2. 1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Khi thời đại công nghệ thông tin bùng nổ như hiện nay, thì Internet là một
phần quan trọng không thể thiếu của mỗi người. Thêm vào đó chúng ta đang sống
trong bối cảnh đại dịch COVID-19 , thế giới đang trải qua một trong những cuộc
suy thoái kinh tế trầm trọng nhất kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế do chiến tranh thế
giới thứ 2 gây ra, những ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch đã làm thay đổi thói quen
của người tiêu dùng từ trực tiếp chuyển sang trực tuyến. Vì vậy các ứng dụng có
thể thanh toán trực tuyến trở thành một giải pháp hữu hiệu cho cả người bán lẫn
người mua. Và một trong những ứng dụng đó phải kể đến Shopee Pay- một sản
phẩm được hợp tác giữa AirPay và ứng dụng Shopee.
Tuy nhiên, không phải ai cũng chấp nhận sử dụng các ứng dụng ví điện tử
này nhất là với những người không rành về công nghệ và một số rủi ro mà ứng
dụng này đem lại ( ví dụ như: lộ thông tin cá nhân, mật khẩu, sự lừa dối của người
bán hay sự không thanh toán nợ đúng hạn của người mua,..). Vì vậy nghiên cứu
này sẽ góp phần nhận thức được các rủi ro, đề xuất các hàm ý giúp các nhà phát
hành ứng dụng có cái nhìn tổng quan hơn về hành vi của khách hàng từ đó đưa ra
chiến lược và giải pháp phù hợp để nâng cao vị trí cạnh tranh, đồng thời cũng để
giữ chân khách hàng và mang đến nhiều giá trị sử dụng hơn cho họ.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quyết định
thanh toán bằng ứng dụng ShopeePay của sinh viên, xác định và kiểm định mô hình
nghiên cứu đó, từ đó đề ra một số giải pháp giúp các doanh nghiệp thúc đẩy hành
vi thanh toán bằng ứng dụng ShopeePay của sinh viên trường Đại học Cần Thơ.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Áp dụng mô hình nghiên cứu đến từng khoa ở trường Đại học Cần Thơ, nhằm
thúc đẩy hành vi sử dụng phương thức thanh toán trực tuyến bằng ShopeePay phổ
biến rộng rãi đến toàn thể sinh viên trường đại học Cần Thơ.
Xác định các nhân tố và mức độ ảnh hưởng đến hành vi thanh toán bằng ứng
dụng ShopeePay của sinh viên trường Đại học Cần Thơ
3. 2
Đề ra giải pháp, kiến nghị cho các doanh nghiệp, các nhà cung cấp dịch vụ
nhằm gia tăng ý định sử dụng phương pháp thanh toán bằng ứng dụng ShopeePay
đối với sinh viên ở trường Đại học Cần Thơ
1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định thanh toán bằng
ứng dụng ShopeePay sau đại dịch covid 19 của sinh viên Đại học Cần Thơ.
Đối tượng khảo sát: bao gồm tất cả các sinh viên tại trường Đại học Cần Thơ.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung vào nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến
quyết định thanh toán bằng ứng dụng ShopeePay sau đại dịch Covid 19 của sinh
viên Đại học Cần Thơ.
Phạm vi không gian: Trường Đại học Cần Thơ.
Phạm vi thời gian: 01/06/2021-01/06/2022.
1.4. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Trong những năm gần đây xu hướng thanh toán không thông qua tiền mặt
đang dần trở nên phổ biến hơn và đặc biệt là đại dịch Covid-19 thì càng được mọi
người lựa chọn nhiều hơn. Vì lẽ đó thị trường ứng dụng ví điện tử tại Việt Nam trở
nên sôi động hơn, trong đó phải kể đến ứng dụng ShopeePay mới được ra đời vào
năm 2021.Và đề tài “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đếnquyết định thanh toán
bằng ứng dụng ShopeePay sau đại dịch của sinh viên Đại học Cần Thơ” nhằm giúp
cho các bạn sinh viên biết đến ShopeePay, thực trạng sử dụng và nắm được những
rào cản sử dụng ứng dụng cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ứng
dụng ShopeePay của các bạn sinh viên Đại học Cần Thơ. Qua đó, nhóm nghiên
cứu đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những mặt còn hạn chế và nâng cao
chất lượng của ứng dụng ShopeePay.
