồng hay xã hội. Như vậy, mỗi người
phải tự (có thể có sự giúp đỡ của người khác! Chẳng hạn như thầy giáo,
người cùng nhóm trong một quy trình sản xuất, v v) tiến hành hoạt động trong
các mối quan hệ xã hội, theo các thể chế xã hội, luật pháp nhà nước, từ nhà
trường, gia đình đến quy định của nơi sản xuất, vui chơi.. Nói con người là
chủ thể của hoạt động là khẳng định các cấp độ, con người thể xác, con
người tâm hồn, tâm lý, tâm linh, con người ý thức, con người sinh vật xã hội -
văn hóa... Đồng thời toàn bộ sự tồn tại người ở các cấp độ ấy cũng vận động
trong sự phát triển nhân cách.
II. Khái niệm nhân cách
Tâm lý học nhân cách giữ vị trí trung tâm của cả hệ thống khoa học về
con người, vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn. Đối với mọi lĩnh
vực liên quan đến yếu tố người, từ công tác chính trị, kinh tế, quản lý, tổ
chức, đến giáo dục, y tế...
Hơn nửa thế kỷ qua, nhờ vận dụng sáng tạo lý luận duy vật biện chứng
về hoạt động của con người vào nghiên cứu thế giới tâm lý, cùng với các
khoa học khác, như triết học, xã hội học, đạo đức học, tâm lý học đã góp
phần làm sáng tỏ một số vấn đề xung quanh nhân cách, như vấn đề bản chất
tâm lý của nhân cách, cấu trúc nhân cách, các con đường hình thành nhân
cách.
Chúng ta khẳng định nhân cách có bản chất xã hội - lịch sử, nghĩa là
nội dung của nhân cách từng con người là nội dung của những điều kiện lịch
sử cụ thể trong xã hội cụ thể chuyển vào thành đặc điểm nhân cách của từng
người. Ví dụ, các công trình nghiên cứu tâm lý học sinh phổ thông ở Việt Nam
cho thấy, do sớm tham gia lao động, có đóng góp thật sự vào cuộc sống gia
đình mà trẻ em ta sớm biết lo toan công việc hàng ngày của gia đình, tinh
thần trách nhiệm trong nhân cách hình thành. Đồng thời cũng cho thấy phong
thái "sản xuất nhỏ” trọng học sinh chúng ta, vì các em sống và lớn lên trong
các quan hệ của nền sản xuất nhỏ. Nhân cách được hình thành và phát triển
bằng và trong hoạt động của con người: hoạt động là bản thể của nhân cách.
Thế giới tâm lý bao gồm các qua trình nhận thức và tình cảm, ghi nhớ
và chú ý, tính khí và tâm trạng, lời nói và việc làm. Nhưng chừng nào những
hiện tượng tâm lý ấy có thái độ riêng trở thành thuộc tính của chủ thể, chừng
đó mới có thể nói tới nhân cách của chủ thể ấy. Chẳng hạn, nhìn màu sắc đến
mức tinh nhạy, ở đâu có màu sắc là có sự thích thú nhận xét, và cao hơn
nữa, biết "chơi" màu, sáng tạo màu, như vậy là từ tri giác đến hình thành các
thuộc tính nhân cách trong hoạt động nghệ thuật tạo hình. Các thái độ riêng
trở thành thuộc tính riêng – những nét độc đáo này hợp lại thành bộ mặt tâm
lý, thành nhân cách của từng người. Tóm lại, nhân cách là tổ hợp các thái độ,
thuộc tính riêng trong quan hệ hành động của từng người với thế giới tự
nhiên, thế giới đồ vật do loài người sáng tạo, với xã hội và với bản thân. Các
thái độ và thuộc tính ấy chứa đựng ý nghĩa xã hội của nhân cách. Theo cách
tiếp cận hoạt động – giá trị, nhân cách tạo nên giá trị xã hội của hoạt động.
Giá trị ấy được đánh giá (đo đạc) bằng độ trùng hợp (hay độ xa cách) giữa
thang giá trị và thước đo giá trị của chủ thể và của xã hội (nhóm, cộng
đồng…). Từ các công trình nghiên cứu con người (1991-1995), chúng tôi đi
đến định nghĩa nhân cách như sau: Nhân cách của con người là hệ thống các
thái độ của mỗi người thể hiện ở mức độ phù hợp giữa thang giá trị và thước
đo giá trị của người ấy với thang giá trị và thước đo giá trị của cộng đồng và
xã hội; độ phù hợp càng cao nhân cách càng lớn.
Nhân cách các danh nhân như nhân cách Nguyễn Trãi, nhân cách Hồ
Chí Minh, … là mẫu hình nhân cách lý tưởng của thời đại; khi độ phù hợp đó
phát triển theo chiều âm (-), tức là ngược chiều với thang giá trị và thước đo
giá trị của cộng đồng và xã hội, thì khi ấy là tình trạng suy thoái nhân cách. Độ
phù hợp đó nói lên mối quan hệ giữa con người và cộng đồng, xã hội. Lucien
Seve, nhà triết học Pháp, đã định nghĩa: “Nhân cách là hệ thống hoàn chỉnh
các quan hệ xã hội giữa các hành vi ứng xử”
Định nghĩa của chúng tôi rút ra từ các công trình nghiên cứu nhân học,
tâm lý học, giáo dục học tiến hành trong thập kỷ vừa qua, và mặt khác, định
nghĩa này đã và đang có tác dụng chỉ đạo một số công trình nghiên cứu nhân
cách người ở nước ta.
Cấu trúc nhân cách
Nói cấu trúc nhân cách là nói tới các thành tố của nhân cách tạo thành
một hệ thống có một cấu tạo trung tâm (còn gọi là hạt nhân của nhân cách) và
hệ thống quan hệ giữa các thành tố. Các thành tố của nhân cách được xây
dựng nên từ tổ hợp các tính chất của kiểu loại thần kinh, các quá trình nhận
thức, các thái độ xúc cảm, tình cảm và hành động… Ví dụ, khả năng nhận
định nhạy bén, sâu sắc khi giải quyết vấn đề của cuộc sống hay khi tư duy lý
luận, hứng thú nghề nghiệp, tính linh hoạt trong cách đi, cách nói, cách nghĩ,
cách làm, lối sống và quan niệm về thế giới, tinh thần sẵn sàng đem năng lực
của mình góp phần cải tiến, biến đổi, cải tạo xây dựng xã hội... tạo nên một
nhân cách có độ phù hợp cao trong thang giá trị và thước đo giá trị của người
mang nhân cách đó và của xã hội, cộng đồng.
Tất cả các thái độ riêng ấy đều gắn bó với động cơ chung của cả cuộc
sống, cũng như với động cơ cụ thể trong từng hoạt động ở mỗi người. Động
cơ là hạt nhân của nhân cách. Động cơ có thể là sự thích thú, ham mê, ước
mơ, sự khích lệ, điều kiện bảo đảm cuộc sống, phần thưởng, lợi ích, sự đánh
giá, v.v.. Trong đó, động cơ cao nhất là lý tưởng của cuộc đời như: một hình
ảnh đẹp, một chân lý khoa học, một chuẩn đạo đức, một sự nghiệp. Bằng
hoạt động, những điều đó trở thành nhu cầu của cuộc sống ở từng người.
Một động cơ có thể có nhiều mức. Lấy động cơ học tập của học sinh
làm ví dụ. Đi học có thể vì: 1 - Theo bạn mà đi; 2 - Sợ bi Phạt; 3 - Học để có
tri thức, để tìm chân lý; v.v.. tương tự như vậy, cuộc sống là một chuỗi hoạt
động theo nhiều động cơ nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau. Có các
động cơ nhằm thoả mãn các nhu cầu tinh thần, như nhu cầu nhận thức, nhu
cầu tình cảm, nhu cầu giao lưu, v.v. là đặc trưng nổi bật của con người, tạo
nên một nhân cách đẹp, tích cực.
Có thể có nhiều cách để tìm hiểu xem một người có hệ thống động cơ
nào, động cơ nào là động cơ chính. Nhân cách là mối quan hệ giữa các hệ
thống động cơ quy định sự phù hợp trong thang giá trị thước đo giá trị và định
hướng giá trị của người mang nhân cách đó với cộng đồng và xã hội. So sánh
học sinh ngoan và học sinh chậm tiến, như các công trình nghiên cứu ở Việt
Nam cho biết, thấy rõ một bên, trẻ vươn tới những gì thuộc xu thế tiến bộ của
xã hội, còn bên kia, trong quá trình suy thoái nhân cách ngày càng lao vào
chỗ trở thành nô lệ các nhu cầu bản năng.
Hình thành và phát triển nhân cách
Cùng với nhân học, tâm lý học khẳng định rằng, từ khi có loài người, sự
phát triển tâm lý, trí tuệ, nhân cách chủ yếu tuân theo quy luật, lĩnh hội đi sản
văn hóa vật chất và tinh thần, do các thế hệ trước để lại trong công cụ lao
động, công trình kiến trúc, tác phẩm văn học; khoa học, v.v. Tất nhiều, mỗi
người phải có thân thể mới có tâm hồn; tâm lý từng người phải có cơ sở vật
chất là hoạt động thần kinh trung ương. Nhưng nếu người sinh ra không ở với
loài người mà ở với sói - như trường hợp xảy ra với hai em bé Ấn Độ, chỉ đi
bằng hai chân, hai tay, không biết nói, không biết cười, không biết ăn theo
kiểu người, không có thói quen và nhu cầu mặc quần áo... thì không có một
nét nào của nhân cách con người.
Như vậy, con người vốn sinh ra chưa có nhân cách. Nhân cách là cấu
tạo mới do từng người tự hình thành nên và phát triển trong quá trình sống -
giao tiếp, học tập lao động, vui chơi, v.v.. Nhân cách không có sẵn bằng cách
bộc lộ dần dần các xung đột bản năng nguyên thuy mà một lúc nào đó đã bị
kiềm chế, chèn ép. Bằng các hoạt động xã hội, con người ngay từ khi còn nhỏ
đã dần dần lĩnh hội nội dung loài người chứa đựng trong các mối quan hệ xã
hội có liên quan tới các hoạt động của trẻ. Phương pháp giáo dục có hiệu quả
là tổ chức cho trẻ hoạt động lĩnh hội các nội dung đó mà hình thành nhân
cách, chứ không phải là tạo ra các biện pháp cho phù hợp với mức độ trưởng
thành của trẻ.
Nói theo Lênin, cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm lý, đạo
đức của xã hội mà nó là thành viên. Nhân cách của con người hình thành và
phát triển theo con đường từ bên ngoài vào nội tâm, từ các quan hệ với thế
giới tự nhiên, với thế giới do vật do các thế hệ trước và bản thân tạo ra, các
quan hệ xã hội mà nó gắn bó.
Toàn bộ công tác giáo dục của chúng ta nhằm xây dựng toàn diện nhân
cách của con người Việt Nam sống và làm việc trong thời đại đổi mới. Đó là
nhân cách của người lao động sáng tạo, năng động, có tay nghề, có tâm
hồn... chứ không phải con người sống cốt cân bằng với ngoại giới hay chỉ
thích nghi với xã hội. Nhân cách hình thành và phát triển bằng các hoạt động,
trong đó có một hoạt động có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự hình thành
và phát triển nhân cách là hoạt động giao tiếp, vì tất cả các mối quan hệ có ở
con người, quan hệ người – vật, quan hệ người - máy... đều gắn bó bằng
cách này hay cách khác với quan hệ người - người. Nhất là trong thời đại
thông tin, kinh tế tri thức, các quan hệ giao tiếp người - người càng trở nên có
ý nghĩa hơn bao giờ hết. Có tổ chức được các mối quan hệ giao lưu tốt mới
hy vọng có được nhân cách tốt. Điều đặc biệt quan trọng ở đây là người được
giáo dục có hoà nhập với các mối quan hệ đó hay không. Môi trường giáo dục
nhải được hiểu như là hệ thống các mối quan hệ giao lưu và sự hoà nhập
này. Theo ý nghĩa đó, có gia đình tốt chưa chắc đã có môi trường giáo dục
tốt. Sống trong gia đình, đi học ở nhà trường, sinh hoạt trong đoàn thể và kể
cả trong trường hợp ba tổ chức này có kết hợp với nhau, chưa chắc đã có
môi trường giáo dục tốt.. Vấn đề là ở chỗ từng tổ chức này, cũng như sự kết
hợp của ba tổ chức này có thật sự thu hút được các em vào “luồng” giáo duc
mà chúng ta mong muốn không. Nghiên cứu trẻ em chậm tiến vốn sinh ra và
lớn lên trong gia đình nền nếp, tiến bộ, có nhiều điều kiện cho con cái ăn học,
có các quan hệ xã hội phong phú, tốt đẹp đã cho chúng tôi thấy rõ như vậy.
III. Giáo dục nhân cách theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Nhân cách là một vấn đề hết sức lớn đối với giáo dục, giáo dục nhân
cách là vấn đề trung tâm. Xét đến cùng, toàn bộ công việc của giáo dục là
góp phần phát triển con người, hình thành nhân cách, phát triển nhân cách.
Giáo dục tạo điều kiện cho mỗi em học sinh được phát triển tối ưu nhân
cách của mình mang đậm tính dân tộc, tính xã hội, tính cộng đồng, gắn bó với
gia đình, nhưng lại là một nhân cách riêng. Đó là mục tiêu của nền giáo dục.
Trong lịch sử, nhân cách con người đã nhiều lần bị hoà tan vào cộng
đồng, thậm chí trong xã hội tư bản chủ nghĩa thì nhân cách đã bị tha hóa.
Nhân cách chính là bộ mặt tâm lý của mỗi con người cụ thể. Nhân cách là hệ
thống các thái độ của con người. Mỗi người phải có một bộ mặt tâm lý riêng,
bao gồm các thái độ riêng của từng người. Tâm lý của mỗi người đương
nhiên là phản ánh các đặc điểm tự nhiên, đặc điểm xã hội... Trong xã hội
chúng ta, diện mạo tâm lý riêng của một người phải nổi bật lên một nhân cách
công dân.
Nói cách khác, chúng ta xây dựng nhân cách của con người vừa có
đạo lý, vừa có nhân lý, vừa có công lý – một công dân có đặc điểm nhân cách
riêng của mình là mục tiêu của các nhà giáo dục. Cho nên, người ta nêu rõ
rằng, giáo dục tương lai là làm cho mỗi người đúng là một con người ở trong
xã hội, vấn đề cá tính rất quan trọng.
Trong công táo giáo dục, nhiều khi chúng ta đã làm cho học sinh mất cá
tính. Ai có nét gì khác người là thành vấn đề. Con người phải có cá tính,
nhưng cá tính đó không thể thoát ly khỏi xã hội. Do đó phải tập trung làm nổi
lên con người công dân. Khó có hy vọng xây dựng được một mẫu chung cho
tất cả mọi người. Mỗi người là một mẫu của chính mình, nhưng phải tuân
theo định hướng chung của xã hội, của cộng đồng, có những nét cá tính rất rõ
rệt, có bộ mặt tâm lý rất riêng biệt; có hệ thống thái độ đúng đắn với mình và
với xung quanh; đồng thời phải hết sức nhấn mạnh tính tích cực xã hội, đóng
góp cho xã hội.
Suy nghĩ về các tác phẩm của chủ tịch Hồ Chí Minh và về cuộc đời
hoạt động của Người, chúng ta thấy Bác là một tấm gương vĩ đại, sống và
chiến đấu để trở thành người và làm người, trở thành một nhân cách lớn. Bác
đã nêu cao tư tưởng: Nhiệm vụ của giáo dục trước hết là dạy học sinh, thế hệ
trẻ, các chiến sĩ, các sĩ quan thành người và làm người. Hệ tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng như toàn bộ đời hoạt động của Người đều có xuất phát điểm đầu
tiên là từ lòng thương yêu con người, đặc biệt thương yêu người nghèo khổ,
lầm than, nô lệ, gắn liền với sự tủi nhục trước cảnh "nước mất, nhà tan", với
lòng yêu nước nồng nàn. Hệ tư tưởng Hồ Chí Minh thấm đượm lòng nhân ái,
chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn. Và cả cuộc đời Người, từ hành vi đối xử
thường ngày với người xung quanh đến công việt lãnh đạo nhà nước, hoạt
động quốc tế, ở mọi nơi, mọi lúc đều toát lên tinh thần nhân văn, nhân tạo,
nhân ái vô cùng sâu xa và hết sức bình dị, gần gũi với mọi người, cảm hoá
được mọi người, mang lại một tác dụng to lớn cho cách mạng, cho dân tộc và
cho cả loài người. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh được thế giới tôn vinh là anh
hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa, người chiến sĩ và nhà lãnh đạo
lỗi lạc của phong trào giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân. Tên tuổi Hồ Chí
Minh gắn liền với sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng dân tộc, giải
phóng giải cấp.
Nhân cách Hồ Chí Minh là nhân cách Việt Nam tiêu biểu, được hun đúc
trong hệ thống giá trị truyền thống của mấy nghìn năm lịch sử hùng tráng,
quật cường, bất khuất, hy sinh và chịu đựng của dân tộc Việt Nam và xu thế
tự giải phóng của loài người. Nhân cách ấy đã có ảnh hưởng to lớn đến sự
hình thành và phát triển nhân cách ngày nay ở nước ta. Tinh thần Hồ Chí
Minh, nhân cách Hồ Chí Minh tạo ra sức mạnh tâm lý kỳ diệu. Hồ Chí Minh đã
và đang góp phần tạo ra diện mạo tâm lý hoàn toàn mới mẻ của cả mấy thế
hệ, suy rộng hơn, của cả một dân tộc, một thời đại. Chính đó là sức mạnh
giúp chúng ta giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và biết bao thành
tích kỳ vĩ khác.
Diện mạo tâm lý ấy chính là nhân cách với các hệ thống thái độ mang
một chất lượng mới, khác hẳn trước đó:
Thái độ với đất nước: "Tận trung với nước, tận hiếu với dân".
Thái độ đối với giá trị con người: "Ai giữ được đạo đức đều là người
cao thượng".
Thái độ đối với lao động: "Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn
sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Thái độ với bản thân: luôn luôn có tinh thần phê bình và tự phê bình;
"ham học, ham làm, ham tiến bộ"...
Nói về tư cách người cách mạng, trong tác phẩm Đường Kách mệnh,
Người viết:
Tự mình phải
Cần kiệm
Hoàa mà không tư,
Qủa quyết sửa lỗi mình
Cẩn thận mà không nhút nhát
Hay hỏi
Nhẫn nại (chịu khó)
Hay nghiên cứu, xem xét.
Vị công vong tư.
Không hiếu danh, không kiêu ngạo
Nói thì phải làm
Giữ chữ nghĩa cho vững
Hy sinh.
Ít lòng ham muốn về vật chất..
Bí mật
Đối người phải:
Với từng người thì khoan thứ.
Với đoàn thể thì nghiêm.
Có lòng bày vẽ cho người.
Trực mà không táo bạo.
Hay xem xét người.
Làm việc phải:
Xem xét hoàn cảnh kỹ càng.
Quyết đoán.
Dũng cảm
Phục tùng đoàn thể".
Trước đây, trong chương trình các môn học có cấu tạo chung là tri
thức, kỹ năng và thái độ. Ngày nay, các nhà nghiên cứu giáo dục trên thế giới
đề nghị xếp sắp lại cấu tạo đó theo trình tự ưu tiên: thái độ, tri thức, kỹ năng.
Vấn đề đang đặt ra hiện nay là, trong cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khi quy luật giá trị tác động
rõ rệt ở khắp mọi nơi, thang giá trị đang có biến đổi mạnh, kéo theo những
biến động mạnh trong nhân cách, trong hệ thống thái độ, chúng ta phải tiến
hành tác động vào định hướng giá trị của xã hội, giáo dục giá trị và định
hướng giá trị cho học sinh, cho thế hệ trẻ. Vấn đề là phải tạo ra một thang giá
trị lành mạnh, thước đo giá trị hợp lý, phát huy tính tích cực có lợi cho xã hội
và từng cá thể, tính năng động của cả cộng đồng và xã hội, giải phóng mọi
sức sáng tạo, mọi lực lượng sản xuất, tạo ra năng suất lao động cao ở mọi
lĩnh vực của đời sống, nâng cao hiệu quả của tất cả các hoạt động của mọi
người.
Giáo dục nhân cách là cốt lõi của công việc giáo dục cho thế hệ trẻ và
toàn xã hội cũng như giáo dục của từng cá thể. Giáo đục nhân cách là cốt lõi
của sự hình thành và phát triển con người: giáo dục là dạy và học làm người.
Con người, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, có cấu trúc nhân cách là đức và tài,
trong đó đức là nền tảng. Thành tố tài có tiểu cấu trúc là các năng lực. Thành
tố đức có các tiểu cấu trúc cơ bản là cần, kiệm, liêm, chính.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta hãy cùng nhau
một lần nữa làm cho nhân cách Hồ Chí Minh - nhân cách tiêu biểu Việt Nam
và tư tưởng tâm lý học nhân cách và giáo dục nhận cách của Người trở thành
hạt nhân trong thang giá trị của xã hội ta, định hướng giá trị cho mọi người,
phát huy các giá trị truyền thống dân tộc, tạo thành một sức mạnh mới, ý chí
mới.
Chúng ta hãy hết lòng, hết sức giáo dục con em thành người và làm
người với những đức tính:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn,
lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có tinh thần tích cực đóng góp cho xã hội, đoàn kết, phấn đấu vì lợi
ích chung. “...”
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống, văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước cộng đồng; có ý thức
bảo vệ và cải thiện môi trưởng sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,
năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình
độ thẩm mỹ và thể lực.
B. VỀ NHÂN CÁCH VÀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
PGS. TS. LÊ ĐỨC PHÚC
Từ trước tới nay, nhân cách với tư cách là hiện tượng tâm lý và xã hội
đã được nhiều người nghiên cứu trên những lĩnh vực khác nhau. Giới tâm lý
học ở Việt Nam cũng thường bàn về vấn đề này, ví dụ như: Nguyễn Ngọc
Bích, Phạm Hoàng Gia, Phạm Minh Hạc, Trần Hiệp, Hoàng Xuân Hinh, Đặng
Xuân Hoài, Bùi Văn Huệ, Đỗ Long, Nguyễn Đức Minh, Trần Trọng Thuỷ,
Nguyễn Quang Uẩn... Bên cạnh những bước tiến đáng ghi nhận, chúng ta có
thể thấy vẫn còn nhiều điều cần được tiếp tục làm sáng tỏ, nhất là khi nghiên
cứu theo yêu cầu và trong những điều kiện mới ở nước ta. Tuy nhiên, do đây
là một đề tài lớn, đang có nhiều nhóm chuyên gia khác nhau cùng thực hiện,
nên chúng tôi chỉ trình bày quan niệm về lý luận và phương pháp, góp phần
tạo ra sự định hướng hành động cụ thể, thống nhất.
1. Lý luận về nhân cách
Trước hết, hai câu hỏi cần được giải đáp là "Lý luận là gì?" và "Nên lựa
chọn lý luận như thế nào?".
Trong tiếng Việt, giới ngôn ngữ học định nghĩa “lý luận” là: “Hệ thống
những tư tưởng được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo
thực tiễn”. Còn theo M.H. Marxn, đó là những ý kiến nói về những mối quan
hệ giữa các quy luật, được gắn kết lôgic với nhau theo các quy tắc diễn dịch
nhất định và trật tự nào đó. Tôi lựa chọn hai trong nhiều định nghĩa khác nhau
đó để muốn chứng minh rằng: a) Lý luận còn được hiểu không giống nhau; và
b) Nếu không xuất phát từ nhận thức luận (là chủ yếu) thì khó phát hiện được
cái đúng hoặc cái sai, cái chưa tường minh trong từng định nghĩa. Cụ thể,
trong định nghĩa thứ nhất, hệ thống những tư tưởng phải phản ánh được các
quy luật và kinh nghiệm thực tiễn, bao hàm cả kết quả thực nghiêm khoa học.
Trong khi đó, định nghĩa thứ hai vừa không phù hợp với tâm lý học như tác
gỉa khẳng định trong ấn phẩm đã dẫn, vừa bỏ qua mối quan hệ với thực tiễn.
Vì thế, chúng ta có thể cho rằng lý luận là một hệ thống những tư tưởng phản
ánh các quy luật và những mối quan hệ giữa các quy luật, được khái quát từ
kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu khoa học, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn.
Việc đánh giá và lựa chọn lý luận diễn ra theo quan niệm và hình thức
khác nhau mà nhiều nhà nghiên cứu đã tổng kết như: theo trực giác, dựa vào
uy tín hoặc đa số, so sánh với những lý luận khác, v.v.. Tuy nhiên, rốt cuộc và
trên bình diện khoa học, người ta cũng đã đưa ra một số tiêu chí sau đây:
1. Tính nhất quán bên trong (internal consistency);
2. Tính nhất quán bên ngoài (external consistency);
3. Khả năng kiểm nghiệm (testability); và
