Download luận án tiến sĩ ngành lịch sử Việt Nam với đề tài: Quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn từ năm 1998 đến năm 2015, cho các bạn làm luận văn tham khảo
20304
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
Luận án: Quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn
1. VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VI THÙY DỊU
QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
Ở TỈNH LẠNG SƠN TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2015
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2019
2. VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VI THÙY DỊU
QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
Ở TỈNH LẠNG SƠN TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2015
Ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số : 9229013
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS VŨ QUANG HIỂN
HÀ NỘI - 2019
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu nêu
trong luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học trong
luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận án
Vi Thùy Dịu
4. MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI .......................................................................................................................8
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.....................................8
1.1.1. Nghiên cứu về xây dựng đời sống văn hoá .............................................8
1.1.2. Nghiên cứu về xây dựng đời sống văn hoá ở tỉnh Lạng Sơn ...............14
1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan và những vấn đề cần tiếp tục đi
sâu nghiên cứu .....................................................................................................20
1.2.1. Những vấn đề các công trình nghiên cứu đã giải quyết.......................20
1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục đi sâu nghiên cứu................................23
Chương 2 XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở TỈNH LẠNG SƠN TỪ
NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2005 ...................................................................................25
2.1. Những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở tỉnh
Lạng Sơn...............................................................................................................25
2.1.1. Điều kiện tự nhiên ..................................................................................25
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội .......................................................................27
2.1.3. Truyền thống lịch sử, văn hóa, dân cư..................................................29
2.1.4. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng đời sống
văn hóa ..............................................................................................................34
2.1.5. Tình hình xây dựng đời sống văn hoá ở tỉnh Lạng Sơn trước năm 1998 .38
2.2. Triển khai xây dựng đời sống văn hóa trong toàn tỉnh ............................40
2.3. Các phong trào xây dựng đời sống văn hóa...............................................56
2.3.1. Xây dựng đời sống văn hóa cá nhân .....................................................56
2.3.2. Xây dựng đời sống văn hóa gia đình .....................................................60
2.3.3. Xây dựng đời sống văn hóa cộng đồng..................................................62
2.3.4. Xây dựng môi trường văn hóa ...............................................................70
Chương 3 XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở TỈNH LẠNG SƠN TỪ
NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2015 ...................................................................................74
3.1. Một số yêu cầu đặt ra trong giai đoạn mới ....................................................74
5. 3.1.1. Những tác động bất lợi của kinh tế trị trường, mở cửa, hội nhập.......74
3.1.2. Những tác động bất lợi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.................75
3.1.3. Những tác động bất lợi của mạng xã hội đến cuộc sống con người, nhất
là giới trẻ............................................................................................................77
3.1.4. Những hạn chế trong xây dựng đời sống văn hóa của giai đoạn trước .78
3.1.5. Chủ trương mới của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời sống văn hóa79
3.2. Tiếp tục xây dựng đời sống văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn ..............................83
3.2.1. Trong những năm 2006 - 2010 ..............................................................83
3.2.2. Trong những năm 2011 - 2015 ..............................................................88
3.3. Các phong trào xây dựng đời sống văn hóa...............................................91
3.3.1. Xây dựng đời sống văn hóa cá nhân .....................................................91
3.3.2 Xây dựng đời sống văn hóa gia đình ......................................................94
3.3.3. Xây dựng đời sống văn hóa cộng đồng..................................................97
3.3.4. Xây dựng môi trường văn hóa ............................................................ 104
Chương 4 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM .................................................... 108
4.1. Nhận xét...................................................................................................... 108
4.1.1. Đặc điểm............................................................................................... 108
4.1.2. Ưu điểm, hạn chế................................................................................. 116
4.2. Kinh nghiệm............................................................................................... 139
KẾT LUẬN........................................................................................................... 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN.............................................................................................................. 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 152
PHỤ LỤC.............................................................................................................. 167
6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANTT : An ninh trật tự
CAND : Công an nhân dân
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DTTS
ĐSVH
: Dân tộc thiểu số
: Đời sống văn hóa
HĐND
MTTQ
: Hội đồng nhân dân
: Mặt trận Tổ quốc
NSVH
NXB
TDTT
: Nếp sống văn hóa
: Nhà xuất bản
: Thể dục thể thao
UBND : Ủy ban nhân dân
UBMTTQ : Ủy ban mặt trận Tổ quốc
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
7. DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang
Bảng 2.1 Sự phân bố các dân tộc Lạng Sơn ............................................................33
Bảng 2.2. Kết quả xây dựng gia đình văn hóa ..........................................................60
Bảng 2.3. Xây dựng thôn, bản, tổ dân phố văn hóa..................................................63
Bảng 2.4 Xây dựng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp văn hóa ..................................64
Bảng 2.5.Thống kê nhà văn hóa................................................................................71
Bảng 4.1. Một số kết quả trong xây dựng đời sống văn hóa các tỉnh Lạng Sơn,
Bắc Kạn, Cao Bằng................................................................................. 114
Bảng 4.2. Một số kết quả trong xây dựng đời sống văn hóa giai đoạn 1998 -
2005 và 2006 - 2015 ............................................................................... 120
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ lịch sử nhân loại, văn hoá đã chứng tỏ giá trị và sức mạnh của mình.
Không có văn hoá, loài người không thể thực hiện được những bước tiến dài trong
hành trình cải tạo giới tự nhiên và xã hội, khẳng định, tạo dựng nền văn minh trí tuệ
như hiện nay. Cuộc sống đương đại càng khẳng định văn hoá là bộ phận không thể
thiếu trong mọi sinh hoạt xã hội, từ chính trị, kinh tế đến sinh hoạt cộng đồng. Thật
khó hình dung một lĩnh vực nào đó thiếu vắng sự tham góp của văn hoá như một
yếu tố thể hiện trình độ tiến bộ của chủ thể trong nhìn nhận và giải quyết vấn đề.
Thậm chí, cuộc sống càng phức tạp, khó khăn vai trò của văn hoá càng được thể
hiện, giá trị của văn hoá càng được đề cao.
Một biểu hiện của văn hoá trong đời sống xã hội là đời sống văn hóa. Đời sống
văn hoá chỉ khía cạnh tích cực của đời sống, nghĩa là đời sống tích cực của cá nhân, gia
đình hoặc cộng đồng để ứng xử thích hợp với những hoàn cảnh cụ thể nhằm làm thỏa
mãn nhu cầu văn hóa, hướng con người đến các giá trị chân, thiện, mỹ. Đời sống văn
hóa phản ánh nhu cầu văn hoá của xã hội, tồn tại ở ngay trong cuộc sống hàng ngày,
trong mỗi con người, mỗi gia đình và cộng đồng nhất định.
Xây dựng đời sống văn hóa là xây dựng toàn diện và đồng bộ các yếu tố cấu
thành nên đời sống văn hóa, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, từ văn hóa vật chất
đến văn hóa tinh thần, từ văn hóa cá nhân đến văn hóa gia đình và cộng đồng, từ
văn hóa chính trị đến văn hóa giáo dục, văn hóa nghệ thuật, văn hóa khoa học tới
văn hóa tâm linh, phong tục, tập quán… Đề tài nghiên cứu xây dựng đời sống văn
hoá từ góc độ xây dựng mặt tích cực trong đời sống xã hội, góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng, thông qua những nội
dung, cách thức, hình thức, tổ chức, hoạt động văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu
hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn hóa vì sự phát triển của con người và cộng
đồng. Đi đôi với xây là chống, xây là phát huy, phát triển các hoạt động văn hóa,
mở rộng giao lưu, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa thế
giới để bắt kịp sự phát triển của thời đại; đi liền với xây là chống, chống những cái
lạc hậu, lỗi thời trong phong tục tập quán và lề thói cũ để bảo vệ bản sắc dân tộc.
9. 2
Trong thời kì mở cửa, hội nhập giao lưu quốc tế, xây dựng đời sống văn hoá là
nhiệm vụ quan trọng của cả nước, từ đó góp phần tạo ra môi trường chính trị - xã
hội ổn định, an toàn và bền vững trên cơ sở đời sống kinh tế được đảm bảo. Xây
dựng đời sống văn hóa là nhiệm vụ của mọi người dân, mọi gia đình, mọi cơ quan,
đoàn thể, tổ chức xã hội và các cấp, các ngành.
Lạng Sơn là tỉnh quan tâm xây dựng đời sống văn hóa, nằm ở cửa ngõ phía
Đông Bắc của Tổ quốc, có vị chí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, có các cửa khẩu quốc tế, là đầu mối giao lưu kinh tế giữa Việt
Nam và Trung Quốc với các nước ASEAN, Đông - Tây Âu. Tỉnh Lạng Sơn có
nhiều thành phần dân tộc sinh sống (Nùng, Tày, Kinh, Dao, Hoa, Sán Chay,
Mông...), người dân xứ Lạng có truyền thống giữ gìn và phát huy các giá trị bản sắc
văn hóa dân tộc, xây dựng đời sống văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc riêng của
mình. Lịch sử phát triển cho thấy, các dân tộc Lạng Sơn với bản sắc của mình, qua
bao lần tiếp biến vẫn không bị phai mờ, thậm chí qua bao lần đất nước bị xâm lăng,
dân tộc bị thôn tính, mỗi lần tiếp biến, văn hoá bản địa với bản lĩnh và sức sống của
mình, lấy bản sắc dân tộc làm tiêu chí, gạn lọc, khơi trong, tiếp thu những tinh hoa
tốt đẹp của các nền văn hoá khác, làm giàu có và đậm đà thêm, phong phú thêm cho
bản sắc của mình.
Từ khi tỉnh Lạng Sơn bước vào thời kì đổi mới, xu thế hội nhập quốc tế đã
diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực. Lĩnh vực văn hóa cũng đứng
trước nhiều cơ hội và thách thức. Cơ hội lớn là có thể tiếp nhận các trào lưu văn hóa
tiến bộ của nhân loại để theo kịp với thời đại. Thách thức lớn là những trào lưu văn
hóa từ bên ngoài có thể làm xáo trộn thậm chí triệt tiêu mặt nào đó của bản sắc văn
hóa dân tộc, đồng thời những yếu tố tiêu cực có thể len lỏi đến làm phá vỡ thuần
phong mỹ tục trong đời sống văn hóa của các dân tộc. Trong giai đoạn hiện nay,
nền kinh tế thị trường và xu thế mở cửa, hội nhập đang tạo ra nhiều động lực và
điều kiện quan trọng để phát triển đất nước, tuy nhiên, mặt trái của nó có tác động
tiêu cực đến văn hoá, thể hiện rõ trong sự biến đổi lối sống, đời sống của một bộ
phận nhân dân các dân tộc. Mặt khác, các thế lực thù địch đang tìm mọi cách
chống phá sự nghiệp đổi mới, trong đó có chiến lược “Diễn biến hòa bình” trên
lĩnh vực văn hóa - tư tưởng. Để bảo vệ chính mình, một trong những vấn đề được
10. 3
tỉnh Lạng Sơn quan tâm hiện nay là xây dựng đời sống văn hoá các dân tộc, huy
động mọi tiềm lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đi đôi với công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước đòi hỏi phải gắn chặt nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội với việc xây dựng đời sống văn hóa của tỉnh góp phần xây dựng nền văn hoá
vì văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
nghiệp đổi mới. Nhận thức đó chỉ đạo hoạt động thực tiễn xây dựng đời sống văn
hóa nhằm góp phần hạn chế những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường
trong tiến trình xây dựng nền văn hoá mới và con người mới.