Từ khóa: thanh toán điện tử, ShopeePay, cổng điện tử, sinh viên Đại học Cần
Thơ, phương thức thanh toán.
4. 3
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1. Các khái niệm có liên quan
2.1.1.1. Khái niệm ví điện tử
Thông thường, thanh toán điện tử được thực hiện qua các cổng thanh toán
trực tuyến (giữ vai trò trung gian thực hiện các giao dịch lưu chuyển tiền tệ trực
tuyến, có sự liên kết với các ngân hàng thương mại) hoặc các tài khoản ngân hàng
trực tuyến của người dùng. Ví điện tử được biết đến như một ví kỹ thuật số hay ví
di động (Uddin & Akhi, 2014). Khi điện thoại thông minh là một phần không thể
thiếu của cuộc sống hiện nay, thì nó trở thành bàn đạp cho sự hình thành của ví kỹ
thuật số và số lượng người sử dụng ví kỹ thuật số đã tăng trưởng khổng lồ (Bantwa
& Padiya, 2020).Ý tưởng về ví điệntử được hình thành trong những năm về trước,
khi người ta chuyển đổi tiền giấy sang thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng như một cách bảo
mật thanh toán dựa trên hình thức thanh toán bằng thẻ thông minh với các thành
viên của sáu tổ chức gồm American Express, Discover, JCB, Mastercard, Union
Pay và Visa (Alaeddin etal., 2018). Các nước như Mỹ, Nhật, Thụy Điển và Hàn
Quốc đã trình bày những giải pháp ví kỹ thuật số dựa trên điện thoại di động cho
người tiêu dùng sử dụng điện thoại của họ để chi trả cho tạp hóa, đặt đồ uống từ
một máy bán hàng tự động và đặt vé máy bay (Rathore, 2016).
Sharma et al. (2018)cho rằng ví điệntử là cách thức mới nhất của thương mại
di động cho phép người dùng thực hiện giao dịch, mua sắm trực tuyến, đặt hàng và
chia sẻ những dịch vụ sẵn có. Ví điện tử là một chương trình hoặc một dịch vụ web
cho phép người dùng lưu trữ và kiểm soát thông tin mua hàng trực tuyến của họ
như thông tin đăng nhập, mật khẩu, địa chỉ giao hàng và chi tiết thẻ tín dụng.
Nghị định 80/2016/NĐ-CP định nghĩa dịch vụ ví điện tử là dịch vụ cung cấp
cho khách hàng một tài khoản điện tử định danh do các tổ chức cung ứng dịch vụ
trung gian thanh toán tạo lập trên vật mang tin (như chip điện tử, sim điện thoại di
động, máy tính...), cho phép lưu giữ một giá trị tiền tệ được đảm bảo bằng giá trị
tiền gửi tương đương với số tiền được chuyển từ tài khoản thanh toán của khách
hàng tại ngân hàng vào tài khoản đảm bảo thanh toán của tổ chức cung ứng dịch
vụ ví điện tử theo tỷ lệ 1:1 (Chinhphu, 2016).
Ví điện tử còn là một hình thức của ngân hàng trực tuyến khi nó thực hiện
một số nhiệm vụ như chi trả cho hàng hóa hay dịch vụ trực tiếp từ tài khoản ngân
hàng, chuyển tiền, cung cấp séc điện tử, tiền điện tử, đặt hàng thanh toán điện tử...
5. 4
Nói cách khác, những dịch vụ của ngân hàng đều được thực hiện bởi ví điện tử
(Uddin & Akhi, 2014).
2.1.1.2. Thanh toán điện tử
Thanh toán điện tử hay thanh toán trực tuyến là một mô hình giao dịch không
sử dụng tiền mặt đã phổ biến trên thế giới trong những năm gần đây. Nói một cách
dễ hiểu, thanh toán điện tử là việc giao dịch trên môi trường internet, thông qua đó
người sử dụng cóthể thực hiện các hoạt động thanh toán, chuyển, nạp hay rút tiền…
2.1.1.3. ShopeePay
ShopeePay là ứng dụng Ví điện tử miễn phí trên di động, thanh toán mọi lúc
mọi nơi nhiều dịch vụ một cách nhanh chóng và tiện lợi với cuộc sống hiện đại.