4. Khả năng giải thích (explanatory power).
Trước khi xem xét vấn đề nghiên cứu hiện nay, chúng ta hãy điểm qua
một số quan điểm lý luận và thực tiễn khác nhau.
2. Khát quát lịch sử nghiên cứu nhân cách
Trong cuốn “Chủ nghĩa Mác và lý luận về nhân cách", ngay trong
những câu mở đầu chương IV, Lucien Seve có dẫn một câu của P.Janet như
sau: "Liệu con người đến một ngày nào đó có tạo rạ được những tiến bộ
tương tự trong thời gian như đã tạo ra được trong không gian hay không?.
Câu hỏi ấy thiết tưởng cũng có thể được nêu lại sau nhiều thập niên khi xem
xét tinh hình nghiên cứu, phát triển tâm lý học nhân cách ở nước ngoài. Song,
tự bản thân nó, việc giải quyết nhiệm vụ này là vô cùng phức tạp, khó khăn.
Theo nhận thức luận, vấn đề đầu tiên liên quan đến sự tồn tại (hay
không) của một khoa học bất kỳ là đối tượng hay phạm vi đối tượng của nó.
Đã có một thời, như L. Canestrelli thốt lên: “Nhân cách là một cấu tạo tinh
thần của chúng ta”, nhiều người cho rằng những vấn đề định nghĩa của tâm lý
học nhân cách dường như không chỉ là chưa được giải quyết mà còn là
không thể giải quyết nổi. Như thế, sự quan tâm đến nhân cách trước hết là ở
chỗ này.
Theo dòng lịch sử và loại trừ tâm lý học tư biện, người ta phải coi năm
1879, khi W.Wundt thành lập phòng thực nghiệm tâm lý học đầu tiên trên thế
giới, là cái mốc của sự phát triển tâm lý học hướng theo tinh thần khoa học.
Tuy nhiên, về nhân cách, W.Wundt và các học trò của ông đã đi theo cách
thức của thực nghiệm khoa học tự nhiên. Nhân cách mất đi sự thống nhất và
bị chia thành những bộ phận riêng lẻ thoát ly khỏi những điều kiện, hoàn cảnh
sống cụ thể, đa dạng của nó.
Khoảng hai thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, nhiều nhà tâm lý học, trên
cơ sở những tiến bộ mới trong tâm lý học, đã phê phán tâm lý học thực
nghiệm truyền thống và xác định những phương hướng mới. Thoạt tiên, đó là
sự khẳng định vấn đề nhân cách con người phải là trọng tâm của tâm lý học
và nhấn mạnh tính toàn vẹn, mối quan hệ đa dạng của nhân cách. Tuy nhiên,
đó mới chỉ là tuyên ngôn, còn trong thực tế, tâm lý học vẫn chưa có khả năng
bước hẳn qua được nhịp cầu trở ngại đó mà điển hình nhất là tâm lý học sai
biệt.
Những quan niệm của tâm lý học sai biệt khi nghiên cứu các quá trình
tâm lý chịu ảnh hưởng của tâm lý học thực nghiệm đại cương và đại diện của
nó là F.Galton với tác phẩm "Về những năng lực của người (1883) cũng như
W.Stern với công trình "Tâm lý học sai biệt và những cơ sở phương pháp của
nó" (1921). H.D.Schmidt đã tóm tắt nội dung tinh thần của xu hướng này như
sau:
- Tâm lý học sai biệt không phải là tâm lý học thực sự về cá tính mà chỉ
nghiên cứu những sự khác nhau chủ yếu của các chức năng và thuộc tính
tâm lý, do đó là cầu nối giữa tâm lý học đại cương với việc tìm hiểu các cá
tính về tâm lý học;
- Những sự khác biệt trong mỗi chức năng được quy về những hình
thức cơ bản. những “kiểu” nào đó hoặc được xem xét theo một thang bậc
lượng hoá chúng;
- Các đặc điểm của những chức năng riêng rẽ được nghiên cứu trong
“tương quan" tạo nên nguyên tắc tổng hợp chủ yếu nhất của tâm lý học sai
biệt;
- Tâm lý học sai biệt đã phát triển những phương pháp mà W.Stern giải
thích bằng sơ đồ cơ bản sau:
Theo W. Stern, tâm lý học phải được xây dựng trên cơ sở của thuyết
nhân cách coi đối tượng của nó là cá nhân, một chính thể sống động, cá thể,
độc đáo. Nhân cách chỉ là "cá tính toàn vẹn” ("Totale Individualitaet").
Tâm lý học sai biệt góp phần đáng kể vào sự phát triển phương pháp
luận và phương pháp trong việc so sánh đặc điểm, tương quan (ví dụ, trí
thông minh và điểm học ở nhà trường) của (hoặc giữa) cá nhân, nhóm được
nghiên cứu. Ảnh hưởng của nó còn lan rộng cho đến ngày nay. Tuy nhiên,
tâm lý học không coi đối tượng chủ yếu của mình là sự khác biệt tâm lý mà là
chính bản thân cái tâm lý. Mặt khác, so sánh chỉ là bước đi sau những quá
trình khác trong nghiên cứu. Và cuối cùng, không thể chỉ dùng loại chuẩn
trung bình thu được từ một tập hợp (population- dù manh tính đại diện) mà
không tính đến yêu cầu hoạt động thực tế.
Song, trong một thời gian dài, nhân cách lại được hiểu như là toàn bộ
các mặt bẩm sinh quy định hành vi diễn ra theo một phương thức nhất định
nào đó. Trước hết cần điểm lại những xu hướng sinh vật hoá, chú ý nhiều đến
đặc điểm hình thể, thể tạng hay giải phẫu - sinh lý, kiểu loại thần kinh,v.v.. Có
lẽ cũng vì thế, Ernst Kretschmer đã chia các nhà khoa học thành hai nhóm:
phần lớn các nhà triết học, thần học, luật học thuộc loại gày gò, mảnh khảnh,
trong khi đó, đa số bác sĩ, các nhà thực nhiệm khoa học tự nhiên lại thuộc loại
béo. W.H.Scheldon cũng quan niệm rằng giữa đặc điểm cấu tạo cơ thể
(tương đối không phụ thuộc vào giới tính) và những đặc điểm trong phạm vi
thuộc tính tâm lý có mối quan hệ với nhau. Ví dụ:
Các thành phần cấu tạo cơ
thể
Các thành phần tâm lý
Kretschmer
Leptosom (mảnh mai, dáng
mảnh khảnh)
Pycinc (béo, mập mạp)
Athletisch (lực lưỡng)
Nhạy cảm, hướng nội, căng thẳng giữa cái
tôi – môi trường, tự kỷ, kỷ luật, kín đáo…
Hồ hởi, hướng ngoại, sẵn sàng, vị tha, vui
tính, hào phóng, thích kết bạn, thích nghi với
hiện thực…
Chậm chạp, tập trung, chung thuỷ, dễ nổi
giận, ít nói, cứng nhắc…
Scheldon
Ectomorphic (dong dỏng cao,
mảnh dẻ)
Endomorphic (to béo)
Mesomorphic (vạm vỡ, thể
tạng trung bình)
Nhạy cảm, rụt rè, kín đáo hướng nội, tò mò,
ham hiểu biết dễ gợi dục tình…
Dễ chịu, hướng ngoại, khoan dung, cởi mở,
thích kết bạn…
Tích cực, hung hăng, ít nhạy cảm, cứng
nhắc, chung thuỷ, thiếu thận trong…
C.Lombroo, người đại diện cho cái gọi là trường phái Italia, thường giải
thích các hiện tượng xã hội bằng các yếu tố sinh học cũng đã từng bị G.Tarde
phê phán vì lẽ đó.
Theo xu hướng này và chịu ảnh hưởng của thuyết phản xạ có điều kiện
(Bechteren, Paplov), chủ nghĩa hành vi nổi lên như một trường phái tâm lý có
ảnh hưởng nhất vào đầu thế kỷ XX với Watson, người sáng lập và các đại
diện của nó là G.M.Mead, E.L.Thorndiker, E.C.Tolman, C.L. Hull, K.S.Lashley,
E.R.Guthrie. Có thể coi tuyên bố “tâm lý học là khoa học về hành vi” của
Wastson là cương lĩnh của phái này. Hành vi được hiểu như những cả động
đáp lại của cơ thể đối với kích thích của môi trường. Như X.L.Rubinstein phê
phán, đây quả là một thứ “tâm lý học phi tâm lý”.
Vấn đề chủ yếu ở đây còn là trong tâm lý học hành vi, người ta đã hoặc
phủ nhận ý thức với tư cách là đối tượng của sự nhận thức khoa lọc
(Watson), hoặc quy ý thức vào các quá trình sinh lý (Lashley). Sở dĩ như vậy
vì, như Watson tự giải thích, tâm lý học hành vi ra đời trực tiếp từ những công
trình nghiên cứu về hành vi của động vật. X.L. Rubinstein nhận xét rất đúng
là: "Việc quy các hình thức cao cấp của hoạt động con người vào một tổng số
máy móc hay một tập hợp các phản ứng cơ bản, những phản xạ dẫn đến chỗ
làm mất đi tính độc đáo về chất của nó".
Khi đề cập những vấn đề cơ sở nhận thức luận của tâm lý học tri giác,
N.Bischof chia chủ nghĩa hành vi thành ba nhóm:
a) Chủ nghĩa hành vi dung tục (vulgar) coi hành vi là đối tượng nhận
thức, phủ nhận cái tâm lý. Do đó, việc nghiên cứu nhân cách theo Watson chỉ
là nghiên cứu hệ thống các thói quen tạo thành nhân cách;
b) Chủ nghĩa hành vi phương pháp luận (methodological) cũng xuất
phát từ hành vi, coi đó là đối tượng nhận thức. Chủ nghĩa này, không loại trừ
sự tồn tại của các hiện tượng tâm lý nhưng lại cho rằng không thể nào hiểu
biết chúng một cách khoa học. Với công thức R-f (S), trong đó R là hành vi và
S là kích thích nhân cách, đối với Skinner, chỉ là một thực thể hoàn toàn được
điều chỉnh từ bên ngoài;
c) Chủ nghĩa hành vi lôgic, hiện là một trường phái nổi bật, cũng quan
niệm hành vi là đối tượng khởi đầu nhưng không nhìn nhận các hiện tượng
quan sát thấy và đo được là biểu hiện của tâm lý dù tồn tại thực tế, khách
quan.
K.Holzkamp, một đại diện của tâm lý học phê phán, cũng như A.
Kossakowski đều phê phán bệnh quy rút về hai mặt đó. Nếu con người chẳng
khác gì cơ thể động vật thì cái xã hội đã bị quy thành cái sinh học. F.Klix nhận
xét cả chủ nghĩa hành vi mới cũng chỉ là một sự mở rộng chủ nghĩa hành vi
ban đầu, chưa khắc phục được phương hướng sai lầm về phương pháp luận
khi giải thích các hiện tượng và quy luật tâm lý.
Các nhóm khác nhau của chủ nghĩa hành vi nói trên có ảnh hưởng
không ít đối với cả những nhà tâm lý học có tên tuổi. Eysenok thể hiện rõ màu
sắc của chủ nghĩa hành vi lôgic với công thức "S - O – R”: Cattell, Guilford
đều coi hành vi là tâm điểm của tâm lý học nhân cách, thậm chí Cattell còn
gọi tâm lý học của ông là "tâm lý học hành vi” và các khái niệm có liên quan
tới ý thức như "hứng thú” hay “tức giận” đều phải được định nghĩa bởi biểu
hiện của chúng trong hành vi hay sinh lý.
Chủ nghĩa nhân cách (Personalism) gắn liền với tên tuổi của W.Stern
(1871 - 1938), người muốn tạo ra sự tổng hợp giữa những thành tựu thực
nghiệm và khoa học tinh thần trong tâm lý học, đã coi nhân cách là hội điểm
của yếu từ bên trong (di quyền) và yếu tố bên ngoài (môi trường). Do đó, chủ
nghĩa nhân cách còn được gọi là thuyết hội tụ (Konvergenztheorie), được
minh họa trong một mô hình cơ học, máy móc
Theo tinh thần của nó, môi trường chỉ có ý nghĩa bổ sung và là sự tiếp
tục của cái di truyền. Màu sắc nội sinh (endogenese) cũng không mấth khi về
sau, nó được thay thế, cải tiến bằng một công thức khác: di truyền x môi
trường.
Trong tâm lý học theo chủ nghĩa nhân cách, “cá nhân” trở thành một
khái niệm trừu tượng, siêu hình, tách khỏi nhân cách mang tính lịch sử, cụ thể
của con người. Cá nhân không chỉ được xem như con người xã hội mà còn là
cơ thể, tế bào, các vật thể vô cơ và thậm chí là nhân dân, thế giới, chúa trời.
Tuy nhiên, cũng phải thấy rõ những đóng góp của W.Stern khi chủ
nghĩa nhân cách muốn khắc phục mặt yếu kém của chủ nghĩa hành vi, một
thứ tâm lý học phi linh hồn để tạo nên “một khoa học về cá nhân trải nghiệm
và có khả năng trải nghiệm”
Nhân học văn hoá (Culturanthropology), một xu hướng nghiên cứu phát
triển chủ yếu ở Mỹ. Xu hướng này được nhắc tới ở đây vì những quan niệm
đề cao khái niệm “văn hoá” của R.Benedict, B.Malinowski, nhất là của M.
Mead. Ngay từ những năm 1940, R.Linton đã phê phán sự xa rời bản chất và
vai trò của con người. Và sau này, ngay cả G.Allport, nhất là A.N.Leonchiev
trong cuốn Hoạt dộng – Ý thức – Nhân cách còn chỉ rõ các nhà tâm lý học
nghiên cứu cá thể với tư cách là nhân cách, trong khi đó, văn hoá chỉ là đối
tượng của sử học và xã hội học. C.N. Cornilov và cả L.Seve cũng thường
được coi là những người đại diện cho trường phái xã hội hoá này. Trong tác
phẩm đã dẫn, L.Seve coi "nhân cách là hệ thống sinh động của những quan
hệ xã hội giữa các phương thức hành vi, nhấn mạnh đó là "cơ sở chung, đầy
đủ nhất để xem xét những mặt cơ bản khác nhau của đời sống cá nhân".
Dựa theo những số liệu của dân tộc học, nhân học văn hoá đã đi đến
một kết luận phản tâm lý, sai lầm rằng các đặc điểm tâm lý cơ bản được quy
định bởi văn hoá chứ không phải bởi bản chất con người (A.N.Lêonchiev).
Mối quan hệ giữa "văn hoá" và "cá nhân đã có lúc được trình bày đơn giản
như sau: Sự phát triển cá nhân được quy định bởi những thói quen chăm sóc
thời thơ ấu của cha mẹ. Những thói quen đó được xem như “những thiết chế
cơ sở", được điều chỉnh bởi những chuẩn mực nhất định phản ánh cả những
điều kiện kinh tế. Nhưng những điều kiện kinh tế chỉ là những khả năng có thể
tác động tới những thói quen như vậy. Và có những yếu tố quyết định của
giáo dục cũng trở nên mờ nhạt trong vai trò “chuẩn bị" cho sự phát triển của
"nhân cách cơ sở” (Basic personality).
Trong những năm gần đây, sự so sánh giữa các nền văn hoá được
tăng cường do bản thân tầm quan trọng của vấn đề, nhưng mặt khác còn do
sự mở cửa của các quốc gia, sự xuất hiện không ít những vấn đề mang tính
toàn cầu. Chẳng hạn, nhiều người trong Câu lạc bộ Mensa, một tổ chức quốc
tế hiện có trên 100.000 người ở trên 100 nước, khi nghiên cứu về trí thông
minh đã kết luận: trí thông minh do văn hoá quy định. Ở nước này, đặc điểm
nổi trội có thể là tư duy phaant ích, ở nước khác lại là tư duy liên tưởng, v.v..
Song, như J.Mathes viết: "Sai lầm tư duy gây nên tình trạng tiến thoái
lưỡng nan là do quan niệm cho các nền văn hoá là những thực thể có những
đặc điểm độc đáo và con người không phải là cái gì khác hơn là những người
mang những đặc điểm văn hoá đó”.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, tâm lý học nhân cách ở
các nước phương Tây cố gắng vượt qua những sai lầm, hạn chế trong quan
điểm lý luận – phương pháp luận và cách làm của mình. Tuy nhiên, chỉ căn
cứ vào những cuộc thảo luận và một số công trình xuất bản trong những năm
1960 và 1970, ta cũng có thể thấy rõ sự hình thành của hai xu hướng đối lập
cơ bản. Nói như H. Keuhn và K.Junghaenel, đó là xu hướng mô tả cái riêng
biệt, độc đáo, độc nhất vô nhị trong nhân cách và xu hướng đi tìm các quy
luật.
Xu hướng thứ nhất trở nên phổ biến đặc biệt ở Mỹ, Đức và Pháp, song
cũng có ảnh hưởng ngày càng nhiều ở Bỉ, Ôxtrâylia, Hà Lan, Thuỵ Sĩ, Italia,
Áo, Tây Ban Nha, Nhật Bản, thậm chí cả Nam Mỹ. Những đại diện có uy tín
nhất là Thomas, Lersch, Arnold (Đức), Allport, Ch.Buhler, Maslow, Rogers,
May (Mỹ), Nuttin (Bỉ)
Stanford, Rogers Và Maslow coi đây là "lực lượng thứ ba", là tâm lý học
nhân văn và đi theo thuyết hiện tượng - hiện sinh. Roger còn nhận xét đây là
“dòng thống trị” có những tác động quan trọng đối với tâm lý học hiện đại
Lý luận nhân cách của Thomae thường được đánh giá là kinh điển đối
với những ai học và nghiên cứu tâm lý học ở Đức và tại nhiều nước khác.
Theo ông, đối tượng nghiên cứu nhân cách là cá nhân độc đáo và thế giới trải
nghiệm của nó. Thomae coi nhân cách là khái niệm bao hàm tất cả các sự
kiện hợp thành một tiểu sử cá nhân, còn bản chất của con người, của nhân
cách và cá tính là những phương thức phản ứng độc đáo vốn có tự phát ở cá
nhân đối với một trải nghiệm mà ông đánh đồng một cách sai lầm với cuộc
sống hay sự tồn tại thực dụng nhất. Như vậy, Thomae đã quy rút bản chất
thực sự của con người thành một hình ảnh chủ quan mà nhũng cơ sở khách
quan của nó đã được tạo lập trong mỗi cả nhân. Nhân cách là "cá nhân và
phản ứng độc đáo của nó” và cá tính là "bí mật của tất cả mọi sự tồn tại”.
Tương tự như Thomae, Lersch đề cao "sự biểu hiện cá nhân của mỗi
người”. Arnold xây dựng quan niệm về nhân cách dựa trên triết học: “Nhân
cách là một tồn tại cá nhân nhất định, độc nhất vô nhị, không thể phân chia,
được đặc trưng bởi sự thể hiện tính cách do tư chất và môi trường tạo ra”.
Ông giải thích thêm: “Nhân cách thể hiện mối quan hệ siêu việt của con
người” và cho rằng nhân cách xuất hiện khi một người hướng theo các lý
tưởng nhân văn trái với đám đông quần chúng chỉ là các “cá nhân” và hướng
theo chủ nghĩa vật chất. Có thể nói, Arnold đã đại diện cho cả thuyết nội sinh
và tinh hoa bảo thủ.
Nuttin đem lại cho xu hướng chung một màu sắc mới khi định nghĩa cá
nhân là “một chỉnh thể cấu trúc hoá của những ý kiến, niềm tin, thái độ, định
kiến, sự ưa thích, thiện cảm và kinh nghiệm”. Đối với Nuttin, thế giới khách
quan tồn tại trước hết với tư cách là “thế giới cá nhân”. Sự phát triển nhân
cách diễn ra bởi các lực lượng ngẫu nhiên bên trong mỗi cá nhân. Còn về sự
phát triển cá tính, Nuttin chia thành hai bậc: a) “Cá tính sinh học của sinh vật”
và b) “Cá tính tâm lý xã hội”. Tầng bậc thứ ba nằm ở trên đó là “tầng bậc nhân
cách”. Sự phân tầng như thế dẫn đến chỗ tách biệt các cấp độ phát sinh trong
tổ chức tâm lý – sinh lý của nhân cách.
Ch.Buehler, nữ đại diện chủ yếu của tâm lý học nhân văn, xác định bản
chất con người là “một cái gì sâu thẳm ở bên trong, không thể nào định nghĩa
được”, “cái tự thân” – “hệ trung tâm luôn luôn có trong phôi thai ngay từ lúc
bắt đầu cuộc sống cá nhân”, điều khiển các giá trị của cá nhân. Nhân cách
của một cá nhân được xem xét qua sự độc đáo đó. Bà chia ra bốn xu hướng
cơ bản của nhân cách: thoả mãn nhu cầu, thích nghi tự giới hạn, bản thân
bộc lộ sáng tạo, duy trì trật tự nội tại. Đó là sự mở rộng mô hình của Freud.
Rõ ràng, nhân cách và con gười ở đây là một cái gì trừu tượng chứ không
phải là con người thực trong những điều kiện xã hội. Còn cội nguồn của tâm
lý trở thành kẻ tích cực tạo ra sự tồn tại của bản thân. Và theo dòng suy tư
nhất quán ấy, các nhu cầu của con người chỉ còn là tính dục, tình yêu và sự
thừa nhận cái “Tôi”.
Xu hướng thứ hai có thể được giải thích bằng tuyên ngôn của
Herrmann: "Chúng tôi coi việc nghiên cứu nhân cách mang tính kinh nghiệm
là xu hướng hoạt động tâm lý học không đòi hỏi phải có những phát biểu về
bản chất”. Ông cho nhân cách là "một cấu tạo rất chung mà việc xác định khái
niệm cuối cùng của nó có thể nằm ở cuối chứ không phải ở đầu giai đoạn
nghiên cứu nhân cách. Do đó, các giai đoạn nghiên cứu thường là: quan sát
(đo đạc) -> xác định mô tả -> giải thích bằng những chút tạo theo giả thiết".
Herrmann quan niệm nhân cách, cũng như những đặc điểm của nó, không
mang tính thực tế khách quan mà chỉ là một "sản phẩm trừu tượng” của tâm
lý học, một “khái niệm diễn giải lý thuyết", "một cấu tạo lý luận chung" mà thôi.
Chính vì thế, chiến lược nghiên cứu nhân cách phải bỏ qua cái riêng của mỗi
cá nhân để đi tới những quy tắc, những khái quát hoá, những quy nạp trừu
tượng. Nhưng trong thực tế, không thể tiếp diễn con đường duy tâm chủ quan
và vô căn cứ như vậy.
Hệ thống khái niệm của Herrmann bao gồm cả “môi trường”, được chia
thành hai loại: môi trường vật chất và môi trường học tập". Loại môi trường
sau được đồng nhất với môi trường kích thích", "môi trường thông tin", "môi
trường số liệu”. Trong môi trường đó, cá nhân là một hệ thống tiếp nhận, xử lý
và học tập, thông tin (Hình 2).
Chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hành vi trong xu hướng này là Cattell.
Trong tác phẩm nổi tiếng nhất của mình, ông định nghĩa "nhân cách là hành vi
của một người trong một tình huống nhất định". Công thức theo đó là R = f
(S,P) với nghĩa R = hành vi, S = kích thích, và P = nhân cách. Cattell dùng
cách phân tích các yếu tố để tìm ra cấu trúc thứ bậc của các nét nhân cách
(traits). Cấu trúc tiên nghiệm của Cattell bao gồm những lớp như sau: kỹ năng
và kỹ xảo, các nét tính cách, bản năng và động cơ, tâm thế và thái độ, các
đặc điểm của vai trò, các trạng thái biến đổi tạm thời.
Guilford nêu lên một khái niệm chung, trừu tượng về nhân cách khi xem
nhân cách của một cá nhân là "cấu trúc độc đáo của các nét cơ bản”, xuất
phát từ tiền đề “mọi nhân cách riêng biệt đều độc nhất vô nhị”. Ông sử dụng
một sự phân loại khác Cattell: Các nét giải phẫu chủ yếu, các nét sinh lý chủ
yếu, các nét tạo động cơ chủ yếu (nhu cầu, hứng thú, tâm thế), sự phù hợp
của các năng lực, các nét khí chất.
Mô hình của Guilford và Cattell, như G.Witzlack nhận xét, tập trung chủ
yếu vào những đặc điểm hành vi cá nhân, nhờ đó có thể phân biệt nhanh
chóng một cá nhân cụ thể với mọi người khác trong nhóm so sánh theo tinh
thần tâm lý học sai biệt nhưng đã bỏ qua yêu cầu xã hội trong hoạt động thực
tế.
Eysenck chú ý tới những lý luận về nhân cách vì cho rằng "các lý luận
về nhân cách là một sự bổ sung quan trọng cho hành vi trị liệu và làm cho
nhiều sự thật do nghiên cứu mới đây đem lại có thể giải thích được". Nhân
cách được ông quan niệm như là một "tổ chức mang tính ổn định ít hay nhiều
của tính cách, khí chất, trí tuệ và sinh lý củi cá nhân, quy định tính độc đáo
của sự thích nghi đối với môi trường của nó”.
Eysenck đã xây dựng cấu trúc nhân cách tương tự như các nhà tâm lý
học đi theo xu hướng phân tích các yếu tố. Nhưng khi xét các mặt nhân cách
quan trọng nhất, yếu tố di truyền, đặc biệt nổi bật ở Eysenck, người ta thường
chú ý đến hai điểm trong mối quan hệ giữa lý luận và phương pháp.
Thứ nhất, đó là quá trình tiến hành phương pháp phát hiện cấu trúc tâm
lý của nhân cách.
- Ở mức thấp nhất, người ta tìm hiểu những phản ứng đối với kích thích
có thể tiêu biểu cho một cá nhân này không;
- Trong bước thứ hai, các phản ứng theo thói quen (habits) là đối tượng
chú ý cùng với xác suất xuất hiện của chúng,
- Bước thứ ba, các phản ứng thể hiện trong những test khác nhau của
cá nhân được so sánh tương quan với nhau và phân tích theo các yếu tố.
Các yếu tố nhóm sẽ là những nét cơ bản của nhân cách;
- Bước thứ tư, kiểm tra xem có thể quy các “nét” nào vào một kiểu
chung hay tìm cái gọi là yếu tố G. Năm 1953, Eysenck đề xuất “cơ cấu một
mô hình toán học về tổ chức nhân cách và rút ra những giả thiết có thể kiểm
tra được của mô hình này bằng phương pháp giả thiết – diễn dịch”. Đây chỉ là