Trong giai đoạn 1998 - 2015, xây dựng đời sống văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn đã
đạt được những kết quả đáng ghi nhận trên các nội dung xây dựng đời sống văn hóa
cá nhân, xây dựng đời sống văn hóa gia đình, xây dựng đời sống văn hóa cộng
đồng, xây dựng môi trường văn hóa. Kết quả bước đầu có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc
đối với việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh, đồng thời khẳng định nhu
cầu, nguyện vọng hướng tới những giá trị chân, thiện, mỹ trong đời sống của nhân
dân Lạng Sơn và tính đúng đắn của đường lối, chính sách văn hoá, năng lực lãnh
đạo xây dựng đời sống văn hoá ở địa phương.
Tuy nhiên, việc xây dựng đời sống văn hoá ở tỉnh Lạng Sơn cũng còn những
hạn chế, bất cập do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhiều cấp ủy đảng,
chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt.
Việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và trong
một số trường hợp thiếu khả thi. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi
mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm.
Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn dàn trải; chưa nắm bắt kịp thời
những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả; chưa quan tâm
đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn
hóa. Bên cạnh đó, một số dân tộc ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay còn duy trì những tập tục,
lề thói lạc hậu cổ truyền, đây là kẽ hở để các loại tội phạm lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để hoạt động mê tín dị đoan; lợi dụng quan hệ anh em họ hàng mà che dấu tội
phạm; lợi dụng phong tục tập quán mà vi phạm pháp luật; lợi dụng những nơi thuộc
vùng sâu vùng xa, vùng biên giới để ẩn náu, trốn tránh khi phạm tội hoặc bị truy nã; lợi
11. 4
dụng điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ hiểu biết của nhân dân còn thấp để hoạt động
buôn lậu, buôn bán ma tuý, buôn bán phụ nữ, trẻ em sang Trung Quốc...
Tỉnh Lạng Sơn đang trong thời kì đổi mới, đó là thời kì cái cũ đang mất đi và
cái mới đang hình thành, trong quá trình ấy cái gì sẽ mất đi, cái gì sẽ được kế tục,
cái gì đã trở thành lỗi thời và cái gì là hợp lí, cái gì cần phải xây dựng? Tất cả là
những vấn đề đang được đặt ra từ thực tế của cuộc sống đòi hỏi cần nghiên cứu để
từng bước làm sáng tỏ. Tuy vậy, điều này hiện nay còn ít được bàn đến, chưa có sự
nghiên cứu mang tính hệ thống. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình xây dựng đời
sống văn hoá ở tỉnh Lạng Sơn là hết sức cần thiết. Trên cơ sở đó rút ra những bài
học kinh nghiệm để thực hiện có hiệu quả công cuộc xây dựng đời sống văn hoá
của tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn mới. Việc tổng kết, đánh giá quá trình xây dựng
đời sống văn hóa không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử, thực tiễn mà còn mang tính
thời sự.
Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Quá
trình xây dựng đời sống văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn từ năm 1998 đến năm 2015”
làm đề tài luận án.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Phục dựng quá trình xây dựng đời sống văn hoá của tỉnh Lạng Sơn từ năm
1998 đến năm 2015, bước đầu tổng kết một số kinh nghiệm phục vụ cho hiện tại và
tương lai.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, khẳng định những vấn
đề các công trình nghiên cứu đã giải quyết và xác định những vấn đề luận án cần
tập trung nghiên cứu.
Phân tích những nhân tố tác động đến quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở
tỉnh Lạng Sơn từ năm 1998 đến năm 2015.
Phục dựng lại quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn với những
hoạt động và kết quả cụ thể từ năm 1998 đến năm 2015.
Rút ra những đặc điểm, ưu điểm, hạn chế, ý nghĩa, kinh nghiệm trong xây
dựng đời sống văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn.
12. 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực tiễn xây dựng đời sống văn hoá ở tỉnh Lạng Sơn từ năm 1998 đến
năm 2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu những nhân tố tác động đến xây dựng đời sống văn
hóa ở tỉnh Lạng Sơn và thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa từ năm 1998 đến năm
2015
Nội dung xây dựng đời sống văn hóa rất rộng, luận án tập trung vào trục chính
là: xây dựng đời sống văn hóa cá nhân, xây dựng đời sống văn hóa gia đình, xây
dựng đời sống văn hóa cộng đồng và xây dựng môi trường văn hóa.
- Về không gian: Địa bàn nghiên cứu của luận án là tỉnh Lạng Sơn, bao gồm
thành phố Lạng Sơn và 10 huyện: Tràng Định, Cao Lộc, Lộc Bình, Văn Lãng, Đình
Lập, Chi Lăng, Hữu Lũng, Văn Quan, Bình Gia, Bắc Sơn.
Luận án có sự liên hệ với các địa phương khác, nhất là các tỉnh trong khu vực
(như Bắc Kạn, Cao Bằng) để làm rõ những đặc điểm của tỉnh Lạng Sơn trong xây
dựng đời sống văn hóa.
- Về thời gian: Luận án lấy mốc thời gian từ năm 1998, là năm Lạng Sơn
chính thức triển khai xây dựng đời sống văn hóa trong toàn tỉnh theo tinh thần Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII về xây dựng
và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó tập
trung nhiều cho xây dựng đời sống văn hóa.
Năm 2015 là năm tỉnh Lạng Sơn kết thúc thực hiện kế hoạch 5 năm 2011 –
2015 về xây dựng đời sống văn hóa.
Để làm nổi bật quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn từ năm
1998 đến năm 2015, luận án có đề cập đến thời gian trước năm 1998 ở mức độ cần
thiết, nhằm tìm hiểu tình hình xây dựng đời sống văn hóa trước khi tỉnh Lạng Sơn
triển khai chính thức trong toàn tỉnh.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng,
13. 6
chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp luận sử học; dân tộc học; xã hội học; văn
hóa học được sử dụng để thực hiện các nhiệm vụ của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Phương pháp lịch sử. Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu quá trình xây
dựng đời sống văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn từ năm 1998 đến năm 2015. Áp dụng phương
pháp lịch sử, luận án tuân thủ bốn nguyên tắc cơ bản: tính biên niên, tính toàn diện, tính
chi tiết, tính cụ thể trong quá trình nghiên cứu. Trong luận án, tác giả cố gắng tìm ra
những dấu mốc quan trọng trong quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn
và có sự phân kỳ lịch sử một cách hợp lý.
Phương pháp lôgic. Phương pháp này dùng để trình bày các vấn đề liên
quan theo mối quan hệ nhân quả như tìm hiểu những tác động của xây dựng đời
sống văn hóa đối với sự phát triển của xã hội; tổng kết những thành tựu, hạn chế
và nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế; phân tích vai trò, vị trí, những
đóng góp quan trọng của việc xây dựng đời sống văn hóa, rút ra những kinh
nghiệm cho việc xây dựng đời sống văn hóa trong những năm tiếp theo.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp khác như: so sánh, phân tích,
quy nạp, diễn dịch, thống kê, tổng hợp, điều tra khảo sát thực địa… phù hợp với từng
yêu cầu của nội dung luận án.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Phục dựng lại một cách tương đối có hệ thống quá trình xây dựng đời sống
văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn từ năm 1998 đến năm 2015 qua hai khoảng thời gian
(1998 - 2005) và (2006 - 2015). Làm sáng tỏ các bước phát triển của phong trào xây
dựng đời sống văn hóa theo trục: xây dựng đời sống văn hóa cá nhân, xây dựng đời
sống văn hóa gia đình, xây dựng đời sống văn hóa cộng đồng, xây dựng môi trường
văn hóa.
Làm sáng tỏ những đặc điểm của quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở tỉnh
Lạng Sơn từ năm 1998 đến năm 2015.
Phân tích ý nghĩa của xây dựng đời sống văn hóa, nhất là tác động đối với việc
cải thiện đời sống nhân dân, giữ gìn bản sắc dân tộc, giữ vững an ninh - trật tự.
Bước đầu tổng kết một số kinh nghiệm từ những thành công và chưa thành
công trong xây dựng đời sống văn hóa từ năm 1998 đến năm 2015, giúp cho địa
14. 7
phương hoạch định chủ trương, chính sách, kế hoạch tiếp tục xây dựng đời sống
văn hóa.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về lý luận
Góp phần khẳng định vai trò, vị trí, tầm quan trọng của đời sống văn hóa và
xây dựng đời sống văn hóa, nhất là giá trị nhân văn của đời sống văn hóa vì con
người, cải thiện đời sống con người.
Những kinh nghiệm được tổng kết từ thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa
giúp cho việc tiếp tục đẩy mạnh xây dựng đời sống văn hóa ở địa phương trong
chặng đường tiếp theo.
6.2. Về thực tiễn
Bổ sung, làm phong phú thêm cho chuyên ngành lịch sử Việt Nam nguồn tài
liệu tham khảo về lịch sử xây dựng đời sống văn hóa, dùng làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập về lịch sử địa phương và những vấn đề
có liên quan đến xây dựng đời sống văn hóa.
Cung cấp luận cứ khoa học giúp cho công tác lãnh đạo, quản lý, hoạch định
chủ trương, chính sách về xây dựng đời sống văn hóa.
Kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị tham khảo đối với việc xây dựng đời
sống văn hóa ở địa phương và các tỉnh lân cận trong giai đoạn hiện tại và thời gian tới.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình khoa học của tác giả liên
quan đến luận án, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung luận án được
chia thành 4 chương (10 tiết).
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Chương 2. Xây dựng đời sống văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn từ năm 1998 đến
năm 2005.
Chương 3. Xây dựng đời sống văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn từ năm 2006 đến
năm 2015.
Chương 4. Nhận xét và kinh nghiệm.
15. 8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Nghiên cứu về xây dựng đời sống văn hoá
Xây dựng đời sống văn hóa là một trong những nội dung trọng tâm về xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Trong thời kì đổi mới,
nhiều nghiên cứu về vấn đề này đã được công bố, liên quan đến đề tài luận án có
các công trình tiêu biểu như:
Cuốn sách Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới do Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997)
tập hợp các bài viết của các tác giả đã công bố về xây dựng gia đình văn hóa; có
một số bài đề cập đến những kinh nghiệm xây dựng gia đình văn hóa; một số bài
làm rõ chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng gia đình văn
hóa trong thời kỳ đổi mới; vai trò của gia đình đối với sự phát triển của xã hội
nói chung và trong sự nghiệp đổi mới nói riêng, qua đó chỉ rõ tính cấp thiết phải
đẩy mạnh xây dựng gia đình văn hoá với những tiêu chí phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ của công cuộc đổi mới đất nước. Đáng chú ý là những bài phân tích về
vai trò của nguồn lực gia đình trong quá trình CNH, HĐH đất nước, nhất là kinh
nghiệm trong quá trình xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam.
