Tiểu luận trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam. Bất kỳ một chế độ xã hội nào chỉ có thể tồn tại và phát triển trên cơ sở có sự ổn định về trật tự xã hội. Các quan hệ xã hội rất phong phú, đa dạng, phức tạp, luôn ở trạng thái vận động và phát triển như trong một “trật tự” nhất định bởi chúng chịu sự điều chỉnh của nhiều loại quy phạm khác nhau. Chủ thể của các quan hệ xã hội khi tham gia vào các quan hệ này chịu sự chi phối của nhiều loại quy phạm và tương ứng với mỗi loại quan hệ do các loại quy phạm khác nhau điều chỉnh, chủ thể phải gánh vác những trách nhiệm xã hội nhất định như trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm chính trị, trách nhiệm tôn giáo, trách nhiệm pháp lý…
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
Tiểu Luận Trách Nhiệm Bồi Thường Thiệt Hại Của Cơ Quan Điều Tra Trong Hoạt Động Tạm Giữ.doc
1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
1
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
TIỂU LUẬN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CƠ
QUAN ĐIỀU TRA TRONG HOẠT ĐỘNG TẠM GIỮ, TẠM GIAM
2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
2
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước trong công cuộc đổi mới hiện nay mà vấn đề then chốt là xây
dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân luôn đặt ra nhiệm vụ
củng cố, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Để xây dựng thành công nhà
nước pháp quyền một trong những đòi hỏi tiên quyết là cải cách nền hành
chính quốc gia song song với cải cách tư pháp để hướng tới mục tiêu xây dựng
hệ thống cơ quan tư pháp thực sự sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật, vì công bằng xã hội.
Đi cùng với định hướng chiến lược này, việc cải cách tư pháp còn hướng
tới giải quyết những đòi hỏi mà thực tiễn đặt ra trong đó có hoạt động giải
quyết kịp thời và có hiệu quả những vụ khiếu kiện yêu cầu bồi thường do oan,
sai trong tố tụng hình sự, kết hợp xây dựng cơ chế, chính sách để mang lại
bước phát triển thực sự đổi mới của hệ thống tư pháp.
Một trong những hoạt động hay vướng phải vi phạm về oan sai nhất
chính là hoạt động tạm giam, tạm giữ do cơ quan điều tra tiến hành. Trong thực
tế, tình trạng tạm giữ không đúng đối tượng còn diễn ra, tạm giữ cả những
trường hợp bị bắt khi phạm tội quả tang những sự việc phạm tội nhỏ, tính chất
ít nghiêm trọng hay tạm giữ cả những người bị bắt có nơi cư trú rõ ràng và
không có hành động, biểu hiện sẽ cản trở việc điều tra.
Tạm giam, tạm giữ là quyền riêng có của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Lạm quyền hay thực thi tùy tiện, vi phạm các quy định của pháp luật Tố tụng
Hình sự về việc bắt, giam giữ người vì không có lệnh bắt, không tôn trọng trình
tự, thủ tục như không có sự chứng kiến của chính quyền, không lập biên bản
khi bắt... tuy chưa phải là hiện tượng phổ biến, nhưng đã xảy ra ở nhiều địa
phương, gây nên sự bất bình trong dư luận xã hội, có trường hợp gây ra hậu
3. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
3
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
quả nghiêm trọng, nhiều công dân “tự dưng thành tội phạm”, “mang tiếng bị
công an bắt”… thậm chí phải dành cả đời khiếu nại để được minh oan.
Hiện nay, ngoài quy định của Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Nhà nước ta
đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để từng bước cụ thể hóa việc giải quyết
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ,
tạm giam. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều bất cập cả trong việc lập pháp, lập
quy lẫn cơ chế bảo đảm thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan
điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.
Từ đây cho thấy việc tìm hiểu, phân tích và đưa ra giải pháp hoàn thiện
chế định về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong
hoạt động tạm giữ, tạm giam” là việc làm cần thiết và có ý nghĩa thiết thực
đối với công cuộc cải cách đất nước cũng như đối với toàn dân.