sơ đồ áp dụng cho kiểu hướng nội (introversion). Ba kiểu khác, hướng ngoại,
ổn định và không ổn định cũng được xem xét như vậy.
K. Pawlik, G.Witzlack, H. Thomae đã phê phán Eysenok ở một số điểm
cơ bản như: a) Hệ thống của Eysenok chỉ có tác dụng phân loại cá nhân một
cách đại thể về một số ít mặt chưa đủ đối với nhân cách trong hiện thực da
dạng, phong phú; b) Việc sử dụng các mô hình toán học chưa cho phép
khẳng định có thể phản ánh nhân cách chính xác; c) Những sai lầm về
nguyên tắc của lý luận truyền thống về test vẫn thể hiện trong phân tích các
yếu tố; d) Việc quy hành động thành hành vi theo chủ nghĩa hành vi khiến
không thể giải quyết được vấn đề tâm lý trong thực tiễn.
- Vòng tròn trong trình bày bốn loại khí chất theo Hippokrates và Galen;
- Vòng tròn ngoài ghi các chiều đo của Eysenok.
Như vậy, mỗi cá nhân đều được xác định đặc tính thông qua vị trí của
mình trong hệ thống hai chiều. Sự khủng hoảng tiếp tục diễn ra trong tâm lý
học tư sản. Có nhiều cách trình bày và bình luận như của M.Jaroschewski
(Tâm lý học trong thế kỉ XX); L.L.Bogiovich (Nhân cách và sự phát triển nhân
cách ở tuổi học sinh), L.Seve (Chủ nghĩa Mác và lý luận về nhân cách), H.
Keuhn và K. Junghaenel (Tâm lý học nhân cách tư sản trong khủng hoàng),
v.v… Ở đây, chúng ta hiểu thêm sự phân loại, đánh giá của H.D.Schmidt theo
ba loại mô hình cơ bản.
1. Các mô hình thực hiện đề cao những động lực bên trong như nguồn
gốc hoặc mục tiêu của sự phát triển nhân cách. Trong quá trình sinh sống,
các động lực được hình thành sẵn sàng phát triển theo một dạng thức biến
thể, có dấu ấn rõ nét hơn. Theo S.R.Maddi, những người sáng lập các mô
hình này là Rogers, Maslow, Adler, Allport, Fromm và những người khác
Theo Rogers, người đã từng giữ chức vụ Chủ tịch Hội các nhà tâm lý
học Mỹ từ năm 1946 đến năm 1947, cá nhân là một sinh vật luôn cố gắng duy
trì tăng cường và hoàn thiện các cơ quan của mình để tri giác và vận động.
Nhân cách là phần phân hoá của trường hiện tượng chung, nghĩa là bộ phận
kinh nghiệm của cá nhân, hạt nhân hay cốt lõi của nó. Nhân cách xuất hiện
trong quá trình phát triển của cá nhân, thống nhất trong bản thân sự tự ý thức
về nó, kinh nghiệm và sự tồn tại của nó. Quá trình “tự hiện thực hoá” được
mô tả như sau:
“Theo quan niệm của tôi, cá nhân có xu hướng hiểu biết và sẵn sàng
trở thành cái mang tính nội tại và có thực… Nó ngày càng lắng nghe tới
những tầng sâu thẳm nhất của bản chất sinh lý và xúc cảm của nó, và ngày
càng phát triển tinh thần sẵn sàng… thực hiện cái bản ngã”
Rõ ràng, xu hướng này được gọi là “tâm lý học nhân văn” coi cá thể là
trung tâm
Tinh thần đó, cơ chế tâm lý của sự phát triển nhân cách mang nặng
màu sắc tự thân, còn thể hiện ở việc coi trọng vai trò của nhu cầu và nhất là ở
sự phân định thứ bậc của chúng.
Khác với Rogers và Maslow khi chú ý đến nguyên tắc thống nhất của
nhân cách (đối lập với sự phân chia ra "cái Nó”, "cái Tôi" và "cái siêu tôi"),
Adler công nhận vai trò của cái xã hội nhưng vẫn xem nhân cách như là sản
phẩm của sự tác động bản thân của cá nhân, được kích thích bởi sự khắc
phục tình trạng khang được che chở an toàn trước thế giới bên ngoài, khắc
phục sự thấp kém của mình và cố gắng tự khẳng định bằng cách giành lấy sự
thống trị những kẻ khác.
Allport cũng đưa kiểu tư duy theo mục đích luận vào tâm lý học nhân
cách: Chẳng hạn, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân cách và chủ nghĩa
hiện sinh, Allport đã viết: "Có một xu hướng trong số các tác giả theo chủ
nghĩa hiện sinh được nêu lên có Kierkegaard, Jaspers, Sartre, Nuttin,
Glodstein) là tìm kiếm một vấn đề chủ định (intentional) cơ bản trong đời sống
con người… Trong bản chất của nó, con người là bất ổn và đầy sợ hãi; con
người mong muốn cả sự an toàn lẫn tự do”. Theo Allport, cốt lõi của bản chất
con người, cái quy định nhân cách là cái tự thân của cá nhân. Cái tự thân
(hay còn được gọi là “cá tính cá nhân”) là dấu hiệu chủ yếu nhất của bản chất
con người. Đó chỉ là cách nói khác đi so với tinh thần định nghĩa vào năm
1905 của Klages: “Nhân cách là… cái tự thân cá nhân”
Lý luận của Allport dựa trên quan niệm về “những động cơ tăng trưởng”
vốn có ngay từ đầu ở mỗi cơ thể người. Allport nêu lên bốn tiêu chuẩn làm
căn cứ:
a) Vật chất cũng như năng lượng đều có đường vào và đường ra;
b) Các trạng thái tự điều chỉnh liên tục xuất hiện và được duy trì làm
cho hình thức và trật tự nội tại không bị rối loại nghiêm trọng nhờ sự xuất hiện
của năng lượng bên ngoài;
c) Nói chung, trật tự tăng lên theo thời gian vì tính phức hợp và phân
hoá của các bộ phận ngày một tăng;
d) Ít nhất là trên cấp độ con người cũng có một sự “thoả hiệp”
(transaction) với môi trường xung quanh.
Với Allport, con người, nhân cách không phụ thuộc vào các quan hệ xã
hội và do đó, khái niệm “transaction” cũng không khác gì khái niệm “reaction”
của chủ nghĩa hành vi vì như F.Klix phê phán, Allport chỉ nhìn mối quan hệ
qua lại giữa hệ thống cơ chế với điều kiện bên ngoài qua vật chất và năng
lượng.
2. Các mô hình mâu thuẫn (conflict). Điểm đồng nhất chung cho những
mô hình này là quan niệm coi cuộc sống, sự trải nghiệm và phát triển của cá
nhân trước hết là nơi diễn ra hoặc kết quả của sự tác động qua lại của các
động lực xung đột, mâu thuẫn với nhau. Freud, Murray, Sullivan, Rank, và
Jung được nhắc đến như những đại diện của xu hướng này. Như đã nói trong
phần trước, phân tâm học đề cao cái vô thức, cơ chế của vô thức, dục vọng,
sự hình thành nhân cách với "cái Nó", "cái Tôi" và cái siêu Tôi”. Các phe bảo
thủ trước cái mới, cái lạ cũng như những nhà khoa học cấp tiến, mác xít tiểu
phê phán phân tâm học. Gần đây nhất, tờ Le Nouvel Observateuuuur còn
tổng kết 10 cuộc đua tranh giữa sinh lý học thần kinh và phân tâm học (giấc
mơ, nói nhịu, libido (tình dục), vô thức, nụ cười-đầu tiên, trầm cảm, hysteria,
tâm thần phân liệt, tự kỷ, chữa khỏi bệnh) với kết quả bất phân thắng bại. Tuy
nhiên, điều cơ bản ở đây là hình ảnh con người, nhân cách mang tính sinh
học nặng nề.
Theo H.D.Schmidt, mô hình mâu thuẫn của Freud có bốn nguồn gốc
liên quan đến hoạt động khoa học của ông:
(1) Ảnh hưởng của tư duy sinh lý học và vật lý ở cuối thế kỷ trước;
(2) Khi làm tâm lý trị liệu, ông hiểu các hiện tượng thần kinh không phải
là những rối loạn cơ thể mà là những rối loạn chức năng, có liên quan đến
những trải nghiệm dồn nén có căn nguyên của chúng trong vô thức;
3) Freud cho rằng những rối loạn thần kinh chắc chắn và trước hết có
liên quan đến những vấn đề tính dục của bệnh nhân;
(4) Nguồn gốc thứ tư được lý giải trong môi trường xã hội. Thomas
Mann đã nói đến ảnh hưởng của triết học hiện sinh và thuyết phi lý khi tiếp
xúc với các cá nhân và bệnh nhân thuộc tầng lớp tư sản quyền thế.
3. Các mô hình kiên định (consistency). Cơ sở của mô hình này là sự
tương tác thường xuyên giữa cá nhân với môi trường bên ngoài. Trong quá
trình ấy, cá nhân thu thập kinh nghiệm cả về mặt nhân thức, kỹ năng cũng
như về phương diện cảm xúc. Tuy nhiên, nhiều khi, giá trị cần có không
tương đồng với giá trị hiện có nên cá nhân phải giảm bớt hoặc tăng cường
hoạt động của mình. Kiểu mô hình này phù hợp với tinh thần của lý thuyết lý -
sinh về cân bằng hay thuyết điều chỉnh cibecnetic. Và do những sai lệch, khác
nhau tạo thành yếu tố thúc đẩy hành động và phát triển nên không thể xếp
các mô hình này vào số những mô hình mâu thuẫn.
Hiện nay có hai loại mô hình kiên định. Loại thứ nhất do Kelly và Mc.
Clelland chủ xướng, coi những sai lệch khác nhau về nhận thức là nguồn gốc
của các hành động cá nhân. Loại thứ hai do Maddi đại diện, tập trung chú ý
vào những sự khác biệt động cơ và hoạt động.
Đối với Kelly, con người là một nhà khoa học theo nghĩa rộng nhất của
từ nay. Con người luôn tìm tòi, nhận thức, giả định, kiểm chứng, biến những
gì đã khẳng định thành hệ thống tri thức của mình. Kelly thấy có thể mô tả
được nhân cách bằng "những cấu tạo cá nhân” tương đối ổn định, nghĩa là
cách thức dùng kinh nghiệm bản thân để mô hình hoá hiện thực.
Mc.Clelland đã nghiên cứu nhiều về loại được gọi là động cơ tạo nên
thành tích. Chằng hạn, ông đã sử dụng một hệ thống tự đề ra để phân tích nội
dung bài vở đối với văn học dân gian và sách giáo khoa ở các nước khác
nhau, trong những giai đoạn lịch sử khác nhau và rút ra kết luận là những
biến đổi trong tâm lý con người, cả trong động cơ, không được tạo nên bởi
nhũng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội mà ngược lại, bản thân động cơ
chính là động lực tiên quyết của sự tiến bộ kinh tế. Đó là một sai lầm điển
hình khi thiếu một cơ sở khoa học về bản chất tâm lý và nhân cách.
Trong khi đó, Maddi xây dựng một lý thuyết hoạt động mà theo đó, cá
nhân sẽ đạt tới một trình độ tiêu biểu, đặc trưng cho nó trong quá trình phát
sinh cá thể theo một cơ chế điều hoà tạo nên sự cân bằng, khắc phục sự
khác biệt giữa trình độ nói trên và phạm vi mức độ, cường độ ý nghĩa cũng
như sự đa dạng của kích thích.
Khi xem xét, phân tích các nét riêng và chung của các xu hướng và mô
hình đã trình bày, năm 1937, Allport đã lập bảng so sánh những lý luận về
nhân cách của châu Âu và Mỹ sau đây:
Các thuyết châu Âu nhấn mạnh Các thuyết của Mỹ nhấn mạnh
- Các tư chất bên trong
- Các điều kiện thể tạng
- Kỹ năng có cấu trúc của nhân cách
- Sự tương đối độc lập với xã hội
- Tính tương đối không thay đổi của
nhân cách
- Hành vi bên ngoài
- Các đặc điểm bề ngoài
- Các thành phần vận động của hành
vi
- Các quan hệ giữa người với người
- Tính có thể thay đổi của nhân cách
Nhưng đó chỉ là bức tranh quá khứ. Tâm lý học ở các nước phương
Tây có trình độ phát triển cao đang cố gắng tự vượt mình. Mặc dù còn những
hạn chế trong quan niệm về nhân cách trong những mối quan hệ với xã hội,
với ý thức hệ, niềm tin..., người ta đã chú ý nhiều hơn tới khía cạnh nhân văn,
tới việc phải xem xét lại bản chất của nhiều khái niệm có liên quan đến nhân
cách, đi sâu nghiên cứu nhân cách ở cấp độ hành động thường ngày.
Trong lịch sử tâm lý học nhân cách, tâm lý học mác xít và tâm lý học
Xôviết trước đây luôn giữ một vị trí quan trọng. Cho đến nay, cùng với những
thành tựu của nhiều nước xã hội chủ nghĩa Đông âu cũi và nhiều dòng tiến bộ
khác, xu hướng này đã và vẫn tạo nên những cơ sơ và bước tiến đáng kể
trong nghiên cứu về nhân cách.
Qua thời gian, tâm lý học mácxít đã khẳng định được những quan điểm
cơ bản có ý nghĩa lý luận và phương pháp luận chỉ đạo chung cho hoạt động
nghiên cứu con người và nhân cách.
Con người được quan niệm là một thực thể xã hội và do đó, nhân cách,
về nguyên tắc, được quyết định bởi xã hội.
Như vậy, những tiền đề sinh học của sự tồn tại con người chỉ là những
khả năng, cơ sở xuất phát của sự phát triển và khác biệt của nhân cách. Đó
là tư tưởng khắc phục các quan điểm sai lầm, phiến diện như thuyết bẩm sinh
(nativisme) (chẳng hạn như những sự phân loại bắt đầu từ Hippokrates cho
đến Kretschmer, Eysenok, hay trường phái Pavlov), cách lý giải phi lịch sử
(J.Lersch), các xu hướng xã hội hoá tâm lý học (Malinowski), M.Mead và cả
Kornilov, L.Seve).
Người đề xuất đầu tiên nguyên tắc này là Vưgôtxki với "Tư duy và ngôn
ngữ" (1934) và trước nữa, “Ý thức với tư cách là vấn đề của tâm lý học hành
vi” (1924). Và tiếp theo là “Những vấn đề của tâm lý học đại cương” (1940),
“Những nguyên tắc và con đường phát triển tâm lý học” (1959). Từ đó, như
A.N.Leonchiev đánh giá, người ta bắt đầu coi tâm lý của con người, học
thuyết tâm lý học cụ thể về ý thức như là hình thức cao nhất của sự phản ánh
hiện thực cũng như học thuyết về hoạt động và cấu trúc của nó dưới góc độ
lịch sử.
A.N.Leonchiev, qua những công trình nghiên cứu về hoạt động, hoạt
động có đối tượng, hoạt động và nhân cách, đã tạo điều kiện cho các nhà tâm
lý học hiểu rõ bản chất, sự hình thành và phát triển nhân cách đúng đắn hơn.
Ở đây, cần chú ý tới một số quan điểm sau:
- Nhân cách không phải là một chỉnh thể bao gồm tất cả đặc điểm của
con người – “từ những quan niệm chính trị và tôn giáo cho tới sự tiêu hoá”
- Từ “nhân cách” chỉ được dùng cho người và chỉ bắt đầu từ một giai
đoạn phát triển nào đó. Nhân cách là một sản phẩm tương đối muộn của sự
phát triển lịch sử xã hội và phát sinh cá thể của con người.
- Cả nhân cách lẫn cá nhân đều là một sản phẩm tương tác của các
quá trình thực hiện các quan hệ sinh sống của chủ thể. Con người trở thành
nhân cách khi là chủ thể của các quan hệ xã hội
X.L.Rubinstein cũng nhấn mạnh: “Nhân cách là cá nhân cụ thể, lịch sử,
sinh động gắn với những quan hệ thực tế đối với thế giới hiện thực”.
P.Galperin tóm tắt ngắn gọn đặc điểm này: “Nhân cách là một sản phẩm xã
hội – lịch sử”, đề cao vai trò “chủ thể, chủ thể có ý thức xã hội, có trách
nhiệm”
Tuy nhiên, có những sự bổ sung, cụ thể hoá đôi khi mang đến một vài
sắc thái mới. Ví dụ, A.V.Petrovxki vừa coi nhân cách là "chủ thể của sự nhận
thức và tích cực cải biến hiện thực”, vừa là “toàn bộ những điều kiện hoạt
động bên trong của con người để xã hội quy định. Nhân cách, đó chính là con
người cụ thể, sinh động với tất cả những ưu điểm và khuyết điểm của nó,
những mặt mạnh và yếu của nó được quy định bởi sự tham gia tích cực của
nó vào cuộc sống xã hội và việc giáo dục và đào tạo nó".
- Khi xét khái niệm “nhân cách”, người ta cũng bàn nhiều đến quan hệ
đối với cuộc sống, hoạt động cụ thể của con người và tính chất khả thi của
nó.
Obukhowski (Ba Lan) đã trình bày khái niệm theo tinh thần đó. Ông
viết: "Nhân cách có thể được định nghĩa là:
a) Những thuộc tính tâm lý của con người mà nhờ chúng. Chúng ta có
thể dự báo hoặc chí ít cũng chẩn đoán được các hành động của con người;
b) Những thuộc tính đó là những cấu tạo lý luận, vì thế, kiểu loại và số
lượng của chúng phụ thuộc vào lý thuyết chúng ta sử dụng
c) Những thuộc tính đó phục vụ cho việc dự báo hoặc chẩn đoán hành
động có liên quan, vì thế kiểu loại và số lượng của chúng còn phụ thuộc vào
nhiệm vụ nghiên cứu”.
Những đặc điểm và sự phát triển nhân cách trong hành động đã từng là
đề tài nghiên cứu của A.Kossakowski, W.Hacker, M.Vorwerg (Cộng hoà dân
chủ Đức trước đây), J. Reykowski (Ba Lan), D. Kondas (Tiệp Khắc cũ) và
nhiều người khác.
A.Kossakowski, nguyên Chủ tịch Hội tâm lý học Cộng hoà dân chủ Đức
trước đây, đã viết: “Chúng tôi hiểu một nhân cách phát triển toàn diện trong
tâm lý học là một người có năng lực và sẵn sàng hành động ngày càng độc
lập (tự động) và có ý thức trong những phạm vi hoạt động hết sức đa dạng,
có ý nghĩa xã hội trong số tác động cùng tập thể đối với những người khác.
Từ đó, có thể thấy việc nghiên cứu nhân cách phải tập trung vào việc phân
tích các thành phần tâm lý (các đơn vị chức năng, các nội dung, quá trình,
các thuộc tính) của sự định hướng và điều chỉnh hành động, trước hết là sự
định hướng hoạt động có ý thức của cá nhân, những quan hệ qua lại và sự
phát triển của chúng trong quá trình sư phạm.
Các nhà tâm lý học Cộng hoà dân chủ Đức quan niệm về nhân cách
như sau:
a) Nhân cách là có nhân cụ thể với tư cách là sự thống nhất cơ thể của
nó, những đặc điểm sinh lý và tâm lý của nó;
b) Nhân cách luôn luôn là sự thống nhất đặc trưng cho cá nhân của
những đặc điểm sinh - tâm lý, luôn luôn là một cá tính phát triển trên cơ sở
những khuynh hướng cá nhân bẩm sinh và được quy định bởi tiểu sử cá
nhân;
c) Cá nhân có nhân cách là trước tự nhiên, xã hội và bản thân, nổ thể
hiện như là một chủ thể tích cực, có ý thức sáng tạo của sự nhận thức, nhận
thông tin và lao động;
d) Nhân cách là một thực thể cộng đồng tích cực;
e) Nhân cách luôn luôn là một thực thể được quy đinh bởi những điều
kiện lịch sử, xã hội cụ thể.
H.D. Schmidt coi nhân cách vừa là quá trình, vừa là trạng thái. Đây là
một tư tưởng hết sức quan trọng, đặc biệt đối với chẩn đoán tâm lý. Và về sự
phát triển nhân cách với tư cách là quá trình xã hội hoá, ông có sơ đồ sau:
Những quan niệm xem xét nhân cách trong mối liên quan với ý thức,
hoạt động trong cuộc sống thực tế còn khắc phục được thiếu sót và những
chỗ chưa hợp lý về cấu trúc nhân cách trong lịch sử tâm lý học trước đây,
trong các mô hình tâm lý học nghiên cứu các tầng sâu, trong các cấu trúc thứ
bậc (Kovaliov, Bogiovich, Platonov…)
Nhìn chung, tâm lý học nhân cách đi theo ba chiến lược nghiên cứu
khác nhau:
- Chiến lược nghiên cứu truyền thống, hướng vào các mặt, "các thuộc
tính" đứng phía sau hành vi mà một cá nhân có;
- Chiến lược nghiên cứu hành vi chủ nghĩa chỉ tìm hiểu cá nhân đang
làm gì;
- Chiến lược nghiên cứu xu thế biến động tâm lý đi tới chỗ giải đáp cá
nhân đang phản ứng hoặc điều chỉnh hành vi của mình trong những tình
huống khác nhau như thế nào.
Và đến nay, cuốn tiếp cận nhân cách ngày càng phức hợp hơn trong sự
đan xen giữa xã hội hoá và cá thể hóa, giữa cá nhân và các môi trường trải
nghiệm thực tế, giữa khả năng hiện tại với yêu cầu khi bước vào thế kỷ XXI.
3. Khái niệm "nhân cách"
Hiện có nhiều định nghĩa về nhân cách mà ở đây không nhắc lại. Trước
khi xác định nội hàm khái niệm này, chúng tôi chú ý tới một số quan điểm như
sau:
(1) Thể hiện tinh thần của ba tiền đề (premise) cơ bản:
+ Tính độc đáo ít hay nhiều (singularity);
+ Tính tương đẳng (congruity), theo nghĩa dù thay đổi cũng có thể nhận
dạng được;
+ Tính dại diện cho những giá trị tốt hay xấu (dignity) còn có nghĩa là
nhân phẩm hay chân giá trị thông qua hành động thực tế. 1
(2) Allport đã phân biệt những thuộc tính chung và cá nhân bằng một
nhận định khái quát là mỗi người, về phương diện nào đó:
+ Đều giống mọi người khác (xét theo các chuẩn mực phổ quát),
+ Đều giống một số người nào đó (xét theo các chuẩn mực nhóm), và
+ Chẳng giống ai cả (xét theo phong cách riêng của mỗi người).
(3) X.L. Rubinstein khẳng định: “Con người chỉ là nhân cách khi có ý
thức xác định các quan hệ đối với môi trường của mình. Con người chỉ là
nhân cách khi có một diện mạo riêng. Con người là chỉ là nhân cách tối đa khi
thể hiện tối thiểu về tính trung lập (neutrality), về sự thờ ơ (indiffrence), lãnh
đạm và tối đa về "tính đảng” trong quan hệ với cái có ý nghĩa xã hội. Vì thế, ý
thức không chỉ là hiểu biết mà còn là quan hệ - có một ý nghĩa cơ bản như
thể đối với con người với tư cách là nhân cách". Bàn về khái niệm “nhân
cách”, mới đây, trong Tuyển tập Tâm lý học, Phạm Minh Hạc định nghĩa:
“Nhân cách là tổng hoà không phải mọi đặc điểm cá thể của con người, mà
chỉ là những đặc điểm nào quy định con người như là một thành viên của xã
hội, như là một công dân, một người lao động, một nhà hoạt động có ý thức.
Nói gọn hơn, nhân cách là toàn bộ những đặc điểm phẩm chất tâm lý của cá
nhân, quy định giá trị xã hội và hành vi xã hội của nó”
Nghiên cứu những ý kiến khác nhau, chúng tôi định nghĩa: Nhân cách
là cấu tạo tâm lý là phức hợp bao gồm những thuộc tính tâm lý cá nhân, được
hình thành và phát triển trong cuộc sống và hoạt động, tạo nên nhân diện và
quy định giá trị xã hội của mỗi người.
4. Cấu trúc nhân cách
Có thể nêu lên hai loại cấu trúc khác nhau.
4.1. Cấu trúc chung
Các nhà khoa học trường nói nhân cách là một cấu tạo (construct) tâm
lý. Việc xác định đúng và đủ các thành phần cấu trúc của nó là một yêu cầu
về lý luận và phương pháp.
Nếu tính từ Aristoteles với “các cấp độ linh hồn” (thực vật – vegetative,
động vật – animal và tinh thần hay linh hồn thiên thể - astral) thì cho đến nay
phải nói rằng hiện có rất nhiều cấu trúc nhân cách, được xem xét trên các
bình diện khác nhau (tài – đức; trí – đức – thể - mỹ; nhận thức – xúc cảm và
tình cảm – động cơ – ý chí)
Ở nước ta, quan niệm của A.G. Kovaliov được nhiều người tán thành
hơn cả với bốn thành phần cấu trúc như sau:
1 Xu hướng,
2. Tính cách,
3. Năng lực,
4. Khí chất.
Đối chiếu với cách hiểu nội hàm khái niệm "nhân cách” thì ở đây, không
thể coi "khí chất” là bộ phận hợp thành nhân cách - cho dù sự liên quan, có
ảnh hưởng đến nhân cách của nó là không thể phủ nhận được. Trong Hoạt
động – Ý thức -Nhân cách, A.N. Leonchiev đã từng bác bỏ quan niệmkiểu
nhân cách như một chỉnh thể bao gồm mọi đặc điểm của con người, từ các
quan niệm chính trị và tôn giáo tới cả sự tiêu hóa mà R.B. Cattell đã đề cập.
Và trong tác phẩm nói trên, khi bàn về cá nhân và nhân cách,
Leonchiev đã nhấn mạnh các đặc điểm của cá nhân và nhân cách liên quan
với nhau nhưng không phải là một. Ví dụ, các đặc điểm của hoạt động thần
kinh cao cấp của cá nhân không trở thành các đặc điểm của nhân cách cá
nhân đó và không quy định nó.
Vì thế, J.Strelau cũng khẳng định qua nghiên cứu của mình rằng thực
ra, khí chất và nhân cách khác nhau về nguyên tắc. Trong khi khí chất là kết
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH

