SlideShare a Scribd company logo
1 of 92
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ THỊ HẠNH
TéI LõA §¶O CHIÕM §O¹T TµI S¶N
TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së sè liÖu xÐt xö ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ THỊ HẠNH
TéI LõA §¶O CHIÕM §O¹T TµI S¶N
TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së sè liÖu xÐt xö ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng)
Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
NGÔ THỊ HẠNH
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN.................................................................. 7
1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
hình sự Việt Nam ............................................................................... 7
1.2. Sự cần thiết của việc quy định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trong đấu tranh xử lý, phòng chống tội phạm .......................12
1.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam ......18
1.3.1. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam thời
kỳ phong kiến.....................................................................................18
1.3.2. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam thời
kỳ từ 1945 đến trước 1985.................................................................20
1.3.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam thời
kỳ từ 1985 đến trước 1999.................................................................26
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN THEO BỘ LUẬT TỐ HÌNH SỰ 1999.............29
2.1. Khách thể và đối tượng tác động của Tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản........................................................................................29
2.1.1. Khách thể ...........................................................................................29
2.1.2. Đối tượng tác động của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản....................32
2.2. Mặt khách quan của tội phạm........................................................34
2.2.1. Dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội............................................36
2.2.2. Hậu quả của tội phạm ........................................................................42
2.2.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm ..........47
2.3. Chủ thể của tội phạm.......................................................................47
2.4. Mặt chủ quan của tội phạm............................................................50
2.4.1. Dấu hiệu lỗi........................................................................................50
2.4.2. Dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội...............................................51
2.5. Hình phạt và các biện pháp tư pháp..............................................52
2.5.1. Hình phạt............................................................................................52
2.5.2. Các biện pháp tư pháp .......................................................................58
2.6. Phân biệt Tội lừa đảo với một số tội phạm khác ..........................59
2.6.1. Phân biệt Tội lừa đảo đoạt tài sản với Tội trộm cắp tài sản ..............59
2.6.2. Phân biệt Tội lừa đảo đoạt tài sản với cướp tài sản...........................60
2.6.3. Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với Tội tham ô tài sản......63
2.6.4. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với Tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản ...................................................................63
Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT..........66
3.1. Thực trạng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng......................................................................................66
3.1.1. Một số Đặc điểm về vị trí địa lý và kinh tế xã hội của Đà Nẵng
ảnh hưởng tới tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .....................66
3.1.2. Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ 2011 đến 2015 ..............68
3.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự .........................................................76
KẾT LUẬN....................................................................................................81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................83
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ Luật hình sự
HĐTP: Hội đồng thẩm phán
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
TP: Thành phố
UBND: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Tình hình xét xử tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại
thành phố Đà Nẵng từ năm 2011-2015 69
Bảng 2.2: Hình phạt được áp dụng đối với bị cáo phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản từ năm 2011 - 2015 trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng 70
Bảng 2.3: Cơ cấu độ tuổi người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 75
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tài sản và quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền quan
trọng, thân thiết nhất của con người và luôn chiếm được sự quan tâm đặc biệt
của các nhà lập pháp của bất kỳ quốc gia nào. Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam luôn khẳng định sở hữu là một quyền thiêng liêng được nhà nước bảo hộ
chống lại mọi hành vi xâm hại. Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định:
1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải
để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp
trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.
2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật
bảo hộ.
3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai,
Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ
chức, cá nhân theo giá thị trường [23, Điều 32].
Luật hình sự với vai trò bảo vệ, đã qui định hệ thống các tội xâm phạm
sở hữu, trong đó có Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm cơ sở pháp lý cho việc
đấu tranh, xử lý và phòng ngừa loại tội phạm này. Điều 139 Bộ luật hình sự
năm 1999 qui định cấu thành của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với đặc điểm
sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác, đồng thời
cũng qui định các loại, mức hình phạt áp dụng đối với người phạm tội. Trên
cơ sở qui định này tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng khác áp dụng trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong quá trình tố tụng quyết vụ án một
cách chính xác, khách quan công bằng và có hiệu quả.
Thực tiễn đấu tranh, xử lý tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội lừa
2
đảo nói riêng cho thấy tính phức tạp, gia tăng, gây thiệt hại lớn cho tài sản của
nhà nước và tài sản của công dân, ảnh hưởng đến trật tự chung của xã hội.
Trong giai đoạn nền kinh tế đất nước đang phát triển theo cơ chế thị trường
với định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý và chính sách pháp luật
không phải lúc nào cũng ngay lập tức phù hợp với thực trạng nền kinh tế, do
đó tình hình tội phạm có nhiều chuyển biến, đặc biệt tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản đã được thực hiện với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, chiếm đoạt tài
sản có giá trị lớn, có nhiều vụ án chiếm đoạt hàng ngàn tỷ đồng của nhà nước,
có nhiều trường hợp lợi dụng những việc giao kết hợp đồng đầu tư, hợp đồng
vay vốn hoặc sử dụng công nghệ khoa học tiên tiến về tin học để làm thẻ tín
dụng giả, tìm kiếm mật mã số tài khoản của người khác để rút tiền qua ngân
hàng hoặc qua ngân hàng điện tử (ATM)… nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Bộ Luật hình sự do nhà nước ban hành quy định các hành vi nguy hiểm cho
xã hội bị coi là tội phạm và quy định chế tài tương ứng nhằm trừng trị và giáo
dục đối với những người phạm tội và cũng như răn đe phòng ngừa chung đối
với toàn xã hội nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm bảo vệ lợi ích của nhà
nước, lợi ích của mọi tổ chức và lợi ích của công dân, góp phần duy trì trật tự
an toàn xã hội. Tuy nhiên, trong từng điều luật cụ thể các nhà làm luật chỉ có
thể quy định các dấu hiệu đặc trưng cơ bản nhất của một cấu thành tội phạm,
trong thực tế tội phạm xảy ra với muôn hình muôn vẻ, vô cùng đa dạng và
phức tạp, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng vậy, chỉ được quy định trong Bộ
Luật hình sự bởi những dấu hiệu đặc trưng nhất.
Do đó, việc nghiên cứu làm rõ nội dung pháp lý của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản và thực trạng và các biện pháp đấu tranh phòng ngừa thích hợp là
điều quan trọng nhất, nhằm góp phần áp dụng pháp luật một cách đúng đắn
khi xử lý người phạm tội, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội
phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng trong xã hội và
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3
Với lý do nêu trên, để khắc phục tình trạng này, học viên quyết định lựa
chọn đề tài: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Viê ̣t Na m
(trên cơ sở số liệu xét xử địa bàn thành phố Đà Nẵng)” để làm Luận văn tốt
nghiệp Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Để thực hiện được đề tài này, tác giả luận văn đã tham khảo các giáo
trình, bài viết chuyên sâu cũng như các sách chuyên khảo, bình luận khoa học
về luật hình sự, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ của nhiều tác giả như: Uông Chu
Lưu (chủ biên, 2004), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam 1999
(Phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Mai Văn Bộ (2010),
“Chương XIV: Các tội xâm phạm sở hữu” trong sách: Bình luận khoa học Bộ
luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, (phần các tội phạm), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (2005), Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam (phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Đức
Mai (chủ biên, 2010), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi,
bổ sung năm 2009 (Phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội
phạm, Tập II), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Tiến Dũng (2014),
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu
nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật
- Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội...
Trong các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã nghiên cứu
rất sâu sắc về các dấu hiệu pháp lý của loại tội phạm này, tuy nhiên chưa có
công trình khoa học nào đề cập đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong mối
liên hệ với một địa bàn cụ thể là thành phố Đà Nẵng, nhất là trong bối cảnh
Đà Nẵng là đô thị đang phát triển nhanh về mọi mặt, đặc biệt sự di chuyển tội
phạm của các tỉnh thành khác nhập cư vào thành phố Đà Nẵng và các cả tội
4
phạm quốc tế đã và đang làm tăng tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm
lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Luận văn nghiên cứu về thực trạng và diễn biến của loại tội phạm này ở
thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở đó, tìm ra những nguyên nhân và điều kiện
phạm tội, đưa ra các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm một cách
hữu hiệu, hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm giảm bớt những thiệt hại xảy
ra, đem lại sự tin tưởng vào pháp luật cho mọi người dân trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích của đề tài: trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự và thực trạng tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để đưa ra các giải pháp
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng ngừa loại tội
phạm này.
- Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình thực hiện đề tài tác giả đặt
ra cho mình các nhiệm vụ sau đây:
a) Làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội "Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản" theo Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999.
b) Phân tích thực tiễn xét xử loại tội phạm này tại địa bàn thành phố Đà
Nẵng trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 để thấy được các yếu tố tác
động làm ảnh hưởng đến tình hình tội phạm này.
c) Phân tích làm sáng tỏ tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tội
phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai
đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 trên cơ sở gắn với các đặc điểm cụ thể của
thành phố Đà Nẵng.
d) Đưa ra những kiến nghị đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của
Bộ luật hình sự liên quan đến tội danh này.
5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: Các dấu hiệu pháp lý của tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phân tích tình hình và diễn biến của tội phạm để
rút ra những điểm thành công cũng như thiếu sót trong việc đấu tranh phòng
chống tội phạm này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, phân tích, nguyên nhân
và điều kiện cũng như các giải pháp đấu tranh, phòng chống tội phạm này.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề
liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ luật hình sự trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
5. Cơ sở phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, tác giả còn dựa trên các
quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực trong đó có lĩnh
vực đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm lừa đảo chiếm
đoạt tài sản nói riêng.
Khi viết đề tài tác giả có sử dụng các phương pháp nghiên cứu của
khoa học luật hình sự và tội phạm học như: phương pháp thống kê hình sự,
phương pháp phân tích và so sánh, phương pháp tổng hợp. Ngoài ra, còn một
số phương pháp khác cũng được áp dụng như: phương pháp phân tích hệ
thống, phương pháp chuyên gia...
6. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp mới của đề tài
Trong phạm vi của đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa
về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với cuộc đấu tranh phòng,
chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Về mặt lý luận: đề tài góp phần hoàn thiện nội dung quy định của
Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999, đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự.
6
- Về mặt thực tiễn: những đề xuất giải pháp nêu trong luận văn sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung
và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Ngoài ra, đề tài có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo cho các lực lượng tham gia phòng, chống loại tội
phạm này không những ở thành phố Đà Nẵng mà còn có thể áp dụng trên địa
bàn tỉnh, thành phố khác có điều kiện tương tự.
- Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống
và toàn diện về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các giải pháp đấu tranh
phòng, chống hiệu quả đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Chương 2: Đặc điểm pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo
Bộ luật hình sự 1999.
Chương 3: Thực trạng xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình
sự Việt Nam
Khái niệm tội phạm được hình thành trong quá trình phát triển, hoàn
thiện luật hình sự Việt Nam, khái niệm này được ra đời lần đầu tiên trong Bộ
luật hình sự 1985 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (được thông
qua kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VII, ngày 27/06/1985). Khái niệm này đã
phản ánh một cách khá đầy đủ các quy định về tội phạm và xác định cụ thể
hành vi nào là tội phạm. Đến ngày 21/12/1999 tại kỳ họp thứ 6 khóa X Quốc
hội đã thông qua Bộ luật hình sự mới sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật
hình sự năm 1985. Bộ luật này đã sửa đổi khái niệm về “Tội phạm” để phù
hợp với hoàn cảnh thực tế, Bộ luật hình sự 1999 được thông qua, trên cơ sở
kế thừa và phát huy những nguyên tắc, chế định hình sự pháp luật của nước
ta. Điều 8 BLHS 1999 quy định định nghĩa tội phạm như sau: “Tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền
văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp
của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài
sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh
vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”
Trên cơ sở khái niệm tội phạm, Bộ luật hình sự 1999 qui định các
nhóm tội phạm ở phần “Các tội phạm” trong đó có các tội xâm phạm sở hữu.
8
Khoa học hình sự đã đưa ra khái niệm chung đối với các tội xâm phạm sở hữu
như sau: “Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi của người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quyền sở hữu
tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân” 5, tr. 181.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong các tội xâm phạm sở hữu, vì
vậy khái niệm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn khái niệm chung
của các tội xâm phạm sở hữu, đồng thời phải thỏa mãn các các dấu hiệu đặc
thù nói riêng. Căn cứ vào quy định tại Khoản 1 Điều 139 của Bộ luật hình sự
1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có những
đặc điểm sau:
Thứ nhất, lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi xâm hại đến quyền sở
hữu của người khác, thể hiện tính nguy hiểm cao cho xã hội cần được hình sự
hóa là tội phạm trong luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là
dấu hiệu cơ bản nói lên bản chất chính trị, xã hội của tội phạm, dấu hiệu này
được coi là dấu hiệu nội dung quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm.
Một hành vi sở dĩ bị quy định trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu trách
nhiệm hình sự vì nó có tính nguy hiểm cho xã hội do đã gây ra hoặc đe dọa
gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Tầm
quan trọng của quan hệ xã hội do tính chất của quan hệ đó trong các thang giá
trị xã hội do giai cấp thống trị thiết lập. Do đó, tính chất của quan hệ xã hội có
thể bị thay đội ở những xã hội khác nhau hoặc ngay trong một chế độ xã hội
nhưng ở những thời kỳ khác nhau thì tính chất của quan hệ xã hội cũng có thể
thay đổi. Điều đó đòi hỏi nhà làm luật khi xem xét tính chất quan trọng của
quan hệ xã hội để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phải dựa
trên hoàn cảnh lịch sử cụ thể, xuất phát từ lợi ích giai cấp, trên lập trường giai
cấp. Tuy nhiên, tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại không thể
là yếu tố duy nhất phản ánh mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành
9
vi mà chỉ khi được kết hợp với những yếu tố khác nó mới phản ánh hành vi là