Trong đó, ví điện tử ShopeePay đáp ứng mọi nhu cầu thanh toán từ nạp, rút tiền
trong tài khoản, nạp điện thoại, thanh toán dịch vụ tài chính, hóa đơn tiện ích như
điện, nước, internet, truyền hình cáp cũng như các dịch vụ vui chơi, giải trí khác
với độ an toàn bảo mật thông tin cao.
2.1.2 Lý thuyết nền
Các nghiên cứu khi đề cập về hành vi con người thường sử dụng một số lý
thuyết chính sau:
Thứ nhất, lý thuyết hành động hợp lý (Theory of Reasoned Action- TRA), lý
thuyết này cho rằng, ý định sẽ quyết định hành vi thực sự của một người, trong đó
thái độ và chuẩn chủ quan của người đó sẽ tác động đến xu hướng hành vi của họ
(Fishbein & Ajzen, 1975).
Thứ hai, lý thuyết hành vi có kế hoạch (Theory of Planned Behavior- TPB),
lý thuyết này được Icek Ajzen (1991) phát triển từ mô hình TRA khi thêm vào yếu
tố kiểm soát hành vi nhận thức được. Yếu tố này giải thích về mối quan hệ giữa
những niềm tin và hành vi của một người.
Thứ ba, lý thuyết chấp nhận công nghệ (Technology Acceptance Model -
TAM), lý thuyết này được phát triển từ mô hình TRA và đồng ý rằng hành vi thực
sự bị kiểm soát bởi ý định thực hiện hành vi, tuy nhiên, ý định thực hiện lúc này
chịu tác động bởi thái độ và sự hữu ích cảm nhận được cùng với sự dễ sử dụng cảm
nhận được là hai yếu tố quyết định thái độ của một người (Davis, 1989).
Thứ tư, lý thuyết chấp nhận và sử dụng công nghệ (Unified Theory of
Acceptance and Use of Technology- UTAUT) được Venkatesh, Morris, Davis, &
Davis (2003)đề xuất, các tác giả cho rằng tối ưu hơn cho mô hình này khi tổng hợp
6. 5
kết quả từ các nghiên cứu trước khi có 04 yếu tố tác động chính trong mô hình là
kết quả mong đợi, nỗ lực mong đợi, ảnh hưởng xã hội tác động trực tiếp đến ý định
hành vi, hành vi thực sự thì quyết định bởi ý định hành vi và yếu tố điều kiện thuận
lợi.
Cuối cùng, lý thuyết nhận thức rủi ro (Theory of Perceived Risk- TPR) do
Bauer (1960) phát triển. Lý thuyết này cho thấy hành vi của một người bị tác động
bởi nhận thức rủi ro liênquan đếngiao dịch trực tuyến và nhận thức rủi ro liên quan
đến sản phẩm hoặc dịch vụ. Thành phần nhận thức liên quan đến giao dịch trực
tuyến bao gồm các rủi ro có thể xảy ra khi người tiêu dùng thực hiện giao dịch trên
các phương tiện điện tử như: sự bí mật, sự an toàn và nhận thức rủi ro toàn bộ về
giao dịch. Thành phần nhận thức rủi ro liên quan đến sản phẩm hoặc dịch vụ thể
hiện sự quan ngại của khách hàng đối với những việc như mất tính năng, mất tài
chính, tốn thời gian, mất cơ hội khi sử dụng sản phẩm hoặc dịch vụ công nghệ
thông tin (Bauer, 1960).
2.1.3 Giả thuyết nghiên cứu và mô hình nghiên cứu
2.1.3.1 Giả thuyết nghiên cứu
a) Ảnh hưởng của thái độ
Thái độ được định nghĩa là một cảm xúc tích cực hay tiêu cực của một cá
nhân về việc thực hiện các hành vi mục tiêu (Davis và cộng cự, 1989, tr.984).