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRONG HOẠT ĐỘNG TẠM GIỮ, TẠM
GIAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CQĐT
trong hoạt động tạm giữ tạm giam.
1.1.1. Định nghĩa
Bất kỳ một chế độ xã hội nào chỉ có thể tồn tại và phát triển trên cơ sở có
sự ổn định về trật tự xã hội. Các quan hệ xã hội rất phong phú, đa dạng, phức
tạp, luôn ở trạng thái vận động và phát triển như trong một “trật tự” nhất định
bởi chúng chịu sự điều chỉnh của nhiều loại quy phạm khác nhau. Chủ thể của
các quan hệ xã hội khi tham gia vào các quan hệ này chịu sự chi phối của nhiều
loại quy phạm và tương ứng với mỗi loại quan hệ do các loại quy phạm khác
nhau điều chỉnh, chủ thể phải gánh vác những trách nhiệm xã hội nhất định như
4. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
4
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm chính trị, trách nhiệm tôn giáo, trách nhiệm
pháp lý…
Hiểu một cách chung nhất, trách nhiệm là sự ràng buộc trong các mối
liên kết của con người, trong đó cá nhân hay tổ chức phải thực hiện các nghĩa
vụ vì người khác hoặc vì cộng đồng. Trách nhiệm pháp lý là loại trách nhiệm
phát sinh trên cơ sở pháp luật, được bảo đảm thực hiện bằng pháp luật. Theo
nghĩa rộng, trách nhiệm pháp lý là nghĩa vụ thực hiện tất cả các yêu cầu của
pháp luật để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội và gánh chịu những hậu
quả bất lợi khi có hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ. Theo nghĩa hẹp, trách nhiệm pháp lý là việc phải gánh chịu hậu quả bất lợi
khi có hành vi trái pháp luật.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm pháp lý đã
được quy định ngay từ thời kỳ đầu khi mới có Nhà nước và pháp luật. Trải qua
các giai đoạn phát triển, bản chất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã có sự
thay đổi rõ rệt. Ở thời kỳ cổ đại, khi chính quyền trong xã hội chưa được tổ
chức chặt chẽ, cá nhân được phép dùng hình phạt để trừng trị những người có
hành vi gây thiệt hại cho mình theo nguyên tắc “trả thù ngang bằng”, “nợ gì trả
nấy”. Vì vậy, thời kỳ này được gọi là “chế độ tư nhân phục thù”. Giai đoạn thứ
hai, trách nhiệm bồi thường chuyển sang một bước phát triển mới. Thay vì phải
chịu hình phạt do nạn nhân trả thù, người gây thiệt hại có thể được “chuộc tội”
bằng một số tiền hay thục kim, vì vậy giai đoạn này được gọi là “chế độ thục
kim”. Thời kỳ đầu khi chưa có sự can thiệp của pháp luật, việc chuộc lỗi là tự
nguyện nên các bên tự thỏa thuận với nhau về tiền chuộc. Giai đoạn sau khi đã
có sự điều chỉnh của pháp luật, số tiền chuộc lỗi của bên gây thiệt hại được xác
định theo ngạch mức do pháp luật quy định [34, tr.49]. Trong giai đoạn này,
hình phạt vẫn được áp dụng cho cả các quan hệ thuộc lĩnh vực luật tư, vì vậy
mà chưa có sự phân biệt rõ rệt giữa trách nhiệm hình sự - mục đích để trừng
5. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
5
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
phạt người phạm tội với trách nhiệm dân sự - nhằm mục đích đền bù thiệt hại
cho nạn nhân. Đến giai đoạn thứ ba, trách nhiệm bồi thường đã tiến lên một
bước phát triển mới khi được tách ra khỏi trách nhiệm hình sự. Bộ máy Nhà
nước cùng chức năng quản lý trật tự công dần hoàn thiện và chặt chẽ hơn. Nhà
nước có sự can thiệp để bảo vệ trật tự xã hội bằng cách dùng hình phạt để trừng
phạt tội phạm. Cá nhân mất quyền tự phục thù mà thay vào đó chỉ có quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại về dân sự để khôi phục, bù đắp những thiệt hại mà
họ phải gánh chịu. Như vậy, trải qua một quá trình phát triển lâu dài, cho đến
nay, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm pháp lý chịu sự
điều chỉnh của Luật tư, cụ thể là một loại trách nhiệm dân sự.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự, theo đó người gây thiệt hại cho người
khác phải bồi thường những tổn thất mà mình đã gây ra. Theo qui định của
BLDS: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá
nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà
gây thiệt hại thì phải bồi thường” [21, Điều 604]. Người gây thiệt hại phải bồi
thường cho người bị thiệt hại đó là nguyên tắc cốt lõi trong trách nhiệm bồi
thường dân sự của các quốc gia trên thế giới nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các cá nhân, tổ chức trong xã hội, duy trì công bằng xã hội.