Liên quan đến các nội dung xây dựng đời sống văn hóa, cuốn sách Hỏi và đáp
về làng văn hoá, gia đình văn hoá, đời sống văn hoá, tổ chức lễ hội truyền thống
của Trần Hữu Tòng, Hà Văn Tăng (Nxb Chính trị quốc, Hà Nội, 1998) giải đáp
những vấn đề cơ bản về xây dựng làng văn hoá, gia đình văn hoá, đời sống văn
hoá và tổ chức lễ hội truyền thống. Nội dung nổi bật của cuốn sách là giải đáp
những vướng mắc trong xây dựng đời sống văn hóa, nhấn mạnh nội dung xây
dựng làng văn hoá, gia đình văn hoá, tổ chức lễ hội truyền thống phù hợp với chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Nghiên cứu về đời sống văn hóa ở nông thôn, cuốn sách Một số giá trị văn hóa
truyền thống với đời sống văn hóa ở cơ sở nông thôn hiện nay của hai tác giả Phạm
16. 9
Việt Long và Nguyễn Đạo Toàn (Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1998) nghiên cứu về
văn hóa truyền thống trong thời kì đổi mới gắn với đời sống văn hóa cơ sở ở nông
thôn. Trong nghiên cứu, hai tác giả nhấn mạnh một số giá trị văn hóa truyền thống
với đời sống văn hóa ở cơ sở nông thôn hiện nay, tiêu biểu như giá trị văn hóa ở một
số loại hình lễ hội, di tích, hương ước và các hình thức sinh hoạt nghệ thuật dân gian.
Nghiên cứu về lí luận xây dựng đời sống văn hóa gắn với thực tiễn, cuốn sách
Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa ở nước ta của Hoàng
Vinh (Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1999) nghiên cứu về vai trò của việc tổ chức
đời sống văn hóa ở cơ sở, làm rõ hơn những vấn đề lý luận về đời sống văn hóa;
thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa ở Việt Nam, đồng thời đưa ra những gợi mở
giải pháp thực xây dựng đời sống văn hóa.
Viết về những tấm gương điển hình trong xây dựng đời sống văn hóa, cuốn
sách Điển hình xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở do Bộ Văn hóa - Thông tin biên
soạn và phát hành (tập 8, Hà Nội, 2003) tập hợp tư liệu về người thực, việc thực
điển hình trong xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, những tấm gương điển hình
trong xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở được tác giả khảo cứu và chọn lọc đưa vào
nghiên cứu của mình. Giá trị của cuốn sách góp phần tuyên truyền, biểu dương và
nhân rộng những tấm gương điển hình tiên tiến đạt thành tích xuất sắc trong phong
trào thi đua “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trong các cơ quan, ban
ngành, đoàn thể ở Trung ương và địa phương.
Nghiên cứu về xây dựng đời sống văn hóa ở vùng cao, cuốn sách Xây dựng
đời sống văn hóa ở vùng cao của Trần Hữu Sơn (Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội,
2004) phác họa diện mạo văn hóa vùng cao từ truyền thống đến hiện đại, đây là
nguồn tài liệu mang tính thực tế cho những người nghiên cứ về văn hóa, quản lý
văn hóa và cơ quan quản lý, quy hoạch văn hóa. Cuốn sách làm rõ nhiều vấn đề về
xây dựng đời sống văn hóa ở vùng cao như: nhận thức về xây dựng đời sống văn
hóa ở cơ sở vùng cao; văn hóa dân tộc Mông vùng Tây Bắc với vấn đề phát triển;
làng Mông vùng Tây bắc với vấn đề xây dựng đời sống văn hóa; xây dựng mô hình
làng du lịch văn hóa; chợ ở các tỉnh miền núi phía Bắc - một trung tâm sinh hoạt
văn hóa; anh hưởng của du lịch đến một số thiết chế xã hội của người Mông ở Sapa;
17. 10
diện mạo sinh hoạt văn hóa dân gian ở một số đô thị miền núi phía Bắc... là nội
dung nổi bật trong nghiên cứu của Trần Hữu Sơn.
Nghiên cứu về xây dựng đời sống mới ở đô thị, cuốn sách Giáo dục lối sống, đời
sống mới của Thanh Lê (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2004) nghiên cứu về lối sống,
đời sống, trên cơ sở đó tác giả đề cập việc xây dựng lối sống - đời sống ở đô thị, điển
hình là ở thành phố Hồ Chí Minh. Điểm nổi bật của cuốn sách là khơi dậy và sắp xếp
lại một cách khoa học, hệ thống các vấn đề giáo dục lối sống phù hợp với những hoạt
động của công dân đô thị.
Viết về chủ đề xây dựng môi trường văn hóa, cuốn sách Về xây dựng môi
trường văn hoá cơ sở của Văn Đức Thanh (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004)
nghiên cứu môi trường văn hóa ở Việt Nam, khẳng định xây dựng môi trường văn
hóa là thực hiện quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, văn hóa là mục tiêu, động lực thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển.
Cùng chủ đề xây dựng môi trường văn hóa, tác giả Nguyễn Hữu Thức có
nhiều quan điểm giống với tác giả Văn Đức Thanh. Cuốn sách Về văn hóa và xây
dựng đời sống văn hóa (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005) hệ thống những chủ
trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời sống văn hóa qua từng giai đoạn, từ
đó, tác giả đi phân tích về công tác xây dựng môi trường văn hóa là một nội dung
điển hình trong các nội dung xây dựng đời sống văn hóa. Điểm nổi bật là tác giả
nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống trong xây dựng môi trường văn hóa hiện nay.
Nghiên cứu về xây dựng lối sống văn hóa, cuốn sách Xây dựng lối sống ở Việt
Nam hiện nay của Võ Văn Thắng (Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2006) đưa ra
quan điểm xây dựng lối sống ở Việt Nam nhằm phát triển văn hóa trong thời kỳ hội
nhập; coi văn hóa là động lực phát triển xã hội, phương hướng, giải pháp kế thừa và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc trong xây dựng lối sống ở Việt
Nam. Tác giả làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra trong xây dựng lối sống ở
Việt Nam, qua đó nhấn mạnh vai trò của gia đình trong việc kế thừa và phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, coi đó là vấn đề cần quan tâm trong bối cảnh
Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập, giao lưu quốc tế.
18. 11
Tìm hiểu về tác động của CNH, HĐH đến xây dựng đời sống văn hóa các dân
tộc thiểu số, cuốn sách Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa của Trần Văn Bính (Nxb Lí luận chính trị, Hà Nội,
2006) nghiên cứu những tác động của quá trình CNH, HĐH hiện nay ảnh hưởng
đến đời sống văn hoá các dân tộc thiểu số trên cả hai bình diện tích cực và tiêu
cực. Qua đó tác giả đánh giá và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao đời sống
văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Nghiên cứu về xây dựng đời sống văn hóa ở phạm vi của một giai cấp, tác giả
Nguyễn Văn Nhật chủ biên cuốn sách Xây dựng đời sống văn hóa của giai cấp
công nhân Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội, 2010). Công trình có sự khảo cứu thực địa, chọn mẫu tại một số khu chế xuất
(khu công nghiệp ở tỉnh Bình Dương). Trên cơ sở lý luận về văn hóa và đời sống
văn hóa, từ thực trạng đời sống công nhân Việt Nam, căn cứ vào yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, công trình nghiên cứu đưa ra một số giải pháp
nhằm xây dựng và phát triển đời sống văn hóa giai cấp công nhân trong những thập
niên tiếp theo. Các tác giả cho rằng, để xây dựng và nâng cao đời sống cho công
nhân, nhất thiết phải thực hiện đồng bộ cả nội dung lẫn các giải pháp; phải được
phối hợp triển khai đồng thời của tất cả các tổ chức, các ngành, của toàn xã hội và
chính bản thân người công nhân.
Tìm hiểu về mối quan hệ giữa xây dựng đời sống văn hóa với xây dựng nông
thôn mới, cuốn sách Xây dựng đời sống văn hoá nông thôn mới của hai tác giả
Trương Công Thấm và Vũ Hải (Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2012) làm rõ hơn
về xây dựng đời sống văn hóa gắn với xây dựng nông thôn mới theo tiêu chí 06
(cơ sở vật chất văn hóa) và tiêu chí 16 (văn hóa) trong 19 tiêu chí của bộ tiêu chí
quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Đáng chú ý ở cuốn sách này là những phân
tích của các tác giả về mối quan hệ giữa những nội dung xây dựng nông thôn mới
với xây dựng đời sống văn hóa từ đó đưa ra một số kinh nghiệm xây dựng nông
thôn mới.
Trong cuốn Hỏi đáp về xây dựng nếp sống văn minh do Bộ Văn hóa Thể thao
Du lịch chỉ đạo biên soạn (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014) làm rõ hơn một
số khái niệm có liên quan đến xây dựng đời sống văn hóa như: nếp sống văn minh;
19. 12
nếp sống văn hóa, đời sống mới... Những nội dung cơ bản về xây dựng đời sống
văn hóa; kĩ năng của cán bộ đang làm công tác văn hóa - xã hội ở cơ sở; phương
pháp tiếp cận, nghiên cứu, vận dụng thực tiễn ở địa phương được trình bày trong
cuốn sách khá chi tiết.
Từ góc độ pháp luật về xây dựng đời sống văn hóa, cuốn sách Hỏi, đáp pháp
luật về xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn do Cục văn hóa cơ sở thuộc Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch biên soạn (Nxb Lao động, Hà Nội, 2016) hệ thống một
cách cơ bản kiến thức pháp luật liên quan đến việc xây dựng đời sống văn hóa ở
nông thôn. Những nội dung xây dựng đời sống văn hóa như thực hiện nếp sống văn
minh trong việc cưới, việc tang, tổ chức lễ hội; xây dựng gia đình văn hóa, làng,
thôn, bản văn hóa; xây dựng xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới… được phân tích
kĩ hơn dưới góc độ các quy định của pháp luật.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu nêu trên, có một số bài viết phân tích
khá kĩ về xây dựng đời sống văn hóa ở phạm vi, góc độ khác nhau, tiêu biểu như:
Bài viết Nghĩ về phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” của tác giả Lê Tiến Dũng (Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 12, 2007) phân tích,
luận giải những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, phản biện một số quan niệm chưa đúng về
nội dung, bản chất phong trào xây dựng đời sống văn hóa, cho rằng phong trào là
của toàn dân nên phải thống nhất, tập trung tất cả các phương pháp hoạt động của
các đối tượng khác nhau thành một nội dung tổng hợp; hoặc cho rằng không cần
quan tâm đến các hoạt động chung của phong trào lớn mà chỉ cần quan tâm đến các
phong trào nhỏ vì hầu hết các phong trào nhỏ đang phát triển rất tốt. Tác giả khẳng
định đây là những nhận thức lệch lạc, cần phải làm tốt công tác tuyên truyền, nâng
cao nhận thực trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về nội dung, bản chất của phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
Ở góc nhìn thành công trong xây dựng đời sống văn hóa, tác giả Đỗ Ngọc
Khanh khảo sát thực tế của người dân đánh giá về những ưu điểm sau 15 năm thực
hiện xây dựng đời sống văn hóa trong cả nước, bài viết Đánh giá của người dân về
những thay đổi sau 15 năm phát động và thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa” (Tạp chí Tâm lý học, số 9/(186), 2014) nghiên cứu
20. 13
hoạt động xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, thông qua việc thực hiện phỏng
vấn 597 người dân Hà Nội, Thanh Hóa, Huế, Đà Nẵng để tìm hiểu đánh giá của
người dân về những lợi ích của phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới tại khu
dân cư sau 15 năm Đảng phát động phong trào trong cả nước. Kết quả nghiên cứu
khẳng định phong trào đã làm cho môi trường sống, kinh tế, mối quan hệ xã hội và
tâm lí của người dân tốt hơn trước khi có phong trào, các thay đổi này mang tính
khá bền vững.