nguy hiểm đã đến mức coi là tội phạm và cần phải xử lý bằng chế tài hình sự
hay không. Tính nguy hiểm cho xã hội được phản ánh ở hai đại lượng: tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi. Tính chất của hành vi là đặc tính về
"chất" của thiệt hại, được xác định căn cứ vào tính chất của quan hệ xã hội bị
thiệt hại, quan hệ xã hội càng quan trọng thì tính chất của thiệt hại càng
nghiêm trọng. Mức độ của thiệt hại là đặc tính về "lượng" của thiệt hại, tùy
theo từng loại thiệt hại mà mức độ đó được biểu hiện khác nhau. Vì vậy, tính
chất và mức độ của thiệt hại là một căn cứ để đánh giá tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi, khi kết hợp với các căn cứ khác nó phản ánh một hành vi là
nguy hiểm "đáng kể" hay "không đáng kể" cho xã hội, tạo cơ sở để nhà làm
luật tội phạm hóa và phi tội phạm hóa. Trên cơ sở tiếp cận này, Bộ luật hình
sự 1999 qui định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do nó đã xâm hại đến sở hữu
của nhà nước, tập thể, cá nhân là quan hệ xã hội được Hiến pháp và pháp luật
bảo vệ. Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, không
những xâm hại đến sở hữu mà còn xâm hại đến sự phát triển của các hoạt
động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, cũng như xâm hại đến trật tự an
toàn xã hội… Vì vậy, việc qui định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người
khác trong luật hình sự là cần thiết, góp phần bảo vệ sở hữu nhà nước, sở hữu
của tập thể là cá nhân thông qua đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và
trật tự an toàn xã hội.
Thứ hai, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nằm trong nhóm tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt, do đó nó cũng có hành vi chiếm đoạt như những
tội chiếm đoạt khác. Điểm khác biệt là ở chỗ, hành vi chiếm đoạt trong tội lừa
đảo được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối là cho chủ sở hữu nhầm tưởng tự
nguyện trao tài sản cho người phạm tội. Chiếm đoạt còn được hiểu là "chiếm của
người khác bằng cách dựa vào quyền hành, sức mạnh vũ lực" 36, tr. 1483.
10
Dưới góc độ pháp luật hình sự "chiếm đoạt tài sản" là hành vi cố ý chuyển
dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản
của mình 31, tr. 366, hoặc "hành vi cố ý chuyển biến một cách trái pháp luật
tài sản của người khác thành tài sản của mình hoặc của một nhóm người hoặc
cho người khác mà mình quan tâm" 31, tr. 366. Hành vi chiếm đoạt tài sản
có đặc điểm sau đây:
a. Xét về mặt khách quan, hành vi chiếm đoạt là hành vi làm cho chủ
tài sản (người là chủ sở hữu tài sản hoặc người có quyền quản lý tài sản) mất
hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình
và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt trái pháp luật tài sản đó. Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực tế là
quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có
tài sản đó, quá trình này xét về mặt pháp lý không làm cho chủ sở hữu mất
quyền sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền
cụ thể của quyền sở hữu. Hành vi chiếm đoạt được thể hiện dưới những dạng
hành vi cụ thể khác nhau tùy thuộc vào mối quan hệ cụ thể giữa người chiếm
đoạt với tài sản chiếm đoạt cũng như vào hình thức chiếm đoạt cụ thể.
b.Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt đòi hỏi phải có
đặc điểm là còn nằm trong sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm soát của chủ tài
sản. Nếu tài sản đã thoát ly khỏi sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm soát của chủ
tài sản (bị thất lạc) thì không còn là đối tượng của hành vi chiếm đoạt. Chỉ khi
tài sản còn đang do chủ tài sản chiếm hữu thì mới có thể nói đến hành vi
chiếm đoạt, mới nói đến hành vi làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản.
c. Xét về mặt chủ quan, chiếm đoạt là hành vi được người phạm tội
thực hiện có chủ đích nên lỗi của người có hành vi chiếm đoạt là lỗi cố ý trực
tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản
đang có người quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản
11
của mình. Những trường hợp lầm tưởng là tài sản của mình hoặc tài sản
không có người quản lý đều không phải là trường hợp có hành vi chiếm đoạt.
Như vậy, hành vi chiếm đoạt tài sản được coi là bắt đầu khi người phạm tội
bắt đầu thực hiện việc làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản, để tạo
khả năng đó cho mình. Khi người phạm tội đã làm chủ được tài sản chiếm
đoạt thì lúc đó hành vi chiếm đoạt được coi là đã hoàn thành, người phạm tội
coi là đã chiếm đoạt được tài sản. Dấu hiệu chiếm đoạt có thể là mục đích
chiếm đoạt, là hành vi chiếm đoạt hoặc là chiếm đoạt được.
Việc chiếm đoạt tài sản của người khác ở tội lừa đảo được thực hiện
bằng thủ đoạn gian dối, là dấu hiệu để phân biệt với các tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt khác. Thủ đoạn gian dối, theo định nghĩa của giáo
trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) của Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội thì: “Gian dối chiếm đoạt tài sản là việc người phạm tội
đưa ra những thông tin không đúng sự thật là cho chủ sở hữu hoặc người
quan lý nhầm tưởng, tự nguyện trao tài sản cho người phạm tội” 8, tr. 271.
Thứ ba, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện bởi lỗi cố ý. Tội
phạm là một thể thống nhất của hai mặt khách quan và mặt chủ quan, nếu mặt
khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài thì mặt chủ quan là hoạt động tâm
lý bên trong của người phạm tội, hai bộ phận này của yếu tố tội phạm có quan
hệ mật thiết với nhau, luôn gắn bó với nhau. Hoạt động tâm lý bên trong của
người phạm tội luôn được thể hiện thông qua những biểu hiện bên ngoài của tội
phạm, do vậy, muốn nhận thức biết được mặt chủ quan của tội phạm phải
thông qua một quá trình nhận thức theo một phương pháp biện chứng. Mặt chủ
quan của tội phạm là mặt bên trong của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã
hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự - lỗi, tức là thái độ tâm
lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị do mình thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó.
12
Theo Điều 9 Bộ luật hình sự, lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả
xảy ra. Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu
quả của hành vi đó, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu
quả xảy ra. Theo qui định này thì Tội lừa đào chiếm đoạt tài sản được thực
hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức được hành vi chiếm đoạt
tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi phạm tội và có thái độ
mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác.
Từ những phân tích này, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những điểm
hợp lý trong khái niệm về tội phạm của Bộ luật hình sự 1999 và những vấn đề
đã được thực tiễn áp dụng pháp luật kiểm nghiệm, có thể đưa ra định nghĩa
khoa học về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: Tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản là một tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định thực hiện với lỗi cố ý
trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác bằng thủ đoạn
gian dối, cung cấp thông tin sai sự thật làm cho chủ sở hữu hoặc người quản
lý tài sản nhầm tưởng tự nguyện trao tài sản cho người phạm tội.
1.2. Sự cần thiết của việc quy định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trong đấu tranh xử lý, phòng chống tội phạm
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội phạm mang tính “truyền thống”,
nó hiện diện trong luật hình sự của các quốc gia, trong mọi thời kỳ lịch sử. Ở
nước ta, trước khi ra đời Bộ luật hình sự 1985 (Bộ luật hình sự đầu tiên của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã có tội phạm này trong các
văn bản luật đơn hành như: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản;
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng công dân năm 1970…
13
Điều đó cho thấy, việc qui định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là cần thiết và
tất yếu trong đấu tranh, xử lý, phòng ngừa tội phạm bảo vệ quyền sở hữu về
tài sản của nhà nước, tổ chức và cá nhân. Sự cần thiết đó thể hiện trên các
khía cạnh sau:
a. Việc quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm cơ sở để xác định
mức giới hạn phải chịu trách nhiệm hình sự với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản nói chung, để phòng chống các tội phạm thì cũng phải dựa vào khái
niệm cơ bản tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trên cơ sở quy định dấu hiệu pháp
lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khác với tội phạm khác hoặc các dấu hiệu
pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Từ đó, công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm mới định hướng về ban hành thể chế, chính sách, tuyên truyền
giáo dục trong xã hội ngày càng rõ nét đối với tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài
sản. Qua đó giúp cho xã hội có những biện pháp nhằm kiểm soát, quản lý
quyền sở hữu tài sản tốt hơn. Đồng thời việc quy định tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, ngoài dấu hiệu gian dối, giá trị tài sản chiếm đoạt phải đạt mức thấp
nhất là hai triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc từ dưới hai triệu đồng
nhưng gây hiệu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm, thì cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội danh này.
Trách nhiệm hình sự là một nội dung thể hiện mối quan hệ giữa Nhà
nước và cá nhân người phạm tội, mà ở đó Nhà nước thể hiện sự phản ứng có
tính chất phủ định của mình đối với hành vi phạm tội và người phạm tội.
Trong hoạt động quản lý, Nhà nước không những tạo lập sự cân bằng, điều
tiết xã hội, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý
thuận lợi cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và các vấn đề xã hội đồng
thời thông qua các qui định của luật hình sự nhà nước thực hiện chức năng
bảo vệ các quan hệ xã hội thống trị, trong đó có quan hệ sở hữu.
14
Chính sách hình sự đối với các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế được hiểu là những đánh giá có tính định hướng của Nhà nước về việc có
cần thiết phải xử lý người thực hiện hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
cụ thể bằng pháp luật hình sự hay không và nếu cần thiết thì hình thức và
mức độ của các hậu quả pháp lý được áp dụng sẽ như thế nào. Nếu Nhà
nước đánh giá một hành vi nào đó có mức độ nguy hiểm đáng kể, cần thiết
phải xử lý bằng các biện pháp hình sự nghiêm khắc mới đạt được mục đích
răn đe và phòng ngừa chung thì hành vi đó sẽ bị coi là tội phạm và đi kèm
với nó các hậu quả pháp lý bất lợi (trách nhiệm hình sự) sẽ được quy định,
áp dụng đối với người thực hiện hành vi đó. Trong trường hợp Nhà nước
thấy chỉ cần áp dụng các biện pháp xử lý hình sự trong một chừng mực nhất
định hoặc chỉ cần xử lý bằng biện pháp phi hình sự khác thì sẽ có những quy
định giới hạn về việc coi là tội phạm cũng như loại và mức trách nhiệm pháp
lý có thể áp dụng.
Như vậy, có thể thấy, dưới góc độ thực tế thì cơ sở của việc xác lập
trách nhiệm hình sự đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thể hiện ở hai nội
dung: (1) Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của nhóm tội phạm hay tội
phạm cụ thể; và (2) Chính sách hình sự của Nhà nước đối với nhóm tội phạm
hay tội phạm cụ thể đó.
Ở góc độ pháp lý hình sự thì trách nhiệm hình sự được đặt ra khi có đủ
các yếu tố sau: (1) Chủ thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo luật định; (2) Chủ thể đã thực hiện
một (hoặc nhiều) hành vi được Luật hình sự quy định là tội phạm; (3) Còn
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và chủ thể đó không được miễn trách
nhiệm hình sự theo luật định.
Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự là căn cứ có tính chất bắt buộc
chung do luật hình sự quy định và phải dựa vào đó, các cơ quan Nhà nước có
15
thẩm quyền mới có thể đặt vấn đề trách nhiệm hình sự của người đã thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được luật hình sự quy định là tội phạm. Ở
nước ta, cơ sở của trách nhiệm hình sự được ghi nhận tại Điều 2 Bộ luật hình
sự: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải
chịu trách nhiệm hình sự”. Có thể nhận thấy quy định vừa nêu bao hàm hai
nội dung: Thứ nhất, chỉ người nào phạm tội mới phải chịu trách nhiệm hình
sự; Thứ hai, tội phạm phải được quy định trong Bộ luật hình sự.
Từ những phân tích nêu trên có thể khẳng định sự kiện pháp lý duy
nhất làm phát sinh trách nhiệm hình sự chỉ có thể là tội phạm. Tội phạm, hiểu
theo ý nghĩa pháp lý hình sự, là hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm do
luật định. Căn cứ pháp lý của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế hay bất kỳ tội phạm nào khác chính là cấu thành tội
phạm. Cấu thành tội phạm của Tội lừa đảo được qui định trong Bộ luật hình
sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung).
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý hình sự từ trước đến nay mặc dù vẫn
còn có những quan điểm khác nhau về vị trí của các yếu tố cấu thành tội
phạm, nhưng có một nội dung mà tất cả đều thống nhất đó là cụ thể hóa cơ sở
của trách nhiệm hình sự là việc hành vi đã thực hiện thỏa mãn các dấu hiệu do
luật định về tội phạm, được phản ánh trong cấu thành tội phạm các tội phạm
cụ thể. Điều này có nghĩa là phân tích cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với
các tội lừa đảo thực chất là phân tích các dấu hiệu pháp lý đặc trưng có ý
nghĩa định tội.
b. Trách nhiệm hình sự được biểu hiện ra bên ngoài bằng các hình thức
cụ thể phản ánh mức độ phải chịu trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
Hình thức trách nhiệm hình sự (hay hình thức biểu hiện cụ thể của trách
nhiệm hình sự, dạng của trách nhiệm hình sự) chính là dạng hậu quả pháp lý
bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu do việc đã thực hiện tội phạm.
16
Trong các hình thức của trách nhiệm hình sự thì phổ biến nhất và nghiêm
khắc nhất là hình phạt và kèm theo nó là án tích. Trong khoa học pháp lý hình
sự thì tội phạm luôn gắn liền với hình phạt, hay nói cách khác hình phạt chính
là hậu quả pháp lý bất lợi thường thấy của tội phạm. Do vậy, một người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm thì việc họ bị đe dọa áp
dụng hình phạt với tính chất là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước là điều khó tránh khỏi. Đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế thì hình phạt được quy định ngay trong chế tài của các tội phạm
(chương XVI – Bộ luật hình sự năm 1999, đã được sửa đổi, bổ sung).
Trên các diễn đàn khoa học pháp lý và trong một số sách báo pháp lý
cũng có ý kiến đồng nhất trách nhiệm hình sự với hình phạt - hậu quả bất lợi
nhất mà người phạm tội phải gánh chịu do hành vi phạm tội của họ. Tuy
nhiên, theo chúng tôi thì trách nhiệm hình sự và hình phạt tuy có mối quan hệ
mật thiết, khăng khít với nhau nhưng lại là hai khái niệm riêng biệt. Trong
phần lớn các trường hợp phạm tội, trách nhiệm hình sự được thực hiện thông
qua việc áp dụng biện pháp cưỡng chế Nhà nước mang tính nghiêm khắc nhất
- đó là hình phạt, bởi hình phạt là hình thức trách nhiệm hình sự mang tính
phổ biến nhất mà Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội. Hình phạt thực
chất là một hình thức biểu hiện cụ thể của hậu quả pháp lý bất lợi đối với
người phạm tội. Tuy nhiên, do trách nhiệm hình sự và hình phạt đều gắn liền
với tội phạm và chịu hình phạt là hình thức biểu hiện trách nhiệm phổ biến
nên không có sự phân định rạch ròi hai khái niệm này trên thực tế. Ý nghĩa
của việc phân biệt chúng, theo chúng tôi, cũng chỉ mang tính lý luận.
Chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm cho rằng trách nhiệm hình sự đối
với Tội lừa đảo không chỉ bó hẹp ở nghĩa vụ phải chịu hình phạt được quy
định đối với tội phạm này, mà còn bao gồm cả nghĩa vụ chịu sự tác động của
các hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, bị áp dụng các
17
biện pháp cưỡng chế trách nhiệm hình sự (hình phạt và các biện pháp tư
pháp) và bị mang án tích. Thậm chí, đối với cả các trường hợp được miễn
trách nhiệm hình sự thì trước khi xem xét tha miễn trách nhiệm hình sự, tính
chất tội phạm của hành vi mà người đó đã thực hiện và nghĩa vụ pháp lý phải
gánh chịu các biện pháp tác động mang tính hình sự (trách nhiệm hình sự)
cũng vẫn được khẳng định. Miễn trách nhiệm hình sự chỉ có thể được áp dụng
đối với người thực hiện hành vi phạm tội, bởi trách nhiệm hình sự phát sinh
ngay tại thời điểm người nào đó thực hiện hành vi phạm tội. Quyết định miễn
trách nhiệm hình sự của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền vừa là căn cứ
pháp lý ghi nhận hành vi của người được miễn trách nhiệm hình sự là tội
phạm và trách nhiệm hình sự của họ, vừa là căn cứ chấm dứt trách nhiệm hình
sự đối với họ, do đã thoả mãn điều kiện được miễn trách nhiệm hình sự 35.
Người được miễn trách nhiệm hình sự không phải gánh chịu trên thực tế
những hậu quả bất lợi mà luật quy định cho người đã thực hiện tội phạm đó,
do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thấy rằng việc truy cứu trách nhiệm hình
sự và áp dụng hình phạt hay các dạng trách nhiệm hình sự khác trong trường
hợp này là không cần thiết và vì thế họ được miễn trách nhiệm hình sự.
Khi người phạm tội bị tác động bởi hình thức trách nhiệm hình sự phổ
biến là hình phạt, hay ngay cả trong trường hợp được miễn hình phạt thì đều
có hậu quả là họ bị mang án tích trong một thời hạn nhất định và bị ghi vào lý
lịch tư pháp. Trong thời gian chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới thì
tùy từng trường hợp họ sẽ bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Đối với các Tội lừa đảo, hình thức trách nhiệm hình sự được quy định
trong luật và quyết định trên thực tế cũng có những nét khác biệt so với các
hình thức trách nhiệm hình sự được quy định và quyết định đối với người
phạm tội thuộc nhóm tội khác. Sự khác biệt này xuất phát từ tính chất nguy
hiểm cho xã hội của nhóm tội xâm phạm sở hữu và chính sách hình sự của
Nhà nước đối với nhóm tội phạm này.
18
Trong xu thế mới, tiến bộ, các biện pháp tác động về kinh tế, tài sản đối
với người phạm tội lừa đảo (như phạt tiền, tịch thu tài sàn, tịch thu tiền, vật
trực tiếp liên quan đến tội phạm và buộc phải bồi thường thiệt hại) ngày càng
được chú trọng, ưu tiên quy định và áp dụng.
Về các hậu quả pháp lý hình sự cụ thể, ngoài hình phạt tử hình, Bộ luật
hình sự còn quy định hệ thống hình phạt khác (bao gồm các hình phạt chính
và các hình phạt bổ sung) và các biện pháp tư pháp với tư cách là các biện