Theo mô hình TPB và TAM, quyết định và thái độ của người tiêu dùng có thể
tiên đoán được. Có ý kiến cho rằng thái độ là một đa cấu trúc bao gồm các cấu trúc
chính của nhận thức hữu ích và nhận thức dễ sử dụng (Taylor và Todd, 1995). Thái
độ là đánh giá thuận lợi hoặc không tốt về một hành vi nhất định và ảnh hưởng trực
tiếp đếnsức mạnh của niềm tin hành vi về những hậu quả có thể xảy ra. Một nghiên
cứu thực nghiệm ở Việt Nam (Liao và cộng sự, 1999) nhận thấy rằng quyết định
sử dụng ngân hàng ảo phụ thuộc vào thái độ đối với việc sử dụng đó. Kết quả cho
thấy quyết định của một cá nhân đối với các chức năng ngân hàng điện tử bị ảnh
hưởng bởi thái độ của họ. Như vậy, giả thuyết sau được đề xuất:
Giả thuyết 1 (H1): Thái độ có tác động tích cực đến quyết định sử dụng
phương thức thanh toán điện tử của người tiêu dùng.
b) Ảnh hưởng của nhận thức sự hữu ích
Nhận thức hữu ích được định nghĩa là “Mức độ mà một người tin rằng việc
sử dụng một hệ thống sẽ nâng cao hiệu suất công việc của mình” (Davis, 1989, tr
320).
7. 6
Thanh toán điện tử là hữu ích nếu nó cung cấp dịch vụ cho một người tiêu
dùng, nhưng không kỳ vọng nếu chuyển phát của người tiêu dùng không được đáp
ứng. Người dùng có thể tiếp tục sử dụng dịch vụ thanh toán điện tử nếu họ thấy nó
hữu ích, ngay cả khi họ không hài lòng với việc sử dụng trước đó của họ
(Bhattacherjee, 2001a). Trong mô hình TAM, nhận thức hữu ích dự đoán sử dụng
và mục đích sử dụng. Như vậy, giả thuyết sau được đề xuất:
Giả thuyết 2 (H2): Nhận thức hữu ích có ảnh hưởng tích cực đến quyết định
sử dụng phương thức thanh toán điện tử của người tiêu dùng.
c) Ảnh hưởng của nhận thức dễ sử dụng
Nhận thức dễ sử dụng là “Mức độ mà một cá nhân tin rằng việc sử dụng hệ
thống cụ thể sẽ không tốn nhiều công sức” (Davis, 1989, tr.320). Hệ thống công
nghệ đổi mới được coi là dễ sử dụng hơn và ít phức tạp hơn sẽ có nhiều khả năng
được chấp nhận và được sử dụng bởi người sử dụng tiềm năng (Davis và cộng sự,
1989).
Về mặt lý thuyết, dễ sử dụng được nhận thức khi người tiêu dùng cảm thấy
hệ thống thanh toán điện tử không khó hiểu, học hỏi và sử dụng. Vì lý do này, tính
dễ sử dụng được coi là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đếnviệc chấp
nhận và sử dụng các công nghệ mới của người tiêu dùng.
Trong bối cảnh thanh toán điện tử, một hệ thống dễ sử dụng cần có các giao
diện thân thiện như các bước rõ ràng và dễ thấy, nội dung phù hợp và bố trí đồ họa,
các chức năng hữu ích, các thông báo lỗi, các lệnh rõ ràng và dễ hiểu. Do đó, tác
giả đưa ra giả thuyết:
Giả thuyết 3 (H3): Nhận thức dễ sử dụng có ảnh hưởng tích cực đến quyết
định sử dụng phương thức thanh toán điện tử của người tiêu dùng.
d) Ảnh hưởng của nhận thức rủi ro
Bauer (1960) cho rằng, nhận thức rủi ro liên quan đến sự không chắc chắn và
những hậu quả liên quan đến hành động của người tiêu dùng. Theo lý thuyết hành
vi có hoạch định (TPB), nhận thức rủi ro có thể làm giảm kiểm soát hành vi của
người tiêu dùng không chắc chắn và sẽ có tác động tiêu cực đến quyết định hành
vi của họ. Ngược lại, nếu nhận thức rủi ro liên quan đến các giao dịch trực tuyến
được giảm và người tiêu dùng có thể kiểm soát hành vi hơn trong môi trường trực
tuyến, họ sẵn sàng giao dịch (Pavlou, 2001).