Theo nguyên tắc xác định trách nhiệm trong dân sự, người có hành vi
trái pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác mà gây
thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm bồi thường. Trong mối quan hệ giữa người
gây thiệt hại và người bị thiệt hại, có những trường hợp người gây thiệt hại ở
một vị thế rất đặc biệt - họ là những cán bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước
mà ở đây là Cơ quan điều tra (CQĐT), gây thiệt hại khi đang thực hiện nhiệm
vụ nhân danh Nhà nước. Nhà nước là “tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị”
6. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
6
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
thực hiện các chức năng quản lý nhằm duy trì trật tự xã hội thông qua những
cán bộ, công chức trong các cơ quan Nhà nước trong đó có CQĐT. Trong quá
trình thực thi công vụ, CQĐT có thể gây thiệt hại trái pháp luật cho bất kỳ cá
nhân hay tổ chức nào. Mặc dù quan hệ này có liên quan đến việc thực hiện
những hoạt động thuộc chức năng quản lý, điều hành mang tính quyền lực của
Nhà nước, không thể nói rằng Nhà nước đứng trên pháp luật và không phải
chịu trách nhiệm khi gây thiệt hại trái pháp luật cho chủ thể khác. Pháp luật dân
sự ghi nhận nguyên tắc khi quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị
xâm phạm bởi cá nhân, tổ chức khác thì những chủ thể có hành vi xâm phạm
phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật. Trong quan hệ
bồi thường thiệt hại vốn là quan hệ mang tính chất dân sự, cơ quan Nhà nước
và công dân cần phải được đối xử bình đẳng với nhau. Tuy là chủ thể của công
quyền nhưng khi CQĐT gây ra thiệt hại cũng phải có trách nhiệm bồi thường
theo những nguyên tắc chung của luật dân sự như bất cứ chủ thể nào khác. Mục
đích cơ bản của việc xác lập trách nhiệm pháp lý này là nhằm bảo vệ quyền lợi
của bên bị thiệt hại.
CHƯƠNG II
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CƠ QUAN ĐIỀU
TRA TRONG HOẠT ĐỘNG TẠM GIAM, TẠM GIỮ
2.2. Chủ thể thực hiện việc bồi thường và người được bồi thường
Pháp luật qui định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là ghi nhận giá
trị công bằng xã hội. Người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại cho người bị
thiệt hại là tập quán đồng thời cũng là nguyên tắc của pháp luật Việt Nam về
bồi thường thiệt hại nói chung và pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
7. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
7
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nước nói riêng. Trong quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước, việc xác định người gây thiệt hại còn có ý nghĩa trong việc xác định cơ
quan có trách nhiệm trực tiếp thực hiện nghĩa vụ bồi thường. Nếu nhìn nhận
trách nhiệm bồi thường là hậu quả pháp lí bất lợi về tài sản mà người gây ra
thiệt hại phải gánh chịu trước người bị thiệt hại để bù đắp thiệt hại về vật chất
và tổn thất về tinh thần của cá nhân, tổ chức thì trong quan hệ pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, đương nhiên phải xác định Nhà nước là
người gây thiệt hại và phải gánh chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, trong
quan hệ pháp luật cụ thể này, khái niệm Nhà nước không chỉ được nhìn nhận ở
góc độ lí luận “là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị” mà cần thiết phải
được xác định cụ thể để có cơ sở thực hiện trách nhiệm bồi thường.