pháp tác động trách nhiệm hình sự (hậu quả pháp lý hình sự) được áp dụng
đối với người phạm tội. Tuy nhiên, không phải tất cả các dạng trách nhiệm
này đều được quy định và áp dụng đối với người phạm Tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định: a. Việc quy định trách
nhiệm hình sự đối với lừa đảo chiếm đoạt tài sản là đòi hỏi tất yếu của việc
bảo đảm quyền sơ hữu; b. Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản thể hiện sự phản kháng của nhà nước của xã hội đối với những hành vi
lệch chuẩn, với các tiêu chí và thang giá trị xã hội, do đó nó có tác dụng răn
đe cũng như hướng dẫn xử sự của các chủ thể; c. Việc quy định các hình thức
trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không những có ý
nghĩa phân hóa tội phạm, cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội mà còn
là sự bảo đảm cho sự bình đẳng trước pháp luật giữa những người phạm tội
trên cơ sở nguyên tắc chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự phù hợp, tương xứng
với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do họ gây ra.
1.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam
1.3.1. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam
thời kỳ phong kiến
Nhận thức được vai trò của pháp luật hình sự trong việc bảo vệ chế độ
sở hữu nhằm củng cố, duy trì trật tự xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
19
pháp của Nhà nước và các chủ thể pháp luật, nhiều Nhà nước phong kiến ở
nước ta đã sử dụng hình luật để xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu.
Dưới thời Lê Sơ mà đỉnh cao là triều đại trị vì của vua Lê Thánh Tông, Bộ
luật Hồng Đức đã được ban hành, trong đó dành gần 50 Điều để thiết lập các
quy định nhằm bảo vệ chế độ sở hữu phong kiến. Theo Điều 370 Bộ luật
Hồng Đức thì:
Các nhà quyền quý chiếm đoạt nhà cửa, ruộng đất, ao đầm
của lương dân, từ một mẫu trở lên thì xử tội phạt; từ năm mẫu trở
lên thì xử tội biếm. Quan tam phẩm trở lên thì xử tội năng thêm hai
bậc và phải bồi thường như luật định. Đã tâu lên rồi thì xử khác.
Đối với những kẻ cướp (nghĩa là ban đêm cầm khí giới giết người lấy của):
Thì xử tội chém, tòng phạm thì xử tội giảo, ngoài việc phải
đền tang vật ăn cướp, điền sản phải sung công. Cướp của lại giết
người thì xử tội chém bêu đầu, tòng phạm xử chém phải nộp tiền
đền mạng và tiền đền tang vật gấp đôi trả lại cho chủ nhà bị cướp.
Kẻ chứa chấp bọn cướp lâu ngày thì xử đồng tội, mới khoảng mười
ngày thì xử giảm một bậc, đều phải bồi thường một phần ba nộp
vào kho. Kẻ biết việc mà không cáo giác thì xử tội đồ làm chủng
điền binh [34, Điều 426].
Cũng theo Bộ luật trên "kẻ ăn trộm mới phạm lần đầu thì phải lưu châu
xa. Kẻ trộm có tiếng và kẻ trộm tái phạm thì phải bị chém. Giữa ban ngày ăn
cắp vặt cũng bị xử tội đồ…" [34, Điều 429].
Liên quan đến hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tại Điều 435 của Bộ
luật trên quy định:
Những kẻ thừa thời cơ lúc có trộm, cướp, cháy, lụt là lấy
trộm của cải của người ta, hay là giữa ban ngày mà đoạt lấy tiền tài
của người, cùng là lấy của cải đánh rơi mà lại đánh lại người mất
20
của thì cũng phải đền tội như ăn trộm thường, mà giảm một bậc.
Lột lấy những quần áo và đồ vật của trẻ em, người điên, người say
thì phải tội đồ và phải bồi thường gấp đôi [34, Điều 26].
Có thể nói, đây là những quy định đầu tiên trong hình luật nước ta mà
trong đó, những dấu hiệu trong hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản sau này đã được đề cập. Đặc biệt, nhà làm luật đã mô tả và mô
hình hóa khá chính xác điều kiện thực tiễn nước ta lúc bấy giờ, đồng thời răn
đe, phòng ngừa và chống các hành vi vi phạm pháp luật do lợi dụng hoàn
cảnh, tình trạng thân phận của người có tài sản để trục lợi, thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản. Hành vi chiếm đoạt trong trường hợp này được xác định
nhẹ hơn tội ăn trộm thường, mục đích của việc ghi nhận tội phạm này là để
bảo vệ quyền sở hữu tài sản của các chủ thể có nguy cơ bị tội phạm xâm hại
trong những điều kiện, tình huống đặc biệt mà người có tài sản không có
điều kiện bảo quản, coi giữ. Quy định này được duy trì và áp dụng trong
suốt các giai đoạn của Nhà nước phong kiến, từ thời Lê - Trịnh. Dưới thời
phong kiến nhà Nguyễn (qua nghiên cứu Bộ luật của triều đại này - Hoàng
Việt luật lệ), những quy định từ thời Lê - Trịnh về Tội lừa đảo tiếp tục được
duy trì. Sau đó, mặc dù ở nước ta có tồn tại các bộ Hình luật Trung Kỳ; Hình
luật Bắc Kỳ; Hình luật Nam Kỳ nhưng những quy định liên quan đến Tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản vẫn được đề cập đến. Nói cách khác, hình luật
trong các thời kỳ phong kiến và trong thời kỳ Pháp thuộc đều có quy định:
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một tội phạm độc lập để bảo vệ quyền sở
hữu tài sản của các chủ tài sản.
1.3.2. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam
thời kỳ từ 1945 đến trước 1985
Ngay sau khi giành được độc lập, công cuộc xây dựng, quản lý nước
nhà bằng pháp luật bước đầu được quan tâm, pháp luật mới ra đời - pháp
21
luật dân chủ nhân dân - công cụ để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, bảo vệ
các quyền, lợi ích hợp pháp của người dân lao động, bảo vệ thành quản của
cách mạng. Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 quy định về trừng trị tội phá
hủy công sản, theo đó nếu người phạm tội thực hiện một trong các tội sau
đây sẽ bị phạt tù từ hai năm đến mười năm và có thể bị xử tử: 1) Cố ý phá
hoại một phần hay toàn thể các cầu cống hay sông đào, vận hà, nông giang,
thuộc công ích, đường xe lửa, các đường giao thông công hay tư đường bộ
hay đường thủy, đê đập, các công sở, kho tàng hoặc các nhà máy điện, máy
nước; 2) Cố ý hủy hoại hoặc ăn trộm các dây điện thoại, điện tín cùng các
cột dây điện và dây thép; 3) Đặt ở các nơi nói trên những khí cụ dùng để giết
người, đốt phá hay tác liệt.
Tiếp theo là Sắc lệnh số 233/SL ngày 17/01/1946 về trừng trị tội phù
lạm, biển thủ công quỹ, Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành hướng dẫn các Tòa án trừng trị một số tội phạm
xâm phạm sở hữu như trộm cắp, cướp của, lừa gạt, bội tín. Ngày 15/6/1956,
Chủ tịch nước ký Sắc lệnh số 267/SL trừng trị những âm mưu hoạt động phá
hoại tài sản của Nhà nước, Hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc
thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế và văn hóa. Văn bản này,
các tội xâm phạm tài sản, trong đó có Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tiếp tục
được qui định.
- Để củng cố thành quả mà cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đạt
được ở miền Bắc, bảo đảm sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực,
tập trung phát triển sản xuất để chi viện sức người, sức của cho miền Nam
ruột thịt, các quy định pháp luật về kinh tế, tài chính, dân sự, lao động, hình
sự từng bước được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu của quản lý đất nước trong
tình hình mới, ngày 21/10/1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh
22
trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Theo hai Pháp lệnh
trên, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được đề cập với tư cách là một tội phạm
độc lập Sắc lệnh số 68-SL ngày 18/6/1949 về bảo vệ các công trình thủy
nông; Bên cạnh đó, Nhà nước ta cũng quan tâm tới việc bảo vệ các tài sản
riêng của công dân bằng việc ban hành Thông tư 442-TTg ngày 19/1/1955
của Thủ tướng Chính phủ về một số tội phạm. Trong đó có đề cập tới tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên mới nêu tội danh mà chưa mô tả được cụ thể
hành vi phạm tội. Do yêu cầu khách quan và nhằm tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa, đấu tranh bảo vệ có hiệu quả tài sản xã hội chủ nghĩa và công
dân. Tòa án nhân dân tối cao cũng đã có nhiều văn bản hướng dẫn việc vận
dụng các quy phạm pháp luật vào công tác xét xử, ngày 23/10/1970 Nhà nước
ta đã thông qua hai pháp lệnh mới, đó là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm
phạm tài sản xã hội chủ nghĩa do Lệnh số 149-LCT ngày 23/10/1970 của Chủ
tịch nước công bố; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của
công dân do Lệnh số 150 - LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước công bố.
Hai pháp lệnh trên đã thay thế các luật lệ cũ về các tội phạm xâm phạm
sở hữu. Trong cả hai pháp lệnh này hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng
được quy định với hai tội danh cụ thể tương ứng với hai hình thức sở hữu
được quy định lúc đó là sở hữu tài sản xã hội chủ nghĩa và sở hữu tài sản
riêng của công dân. Theo đó, Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã
hội chủ nghĩa do Lệnh số 149-LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước công
bố quy định:
Điều 10. Tội lừa đảo để chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa
1. Kẻ nào dùng giấy tờ giả mạo, gian lận trong việc cân,
đong, đo, đếm, tính hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác chiếm đoạt
tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
23
a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b) Có tổ chức;
c) Có móc ngoặc;
d) Giả danh hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, xí nghiệp Nhà
nước, đơn vị bộ đội, đoàn thể nhân dân, hợp tác xã hoặc dùng thủ
đoạn xảo quyệt, nguy hiểm khác;
đ) Chiếm đoạt tài sản với số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị
đặc biệt;
e) Dùng tài sản chiếm đoạt vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu
cơ, đút lót hoặc vào những việc phạm tội khác;
Thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm.
3. Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn
hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân
hoặc bị xử tử hình [32, Điều 10].
Đối với tài sản công dân thì Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài
sản riêng của công dân do Lệnh số 150 - LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch
nước công bố quy định:
Điều 9. Tội lừa đảo để chiếm đoạt tài sản riêng của công dân
1. Kẻ nào dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản riêng
của công dân thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b) Có tổ chức;
c) Giả danh hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, xí nghiệp Nhà
nước, đơn vị bộ đội, đoàn thể nhân dân, hợp tác xã hoặc dùng thủ
đoạn xảo quyệt, nguy hiểm khác;
24
d) Gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt
hại hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác;
Thì bị phạt tù từ 2 năm đến 10 năm [33, Điều 9].
Về cơ bản hai tội trên đều có hành vi giống nhau đó là hành vi gian dối
chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc đang do người khác quản lý. Thủ đoạn
gian dối có thể bằng cách dùng mọi mánh khóe, bịp bợm, bằng lời nói, giả mạo
giấy tờ, giả danh cán bộ, giả mạo tổ chức… làm cho người quản lý tài sản tin
mà giao nhầm tài sản đó cho người phạm tội. Với những hành vi có cùng tính
chất nhưng lại tác động lên đối tượng là hai loại tài sản khác nhau đó là tài sản
xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân nên được quy định thành hai tội khác
nhau trong hai pháp lệnh. Tuy nhiên ở pháp lệnh thứ nhất, tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa coi lừa đảo là một số hành vi gian dối cụ thể của
những người trong khi giao dịch, mua bán với cơ quan nhà nước hay hợp tác xã
đã cố ý dùng mánh khóe gian lận thông thường như cân, đo, đong, đếm, tính
sai hoặc bằng cách khác để chiếm đoạt tài sản của cơ quan nhà nước hoặc hợp
tác xã mà mình giao dịch. Còn ở pháp lệnh thứ hai, tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản riêng của công dân chỉ quy định tội phạm một cách chung chung: "kẻ nào
dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản riêng của công dân…" trong khi
những hành vi gian lận bằng cách: cân, đo, đong, đếm, tính gian, không chấp
hành chính sách giá cả đã quy định, đánh tráo hàng…" được tách ra khỏi tội lừa
đảo để quy định thành một tội riêng tại Điều 10 Pháp lệnh là "Tội gian lận để
chiếm đoạt tài sản riêng của khách hàng".
Sau ngày thống nhất đất nước 30/4/1975, Nhà nước ta đã ban hành
thêm một số văn bản pháp luật hình sự mới trừng trị các tội xâm phạm sở
hữu. Cụ thể ở miền Nam, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời ban hành
Sắc lệnh số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định về tội phạm và hình phạt.
25
Tại Điểm b, Điều 4 Sắc luật số 03-SL/76 quy định như sau:
Phạm các tội chiếm đoạt tài sản khác như trộm cắp, tham ô,
lừa đảo, bội tín, cướp giật, cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép thì bị
phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì thì bị
phạt tù đến 15 năm. Phạm tội trộm cắp, tham ô, lừa đảo mà số tài
sản chiếm đoạt rất lớn hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng, hoặc
gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm, tù
chung thân hoặc tử hình.
Điều 8 Sắc luật 03-Sl/76 quy định về tội xâm phạm đến tài sản riêng
của công dân như sau:
a. Phạm tội cướp tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ 2
năm đến 12 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20
năm, từ chung thân hoặc tử hình.
b. Phạm các tội chiếm đoạt khác như trộm cắp, lừa đảo, bội
tín, cướp giật, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3
năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 10 năm.
Như vậy, ở thời điểm này trên hai miền Nam , Bắc tồn tại hai loại văn
bản pháp luật khác nhau cùng xử lý về một tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó
là: Hai pháp lệnh ngày 21/10/1970 và Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976.
Nội dung cơ bản của các văn bản này đều thống nhất về tội danh và đường lối
xử lý. Tuy nhiên so với các pháp lệnh, thì các quy định của Sắc luật chỉ nêu
tên tội danh mà không quy định cụ thể dấu hiệu pháp lý của tội phạm.
Để áp dụng thống nhất các văn bản pháp luật này, Tòa án nhân dân tối
cao đã ban hành Chỉ thị số 54/TATC ngày 6/7/1977 của Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn việc thi hành pháp luật thống nhất thì việc áp dụng pháp luật
đối với hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thống nhất như sau:
Ở miền Bắc vẫn áp dụng hai pháp lệnh ngày 21/10/1970. Ở miền Nam thì áp
26
dụng Sắc luật số 03 là chính, có tham khảo điều khoản tương ứng của Pháp
lệnh ngày 21/10/1970 để nắm rõ hơn dấu hiệu các tội phạm và áp dụng các
hình phạt hợp lý hơn.
Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự
năm 1985 có hiệu lực, pháp luật hình sự đã có quy định về loại tội phạm có
hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên do có nhiều loại văn bản
được ban hành và áp dụng ở hai miền Nam, Bắc khác nhau nên không tránh
khỏi những bất cập nhất định, nguyên tắc pháp chế khó được thực hiện. Vì
vậy cần phải pháp điển hóa các quy định trong các văn bản pháp luật này để
đảm bảo tính thống nhất. Bộ luật hình sự 1985, có hiệu lực từ ngày 01/1/1986
đã ra đời đáp ứng yêu cầu đó.
1.3.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam
thời kỳ từ 1985 đến trước 1999
Sau khi nước nhà thống nhất, nhận thức được vị trí, vai trò của pháp
luật hình sự trong việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, bảo vệ trật
tự xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, ngày 27/6/1985 Quốc hội đã
biểu quyết thông qua Bộ luật hình sự trên cơ sở pháp điển hóa những nguyên
tắc, chế định pháp luật hình sự của nước ta trước đây. Lần đầu tiên, Bộ luật
hình sự quy định tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được xác định là một tội
phạm được quy định tại Điều 131 (Tội cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt
tài sản xã hội chủ nghĩa) và Điều 154 (Tội cướp giật hoặc công nhiên chiếm
đoạt tài sản của công dân), nhưng về mặt kỹ thuật lập pháp, tội phạm này
được đặt trong cùng một điều luật với tội cướp giật tài sản với ba khung hình
phạt khác nhau ứng với mỗi tình tiết định khung tăng nặng. Theo đó, tội công
nhiên chiếm đoạt tài sản được xác định có cùng tính chất, đặc điểm và tính
27
nguy hiểm cho xã hội tương tự như tội cướp giật tài sản, sự khác biệt có
chăng chỉ là về hành vi phạm tội được mô tả trong mặt khách quan của tội
phạm; giữa hai tội phạm này có cùng các yếu tố định khung tăng nặng trách
nhiệm hình sự. Quy định này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác
điều tra, truy tố, xét xử đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, bảo đảm sự
thống nhất trong việc áp dụng pháp luật về đấu tranh phòng ngừa và chống
các hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản; khắc phục những tồn tại, hạn chế
trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các hành vi vi phạm pháp luật có tính
chất công nhiên chiếm đoạt tài sản nhưng không thể xác định thuộc cấu thành
nào của một trong các tội phạm có tính chất xâm phạm sở hữu.
Bước vào thời kỳ đổi mới, với việc xóa bỏ cơ chế kinh tế tập trung, bao
cấp, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
nhiều thành phần kinh tế được xác lập với nhiều hình thức sở hữu khác nhau,
các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Khi đó, việc phân định
các nhóm tội xâm phạm sở hữu thành xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và
xâm phạm sở hữu của công dân theo Bộ luật hình sự năm 1985 tỏ ra không
còn phù hợp do tính chất đa hình thức sở hữu. Hơn nữa, về dấu hiệu pháp lý,
các tội đó tuy nằm ở hai chương khác nhau nhưng đều có cùng đặc điểm, tính
chất, có chăng sự khác biệt chỉ là khách thể và đối tượng là tài sản chịu sự tác
động của tội phạm thuộc sở hữu của Nhà nước hay của công dân và trong
nhiều trường hợp, không phải lúc nào người phạm tội cũng có thể xác định
được tài sản đó là của Nhà nước hay công dân. Trước yêu cầu đó, ngày
21/12/1999 Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự mới thay thế cho Bộ luật
hình sự 1985, theo đó tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại
Điều 137 Bộ luật hình sự thành một tội phạm độc lập trên cơ sở tách khỏi tội
cướp giật tài sản và không phân biệt thành công nhiên chiếm đoạt tài sản xã
28
hội chủ nghĩa và công nhiên chiếm đoạt tài sản của công dân như Bộ luật hình
sự năm 1985 mà sáp nhập lại thành một tội phạm độc lập. Việc sáp nhập thể
hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về mặt pháp lý là không có sự
phân biệt đối với các thành phần kinh tế trong xã hội, mặt khác, nó cũng đáp
ứng được yêu cầu do thực tiễn xét xử đặt ra trong những năm qua, nhiều hành
vi xâm phạm tài sản của các đơn vị kinh tế thuộc sở hữu chung của nhiều
thành phần kinh tế như: Công ty cổ phần, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, liên doanh, liên kết… nhưng không thể xác định được người phạm tội