Để có một cách nhìn khách quan về xây dựng đời sống văn hóa trong nhận
thức của người dân, tác giả Nguyễn Thị Hoa khảo sát thực tế từ đó có những đánh
giá chi tiết. Bài viết Nhận thức của người dân về mục tiêu hoạt động xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư (Tạp chí Tâm lý học, số 8, 2015) nghiên cứu phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” trong đó tập trung
vào nội dung xây dựng gia đình Việt Nam hạnh phúc, bền vững và xây dựng nếp
sống văn hóa ở một số lĩnh vực trong đời sống xã hội của nhân dân. Tác giả khảo
sát thực tế trên 605 người dân ở một số đơn vị dân cư thuộc xã, phường, thị trấn của
4 địa phương: Hà Nội, Thanh Hóa, Huế, Đà Nẵng thực hiện tốt phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Kết quả khảo sát cho thấy
mục tiêu xây dựng gia đình Việt Nam hạnh phúc, bền vững được người dân nhận
thức tốt nhất. Đây là một điều kiện quan trọng góp phần xác định nhiệm vụ và cách
thức thực hiện thành công hoạt động xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.
Nghiên cứu chủ trương của Đảng trong xây dựng đời sống văn hóa, bài viết
Vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở Việt Nam của tác giả Phạm Hoài Anh
(Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 390, 2016) làm rõ hơn quan điểm của Đảng về xây
dựng đời sống văn hóa từ Đại hội IV đến Đại hội XI; tác giả phân tích những quan
niệm khác nhau về đời sống văn hóa và quan niệm cơ sở trong xây dựng đời sống
văn hóa; qua đó tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của xây dựng đời sống văn hóa
chính là thực hiện nhiệm vụ đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống, làm cho văn
hóa ngày càng trở thành yếu tố khăng khít của đời sống xã hội.
Nghiên cứu về những bất cập trong xây dựng đời sống văn hóa gắn với xây
dựng nông thôn mới ở miền núi phía Bắc, bài viết Xây dựng đời sống văn hóa gắn
21. 14
với nông thôn mới ở miền núi phía Bắc của tác giả Vũ Diệu Trung (Tạp chí Văn hóa
nghệ thuật, số 395, 2017) làm rõ hơn những bất cập trong công tác xây dựng đời
sống văn hóa gắn với xây dựng nông thôn mới ở khu vực miền núi phía Bắc, nhất là
ở vùng sâu, vùng xa thể hiện qua các nội dung như: xây dựng gia đình văn hóa; xây
dựng làng (xóm, thôn, bản, tổ dân phố) văn hóa; xây dựng nông thôn mới… đây là
những nội dung miền núi khó đạt được theo 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới;
qua đó tác giả đưa ra một số kiến nghị góp phần nghiên cứu cho phù hợp khi điều
chỉnh lại một số tiêu chí trong 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới đối với khu vực
miền núi phía Bắc.
Cùng viết về chủ đề xây dựng đời sống văn hóa ở miền núi, tác giả Trần Hữu
Sơn có bài viết Đặc điểm miền núi với vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
(Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 398, 2017) phân tích đặc điểm miền núi (các tỉnh
phía Bắc và Tây Nguyên) ảnh hưởng đến xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn,
trong đó tác giả chú trọng phân tích đặc thù của miền núi chi phối đến xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở gắn với việc xây dựng nông thôn mới; một số tiêu chí xây
dựng nông thôn mới không phù hợp với miền núi dẫn đến tính trạng không thực
hiện được tiêu chí hoặc thực hiện được nhưng lại bỏ hoang các công trình văn hóa,
điều đó làm cho công tác xây dựng đời sống văn hóa gặp nhiều khó khăn.
Có thể nói, từ những khía cạnh tiếp cận khác nhau, những công trình nghiên
cứu đã cho thấy vị trí, vai trò, tầm quan trọng của xây dựng đời sống văn hóa. Kết
quả nghiên cứu của những công trình trên đã giúp tác giả luận án có được những nét
khái quát về tình hình nghiên cứu về xây dựng đời sống văn hóa. Đây là nguồn tài
liệu giúp luận án xác định hướng đi, phạm vi, nội dung và nhiệm vụ nghiên cứu của
đề tài.
1.1.2. Nghiên cứu về xây dựng đời sống văn hoá ở tỉnh Lạng Sơn
Liên quan đến đề tài luận án có các công trình mà luận án có thể kế thừa, cụ
thể như:
Cuốn sách Ai lên xứ Lạng của tập thể tác giả Hà Văn Thư, Hoàng Nam, Vi
Hồng Nhân, Vương Toàn (Nxb Văn hoá dân tộc, 1994) nghiên cứu về lịch sử - văn
hóa xứ Lạng, nổi bật là những nghiên cứu về địa danh nổi tiếng, cảnh quan, phong
22. 15
tục, tập quán và các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống tiêu biểu của con người
Lạng Sơn, bên cạnh đó còn đề cập đến truyền thuyết và huyền thoại về Lạng Sơn.
Dưới góc nhìn lịch sử, cuốn sách Đường phố thị xã Lạng Sơn của nhóm tác
giả Hoàng Trường, Sầm Cảnh Dũng, Hoàng Tuyết, Nguyễn Ngọc Khánh (Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội, 1996) nghiên cứu về lịch sử các đường phố Thị xã Lạng
Sơn, về gốc tích của từng đường, phố. Điểm nổi bật là các tác giả đi sâu vào việc
giải thích tên gọi của những con đường đi vào lịch của địa phương, vị trí, ý nghĩa
của từng đường, phố thị xã Lạng Sơn.
Để có những đánh giá tổng quát về sự nghiệp văn hóa, văn nghệ xứ Lạng,
cuốn sách 30 năm một chặng đường văn nghệ Lạng Sơn văn hóa và cách mạng do
Hội văn học nghệ thuật Lạng Sơn biên soạn (Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1998)
tập hợp bài viết của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước và của tỉnh Lạng Sơn, các
cán bộ văn hóa đánh giá, tổng kết những kết quả mà Đảng bộ, nhân dân Lạng Sơn
đạt được trong 30 năm xây dựng văn nghệ, văn hóa cách mạng ở địa phương. Bên
cạnh đó còn có những trang thơ, văn nghệ các dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn gắn với
nội dung xây dựng sự nghiệp văn hóa, văn nghệ xứ Lạng.
Nghiên cứu tổng thể về tỉnh Lạng Sơn, cuốn sách Địa chí Lạng Sơn do Ủy ban
nhân dân tỉnh Lạng Sơn tổ chức biên soạn (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999).
Đây là công trình nghiên cứu công phu, nội dung cơ bản giới thiệu lịch sử, văn hóa
tỉnh Lạng Sơn, trong đó tập trung nhấn mạnh nhiều đến đời sống vật chất và tinh
thần của các dân tộc Lạng Sơn như: tín ngưỡng, lễ hội, phong tục tập quán, văn học
- nghệ thuật, danh lam thắng cảnh... Đây là công trình nghiên cứu tổng quát nhất về
về địa lý, tự nhiên, lịch sử, dân tộc, con người, văn hóa, xã hội và những biểu hiện
của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội ở Lạng Sơn qua các thời kỳ lịch sử.
Tìm hiểu về âm nhạc truyền thống góp phần xây dựng đời sống văn hóa ở
Lạng Sơn, cuốn sách Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày - Nùng - Dao Lạng Sơn
của Nông Thị Nhình (Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2000) nghiên cứu sâu về âm
nhạc dân gian trong các dân tộc Tày - Nùng - Dao ở Lạng Sơn; làm rõ những hình
thức sinh hoạt âm nhạc dân gian; sự hình thành các dạng giai điệu, mối quan hệ
giữa giai điệu với thơ ca, các nhạc cụ dân gian và dàn nhạc cũng được tác giả làm
rõ. Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày - Nùng - Dao ở Lạng Sơn là một trong những
23. 16
đặc trưng văn hóa cần được bảo tồn và phát huy trong bối cảnh mở cửa, giao lưu,
hội nhập hiện nay.
Làm nổi bật những nét đặc trưng văn hóa xứ Lạng, cuốn sách Lạng Sơn vùng
văn hóa đặc sắc của Phạm Vĩnh (Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001) nghiên cứu
những nét đặc sắc trong văn hóa xứ Lạng, từ vị trí địa lý, hành chính, lịch sử qua
các thời kỳ. Tác giả cũng làm rõ hơn khái niệm về văn hóa, đặc trưng văn hóa, chức
năng văn hóa, di sản văn hóa, bản sắc văn hóa, dân tộc và đoàn kết dân tộc ở tỉnh
Lạng Sơn; những tín ngưỡng tôn giáo, di sản khảo cổ và lịch sử cách mạng; thơ ca
về Lạng Sơn cũng được trình bày khá rõ trong cuốn sách. Những vấn đề về văn hóa
Lạng Sơn hiện tại được tác giả đề cập, trong đó nhấn mạnh văn hóa Lạng Sơn đang
bị mai một, vì vậy cả cộng đồng cần chung tay trong việc gìn giữ và phát huy nét
văn hóa đặc trưng của địa phương mình.
Từ góc nhìn lễ hội truyền thống góp phần xây dựng đời sống văn hóa, cuốn
sách Lễ hội dân gian Lạng Sơn do Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Lạng Sơn biên soạn
(Lạng Sơn, 2002) nghiên cứu về lễ hội dân gian Lạng Sơn, điểm nổi bật là nhấn
mạnh các loại hình lễ hội điển hình tại các địa phương trong tỉnh; khẳng định lễ hội
là sản phẩm của văn hóa cộng đồng, ở đó kết tinh những giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp về phong tục tập quán, tâm linh, tín ngưỡng, văn nghệ dân gian. Lễ
hội Lạng Sơn vừa mang những đặc trưng chung của lễ hội vùng Việt Bắc vừa mang
sắc thái riêng của vùng văn hóa xứ Lạng.