More Related Content

What's hot

HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP NHÂN CÁCH
HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP NHÂN CÁCH HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP NHÂN CÁCH
HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP NHÂN CÁCH nataliej4
 
TIẾP CẬN TRỊ LIỆU NHẬN THỨC HÀNH VI
TIẾP CẬN TRỊ LIỆU NHẬN THỨC HÀNH VI TIẾP CẬN TRỊ LIỆU NHẬN THỨC HÀNH VI
TIẾP CẬN TRỊ LIỆU NHẬN THỨC HÀNH VI nataliej4
 
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)Nengyong Ye
 
Sự Phát Triển Tâm Lý Tuổi Trung Niên
Sự Phát Triển Tâm Lý Tuổi Trung Niên Sự Phát Triển Tâm Lý Tuổi Trung Niên
Sự Phát Triển Tâm Lý Tuổi Trung Niên nataliej4
 
Giáo Trình Giáo Dục Dân Số - Sức Khoẻ Sinh Sản
Giáo Trình Giáo Dục Dân Số - Sức Khoẻ Sinh Sản Giáo Trình Giáo Dục Dân Số - Sức Khoẻ Sinh Sản
Giáo Trình Giáo Dục Dân Số - Sức Khoẻ Sinh Sản nataliej4
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi nataliej4
 
Thực Nghiệm Sư Phạm
Thực Nghiệm Sư Phạm Thực Nghiệm Sư Phạm
Thực Nghiệm Sư Phạm nataliej4
 
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdfTâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdfHanaTiti
 
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852KimBumt1
 
Tâm Bệnh Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non
Tâm Bệnh Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Tâm Bệnh Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non
Tâm Bệnh Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non nataliej4
 
Quan điểm đa chiều về nghiện game online
Quan điểm đa chiều về nghiện game onlineQuan điểm đa chiều về nghiện game online
Quan điểm đa chiều về nghiện game onlineCâu Lạc Bộ Trăng Non
 
Giao trinh tam ly hoc dai cuong
Giao trinh tam ly hoc dai cuongGiao trinh tam ly hoc dai cuong
Giao trinh tam ly hoc dai cuongTien Nguyen
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Giao Tiếp
Giáo Trình Tâm Lý Học Giao Tiếp Giáo Trình Tâm Lý Học Giao Tiếp
Giáo Trình Tâm Lý Học Giao Tiếp nataliej4
 
Đại cương Tâm lý Trị liệu - Một số học thuyết cơ bản
Đại cương Tâm lý Trị liệu - Một số học thuyết cơ bảnĐại cương Tâm lý Trị liệu - Một số học thuyết cơ bản
Đại cương Tâm lý Trị liệu - Một số học thuyết cơ bảnCâu Lạc Bộ Trăng Non
 
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nayTiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nayYenPhuong16
 
Tâm Lý Học Nhân Cách Một Số Vấn Đề Lý Luận
Tâm Lý Học Nhân Cách Một Số Vấn Đề Lý Luận Tâm Lý Học Nhân Cách Một Số Vấn Đề Lý Luận
Tâm Lý Học Nhân Cách Một Số Vấn Đề Lý Luận nataliej4
 

What's hot (20)

HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP NHÂN CÁCH
HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP NHÂN CÁCH HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP NHÂN CÁCH
HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP NHÂN CÁCH
 
Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!
Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!
Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!
 
TIẾP CẬN TRỊ LIỆU NHẬN THỨC HÀNH VI
TIẾP CẬN TRỊ LIỆU NHẬN THỨC HÀNH VI TIẾP CẬN TRỊ LIỆU NHẬN THỨC HÀNH VI
TIẾP CẬN TRỊ LIỆU NHẬN THỨC HÀNH VI
 
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
 
Sự Phát Triển Tâm Lý Tuổi Trung Niên
Sự Phát Triển Tâm Lý Tuổi Trung Niên Sự Phát Triển Tâm Lý Tuổi Trung Niên
Sự Phát Triển Tâm Lý Tuổi Trung Niên
 
Hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi Vị thành niên, HAY
Hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi Vị thành niên, HAYHành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi Vị thành niên, HAY
Hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi Vị thành niên, HAY
 
Giáo Trình Giáo Dục Dân Số - Sức Khoẻ Sinh Sản
Giáo Trình Giáo Dục Dân Số - Sức Khoẻ Sinh Sản Giáo Trình Giáo Dục Dân Số - Sức Khoẻ Sinh Sản
Giáo Trình Giáo Dục Dân Số - Sức Khoẻ Sinh Sản
 
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình nông dân
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
 
Thực Nghiệm Sư Phạm
Thực Nghiệm Sư Phạm Thực Nghiệm Sư Phạm
Thực Nghiệm Sư Phạm
 
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdfTâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
 
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
 
Tâm Bệnh Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non
Tâm Bệnh Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Tâm Bệnh Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non
Tâm Bệnh Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non
 
Quan điểm đa chiều về nghiện game online
Quan điểm đa chiều về nghiện game onlineQuan điểm đa chiều về nghiện game online
Quan điểm đa chiều về nghiện game online
 
Giao trinh tam ly hoc dai cuong
Giao trinh tam ly hoc dai cuongGiao trinh tam ly hoc dai cuong
Giao trinh tam ly hoc dai cuong
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Giao Tiếp
Giáo Trình Tâm Lý Học Giao Tiếp Giáo Trình Tâm Lý Học Giao Tiếp
Giáo Trình Tâm Lý Học Giao Tiếp
 
Thuyết tâm lí xã hội
Thuyết tâm lí xã hộiThuyết tâm lí xã hội
Thuyết tâm lí xã hội
 
Đại cương Tâm lý Trị liệu - Một số học thuyết cơ bản
Đại cương Tâm lý Trị liệu - Một số học thuyết cơ bảnĐại cương Tâm lý Trị liệu - Một số học thuyết cơ bản
Đại cương Tâm lý Trị liệu - Một số học thuyết cơ bản
 
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nayTiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
 
Tâm Lý Học Nhân Cách Một Số Vấn Đề Lý Luận
Tâm Lý Học Nhân Cách Một Số Vấn Đề Lý Luận Tâm Lý Học Nhân Cách Một Số Vấn Đề Lý Luận
Tâm Lý Học Nhân Cách Một Số Vấn Đề Lý Luận
 

Similar to MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH

CTXH tai truong hoc
CTXH tai truong hocCTXH tai truong hoc
CTXH tai truong hocforeman
 
SKKN Phát triển năng lực học sinh thông qua cách giải bài tập Hóa học ở cấp THCS
SKKN Phát triển năng lực học sinh thông qua cách giải bài tập Hóa học ở cấp THCSSKKN Phát triển năng lực học sinh thông qua cách giải bài tập Hóa học ở cấp THCS
SKKN Phát triển năng lực học sinh thông qua cách giải bài tập Hóa học ở cấp THCSnataliej4
 
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM nataliej4
 
An sinh xa hoi
An sinh xa hoiAn sinh xa hoi
An sinh xa hoiforeman
 
Van Kieu Ethnic Groups
Van Kieu Ethnic GroupsVan Kieu Ethnic Groups
Van Kieu Ethnic Groupsbaointer
 
Phuong Phap Nckh
Phuong Phap NckhPhuong Phap Nckh
Phuong Phap Nckhguesta60ae
 
10 nghịch lý cuộc sống
10 nghịch lý cuộc sống10 nghịch lý cuộc sống
10 nghịch lý cuộc sốnglenho
 
Tâm Lý Và Sức Khỏe
Tâm Lý Và Sức Khỏe Tâm Lý Và Sức Khỏe
Tâm Lý Và Sức Khỏe nataliej4
 
Tam ly hoc dai cuong
Tam ly hoc dai cuongTam ly hoc dai cuong
Tam ly hoc dai cuongforeman
 
để RèN LuyệN RèN LuyệN Trí NãO
để RèN LuyệN RèN LuyệN Trí NãOđể RèN LuyệN RèN LuyệN Trí NãO
để RèN LuyệN RèN LuyệN Trí NãOyingjun1805
 
Chủ nghĩa khoa học xã hội - Cửu Dương Thần Công
Chủ nghĩa khoa học xã hội - Cửu Dương Thần CôngChủ nghĩa khoa học xã hội - Cửu Dương Thần Công
Chủ nghĩa khoa học xã hội - Cửu Dương Thần CôngVuKirikou
 
Hoc thuyet ve su ho tro
Hoc thuyet ve su ho troHoc thuyet ve su ho tro
Hoc thuyet ve su ho troforeman
 
Sach An Sinh Xa Hoi
Sach An Sinh Xa HoiSach An Sinh Xa Hoi
Sach An Sinh Xa Hoiforeman
 
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí MinhGiáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí MinhVuKirikou
 
báo cáo thực tập tại bưu điện hải phòng
báo cáo thực tập tại bưu điện hải phòngbáo cáo thực tập tại bưu điện hải phòng
báo cáo thực tập tại bưu điện hải phòngnataliej4
 
Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử
Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử
Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử nataliej4
 
Ý Nghĩa Của Mặt Dây Chuyền Đồng Điếu Đá Phong Thủy
Ý Nghĩa Của Mặt Dây Chuyền Đồng Điếu Đá Phong ThủyÝ Nghĩa Của Mặt Dây Chuyền Đồng Điếu Đá Phong Thủy
Ý Nghĩa Của Mặt Dây Chuyền Đồng Điếu Đá Phong ThủyPhong Linh Gems
 
CTXH cua Truoing DH Fordham, Hoa Ky
CTXH cua Truoing DH Fordham, Hoa KyCTXH cua Truoing DH Fordham, Hoa Ky
CTXH cua Truoing DH Fordham, Hoa Kyforeman
 

Similar to MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH (20)

CTXH tai truong hoc
CTXH tai truong hocCTXH tai truong hoc
CTXH tai truong hoc
 
SKKN Phát triển năng lực học sinh thông qua cách giải bài tập Hóa học ở cấp THCS
SKKN Phát triển năng lực học sinh thông qua cách giải bài tập Hóa học ở cấp THCSSKKN Phát triển năng lực học sinh thông qua cách giải bài tập Hóa học ở cấp THCS
SKKN Phát triển năng lực học sinh thông qua cách giải bài tập Hóa học ở cấp THCS
 
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
 
An sinh xa hoi
An sinh xa hoiAn sinh xa hoi
An sinh xa hoi
 
Van Kieu Ethnic Groups
Van Kieu Ethnic GroupsVan Kieu Ethnic Groups
Van Kieu Ethnic Groups
 
Phuong Phap Nckh
Phuong Phap NckhPhuong Phap Nckh
Phuong Phap Nckh
 
10 nghịch lý cuộc sống
10 nghịch lý cuộc sống10 nghịch lý cuộc sống
10 nghịch lý cuộc sống
 
Tâm Lý Và Sức Khỏe
Tâm Lý Và Sức Khỏe Tâm Lý Và Sức Khỏe
Tâm Lý Và Sức Khỏe
 
Tam ly hoc dai cuong
Tam ly hoc dai cuongTam ly hoc dai cuong
Tam ly hoc dai cuong
 
để RèN LuyệN RèN LuyệN Trí NãO
để RèN LuyệN RèN LuyệN Trí NãOđể RèN LuyệN RèN LuyệN Trí NãO
để RèN LuyệN RèN LuyệN Trí NãO
 
Chủ nghĩa khoa học xã hội - Cửu Dương Thần Công
Chủ nghĩa khoa học xã hội - Cửu Dương Thần CôngChủ nghĩa khoa học xã hội - Cửu Dương Thần Công
Chủ nghĩa khoa học xã hội - Cửu Dương Thần Công
 
Hoc thuyet ve su ho tro
Hoc thuyet ve su ho troHoc thuyet ve su ho tro
Hoc thuyet ve su ho tro
 
HDJHJ
HDJHJHDJHJ
HDJHJ
 
Sach An Sinh Xa Hoi
Sach An Sinh Xa HoiSach An Sinh Xa Hoi
Sach An Sinh Xa Hoi
 
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí MinhGiáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
 
báo cáo thực tập tại bưu điện hải phòng
báo cáo thực tập tại bưu điện hải phòngbáo cáo thực tập tại bưu điện hải phòng
báo cáo thực tập tại bưu điện hải phòng
 
Tham Dinh Du An 1
Tham Dinh Du An 1Tham Dinh Du An 1
Tham Dinh Du An 1
 
Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử
Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử
Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử
 
Ý Nghĩa Của Mặt Dây Chuyền Đồng Điếu Đá Phong Thủy
Ý Nghĩa Của Mặt Dây Chuyền Đồng Điếu Đá Phong ThủyÝ Nghĩa Của Mặt Dây Chuyền Đồng Điếu Đá Phong Thủy
Ý Nghĩa Của Mặt Dây Chuyền Đồng Điếu Đá Phong Thủy
 
CTXH cua Truoing DH Fordham, Hoa Ky
CTXH cua Truoing DH Fordham, Hoa KyCTXH cua Truoing DH Fordham, Hoa Ky
CTXH cua Truoing DH Fordham, Hoa Ky
 

More from nataliej4

đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155nataliej4
 
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...nataliej4
 
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279nataliej4
 
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc giaTừ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gianataliej4
 
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vươngCông tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vươngnataliej4
 
Bài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốcBài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốcnataliej4
 
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin họcđề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin họcnataliej4
 
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao độngGiáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao độngnataliej4
 
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắnLựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắnnataliej4
 
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877nataliej4
 
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree towerSổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree towernataliej4
 
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...nataliej4
 
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtBài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtnataliej4
 
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864nataliej4
 
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...nataliej4
 
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùngBài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùngnataliej4
 
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanhBài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanhnataliej4
 
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning introGiới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intronataliej4
 
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắcLý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắcnataliej4
 
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)nataliej4
 

More from nataliej4 (20)

đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
 
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
 
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
 
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc giaTừ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
 
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vươngCông tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
 
Bài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốcBài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốc
 
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin họcđề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
 
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao độngGiáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
 
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắnLựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
 
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
 
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree towerSổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
 
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
 
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtBài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
 
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
 
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
 
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùngBài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
 
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanhBài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
 
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning introGiới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
 
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắcLý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
 