xâm phạm tài sản thuộc thành phần kinh tế nào.
So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 137 Bộ luật hình sự năm
1999 có nhiều sửa đổi, bổ sung, nhất là đối với các tình tiết là yếu tố định tội;
phân biệt ranh giới giữa hành vi là tội phạm với hành vi chưa tới mức phải xử
lý về hình sự - điểm khác biệt cơ bản so với Bộ luật hình sự năm 1985 khi
quy định về tội phạm này. Về hình phạt Điều 137 quy định nặng hơn Bộ luật
hình sự năm 1985 (mức cao nhất là từ chung thân, trong khi đó Điều 131 quy
định là hai mươi năm tù, còn Điều 154 là mười lăm năm tù). Về cơ cấu, tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản theo Điều 137 Bộ luật hình sự được cấu tạo
thành 05 khoản (Điều 131 và 154 Bộ luật hình sự năm 1985 về tội này chỉ có
03 khoản). Khoản 1 là cấu thành cơ bản có khung hình phạt tù từ sáu tháng
đến ba năm (nhẹ hơn khoản 1 Điều 131 và nặng hơn khoản 1 Điều 154 Bộ
luật hình sự năm 1985); khoản 2 có khung hình phạt tù từ hai năm đến bảy
năm (nhẹ hơn khoản 2 của hai Điều 131 và 154 Bộ luật hình sự năm 1985);
khoản 3 có khung hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm (nhẹ hơn khoản
3 Điều 131 và bằng khoản 3 Điều 154 Bộ luật hình sự 1985); khoản 4 có
khung hình phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân (là
khung hình phạt mới mà Điều 131 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985 không
có). Hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật 13, tr. 177.
29
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO BỘ LUẬT TỐ HÌNH SỰ 1999
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được qui định tại Điều 139 Bộ luật hình
sự 1999, theo đó tội phạm này có các đặc điểm pháp lý sau:
2.1. Khách thể và đối tượng tác động của Tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản
2.1.1. Khách thể
Khách thể của tội phạm là yếu tố quan trọng trong cấu thành tội phạm
thể hiện bản chất pháp lý và tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm là cơ
sở để xác định quan hệ xã hội bị hành vi phạm tội xâm hại và do đó là là căn
cứ để phân biệt các tội phạm với nhau. Trong khoa học pháp lý khái niệm
khách thể tội phạm được các công trình khoa học tương đối thống nhất. Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam của khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội đưa ra
định nghĩa như sau:
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Tội
phạm nào cũng xâm hại đến khách thể bảo vệ của luật hình sự, những quy
phạm pháp luật thuộc Phần thuộc các tội phạm Bộ luật hình sự thường không
trực tiếp nêu ra khách thể của tội phạm, song có thể xác định khách thể bằng
cách giải thích luật, phân tích nội dung quy phạm cụ thể quy định tội phạm ta
có thể biết được khách thể của tội phạm đó.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị bao giờ cũng thông qua Nhà
nước, bằng pháp luật xác lập và củng cố hệ thống các quan hệ xã hội phù hợp
với lợi ích và nền thống trị của giai cấp đó, đồng thời sử dụng pháp luật với
những loại biện pháp tác động khác nhau nhằm bảo vệ các quan hệ này tồn tại
và phát triển, tránh khỏi sự xâm hại của những hành vi phạm tội.
30
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành luật hình sự nhằm bảo vệ những
quan hệ xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của chế
độ xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân và trật
tự xã hội. Những quan hệ xã hội được Nhà nước xác định bảo vệ bằng các
quy phạm pháp luật hình sự là khách thể bảo vệ của luật hình sự.
Trong khoa học luật hình sự đã khẳng định một hành vi bị Nhà nước
coi là tội phạm do chúng gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho
các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Nói cách khác, tính nguy hiểm
của hành vi do xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là
dấu hiệu quan trọng nhất để xác định hành đó có phải là tội phạm hay
không. Vì vậy, khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm hại. Một quan hệ xã hội nào đó bị xâm hại
nhưng không được Nhà nước xác định bảo vệ bằng các quy phạm phạm
pháp luật hình sự thì không thể là khách thể của tội phạm và hành vi xâm hại
không bị coi là tội phạm.
Những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ là những
quan hệ xã hội được xác định trong Điều 1 và Điều 8 của Bộ luật hình sự: độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính
trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [18].
Khách thể của tội phạm là yếu tố không thể tách rời của tội phạm, tội
phạm bao giờ cũng xâm phạm đến một hoặc một số quan hệ xã hội được nhà
nước xác định bảo vệ bằng luật hình sự. Khái niệm khách thể của tội phạm
chỉ rõ bản chất giai cấp của luật hình sự, Nhà nước nào cũng sự dụng luật
hình sự để bảo vệ những quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích và nền thống trị
31
của giai cấp cầm quyền. Những hành vi xâm hại đến các quan hệ ấy bị Nhà
nước tuyên bố là tội phạm. Khách thể của tội phạm còn là một căn cứ phân
biệt tội phạm với những hành vi không phải là tội phạm. Nghiên cứu khái
niệm khách thể của tội phạm chúng ta nhận thức đầy đủ và sâu sắc nhiệm vụ
của luật hình sự và bản chất của tội phạm. Trong phần các tội phạm của
BLHS, khách thể của tội phạm là căn cứ quan trọng nhất để phân loại tội
phạm và hệ thống các quy phạm quy định các tội phạm hoàn thành.
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu về tài sản,
đây là quan hệ xã hội chủ yếu mà hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm hại.
Do đặc điểm của hành vi nên tội này chỉ xâm hại đến một khách thể là
quan hệ sở hữu tài sản. Đây là điểm khác giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
với một số tội xâm phạm sở hữu khác xâm hại đồng thời nhiều khách thể khác
nhau như tội cướp tài sản, cướp giật tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài
sản… vì các tội phạm này ngoài khách thể là quan hệ sở hữu, người phạm tội
còn nhằm đến khách thể quan trọng khác đó là quyền được bảo vệ về tính
mạng, sức khỏe của người bị hại.
Quan hệ sở hữu là quan hệ trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt tài sản được tôn trọng và bảo vệ. Quan hệ này bị tội phạm gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại thông qua việc làm biến đổi tình trạng bình thường
của những đối tượng vật chất (tài sản) là một bộ phận của quan hệ sở hữu.
Như mọi hành vi phạm tội khác, hành vi xâm phạm sở hữu cũng có đối
tượng tác động cụ thể đó là tài sản. "Tài sản gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và
các quyền tài sản" [21, Điều 163]. Tài sản là đối tượng của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản có thể thuộc bất cứ hình thức sở hữu nào được pháp luật thừa
nhận và phải được thể hiện dưới dạng vật chất, vì những gì không thuộc về
vật chất thì không thể là đối tượng của hành vi chiếm đoạt. Vì thế, không phải
mọi trường hợp của quyền tài sản đều là đối tượng tác động của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.
32
Ví dụ: Quyền tác giả đối với một tác phẩm nhưng không phía là đối
tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, còn những giấy tờ thể hiện
về quyền tài sản như hóa đơn lĩnh hàng… vẫn có thể là đối tượng của tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản trong những trường hợp nhất định.
Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng, xuất phát từ tính năng, công dụng đặc
biệt của tài sản mà một số tài sản không thể được coi là đối tượng của tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, mà là đối tượng của hành vi phạm tội khác: Ví dụ: tài
nguyên rừng, công trình, phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc,
các chất ma túy, các loại vũ khí quân dụng…
Pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng luôn bảo vệ quyền
sở hữu hợp pháp và chỉ bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp nên về nguyên tắc tài
sản được luật hình sự bảo vệ phải là tài sản hợp pháp. Nhưng điều đó không
có nghĩa những hành vi xâm phạm tài sản bất hợp pháp khác của công dân
không bị coi là tội phạm và vẫn bị coi là trái pháp luật và có thể cấu thành tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Ví dụ: vay tiền người khác nhưng không trả, bỏ trốn đi thời gian để
tránh tiếng đồn hoặc sợ gian hồ đến trả thù… hành vi trên có thể cấu thành tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
2.1.2. Đối tượng tác động của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận gắn liền với khách thể
của tội phạm, nên khi nghiên cứu khách thể tội phạm không thể tách rời bộ
phận này.
Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể
của tội phạm mà khi tác động tới bộ phận này người phạm tội gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ. Hành vi phạm tội tác động các bộ phận của quan hệ xã
hội là khách thể của tội phạm làm biến đổi trạng thái bình thường
33
của các bộ phận đó, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm. Với
quan điểm như vậy thì không thể tồn tại tội phạm mà không có đối
tượng tác động [14, tr. 141].
Nghiên cứu khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không thể
không nghiên cứu đến đối tượng tác động của tội phạm vì đây "là bộ phận của
khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ", hoặc
"là các vật thể của thế giới vật chất mà người phạm tội tác động đến khi thực
hiện sự xâm hại các khách thể xã hội do pháp luật hình sự bảo vệ" 8, tr. 354.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đối tượng tác động là tài sản nhưng
không phải là mọi tài sản mà trước hết phải là tài sản có giá trị và giá trị sử
dụng, tài sản đó phải thuộc về một chủ sở hữu cụ thể với các quy định có tính
chất pháp lý bằng quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt, ngoài ra, nó còn
phải có khả năng chuyển hóa được giữa các chủ sở hữu với nhau, có thể mua
bán, trao đổi một cách hợp pháp. Tài sản đó cũng có thể bao gồm các loại
giấy tờ mà nếu người phạm tội có nó thì họ có thể nhận được một số tiền hoặc
tài sản nhất định… Việc nhấn mạnh tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của
chủ sở hữu nhất định mới là đối tượng của tội phạm này không có nghĩa là
các hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản không hợp pháp thì không bị xử lý.
Tài sản là đối tượng tác động của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có
những đặc điểm sau: a. Tài sản được thể hiện dưới dạng vật chất, có giá trị và
giá trị sử dụng; là thước đo giá trị lao động được kết tính và phải thỏa mãn
được nhu cầu của con người; b. Tài sản là đối tượng của tác động của tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản phải có chủ sở hữu cụ thể với các qui định pháp lý thể
hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản; c. Tài sản là đối tượng của
tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải có khả năng chuyển hóa giữa
các chủ sở hữu với nhau; d. Tài sản là đối tượng của tác động của tội lừa đảo
34
chiếm đoạt tài sản còn được biểu hiện bằng các loại giấy tờ có giá; e. Tài sản
là đối tượng của tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải là những tài
sản thông thường, nếu là những tài sản đặc biệt sẽ không là đối tượng của Tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Từ những đặc điểm trên thì những tài sản sau không là đối tượng của
tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
- Vật không có giá trị và giá trị sử dụng;
- Tài sản vô chủ;
- Tài sản do tính chất và công dụng đặc biệt là đối tượng tác động của
các hành vi phạm tội khác. Ví dụ: Công trình, phương tiện giao thông vận tải,
thông tin liên lạc, các loại vũ khí quân dụng, tài nguyên rừng v.v…
- Vật khi không còn là tài sản vì đã bị chủ tài sản hủy bỏ, ví dụ: Gia
súc mắc bệnh đã bị chôn, tiêu hủy; thuốc chữa bệnh đã bị hủy bỏ, hết thời
hạn sử dụng.
- Tài sản được chôn cùng với người chết.
2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm,
trong đó hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản nhất, các biểu hiện khác như
hậu quả của tội phạm, công cụ, phương tiện… cũng chỉ thể hiện khi có hành
vi khách quan. Vì vậy việc nghiên cứu những yếu tố thuộc mặt khách quan
của tội phạm có ý nghĩa thực tiễn rất lớn.
Tội phạm là hành vi của con người, là thể thống nhất giữa những diễn
biến tâm lý bên trong của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và
những biểu hiện diễn ra bên ngoài mà ta có thể nhận biết trực tiếp bằng các
giác quan. Những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài bao gồm: hành vi nguy
hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả, các dấu hiệu biểu hiện sự thực hiện hành vi phạm tội và
35
gắn liền với hành vi như: công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, phạm
tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội. Tổng thể các biểu hiện trên đây
tạo thành mặt khách quan của tội phạm. Như vậy, mặt khách quan của tội
phạm là những biểu hiện ra bên ngoài trong thế giới khách quan. “Mặt khách
quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm các dấu hiệu biểu
hiện tội phạm diễn ra trong thể giới khách quan” [31, tr. 145]. Những biểu
hiện ra bên ngoài trong mặt khách quan của tội phạm bao gồm các dấu hiệu:
Hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ
nhân quả giữ hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi; những
dấu hiệu bên ngoài khác, như: thời gian, phương pháp, phương tiện, thủ đoạn
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội…. Tuy nhiên, các biểu hiện khách
quan của tội phạm có vị trí và ý nghĩa không giống nhau trong các cấu thành
tội phạm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong tất cả các cấu
thành tội phạm với ý nghĩa là dấu hiệu bắt buộc, không có hành vi nguy hiểm
cho xã hội thì không có cấu thành tội phạm. Các biểu hiện khác thuộc mặt
khách quan được quy định trong các cấu thành tội phạm có thể với ý nghĩa là
dấu hiệu định tội (dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản) hoặc là các dấu
hiệu định khung (dấu hiệu của cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc cấu thành
tội phạm giảm nhẹ).
Mặt khách quan là một yếu tố cấu thành tội phạm, các dấu hiệu thuộc
mặt khách quan có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, từ những biểu hiện khách
quan (mà đặc biệt là hành vi nguy hiểm cho xã hội) người ta xác định được tội
phạm đã xảy ra, làm rõ các yếu tố khác của cấu thành tội phạm như mặt chủ
quan, chủ thể và khách thể của tội phạm. Điều này hoàn toàn phù hợp với quá
trình biện chứng của nhận thức chân lý. Trong luật hình sự, nhà làm luật
thường tập trung mô tả những dấu hiệu khách quan đặc trưng, điển hình của
từng loại tội phạm vào nội dung cấu thành của chúng, tạo cơ sở để phân biệt
36
các tội phạm và định tội danh chính xác. Các dấu hiệu khách quan khác của
tội phạm khi được mô tả trong các cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm
nhẹ có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt, xác định mức độ nguy hiểm
của tội phạm đã thực hiện.
Mặt khách quan của tội phạm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có các
dấu hiệu đặc trưng sau:
2.2.1. Dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội
Trong mặt khách quan của tội phạm, hành vi nguy hiểm cho xã hội là
nội dung cơ bản nhất, được biểu hiện dưới hai hình thức hành động và không
hành động. Hình thức hành động là việc chủ thể làm một việc bị pháp luật
cấm và hành vi phạm tội bằng không hành đội là việc chủ thể không làm làm
việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm nhằm
tránh nguy cơ gây thiệt hại cho xã hội. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là xử sự
cụ thể của con người được thể hiện ra thế giới khách quan dưới những hình
thức nhất định, gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ. Con người là chủ thể có ý thức của xã hội, các
hành vi hay xử sự của con người, xét theo quan điểm của luật hình sự phải có
sự tham gia của lý trí và ý chí tức là phải được chủ thể nhận thức và điều
khiển. Những xử sự thể hiện ra thế giới khách quan nhưng không được chủ
thể nhận thức và điều khiển hoặc tuy nhận thức được nhưng không điều khiển
được thì không có ý nghĩa trong luật hình sự, không phải là hành vi thuộc mặt
khách quan của tội phạm. Vì vậy, những xử sự của con người thể hiện ra thế
giới bên ngoài đã gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ nhưng do cưỡng bức thân thể, không phải là kết
quả hoạt động ý chí của chủ thể thì không phải là hành vi phạm tội. Xử sự
trong trường hợp này là hậu quả của sự tác động trực tiếp của sức mạnh từ
bên ngoài đưa lại, không được chủ thể nhận thức và điều khiển. Hành vi có
37
tính chất nguy hiểm cho xã hội được chủ thể nhận thức và điều khiển chỉ bị
coi là hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm nếu có đầy đủ những đặc
điểm của một hành vi phạm tội nào đó đã được quy định trong luật hình sự
tức là trái với luật hình sự.
Như vậy, với ý nghĩa là một biểu hiện hay dấu hiệu thuộc mặt khách
quan của tội phạm, hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là hoạt động cụ thể
được chủ thể nhận thức và điều khiển, có nội dung trái với các yêu cầu và đòi
hỏi của pháp luật hình sự. Hành vi nguy hiểm cho xã hội được biểu hiện dưới
hai hình thức: Hành động phạm tội và không hành động phạm tội.
Theo Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 thì hành vi khách quan của Tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản có những đặc trưng sau:
Hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thể
hiện dưới hai hành vi thực tế là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản.
- Hành vi lừa dối: Là hành vi cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật
nhằm để người khác tin đó là sự thật, tự nguyện trao tài sản cho người phạm
tội. Trên thực tế hành vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được
hợp thành bởi hai yếu tố:
Thứ nhất, đó là hành vi đưa ra những thông tin gian dối. Hành vi này
thể hiện là hành động có chủ đích của người phạm tội. Người phạm tội biết rõ
đó là những thong tin giả nhưng mong muốn người khác tin đó là sự thật.
Hành vi này có thể được thực hiện bằng lời nói, hành động hoặc những biểu
hiện khác nhằm cung cấp những thông tin sai lệch về sự việc như nói có thành
không, ít thành nhiều, xấu thành tốt, giả thành thật….
Thứ hai, chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đã nhầm lẫn, tin tưởng
vào những thông tin không đúng sự thật ấy mà trao tài sản cho người phạm
tội. Khi giao tài sản, chủ tài sản không biết mình bị lừa dối. Họ có thể phát
hiện ra ngay sau khi trao tài sản nhưng bản chất của hành vi chiếm đoạt vẫn
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT

More Related Content

What's hot

Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
BÀI GIẢNG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
BÀI GIẢNG TƯ PHÁP QUỐC TẾ BÀI GIẢNG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
BÀI GIẢNG TƯ PHÁP QUỐC TẾ nataliej4
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
 
BÀI GIẢNG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
BÀI GIẢNG TƯ PHÁP QUỐC TẾ BÀI GIẢNG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
BÀI GIẢNG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên QuangLuận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội sử dụng mạng internet chiếm đoạt tài sản, HAY
Luận văn: Tội sử dụng mạng internet chiếm đoạt tài sản, HAYLuận văn: Tội sử dụng mạng internet chiếm đoạt tài sản, HAY
Luận văn: Tội sử dụng mạng internet chiếm đoạt tài sản, HAY
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOTLuận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
 

Similar to Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT

Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đĐịnh tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

Similar to Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT (20)

Luận văn: Điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại TPHCM
Luận văn: Điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại TPHCMLuận văn: Điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại TPHCM
Luận văn: Điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại TPHCM
 
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đĐịnh tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tình hình các tội chiếm đoạt tài sản tại TP Hải Dương
Luận văn: Tình hình các tội chiếm đoạt tài sản tại TP Hải DươngLuận văn: Tình hình các tội chiếm đoạt tài sản tại TP Hải Dương
Luận văn: Tình hình các tội chiếm đoạt tài sản tại TP Hải Dương
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAYĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
 
Luận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật, HOT
Luận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật, HOTLuận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật, HOT
Luận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật, HOT
 
Luận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự
Luận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sựLuận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự
Luận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HAY
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HAYTội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HAY
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HAY
 
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOTTội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
 
Tội tham ô tài sản trong Luật hình sự VN.doc
Tội tham ô tài sản trong Luật hình sự VN.docTội tham ô tài sản trong Luật hình sự VN.doc
Tội tham ô tài sản trong Luật hình sự VN.doc
 
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sựLuận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
 
Đề tài: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự, HOT
Đề tài: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự, HOTĐề tài: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự, HOT
Đề tài: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 

Recently uploaded (20)

