SlideShare a Scribd company logo
1 of 91
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ LOAN
NG¦êI GIóP SøC
TRONG §åNG PH¹M THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së nghiªn cøu thùc tiÔn ®Þa bµn Thµnh phè Hµ Néi)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ LOAN
NG¦êI GIóP SøC
TRONG §åNG PH¹M THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së nghiªn cøu thùc tiÔn ®Þa bµn Thµnh phè Hµ Néi)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH. LÊ VĂN CẢM
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi và hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung khoa học của Luận
văn này. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành
tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lê Thị Loan
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI GIÚP SỨC
TRONG ĐỒNG PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .........9
1.1. Khái niệm đồng phạm và các hình thức đồng phạm ..................... 9
1.1.1. Khái niệm đồng phạm........................................................................ 9
1.1.2. Các hình thức đồng phạm ................................................................ 12
1.2. Khái niệm người giúp sức trong đồng phạm và ý nghĩa của
việc xác định đúng vai trò người giúp sức trong đồng phạm ...... 18
1.2.1. Khái niệm người giúp sức trong đồng phạm trong Luật hình sự
Việt Nam ......................................................................................... 18
1.2.2. Ý nghĩa của việc xác định đúng vai trò của người giúp sức trong
đồng phạm....................................................................................... 20
1.2.3. Phân biệt người giúp sức với những đồng phạm khác...................... 22
1.3. Người giúp sức theo quy định trong Bộ luật hình sự một số
nước trên thế giới........................................................................... 28
Chương 2: NGƯỜI GIÚP SỨC THEO CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGƯỜI GIÚP SỨC TRONG
ĐỒNG PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI.................31
2.1. Người giúp sức theo các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999......................................................................................... 31
2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự ........................................................... 31
2.1.2. Trách nhiệm hình sự đối với người giúp sức trong đồng phạm ........ 49
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về người giúp sức trong
đồng phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội.................................. 57
2.2.1. Một số đặc điểm về tình hình chính trị - quốc phòng, kinh tế - xã
hội, văn hóa... của địa bàn thành phố Hà Nội................................... 57
2.2.2. Tình hình phạm tội với người giúp sức trong đồng phạm trên địa
bàn thành phố Hà Nội và những tồn tại, hạn chế.............................. 58
2.2.3. Nguyên nhân cơ bản của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn
điều tra, truy tố và xét xử người giúp sức trong đồng phạm ............. 61
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VỀ NGƯỜI
GIÚP SỨC TRONG ĐỒNG PHẠM............................................. 64
3.1. Sự cần thiết, ý nghĩa và cơ sở của việc hoàn thiện các quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về người giúp sức trong
đồng phạm...................................................................................... 64
3.1.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999 về người giúp sức trong đồng phạm ................ 64
3.1.2. Ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999 về người giúp sức trong đồng phạm ................ 65
3.1.3. Cơ sở của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999 về người giúp sức trong đồng phạm........................ 65
3.2. Nội dung hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự việt
Nam năm 1999 về người giúp sức trong đồng phạm.................... 66
3.2.1. Nhận xét chung................................................................................ 66
3.2.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung ............................................................... 68
3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về người giúp sức
trong đồng phạm............................................................................ 72
3.3.1. Về mặt lập pháp............................................................................... 72
3.3.2. Tăng cường giải thích pháp luật, hướng dẫn áp dụng pháp luật........ 73
3.3.3. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức pháp luật
và trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ thẩm phán Tòa án các cấp...... 74
3.3.4. Tăng cường kiểm sát việc áp dụng pháp luật hình sự liên quan
đến những loại người đồng phạm của Viện kiểm sát nhân dân......... 75
KẾT LUẬN................................................................................................. 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 78
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
CHLB: Cộng hòa liên bang
CTTP: Cấu thành tội phạm
NLTNHS: Năng lực trách nhiệm hình sự
TANDTC: Tòa án nhân dân Tối cao
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
TNHS: Trách nhiệm hình sự
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Một số nhóm tội, loại tội trong số 202 bản án có đồng
phạm mà tác giả đã nghiên cứu 59
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm qua, các ngành, các cấp do các lực lượng chuyên
trách làm nòng cốt đã triển khai đồng bộ, toàn diện nhiều nội dung, biện pháp
đấu tranh phòng, chống tội phạm, thu được nhiều kết quả quan trọng. Cuộc
đấu tranh đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo, điều hành của cấp ủy đảng,
chính quyền các cấp, huy động được nhiều nguồn lực xã hội, động viên được
sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân. Công tác phòng ngừa xã hội
mà nòng cốt là phong trào “Toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác
tội phạm và quản lý, giáo dục, giúp đỡ người phạm tội trong gia đình, ở địa
bàn dân cư” được triển khai sâu rộng, gắn với Cuộc vận động Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa và nhiệm vụ phát triển kinh tế, nâng cao đời
sống nhân dân đã mang lại hiệu quả rõ nét, góp phần củng cố nền tảng ngăn
ngừa tội phạm ngay từ cơ sở. Các lực lượng chuyên trách tập trung lực lượng,
phương tiện, biện pháp mở nhiều đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm trên
các tuyến, địa bàn trọng điểm. Hàng chục nghìn băng nhóm tội phạm hình sự
nguy hiểm, đường dây mua bán vận chuyển ma túy đã được triệt phá, bóc gỡ;
nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng lớn được phát hiện, điều tra, xử lý; hoạt động
của tội phạm có tổ chức và băng nhóm tội phạm hình sự mang tính chất “xã
hội đen” đã được ngăn chặn; tình hình tội phạm ở các thành phố lớn, trên các
tuyến, địa bàn trọng điểm cơ bản được kiềm chế.