Nhận thức rủi ro có tác động nhất định đối với việc ra quyết định của người
tiêu dùng. Như vậy, giả thuyết được đề xuất:
8. 7
Giả thuyết 4 (H4): Nhận thức rủi ro có ảnh hưởng tiêu cực đến quyết định sử
dụng phương thức thanh toán điện tử của người tiêu dùng.
e) Ảnh hưởng của niềm tin
Niềm tin được định nghĩa như là một hàm của mức độ rủi ro liên quan đến
các giao dịch tài chính và kết quả của niềm tin là làm giảm bớt nhận thức rủi ro,
dẫn đến quyết định tích cực đối với việc áp dụng thanh toán điện tử (Yousafzai và
cộng sự., 2003). Do đó có thể kết luận rằng niềm tin là quan trọng để người tiêu
dùng quyết định sử dụng thanh toán điện tử. Nếu hệ thống mà người dùng không
có niềm tin, nó sẽ là vô cùng khó khăn cho việc phát triển và mở rộng thanh toán
điện tử. Do đó, giả thuyết được đề xuất:
Giả thuyết 5 (H5): Niềm tin có tác động tích cực quyết định sử dụng phương
thức thanh toán điện tử của người tiêu dùng.
f) Ảnh hưởng của chuẩn chủ quan
Chuẩn mực chủ quan có thể được mô tả là “Nhận thức của cá nhân về các áp
lực của xã hội đến việc thực hiện hay không thực hiện một hành vi” (Ajzen, 1991,
tr.188).
Mối quan hệ chuẩn chủ quan và quyết định hành vi là nền tảng của TRA (Mô
hình lý thuyết hành động hợp lý) và TPB. Chuẩn chủ quan và quyết định hành vi
có tác động tích cực. Đó là, khi các cá nhân nhận thức một kỳ vọng xã hội cao hơn
cho hành vi nhất định, người tiêudùng sẵn sàng nhận lời khuyên từ các nguồn tham
khảo và có xu hướng tuân theo một chuẩn chủ quan mạnh mẽ hơn theo hành vi, do
đó có quyết định để thực hiện hành vi đó (Ajzen 1985, 1991). Hartwick và Barki
(1994), trong một nghiên cứu thực nghiệm về sự tham gia, cũng ủng hộ mối quan
hệ giữa chuẩn chủ quan liên quan đến sử dụng và quyết định sử dụng và kết luận
rằng trong việc phát triển hệ thống thông tin, chuẩn chủ quan là yếu tố quyết định
quan trọng (Hartwick và Barki 1994, tr.462). Nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng,
chuẩn chủ quan có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định hành vi của người tiêu dùng.
Do đó, giả thuyết được đề xuất:
Giả thuyết 6 (H6): Ảnh hưởng xã hội ảnh hưởng tích cực đến quyết định sử
dụng phương thức thanh toán điện tử của người tiêu dùng.
g) Ảnh hưởng của nhận thức kiểm soát hành vi
Nhận thức kiểm soát hành vi được định nghĩa là cảm nhận của cá nhân về
việc dễ hay khó khi thực hiện hành vi (Ajzen, 1991, tr.188). Nhận thức kiểm soát
hành vi biểu thị mức độ kiểm soát việc thực hiện hành vi chứ không phải là kết quả
9. 8
của hành vi (Ajzen, 2002). Trong bối cảnh thanh toán điện tử, nhận thức kiểm soát
hành vi mô tả cảm nhận của người tiêu dùng về sự sẵn có các nguồn lực cần thiết,
kiến thức và cơ hội để thực hiện việc thanh toán.
Các nghiên cứu trước cho thấy, nhận thức kiểm soát hành vi có tác động trực
tiếp đến quyết định sử dụng. Herrero Crespo và Del Bosque (2010), xác định nhận
thức kiểm soát hành vi là một yếu tố có ảnh hưởng đến quyết định của người tiêu
dùng sử dụng các dịch vụ trực tuyến.
Theo mô hình TPB, kiểm soát hành vi, cùng với quyết định hành vi, có thể
được sử dụng trực tiếp để dự đoán việc thực hiện các hành vi. Vì vậy, giả thuyết
nghiên cứu được đề xuất là:
Giả thuyết 7 (H7): Nhận thức kiểm soát hành vi có ảnh hưởng tích cực đến
quyết định sử dụng phương thức thanh toán điện tử của người tiêu dùng.
2.1.3.2 Mô hình nghiên cứu
Ngoài những nhân tố trong mô hình C-TAM-TPB qua nghiên cứu tổng quan
và nghiên cứu định tính, tác giả đề xuất mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến quyết
định sử dụng phương thức thanh toán điện tử của người tiêu dùng bằng cách thêm
hai nhân tố: niềm tin và nhận thức rủi ro vào mô hình.