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 

Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ THỊ HẠNH TéI LõA §¶O CHIÕM §O¹T TµI S¶N TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu xÐt xö ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ THỊ HẠNH TéI LõA §¶O CHIÕM §O¹T TµI S¶N TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu xÐt xö ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng) Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN NGÔ THỊ HẠNH
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN.................................................................. 7 1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam ............................................................................... 7 1.2. Sự cần thiết của việc quy định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong đấu tranh xử lý, phòng chống tội phạm .......................12 1.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam ......18 1.3.1. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến.....................................................................................18 1.3.2. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ từ 1945 đến trước 1985.................................................................20 1.3.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ từ 1985 đến trước 1999.................................................................26 Chương 2: ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO BỘ LUẬT TỐ HÌNH SỰ 1999.............29 2.1. Khách thể và đối tượng tác động của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản........................................................................................29 2.1.1. Khách thể ...........................................................................................29 2.1.2. Đối tượng tác động của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản....................32
  • 5. 2.2. Mặt khách quan của tội phạm........................................................34 2.2.1. Dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội............................................36 2.2.2. Hậu quả của tội phạm ........................................................................42 2.2.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm ..........47 2.3. Chủ thể của tội phạm.......................................................................47 2.4. Mặt chủ quan của tội phạm............................................................50 2.4.1. Dấu hiệu lỗi........................................................................................50 2.4.2. Dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội...............................................51 2.5. Hình phạt và các biện pháp tư pháp..............................................52 2.5.1. Hình phạt............................................................................................52 2.5.2. Các biện pháp tư pháp .......................................................................58 2.6. Phân biệt Tội lừa đảo với một số tội phạm khác ..........................59 2.6.1. Phân biệt Tội lừa đảo đoạt tài sản với Tội trộm cắp tài sản ..............59 2.6.2. Phân biệt Tội lừa đảo đoạt tài sản với cướp tài sản...........................60 2.6.3. Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với Tội tham ô tài sản......63 2.6.4. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ...................................................................63 Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT..........66 3.1. Thực trạng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng......................................................................................66 3.1.1. Một số Đặc điểm về vị trí địa lý và kinh tế xã hội của Đà Nẵng ảnh hưởng tới tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .....................66 3.1.2. Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ 2011 đến 2015 ..............68 3.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự .........................................................76 KẾT LUẬN....................................................................................................81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................83
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ Luật hình sự HĐTP: Hội đồng thẩm phán TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TNHH: Trách nhiệm hữu hạn TP: Thành phố UBND: Ủy ban nhân dân
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1: Tình hình xét xử tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Đà Nẵng từ năm 2011-2015 69 Bảng 2.2: Hình phạt được áp dụng đối với bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ năm 2011 - 2015 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng 70 Bảng 2.3: Cơ cấu độ tuổi người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 75
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tài sản và quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền quan trọng, thân thiết nhất của con người và luôn chiếm được sự quan tâm đặc biệt của các nhà lập pháp của bất kỳ quốc gia nào. Hiến pháp và pháp luật Việt Nam luôn khẳng định sở hữu là một quyền thiêng liêng được nhà nước bảo hộ chống lại mọi hành vi xâm hại. Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định: 1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. 2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. 3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường [23, Điều 32]. Luật hình sự với vai trò bảo vệ, đã qui định hệ thống các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh, xử lý và phòng ngừa loại tội phạm này. Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 qui định cấu thành của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với đặc điểm sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác, đồng thời cũng qui định các loại, mức hình phạt áp dụng đối với người phạm tội. Trên cơ sở qui định này tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng khác áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong quá trình tố tụng quyết vụ án một cách chính xác, khách quan công bằng và có hiệu quả. Thực tiễn đấu tranh, xử lý tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội lừa
  • 9. 2 đảo nói riêng cho thấy tính phức tạp, gia tăng, gây thiệt hại lớn cho tài sản của nhà nước và tài sản của công dân, ảnh hưởng đến trật tự chung của xã hội. Trong giai đoạn nền kinh tế đất nước đang phát triển theo cơ chế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý và chính sách pháp luật không phải lúc nào cũng ngay lập tức phù hợp với thực trạng nền kinh tế, do đó tình hình tội phạm có nhiều chuyển biến, đặc biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được thực hiện với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn, có nhiều vụ án chiếm đoạt hàng ngàn tỷ đồng của nhà nước, có nhiều trường hợp lợi dụng những việc giao kết hợp đồng đầu tư, hợp đồng vay vốn hoặc sử dụng công nghệ khoa học tiên tiến về tin học để làm thẻ tín dụng giả, tìm kiếm mật mã số tài khoản của người khác để rút tiền qua ngân hàng hoặc qua ngân hàng điện tử (ATM)… nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bộ Luật hình sự do nhà nước ban hành quy định các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và quy định chế tài tương ứng nhằm trừng trị và giáo dục đối với những người phạm tội và cũng như răn đe phòng ngừa chung đối với toàn xã hội nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của mọi tổ chức và lợi ích của công dân, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, trong từng điều luật cụ thể các nhà làm luật chỉ có thể quy định các dấu hiệu đặc trưng cơ bản nhất của một cấu thành tội phạm, trong thực tế tội phạm xảy ra với muôn hình muôn vẻ, vô cùng đa dạng và phức tạp, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng vậy, chỉ được quy định trong Bộ Luật hình sự bởi những dấu hiệu đặc trưng nhất. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ nội dung pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và thực trạng và các biện pháp đấu tranh phòng ngừa thích hợp là điều quan trọng nhất, nhằm góp phần áp dụng pháp luật một cách đúng đắn khi xử lý người phạm tội, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng trong xã hội và trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
  • 10. 3 Với lý do nêu trên, để khắc phục tình trạng này, học viên quyết định lựa chọn đề tài: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Viê ̣t Na m (trên cơ sở số liệu xét xử địa bàn thành phố Đà Nẵng)” để làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Để thực hiện được đề tài này, tác giả luận văn đã tham khảo các giáo trình, bài viết chuyên sâu cũng như các sách chuyên khảo, bình luận khoa học về luật hình sự, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ của nhiều tác giả như: Uông Chu Lưu (chủ biên, 2004), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 (Phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Mai Văn Bộ (2010), “Chương XIV: Các tội xâm phạm sở hữu” trong sách: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, (phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (2005), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Đức Mai (chủ biên, 2010), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm, Tập II), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Tiến Dũng (2014), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội... Trong các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã nghiên cứu rất sâu sắc về các dấu hiệu pháp lý của loại tội phạm này, tuy nhiên chưa có công trình khoa học nào đề cập đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong mối liên hệ với một địa bàn cụ thể là thành phố Đà Nẵng, nhất là trong bối cảnh Đà Nẵng là đô thị đang phát triển nhanh về mọi mặt, đặc biệt sự di chuyển tội phạm của các tỉnh thành khác nhập cư vào thành phố Đà Nẵng và các cả tội
  • 11. 4 phạm quốc tế đã và đang làm tăng tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Luận văn nghiên cứu về thực trạng và diễn biến của loại tội phạm này ở thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở đó, tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đưa ra các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm một cách hữu hiệu, hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm giảm bớt những thiệt hại xảy ra, đem lại sự tin tưởng vào pháp luật cho mọi người dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Mục đích của đề tài: trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và thực trạng tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để đưa ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng ngừa loại tội phạm này. - Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình thực hiện đề tài tác giả đặt ra cho mình các nhiệm vụ sau đây: a) Làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999. b) Phân tích thực tiễn xét xử loại tội phạm này tại địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 để thấy được các yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến tình hình tội phạm này. c) Phân tích làm sáng tỏ tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 trên cơ sở gắn với các đặc điểm cụ thể của thành phố Đà Nẵng. d) Đưa ra những kiến nghị đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự liên quan đến tội danh này.
  • 12. 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: Các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phân tích tình hình và diễn biến của tội phạm để rút ra những điểm thành công cũng như thiếu sót trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, phân tích, nguyên nhân và điều kiện cũng như các giải pháp đấu tranh, phòng chống tội phạm này. - Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ luật hình sự trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 5. Cơ sở phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, tác giả còn dựa trên các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Khi viết đề tài tác giả có sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự và tội phạm học như: phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích và so sánh, phương pháp tổng hợp. Ngoài ra, còn một số phương pháp khác cũng được áp dụng như: phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp chuyên gia... 6. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp mới của đề tài Trong phạm vi của đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. - Về mặt lý luận: đề tài góp phần hoàn thiện nội dung quy định của Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999, đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự.
  • 13. 6 - Về mặt thực tiễn: những đề xuất giải pháp nêu trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Ngoài ra, đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các lực lượng tham gia phòng, chống loại tội phạm này không những ở thành phố Đà Nẵng mà còn có thể áp dụng trên địa bàn tỉnh, thành phố khác có điều kiện tương tự. - Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và toàn diện về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các giải pháp đấu tranh phòng, chống hiệu quả đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Chương 2: Đặc điểm pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Bộ luật hình sự 1999. Chương 3: Thực trạng xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật.
  • 14. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam Khái niệm tội phạm được hình thành trong quá trình phát triển, hoàn thiện luật hình sự Việt Nam, khái niệm này được ra đời lần đầu tiên trong Bộ luật hình sự 1985 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (được thông qua kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VII, ngày 27/06/1985). Khái niệm này đã phản ánh một cách khá đầy đủ các quy định về tội phạm và xác định cụ thể hành vi nào là tội phạm. Đến ngày 21/12/1999 tại kỳ họp thứ 6 khóa X Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự mới sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự năm 1985. Bộ luật này đã sửa đổi khái niệm về “Tội phạm” để phù hợp với hoàn cảnh thực tế, Bộ luật hình sự 1999 được thông qua, trên cơ sở kế thừa và phát huy những nguyên tắc, chế định hình sự pháp luật của nước ta. Điều 8 BLHS 1999 quy định định nghĩa tội phạm như sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa” Trên cơ sở khái niệm tội phạm, Bộ luật hình sự 1999 qui định các nhóm tội phạm ở phần “Các tội phạm” trong đó có các tội xâm phạm sở hữu.
  • 15. 8 Khoa học hình sự đã đưa ra khái niệm chung đối với các tội xâm phạm sở hữu như sau: “Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi của người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân” 5, tr. 181. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong các tội xâm phạm sở hữu, vì vậy khái niệm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn khái niệm chung của các tội xâm phạm sở hữu, đồng thời phải thỏa mãn các các dấu hiệu đặc thù nói riêng. Căn cứ vào quy định tại Khoản 1 Điều 139 của Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có những đặc điểm sau: Thứ nhất, lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi xâm hại đến quyền sở hữu của người khác, thể hiện tính nguy hiểm cao cho xã hội cần được hình sự hóa là tội phạm trong luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là dấu hiệu cơ bản nói lên bản chất chính trị, xã hội của tội phạm, dấu hiệu này được coi là dấu hiệu nội dung quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Một hành vi sở dĩ bị quy định trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự vì nó có tính nguy hiểm cho xã hội do đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Tầm quan trọng của quan hệ xã hội do tính chất của quan hệ đó trong các thang giá trị xã hội do giai cấp thống trị thiết lập. Do đó, tính chất của quan hệ xã hội có thể bị thay đội ở những xã hội khác nhau hoặc ngay trong một chế độ xã hội nhưng ở những thời kỳ khác nhau thì tính chất của quan hệ xã hội cũng có thể thay đổi. Điều đó đòi hỏi nhà làm luật khi xem xét tính chất quan trọng của quan hệ xã hội để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phải dựa trên hoàn cảnh lịch sử cụ thể, xuất phát từ lợi ích giai cấp, trên lập trường giai cấp. Tuy nhiên, tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại không thể là yếu tố duy nhất phản ánh mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành
  • 16. 9 vi mà chỉ khi được kết hợp với những yếu tố khác nó mới phản ánh hành vi là nguy hiểm đã đến mức coi là tội phạm và cần phải xử lý bằng chế tài hình sự hay không. Tính nguy hiểm cho xã hội được phản ánh ở hai đại lượng: tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi. Tính chất của hành vi là đặc tính về "chất" của thiệt hại, được xác định căn cứ vào tính chất của quan hệ xã hội bị thiệt hại, quan hệ xã hội càng quan trọng thì tính chất của thiệt hại càng nghiêm trọng. Mức độ của thiệt hại là đặc tính về "lượng" của thiệt hại, tùy theo từng loại thiệt hại mà mức độ đó được biểu hiện khác nhau. Vì vậy, tính chất và mức độ của thiệt hại là một căn cứ để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, khi kết hợp với các căn cứ khác nó phản ánh một hành vi là nguy hiểm "đáng kể" hay "không đáng kể" cho xã hội, tạo cơ sở để nhà làm luật tội phạm hóa và phi tội phạm hóa. Trên cơ sở tiếp cận này, Bộ luật hình sự 1999 qui định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do nó đã xâm hại đến sở hữu của nhà nước, tập thể, cá nhân là quan hệ xã hội được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, không những xâm hại đến sở hữu mà còn xâm hại đến sự phát triển của các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, cũng như xâm hại đến trật tự an toàn xã hội… Vì vậy, việc qui định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác trong luật hình sự là cần thiết, góp phần bảo vệ sở hữu nhà nước, sở hữu của tập thể là cá nhân thông qua đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và trật tự an toàn xã hội. Thứ hai, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nằm trong nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, do đó nó cũng có hành vi chiếm đoạt như những tội chiếm đoạt khác. Điểm khác biệt là ở chỗ, hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối là cho chủ sở hữu nhầm tưởng tự nguyện trao tài sản cho người phạm tội. Chiếm đoạt còn được hiểu là "chiếm của người khác bằng cách dựa vào quyền hành, sức mạnh vũ lực" 36, tr. 1483.
  • 17. 10 Dưới góc độ pháp luật hình sự "chiếm đoạt tài sản" là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình 31, tr. 366, hoặc "hành vi cố ý chuyển biến một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình hoặc của một nhóm người hoặc cho người khác mà mình quan tâm" 31, tr. 366. Hành vi chiếm đoạt tài sản có đặc điểm sau đây: a. Xét về mặt khách quan, hành vi chiếm đoạt là hành vi làm cho chủ tài sản (người là chủ sở hữu tài sản hoặc người có quyền quản lý tài sản) mất hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trái pháp luật tài sản đó. Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực tế là quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài sản đó, quá trình này xét về mặt pháp lý không làm cho chủ sở hữu mất quyền sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể của quyền sở hữu. Hành vi chiếm đoạt được thể hiện dưới những dạng hành vi cụ thể khác nhau tùy thuộc vào mối quan hệ cụ thể giữa người chiếm đoạt với tài sản chiếm đoạt cũng như vào hình thức chiếm đoạt cụ thể. b.Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt đòi hỏi phải có đặc điểm là còn nằm trong sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm soát của chủ tài sản. Nếu tài sản đã thoát ly khỏi sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm soát của chủ tài sản (bị thất lạc) thì không còn là đối tượng của hành vi chiếm đoạt. Chỉ khi tài sản còn đang do chủ tài sản chiếm hữu thì mới có thể nói đến hành vi chiếm đoạt, mới nói đến hành vi làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản. c. Xét về mặt chủ quan, chiếm đoạt là hành vi được người phạm tội thực hiện có chủ đích nên lỗi của người có hành vi chiếm đoạt là lỗi cố ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản đang có người quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản
  • 18. 11 của mình. Những trường hợp lầm tưởng là tài sản của mình hoặc tài sản không có người quản lý đều không phải là trường hợp có hành vi chiếm đoạt. Như vậy, hành vi chiếm đoạt tài sản được coi là bắt đầu khi người phạm tội bắt đầu thực hiện việc làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản, để tạo khả năng đó cho mình. Khi người phạm tội đã làm chủ được tài sản chiếm đoạt thì lúc đó hành vi chiếm đoạt được coi là đã hoàn thành, người phạm tội coi là đã chiếm đoạt được tài sản. Dấu hiệu chiếm đoạt có thể là mục đích chiếm đoạt, là hành vi chiếm đoạt hoặc là chiếm đoạt được. Việc chiếm đoạt tài sản của người khác ở tội lừa đảo được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối, là dấu hiệu để phân biệt với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác. Thủ đoạn gian dối, theo định nghĩa của giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội thì: “Gian dối chiếm đoạt tài sản là việc người phạm tội đưa ra những thông tin không đúng sự thật là cho chủ sở hữu hoặc người quan lý nhầm tưởng, tự nguyện trao tài sản cho người phạm tội” 8, tr. 271. Thứ ba, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện bởi lỗi cố ý. Tội phạm là một thể thống nhất của hai mặt khách quan và mặt chủ quan, nếu mặt khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài thì mặt chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội, hai bộ phận này của yếu tố tội phạm có quan hệ mật thiết với nhau, luôn gắn bó với nhau. Hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội luôn được thể hiện thông qua những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, do vậy, muốn nhận thức biết được mặt chủ quan của tội phạm phải thông qua một quá trình nhận thức theo một phương pháp biện chứng. Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự - lỗi, tức là thái độ tâm lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị do mình thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó.
  • 19. 12 Theo Điều 9 Bộ luật hình sự, lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Theo qui định này thì Tội lừa đào chiếm đoạt tài sản được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi phạm tội và có thái độ mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác. Từ những phân tích này, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những điểm hợp lý trong khái niệm về tội phạm của Bộ luật hình sự 1999 và những vấn đề đã được thực tiễn áp dụng pháp luật kiểm nghiệm, có thể đưa ra định nghĩa khoa học về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối, cung cấp thông tin sai sự thật làm cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản nhầm tưởng tự nguyện trao tài sản cho người phạm tội. 1.2. Sự cần thiết của việc quy định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong đấu tranh xử lý, phòng chống tội phạm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội phạm mang tính “truyền thống”, nó hiện diện trong luật hình sự của các quốc gia, trong mọi thời kỳ lịch sử. Ở nước ta, trước khi ra đời Bộ luật hình sự 1985 (Bộ luật hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã có tội phạm này trong các văn bản luật đơn hành như: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng công dân năm 1970…