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
 

Recently uploaded

SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 

MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH

  • 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH Đồng Chủ biên: GS.VS. Phạm Minh Hạc PGS.TS. Lê Đức Phúc LỜI NHÀ XUẤT BẢN Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến phát triển nguồn lực con người, coi đó là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững. Để tạo được nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII) Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã nêu yêu cầu xây dựng năm đức tính của con người Việt Nam trong giai đoạn mới. Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX) nhấn mạnh “Nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam theo năm đức tính được xác định trong Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII)… Đẩy mạnh giáo dục về chủ nghĩa xã hội, bồi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, tạo chuyển biến rõ rệt về bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống năng lực, trí tuệ người Việt Nam…” Nhằm cung cấp cho bạn đọc tài liệu nghiên cứu và tham khảo về vấn đề nhân cách con người, góp phần quán triệt sau hơn Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) và Nghị quyết Trung ương 10 (khoá IX), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách “Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách” do GS. VS. Phạm Minh Hạc và PGS. TS. Lê Đức Phúc chủ biên. Cuốn sách gồm một số bài viết đi sâu phân tích vấn đề nhân cách dưới góc độ tâm lý học, các khía cạnh lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu nhân cách con người; cách tiếp cận và phương pháp luận nghiên cứu nhân cách;
  • 2. các mặt chủ yếu trong cấu trúc nhân cách như: nhu cầu, động cơ, thái độ, ý thức, v.v…, trên cơ sở đó xây dựng mô hình nhân cách con người Việt Nam thời kỳ mới, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc Tháng 8 năm 2004 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA LỜI NÓI ĐẦU Thế kỷ XXI đang mở ra những triển vọng to lớn đối với việc tiếp tục đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự nghiệp đó đòi hỏi phải “phát triển văn hoá, con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Đây cũng là tên Chương trình khoa học – công nghiệp cấp nhà nước 2001 – 2005, mã số KX05, trong đó có đề tài KX05-07 với tiêu đề: “Xây dựng con người Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế” Một trong những nhiệm vụ của đề tại này là nghiên cứu sự phát triển nhân cách con người Việt Nam đáp ứng những yêu cầu thời đại. Trong thời gian đầu, nhóm nghiên cứu đã xác định những cơ sở lý luận và phương pháp luận, tạo sự định hướng thống nhất cho quá trình thực hiện. Cuốn sách này bao gồm những bài viết của nhiều tác giả về nhân cách, được bàn xét chủ yếu từ góc độ tâm lý học và chia thành ba phần cơ bản: Lý luận, phương pháp luận và phương pháp. Mong rằng những nội dung đã trình bày ở đây sẽ được độc giả quan tâm và góp ý với sự thông cảm về những thiếu sót của chúng tôi. Hà nội, tháng 5 năm 2004 CÁC TÁC GIẢ
  • 3. Phần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG A. NGHIÊN CỨU CON NGƯỜI VÀ NHÂN CÁCH CON NGƯỜI GS.VS. PHẠM MINH HẠC I. Về khái niệm con người, cá thể và cá nhân Con người với tư cách là tột đỉnh tiến hoá của thế giới sinh vật, và tiếp tục phát triển thành cá thể, cá nhân và nhân cách. Khi con người là đại diện của loài ta gọi là cá thể. Với tư cách là thành viên xã hội ta gọi nó là cá nhân như là một thực thể độc lập, và khi nó có đủ khả năng để trở thành chủ thể của hoạt động học tập, lao động, vui chơi, con người trở thành nhân cách. Nội hàm của bốn khái niệm này thật ra có phần đan xen lẫn nhau, chồng lấn lên nhau. Cách phân biệt các nội hàm vừa trình bày ở đây là một cách, tất nhiên là rất tương đối. Theo đó, nhiều khi người ta nói "cá thể người” là thành phần của loài người đã bứt ra khỏi loài vật vừa chứa đựng thành tựu tiến hoá của thế giới vật chất, nhất là của thế giới sinh vật, tức là vẫn chịu sự chi phối của các thế giới đó, vừa thoát ra ngoài vòng cương tỏa của các thế giới đó, tức là đứng ngoài sự chi phối của các thế giới đó: vừa chịu tác động của các quy luật trong vũ trụ (luật "trường"...) vừa chịu tác động của các quy luật sinh vật, vừa bắt đầu chịu tác động của các quy luật xã hội. Tiến lên một bước nữa trong thang phát triển ta có "cá nhân người": một thành viên của xã hội, kẻ mang tổng hòa các quan hệ xã hội, vừa chịu ảnh hưởng của chúng, vừa góp phần tạo ra chúng. Từ đây sự tồn tại và phát triển của con người sau khi cơ thể, nhất là não bộ đã định hình xong ở tuổi thiếu niên (13-14 tuổi), và đến tuổi thanh niên (trên dưới 20 tuổi) chủ yếu diễn ra ở ngoài cơ thể, theo quy luật xã hội, hay nói chính xác hơn, theo quy luật xã hội - lịch sử hay lịch sử - văn hoá. Và bậc thang tiếp theo, cũng là bậc thang cao nhất, là “nhân cách người" - chủ thể của hoạt động, đưa tính cá thể lên trình độ khá hoàn chỉnh, tính cá nhân (cá tính) lên trình độ mới với nét đặc
  • 4. trưng là con người phân biệt được khách thể và chủ thể: phân biệt được tồn tại ở ngoài tác động vào ta, tác động ở trong ta vào ta, phân biệt khi nào bản thân ta là chủ thể, khi nào bản thân ta là khách thể. Mác và Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đã nhấn mạnh đến cá tính con người. Anhstanh cũng đã khẳng định: "Đôi khi người ta coi nhà trường chỉ là công cụ chuyển giao phần lớn kiến thức đến thế hệ trẻ. Nhưng sự thật không phải như vậy. Tri thức thì khô cằn, còn nhà trường thì phải phục vụ cuộc sống sinh động. Nhà trường phải phát triển ở cá thể các phẩm chất và năng lực có giá trị cho cuộc sống xã hội. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là phá hủy các cá nhân hay các cá nhân trở thành các công cụ đơn thuần của cộng đồng, như những bầy ong, đàn bứớm. Một cộng đồng toàn những cá thể đồng loạt giống nhau, không có độc đáo cá nhân và mục đích cá nhân - thì sẽ là một cộng đồng nghèo, không có khả năng phát triển. Ngược lại, nhà trường phải có mục tiêu là đào tạo ra những cá thể suy nghĩ và hành động độc lập - những người này coi việc phục vụ xã hội là có ý nghĩa sống còn của mọi người". Và, như đã trình bày ở trên khi nói về hoạt động, con người với tư cách là "nhân cách người" đặt ra được mục đích của hoạt động, có động cơ (động lực nội tại) và biết vận hành các điều kiện khách quan để tạo ra thao tác, hành động và từng hoạt động cụ thể và cả dòng hoạt động (dòng đời) để đạt từng mục đích cụ “thể" đến mục đích bộ phận và cuối cùng là mục đích của cuộc đời (đường đời, cuộc sống, lý tưởng), thể hiện một lối sống, một nhân sinh quan, một thế giới quan. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã mong muốn mỗi cá nhân con người phải có tính độc lập, có cá tính. Khái niệm người, con người hết sức phức tạp, nhiều khi người ta gọi là "tồn lại người” - một tồn tại mang các đặc điểm của con người, loài người, xã hội. Có khi người ta gọi con người là một hệ thống tích hợp mang cả đặc điểm của vũ trụ, giới sinh học, xã hội, sinh lý, tâm lý, chứa đựng tất cả các cấp độ (hình thức) phản ánh: cơ học, sinh học, xã hội, tâm lý. Đến đây ta tiếp cận vấn đề cấu trúc người.
  • 5. Cấu trúc người, cấu trúc nhân cách là vấn đề rất phức tạp, rất khó, phải dày công nghiên cứu. Cấu trúc con người bao gồm cả cấu trúc nhân cách, không chỉ ở trong con người mà còn nằm ở ngoài con người. Điều này phù hợp với quan niệm của Mác: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hỏa các mối quan hệ xã hội". Đây là tinh thần cốt lõi của phương pháp tiếp cận lịch sử - xã hại, hoạt động - nhân cách đối với việc nghiên cứu con người. Chúng ta có thể tiếp thu các quan niệm trên, đặt toàn bộ cấu trúc người trong mối quan hệ giữa bản thân với bản thân, và một loạt quan hệ khác mình và người khác, bản thân với xã hội, với tự nhiên và với vũ trụ, v.v.. Trước mắt, chúng ta tập trung vào vấn đề con người và xã hội. Chẳng hạn như giải quyết như thế nào mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích nhà nước phù hợp với cơ sở khoa học của nó để sử dụng con người với tư cách là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội Nghiên cứu cấu trúc người nói chung, cấu trúc tâm lý, cấu trúc nhân cách nói riêng, phải đề cập một loạt cặp phạm trù sau đây Đi theo các khái niệm này, các cặp phạm trù này là các quan niệm khác nhau về cấu trúc của con người như thể xác – tâm hồn. Còn tâm linh là gì? Có cái gọi là tâm linh không? Trong tiếng Việt ta bắt gặp “ba hồn, bảy vía”, “hồn xiêu phách lạc”, v.v… Có phải đây là các đại lượng trong cấu trúc con người không? Trong đó, khái niệm con người là khái niệm công cụ trung tâm của chương trình nghiên cứu con người, vì vậy đề tài phương pháp luận và các đề tài khác phải quan tâm thích đáng đến khái niệm này. Chắc chắn chúng ta phải thảo luận nhiều lần, ở đây dừng lại nói thêm một cách khái quán về khái niệm cực kỳ phong phú này. Từ xa xưa cho đến bây giờ vẫn còn tồn tại một cách hiểu con người như là một tồn tại thần bí. Có lúc người ta lại coi con người như là cây sậy biết nói. Hiểu như vậy thì chỉ thấy (hoặc nhấn mạnh) khả năng nói dường như quyết định cuộc đời. Có khi lại thấy không hiểu nổi chính mình, nên có giả định rằng hình như trong mỗi người trần mắt thịt mà ta trông thấy lại có một con người bé xíu - con người tâm linh, mắt ta không thấy, con người "tí hon" này điều khiển con người thể xác kia. Theo
  • 6. cách nhìn này, con người mà ta thấy được chỉ là một thân xác giống như muôn loài trên trái đất. Còn cái phần khó hiểu kia thuộc về con người "tí hon” vô hình đầy ma lực, và do đó đầy bí ẩn. Nhưng cứ quan sát kỹ, suy ngẫm sâu, điểm qua các thành tựu triết học, tâm lý học. v.v. dần dần thấy ra chẳng làm gì có con người "tí hon” trong con người thân xác, mọi thứ do con người làm ra cũng từ con người thân xác này cả. Nhưng thân xác con người, nhìn nột cách kinh nghiệm chủ nghĩa, đâu có khác gì mấy so với các loại động vật bậc cao, cũng phải ăn, uống, sinh đẻ, sống chết. Thế là người ta đưa ra lý thuyết "con người bản năng", con người là một tồn tại sinh vật, hoặc có người cho con người từ lúc hình thành tế bào trứng đến lúc 2 tuổi là tồn tại sinh vật, và theo đây mọi sự sống của con người, mọi thứ do con người làm ra đều bắt nguồn từ bản năng. Đúng là con người có bản năng, nhưng bản năng ở người khác nhiều, khác về chất so với bản năng của động vật. Quan sát hàng ngày về cách ăn, cách ở, cách bảo tồn và phát triển loài, v v; cũng đủ giúp chúng ta hiểu ra một chân lý triết học như Ph.Ăngghen đã chỉ ra, bản năng của con người đã được ý thức hóa. Thật khó chó thể chấp nhận cái lý thuyết "con người bản năng" được. Trong thời đại văn minh cổ đại, ta đã thấy vai trò của công cụ lao động quyết định sự tiến bộ của loài người nên có lúc người ta đưa ra khái niệm "con người kỹ thuật” để chỉ tồn tại sống có đặc trưng là biết sử dụng công cụ lao động. Khi xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, có thể chế xã hội, và con người sống trong vòng cương toả của các thể chế xã hội thì xã hội nào cũng có chính tri của nó, từ đó nảy sinh lý thuyết "con người chính trị", mọi ứng xử của con người đều có tính chất chính trị. Lý thuyết này gần với lý thuyết "con người xã hội" - con người là tồn tại xã hội. Các lý thuyết trên: "con người bản năng”, "con người kỹ thuật", "con người chính trị", "con người xã hội"... đều nói lên một tiêu chí cực kỳ quan trọng của con người. Nói tổng quát hơn, bản chất con người không phải là cái gì có sẵn, hay là cái gì nhất thành bất biến, mà bản chất con người là cái gì đó được hình thành nên hay bộc lộ ra trong cuộc sống của nó. Trong cuộc
  • 7. sống bằng hoạt động của bản thân, con người mới chịu tác động của các quan hệ xã hội và nhờ đó con người hội nhập vào các quan hệ đó, góp phần củng cố, phát triển các quan hệ đó. Toàn bộ tồn tại khách quan xung quanh con người tác động vào con người thông qua các quan hệ xã hội (quan hệ sản xuất, quan hệ chính trị, quan hệ giai cấp, quan hệ cộng đồng, quan hệ nhóm. v.v.), hoặc dưới hình thức của các quan hệ xã hội mà tác động vào con người. Ngược lại, con người có tác động trở lại vào tồn tại khách quan (môi trường tự nhiên, môi trường sinh sống, gia đình, các quan hệ, thể chế xã hội, v.v.). Con người bao giờ cũng cùng với những người khác (nhóm, cộng đồng, giai cấp, dân tộc, v.v.) lao động, học tập vui chơi, đấu tranh, xây dựng. Chính trong quá trình học tập, lao động... đó con người thiết lập nên các mối quan hệ xã hội. Có một số nhà nghiên cứu lo ngại quá nhấn mạnh tính xã hội trong con người thì coi nhẹ phần thể xác. Hay nói như trong tiếng Việt: nặng về -phần "Người", nhẹ về phần "Con". Họ đưa ra quan niệm coi con người là tồn tại sinh vật - xã hội (có người coi đứa trẻ sơ sinh đến lúc 2 tuổi là tồn tại sinh vật, và sau 2 tuổi là tồn tại xã hội). Thật ra, quan niệm này không khác gì lắm so với quan niệm coi con người như là "Cây gậy biết nói". Mới nghe tưởng như đó là một quan niệm phù hợp với thực tế khách quan: con người có thể xác và có tâm hồn, có bản năng và có ý thức, có vật chất và có tinh thần... Nhưng thử hỏi con người có "xác" mà không "hồn” thì đâu còn là con người! ở con người bình thường, cuộc sống bản năng cũng đã được ý thức hoá, ở con người không bình trường, tức là con người bệnh hoạn, con người sa đọa, con người của bộ máy phát xít, diệt chủng là những con người trở lại với thú tính, đâu còn cơ chế "ý thức hoá". Gần đây, có một số tác giả lại đưa ra quan niệm con người như là “cái máy có suy nghĩ", “cái máy biết lựa chọn", "cái máy biết yêu đương", các rôbốt. Đúng là trong hoạt đồng thần kinh của con người cũng như trong cuộc sống của con người có cơ chế tự điều chỉnh, tự thích nghi, sáng tạo... hết sức hoàn thiện mà không có một máy nào sánh kịp, tuy có khoa học phỏng sinh
  • 8. dựa vào cơ thể một số động vật và người lập mô hình sáng tạo ra máy móc. Người ta sáng chế ra máy tính, vi xử lý, máy đánh cờ, máy làm thơ... Có thể một số thao tác hay công việc nào đó trong cuộc sống hàng ngày được chương trình hóa đến khi rất hợp lý thì thành thói quen tốt, làm cho cuộc sống thoải mái, nhẹ nhàng, ít tốn năng lượng mà hiệu quả lại cao. Nhưng con người vẫn là con người, không phải là cái máy. Theo quan niệm của chúng tôi, con người, kể cả trẻ em, là chủ thể của hoạt động. Con người có muốn nhớ thì mới nhớ, con người suy nghĩ, con người tiếp thu... Mỗi người là chủ thể của hoạt động, hoạt động lao động, hoạt động vui chơi, hoạt động học tập...và khi ấy con người có nhân cách. Ví dụ, khi trẻ chơi thì rõ: đúng là trẻ miệt mài, say sưa, có thể nói dường như quên hết mọi thứ, tức là nó là chủ thể của hoạt động vui chơi, cốt được chơi. Người lao động cũng vậy, bình thường họ làm một cách nghiêm túc, có trách nhiệm, có lương tâm và nhắm tới sản phẩm mà lao động phải đạt tới theo quy trình sản xuất, được xã hội chấp nhận, trân trọng, đánh giá cao, nói tóm lại, theo thang giá trị của nhóm người, cộng đồng hay xã hội. Như vậy, mỗi người phải tự (có thể có sự giúp đỡ của người khác! Chẳng hạn như thầy giáo, người cùng nhóm trong một quy trình sản xuất, v v) tiến hành hoạt động trong các mối quan hệ xã hội, theo các thể chế xã hội, luật pháp nhà nước, từ nhà trường, gia đình đến quy định của nơi sản xuất, vui chơi.. Nói con người là chủ thể của hoạt động là khẳng định các cấp độ, con người thể xác, con người tâm hồn, tâm lý, tâm linh, con người ý thức, con người sinh vật xã hội - văn hóa... Đồng thời toàn bộ sự tồn tại người ở các cấp độ ấy cũng vận động trong sự phát triển nhân cách. II. Khái niệm nhân cách Tâm lý học nhân cách giữ vị trí trung tâm của cả hệ thống khoa học về con người, vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn. Đối với mọi lĩnh vực liên quan đến yếu tố người, từ công tác chính trị, kinh tế, quản lý, tổ chức, đến giáo dục, y tế...
  • 9. Hơn nửa thế kỷ qua, nhờ vận dụng sáng tạo lý luận duy vật biện chứng về hoạt động của con người vào nghiên cứu thế giới tâm lý, cùng với các khoa học khác, như triết học, xã hội học, đạo đức học, tâm lý học đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề xung quanh nhân cách, như vấn đề bản chất tâm lý của nhân cách, cấu trúc nhân cách, các con đường hình thành nhân cách. Chúng ta khẳng định nhân cách có bản chất xã hội - lịch sử, nghĩa là nội dung của nhân cách từng con người là nội dung của những điều kiện lịch sử cụ thể trong xã hội cụ thể chuyển vào thành đặc điểm nhân cách của từng người. Ví dụ, các công trình nghiên cứu tâm lý học sinh phổ thông ở Việt Nam cho thấy, do sớm tham gia lao động, có đóng góp thật sự vào cuộc sống gia đình mà trẻ em ta sớm biết lo toan công việc hàng ngày của gia đình, tinh thần trách nhiệm trong nhân cách hình thành. Đồng thời cũng cho thấy phong thái "sản xuất nhỏ” trọng học sinh chúng ta, vì các em sống và lớn lên trong các quan hệ của nền sản xuất nhỏ. Nhân cách được hình thành và phát triển bằng và trong hoạt động của con người: hoạt động là bản thể của nhân cách. Thế giới tâm lý bao gồm các qua trình nhận thức và tình cảm, ghi nhớ và chú ý, tính khí và tâm trạng, lời nói và việc làm. Nhưng chừng nào những hiện tượng tâm lý ấy có thái độ riêng trở thành thuộc tính của chủ thể, chừng đó mới có thể nói tới nhân cách của chủ thể ấy. Chẳng hạn, nhìn màu sắc đến mức tinh nhạy, ở đâu có màu sắc là có sự thích thú nhận xét, và cao hơn nữa, biết "chơi" màu, sáng tạo màu, như vậy là từ tri giác đến hình thành các thuộc tính nhân cách trong hoạt động nghệ thuật tạo hình. Các thái độ riêng trở thành thuộc tính riêng – những nét độc đáo này hợp lại thành bộ mặt tâm lý, thành nhân cách của từng người. Tóm lại, nhân cách là tổ hợp các thái độ, thuộc tính riêng trong quan hệ hành động của từng người với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật do loài người sáng tạo, với xã hội và với bản thân. Các thái độ và thuộc tính ấy chứa đựng ý nghĩa xã hội của nhân cách. Theo cách tiếp cận hoạt động – giá trị, nhân cách tạo nên giá trị xã hội của hoạt động. Giá trị ấy được đánh giá (đo đạc) bằng độ trùng hợp (hay độ xa cách) giữa