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 qui định phạm vi
điều chỉnh của luật này là “trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá
nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động
quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án…” [24, Điều 1], chứng tỏ pháp luật
thừa nhận hành vi của CQĐT trong tạm giam, tạm giữ được xem là hành vi của
Nhà nước. Điều này hoàn toàn hợp lí, bởi lẽ, để thực hiện các chức năng quản
lý xã hội, trong giải quyết tội phạm, Nhà nước phải triển khai thực hiện quyền
lực thông qua những người đại diện cho Nhà nước mà chủ yếu là đội ngũ cán
bộ, công chức trong đó có CQĐT. Ngược lại, khi CQĐT thi hành tạm giam,
tạm giữ là họ đang nhân danh Nhà nước để thực hiện quyền lực Nhà nước. Như
vậy, mối quan hệ giữa những CQĐT thực hiện tạm giam, tạm giữ trong tố tụng
sẽ không còn là mối quan hệ mang tính cá nhân nữa mà đó chính là mối quan
hệ giữa Nhà nước với công dân hoặc tổ chức. Do đó, trong trường hợp CQĐT
được giao nhiệm vụ đại diện cho Nhà nước để thi hành tạm giam, tạm giữ, nếu
gây thiệt hại cho công dân, tổ chức thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được
chuyển giao từ trách nhiệm cá nhân người thi hành công vụ sang cho Nhà
8. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
8
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nước. Quan điểm này đồng nghĩa với việc xác định trong quan hệ pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, người gây thiệt hại là người thi hành
tạm giam, tạm giữ đã gây thiệt hại Cơ quan thực hiện trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước.
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước qui định: Người thi hành
công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một
vị trí trong cơ quan Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố
tụng, thi hành án hoặc người khác được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao
thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi
hành án [21, Điều 3].
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, xác định: Nhà nước có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại do người thi hành công
vụ gây ra. Điều đó xuất phát từ quan điểm thống nhất cho rằng: Người thi hành
công vụ là người đại diện cho Nhà nước, nhân danh Nhà nước để thực hiện
công vụ, nhiệm vụ. Như vậy, trong quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước, chủ thể có trách nhiệm bồi thường luôn luôn được xác
định là Nhà nước.
CHƯƠNG III
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CƠ QUAN
ĐIỀU TRA TRONG HOẠT ĐỘNG TẠM GIỮ, TẠM GIAM
3.1. Thực trạng vi phạm trong hoạt động tạm giữ, tạm giam của
CQĐT
Theo báo cáo của Cục Bồi thường Nhà nước – Bộ Tư Pháp cho thấy
trong hơn 3 năm thi hành Luật TNBTCNN, các cơ quan tố tụng thụ lý 100 vụ
việc, đã giải quyết 86 vụ việc với tổng số tiền bồi thường trên 8,3 tỷ đồng.
9. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
9
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Riêng trong năm nay, các cơ quan tố tụng đã thụ lý tổng số 42 vụ việc, giải
quyết 11 vụ việc với tổng số tiền bồi thường gần 1,9 tỷ đồng. Nhìn chung trong
hoạt động tố tụng, các yêu cầu bồi thường chủ yếu phát sinh trong lĩnh vực tố
tụng hình sự.[22]
Liên quan đến hoạt động tạm giam, tạm giữ của CQĐT thì nhìn chung,
việc áp dụng biện pháp tạm giam, tạm giữ trong thời gian qua về cơ bản chặt
chẽ, đúng pháp luật, đáp ứng yêu cầu, mục đích của một biện pháp ngăn chặn,
góp phần đảm bảo chất lượng, hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án. Tuy nhiên, cũng có không ít vướng mắc, trở ngại hoặc vi phạm
pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích của công dân khi thực hiện quy định này ở
một số vụ án.