  • 20. 13 Điều đó cho thấy, việc qui định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là cần thiết và tất yếu trong đấu tranh, xử lý, phòng ngừa tội phạm bảo vệ quyền sở hữu về tài sản của nhà nước, tổ chức và cá nhân. Sự cần thiết đó thể hiện trên các khía cạnh sau: a. Việc quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm cơ sở để xác định mức giới hạn phải chịu trách nhiệm hình sự với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung, để phòng chống các tội phạm thì cũng phải dựa vào khái niệm cơ bản tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trên cơ sở quy định dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khác với tội phạm khác hoặc các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Từ đó, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mới định hướng về ban hành thể chế, chính sách, tuyên truyền giáo dục trong xã hội ngày càng rõ nét đối với tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Qua đó giúp cho xã hội có những biện pháp nhằm kiểm soát, quản lý quyền sở hữu tài sản tốt hơn. Đồng thời việc quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ngoài dấu hiệu gian dối, giá trị tài sản chiếm đoạt phải đạt mức thấp nhất là hai triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc từ dưới hai triệu đồng nhưng gây hiệu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội danh này. Trách nhiệm hình sự là một nội dung thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân người phạm tội, mà ở đó Nhà nước thể hiện sự phản ứng có tính chất phủ định của mình đối với hành vi phạm tội và người phạm tội. Trong hoạt động quản lý, Nhà nước không những tạo lập sự cân bằng, điều tiết xã hội, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và các vấn đề xã hội đồng thời thông qua các qui định của luật hình sự nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội thống trị, trong đó có quan hệ sở hữu.
  • 21. 14 Chính sách hình sự đối với các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được hiểu là những đánh giá có tính định hướng của Nhà nước về việc có cần thiết phải xử lý người thực hiện hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cụ thể bằng pháp luật hình sự hay không và nếu cần thiết thì hình thức và mức độ của các hậu quả pháp lý được áp dụng sẽ như thế nào. Nếu Nhà nước đánh giá một hành vi nào đó có mức độ nguy hiểm đáng kể, cần thiết phải xử lý bằng các biện pháp hình sự nghiêm khắc mới đạt được mục đích răn đe và phòng ngừa chung thì hành vi đó sẽ bị coi là tội phạm và đi kèm với nó các hậu quả pháp lý bất lợi (trách nhiệm hình sự) sẽ được quy định, áp dụng đối với người thực hiện hành vi đó. Trong trường hợp Nhà nước thấy chỉ cần áp dụng các biện pháp xử lý hình sự trong một chừng mực nhất định hoặc chỉ cần xử lý bằng biện pháp phi hình sự khác thì sẽ có những quy định giới hạn về việc coi là tội phạm cũng như loại và mức trách nhiệm pháp lý có thể áp dụng. Như vậy, có thể thấy, dưới góc độ thực tế thì cơ sở của việc xác lập trách nhiệm hình sự đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thể hiện ở hai nội dung: (1) Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của nhóm tội phạm hay tội phạm cụ thể; và (2) Chính sách hình sự của Nhà nước đối với nhóm tội phạm hay tội phạm cụ thể đó. Ở góc độ pháp lý hình sự thì trách nhiệm hình sự được đặt ra khi có đủ các yếu tố sau: (1) Chủ thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo luật định; (2) Chủ thể đã thực hiện một (hoặc nhiều) hành vi được Luật hình sự quy định là tội phạm; (3) Còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và chủ thể đó không được miễn trách nhiệm hình sự theo luật định. Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự là căn cứ có tính chất bắt buộc chung do luật hình sự quy định và phải dựa vào đó, các cơ quan Nhà nước có
  • 22. 15 thẩm quyền mới có thể đặt vấn đề trách nhiệm hình sự của người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được luật hình sự quy định là tội phạm. Ở nước ta, cơ sở của trách nhiệm hình sự được ghi nhận tại Điều 2 Bộ luật hình sự: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Có thể nhận thấy quy định vừa nêu bao hàm hai nội dung: Thứ nhất, chỉ người nào phạm tội mới phải chịu trách nhiệm hình sự; Thứ hai, tội phạm phải được quy định trong Bộ luật hình sự. Từ những phân tích nêu trên có thể khẳng định sự kiện pháp lý duy nhất làm phát sinh trách nhiệm hình sự chỉ có thể là tội phạm. Tội phạm, hiểu theo ý nghĩa pháp lý hình sự, là hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm do luật định. Căn cứ pháp lý của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế hay bất kỳ tội phạm nào khác chính là cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm của Tội lừa đảo được qui định trong Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung). Trong lĩnh vực khoa học pháp lý hình sự từ trước đến nay mặc dù vẫn còn có những quan điểm khác nhau về vị trí của các yếu tố cấu thành tội phạm, nhưng có một nội dung mà tất cả đều thống nhất đó là cụ thể hóa cơ sở của trách nhiệm hình sự là việc hành vi đã thực hiện thỏa mãn các dấu hiệu do luật định về tội phạm, được phản ánh trong cấu thành tội phạm các tội phạm cụ thể. Điều này có nghĩa là phân tích cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với các tội lừa đảo thực chất là phân tích các dấu hiệu pháp lý đặc trưng có ý nghĩa định tội. b. Trách nhiệm hình sự được biểu hiện ra bên ngoài bằng các hình thức cụ thể phản ánh mức độ phải chịu trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Hình thức trách nhiệm hình sự (hay hình thức biểu hiện cụ thể của trách nhiệm hình sự, dạng của trách nhiệm hình sự) chính là dạng hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu do việc đã thực hiện tội phạm.
  • 23. 16 Trong các hình thức của trách nhiệm hình sự thì phổ biến nhất và nghiêm khắc nhất là hình phạt và kèm theo nó là án tích. Trong khoa học pháp lý hình sự thì tội phạm luôn gắn liền với hình phạt, hay nói cách khác hình phạt chính là hậu quả pháp lý bất lợi thường thấy của tội phạm. Do vậy, một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm thì việc họ bị đe dọa áp dụng hình phạt với tính chất là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là điều khó tránh khỏi. Đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thì hình phạt được quy định ngay trong chế tài của các tội phạm (chương XVI – Bộ luật hình sự năm 1999, đã được sửa đổi, bổ sung). Trên các diễn đàn khoa học pháp lý và trong một số sách báo pháp lý cũng có ý kiến đồng nhất trách nhiệm hình sự với hình phạt - hậu quả bất lợi nhất mà người phạm tội phải gánh chịu do hành vi phạm tội của họ. Tuy nhiên, theo chúng tôi thì trách nhiệm hình sự và hình phạt tuy có mối quan hệ mật thiết, khăng khít với nhau nhưng lại là hai khái niệm riêng biệt. Trong phần lớn các trường hợp phạm tội, trách nhiệm hình sự được thực hiện thông qua việc áp dụng biện pháp cưỡng chế Nhà nước mang tính nghiêm khắc nhất - đó là hình phạt, bởi hình phạt là hình thức trách nhiệm hình sự mang tính phổ biến nhất mà Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội. Hình phạt thực chất là một hình thức biểu hiện cụ thể của hậu quả pháp lý bất lợi đối với người phạm tội. Tuy nhiên, do trách nhiệm hình sự và hình phạt đều gắn liền với tội phạm và chịu hình phạt là hình thức biểu hiện trách nhiệm phổ biến nên không có sự phân định rạch ròi hai khái niệm này trên thực tế. Ý nghĩa của việc phân biệt chúng, theo chúng tôi, cũng chỉ mang tính lý luận. Chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm cho rằng trách nhiệm hình sự đối với Tội lừa đảo không chỉ bó hẹp ở nghĩa vụ phải chịu hình phạt được quy định đối với tội phạm này, mà còn bao gồm cả nghĩa vụ chịu sự tác động của các hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, bị áp dụng các
  • 24. 17 biện pháp cưỡng chế trách nhiệm hình sự (hình phạt và các biện pháp tư pháp) và bị mang án tích. Thậm chí, đối với cả các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự thì trước khi xem xét tha miễn trách nhiệm hình sự, tính chất tội phạm của hành vi mà người đó đã thực hiện và nghĩa vụ pháp lý phải gánh chịu các biện pháp tác động mang tính hình sự (trách nhiệm hình sự) cũng vẫn được khẳng định. Miễn trách nhiệm hình sự chỉ có thể được áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội, bởi trách nhiệm hình sự phát sinh ngay tại thời điểm người nào đó thực hiện hành vi phạm tội. Quyết định miễn trách nhiệm hình sự của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền vừa là căn cứ pháp lý ghi nhận hành vi của người được miễn trách nhiệm hình sự là tội phạm và trách nhiệm hình sự của họ, vừa là căn cứ chấm dứt trách nhiệm hình sự đối với họ, do đã thoả mãn điều kiện được miễn trách nhiệm hình sự 35. Người được miễn trách nhiệm hình sự không phải gánh chịu trên thực tế những hậu quả bất lợi mà luật quy định cho người đã thực hiện tội phạm đó, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thấy rằng việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt hay các dạng trách nhiệm hình sự khác trong trường hợp này là không cần thiết và vì thế họ được miễn trách nhiệm hình sự. Khi người phạm tội bị tác động bởi hình thức trách nhiệm hình sự phổ biến là hình phạt, hay ngay cả trong trường hợp được miễn hình phạt thì đều có hậu quả là họ bị mang án tích trong một thời hạn nhất định và bị ghi vào lý lịch tư pháp. Trong thời gian chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới thì tùy từng trường hợp họ sẽ bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Đối với các Tội lừa đảo, hình thức trách nhiệm hình sự được quy định trong luật và quyết định trên thực tế cũng có những nét khác biệt so với các hình thức trách nhiệm hình sự được quy định và quyết định đối với người phạm tội thuộc nhóm tội khác. Sự khác biệt này xuất phát từ tính chất nguy hiểm cho xã hội của nhóm tội xâm phạm sở hữu và chính sách hình sự của Nhà nước đối với nhóm tội phạm này.
  • 25. 18 Trong xu thế mới, tiến bộ, các biện pháp tác động về kinh tế, tài sản đối với người phạm tội lừa đảo (như phạt tiền, tịch thu tài sàn, tịch thu tiền, vật trực tiếp liên quan đến tội phạm và buộc phải bồi thường thiệt hại) ngày càng được chú trọng, ưu tiên quy định và áp dụng. Về các hậu quả pháp lý hình sự cụ thể, ngoài hình phạt tử hình, Bộ luật hình sự còn quy định hệ thống hình phạt khác (bao gồm các hình phạt chính và các hình phạt bổ sung) và các biện pháp tư pháp với tư cách là các biện pháp tác động trách nhiệm hình sự (hậu quả pháp lý hình sự) được áp dụng đối với người phạm tội. Tuy nhiên, không phải tất cả các dạng trách nhiệm này đều được quy định và áp dụng đối với người phạm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Từ những phân tích trên có thể khẳng định: a. Việc quy định trách nhiệm hình sự đối với lừa đảo chiếm đoạt tài sản là đòi hỏi tất yếu của việc bảo đảm quyền sơ hữu; b. Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thể hiện sự phản kháng của nhà nước của xã hội đối với những hành vi lệch chuẩn, với các tiêu chí và thang giá trị xã hội, do đó nó có tác dụng răn đe cũng như hướng dẫn xử sự của các chủ thể; c. Việc quy định các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không những có ý nghĩa phân hóa tội phạm, cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội mà còn là sự bảo đảm cho sự bình đẳng trước pháp luật giữa những người phạm tội trên cơ sở nguyên tắc chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do họ gây ra. 1.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam 1.3.1. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến Nhận thức được vai trò của pháp luật hình sự trong việc bảo vệ chế độ sở hữu nhằm củng cố, duy trì trật tự xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
  • 26. 19 pháp của Nhà nước và các chủ thể pháp luật, nhiều Nhà nước phong kiến ở nước ta đã sử dụng hình luật để xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu. Dưới thời Lê Sơ mà đỉnh cao là triều đại trị vì của vua Lê Thánh Tông, Bộ luật Hồng Đức đã được ban hành, trong đó dành gần 50 Điều để thiết lập các quy định nhằm bảo vệ chế độ sở hữu phong kiến. Theo Điều 370 Bộ luật Hồng Đức thì: Các nhà quyền quý chiếm đoạt nhà cửa, ruộng đất, ao đầm của lương dân, từ một mẫu trở lên thì xử tội phạt; từ năm mẫu trở lên thì xử tội biếm. Quan tam phẩm trở lên thì xử tội năng thêm hai bậc và phải bồi thường như luật định. Đã tâu lên rồi thì xử khác. Đối với những kẻ cướp (nghĩa là ban đêm cầm khí giới giết người lấy của): Thì xử tội chém, tòng phạm thì xử tội giảo, ngoài việc phải đền tang vật ăn cướp, điền sản phải sung công. Cướp của lại giết người thì xử tội chém bêu đầu, tòng phạm xử chém phải nộp tiền đền mạng và tiền đền tang vật gấp đôi trả lại cho chủ nhà bị cướp. Kẻ chứa chấp bọn cướp lâu ngày thì xử đồng tội, mới khoảng mười ngày thì xử giảm một bậc, đều phải bồi thường một phần ba nộp vào kho. Kẻ biết việc mà không cáo giác thì xử tội đồ làm chủng điền binh [34, Điều 426]. Cũng theo Bộ luật trên "kẻ ăn trộm mới phạm lần đầu thì phải lưu châu xa. Kẻ trộm có tiếng và kẻ trộm tái phạm thì phải bị chém. Giữa ban ngày ăn cắp vặt cũng bị xử tội đồ…" [34, Điều 429]. Liên quan đến hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tại Điều 435 của Bộ luật trên quy định: Những kẻ thừa thời cơ lúc có trộm, cướp, cháy, lụt là lấy trộm của cải của người ta, hay là giữa ban ngày mà đoạt lấy tiền tài của người, cùng là lấy của cải đánh rơi mà lại đánh lại người mất
  • 27. 20 của thì cũng phải đền tội như ăn trộm thường, mà giảm một bậc. Lột lấy những quần áo và đồ vật của trẻ em, người điên, người say thì phải tội đồ và phải bồi thường gấp đôi [34, Điều 26]. Có thể nói, đây là những quy định đầu tiên trong hình luật nước ta mà trong đó, những dấu hiệu trong hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản sau này đã được đề cập. Đặc biệt, nhà làm luật đã mô tả và mô hình hóa khá chính xác điều kiện thực tiễn nước ta lúc bấy giờ, đồng thời răn đe, phòng ngừa và chống các hành vi vi phạm pháp luật do lợi dụng hoàn cảnh, tình trạng thân phận của người có tài sản để trục lợi, thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Hành vi chiếm đoạt trong trường hợp này được xác định nhẹ hơn tội ăn trộm thường, mục đích của việc ghi nhận tội phạm này là để bảo vệ quyền sở hữu tài sản của các chủ thể có nguy cơ bị tội phạm xâm hại trong những điều kiện, tình huống đặc biệt mà người có tài sản không có điều kiện bảo quản, coi giữ. Quy định này được duy trì và áp dụng trong suốt các giai đoạn của Nhà nước phong kiến, từ thời Lê - Trịnh. Dưới thời phong kiến nhà Nguyễn (qua nghiên cứu Bộ luật của triều đại này - Hoàng Việt luật lệ), những quy định từ thời Lê - Trịnh về Tội lừa đảo tiếp tục được duy trì. Sau đó, mặc dù ở nước ta có tồn tại các bộ Hình luật Trung Kỳ; Hình luật Bắc Kỳ; Hình luật Nam Kỳ nhưng những quy định liên quan đến Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vẫn được đề cập đến. Nói cách khác, hình luật trong các thời kỳ phong kiến và trong thời kỳ Pháp thuộc đều có quy định: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một tội phạm độc lập để bảo vệ quyền sở hữu tài sản của các chủ tài sản. 1.3.2. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ từ 1945 đến trước 1985 Ngay sau khi giành được độc lập, công cuộc xây dựng, quản lý nước nhà bằng pháp luật bước đầu được quan tâm, pháp luật mới ra đời - pháp
  • 28. 21 luật dân chủ nhân dân - công cụ để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người dân lao động, bảo vệ thành quản của cách mạng. Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 quy định về trừng trị tội phá hủy công sản, theo đó nếu người phạm tội thực hiện một trong các tội sau đây sẽ bị phạt tù từ hai năm đến mười năm và có thể bị xử tử: 1) Cố ý phá hoại một phần hay toàn thể các cầu cống hay sông đào, vận hà, nông giang, thuộc công ích, đường xe lửa, các đường giao thông công hay tư đường bộ hay đường thủy, đê đập, các công sở, kho tàng hoặc các nhà máy điện, máy nước; 2) Cố ý hủy hoại hoặc ăn trộm các dây điện thoại, điện tín cùng các cột dây điện và dây thép; 3) Đặt ở các nơi nói trên những khí cụ dùng để giết người, đốt phá hay tác liệt. Tiếp theo là Sắc lệnh số 233/SL ngày 17/01/1946 về trừng trị tội phù lạm, biển thủ công quỹ, Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 của Thủ tướng Chính phủ ban hành hướng dẫn các Tòa án trừng trị một số tội phạm xâm phạm sở hữu như trộm cắp, cướp của, lừa gạt, bội tín. Ngày 15/6/1956, Chủ tịch nước ký Sắc lệnh số 267/SL trừng trị những âm mưu hoạt động phá hoại tài sản của Nhà nước, Hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế và văn hóa. Văn bản này, các tội xâm phạm tài sản, trong đó có Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tiếp tục được qui định. - Để củng cố thành quả mà cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đạt được ở miền Bắc, bảo đảm sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực, tập trung phát triển sản xuất để chi viện sức người, sức của cho miền Nam ruột thịt, các quy định pháp luật về kinh tế, tài chính, dân sự, lao động, hình sự từng bước được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu của quản lý đất nước trong tình hình mới, ngày 21/10/1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh
  • 29. 22 trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Theo hai Pháp lệnh trên, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được đề cập với tư cách là một tội phạm độc lập Sắc lệnh số 68-SL ngày 18/6/1949 về bảo vệ các công trình thủy nông; Bên cạnh đó, Nhà nước ta cũng quan tâm tới việc bảo vệ các tài sản riêng của công dân bằng việc ban hành Thông tư 442-TTg ngày 19/1/1955 của Thủ tướng Chính phủ về một số tội phạm. Trong đó có đề cập tới tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên mới nêu tội danh mà chưa mô tả được cụ thể hành vi phạm tội. Do yêu cầu khách quan và nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh bảo vệ có hiệu quả tài sản xã hội chủ nghĩa và công dân. Tòa án nhân dân tối cao cũng đã có nhiều văn bản hướng dẫn việc vận dụng các quy phạm pháp luật vào công tác xét xử, ngày 23/10/1970 Nhà nước ta đã thông qua hai pháp lệnh mới, đó là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa do Lệnh số 149-LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước công bố; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân do Lệnh số 150 - LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước công bố. Hai pháp lệnh trên đã thay thế các luật lệ cũ về các tội phạm xâm phạm sở hữu. Trong cả hai pháp lệnh này hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng được quy định với hai tội danh cụ thể tương ứng với hai hình thức sở hữu được quy định lúc đó là sở hữu tài sản xã hội chủ nghĩa và sở hữu tài sản riêng của công dân. Theo đó, Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa do Lệnh số 149-LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước công bố quy định: Điều 10. Tội lừa đảo để chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa 1. Kẻ nào dùng giấy tờ giả mạo, gian lận trong việc cân, đong, đo, đếm, tính hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm. 2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
  • 30. 23 a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm; b) Có tổ chức; c) Có móc ngoặc; d) Giả danh hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, xí nghiệp Nhà nước, đơn vị bộ đội, đoàn thể nhân dân, hợp tác xã hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm khác; đ) Chiếm đoạt tài sản với số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc biệt; e) Dùng tài sản chiếm đoạt vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu cơ, đút lót hoặc vào những việc phạm tội khác; Thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm. 3. Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình [32, Điều 10]. Đối với tài sản công dân thì Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân do Lệnh số 150 - LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước công bố quy định: Điều 9. Tội lừa đảo để chiếm đoạt tài sản riêng của công dân 1. Kẻ nào dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. 2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây: a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm; b) Có tổ chức; c) Giả danh hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, xí nghiệp Nhà nước, đơn vị bộ đội, đoàn thể nhân dân, hợp tác xã hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm khác;
  • 31. 24 d) Gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác; Thì bị phạt tù từ 2 năm đến 10 năm [33, Điều 9]. Về cơ bản hai tội trên đều có hành vi giống nhau đó là hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc đang do người khác quản lý. Thủ đoạn gian dối có thể bằng cách dùng mọi mánh khóe, bịp bợm, bằng lời nói, giả mạo giấy tờ, giả danh cán bộ, giả mạo tổ chức… làm cho người quản lý tài sản tin mà giao nhầm tài sản đó cho người phạm tội. Với những hành vi có cùng tính chất nhưng lại tác động lên đối tượng là hai loại tài sản khác nhau đó là tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân nên được quy định thành hai tội khác nhau trong hai pháp lệnh. Tuy nhiên ở pháp lệnh thứ nhất, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa coi lừa đảo là một số hành vi gian dối cụ thể của những người trong khi giao dịch, mua bán với cơ quan nhà nước hay hợp tác xã đã cố ý dùng mánh khóe gian lận thông thường như cân, đo, đong, đếm, tính sai hoặc bằng cách khác để chiếm đoạt tài sản của cơ quan nhà nước hoặc hợp tác xã mà mình giao dịch. Còn ở pháp lệnh thứ hai, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản riêng của công dân chỉ quy định tội phạm một cách chung chung: "kẻ nào dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản riêng của công dân…" trong khi những hành vi gian lận bằng cách: cân, đo, đong, đếm, tính gian, không chấp hành chính sách giá cả đã quy định, đánh tráo hàng…" được tách ra khỏi tội lừa đảo để quy định thành một tội riêng tại Điều 10 Pháp lệnh là "Tội gian lận để chiếm đoạt tài sản riêng của khách hàng". Sau ngày thống nhất đất nước 30/4/1975, Nhà nước ta đã ban hành thêm một số văn bản pháp luật hình sự mới trừng trị các tội xâm phạm sở hữu. Cụ thể ở miền Nam, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời ban hành Sắc lệnh số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định về tội phạm và hình phạt.