Đạt được những kết quả trên là do đã huy động được sức mạnh của cả
hệ thống chính trị, sức mạnh tổng hợp của xã hội và sự cố gắng, nỗ lực của
các lực lượng chuyên trách. Mặc dù vậy, tình hình tội phạm ở nước ta vẫn
diễn biến rất phức tạp. Nhiều loại tội phạm nghiêm trọng chưa được kiềm chế.
Tội phạm có tổ chức, băng nhóm tội phạm mang tính chất “xã hội đen”, tội
2
phạm buôn lậu, gian lận thương mại, tội phạm về ma túy hoạt động công khai,
lộng hành ở nhiều thành phố lớn, trên các tuyến biên giới, trắng trợn xâm
phạm quyền, lợi ích của Nhà nước, xã hội và nhân dân. Tham nhũng và tội
phạm tham nhũng vẫn hết sức nhức nhối, trở thành một trong những mối đe
dọa trực tiếp sự tồn vong của chế độ. Tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường xảy ra trong nhiều lĩnh vực, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự
phát triển kinh tế của đất nước, xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi của người
dân và sức khỏe cộng đồng. Tội phạm có tính quốc tế, tội phạm xuyên quốc
gia và tội phạm sử dụng công nghệ cao đang là một thách thức lớn.
Tính chất tội phạm ngày càng nguy hiểm, mang yếu tố quốc tế, có tổ
chức, xuyên quốc gia và sử dụng công nghệ cao. Thủ đoạn hoạt động tinh vi,
phương thức hoạt động xảo quyệt, manh động, liều lĩnh. Tội phạm hình sự có
tổ chức, băng nhóm “xã hội đen” gây án nghiêm trọng, băng nhóm tội phạm
ma túy có vũ trang ở khu vực biên giới, tội phạm tham nhũng và tội phạm
kinh tế trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, đầu tư, quản lý, sử dụng đất đai
và thương mại, tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường vẫn hết
sức nhức nhối. Xu hướng tội phạm cấu kết với nhau hình thành các tập đoàn
tội phạm lớn hoạt động đa lĩnh vực, liên tỉnh, xuyên quốc gia, nếu không
được đấu tranh ngăn chặn, có thể trở thành hiện thực. Tội phạm do suy thoái
đạo đức xã hội, đạo đức gia đình có xu hướng gia tăng, trực tiếp đe dọa phá
vỡ nền tảng đạo đức, văn hóa của xã hội. Mức độ hậu quả gây ra cho xã hội
của các loại tội phạm ngày càng lớn, xâm phạm nghiêm trọng trật tự, kỷ
cương pháp luật xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước và xã hội, tài sản, tính
mạng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, làm suy giảm niềm tin xã
hội và cản trở công cuộc phát triển đất nước. Thành phần phạm tội đa dạng,
phức tạp. Tội phạm nghiêm trọng chủ yếu do các đối tượng chuyên nghiệp
gây ra. Tuy nhiên, cũng cần đặc biệt chú ý phòng ngừa, ngăn chặn, làm giảm
3
những nhân tố đầu vào của tội phạm, những người có nguy cơ mắc vào các tệ
nạn xã hội và sa vào con đường phạm tội, như những người lao động tự do,
thiếu việc làm và thất nghiệp do chịu ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế
vừa qua; thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên bỏ học, bỏ nhà tụ tập, lang
thang, sống bầy đàn và một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức hư hỏng,
thoái hóa, biến chất. Địa bàn hoạt động của tội phạm chủ yếu tập trung ở các
thành phố lớn, các tuyến trọng điểm, các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã
hội, nhất là ở Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các đô thị loại 1 và
các vùng chiến lược về an ninh, trật tự; trên các tuyến biên giới, quốc lộ trọng
điểm, tuyến hàng không quốc tế, tuyến bưu chính - viễn thông; trong lĩnh vực
tài chính - ngân hàng, quản lý, sử dụng đất đai, xuất - nhập khẩu, thương mại
điện tử, tổ chức cán bộ và an sinh xã hội...