Qua lăng kính văn học nghệ thuật, cuốn sách Văn hóa văn nghệ xứ Lạng - Một
góc nhìn của Dương Lộc Vượng (Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2006) nghiên cứu về
văn hóa xứ Lạng từ góc độ văn học - nghệ thuật. Một số nét văn hóa đặc sắc ở xứ Lạng
được tác giả phác họa như các lễ hội: lễ hội ở Làng Giàng, chợ Tết Kỳ Lừa; dân ca sli,
slình và một số làn điệu dân ca, truyện ngắn được tác giả nghiên cứu khá chi tiết.
Tìm hiểu về di sản văn hóa vật thể trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, cuốn sách Di
sản văn hóa Lạng Sơn, tập 1 - Văn hóa vật thể do Nguyễn Cường chủ biên (Nxb
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2006) nghiên cứu về truyền thống văn hóa xứ Lạng và
di tích văn hóa ở Lạng Sơn: những danh lam thắng cảnh; tôn giáo tín ngưỡn; kiến
trúc; nghệ thuật truyền thống ở Lạng Sơn. Tác giả khẳng định giá trị to lớn của các
di sản văn hóa ở Lạng Sơn, qua đó mong muốn người dân có nhận thức đúng đắn,
góp phần gìn giữ, bảo tồn và phát huy vốn di sản văn hóa dân tộc.
24. 17
Dưới góc nhìn tín ngưỡng dân gian, một yếu tố không thể thiếu trong đời sống
tâm linh người dân xứ Lạng, cuốn sách Tín ngưỡng dân gian Tày, Nùng của
Nguyễn Thị Yên (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009) nghiên cứu tổng quát về tín
ngưỡng dân gian của người Tày, Nùng; tổng hợp, phân loại các hình thức sinh hoạt
văn hóa tín ngưỡng tiêu biểu của người Tày, Nùng (Tào, Mo, Then, Pụt...) trong sự
giao lưu tiếp giữ những yếu tố du nhập và yếu tố bản địa, trong mối liên hệ giao lưu
ảnh hưởng qua lại giữa các địa phương. Tác giả tập trung đánh giá thực trạng, vai
trò của các hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng trong đời sống tinh thần của
người Tày, Nùng để từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất phát huy trong giai đoạn
hiện nay. Điểm nổi bật trong công trình nghiên cứu này là cách tác giả đề cập về tín
ngưỡng dân gian, về các sinh hoạt lễ nghi của người Tày, Nùng ở tỉnh Lạng Sơn khi
so sánh với các tỉnh cùng khu vực như: Cao Bằng, Bắc Kạn...
Từ góc độ Dân tộc học, lễ hội lồng tồng đã được tác giả Hoàng Văn Páo phục
dựng lại một cách khá tổng thể qua luận án tiến sĩ Lễ hội Lồng Thồng của dân tộc
Tày ở Lạng Sơn (Viện Dân tộc học thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội,
2009). Tác giả nghiên cứu về lễ hội lồng tồng trong dân tộc Tày ở Lạng Sơn, phục
dựng lễ hội lồng tồng trong đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc Tày, các trò
chơi, nghi lễ, quy mô, thời gian, không gian đã được tác giả trình bày khá chi tiết,
qua đó làm sáng tỏ vai trò, vị trí và mối quan hệ của lễ hội trong đời sống kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội của người Tày ở Lạng Sơn. Ngoài ra, tác giả nghiên cứu,
so sánh lễ hội lồng tồng với một số lễ hội truyền thống khác của người Tày, qua đó
đề cập vấn đề bảo tồn và phát triển lễ hội lồng tồng cùng các lễ hội truyền thống ở
tỉnh Lạng Sơn.
Nghiên cứu về tầng lớp quý tộc thế tập trong dân tộc Tày, Nùng ở tỉnh Lạng
Sơn, đề tài khoa học Các dòng họ, Thổ ty Lạng Sơn trong lịch sử của Nguyễn
Quang Huynh (cơ quan chủ trì: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lạng Sơn, Lạng
Sơn, 2010) nghiên cứu về các dòng họ, Thổ ty (tức là tầng lớp quý tộc thế tập ở các
vùng dân tộc Tày, Nùng ở Lạng Sơn). Tác giả khẳng định, dòng họ là nòng cốt liên
kết giữa các cá nhân, gia đình với làng xã, tạo nên sức mạnh làng, xã. Điểm nổi bật
của cuốn sách là tác giả làm rõ hơn về chính sách dân tộc, chế độ phiên tần và phiên
tần thế tập, thổ ty trong lịch sử, đồng thời làm rõ vai trò, vị trí của dòng họ Thổ ty
25. 18
Lạng Sơn trong việc chống giặc ngoại xâm, bảo vệ biên cương, cuộc sống nhân dân,
trên lĩnh vực kinh tế xã hội.
Tìm hiểu địa danh văn hóa xứ Lạng, cuốn sách Vài nét về văn hóa và địa danh
văn hóa Lạng Sơn của Hoàng Văn Páo (Công ty cổ phần in Lạng Sơn xuất bản,
Lạng Sơn, 2011) nghiên cứu về văn hóa và địa danh văn hóa Lạng Sơn trong lịch sử
và hiện tại, đặc biệt nhấn mạnh các loại hình tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập
quán, lối sống, tri thức dân gian, cách ứng xử của cộng đồng các dân tộc với thiên
nhiên, với con người, với xã hội.
Cuốn sách Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa tỉnh Lạng Sơn trong
thời kỳ đổi mới của tác giả Trịnh Ngọc Chính ( Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2012)
nghiên cứu công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong thời kỳ đổi mới,
trong đó nhấn mạnh công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Lạng Sơn trong
thời kỳ đổi mới; kết quả, giải pháp, kiến nghị trong bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa Lạng Sơn cũng được tác giả
Tìm hiểu về những nét văn hóa đặc sắc ở Lạng Sơn, cuốn sách Nét đẹp văn
hóa xứ Lạng của Đặng Thế Anh (Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2012) nghiên cứu
về đặc trưng văn hóa ở vùng đất biên ải xứ Lạng: những câu truyện sâu sắc, những
câu hát giao duyên, những lễ nghi và các giá trị văn hóa, văn vật mãi tồn tại với thời
gian. Nội dung đáng chú ý của cuốn sách là phần nghiên cứu về hiện tượng văn hóa
đặc sắc ở Lạng Sơn như: gốc rễ ở lòng người, hoa nơi từ ngữ; bàn về nhân vật “giả
giới tính” trong văn học Nùng; tản mạn về nhân vật mồ côi trong truyện cổ xứ
Lạng; văn bia động Nhị Thanh; cõi tục và cõi thiêng; một lối vào then Tày...
Nghiên cứu từ góc độ địa lí - lịch sử, cuốn sách Địa dư chí - văn bia - câu đối
của Hoàng Giáp, Hoàng Văn Páo, (Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2012) nghiên
cứu về địa dư chí - văn bia - câu đối trên cơ sở các điều kiện về vị trí địa lý, khí hậu,
núi sông, thành quách, đồn trạm, biên ải, bến đò, làng xã và các di tích lịch sử,
phong tục tập quán, ruộng đất của tỉnh Lạng Sơn.
Cùng góc độ nghiên cứu lịch sử, cuốn sách Lạng Sơn vùng đất của Chi Lăng -
Đồng Đăng - Kỳ Lừa của Mã Thế Vinh (Nxb Trẻ, Hà Nội, 2012 nghiên cứu về các
di tích lịch sử ở Lạng Sơn trong đó nổi bật là Chi Lăng, Đồng Đăng, Kỳ Lừa. Cuốn
sách có sự khái quát về lịch sử Lạng Sơn, giới thiệu các danh lam thắng cảnh, các di
26. 19
tích lịch sử, danh thắng, các dân tộc cùng một số lễ hội tiêu biểu, làng nghề thủ
công, kho tàng văn nghệ dân gian, ẩm thực và hoa qủa đặc sản ở Lạng Sơn.
Nghiên cứu về truyền thống văn hóa huyện Bắc Sơn, cuốn sách Bản sắc và
truyền thống văn hoá các dân tộc huyện Bắc Sơn do Bàn Tuấn Năng chủ biên (Nxb
Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 2014) làm nổi bật địa danh và con người Bắc Sơn, điều
kiện tự nhiên và lịch sử cư dân; diện mạo về lịch sử, văn hoá các dân tộc ở Bắc Sơn
gồm Tày, Dao, Nùng, Kinh, Mông. Cuốn sách đề cập trên nhiều bình diện, khía
cạnh, từ góc độ lịch sử đến truyền thống văn hóa, các giá trị văn hoá vật chất và văn
hoá tinh thần, tác giả khẳng định Bắc Sơn là vùng đất giàu truyền thống cách mạng,
giàu bản sắc và truyền thống văn hóa, có nhiều thế mạnh trong xây dựng đời sống
văn hóa.
Khái quát về văn hóa xứ Lạng, cuốn Tài liệu văn hoá địa phương tỉnh Lạng
Sơn của nhóm tác giả Đoàn Thị Tĩnh, Dương Hồng Minh, Nguyễn Thị Vân (Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 2015) nghiên cứu về địa lí, lịch sử, văn hóa, con người ở Lạng
Sơn. Các tác giả tuy không đi sâu phân tích một nội dung cụ thể nhưng lại có sự
khái quát về văn hóa Lạng Sơn một cách khá hệ thống.
Viết về những tập thể, cá nhân điển hình trong xây dựng và phát triển văn hóa
ở tỉnh Lạng Sơn, cuốn sách Những tập thể, cá nhân góp phần xây dựng và phát
triển văn hoá Xứ Lạng giai đoạn 1998 - 2013 do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lạng Sơn
biên soạn (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2015) tập hợp, giới thiệu một số tập thể
và cá nhân điển hình, có nhiều thành tích trong các phong trào thi đua trên lĩnh vực
hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn 15 năm, từ năm
1998 đến năm 2013.
Ở góc độ bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa, cuốn sách Giữ gìn, phát
huy di sản dân ca Xứ Lạng do Hội bảo tồn dân ca tỉnh Lạng Sơn biên soạn (Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2016) nghiên cứu về dân ca xứ Lạng nhằm giữ gìn, phát
huy giá trị truyền thống tốt đẹp và sáng tạo mới góp phần xây dựng đời sống văn
hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, hưởng thụ của
nhân dân. Công trình cũng nghiên cứu về các giải pháp bảo tồn, phát huy các làn
điệu dân ca, bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn
hiện nay.
27. 20
Tổng kết lịch sử quá trình xây dựng và phát triển lĩnh vực văn học nghệ thuật
của tỉnh Lạng Sơn, cuốn sách Hội Văn học nghệ thuật Lạng Sơn 50 năm xây dựng
và phát triển (1968 - 2018) do Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lạng Sơn biên soạn
(Lạng Sơn, 2018). Công trình nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của
Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lạng Sơn (1968 - 2018) đã có những đóng góp chung
cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa xứ Lạng. Điểm nổi bật của cuốn sách
nhấn mạnh về những nét đẹp của vị trí địa lí, lịch sử, con người Lạng Sơn nơi khởi
nguồn dòng chảy văn học nghệ thuật xứ Lạng và những đóng góp của văn học nghệ
thuật Lạng Sơn trong tiến trình lịch sử phát triển.