Thống kê của chúng tôi cho thấy, nhiều trường họp CQĐT ra lệnh tạm
giam, lệnh bắt tạm giam không có căn cứ nên không được VKS phê chuẩn;
không ít trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng lạm dụng áp dụng biện pháp
tạm giam, tạm giữ trong khi có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác ít
nghiêm khắc hơn. Tình trạng áp dụng BPTG tràn lan, hay như ở một số vụ án,
cơ quan THTT còn coi biện pháp tạm giam, tạm giữ như một biện pháp nghiệp
vụ điều tra, xâm phạm đến quyền tự do của công dân. Năm 2004, số nguời bị
áp dụng BPTG trên tổng số người bị khởi tố là 85%; số liệu này lần luợt các
năm 2005 là 86%; năm 2006 là 85%; năm 2007 là 84%. Số lượng lệnh bắt tạm
giam và lệnh tạm giam của CQĐT không được VKS phê chuẩn năm 2008 là
632 lệnh; năm 2007 là 670 lệnh; năm 2006 là 679 lệnh; năm 2005 là 721 lệnh.
Qua nghiên cứu ngẫu nhiên về 320 trường hợp bị tạm giam trong tổng số
472 vụ án các loại tại tỉnh Lâm Đồng và thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi
không tìm thấy trong hồ sơ vụ án có bất cứ giấy tờ, tài liệu nào chứng minh về
khả năng bỏ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc có thể cản trở việc điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án của người bị áp dụng. Trong các lệnh tạm giam của CQĐT,
10. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
10
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam của VKS chỉ nêu chung chung là căn cứ
vào hành vi phạm tội, căn cứ vào các điều luật của BLTTHS và xét thấy cần
thiết tạm giam... là tạm giam.
Ví dụ, Lệnh tạm giam của CQĐT theo mẫu số 05L ban hành kèm theo
Quyết định số 1351/QĐ-BCA(C11) ngày 18/11/2004 ở phần căn cứ chỉ bao
gồm:"Căn cứ quyết định khởi tố bị can số... của CQĐT... đối với ... đã có hành
vi... phạm vào điều... của BLHS; Căn cứ vào các điều 34, 79, 88, 120
BLTTHS; Ra lệnh... phần căn cứ trong Quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam
của VKS chỉ bao gồm: "Căn cứ các Điều 36, 88 BLTTHS; Xét lệnh tạm giam
số... ngày... của CQĐT.. đối với bị can... bị khởi tố về tội... theo Điều... BLHS;
xét thấy cần thiết tạm giam; Quyết định... Như vậy là không có phần nào xem
xét cụ thể về căn cứ thực tế để xét thấy cần tạm giam bị can, ngay cả Công văn
đề nghị phê chuẩn lệnh tạm giam của CQĐT cũng không nêu bất cứ biểu hiện
cụ thể nào của bị can liên quan đến căn cứ tạm giam mà chỉ nói về hành vi
phạm tội, diễn biến sự việc đến ngày ra lệnh tạm giam. Có thể thấy, thực
trạng này được chấp nhận từ lâu nay khiến cho căn cứ tạm giam bị xem nhẹ,
người THTT chỉ xem xét căn cứ tạm giam trong trí tưởng tượng, do suy đoán
là chính mà không xem xét căn cứ thực tế khách quan. Nguyên nhân dẫn đến
điều này, theo tác giả là do BLTTHS không có quy định cụ thể về thủ tục xem
xét căn cứ tạm giam, không quy định cụ thể về những hồ sơ, tài liệu nào cần
xem xét khi ra lệnh tạm giam hoặc ra quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam.