  • 10. thang giá trị và thước đo giá trị của chủ thể và của xã hội (nhóm, cộng đồng…). Từ các công trình nghiên cứu con người (1991-1995), chúng tôi đi đến định nghĩa nhân cách như sau: Nhân cách của con người là hệ thống các thái độ của mỗi người thể hiện ở mức độ phù hợp giữa thang giá trị và thước đo giá trị của người ấy với thang giá trị và thước đo giá trị của cộng đồng và xã hội; độ phù hợp càng cao nhân cách càng lớn. Nhân cách các danh nhân như nhân cách Nguyễn Trãi, nhân cách Hồ Chí Minh, … là mẫu hình nhân cách lý tưởng của thời đại; khi độ phù hợp đó phát triển theo chiều âm (-), tức là ngược chiều với thang giá trị và thước đo giá trị của cộng đồng và xã hội, thì khi ấy là tình trạng suy thoái nhân cách. Độ phù hợp đó nói lên mối quan hệ giữa con người và cộng đồng, xã hội. Lucien Seve, nhà triết học Pháp, đã định nghĩa: “Nhân cách là hệ thống hoàn chỉnh các quan hệ xã hội giữa các hành vi ứng xử” Định nghĩa của chúng tôi rút ra từ các công trình nghiên cứu nhân học, tâm lý học, giáo dục học tiến hành trong thập kỷ vừa qua, và mặt khác, định nghĩa này đã và đang có tác dụng chỉ đạo một số công trình nghiên cứu nhân cách người ở nước ta. Cấu trúc nhân cách Nói cấu trúc nhân cách là nói tới các thành tố của nhân cách tạo thành một hệ thống có một cấu tạo trung tâm (còn gọi là hạt nhân của nhân cách) và hệ thống quan hệ giữa các thành tố. Các thành tố của nhân cách được xây dựng nên từ tổ hợp các tính chất của kiểu loại thần kinh, các quá trình nhận thức, các thái độ xúc cảm, tình cảm và hành động… Ví dụ, khả năng nhận định nhạy bén, sâu sắc khi giải quyết vấn đề của cuộc sống hay khi tư duy lý luận, hứng thú nghề nghiệp, tính linh hoạt trong cách đi, cách nói, cách nghĩ, cách làm, lối sống và quan niệm về thế giới, tinh thần sẵn sàng đem năng lực của mình góp phần cải tiến, biến đổi, cải tạo xây dựng xã hội... tạo nên một nhân cách có độ phù hợp cao trong thang giá trị và thước đo giá trị của người mang nhân cách đó và của xã hội, cộng đồng.
  • 11. Tất cả các thái độ riêng ấy đều gắn bó với động cơ chung của cả cuộc sống, cũng như với động cơ cụ thể trong từng hoạt động ở mỗi người. Động cơ là hạt nhân của nhân cách. Động cơ có thể là sự thích thú, ham mê, ước mơ, sự khích lệ, điều kiện bảo đảm cuộc sống, phần thưởng, lợi ích, sự đánh giá, v.v.. Trong đó, động cơ cao nhất là lý tưởng của cuộc đời như: một hình ảnh đẹp, một chân lý khoa học, một chuẩn đạo đức, một sự nghiệp. Bằng hoạt động, những điều đó trở thành nhu cầu của cuộc sống ở từng người. Một động cơ có thể có nhiều mức. Lấy động cơ học tập của học sinh làm ví dụ. Đi học có thể vì: 1 - Theo bạn mà đi; 2 - Sợ bi Phạt; 3 - Học để có tri thức, để tìm chân lý; v.v.. tương tự như vậy, cuộc sống là một chuỗi hoạt động theo nhiều động cơ nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau. Có các động cơ nhằm thoả mãn các nhu cầu tinh thần, như nhu cầu nhận thức, nhu cầu tình cảm, nhu cầu giao lưu, v.v. là đặc trưng nổi bật của con người, tạo nên một nhân cách đẹp, tích cực. Có thể có nhiều cách để tìm hiểu xem một người có hệ thống động cơ nào, động cơ nào là động cơ chính. Nhân cách là mối quan hệ giữa các hệ thống động cơ quy định sự phù hợp trong thang giá trị thước đo giá trị và định hướng giá trị của người mang nhân cách đó với cộng đồng và xã hội. So sánh học sinh ngoan và học sinh chậm tiến, như các công trình nghiên cứu ở Việt Nam cho biết, thấy rõ một bên, trẻ vươn tới những gì thuộc xu thế tiến bộ của xã hội, còn bên kia, trong quá trình suy thoái nhân cách ngày càng lao vào chỗ trở thành nô lệ các nhu cầu bản năng. Hình thành và phát triển nhân cách Cùng với nhân học, tâm lý học khẳng định rằng, từ khi có loài người, sự phát triển tâm lý, trí tuệ, nhân cách chủ yếu tuân theo quy luật, lĩnh hội đi sản văn hóa vật chất và tinh thần, do các thế hệ trước để lại trong công cụ lao động, công trình kiến trúc, tác phẩm văn học; khoa học, v.v. Tất nhiều, mỗi người phải có thân thể mới có tâm hồn; tâm lý từng người phải có cơ sở vật chất là hoạt động thần kinh trung ương. Nhưng nếu người sinh ra không ở với loài người mà ở với sói - như trường hợp xảy ra với hai em bé Ấn Độ, chỉ đi
  • 12. bằng hai chân, hai tay, không biết nói, không biết cười, không biết ăn theo kiểu người, không có thói quen và nhu cầu mặc quần áo... thì không có một nét nào của nhân cách con người. Như vậy, con người vốn sinh ra chưa có nhân cách. Nhân cách là cấu tạo mới do từng người tự hình thành nên và phát triển trong quá trình sống - giao tiếp, học tập lao động, vui chơi, v.v.. Nhân cách không có sẵn bằng cách bộc lộ dần dần các xung đột bản năng nguyên thuy mà một lúc nào đó đã bị kiềm chế, chèn ép. Bằng các hoạt động xã hội, con người ngay từ khi còn nhỏ đã dần dần lĩnh hội nội dung loài người chứa đựng trong các mối quan hệ xã hội có liên quan tới các hoạt động của trẻ. Phương pháp giáo dục có hiệu quả là tổ chức cho trẻ hoạt động lĩnh hội các nội dung đó mà hình thành nhân cách, chứ không phải là tạo ra các biện pháp cho phù hợp với mức độ trưởng thành của trẻ. Nói theo Lênin, cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm lý, đạo đức của xã hội mà nó là thành viên. Nhân cách của con người hình thành và phát triển theo con đường từ bên ngoài vào nội tâm, từ các quan hệ với thế giới tự nhiên, với thế giới do vật do các thế hệ trước và bản thân tạo ra, các quan hệ xã hội mà nó gắn bó. Toàn bộ công tác giáo dục của chúng ta nhằm xây dựng toàn diện nhân cách của con người Việt Nam sống và làm việc trong thời đại đổi mới. Đó là nhân cách của người lao động sáng tạo, năng động, có tay nghề, có tâm hồn... chứ không phải con người sống cốt cân bằng với ngoại giới hay chỉ thích nghi với xã hội. Nhân cách hình thành và phát triển bằng các hoạt động, trong đó có một hoạt động có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách là hoạt động giao tiếp, vì tất cả các mối quan hệ có ở con người, quan hệ người – vật, quan hệ người - máy... đều gắn bó bằng cách này hay cách khác với quan hệ người - người. Nhất là trong thời đại thông tin, kinh tế tri thức, các quan hệ giao tiếp người - người càng trở nên có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Có tổ chức được các mối quan hệ giao lưu tốt mới hy vọng có được nhân cách tốt. Điều đặc biệt quan trọng ở đây là người được
  • 13. giáo dục có hoà nhập với các mối quan hệ đó hay không. Môi trường giáo dục nhải được hiểu như là hệ thống các mối quan hệ giao lưu và sự hoà nhập này. Theo ý nghĩa đó, có gia đình tốt chưa chắc đã có môi trường giáo dục tốt. Sống trong gia đình, đi học ở nhà trường, sinh hoạt trong đoàn thể và kể cả trong trường hợp ba tổ chức này có kết hợp với nhau, chưa chắc đã có môi trường giáo dục tốt.. Vấn đề là ở chỗ từng tổ chức này, cũng như sự kết hợp của ba tổ chức này có thật sự thu hút được các em vào “luồng” giáo duc mà chúng ta mong muốn không. Nghiên cứu trẻ em chậm tiến vốn sinh ra và lớn lên trong gia đình nền nếp, tiến bộ, có nhiều điều kiện cho con cái ăn học, có các quan hệ xã hội phong phú, tốt đẹp đã cho chúng tôi thấy rõ như vậy. III. Giáo dục nhân cách theo tư tưởng Hồ Chí Minh Nhân cách là một vấn đề hết sức lớn đối với giáo dục, giáo dục nhân cách là vấn đề trung tâm. Xét đến cùng, toàn bộ công việc của giáo dục là góp phần phát triển con người, hình thành nhân cách, phát triển nhân cách. Giáo dục tạo điều kiện cho mỗi em học sinh được phát triển tối ưu nhân cách của mình mang đậm tính dân tộc, tính xã hội, tính cộng đồng, gắn bó với gia đình, nhưng lại là một nhân cách riêng. Đó là mục tiêu của nền giáo dục. Trong lịch sử, nhân cách con người đã nhiều lần bị hoà tan vào cộng đồng, thậm chí trong xã hội tư bản chủ nghĩa thì nhân cách đã bị tha hóa. Nhân cách chính là bộ mặt tâm lý của mỗi con người cụ thể. Nhân cách là hệ thống các thái độ của con người. Mỗi người phải có một bộ mặt tâm lý riêng, bao gồm các thái độ riêng của từng người. Tâm lý của mỗi người đương nhiên là phản ánh các đặc điểm tự nhiên, đặc điểm xã hội... Trong xã hội chúng ta, diện mạo tâm lý riêng của một người phải nổi bật lên một nhân cách công dân. Nói cách khác, chúng ta xây dựng nhân cách của con người vừa có đạo lý, vừa có nhân lý, vừa có công lý – một công dân có đặc điểm nhân cách riêng của mình là mục tiêu của các nhà giáo dục. Cho nên, người ta nêu rõ rằng, giáo dục tương lai là làm cho mỗi người đúng là một con người ở trong xã hội, vấn đề cá tính rất quan trọng.
  • 14. Trong công táo giáo dục, nhiều khi chúng ta đã làm cho học sinh mất cá tính. Ai có nét gì khác người là thành vấn đề. Con người phải có cá tính, nhưng cá tính đó không thể thoát ly khỏi xã hội. Do đó phải tập trung làm nổi lên con người công dân. Khó có hy vọng xây dựng được một mẫu chung cho tất cả mọi người. Mỗi người là một mẫu của chính mình, nhưng phải tuân theo định hướng chung của xã hội, của cộng đồng, có những nét cá tính rất rõ rệt, có bộ mặt tâm lý rất riêng biệt; có hệ thống thái độ đúng đắn với mình và với xung quanh; đồng thời phải hết sức nhấn mạnh tính tích cực xã hội, đóng góp cho xã hội. Suy nghĩ về các tác phẩm của chủ tịch Hồ Chí Minh và về cuộc đời hoạt động của Người, chúng ta thấy Bác là một tấm gương vĩ đại, sống và chiến đấu để trở thành người và làm người, trở thành một nhân cách lớn. Bác đã nêu cao tư tưởng: Nhiệm vụ của giáo dục trước hết là dạy học sinh, thế hệ trẻ, các chiến sĩ, các sĩ quan thành người và làm người. Hệ tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như toàn bộ đời hoạt động của Người đều có xuất phát điểm đầu tiên là từ lòng thương yêu con người, đặc biệt thương yêu người nghèo khổ, lầm than, nô lệ, gắn liền với sự tủi nhục trước cảnh "nước mất, nhà tan", với lòng yêu nước nồng nàn. Hệ tư tưởng Hồ Chí Minh thấm đượm lòng nhân ái, chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn. Và cả cuộc đời Người, từ hành vi đối xử thường ngày với người xung quanh đến công việt lãnh đạo nhà nước, hoạt động quốc tế, ở mọi nơi, mọi lúc đều toát lên tinh thần nhân văn, nhân tạo, nhân ái vô cùng sâu xa và hết sức bình dị, gần gũi với mọi người, cảm hoá được mọi người, mang lại một tác dụng to lớn cho cách mạng, cho dân tộc và cho cả loài người. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh được thế giới tôn vinh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa, người chiến sĩ và nhà lãnh đạo lỗi lạc của phong trào giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân. Tên tuổi Hồ Chí Minh gắn liền với sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng dân tộc, giải phóng giải cấp. Nhân cách Hồ Chí Minh là nhân cách Việt Nam tiêu biểu, được hun đúc trong hệ thống giá trị truyền thống của mấy nghìn năm lịch sử hùng tráng,
  • 15. quật cường, bất khuất, hy sinh và chịu đựng của dân tộc Việt Nam và xu thế tự giải phóng của loài người. Nhân cách ấy đã có ảnh hưởng to lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách ngày nay ở nước ta. Tinh thần Hồ Chí Minh, nhân cách Hồ Chí Minh tạo ra sức mạnh tâm lý kỳ diệu. Hồ Chí Minh đã và đang góp phần tạo ra diện mạo tâm lý hoàn toàn mới mẻ của cả mấy thế hệ, suy rộng hơn, của cả một dân tộc, một thời đại. Chính đó là sức mạnh giúp chúng ta giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và biết bao thành tích kỳ vĩ khác. Diện mạo tâm lý ấy chính là nhân cách với các hệ thống thái độ mang một chất lượng mới, khác hẳn trước đó: Thái độ với đất nước: "Tận trung với nước, tận hiếu với dân". Thái độ đối với giá trị con người: "Ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng". Thái độ đối với lao động: "Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta". Thái độ với bản thân: luôn luôn có tinh thần phê bình và tự phê bình; "ham học, ham làm, ham tiến bộ"... Nói về tư cách người cách mạng, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người viết: Tự mình phải Cần kiệm Hoàa mà không tư, Qủa quyết sửa lỗi mình Cẩn thận mà không nhút nhát Hay hỏi Nhẫn nại (chịu khó) Hay nghiên cứu, xem xét.
  • 16. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo Nói thì phải làm Giữ chữ nghĩa cho vững Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất.. Bí mật Đối người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người. Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm Phục tùng đoàn thể". Trước đây, trong chương trình các môn học có cấu tạo chung là tri thức, kỹ năng và thái độ. Ngày nay, các nhà nghiên cứu giáo dục trên thế giới đề nghị xếp sắp lại cấu tạo đó theo trình tự ưu tiên: thái độ, tri thức, kỹ năng. Vấn đề đang đặt ra hiện nay là, trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khi quy luật giá trị tác động rõ rệt ở khắp mọi nơi, thang giá trị đang có biến đổi mạnh, kéo theo những biến động mạnh trong nhân cách, trong hệ thống thái độ, chúng ta phải tiến hành tác động vào định hướng giá trị của xã hội, giáo dục giá trị và định
  • 17. hướng giá trị cho học sinh, cho thế hệ trẻ. Vấn đề là phải tạo ra một thang giá trị lành mạnh, thước đo giá trị hợp lý, phát huy tính tích cực có lợi cho xã hội và từng cá thể, tính năng động của cả cộng đồng và xã hội, giải phóng mọi sức sáng tạo, mọi lực lượng sản xuất, tạo ra năng suất lao động cao ở mọi lĩnh vực của đời sống, nâng cao hiệu quả của tất cả các hoạt động của mọi người. Giáo dục nhân cách là cốt lõi của công việc giáo dục cho thế hệ trẻ và toàn xã hội cũng như giáo dục của từng cá thể. Giáo đục nhân cách là cốt lõi của sự hình thành và phát triển con người: giáo dục là dạy và học làm người. Con người, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, có cấu trúc nhân cách là đức và tài, trong đó đức là nền tảng. Thành tố tài có tiểu cấu trúc là các năng lực. Thành tố đức có các tiểu cấu trúc cơ bản là cần, kiệm, liêm, chính. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta hãy cùng nhau một lần nữa làm cho nhân cách Hồ Chí Minh - nhân cách tiêu biểu Việt Nam và tư tưởng tâm lý học nhân cách và giáo dục nhận cách của Người trở thành hạt nhân trong thang giá trị của xã hội ta, định hướng giá trị cho mọi người, phát huy các giá trị truyền thống dân tộc, tạo thành một sức mạnh mới, ý chí mới. Chúng ta hãy hết lòng, hết sức giáo dục con em thành người và làm người với những đức tính: - Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. - Có tinh thần tích cực đóng góp cho xã hội, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. “...” - Có lối sống lành mạnh, nếp sống, văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trưởng sinh thái.
  • 18. - Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. - Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực. B. VỀ NHÂN CÁCH VÀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH PGS. TS. LÊ ĐỨC PHÚC Từ trước tới nay, nhân cách với tư cách là hiện tượng tâm lý và xã hội đã được nhiều người nghiên cứu trên những lĩnh vực khác nhau. Giới tâm lý học ở Việt Nam cũng thường bàn về vấn đề này, ví dụ như: Nguyễn Ngọc Bích, Phạm Hoàng Gia, Phạm Minh Hạc, Trần Hiệp, Hoàng Xuân Hinh, Đặng Xuân Hoài, Bùi Văn Huệ, Đỗ Long, Nguyễn Đức Minh, Trần Trọng Thuỷ, Nguyễn Quang Uẩn... Bên cạnh những bước tiến đáng ghi nhận, chúng ta có thể thấy vẫn còn nhiều điều cần được tiếp tục làm sáng tỏ, nhất là khi nghiên cứu theo yêu cầu và trong những điều kiện mới ở nước ta. Tuy nhiên, do đây là một đề tài lớn, đang có nhiều nhóm chuyên gia khác nhau cùng thực hiện, nên chúng tôi chỉ trình bày quan niệm về lý luận và phương pháp, góp phần tạo ra sự định hướng hành động cụ thể, thống nhất. 1. Lý luận về nhân cách Trước hết, hai câu hỏi cần được giải đáp là "Lý luận là gì?" và "Nên lựa chọn lý luận như thế nào?". Trong tiếng Việt, giới ngôn ngữ học định nghĩa “lý luận” là: “Hệ thống những tư tưởng được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn”. Còn theo M.H. Marxn, đó là những ý kiến nói về những mối quan hệ giữa các quy luật, được gắn kết lôgic với nhau theo các quy tắc diễn dịch nhất định và trật tự nào đó. Tôi lựa chọn hai trong nhiều định nghĩa khác nhau đó để muốn chứng minh rằng: a) Lý luận còn được hiểu không giống nhau; và b) Nếu không xuất phát từ nhận thức luận (là chủ yếu) thì khó phát hiện được
  • 19. cái đúng hoặc cái sai, cái chưa tường minh trong từng định nghĩa. Cụ thể, trong định nghĩa thứ nhất, hệ thống những tư tưởng phải phản ánh được các quy luật và kinh nghiệm thực tiễn, bao hàm cả kết quả thực nghiêm khoa học. Trong khi đó, định nghĩa thứ hai vừa không phù hợp với tâm lý học như tác gỉa khẳng định trong ấn phẩm đã dẫn, vừa bỏ qua mối quan hệ với thực tiễn. Vì thế, chúng ta có thể cho rằng lý luận là một hệ thống những tư tưởng phản ánh các quy luật và những mối quan hệ giữa các quy luật, được khái quát từ kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu khoa học, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Việc đánh giá và lựa chọn lý luận diễn ra theo quan niệm và hình thức khác nhau mà nhiều nhà nghiên cứu đã tổng kết như: theo trực giác, dựa vào uy tín hoặc đa số, so sánh với những lý luận khác, v.v.. Tuy nhiên, rốt cuộc và trên bình diện khoa học, người ta cũng đã đưa ra một số tiêu chí sau đây: 1. Tính nhất quán bên trong (internal consistency); 2. Tính nhất quán bên ngoài (external consistency); 3. Khả năng kiểm nghiệm (testability); và 4. Khả năng giải thích (explanatory power). Trước khi xem xét vấn đề nghiên cứu hiện nay, chúng ta hãy điểm qua một số quan điểm lý luận và thực tiễn khác nhau. 2. Khát quát lịch sử nghiên cứu nhân cách Trong cuốn “Chủ nghĩa Mác và lý luận về nhân cách", ngay trong những câu mở đầu chương IV, Lucien Seve có dẫn một câu của P.Janet như sau: "Liệu con người đến một ngày nào đó có tạo rạ được những tiến bộ tương tự trong thời gian như đã tạo ra được trong không gian hay không?. Câu hỏi ấy thiết tưởng cũng có thể được nêu lại sau nhiều thập niên khi xem xét tinh hình nghiên cứu, phát triển tâm lý học nhân cách ở nước ngoài. Song, tự bản thân nó, việc giải quyết nhiệm vụ này là vô cùng phức tạp, khó khăn. Theo nhận thức luận, vấn đề đầu tiên liên quan đến sự tồn tại (hay không) của một khoa học bất kỳ là đối tượng hay phạm vi đối tượng của nó.
  • 20. Đã có một thời, như L. Canestrelli thốt lên: “Nhân cách là một cấu tạo tinh thần của chúng ta”, nhiều người cho rằng những vấn đề định nghĩa của tâm lý học nhân cách dường như không chỉ là chưa được giải quyết mà còn là không thể giải quyết nổi. Như thế, sự quan tâm đến nhân cách trước hết là ở chỗ này. Theo dòng lịch sử và loại trừ tâm lý học tư biện, người ta phải coi năm 1879, khi W.Wundt thành lập phòng thực nghiệm tâm lý học đầu tiên trên thế giới, là cái mốc của sự phát triển tâm lý học hướng theo tinh thần khoa học. Tuy nhiên, về nhân cách, W.Wundt và các học trò của ông đã đi theo cách thức của thực nghiệm khoa học tự nhiên. Nhân cách mất đi sự thống nhất và bị chia thành những bộ phận riêng lẻ thoát ly khỏi những điều kiện, hoàn cảnh sống cụ thể, đa dạng của nó. Khoảng hai thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, nhiều nhà tâm lý học, trên cơ sở những tiến bộ mới trong tâm lý học, đã phê phán tâm lý học thực nghiệm truyền thống và xác định những phương hướng mới. Thoạt tiên, đó là sự khẳng định vấn đề nhân cách con người phải là trọng tâm của tâm lý học và nhấn mạnh tính toàn vẹn, mối quan hệ đa dạng của nhân cách. Tuy nhiên, đó mới chỉ là tuyên ngôn, còn trong thực tế, tâm lý học vẫn chưa có khả năng bước hẳn qua được nhịp cầu trở ngại đó mà điển hình nhất là tâm lý học sai biệt. Những quan niệm của tâm lý học sai biệt khi nghiên cứu các quá trình tâm lý chịu ảnh hưởng của tâm lý học thực nghiệm đại cương và đại diện của nó là F.Galton với tác phẩm "Về những năng lực của người (1883) cũng như W.Stern với công trình "Tâm lý học sai biệt và những cơ sở phương pháp của nó" (1921). H.D.Schmidt đã tóm tắt nội dung tinh thần của xu hướng này như sau: - Tâm lý học sai biệt không phải là tâm lý học thực sự về cá tính mà chỉ nghiên cứu những sự khác nhau chủ yếu của các chức năng và thuộc tính tâm lý, do đó là cầu nối giữa tâm lý học đại cương với việc tìm hiểu các cá tính về tâm lý học;