Nhìn một cách tổng thể, các công trình nghiên cứu về văn hóa tỉnh Lạng Sơn
chủ yếu đề cập trên ba phương diện: giới thiệu bức tranh chung về tỉnh Lạng Sơn
với đặc điểm về tự nhiên và xã hội; giới thiệu về di sản văn hóa và những nét văn
hóa đặc trưng một số dân tộc ở Lạng Sơn; quan điểm của các tác giả về việc giữ
gìn và phát huy những giá trị bản sắc dân tộc ở địa phương. Tuy nhiên, các công
trình chưa phân tích đầy đủ, hệ thống những yếu tố tác động đến quá trình xây
dựng đời sống văn hóa. Một số vấn đề đặt ra trong các công trình mới dừng lại ở
dạng khái quát, chưa có lập luận, lí giải rõ ràng. Chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách tổng thể về quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn, nhất là
trong giai đoạn 1998 - 2015. Mặc dù vậy, đây là nguồn tài liệu quý, là cơ sở để
nghiên cứu sinh tham khảo từ đó xác định hướng đi của luận án.
1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan và những vấn đề cần tiếp
tục đi sâu nghiên cứu
1.2.1. Những vấn đề các công trình nghiên cứu đã giải quyết
Liên quan đến xây dựng đời sống văn hóa, các công trình đã giải quyết được
nhiều vấn đề ở phạm vi, góc độ khác nhau mà luận án có thể kế thừa như sau:
Thứ nhất, lí luận về xây dựng đời sống văn hóa
Một số công trình đã làm sang tỏ các khái niệm về văn hóa, lối sống, nếp
sống văn hóa, đời sống văn hoá trong đó có công trình đã nghiên cứu về lý luận và
thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa ở nước ta. Nhiều công trình được thể hiện dưới
dạng hỏi - đáp về làng văn hoá, gia đình văn hoá, xây dựng nếp sống văn minh, tổ
chức lễ hội truyền thống.
28. 21
Thứ hai, về vai trò, vị trí của xây dựng đời sống văn hóa.
Ở nội dung này, các công trình nghiên cứu khẳng định vai trò của đời sống văn
hóa ở cơ sở, những vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng đời sống văn hóa,
những hướng đi để văn hóa thâm nhập vào cuộc sống thường ngày của nhân dân,
làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn
thiện giá trị mới của con người Việt Nam.
Giá trị văn hóa truyền thống với xây dựng đời sống văn hóa; tầm quan trọng của
xây dựng làng văn hoá, gia đình văn hoá, tổ chức lễ hội truyền thống, di tích, hương
ước và các hình thức sinh hoạt nghệ thuật dân gian.
Tác giả luận án kế thừa ở các công trình những phân tích liên quan đến xây
dựng đời sống văn hóa gắn với giữ gìn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để làm phong phú văn hóa bản địa, tạo ra sức đề
kháng chống lại văn hóa ngoại lai độc hại.
Thứ ba, về những yếu tố tác động đến xây dựng đời sống văn hóa
Các công trình đã nghiên cứu về đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong
quá trình mở cửa, hội nhập, giao lưu quốc tế. Nhiều công trình có những đánh giá
về tác động của quá trình CNH, HĐH đã ảnh hưởng đến đời sống văn hoá các dân
tộc thiểu số trên cả hai bình diện tích cực và tiêu cực. Tác giả luận án có thể tham
khảo và kế thừa những đánh giá này để phục vụ cho nghiên những yếu tố tác động
đến xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Thứ tư, về nội dung xây dựng đời sống văn hóa
Các công trình nghiên cứu về nội dung xây dựng đời sống văn hóa đa dạng với
nhiều chiều cạnh, trong đó những vấn đề đã làm sáng tỏ là: xây dựng môi trường
văn hoá cơ sở; xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay; xây dựng gia đình văn hóa
trong sự nghiệp đổi mới; xây dựng đời sống văn hóa của giai cấp công nhân Việt
Nam; xây dựng đời sống văn hoá nông thôn mới; xây dựng đời sống văn hóa tinh
thần trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam…
Thứ năm, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong xây dựng đời sống văn hóa
Nhiều công trình giới thiệu chủ trương của Đảng về xây dựng đời sống văn
hóa trong nhiều năm qua, trong đó luận án kế thừa nội dung nghiên cứu về Nghị
29. 22
quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về “Xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”; Hội nghị lần
thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (7/2004) và một số văn bản chỉ
đạo xây dựng đời sống văn hóa.
Liên quan đến xây dựng đời sống văn hoá ở tỉnh Lạng Sơn, những vấn đề đã
được giải quyết mà luận án có thể kế thừa là:
Thứ nhất, về địa lý, tự nhiên, lịch sử, dân tộc, con người, văn hóa, xã hội và
những biểu hiện của đời sống kinh tế, văn hóa các dân tộc Lạng Sơn qua các thời
kỳ lịch sử
Các công trình đề cập khá đầy đủ về lịch sử - văn hóa Xứ Lạng, nổi bật là
những nghiên cứu về những địa danh nổi tiếng, cảnh quan, phong tục, tập quán và
những giá trị bản sắc văn hóa truyền thống tiêu biểu của con người Lạng Sơn. Đáng
chú ý là công trình Địa chí Lạng Sơn nghiên cứu công phu, giới thiệu về lịch sử,
văn hóa tỉnh lạng Sơn, trong đó tập trung nhấn mạnh nhiều đến đời sống vật chất và
tinh thần của các dân tộc sống trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn; tôn giáo, tín ngưỡng, lễ
hội, phong tục tập quán, văn học, nghệ thuật, các danh lam thắng cảnh nổi tiếng của
tỉnh Lạng Sơn
Ngoài ra, các công trình còn đề cập vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc ở Lạng
Sơn; những di sản khảo cổ và di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Thứ hai, những phân tích, đánh giá về đời sống vật chất và tinh thần của các
dân tộc sống ở xứ Lạng
Việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa, các phong tục, tập quán, di
sản văn hóa, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, lễ hội, các loại hình nghệ
thuật ở Lạng Sơn: lễ hội lồng tồng, hội đền Tả Phủ, hội Tam Thanh. Các trò
chơi dân gian như: ném còn, kéo co, đánh quay, múa giáo, thi bắn cung, đánh
yến.. Các nghi lễ tung hạt giống, múa lân; dân ca giao duyên: sli, then, pụt; dân
ca nghi lễ như cỏ lầu, lượn, phong slư...Các di tích văn hóa khảo cổ như văn
hóa Bắc Sơn, văn hóa Mai Pha; di tích thắng cảnh như Tam Thanh, Nhị Thanh,
Mẫu Sơn, núi Tô Thị, Thành nhà Mạc...
Ba là, về thực trạng văn hóa, văn nghệ xứ Lạng
30. 23
Các công trình đã thống kê những tập thể, cá nhân góp phần xây dựng và
phát triển văn hoá xứ Lạng giai đoạn 1998 - 2013. Nhiều công trình nghiên cứu
về văn hóa xứ Lạng qua lăng kính văn học - nghệ thuật, trong đó có công trình
tổng kết 50 năm xây dựng văn nghệ, văn hóa cách mạng ở Lạng Sơn.
Bốn là, một số giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa tỉnh
Lạng Sơn trong thời kỳ đổi mới
Các công trình nghiên cứu về dân ca xứ Lạng và các giải pháp bảo tồn, phát
huy các làn điệu dân ca, bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của tỉnh Lạng Sơn
trong giai đoạn hiện nay.
Những kết quả đã nghiên cứu cung cấp cho luận án những tài liệu tham
khảo quan trọng, từ đó xác định hướng nghiên cứu của đề tài, có cái nhìn tổng
thể trong nghiên cứu về xây dựng đời sống văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn.
1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục đi sâu nghiên cứu
Qua khảo cứu về các công trình đã công bố có liên quan, luận án cần tiếp
tục nghiên cứu, giải quyết những vấn đề sau:
- Những nhân tố tác động đến quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở
tỉnh Lạng Sơn từ năm 1998 đến năm 2015, bao gồm: điều kiện tự nhiên; điều
kiện kinh tế - xã hội; truyền thống lịch sử - văn hóa - dân cư; chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng đời sống văn hóa hóa; yêu cầu từ
việc khắc phục những tác động bất lợi của kinh tế thị trường, mở cửa, hội
nhập, CNH, HĐH, mạng xã hội...
- Quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở Lạng Sơn từ năm 1998 đến năm
2015 qua hai giai đoạn (1998 - 2005) và (2006 - 2015) với các nội dung: chủ
trương và biện pháp thực hiện; các phong trào xây dựng đời sống văn hóa, từ
đời sống văn hóa cá nhân đến đời sống văn hóa gia đình, cộng đồng và xây
dựng môi trường văn hóa.
- Đặc điểm xây dựng đời sống văn hóa của tỉnh Lạng Sơn.
- Những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân, ý nghĩa và kinh nghiệm trong xây
dựng đời sống văn hóa ở tỉnh Lạng Sơn từ năm 1998 đến năm 2015.
31. 24
Tiểu kết chương 1
Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án cho thấy,
nghiên cứu về xây dựng đời sống văn hóa, một số công trình đã đề cập đến mức
độ khác nhau của việc xây dựng đời sống văn hóa; chủ trương xây dựng đời
sống văn hóa; tầm quan trọng của xây dựng đời sống văn hóa; thực trạng xây
dựng đời sống văn hóa trên bình diện văn hóa tinh thần ở một số địa phương và
một số giải pháp thực hiện. Những công trình nghiên cứu đã giải quyết được
nhiều vấn đề mà luận án có thể kế thừa, đồng thời cho những gợi ý cần thiết để
xác định những vấn đề luận án cần đi sâu nghiên cứu.
Nghiên cứu về đời sống văn hóa tỉnh Lạng Sơn, một số công trình đã đề
cập đến đặc điểm tự nhiên, lịch sử, xã hội; các phong tục, tập quán, văn hóa
truyền thống và một số biện pháp nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị bản
sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, nghiên cứu về quá trình xây dựng đời sống văn
hóa ở tỉnh Lạng Sơn dưới góc độ nghiên cứu lịch sử vẫn là khoảng trống. Đến
nay chưa có công trình nào thuộc mã ngành lịch sử trùng với tên của đề tài.