Theo báo cáo của các cơ quan tiến hành tố tụng, hàng năm vẫn có gần
7% số người bị tạm giữ, tạm giam cuối cùng chỉ bị xử lý hành chính; khoảng
85% người bị kết án, bị can, bị cáo bị tạm giam, trong khi chỉ từ 70% - 75% bị
Tòa án phạt tù. Đó là những con số cần suy nghĩ về thực trạng áp dụng biện
pháp tạm giam trong hoạt động TTHS.
Vụ việc thứ 3
11. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
11
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Ngày 6/2/2011, ông Túy được phân công lái tàu SE2 đi từ ga Sài Gòn
đến ga Mương Mán (Bình Thuận) cùng với phụ lái là ông Phú. Khi tàu đi đến
gần cầu Ghềnh (TP Biên Hòa) thấy tín hiệu đèn xanh (cho phép được đi tiếp)
nên ông Túy tiếp tục cho tàu chạy.
Còn cách cầu Ghềnh khoảng 100m thì ông Túy phát hiện có ánh đèn ô tô
trên cầu chiều ngược lại và phán đoán là có tai nạn nên ông Túy đã kéo thắng ở
cấp độ khẩn cấp nhưng tai nạn vẫn xảy ra làm 2 người chết và 22 người bị
thương.
Sau đó, cả 2 bị bắt giam và truy tố về hành vi vi phạm các quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường sắt. Đến ngày 5/4/2016, Viện KSND
TP Biên Hòa ban hành quyết định đình chỉ vụ án đối với ông Phú vì lý do ông
Phú không có hành vi phạm tội.
Sau đó, ông Phú yêu cầu Viện KSND TP Biên Hòa bồi thường oan sai
nhưng do đôi bên không thỏa thuận được mức bồi thường nên ông Phú nộp đơn
khởi kiện Viện ra TAND quận 9 yêu cầu bồi thường 1,78 tỷ đồng.
TAND quận 9 đã mở phiên tòa xét xử tuyên buộc Viện KSND TP Biên
Hòa phải bồi thường cho ông Phú số tiền 349 triệu đồng. Sau bản án sơ thẩm,
ông Phú kháng cáo yêu cầu tăng số tiền bồi thường lên gấp 5 lần là 1,78 tỷ
đồng.
Tại phiên tòa hôm nay, HĐXX chấp nhận một phần yêu cầu của ông
Phú, bao gồm chi phí đi lại khiếu nại trong quá trình điều tra, truy tố, chi phí
gia đình thăm nuôi quá trình ông Phú bị tạm giam, gia đình đi thăm nuôi 16
lần, thiệt hại tổn thất tinh thần, thu nhập bị mất trong thời gian bị tạm giam, chi
phí thực tế thân nhân bỏ ra... Từ đó, tòa tuyên tổng số tiền Viện KSND TP
Biên Hòa phải bồi thường cho ông Phú là 502,5 triệu đồng, tăng 152 triệu đồng
so với bản án sơ thẩm.
12. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
12
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Thông qua các vụ việc nêu trên có thể nhận thấy nguyên nhân dẫn đến
thực trạng này không riêng chỉ xuất phát từ cơ quan điều tra mà còn bao gồm
những nguyên nhân như:
- Do năng lực, trình độ của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán còn
hạn chế chưa đáp ứng đòi hỏi đấu tranh phòng, chống tội phạm. Có những
trường hợp kiểm sát viên chưa nắm vững các quy định pháp luật về hình sự và
các quy định có liên quan dẫn đến việc phê chuẩn các quyết định không chính
xác; không nắm vững các yếu tố cấu thành tội phạm.
- Ý thức trách nhiệm của một số Cán bộ, Kiểm sát viên chưa cao, chưa
chịu khó nghiên cứu, còn chủ quan, không xem xét nghiên cứu toàn bộ vụ án
chỉ quan tâm đến chứng cứ buộc tội, thỏa mãn với lời khai nhận tội của bị can,
không xem xét đến các mâu thuẫn, chứng cứ gỡ tội, so sánh với các nguồn
chứng cứ khác.