Hình 2: Mô hình nghiên cứu đề xuất
Quyết định sử dụng
Nhận thức hữu ích
Nhận thức dễ sử dụng
Chuẩn chủ quan
Nhận thức kiểm soát
hanh vi
Nhận thức rủi ro
Niềm tin
Thái độ
H1
H2
H3
H4
H5
H6
H7
10. 9
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1 Phương pháp thu thập số liệu
Phương pháp thu thập số liệu: Sử dụng phương pháp kế thừa để thu thập số
liệu thứ cấp là các báo cáo về tình hình sử dụng và thanh toán qua ví điện tử ở Việt
Nam như: khảo sát của ZaloPay; báo cáo world payment reports2017; Baodautu,
2021; thống kê của Ngân hàng nhà nước Việt Nam… website của một số cổng
thanh toán điện tử tại Việt Nam.
2.2.2 Phương pháp phân tích số liệu
Phương pháp thống kê mô tả: sử dụng phương pháp này để nêu lên mức độ
của hiện tượng, phân tích biến động của các hiện tượng và mối quan hệ giữa các
hiện tượng với nhau. Phương pháp này được sử dụng để mô tả quá trình hình thành
và phát triển, thực trạng sử dụng và giao dịch bằng hình thức ví điện tử ShopeePay
tại Việt Nam từ năm 2021 đến năm 2022
Phương pháp thống kê so sánh: Dùng phương pháp này để so sánh biểu phí
nạp tiền, rút tiền, các kênh chuyển tiền và thanh toán bằng các vị của các doanh
nghiệp cung cấp ví điện tử hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bùi Nhất Vương, Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử của
người dân tại thành phố Cần Thơ: ứng dụng mô hình cấu trúc tuyến tính Pls-
sem, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Tập 57, Số 5D (2021):
243-244.
[2] Thanh toán điện tử là gì? Có những hình thức thanh toán điện tử phổ biến
nào? (2019). Truy cập 9/4/2022, từ https://vinid.net/blog/thanh-toan-dien-
tu-la-gi-co-nhung-hinh-thuc-thanh-toan-dien-tu-pho-bien-nao/
[3] Trung tâm trợ giúp Ứng dụng ShopeePay. Truy cập 9/4/2022, từ
https://shopeepay.vn/faqs/ung-dung/#shopeepay-la-gi
[4] Bộ Công Thương (2015), Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam 2015.
[5] Baker, Sharon A., et al. "Using the theory of reasoned action (TRA) to
understand the decision to use condoms in an STD clinic population."
Health Education Quarterly 23.4 (1996): 528-542.
11. 10
[6] Al-Suqri, Mohammed Nasser và Rahma Mohammed Al-Kharusi. "Lý
thuyết của Ajzen và Fishbein về hành động hợp lý (TRA) (1980)." Hành vi
tìm kiếm thông tin và áp dụng công nghệ: Các lý thuyết và xu hướng . IGI
Toàn cầu, 2015. 188-204.
[7] Ajzen, I. (1991). The Theory of Planned Behavior, University of
Massachusetts. Amherst: Organizational Behavior and Human Decision
Processes.
[8] Silva, Patrícia. "Davis' technology acceptance model (TAM)(1989)."
Information seeking behavior and technology adoption: Theories and trends
(2015): 205-219.
[9] Ahmad, Mohammad I. "Unified theory of acceptance and use of technology
(UTAUT)." LinkedIn Pulse (2015): 179-211.
[10] TRINH, Nam Hoang, Ha Hong TRAN, and Quan Duc Hoang VUONG.
"Perceived risk and intention to use credit cards: A case study in Vietnam."
The Journal of Asian Finance, Economics and Business 8.4 (2021): 949-
958.
[11] NCS. ThS. Vũ Văn Điệp (2017), Mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh
hưởng đến quyết định sử dụng phương thức thanh toán điện tử của người
tiêu dùng, truy cập 9/4/2022, từ https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/mo-
hinh-nghien-cuu-cac-nhan-to-anh-huong-den-quyet-dinh-su-dung-phuong-
thuc-thanh-toan-dien-tu-cua-nguoi-tieu-dung-49221.htm
[12] Nguyễn Thùy Dung, Thanh toán bằng hình thức Ví điện tử tại Việt Nam
thực trạng và giải pháp, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Lâm nghiệp, Số 3
(2018), 3-4.