Những vấn đề các công trình khoa học đã công bố sẽ được kế thừa, sử
dụng, vận dụng và phát triển trong công trình nghiên cứu, giúp tác giả có thêm
cơ sở khoa học, thêm các căn cứ lí luận, thực tiễn để luận giải và làm sáng tỏ
các nội dung luận án. Tác giả xác định hướng đi của đề tài là bên cạnh nghiên
cứu một số vấn đề chung về xây dựng đời sống văn hóa thì cần nghiên cứu
những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng đời sống văn hóa của tỉnh Lạng
Sơn; phục dựng quá trình xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
trong những năm 1998 - 2015; đánh giá những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân;
rút ra đặc điểm, ý nghĩa, kinh nghiệm trong quá trình xây dựng đời sống văn hóa
ở tỉnh Lạng Sơn. Những nội dung nghiên cứu của luận án đảm bảo tính mới, tính
khoa học, tính lịch sử trong quá trình nghiên cứu.
32. 25
Chương 2
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở TỈNH LẠNG SƠN
TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2005
2.1. Những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở
tỉnh Lạng Sơn
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Lạng Sơn là tỉnh miền núi, biên giới phía Đông Bắc của Việt Nam, phía Bắc
giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên, phía Nam giáp tỉnh
Bắc Giang, phía Đông giáp tỉnh Quảng Ninh và phía Đông Bắc giáp tỉnh Quảng
Tây, Trung Quốc. Tỉnh Lạng Sơn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế,
chính trị của Việt Nam. Diện tích toàn tỉnh là 8.187,25 km2
, có đường biên giới dài
253 km tiếp giáp hai huyện Long Châu và Ninh Minh tỉnh Quảng Tây và huyện
Đông Hưng tỉnh Quảng Đông - Trung Quốc. Tỉnh Lạng Sơn tập trung nhiều đầu
mối giao thông quan trọng, có ý nghĩa chiến lược về an ninh, quốc phòng và phát
triển kinh tế, như: tuyến Quốc lộ 1A nối Việt Nam với Trung Quốc, đường 4B ra
Trà Cổ, Vịnh Hạ Long, đường 4A lên Cao Bằng, đường 1B sang Thái Nguyên,
đường 3B sang Bắc Cạn. Ga Lạng Sơn là ga xe lửa đầu tiên của Việt Nam trên
tuyến đường sắt liên vận quốc tế Việt Nam - Trung Quốc. Trên tuyến biên giới
Lạng Sơn với Trung Quốc có hai cửa khẩu quốc tế, hai cửa khẩu quốc gia và bảy
cặp chợ đường biên. Nhìn chung, các tuyến giao thông này rất thuận lợi cho việc
phát triển kinh tế, thương mại, dịch vụ, văn hóa, du lịch. Vị trí địa lý của Lạng Sơn
đã tạo cho tỉnh một vai trò quan trọng, Lạng Sơn gần thủ đô Hà Nội, đường giao
thông thuận lợi, chính điều đó làm cho Lạng Sơn có một vị trí đặc biệt, cả về quân
sự và chính trị và cũng từ đây gắn chặt với những đặc trưng văn hóa của vùng đất
lịch sử này.
Lạng Sơn là vùng đất địa đầu tổ quốc, tuy không phải là cực Bắc như Hà
Giang hay không phải là điểm duy nhất có lối thông thương giữa biên giới Việt
Nam và Trung Quốc, song lại là con đường ngắn nhất, dễ đi nhất vào Việt Nam.
Nơi nào của Lạng Sơn cũng mang dấu ấn của cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc.
Người xứ Lạng sinh sống ở vị trí tuyến đầu của đất nước trong những cuộc chiến
tranh bảo vệ tổ quốc, trước khi có sự giúp sức của chính quyền trung ương thì bản
33. 26
thân người dân ở đây phải đối phó với kẻ thù để tồn tại. Như vậy, chính điều kiện tự
nhiên, vị trí của vùng đất và những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội đã tạo nên đặc
trưng văn hóa xứ Lạng.
Về hành chính, tỉnh Lạng Sơn có 10 huyện, 01 thành phố, trong đó có 05
huyện biên giới là: Tràng Định, Cao Lộc, Lộc Bình, Văn Lãng, Đình Lập; có 05
huyện nội địa là: Chi Lăng, Hữu Lũng, Văn Quan, Bình Gia, Bắc Sơn; thành phố
Lạng Sơn là trung tâm văn hoá, kinh tế, chính trị của tỉnh.
Về khí hậu, tỉnh Lạng Sơn là một trong những vùng tiêu biểu của khí hậu
miền Bắc Việt Nam, vị trí địa lí ở vĩ độ cực Bắc của Tổ quốc, là cửa ngõ đón các
khối không khí lạnh mùa đông cùng với địa hình khu vực núi Đông Bắc tạo cho
Lạng Sơn có hệ quả thời tiết khí hậu gió mùa cực đới mà không nơi nào trên lãnh
thổ Việt Nam có được, về mùa lạnh, nhiệt độ trung bình hạ thấp 120
C - 150
C, có
lúc xuống đến 5o
C, thậm chí 0o
C trong các tháng mùa đông, gió mùa Đông Bắc
lạnh kéo dài hơn so với các tỉnh khác, cùng với đó, sương muối, sương mù xuất
hiện ở Lạng Sơn tương đối nhiều và trên diện rộng. Về mùa nóng, nhiệt độ trung
bình khoảng 27o
C. Đặc trưng về thời tiết dễ nhận thấy nhất ở Lạng Sơn là biên độ
nhiệt giữa ngày và đêm tương đối lớn, ngày nắng nóng nhưng đêm hạ nhiệt nhanh.
Điều này tác động xấu đến đời sống và sản xuất, bất lợi đối với vật nuôi và cây
trồng.
Về thủy văn, mạng lưới sông ngòi Lạng Sơn khá dày, các sông chính ở tỉnh
Lạng Sơn là: sông Kì Cùng, sông Thương, sông Bắc Giang, sông Bắc Khê, sông
Rồng, sông Lục Nam, sông Phố Cũ, sông Nà Lang, sông Đồng Quy. Do hệ thống
sông khá dày nên việc cung cấp nước tưới cho nông nghiệp khá thuận lợi, dù là tỉnh
miền núi nhưng trong các lễ hội, nhất là lễ hội truyền thống của các dân tộc Tày,
Nùng có nhiều yếu tố liên quan đến sông nước.
Về khoáng sản, tỉnh Lạng Sơn có nhiều mỏ kim loại phong phú như: mỏ vàng
(nằm rải rác ở các huyện Bắc Sơn, Bình Gia, Văn Quan, Thất Khê); mỏ sắt (xã Mai
Sao, Chi Lăng); mỏ nhôm (có 37 mỏ nằm rải rác từ Bắc Sơn và dọc quốc lội 1A từ
Lạng Sơn lên Đồng Đăng; ngoài ra còn có các mỏ đồng, chì, thủy ngân, thiếc, măng
gan, than... các loại tài nguyên này nằm ở hầu hết các huyện trong tỉnh.
Về tài nguyên rừng, Lạng sơn là một tỉnh miền núi nên có thế mạnh về rừng,
thảm thực vật tỉnh Lạng Sơn chia thành hai khối chính, đó là vùng núi đá và vùng
34. 27
núi đất. Vùng núi đá đem lại thế mạnh về các loại cây nghiến, lý, mạy tèo...; vùng
núi đất có thế mạnh về các loại cây như lim, sau sau, kháo, trám, vầu, trúc. Rừng là
tài nguyên quý của tỉnh, giúp cân bằng sinh thái, bảo vệ đất, chắn gió, cung cấp lâm
sản, dược liệu và nguyên liệu cho đời sống đồng bào địa phương, rừng đóng vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ an ninh, quốc phòng, góp phần phát triển du lịch và,
phát triển một số ngành kinh tế của tỉnh. Ở góc độ văn hóa, rừng đóng vai trò quan
trọng trong đời sống văn hóa các dân tộc địa phương, rừng là yếu tố không thể thiếu
trong các nghi lễ truyền thống của các lễ hội ở tỉnh Lạng Sơn.
Đặc điểm địa lí, tự nhiên của tỉnh Lạng Sơn có tác động hai mặt đến xây dựng
đời sống văn hóa của tỉnh. Vị trí địa lí tỉnh Lạng Sơn ở vào thế chiến lược của vùng
Đông Bắc, giao thông thuận tiện, có đường biên giới giáp với Trung Quốc, tạo điều
kiện thuận lợi cho hội tụ, buôn bán, giao lưu văn hóa, phát triển kinh tế, góp phần
tạo nên sự phong phú về đời sống văn hóa và trong phát triển kinh tế của địa
phương. Tuy nhiên, điều này cũng là một nhân tố tác động đến đời sống văn hóa
trên địa bàn tỉnh, do vị trí địa lí và đặc điểm tự nhiên nên văn hóa các dân tộc Lạng
Sơn có sự tiếp xúc và ảnh hưởng của bên ngoài mạnh mẽ hơn so với các tỉnh trong
cùng khu vực, sự giao thoa văn hóa diễn ra nhiều hơn, ảnh hưởng đến xây dựng đời
sống văn hóa ở địa phương.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Về nông nghiệp, kinh tế truyền thống của tỉnh Lạng Sơn là sản xuất nông
nghiệp, trong cơ cấu kinh tế của tỉnh sản xuất nông nghiệp chiếm vị trí quan trọng,
sự phát triển của nông nghiệp có ý nghĩa quyết định trong tăng trưởng kinh tế. Đồng
bào các dân tộc Lạng Sơn sinh sống dọc theo các thung lũng, khai phá đất đai, tạo
dựng nên những cánh đồng ruộng bậc thang để trồng lúa, khai phá đất đồi để trồng
ngô và các loại cây đậu đỗ, bầu bí, ngoài ra còn chăn nuôi gia súc, gia cầm, phát
triển một số ngành thủ công, đồng bào đã biết phát huy lợi thế từ điều kiện khí hậu
tương đối thuận lợi, phát triển nông - lâm nghiệp theo hướng đa dạng hóa cây trồng,
sản xuất hàng hoá như: hồng Bảo Lâm, đào Mẫu Sơn, quýt Bắc Sơn, na Chi Lăng,
cây công nghiệp hồi, vùng nguyên liệu thuốc lá Bắc Sơn, là nền tảng cho sự phát
triển của nông nghiệp Lạng Sơn.
Về công nghiệp, từ năm 1996 tỉnh Lạng Sơn tiến hành đẩy mạnh CNH,
HĐH, sản xuất công nghiệp được tập trung đầu tư, các cơ sở có trang thiết bị và
35. 28
trình độ công nghệ từng bước hiện đại hóa, như nhà máy nhiệt điện Na Dương
công suất 100kwh, nhà máy xi măng Đồng Bành giai đoạn 1 công suất 91 vạn
tấn/năm. Một số sản phẩm công nghiệp ngày càng tăng như: than sạch năm 2000
đạt 78,6 nghìn tấn, năm 2010 đạt 573 nghìn tấn; gạch xây các loại từ 91,5 triệu
viên năm 2000 lên 185,6 triệu viên năm 2010 [24, tr.22]. Việc tăng trưởng, phát
triển trong công nghiệp tác động đến xây dựng đời sống văn hóa, liên quan đến
văn hóa ứng xử trong doanh nghiệp, trong cạnh tranh sản xuất công nghiệp, trong
đời sống công nhân...