  • 21. - Những sự khác biệt trong mỗi chức năng được quy về những hình thức cơ bản. những “kiểu” nào đó hoặc được xem xét theo một thang bậc lượng hoá chúng; - Các đặc điểm của những chức năng riêng rẽ được nghiên cứu trong “tương quan" tạo nên nguyên tắc tổng hợp chủ yếu nhất của tâm lý học sai biệt; - Tâm lý học sai biệt đã phát triển những phương pháp mà W.Stern giải thích bằng sơ đồ cơ bản sau: Theo W. Stern, tâm lý học phải được xây dựng trên cơ sở của thuyết nhân cách coi đối tượng của nó là cá nhân, một chính thể sống động, cá thể, độc đáo. Nhân cách chỉ là "cá tính toàn vẹn” ("Totale Individualitaet"). Tâm lý học sai biệt góp phần đáng kể vào sự phát triển phương pháp luận và phương pháp trong việc so sánh đặc điểm, tương quan (ví dụ, trí thông minh và điểm học ở nhà trường) của (hoặc giữa) cá nhân, nhóm được nghiên cứu. Ảnh hưởng của nó còn lan rộng cho đến ngày nay. Tuy nhiên, tâm lý học không coi đối tượng chủ yếu của mình là sự khác biệt tâm lý mà là chính bản thân cái tâm lý. Mặt khác, so sánh chỉ là bước đi sau những quá trình khác trong nghiên cứu. Và cuối cùng, không thể chỉ dùng loại chuẩn trung bình thu được từ một tập hợp (population- dù manh tính đại diện) mà không tính đến yêu cầu hoạt động thực tế. Song, trong một thời gian dài, nhân cách lại được hiểu như là toàn bộ các mặt bẩm sinh quy định hành vi diễn ra theo một phương thức nhất định nào đó. Trước hết cần điểm lại những xu hướng sinh vật hoá, chú ý nhiều đến đặc điểm hình thể, thể tạng hay giải phẫu - sinh lý, kiểu loại thần kinh,v.v.. Có lẽ cũng vì thế, Ernst Kretschmer đã chia các nhà khoa học thành hai nhóm: phần lớn các nhà triết học, thần học, luật học thuộc loại gày gò, mảnh khảnh, trong khi đó, đa số bác sĩ, các nhà thực nhiệm khoa học tự nhiên lại thuộc loại béo. W.H.Scheldon cũng quan niệm rằng giữa đặc điểm cấu tạo cơ thể (tương đối không phụ thuộc vào giới tính) và những đặc điểm trong phạm vi thuộc tính tâm lý có mối quan hệ với nhau. Ví dụ:
  • 22. Các thành phần cấu tạo cơ thể Các thành phần tâm lý Kretschmer Leptosom (mảnh mai, dáng mảnh khảnh) Pycinc (béo, mập mạp) Athletisch (lực lưỡng) Nhạy cảm, hướng nội, căng thẳng giữa cái tôi – môi trường, tự kỷ, kỷ luật, kín đáo… Hồ hởi, hướng ngoại, sẵn sàng, vị tha, vui tính, hào phóng, thích kết bạn, thích nghi với hiện thực… Chậm chạp, tập trung, chung thuỷ, dễ nổi giận, ít nói, cứng nhắc… Scheldon Ectomorphic (dong dỏng cao, mảnh dẻ) Endomorphic (to béo) Mesomorphic (vạm vỡ, thể tạng trung bình) Nhạy cảm, rụt rè, kín đáo hướng nội, tò mò, ham hiểu biết dễ gợi dục tình… Dễ chịu, hướng ngoại, khoan dung, cởi mở, thích kết bạn… Tích cực, hung hăng, ít nhạy cảm, cứng nhắc, chung thuỷ, thiếu thận trong… C.Lombroo, người đại diện cho cái gọi là trường phái Italia, thường giải thích các hiện tượng xã hội bằng các yếu tố sinh học cũng đã từng bị G.Tarde phê phán vì lẽ đó. Theo xu hướng này và chịu ảnh hưởng của thuyết phản xạ có điều kiện (Bechteren, Paplov), chủ nghĩa hành vi nổi lên như một trường phái tâm lý có ảnh hưởng nhất vào đầu thế kỷ XX với Watson, người sáng lập và các đại diện của nó là G.M.Mead, E.L.Thorndiker, E.C.Tolman, C.L. Hull, K.S.Lashley, E.R.Guthrie. Có thể coi tuyên bố “tâm lý học là khoa học về hành vi” của Wastson là cương lĩnh của phái này. Hành vi được hiểu như những cả động đáp lại của cơ thể đối với kích thích của môi trường. Như X.L.Rubinstein phê phán, đây quả là một thứ “tâm lý học phi tâm lý”. Vấn đề chủ yếu ở đây còn là trong tâm lý học hành vi, người ta đã hoặc phủ nhận ý thức với tư cách là đối tượng của sự nhận thức khoa lọc
  • 23. (Watson), hoặc quy ý thức vào các quá trình sinh lý (Lashley). Sở dĩ như vậy vì, như Watson tự giải thích, tâm lý học hành vi ra đời trực tiếp từ những công trình nghiên cứu về hành vi của động vật. X.L. Rubinstein nhận xét rất đúng là: "Việc quy các hình thức cao cấp của hoạt động con người vào một tổng số máy móc hay một tập hợp các phản ứng cơ bản, những phản xạ dẫn đến chỗ làm mất đi tính độc đáo về chất của nó". Khi đề cập những vấn đề cơ sở nhận thức luận của tâm lý học tri giác, N.Bischof chia chủ nghĩa hành vi thành ba nhóm: a) Chủ nghĩa hành vi dung tục (vulgar) coi hành vi là đối tượng nhận thức, phủ nhận cái tâm lý. Do đó, việc nghiên cứu nhân cách theo Watson chỉ là nghiên cứu hệ thống các thói quen tạo thành nhân cách; b) Chủ nghĩa hành vi phương pháp luận (methodological) cũng xuất phát từ hành vi, coi đó là đối tượng nhận thức. Chủ nghĩa này, không loại trừ sự tồn tại của các hiện tượng tâm lý nhưng lại cho rằng không thể nào hiểu biết chúng một cách khoa học. Với công thức R-f (S), trong đó R là hành vi và S là kích thích nhân cách, đối với Skinner, chỉ là một thực thể hoàn toàn được điều chỉnh từ bên ngoài; c) Chủ nghĩa hành vi lôgic, hiện là một trường phái nổi bật, cũng quan niệm hành vi là đối tượng khởi đầu nhưng không nhìn nhận các hiện tượng quan sát thấy và đo được là biểu hiện của tâm lý dù tồn tại thực tế, khách quan. K.Holzkamp, một đại diện của tâm lý học phê phán, cũng như A. Kossakowski đều phê phán bệnh quy rút về hai mặt đó. Nếu con người chẳng khác gì cơ thể động vật thì cái xã hội đã bị quy thành cái sinh học. F.Klix nhận xét cả chủ nghĩa hành vi mới cũng chỉ là một sự mở rộng chủ nghĩa hành vi ban đầu, chưa khắc phục được phương hướng sai lầm về phương pháp luận khi giải thích các hiện tượng và quy luật tâm lý. Các nhóm khác nhau của chủ nghĩa hành vi nói trên có ảnh hưởng không ít đối với cả những nhà tâm lý học có tên tuổi. Eysenok thể hiện rõ màu
  • 24. sắc của chủ nghĩa hành vi lôgic với công thức "S - O – R”: Cattell, Guilford đều coi hành vi là tâm điểm của tâm lý học nhân cách, thậm chí Cattell còn gọi tâm lý học của ông là "tâm lý học hành vi” và các khái niệm có liên quan tới ý thức như "hứng thú” hay “tức giận” đều phải được định nghĩa bởi biểu hiện của chúng trong hành vi hay sinh lý. Chủ nghĩa nhân cách (Personalism) gắn liền với tên tuổi của W.Stern (1871 - 1938), người muốn tạo ra sự tổng hợp giữa những thành tựu thực nghiệm và khoa học tinh thần trong tâm lý học, đã coi nhân cách là hội điểm của yếu từ bên trong (di quyền) và yếu tố bên ngoài (môi trường). Do đó, chủ nghĩa nhân cách còn được gọi là thuyết hội tụ (Konvergenztheorie), được minh họa trong một mô hình cơ học, máy móc Theo tinh thần của nó, môi trường chỉ có ý nghĩa bổ sung và là sự tiếp tục của cái di truyền. Màu sắc nội sinh (endogenese) cũng không mấth khi về sau, nó được thay thế, cải tiến bằng một công thức khác: di truyền x môi trường. Trong tâm lý học theo chủ nghĩa nhân cách, “cá nhân” trở thành một khái niệm trừu tượng, siêu hình, tách khỏi nhân cách mang tính lịch sử, cụ thể của con người. Cá nhân không chỉ được xem như con người xã hội mà còn là cơ thể, tế bào, các vật thể vô cơ và thậm chí là nhân dân, thế giới, chúa trời. Tuy nhiên, cũng phải thấy rõ những đóng góp của W.Stern khi chủ nghĩa nhân cách muốn khắc phục mặt yếu kém của chủ nghĩa hành vi, một thứ tâm lý học phi linh hồn để tạo nên “một khoa học về cá nhân trải nghiệm và có khả năng trải nghiệm” Nhân học văn hoá (Culturanthropology), một xu hướng nghiên cứu phát triển chủ yếu ở Mỹ. Xu hướng này được nhắc tới ở đây vì những quan niệm đề cao khái niệm “văn hoá” của R.Benedict, B.Malinowski, nhất là của M. Mead. Ngay từ những năm 1940, R.Linton đã phê phán sự xa rời bản chất và vai trò của con người. Và sau này, ngay cả G.Allport, nhất là A.N.Leonchiev trong cuốn Hoạt dộng – Ý thức – Nhân cách còn chỉ rõ các nhà tâm lý học nghiên cứu cá thể với tư cách là nhân cách, trong khi đó, văn hoá chỉ là đối
  • 25. tượng của sử học và xã hội học. C.N. Cornilov và cả L.Seve cũng thường được coi là những người đại diện cho trường phái xã hội hoá này. Trong tác phẩm đã dẫn, L.Seve coi "nhân cách là hệ thống sinh động của những quan hệ xã hội giữa các phương thức hành vi, nhấn mạnh đó là "cơ sở chung, đầy đủ nhất để xem xét những mặt cơ bản khác nhau của đời sống cá nhân". Dựa theo những số liệu của dân tộc học, nhân học văn hoá đã đi đến một kết luận phản tâm lý, sai lầm rằng các đặc điểm tâm lý cơ bản được quy định bởi văn hoá chứ không phải bởi bản chất con người (A.N.Lêonchiev). Mối quan hệ giữa "văn hoá" và "cá nhân đã có lúc được trình bày đơn giản như sau: Sự phát triển cá nhân được quy định bởi những thói quen chăm sóc thời thơ ấu của cha mẹ. Những thói quen đó được xem như “những thiết chế cơ sở", được điều chỉnh bởi những chuẩn mực nhất định phản ánh cả những điều kiện kinh tế. Nhưng những điều kiện kinh tế chỉ là những khả năng có thể tác động tới những thói quen như vậy. Và có những yếu tố quyết định của giáo dục cũng trở nên mờ nhạt trong vai trò “chuẩn bị" cho sự phát triển của "nhân cách cơ sở” (Basic personality). Trong những năm gần đây, sự so sánh giữa các nền văn hoá được tăng cường do bản thân tầm quan trọng của vấn đề, nhưng mặt khác còn do sự mở cửa của các quốc gia, sự xuất hiện không ít những vấn đề mang tính toàn cầu. Chẳng hạn, nhiều người trong Câu lạc bộ Mensa, một tổ chức quốc tế hiện có trên 100.000 người ở trên 100 nước, khi nghiên cứu về trí thông minh đã kết luận: trí thông minh do văn hoá quy định. Ở nước này, đặc điểm nổi trội có thể là tư duy phaant ích, ở nước khác lại là tư duy liên tưởng, v.v.. Song, như J.Mathes viết: "Sai lầm tư duy gây nên tình trạng tiến thoái lưỡng nan là do quan niệm cho các nền văn hoá là những thực thể có những đặc điểm độc đáo và con người không phải là cái gì khác hơn là những người mang những đặc điểm văn hoá đó”. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, tâm lý học nhân cách ở các nước phương Tây cố gắng vượt qua những sai lầm, hạn chế trong quan điểm lý luận – phương pháp luận và cách làm của mình. Tuy nhiên, chỉ căn
  • 26. cứ vào những cuộc thảo luận và một số công trình xuất bản trong những năm 1960 và 1970, ta cũng có thể thấy rõ sự hình thành của hai xu hướng đối lập cơ bản. Nói như H. Keuhn và K.Junghaenel, đó là xu hướng mô tả cái riêng biệt, độc đáo, độc nhất vô nhị trong nhân cách và xu hướng đi tìm các quy luật. Xu hướng thứ nhất trở nên phổ biến đặc biệt ở Mỹ, Đức và Pháp, song cũng có ảnh hưởng ngày càng nhiều ở Bỉ, Ôxtrâylia, Hà Lan, Thuỵ Sĩ, Italia, Áo, Tây Ban Nha, Nhật Bản, thậm chí cả Nam Mỹ. Những đại diện có uy tín nhất là Thomas, Lersch, Arnold (Đức), Allport, Ch.Buhler, Maslow, Rogers, May (Mỹ), Nuttin (Bỉ) Stanford, Rogers Và Maslow coi đây là "lực lượng thứ ba", là tâm lý học nhân văn và đi theo thuyết hiện tượng - hiện sinh. Roger còn nhận xét đây là “dòng thống trị” có những tác động quan trọng đối với tâm lý học hiện đại Lý luận nhân cách của Thomae thường được đánh giá là kinh điển đối với những ai học và nghiên cứu tâm lý học ở Đức và tại nhiều nước khác. Theo ông, đối tượng nghiên cứu nhân cách là cá nhân độc đáo và thế giới trải nghiệm của nó. Thomae coi nhân cách là khái niệm bao hàm tất cả các sự kiện hợp thành một tiểu sử cá nhân, còn bản chất của con người, của nhân cách và cá tính là những phương thức phản ứng độc đáo vốn có tự phát ở cá nhân đối với một trải nghiệm mà ông đánh đồng một cách sai lầm với cuộc sống hay sự tồn tại thực dụng nhất. Như vậy, Thomae đã quy rút bản chất thực sự của con người thành một hình ảnh chủ quan mà nhũng cơ sở khách quan của nó đã được tạo lập trong mỗi cả nhân. Nhân cách là "cá nhân và phản ứng độc đáo của nó” và cá tính là "bí mật của tất cả mọi sự tồn tại”. Tương tự như Thomae, Lersch đề cao "sự biểu hiện cá nhân của mỗi người”. Arnold xây dựng quan niệm về nhân cách dựa trên triết học: “Nhân cách là một tồn tại cá nhân nhất định, độc nhất vô nhị, không thể phân chia, được đặc trưng bởi sự thể hiện tính cách do tư chất và môi trường tạo ra”. Ông giải thích thêm: “Nhân cách thể hiện mối quan hệ siêu việt của con người” và cho rằng nhân cách xuất hiện khi một người hướng theo các lý
  • 27. tưởng nhân văn trái với đám đông quần chúng chỉ là các “cá nhân” và hướng theo chủ nghĩa vật chất. Có thể nói, Arnold đã đại diện cho cả thuyết nội sinh và tinh hoa bảo thủ. Nuttin đem lại cho xu hướng chung một màu sắc mới khi định nghĩa cá nhân là “một chỉnh thể cấu trúc hoá của những ý kiến, niềm tin, thái độ, định kiến, sự ưa thích, thiện cảm và kinh nghiệm”. Đối với Nuttin, thế giới khách quan tồn tại trước hết với tư cách là “thế giới cá nhân”. Sự phát triển nhân cách diễn ra bởi các lực lượng ngẫu nhiên bên trong mỗi cá nhân. Còn về sự phát triển cá tính, Nuttin chia thành hai bậc: a) “Cá tính sinh học của sinh vật” và b) “Cá tính tâm lý xã hội”. Tầng bậc thứ ba nằm ở trên đó là “tầng bậc nhân cách”. Sự phân tầng như thế dẫn đến chỗ tách biệt các cấp độ phát sinh trong tổ chức tâm lý – sinh lý của nhân cách. Ch.Buehler, nữ đại diện chủ yếu của tâm lý học nhân văn, xác định bản chất con người là “một cái gì sâu thẳm ở bên trong, không thể nào định nghĩa được”, “cái tự thân” – “hệ trung tâm luôn luôn có trong phôi thai ngay từ lúc bắt đầu cuộc sống cá nhân”, điều khiển các giá trị của cá nhân. Nhân cách của một cá nhân được xem xét qua sự độc đáo đó. Bà chia ra bốn xu hướng cơ bản của nhân cách: thoả mãn nhu cầu, thích nghi tự giới hạn, bản thân bộc lộ sáng tạo, duy trì trật tự nội tại. Đó là sự mở rộng mô hình của Freud. Rõ ràng, nhân cách và con gười ở đây là một cái gì trừu tượng chứ không phải là con người thực trong những điều kiện xã hội. Còn cội nguồn của tâm lý trở thành kẻ tích cực tạo ra sự tồn tại của bản thân. Và theo dòng suy tư nhất quán ấy, các nhu cầu của con người chỉ còn là tính dục, tình yêu và sự thừa nhận cái “Tôi”. Xu hướng thứ hai có thể được giải thích bằng tuyên ngôn của Herrmann: "Chúng tôi coi việc nghiên cứu nhân cách mang tính kinh nghiệm là xu hướng hoạt động tâm lý học không đòi hỏi phải có những phát biểu về bản chất”. Ông cho nhân cách là "một cấu tạo rất chung mà việc xác định khái niệm cuối cùng của nó có thể nằm ở cuối chứ không phải ở đầu giai đoạn nghiên cứu nhân cách. Do đó, các giai đoạn nghiên cứu thường là: quan sát
  • 28. (đo đạc) -> xác định mô tả -> giải thích bằng những chút tạo theo giả thiết". Herrmann quan niệm nhân cách, cũng như những đặc điểm của nó, không mang tính thực tế khách quan mà chỉ là một "sản phẩm trừu tượng” của tâm lý học, một “khái niệm diễn giải lý thuyết", "một cấu tạo lý luận chung" mà thôi. Chính vì thế, chiến lược nghiên cứu nhân cách phải bỏ qua cái riêng của mỗi cá nhân để đi tới những quy tắc, những khái quát hoá, những quy nạp trừu tượng. Nhưng trong thực tế, không thể tiếp diễn con đường duy tâm chủ quan và vô căn cứ như vậy. Hệ thống khái niệm của Herrmann bao gồm cả “môi trường”, được chia thành hai loại: môi trường vật chất và môi trường học tập". Loại môi trường sau được đồng nhất với môi trường kích thích", "môi trường thông tin", "môi trường số liệu”. Trong môi trường đó, cá nhân là một hệ thống tiếp nhận, xử lý và học tập, thông tin (Hình 2). Chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hành vi trong xu hướng này là Cattell. Trong tác phẩm nổi tiếng nhất của mình, ông định nghĩa "nhân cách là hành vi của một người trong một tình huống nhất định". Công thức theo đó là R = f (S,P) với nghĩa R = hành vi, S = kích thích, và P = nhân cách. Cattell dùng cách phân tích các yếu tố để tìm ra cấu trúc thứ bậc của các nét nhân cách (traits). Cấu trúc tiên nghiệm của Cattell bao gồm những lớp như sau: kỹ năng và kỹ xảo, các nét tính cách, bản năng và động cơ, tâm thế và thái độ, các đặc điểm của vai trò, các trạng thái biến đổi tạm thời. Guilford nêu lên một khái niệm chung, trừu tượng về nhân cách khi xem nhân cách của một cá nhân là "cấu trúc độc đáo của các nét cơ bản”, xuất phát từ tiền đề “mọi nhân cách riêng biệt đều độc nhất vô nhị”. Ông sử dụng một sự phân loại khác Cattell: Các nét giải phẫu chủ yếu, các nét sinh lý chủ yếu, các nét tạo động cơ chủ yếu (nhu cầu, hứng thú, tâm thế), sự phù hợp của các năng lực, các nét khí chất. Mô hình của Guilford và Cattell, như G.Witzlack nhận xét, tập trung chủ yếu vào những đặc điểm hành vi cá nhân, nhờ đó có thể phân biệt nhanh chóng một cá nhân cụ thể với mọi người khác trong nhóm so sánh theo tinh
  • 29. thần tâm lý học sai biệt nhưng đã bỏ qua yêu cầu xã hội trong hoạt động thực tế. Eysenck chú ý tới những lý luận về nhân cách vì cho rằng "các lý luận về nhân cách là một sự bổ sung quan trọng cho hành vi trị liệu và làm cho nhiều sự thật do nghiên cứu mới đây đem lại có thể giải thích được". Nhân cách được ông quan niệm như là một "tổ chức mang tính ổn định ít hay nhiều của tính cách, khí chất, trí tuệ và sinh lý củi cá nhân, quy định tính độc đáo của sự thích nghi đối với môi trường của nó”. Eysenck đã xây dựng cấu trúc nhân cách tương tự như các nhà tâm lý học đi theo xu hướng phân tích các yếu tố. Nhưng khi xét các mặt nhân cách quan trọng nhất, yếu tố di truyền, đặc biệt nổi bật ở Eysenck, người ta thường chú ý đến hai điểm trong mối quan hệ giữa lý luận và phương pháp. Thứ nhất, đó là quá trình tiến hành phương pháp phát hiện cấu trúc tâm lý của nhân cách. - Ở mức thấp nhất, người ta tìm hiểu những phản ứng đối với kích thích có thể tiêu biểu cho một cá nhân này không; - Trong bước thứ hai, các phản ứng theo thói quen (habits) là đối tượng chú ý cùng với xác suất xuất hiện của chúng, - Bước thứ ba, các phản ứng thể hiện trong những test khác nhau của cá nhân được so sánh tương quan với nhau và phân tích theo các yếu tố. Các yếu tố nhóm sẽ là những nét cơ bản của nhân cách; - Bước thứ tư, kiểm tra xem có thể quy các “nét” nào vào một kiểu chung hay tìm cái gọi là yếu tố G. Năm 1953, Eysenck đề xuất “cơ cấu một mô hình toán học về tổ chức nhân cách và rút ra những giả thiết có thể kiểm tra được của mô hình này bằng phương pháp giả thiết – diễn dịch”. Đây chỉ là sơ đồ áp dụng cho kiểu hướng nội (introversion). Ba kiểu khác, hướng ngoại, ổn định và không ổn định cũng được xem xét như vậy. K. Pawlik, G.Witzlack, H. Thomae đã phê phán Eysenok ở một số điểm cơ bản như: a) Hệ thống của Eysenok chỉ có tác dụng phân loại cá nhân một
  • 30. cách đại thể về một số ít mặt chưa đủ đối với nhân cách trong hiện thực da dạng, phong phú; b) Việc sử dụng các mô hình toán học chưa cho phép khẳng định có thể phản ánh nhân cách chính xác; c) Những sai lầm về nguyên tắc của lý luận truyền thống về test vẫn thể hiện trong phân tích các yếu tố; d) Việc quy hành động thành hành vi theo chủ nghĩa hành vi khiến không thể giải quyết được vấn đề tâm lý trong thực tiễn. - Vòng tròn trong trình bày bốn loại khí chất theo Hippokrates và Galen; - Vòng tròn ngoài ghi các chiều đo của Eysenok. Như vậy, mỗi cá nhân đều được xác định đặc tính thông qua vị trí của mình trong hệ thống hai chiều. Sự khủng hoảng tiếp tục diễn ra trong tâm lý học tư sản. Có nhiều cách trình bày và bình luận như của M.Jaroschewski (Tâm lý học trong thế kỉ XX); L.L.Bogiovich (Nhân cách và sự phát triển nhân cách ở tuổi học sinh), L.Seve (Chủ nghĩa Mác và lý luận về nhân cách), H. Keuhn và K. Junghaenel (Tâm lý học nhân cách tư sản trong khủng hoàng), v.v… Ở đây, chúng ta hiểu thêm sự phân loại, đánh giá của H.D.Schmidt theo ba loại mô hình cơ bản. 1. Các mô hình thực hiện đề cao những động lực bên trong như nguồn gốc hoặc mục tiêu của sự phát triển nhân cách. Trong quá trình sinh sống, các động lực được hình thành sẵn sàng phát triển theo một dạng thức biến thể, có dấu ấn rõ nét hơn. Theo S.R.Maddi, những người sáng lập các mô hình này là Rogers, Maslow, Adler, Allport, Fromm và những người khác Theo Rogers, người đã từng giữ chức vụ Chủ tịch Hội các nhà tâm lý học Mỹ từ năm 1946 đến năm 1947, cá nhân là một sinh vật luôn cố gắng duy trì tăng cường và hoàn thiện các cơ quan của mình để tri giác và vận động. Nhân cách là phần phân hoá của trường hiện tượng chung, nghĩa là bộ phận kinh nghiệm của cá nhân, hạt nhân hay cốt lõi của nó. Nhân cách xuất hiện trong quá trình phát triển của cá nhân, thống nhất trong bản thân sự tự ý thức về nó, kinh nghiệm và sự tồn tại của nó. Quá trình “tự hiện thực hoá” được mô tả như sau:
  • 31. “Theo quan niệm của tôi, cá nhân có xu hướng hiểu biết và sẵn sàng trở thành cái mang tính nội tại và có thực… Nó ngày càng lắng nghe tới những tầng sâu thẳm nhất của bản chất sinh lý và xúc cảm của nó, và ngày càng phát triển tinh thần sẵn sàng… thực hiện cái bản ngã” Rõ ràng, xu hướng này được gọi là “tâm lý học nhân văn” coi cá thể là trung tâm Tinh thần đó, cơ chế tâm lý của sự phát triển nhân cách mang nặng màu sắc tự thân, còn thể hiện ở việc coi trọng vai trò của nhu cầu và nhất là ở sự phân định thứ bậc của chúng. Khác với Rogers và Maslow khi chú ý đến nguyên tắc thống nhất của nhân cách (đối lập với sự phân chia ra "cái Nó”, "cái Tôi" và "cái siêu tôi"), Adler công nhận vai trò của cái xã hội nhưng vẫn xem nhân cách như là sản phẩm của sự tác động bản thân của cá nhân, được kích thích bởi sự khắc phục tình trạng khang được che chở an toàn trước thế giới bên ngoài, khắc phục sự thấp kém của mình và cố gắng tự khẳng định bằng cách giành lấy sự thống trị những kẻ khác. Allport cũng đưa kiểu tư duy theo mục đích luận vào tâm lý học nhân cách: Chẳng hạn, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân cách và chủ nghĩa hiện sinh, Allport đã viết: "Có một xu hướng trong số các tác giả theo chủ nghĩa hiện sinh được nêu lên có Kierkegaard, Jaspers, Sartre, Nuttin, Glodstein) là tìm kiếm một vấn đề chủ định (intentional) cơ bản trong đời sống con người… Trong bản chất của nó, con người là bất ổn và đầy sợ hãi; con người mong muốn cả sự an toàn lẫn tự do”. Theo Allport, cốt lõi của bản chất con người, cái quy định nhân cách là cái tự thân của cá nhân. Cái tự thân (hay còn được gọi là “cá tính cá nhân”) là dấu hiệu chủ yếu nhất của bản chất con người. Đó chỉ là cách nói khác đi so với tinh thần định nghĩa vào năm 1905 của Klages: “Nhân cách là… cái tự thân cá nhân” Lý luận của Allport dựa trên quan niệm về “những động cơ tăng trưởng” vốn có ngay từ đầu ở mỗi cơ thể người. Allport nêu lên bốn tiêu chuẩn làm căn cứ:
  • 32. a) Vật chất cũng như năng lượng đều có đường vào và đường ra; b) Các trạng thái tự điều chỉnh liên tục xuất hiện và được duy trì làm cho hình thức và trật tự nội tại không bị rối loại nghiêm trọng nhờ sự xuất hiện của năng lượng bên ngoài; c) Nói chung, trật tự tăng lên theo thời gian vì tính phức hợp và phân hoá của các bộ phận ngày một tăng; d) Ít nhất là trên cấp độ con người cũng có một sự “thoả hiệp” (transaction) với môi trường xung quanh. Với Allport, con người, nhân cách không phụ thuộc vào các quan hệ xã hội và do đó, khái niệm “transaction” cũng không khác gì khái niệm “reaction” của chủ nghĩa hành vi vì như F.Klix phê phán, Allport chỉ nhìn mối quan hệ qua lại giữa hệ thống cơ chế với điều kiện bên ngoài qua vật chất và năng lượng. 2. Các mô hình mâu thuẫn (conflict). Điểm đồng nhất chung cho những mô hình này là quan niệm coi cuộc sống, sự trải nghiệm và phát triển của cá nhân trước hết là nơi diễn ra hoặc kết quả của sự tác động qua lại của các động lực xung đột, mâu thuẫn với nhau. Freud, Murray, Sullivan, Rank, và Jung được nhắc đến như những đại diện của xu hướng này. Như đã nói trong phần trước, phân tâm học đề cao cái vô thức, cơ chế của vô thức, dục vọng, sự hình thành nhân cách với "cái Nó", "cái Tôi" và cái siêu Tôi”. Các phe bảo thủ trước cái mới, cái lạ cũng như những nhà khoa học cấp tiến, mác xít tiểu phê phán phân tâm học. Gần đây nhất, tờ Le Nouvel Observateuuuur còn tổng kết 10 cuộc đua tranh giữa sinh lý học thần kinh và phân tâm học (giấc mơ, nói nhịu, libido (tình dục), vô thức, nụ cười-đầu tiên, trầm cảm, hysteria, tâm thần phân liệt, tự kỷ, chữa khỏi bệnh) với kết quả bất phân thắng bại. Tuy nhiên, điều cơ bản ở đây là hình ảnh con người, nhân cách mang tính sinh học nặng nề. Theo H.D.Schmidt, mô hình mâu thuẫn của Freud có bốn nguồn gốc liên quan đến hoạt động khoa học của ông:
  • 33. (1) Ảnh hưởng của tư duy sinh lý học và vật lý ở cuối thế kỷ trước; (2) Khi làm tâm lý trị liệu, ông hiểu các hiện tượng thần kinh không phải là những rối loạn cơ thể mà là những rối loạn chức năng, có liên quan đến những trải nghiệm dồn nén có căn nguyên của chúng trong vô thức; 3) Freud cho rằng những rối loạn thần kinh chắc chắn và trước hết có liên quan đến những vấn đề tính dục của bệnh nhân; (4) Nguồn gốc thứ tư được lý giải trong môi trường xã hội. Thomas Mann đã nói đến ảnh hưởng của triết học hiện sinh và thuyết phi lý khi tiếp xúc với các cá nhân và bệnh nhân thuộc tầng lớp tư sản quyền thế. 3. Các mô hình kiên định (consistency). Cơ sở của mô hình này là sự tương tác thường xuyên giữa cá nhân với môi trường bên ngoài. Trong quá trình ấy, cá nhân thu thập kinh nghiệm cả về mặt nhân thức, kỹ năng cũng như về phương diện cảm xúc. Tuy nhiên, nhiều khi, giá trị cần có không tương đồng với giá trị hiện có nên cá nhân phải giảm bớt hoặc tăng cường hoạt động của mình. Kiểu mô hình này phù hợp với tinh thần của lý thuyết lý - sinh về cân bằng hay thuyết điều chỉnh cibecnetic. Và do những sai lệch, khác nhau tạo thành yếu tố thúc đẩy hành động và phát triển nên không thể xếp các mô hình này vào số những mô hình mâu thuẫn. Hiện nay có hai loại mô hình kiên định. Loại thứ nhất do Kelly và Mc. Clelland chủ xướng, coi những sai lệch khác nhau về nhận thức là nguồn gốc của các hành động cá nhân. Loại thứ hai do Maddi đại diện, tập trung chú ý vào những sự khác biệt động cơ và hoạt động. Đối với Kelly, con người là một nhà khoa học theo nghĩa rộng nhất của từ nay. Con người luôn tìm tòi, nhận thức, giả định, kiểm chứng, biến những gì đã khẳng định thành hệ thống tri thức của mình. Kelly thấy có thể mô tả được nhân cách bằng "những cấu tạo cá nhân” tương đối ổn định, nghĩa là cách thức dùng kinh nghiệm bản thân để mô hình hoá hiện thực. Mc.Clelland đã nghiên cứu nhiều về loại được gọi là động cơ tạo nên thành tích. Chằng hạn, ông đã sử dụng một hệ thống tự đề ra để phân tích nội
  • 34. dung bài vở đối với văn học dân gian và sách giáo khoa ở các nước khác nhau, trong những giai đoạn lịch sử khác nhau và rút ra kết luận là những biến đổi trong tâm lý con người, cả trong động cơ, không được tạo nên bởi nhũng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội mà ngược lại, bản thân động cơ chính là động lực tiên quyết của sự tiến bộ kinh tế. Đó là một sai lầm điển hình khi thiếu một cơ sở khoa học về bản chất tâm lý và nhân cách. Trong khi đó, Maddi xây dựng một lý thuyết hoạt động mà theo đó, cá nhân sẽ đạt tới một trình độ tiêu biểu, đặc trưng cho nó trong quá trình phát sinh cá thể theo một cơ chế điều hoà tạo nên sự cân bằng, khắc phục sự khác biệt giữa trình độ nói trên và phạm vi mức độ, cường độ ý nghĩa cũng như sự đa dạng của kích thích. Khi xem xét, phân tích các nét riêng và chung của các xu hướng và mô hình đã trình bày, năm 1937, Allport đã lập bảng so sánh những lý luận về nhân cách của châu Âu và Mỹ sau đây: Các thuyết châu Âu nhấn mạnh Các thuyết của Mỹ nhấn mạnh - Các tư chất bên trong - Các điều kiện thể tạng - Kỹ năng có cấu trúc của nhân cách - Sự tương đối độc lập với xã hội - Tính tương đối không thay đổi của nhân cách - Hành vi bên ngoài - Các đặc điểm bề ngoài - Các thành phần vận động của hành vi - Các quan hệ giữa người với người - Tính có thể thay đổi của nhân cách Nhưng đó chỉ là bức tranh quá khứ. Tâm lý học ở các nước phương Tây có trình độ phát triển cao đang cố gắng tự vượt mình. Mặc dù còn những hạn chế trong quan niệm về nhân cách trong những mối quan hệ với xã hội, với ý thức hệ, niềm tin..., người ta đã chú ý nhiều hơn tới khía cạnh nhân văn, tới việc phải xem xét lại bản chất của nhiều khái niệm có liên quan đến nhân cách, đi sâu nghiên cứu nhân cách ở cấp độ hành động thường ngày. Trong lịch sử tâm lý học nhân cách, tâm lý học mác xít và tâm lý học Xôviết trước đây luôn giữ một vị trí quan trọng. Cho đến nay, cùng với những
  • 35. thành tựu của nhiều nước xã hội chủ nghĩa Đông âu cũi và nhiều dòng tiến bộ khác, xu hướng này đã và vẫn tạo nên những cơ sơ và bước tiến đáng kể trong nghiên cứu về nhân cách. Qua thời gian, tâm lý học mácxít đã khẳng định được những quan điểm cơ bản có ý nghĩa lý luận và phương pháp luận chỉ đạo chung cho hoạt động nghiên cứu con người và nhân cách. Con người được quan niệm là một thực thể xã hội và do đó, nhân cách, về nguyên tắc, được quyết định bởi xã hội. Như vậy, những tiền đề sinh học của sự tồn tại con người chỉ là những khả năng, cơ sở xuất phát của sự phát triển và khác biệt của nhân cách. Đó là tư tưởng khắc phục các quan điểm sai lầm, phiến diện như thuyết bẩm sinh (nativisme) (chẳng hạn như những sự phân loại bắt đầu từ Hippokrates cho đến Kretschmer, Eysenok, hay trường phái Pavlov), cách lý giải phi lịch sử (J.Lersch), các xu hướng xã hội hoá tâm lý học (Malinowski), M.Mead và cả Kornilov, L.Seve). Người đề xuất đầu tiên nguyên tắc này là Vưgôtxki với "Tư duy và ngôn ngữ" (1934) và trước nữa, “Ý thức với tư cách là vấn đề của tâm lý học hành vi” (1924). Và tiếp theo là “Những vấn đề của tâm lý học đại cương” (1940), “Những nguyên tắc và con đường phát triển tâm lý học” (1959). Từ đó, như A.N.Leonchiev đánh giá, người ta bắt đầu coi tâm lý của con người, học thuyết tâm lý học cụ thể về ý thức như là hình thức cao nhất của sự phản ánh hiện thực cũng như học thuyết về hoạt động và cấu trúc của nó dưới góc độ lịch sử. A.N.Leonchiev, qua những công trình nghiên cứu về hoạt động, hoạt động có đối tượng, hoạt động và nhân cách, đã tạo điều kiện cho các nhà tâm lý học hiểu rõ bản chất, sự hình thành và phát triển nhân cách đúng đắn hơn. Ở đây, cần chú ý tới một số quan điểm sau: - Nhân cách không phải là một chỉnh thể bao gồm tất cả đặc điểm của con người – “từ những quan niệm chính trị và tôn giáo cho tới sự tiêu hoá”
  • 36. - Từ “nhân cách” chỉ được dùng cho người và chỉ bắt đầu từ một giai đoạn phát triển nào đó. Nhân cách là một sản phẩm tương đối muộn của sự phát triển lịch sử xã hội và phát sinh cá thể của con người. - Cả nhân cách lẫn cá nhân đều là một sản phẩm tương tác của các quá trình thực hiện các quan hệ sinh sống của chủ thể. Con người trở thành nhân cách khi là chủ thể của các quan hệ xã hội X.L.Rubinstein cũng nhấn mạnh: “Nhân cách là cá nhân cụ thể, lịch sử, sinh động gắn với những quan hệ thực tế đối với thế giới hiện thực”. P.Galperin tóm tắt ngắn gọn đặc điểm này: “Nhân cách là một sản phẩm xã hội – lịch sử”, đề cao vai trò “chủ thể, chủ thể có ý thức xã hội, có trách nhiệm” Tuy nhiên, có những sự bổ sung, cụ thể hoá đôi khi mang đến một vài sắc thái mới. Ví dụ, A.V.Petrovxki vừa coi nhân cách là "chủ thể của sự nhận thức và tích cực cải biến hiện thực”, vừa là “toàn bộ những điều kiện hoạt động bên trong của con người để xã hội quy định. Nhân cách, đó chính là con người cụ thể, sinh động với tất cả những ưu điểm và khuyết điểm của nó, những mặt mạnh và yếu của nó được quy định bởi sự tham gia tích cực của nó vào cuộc sống xã hội và việc giáo dục và đào tạo nó". - Khi xét khái niệm “nhân cách”, người ta cũng bàn nhiều đến quan hệ đối với cuộc sống, hoạt động cụ thể của con người và tính chất khả thi của nó. Obukhowski (Ba Lan) đã trình bày khái niệm theo tinh thần đó. Ông viết: "Nhân cách có thể được định nghĩa là: a) Những thuộc tính tâm lý của con người mà nhờ chúng. Chúng ta có thể dự báo hoặc chí ít cũng chẩn đoán được các hành động của con người; b) Những thuộc tính đó là những cấu tạo lý luận, vì thế, kiểu loại và số lượng của chúng phụ thuộc vào lý thuyết chúng ta sử dụng
  • 37. c) Những thuộc tính đó phục vụ cho việc dự báo hoặc chẩn đoán hành động có liên quan, vì thế kiểu loại và số lượng của chúng còn phụ thuộc vào nhiệm vụ nghiên cứu”. Những đặc điểm và sự phát triển nhân cách trong hành động đã từng là đề tài nghiên cứu của A.Kossakowski, W.Hacker, M.Vorwerg (Cộng hoà dân chủ Đức trước đây), J. Reykowski (Ba Lan), D. Kondas (Tiệp Khắc cũ) và nhiều người khác. A.Kossakowski, nguyên Chủ tịch Hội tâm lý học Cộng hoà dân chủ Đức trước đây, đã viết: “Chúng tôi hiểu một nhân cách phát triển toàn diện trong tâm lý học là một người có năng lực và sẵn sàng hành động ngày càng độc lập (tự động) và có ý thức trong những phạm vi hoạt động hết sức đa dạng, có ý nghĩa xã hội trong số tác động cùng tập thể đối với những người khác. Từ đó, có thể thấy việc nghiên cứu nhân cách phải tập trung vào việc phân tích các thành phần tâm lý (các đơn vị chức năng, các nội dung, quá trình, các thuộc tính) của sự định hướng và điều chỉnh hành động, trước hết là sự định hướng hoạt động có ý thức của cá nhân, những quan hệ qua lại và sự phát triển của chúng trong quá trình sư phạm. Các nhà tâm lý học Cộng hoà dân chủ Đức quan niệm về nhân cách như sau: a) Nhân cách là có nhân cụ thể với tư cách là sự thống nhất cơ thể của nó, những đặc điểm sinh lý và tâm lý của nó; b) Nhân cách luôn luôn là sự thống nhất đặc trưng cho cá nhân của những đặc điểm sinh - tâm lý, luôn luôn là một cá tính phát triển trên cơ sở những khuynh hướng cá nhân bẩm sinh và được quy định bởi tiểu sử cá nhân; c) Cá nhân có nhân cách là trước tự nhiên, xã hội và bản thân, nổ thể hiện như là một chủ thể tích cực, có ý thức sáng tạo của sự nhận thức, nhận thông tin và lao động; d) Nhân cách là một thực thể cộng đồng tích cực;
  • 38. e) Nhân cách luôn luôn là một thực thể được quy đinh bởi những điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể. H.D. Schmidt coi nhân cách vừa là quá trình, vừa là trạng thái. Đây là một tư tưởng hết sức quan trọng, đặc biệt đối với chẩn đoán tâm lý. Và về sự phát triển nhân cách với tư cách là quá trình xã hội hoá, ông có sơ đồ sau: Những quan niệm xem xét nhân cách trong mối liên quan với ý thức, hoạt động trong cuộc sống thực tế còn khắc phục được thiếu sót và những chỗ chưa hợp lý về cấu trúc nhân cách trong lịch sử tâm lý học trước đây, trong các mô hình tâm lý học nghiên cứu các tầng sâu, trong các cấu trúc thứ bậc (Kovaliov, Bogiovich, Platonov…) Nhìn chung, tâm lý học nhân cách đi theo ba chiến lược nghiên cứu khác nhau: - Chiến lược nghiên cứu truyền thống, hướng vào các mặt, "các thuộc tính" đứng phía sau hành vi mà một cá nhân có; - Chiến lược nghiên cứu hành vi chủ nghĩa chỉ tìm hiểu cá nhân đang làm gì; - Chiến lược nghiên cứu xu thế biến động tâm lý đi tới chỗ giải đáp cá nhân đang phản ứng hoặc điều chỉnh hành vi của mình trong những tình huống khác nhau như thế nào. Và đến nay, cuốn tiếp cận nhân cách ngày càng phức hợp hơn trong sự đan xen giữa xã hội hoá và cá thể hóa, giữa cá nhân và các môi trường trải nghiệm thực tế, giữa khả năng hiện tại với yêu cầu khi bước vào thế kỷ XXI. 3. Khái niệm "nhân cách" Hiện có nhiều định nghĩa về nhân cách mà ở đây không nhắc lại. Trước khi xác định nội hàm khái niệm này, chúng tôi chú ý tới một số quan điểm như sau: (1) Thể hiện tinh thần của ba tiền đề (premise) cơ bản: + Tính độc đáo ít hay nhiều (singularity);
  • 39. + Tính tương đẳng (congruity), theo nghĩa dù thay đổi cũng có thể nhận dạng được; + Tính dại diện cho những giá trị tốt hay xấu (dignity) còn có nghĩa là nhân phẩm hay chân giá trị thông qua hành động thực tế. 1 (2) Allport đã phân biệt những thuộc tính chung và cá nhân bằng một nhận định khái quát là mỗi người, về phương diện nào đó: + Đều giống mọi người khác (xét theo các chuẩn mực phổ quát), + Đều giống một số người nào đó (xét theo các chuẩn mực nhóm), và + Chẳng giống ai cả (xét theo phong cách riêng của mỗi người). (3) X.L. Rubinstein khẳng định: “Con người chỉ là nhân cách khi có ý thức xác định các quan hệ đối với môi trường của mình. Con người chỉ là nhân cách khi có một diện mạo riêng. Con người là chỉ là nhân cách tối đa khi thể hiện tối thiểu về tính trung lập (neutrality), về sự thờ ơ (indiffrence), lãnh đạm và tối đa về "tính đảng” trong quan hệ với cái có ý nghĩa xã hội. Vì thế, ý thức không chỉ là hiểu biết mà còn là quan hệ - có một ý nghĩa cơ bản như thể đối với con người với tư cách là nhân cách". Bàn về khái niệm “nhân cách”, mới đây, trong Tuyển tập Tâm lý học, Phạm Minh Hạc định nghĩa: “Nhân cách là tổng hoà không phải mọi đặc điểm cá thể của con người, mà chỉ là những đặc điểm nào quy định con người như là một thành viên của xã hội, như là một công dân, một người lao động, một nhà hoạt động có ý thức. Nói gọn hơn, nhân cách là toàn bộ những đặc điểm phẩm chất tâm lý của cá nhân, quy định giá trị xã hội và hành vi xã hội của nó” Nghiên cứu những ý kiến khác nhau, chúng tôi định nghĩa: Nhân cách là cấu tạo tâm lý là phức hợp bao gồm những thuộc tính tâm lý cá nhân, được hình thành và phát triển trong cuộc sống và hoạt động, tạo nên nhân diện và quy định giá trị xã hội của mỗi người. 4. Cấu trúc nhân cách Có thể nêu lên hai loại cấu trúc khác nhau.
  • 40. 4.1. Cấu trúc chung Các nhà khoa học trường nói nhân cách là một cấu tạo (construct) tâm lý. Việc xác định đúng và đủ các thành phần cấu trúc của nó là một yêu cầu về lý luận và phương pháp. Nếu tính từ Aristoteles với “các cấp độ linh hồn” (thực vật – vegetative, động vật – animal và tinh thần hay linh hồn thiên thể - astral) thì cho đến nay phải nói rằng hiện có rất nhiều cấu trúc nhân cách, được xem xét trên các bình diện khác nhau (tài – đức; trí – đức – thể - mỹ; nhận thức – xúc cảm và tình cảm – động cơ – ý chí) Ở nước ta, quan niệm của A.G. Kovaliov được nhiều người tán thành hơn cả với bốn thành phần cấu trúc như sau: 1 Xu hướng, 2. Tính cách, 3. Năng lực, 4. Khí chất. Đối chiếu với cách hiểu nội hàm khái niệm "nhân cách” thì ở đây, không thể coi "khí chất” là bộ phận hợp thành nhân cách - cho dù sự liên quan, có ảnh hưởng đến nhân cách của nó là không thể phủ nhận được. Trong Hoạt động – Ý thức -Nhân cách, A.N. Leonchiev đã từng bác bỏ quan niệmkiểu nhân cách như một chỉnh thể bao gồm mọi đặc điểm của con người, từ các quan niệm chính trị và tôn giáo tới cả sự tiêu hóa mà R.B. Cattell đã đề cập. Và trong tác phẩm nói trên, khi bàn về cá nhân và nhân cách, Leonchiev đã nhấn mạnh các đặc điểm của cá nhân và nhân cách liên quan với nhau nhưng không phải là một. Ví dụ, các đặc điểm của hoạt động thần kinh cao cấp của cá nhân không trở thành các đặc điểm của nhân cách cá nhân đó và không quy định nó. Vì thế, J.Strelau cũng khẳng định qua nghiên cứu của mình rằng thực ra, khí chất và nhân cách khác nhau về nguyên tắc. Trong khi khí chất là kết