- Kiểm sát viên được phân công kiểm sát điều tra chưa làm hết trách
nhiệm, có những vụ cần cương quyết không phê chuẩn mà phải xem xét xử lý
bằng biện pháp khác, hoặc thực hiện đầy đủ các quy định pháp luật.
- Kiểm sát viên không thực hiện đầy đủ các quy định của BLTTHS và
quy chế ngành, chưa gắn công tố với hoạt động điều tra, kiểm sát chưa chặt chẽ
hoạt động của Điều tra viên nên việc hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm
chứng, khám nghiệm hiện trường, thu thập dấu vết, kê biên, định giá… còn sơ
sài, thiếu khách quan kiểm sát viên không phát hiện để đề ra yêu cầu điều tra
kịp thời, nhằm khắc phục những vấn đề truy tố, xét xử sau đó bị hủy án để điều
tra, truy tố, xét xử lại.
- Lãnh đạo một số đơn vị Viện kiểm sát nhân dân cũng chưa làm hết
trách nhiệm, thiếu kiểm tra, đối chiếu nghiên cứu hồ sơ vụ án, nghe báo cáo
nhưng không kỹ, không sâu, thiếu thận trọng trong việc đánh giá chứng cứ,
13. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
13
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
xem xét tội danh dẫn đến sai sót phải đình chỉ vì không đủ yếu tố cấu thành tội
phạm, hoặc hủy án điều tra, truy tố, xét xử lại.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
2. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
3. Quốc hội (2011), Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, Hà Nội.
4. Quốc hội (2011), Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
5. Quốc hội (2006), Luật công chứng, Hà Nội
6. Quốc hội (2008), Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.
7. Quốc hội (2009), Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước,
Hà Nội.
8. Bộ tư pháp (2005), “Luật bồi thường Nhà nước”, Dự án Jica, Kỷ yếu tọa
đàm, Nhật Bản và Bộ Tư pháp Việt Nam.
9. Chính phủ (2010), Nghị định số 47/CP ngày 03/5/1997 về việc giải quyết
bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, Hà Nội.
10.Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác
tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
11.Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà
Nội.
12.Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, Hà Nội
13.Chính phủ (2010), Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/3/2010 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật trách nhiệm
bồi thường Nhà nước, Hà Nội.
14.Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình lý luận Nhà nước và
pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
15.Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển
bách khoa, Hà Nội.
16.Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam,
tập 1, Nxb Công án nhân dân, Hà Nội.
14. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
14
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
17.Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự,
Nxb công an nhân dân, Hà Nội.
18.Viện Nhà nước và Pháp luật (2012), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng
dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã sửa đổi, bổ
sung 2011, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
19.Nguyễn Thị Thu Hà (2014), Tập bài giảng luật TNBTNN, Trường Đại
học Luật Hà Nội.
20.Nguyễn Mạnh Bách (1998), Nghĩa vụ dân sự trong Luật Dân sự Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21.Cục Bồi thường nhà nước – Bộ tư pháp (2013), “Luật trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước – giới thiệu tổng quan, đánh giá tác động hiệu quả
và góp ý hướng dẫn thi hành”, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà Nội.
22.Cục Bồi thường nhà nước – Bộ tư pháp (2013), Tổng kết pháp luật nước
ngoài về trách nhiệm bồi thường Nhà nước, Hà Nội.
23.Cục Bồi thường nhà nước – Bộ tư pháp (2013), Tổng kết thực trạng và
thực tiễn giải quyết thi hành pháp luật bồi thường thiệt hại do cán bộ,
công chức và người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây
ra, Hà Nội.
24.Cục Bồi thường nhà nước – Bộ tư pháp (2014), Báo cáo kết quả công
tác bồi thường nhà nước 6 tháng đầu năm 2014 nhiệm vụ, giải pháp 6
tháng cuối năm 2014, Hà Nội.
25.Web:http://chungta.com.vn/PortletBlank.aspx/E87168AED88D45648F6
71CE3F2BB4818/View/LuatPhap/Bao_ve_quyen_con_nguoi_trong_to_t
ung_hinh_su/.