Về thương mại, dịch vụ: tỉnh Lạng Sơn cách thủ đô Hà Nội 154km, nằm
cạnh khu tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; có hai cửa khẩu
quốc tế Hữu Nghị và Tân Thanh, hai cửa khẩu quốc gia Chi Ma, Bình Nghi và bảy
cặp chợ đường biên, thuận tiện cho việc đi lại, giao lưu buôn bán, xuất nhập khẩu
hàng hóa và phát triển du lịch, dịch vụ. Từ năm 1998 đến nay, việc buôn bán diễn
ra sôi động, hàng hóa trong tỉnh, các tỉnh bạn trong cả nước qua tỉnh Lạng Sơn
xuất khẩu sang Trung Quốc với số lượng và chủng loại lớn, thương mại tỉnh Lạng
Sơn nhờ đó phát triển, góp phần thúc đẩy dịch vụ, sản xuất phát triển, nâng cao
mức sống của người dân.
Đời sống các tầng lớp nhân dân ở cả thành thị và nông thôn được cải thiện, thu
nhập bình quân đầu người được nâng lên rõ rệt, năm 2000 ở mức 3.096 triệu
đồng/năm; năm 2010 ở mức 16.361 triệu đồng/năm (tăng gấp 5,3 lần). Chi tiêu bình
quân mỗi người trên một tháng của các hộ tăng từ 277 nghìn/tháng năm 2002 lên
849,3 nghìn/tháng năm 2010 [24, tr.27].
Nhìn chung, về kinh tế - xã hội mặc dù có sự tăng trưởng trong các lĩnh vực
nhưng Lạng Sơn vẫn là một tỉnh còn nhiều khó khăn, kinh tế chủ yếu dựa vào nông
- lâm nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu, cơ sở hạ tầng: điện, đường,
trường, trạm khu vực nông thôn còn nhiều khó khăn, người dân địa phương chủ yếu
là nông dân, sản xuất nông, lâm nghiệp nhỏ lẻ, thiếu đội ngũ lao động kỹ thuật,
công nhân lành nghề, các doanh nghiệp và các nhà kinh doanh chưa thích ứng
nhanh với thị trường. Đặc điểm về kinh tế - xã hội tác động đến việc xây dựng đời
sống văn hoá trên địa bàn tỉnh.
36. 29
2.1.3. Truyền thống lịch sử, văn hóa, dân cư
- Truyền thống lịch sử
Thời Bắc thuộc, tỉnh Lạng Sơn được xếp vào quận Giao Chỉ, sau đó là Giao
Châu, cư dân ở đây được gọi là Man, Lão. Trong hoàn cảnh bị đồng hóa bởi
phong kiến phương Bắc nhưng các dân tộc Lạng Sơn luôn ý thức phải giữ gìn văn
hóa bản địa, chống đồng hóa. Thời kì phong kiến tự chủ, Lạng Sơn trở thành địa
đầu của Tổ quốc, là nơi in đậm dấu ấn các sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước,
đây là con đường kinh lí mà các đoàn sứ bộ đi sang Trung Quốc và cũng là nơi
tiếp đón các đoàn sứ giả của Trung Quốc vào Đại Việt. Đây là miền đất chứng
kiến bao thăng trầm trong lịch sử ngoại giao Việt Nam. Năm 1397, trấn Lạng
Giang được đổi thành trấn Lạng Sơn. Vào thế kỉ XVI - XVIII, Lạng Sơn vẫn được
gọi là trấn và sau đó là ngoại trấn. Trong những năm 1946 - 1954, Lạng Sơn trở
thành một trong sáu tỉnh của căn cứ địa Việt Bắc. Ngày 19 - 8 - 1956 khu tự trị
Việt Bắc được thành lập gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang,
Tuyên Quang, Thái Nguyên. Tháng 12 năm 1975, Lạng Sơn sáp nhập với Cao
Bằng thành tỉnh Cao Lạng. Tháng 12 năm 1978, tỉnh Cao Lạng tách ra thành hai
tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng.
Trong suốt chiều dài lịch sử, tỉnh Lạng Sơn luôn có vị trí trọng yếu và là nơi
ghi nhận hầu hết các sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước trong quan hệ bang giao
với Trung Hoa, hầu hết các cuộc chiến tranh với phương Bắc đều ghi tên con đường
huyết mạch ở Lạng Sơn. Các sự kiện lịch sử nổi tiếng gắn với Mục Nam Quan là
nơi diễn ra cuộc chia tay đẫm nước mắt của cha con Nguyễn Trãi; Ải Chi Lăng với
hàng vạn quân của Liễu Thăng bị tiêu diệt; đèo Sài Hồ đã bao phen làm quân giặc
phương Bắc run sợ; Lộc Bình nơi Thoát Hoan phải chui vào trong ống đồng cho
quân lính khiêng để chạy trốn thoát.
Tỉnh Lạng Sơn được cả nước biết đến như là nơi đã viết nên những trang sử
vàng trong lịch sử chống xâm lăng của dân tộc, là quê hương trung dũng kiên
cường. Trong lịch sử kháng chiến chông thực dân Pháp, tỉnh Lạng Sơn là vùng căn
cứ địa cách mạng, khu di tích Bắc Sơn, Đường số 4... đã đi vào lịch sử kháng chiến
chống thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam. Trong thời kì kháng chiến chống đế
quốc Mỹ xâm lược, tỉnh Lạng Sơn vừa là hậu phương lớn, vừa là chiến trường đánh
trả sự bắn phá của không quân Mỹ, với vị trí là một cảng nổi tiếp nhận sự chi viện
37. 30
của bạn bè quốc tế cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của nhân dân Việt
Nam, tỉnh Lạng Sơn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo toàn hàng hóa, vũ khí chi
viện cho tiền tuyến. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979,
quân và dân tỉnh Lạng Sơn đã hi sinh gian khổ, kiên cường chiến đấu bảo vệ độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Trải qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, nhân dân các dân tộc
Lạng Sơn luôn đứng vững nơi địa đầu Tổ quốc, đã cùng với nhân dân cả nước lập
nhiều chiến công hiển hách trong chống giặc ngoại xâm. Trên con đường đấu tranh
cách mạng để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, biết bao người con ưu tú của nhân dân
các dân tộc ở Lạng Sơn đã lập công xuất sắc, anh dũng hi sinh, tiêu biểu là Hoàng Văn
Thụ, Lương Văn Tri, v.v., và biết bao chiến sĩ đã trở thành anh hùng, dũng sĩ trong
kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ và trong chiến tranh biên giới
bảo vệ Tổ quốc. Truyền thống lịch sử đó đã viết tiếp nên những trang sử mới, góp phần
rất lớn vào công cuộc xây dựng đời sống văn hóa của tỉnh.
- Đặc trưng văn hóa xứ Lạng
Văn hóa xứ Lạng nổi trội là văn hóa của các dân tộc Tày, Nùng
Dân tộc Tày, Nùng Đây sinh sống lâu đời ở tỉnh Lạng Sơn, có mặt ở hầu hết
các huyện, xã, thôn, bản chiếm trên 70% dân số, tạo nên bản sắc văn hóa riêng, sắc
chàm là nét đặc trưng trong văn hóa xứ Lạng.
Người Tày, Nùng không chỉ sống ở tỉnh Lạng Sơn, mà còn có mặt nhiều ở
Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang và những tỉnh khác vùng núi phía Bắc, song tập
quán văn hóa của người Tày, Nùng xứ Lạng có những nét riêng, những sinh hoạt
văn nghệ dân trong các ngày hội với những làn điệu sli, những câu hát lượn của các
dân tộc Tày, Nùng đậm nét hơn, phong phú hơn và được thể hiện nổi trội hơn, khi
nói đến hát sli, hát lượn hầu như người ta đều nghĩ ngay đến người Tày, Nùng xứ
Lạng, nó được truyền từ đời này qua đời khác ăn sâu vào đời sống tinh thần của
nhân dân, trở thành sinh hoạt văn hóa không thể thiếu đối với họ. Trong truyền
thống, người Tày, Nùng luôn được biết đến với những làn điệu sli, lượn trong
những dịp hội xuân hay những sinh hoạt khác của quê hương, đây là nét đặc trưng
văn hóa xứ Lạng.
38. 31
Văn hóa xứ Lạng nổi tiếng với nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh
Xứ Lạng là nơi mang dấu ấn lịch sử của dân tộc đầy bi tráng, đây là cửa ngõ
của tất cả các cuộc chiến từ phương Bắc, là con đường ngắn nhất đến Thăng Long,
cho nên tất cả các cuộc chiến tranh vệ quốc đều có dấu ấn nơi đây, qua các cuộc
chiến ấy là các dấu tích lịch sử của dân tộc, những nơi mang dấu tích này vừa là di
tích lịch sử nhưng lại đượm màu văn hóa với việc giáo dục lòng yêu nước, nhắc nhở
các thế hệ sau “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây”; đó là: Mục
Nam Quan, Ải Chi Lăng, khu di tích Khởi nghĩa Bắc Sơn, Chiến thắng đường 4B,
Nhà sàn lưu niệm đồng chí Hoàng Văn Thụ, những địa danh Đông Khê, Thất Khê,
Thị xã Lạng Sơn (nay là thành phố Lạng Sơn)... mỗi mảnh đất nơi đây đều gắn với
lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, ghi dấu sự hy sinh anh dũng của bao thế hệ
cha ông xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Văn hóa xứ Lạng nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh. Danh lam thắng
cảnh ở đây có cả những danh thắng đẹp về cảnh quan, có danh thắng đượm màu
lịch sử. Câu ca dao xưa là niềm tự hào của người dân xứ Lạng:
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em...”
Phố Kỳ Lừa, sông Kỳ Cùng, động Nhị Thanh, Tam Thanh cùng nhiều di tích
đền chùa khác như đên Kỳ Cùng, Tả Phủ..., các di tích kiến trúc nghệ thuật Đền
Cửa Đông, Đền Cửa Tây, Đền Cửa Nam, Đền Cửa Bắc thuộc phường Chi Lăng,
thành phố Lạng Sơn nơi được xếp hạng di tích quốc gia, thành nhà Mạc, di tích kiến
trúc nghệ thuật Thành cổ Lạng Sơn, Bia Thủy Môn Đình được công nhận là bảo vật
quốc gia và đặc biệt là đỉnh Mẫu Sơn huyền thoại..., những danh lam thắng cảnh
này thể hiện đặc trưng văn hóa chỉ có riêng ở xứ Lạng.
Văn hóa xứ Lạng nổi bật với nhiều lễ hội dân gian
Theo thống kê, tỉnh Lạng Sơn có gần 600 di tích, trong đó có gần 130 di tích
được xếp hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh. Hàng năm, có trên 300 lễ hội lớn, nhỏ khác
nhau, trong đó có 80 - 90% lễ hội dân gian, mang tính chất lồng tồng - cầu cho mưa
thuận gió hòa, mùa màng bội thu, “nhân khang, vật thịnh”, đa số diễn ra trong mùa