  • 32. 25 Tại Điểm b, Điều 4 Sắc luật số 03-SL/76 quy định như sau: Phạm các tội chiếm đoạt tài sản khác như trộm cắp, tham ô, lừa đảo, bội tín, cướp giật, cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì thì bị phạt tù đến 15 năm. Phạm tội trộm cắp, tham ô, lừa đảo mà số tài sản chiếm đoạt rất lớn hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Điều 8 Sắc luật 03-Sl/76 quy định về tội xâm phạm đến tài sản riêng của công dân như sau: a. Phạm tội cướp tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ 2 năm đến 12 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm, từ chung thân hoặc tử hình. b. Phạm các tội chiếm đoạt khác như trộm cắp, lừa đảo, bội tín, cướp giật, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 10 năm. Như vậy, ở thời điểm này trên hai miền Nam , Bắc tồn tại hai loại văn bản pháp luật khác nhau cùng xử lý về một tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó là: Hai pháp lệnh ngày 21/10/1970 và Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976. Nội dung cơ bản của các văn bản này đều thống nhất về tội danh và đường lối xử lý. Tuy nhiên so với các pháp lệnh, thì các quy định của Sắc luật chỉ nêu tên tội danh mà không quy định cụ thể dấu hiệu pháp lý của tội phạm. Để áp dụng thống nhất các văn bản pháp luật này, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 54/TATC ngày 6/7/1977 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc thi hành pháp luật thống nhất thì việc áp dụng pháp luật đối với hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thống nhất như sau: Ở miền Bắc vẫn áp dụng hai pháp lệnh ngày 21/10/1970. Ở miền Nam thì áp
  • 33. 26 dụng Sắc luật số 03 là chính, có tham khảo điều khoản tương ứng của Pháp lệnh ngày 21/10/1970 để nắm rõ hơn dấu hiệu các tội phạm và áp dụng các hình phạt hợp lý hơn. Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực, pháp luật hình sự đã có quy định về loại tội phạm có hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên do có nhiều loại văn bản được ban hành và áp dụng ở hai miền Nam, Bắc khác nhau nên không tránh khỏi những bất cập nhất định, nguyên tắc pháp chế khó được thực hiện. Vì vậy cần phải pháp điển hóa các quy định trong các văn bản pháp luật này để đảm bảo tính thống nhất. Bộ luật hình sự 1985, có hiệu lực từ ngày 01/1/1986 đã ra đời đáp ứng yêu cầu đó. 1.3.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ từ 1985 đến trước 1999 Sau khi nước nhà thống nhất, nhận thức được vị trí, vai trò của pháp luật hình sự trong việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, bảo vệ trật tự xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, ngày 27/6/1985 Quốc hội đã biểu quyết thông qua Bộ luật hình sự trên cơ sở pháp điển hóa những nguyên tắc, chế định pháp luật hình sự của nước ta trước đây. Lần đầu tiên, Bộ luật hình sự quy định tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được xác định là một tội phạm được quy định tại Điều 131 (Tội cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa) và Điều 154 (Tội cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản của công dân), nhưng về mặt kỹ thuật lập pháp, tội phạm này được đặt trong cùng một điều luật với tội cướp giật tài sản với ba khung hình phạt khác nhau ứng với mỗi tình tiết định khung tăng nặng. Theo đó, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được xác định có cùng tính chất, đặc điểm và tính
  • 34. 27 nguy hiểm cho xã hội tương tự như tội cướp giật tài sản, sự khác biệt có chăng chỉ là về hành vi phạm tội được mô tả trong mặt khách quan của tội phạm; giữa hai tội phạm này có cùng các yếu tố định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quy định này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, bảo đảm sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật về đấu tranh phòng ngừa và chống các hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản; khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các hành vi vi phạm pháp luật có tính chất công nhiên chiếm đoạt tài sản nhưng không thể xác định thuộc cấu thành nào của một trong các tội phạm có tính chất xâm phạm sở hữu. Bước vào thời kỳ đổi mới, với việc xóa bỏ cơ chế kinh tế tập trung, bao cấp, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều thành phần kinh tế được xác lập với nhiều hình thức sở hữu khác nhau, các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Khi đó, việc phân định các nhóm tội xâm phạm sở hữu thành xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và xâm phạm sở hữu của công dân theo Bộ luật hình sự năm 1985 tỏ ra không còn phù hợp do tính chất đa hình thức sở hữu. Hơn nữa, về dấu hiệu pháp lý, các tội đó tuy nằm ở hai chương khác nhau nhưng đều có cùng đặc điểm, tính chất, có chăng sự khác biệt chỉ là khách thể và đối tượng là tài sản chịu sự tác động của tội phạm thuộc sở hữu của Nhà nước hay của công dân và trong nhiều trường hợp, không phải lúc nào người phạm tội cũng có thể xác định được tài sản đó là của Nhà nước hay công dân. Trước yêu cầu đó, ngày 21/12/1999 Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự mới thay thế cho Bộ luật hình sự 1985, theo đó tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 137 Bộ luật hình sự thành một tội phạm độc lập trên cơ sở tách khỏi tội cướp giật tài sản và không phân biệt thành công nhiên chiếm đoạt tài sản xã
  • 35. 28 hội chủ nghĩa và công nhiên chiếm đoạt tài sản của công dân như Bộ luật hình sự năm 1985 mà sáp nhập lại thành một tội phạm độc lập. Việc sáp nhập thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về mặt pháp lý là không có sự phân biệt đối với các thành phần kinh tế trong xã hội, mặt khác, nó cũng đáp ứng được yêu cầu do thực tiễn xét xử đặt ra trong những năm qua, nhiều hành vi xâm phạm tài sản của các đơn vị kinh tế thuộc sở hữu chung của nhiều thành phần kinh tế như: Công ty cổ phần, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, liên doanh, liên kết… nhưng không thể xác định được người phạm tội xâm phạm tài sản thuộc thành phần kinh tế nào. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 137 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi, bổ sung, nhất là đối với các tình tiết là yếu tố định tội; phân biệt ranh giới giữa hành vi là tội phạm với hành vi chưa tới mức phải xử lý về hình sự - điểm khác biệt cơ bản so với Bộ luật hình sự năm 1985 khi quy định về tội phạm này. Về hình phạt Điều 137 quy định nặng hơn Bộ luật hình sự năm 1985 (mức cao nhất là từ chung thân, trong khi đó Điều 131 quy định là hai mươi năm tù, còn Điều 154 là mười lăm năm tù). Về cơ cấu, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản theo Điều 137 Bộ luật hình sự được cấu tạo thành 05 khoản (Điều 131 và 154 Bộ luật hình sự năm 1985 về tội này chỉ có 03 khoản). Khoản 1 là cấu thành cơ bản có khung hình phạt tù từ sáu tháng đến ba năm (nhẹ hơn khoản 1 Điều 131 và nặng hơn khoản 1 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985); khoản 2 có khung hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm (nhẹ hơn khoản 2 của hai Điều 131 và 154 Bộ luật hình sự năm 1985); khoản 3 có khung hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm (nhẹ hơn khoản 3 Điều 131 và bằng khoản 3 Điều 154 Bộ luật hình sự 1985); khoản 4 có khung hình phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân (là khung hình phạt mới mà Điều 131 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985 không có). Hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật 13, tr. 177.
  • 36. 29 Chương 2 ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO BỘ LUẬT TỐ HÌNH SỰ 1999 Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được qui định tại Điều 139 Bộ luật hình sự 1999, theo đó tội phạm này có các đặc điểm pháp lý sau: 2.1. Khách thể và đối tượng tác động của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 2.1.1. Khách thể Khách thể của tội phạm là yếu tố quan trọng trong cấu thành tội phạm thể hiện bản chất pháp lý và tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm là cơ sở để xác định quan hệ xã hội bị hành vi phạm tội xâm hại và do đó là là căn cứ để phân biệt các tội phạm với nhau. Trong khoa học pháp lý khái niệm khách thể tội phạm được các công trình khoa học tương đối thống nhất. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội đưa ra định nghĩa như sau: Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Tội phạm nào cũng xâm hại đến khách thể bảo vệ của luật hình sự, những quy phạm pháp luật thuộc Phần thuộc các tội phạm Bộ luật hình sự thường không trực tiếp nêu ra khách thể của tội phạm, song có thể xác định khách thể bằng cách giải thích luật, phân tích nội dung quy phạm cụ thể quy định tội phạm ta có thể biết được khách thể của tội phạm đó. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị bao giờ cũng thông qua Nhà nước, bằng pháp luật xác lập và củng cố hệ thống các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích và nền thống trị của giai cấp đó, đồng thời sử dụng pháp luật với những loại biện pháp tác động khác nhau nhằm bảo vệ các quan hệ này tồn tại và phát triển, tránh khỏi sự xâm hại của những hành vi phạm tội.
  • 37. 30 Nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành luật hình sự nhằm bảo vệ những quan hệ xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân và trật tự xã hội. Những quan hệ xã hội được Nhà nước xác định bảo vệ bằng các quy phạm pháp luật hình sự là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Trong khoa học luật hình sự đã khẳng định một hành vi bị Nhà nước coi là tội phạm do chúng gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Nói cách khác, tính nguy hiểm của hành vi do xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là dấu hiệu quan trọng nhất để xác định hành đó có phải là tội phạm hay không. Vì vậy, khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm hại. Một quan hệ xã hội nào đó bị xâm hại nhưng không được Nhà nước xác định bảo vệ bằng các quy phạm phạm pháp luật hình sự thì không thể là khách thể của tội phạm và hành vi xâm hại không bị coi là tội phạm. Những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ là những quan hệ xã hội được xác định trong Điều 1 và Điều 8 của Bộ luật hình sự: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [18]. Khách thể của tội phạm là yếu tố không thể tách rời của tội phạm, tội phạm bao giờ cũng xâm phạm đến một hoặc một số quan hệ xã hội được nhà nước xác định bảo vệ bằng luật hình sự. Khái niệm khách thể của tội phạm chỉ rõ bản chất giai cấp của luật hình sự, Nhà nước nào cũng sự dụng luật hình sự để bảo vệ những quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích và nền thống trị
  • 38. 31 của giai cấp cầm quyền. Những hành vi xâm hại đến các quan hệ ấy bị Nhà nước tuyên bố là tội phạm. Khách thể của tội phạm còn là một căn cứ phân biệt tội phạm với những hành vi không phải là tội phạm. Nghiên cứu khái niệm khách thể của tội phạm chúng ta nhận thức đầy đủ và sâu sắc nhiệm vụ của luật hình sự và bản chất của tội phạm. Trong phần các tội phạm của BLHS, khách thể của tội phạm là căn cứ quan trọng nhất để phân loại tội phạm và hệ thống các quy phạm quy định các tội phạm hoàn thành. Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu về tài sản, đây là quan hệ xã hội chủ yếu mà hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm hại. Do đặc điểm của hành vi nên tội này chỉ xâm hại đến một khách thể là quan hệ sở hữu tài sản. Đây là điểm khác giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu khác xâm hại đồng thời nhiều khách thể khác nhau như tội cướp tài sản, cướp giật tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản… vì các tội phạm này ngoài khách thể là quan hệ sở hữu, người phạm tội còn nhằm đến khách thể quan trọng khác đó là quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe của người bị hại. Quan hệ sở hữu là quan hệ trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản được tôn trọng và bảo vệ. Quan hệ này bị tội phạm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thông qua việc làm biến đổi tình trạng bình thường của những đối tượng vật chất (tài sản) là một bộ phận của quan hệ sở hữu. Như mọi hành vi phạm tội khác, hành vi xâm phạm sở hữu cũng có đối tượng tác động cụ thể đó là tài sản. "Tài sản gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [21, Điều 163]. Tài sản là đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể thuộc bất cứ hình thức sở hữu nào được pháp luật thừa nhận và phải được thể hiện dưới dạng vật chất, vì những gì không thuộc về vật chất thì không thể là đối tượng của hành vi chiếm đoạt. Vì thế, không phải mọi trường hợp của quyền tài sản đều là đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
  • 39. 32 Ví dụ: Quyền tác giả đối với một tác phẩm nhưng không phía là đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, còn những giấy tờ thể hiện về quyền tài sản như hóa đơn lĩnh hàng… vẫn có thể là đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong những trường hợp nhất định. Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng, xuất phát từ tính năng, công dụng đặc biệt của tài sản mà một số tài sản không thể được coi là đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà là đối tượng của hành vi phạm tội khác: Ví dụ: tài nguyên rừng, công trình, phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc, các chất ma túy, các loại vũ khí quân dụng… Pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng luôn bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp và chỉ bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp nên về nguyên tắc tài sản được luật hình sự bảo vệ phải là tài sản hợp pháp. Nhưng điều đó không có nghĩa những hành vi xâm phạm tài sản bất hợp pháp khác của công dân không bị coi là tội phạm và vẫn bị coi là trái pháp luật và có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: vay tiền người khác nhưng không trả, bỏ trốn đi thời gian để tránh tiếng đồn hoặc sợ gian hồ đến trả thù… hành vi trên có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 2.1.2. Đối tượng tác động của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1. Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận gắn liền với khách thể của tội phạm, nên khi nghiên cứu khách thể tội phạm không thể tách rời bộ phận này. Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm mà khi tác động tới bộ phận này người phạm tội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Hành vi phạm tội tác động các bộ phận của quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm làm biến đổi trạng thái bình thường
  • 40. 33 của các bộ phận đó, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm. Với quan điểm như vậy thì không thể tồn tại tội phạm mà không có đối tượng tác động [14, tr. 141]. Nghiên cứu khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không thể không nghiên cứu đến đối tượng tác động của tội phạm vì đây "là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ", hoặc "là các vật thể của thế giới vật chất mà người phạm tội tác động đến khi thực hiện sự xâm hại các khách thể xã hội do pháp luật hình sự bảo vệ" 8, tr. 354. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đối tượng tác động là tài sản nhưng không phải là mọi tài sản mà trước hết phải là tài sản có giá trị và giá trị sử dụng, tài sản đó phải thuộc về một chủ sở hữu cụ thể với các quy định có tính chất pháp lý bằng quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt, ngoài ra, nó còn phải có khả năng chuyển hóa được giữa các chủ sở hữu với nhau, có thể mua bán, trao đổi một cách hợp pháp. Tài sản đó cũng có thể bao gồm các loại giấy tờ mà nếu người phạm tội có nó thì họ có thể nhận được một số tiền hoặc tài sản nhất định… Việc nhấn mạnh tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chủ sở hữu nhất định mới là đối tượng của tội phạm này không có nghĩa là các hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản không hợp pháp thì không bị xử lý. Tài sản là đối tượng tác động của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có những đặc điểm sau: a. Tài sản được thể hiện dưới dạng vật chất, có giá trị và giá trị sử dụng; là thước đo giá trị lao động được kết tính và phải thỏa mãn được nhu cầu của con người; b. Tài sản là đối tượng của tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải có chủ sở hữu cụ thể với các qui định pháp lý thể hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản; c. Tài sản là đối tượng của tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải có khả năng chuyển hóa giữa các chủ sở hữu với nhau; d. Tài sản là đối tượng của tác động của tội lừa đảo
  • 41. 34 chiếm đoạt tài sản còn được biểu hiện bằng các loại giấy tờ có giá; e. Tài sản là đối tượng của tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải là những tài sản thông thường, nếu là những tài sản đặc biệt sẽ không là đối tượng của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Từ những đặc điểm trên thì những tài sản sau không là đối tượng của tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: - Vật không có giá trị và giá trị sử dụng; - Tài sản vô chủ; - Tài sản do tính chất và công dụng đặc biệt là đối tượng tác động của các hành vi phạm tội khác. Ví dụ: Công trình, phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc, các loại vũ khí quân dụng, tài nguyên rừng v.v… - Vật khi không còn là tài sản vì đã bị chủ tài sản hủy bỏ, ví dụ: Gia súc mắc bệnh đã bị chôn, tiêu hủy; thuốc chữa bệnh đã bị hủy bỏ, hết thời hạn sử dụng. - Tài sản được chôn cùng với người chết. 2.2. Mặt khách quan của tội phạm Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm, trong đó hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản nhất, các biểu hiện khác như hậu quả của tội phạm, công cụ, phương tiện… cũng chỉ thể hiện khi có hành vi khách quan. Vì vậy việc nghiên cứu những yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Tội phạm là hành vi của con người, là thể thống nhất giữa những diễn biến tâm lý bên trong của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và những biểu hiện diễn ra bên ngoài mà ta có thể nhận biết trực tiếp bằng các giác quan. Những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các dấu hiệu biểu hiện sự thực hiện hành vi phạm tội và
  • 42. 35 gắn liền với hành vi như: công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, phạm tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội. Tổng thể các biểu hiện trên đây tạo thành mặt khách quan của tội phạm. Như vậy, mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài trong thế giới khách quan. “Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm các dấu hiệu biểu hiện tội phạm diễn ra trong thể giới khách quan” [31, tr. 145]. Những biểu hiện ra bên ngoài trong mặt khách quan của tội phạm bao gồm các dấu hiệu: Hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữ hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi; những dấu hiệu bên ngoài khác, như: thời gian, phương pháp, phương tiện, thủ đoạn thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội…. Tuy nhiên, các biểu hiện khách quan của tội phạm có vị trí và ý nghĩa không giống nhau trong các cấu thành tội phạm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong tất cả các cấu thành tội phạm với ý nghĩa là dấu hiệu bắt buộc, không có hành vi nguy hiểm cho xã hội thì không có cấu thành tội phạm. Các biểu hiện khác thuộc mặt khách quan được quy định trong các cấu thành tội phạm có thể với ý nghĩa là dấu hiệu định tội (dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản) hoặc là các dấu hiệu định khung (dấu hiệu của cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc cấu thành tội phạm giảm nhẹ). Mặt khách quan là một yếu tố cấu thành tội phạm, các dấu hiệu thuộc mặt khách quan có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, từ những biểu hiện khách quan (mà đặc biệt là hành vi nguy hiểm cho xã hội) người ta xác định được tội phạm đã xảy ra, làm rõ các yếu tố khác của cấu thành tội phạm như mặt chủ quan, chủ thể và khách thể của tội phạm. Điều này hoàn toàn phù hợp với quá trình biện chứng của nhận thức chân lý. Trong luật hình sự, nhà làm luật thường tập trung mô tả những dấu hiệu khách quan đặc trưng, điển hình của từng loại tội phạm vào nội dung cấu thành của chúng, tạo cơ sở để phân biệt
  • 43. 36 các tội phạm và định tội danh chính xác. Các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm khi được mô tả trong các cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt, xác định mức độ nguy hiểm của tội phạm đã thực hiện. Mặt khách quan của tội phạm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có các dấu hiệu đặc trưng sau: 2.2.1. Dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội Trong mặt khách quan của tội phạm, hành vi nguy hiểm cho xã hội là nội dung cơ bản nhất, được biểu hiện dưới hai hình thức hành động và không hành động. Hình thức hành động là việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm và hành vi phạm tội bằng không hành đội là việc chủ thể không làm làm việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm nhằm tránh nguy cơ gây thiệt hại cho xã hội. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là xử sự cụ thể của con người được thể hiện ra thế giới khách quan dưới những hình thức nhất định, gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Con người là chủ thể có ý thức của xã hội, các hành vi hay xử sự của con người, xét theo quan điểm của luật hình sự phải có sự tham gia của lý trí và ý chí tức là phải được chủ thể nhận thức và điều khiển. Những xử sự thể hiện ra thế giới khách quan nhưng không được chủ thể nhận thức và điều khiển hoặc tuy nhận thức được nhưng không điều khiển được thì không có ý nghĩa trong luật hình sự, không phải là hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm. Vì vậy, những xử sự của con người thể hiện ra thế giới bên ngoài đã gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng do cưỡng bức thân thể, không phải là kết quả hoạt động ý chí của chủ thể thì không phải là hành vi phạm tội. Xử sự trong trường hợp này là hậu quả của sự tác động trực tiếp của sức mạnh từ bên ngoài đưa lại, không được chủ thể nhận thức và điều khiển. Hành vi có
  • 44. 37 tính chất nguy hiểm cho xã hội được chủ thể nhận thức và điều khiển chỉ bị coi là hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm nếu có đầy đủ những đặc điểm của một hành vi phạm tội nào đó đã được quy định trong luật hình sự tức là trái với luật hình sự. Như vậy, với ý nghĩa là một biểu hiện hay dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm, hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là hoạt động cụ thể được chủ thể nhận thức và điều khiển, có nội dung trái với các yêu cầu và đòi hỏi của pháp luật hình sự. Hành vi nguy hiểm cho xã hội được biểu hiện dưới hai hình thức: Hành động phạm tội và không hành động phạm tội. Theo Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 thì hành vi khách quan của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có những đặc trưng sau: Hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thể hiện dưới hai hành vi thực tế là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. - Hành vi lừa dối: Là hành vi cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật, tự nguyện trao tài sản cho người phạm tội. Trên thực tế hành vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hợp thành bởi hai yếu tố: Thứ nhất, đó là hành vi đưa ra những thông tin gian dối. Hành vi này thể hiện là hành động có chủ đích của người phạm tội. Người phạm tội biết rõ đó là những thong tin giả nhưng mong muốn người khác tin đó là sự thật. Hành vi này có thể được thực hiện bằng lời nói, hành động hoặc những biểu hiện khác nhằm cung cấp những thông tin sai lệch về sự việc như nói có thành không, ít thành nhiều, xấu thành tốt, giả thành thật…. Thứ hai, chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đã nhầm lẫn, tin tưởng vào những thông tin không đúng sự thật ấy mà trao tài sản cho người phạm tội. Khi giao tài sản, chủ tài sản không biết mình bị lừa dối. Họ có thể phát hiện ra ngay sau khi trao tài sản nhưng bản chất của hành vi chiếm đoạt vẫn