Trong những năm gần đây thì tình hình tội phạm nói chung, cũng như
tình hình phạm tội có tổ chức trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng diễn ra
hết sức tinh vi, phức tạp. Bên cạnh đó vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc làm
hạn chế quá trình áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 của các
cơ quan áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, đi đôi với bối cảnh đó là sự diễn biến
phức tạp của tình hình tội phạm, tội phạm do nhiều người cùng thực hiện,
mang tính chất quốc tế, xuyên quốc gia. So với tội phạm do một người thực
hiện, tội phạm do có đồng phạm thực hiện thường nguy hiểm hơn, vì khi một
nhóm người cùng cố ý thực hiện hành vi phạm tội thì tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội sẽ tăng lên đáng kể, nhất là khi có sự câu kết chặt chẽ
về giúp sức và cách thức thực hiện. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao
thì số vụ án hình sự có đông các bị cáo (từ 02 trở lên) tham gia, đều thể hiện
năm sau tăng hơn năm trước, tính chất thực hiện hành vi phạm tội quy mô hơn,
phức tạp hơn, nguy hiểm hơn. Bởi lẽ trong những vụ án đó luôn có những
người đứng ra giúp sức, chỉ huy các đồng phạm khác thực hiện hành vi phạm
tội. Do vậy, người giúp sức bao giờ cũng giữ vai trò chính trong vụ án. Tuy
4
nhiên, thực tiễn công tác điều tra, truy tố và xét xử cho thấy nhận thức về đồng
phạm, cũng như nhận thức để xác định vai trò người giúp sức trong đồng phạm
hiện nay chưa được thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, vẫn còn
nhiều quan điểm và ý kiến trái ngược nhau. Những ý kiến khác nhau này đã
gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Nhằm làm sáng tỏ các dấu hiệu, đặc
điểm pháp lý của "người giúp sức trong đồng phạm", tác giả phân tích, khái
quát lịch sự hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam từ năm 1945
đến nay và thực tiễn xét xử các vụ án có đồng phạm ở thành phố Hà Nội trong
giai đoạn (2009 - 2013) để trên cơ sở đó, tìm giải pháp hoàn thiện hệ thống
pháp luật hình sự và giải pháp về mặt thực tiễn nhằm góp phần phòng, chống
các tội phạm có đồng phạm, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội. Đây cũng
là lý do để học viên quyết định lựa chọn đề tài: "Người giúp sức trong đồng
phạm theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn
thành phố Hà Nội)" làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu về
đồng phạm đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận,
luật gia hình sự và cán bộ thực tiễn. Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên
cứu được công bố dưới các góc độ và mức độ khác nhau như:
* Dưới góc độ luận án tiễn sĩ, luận văn thạc sĩ luật học, có các công
trình sau: “Đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Quang
Tiệp, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2000; “Các
hình thức đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam”của tác giả Nguyễn Thị
Liên, Luận văn thạc sỹ luật học năm 2009 của Khoa Luật Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về những loại người
đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Mai Lan Ngọc, luận văn
thạc sỹ luật học năm 2012, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
5
* Dưới góc độ đề tài khoa học, bài viết trên báo, tạp chí, có nhiều công
trình, bài viết như: “Về chế định đồng phạm” của GS.TSKH Lê Văn Cảm,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2 năm 1998; “Trần Quốc Dũng phạm tội gỉ? Bàn
về giai đoạn phạm tội và vấn đề cộng phạm” của tác giả Nguyễn Ngọc Hòa,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2 năm 1980; “Đồng phạm và một số vấn đề về
thực tiễn xét xử” của tác giả Đoàn Văn Hường, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4
năm 2003; “Vấn đề đồng phạm” của tác giả Đặng Văn Doãn, Nhà xuất bản
Pháp lý Hà Nội năm 1986; “Đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam” của
TS Trần Quang Tiệp, Tạp chí nhà xuất bản Tư pháp năm 2007; “Chế định
đồng phạm trong pháp luật hình sự ở một số nước trên thế giới”của tác giả
Trần Quang Tiệp; Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11 năm 1997; “Về các
giai đoạn thực hiện hành vi đồng phạm” Của tác giả Lê Thị Sơn, Tạp chí
Luật học, số 3 năm 1998; Phạm tội có giúp sức trong luật hình sự Việt Nam -
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Trung Thành, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 9 năm 1999; “Phân biệt đồng phạm với che dấu tội
phạm và không tố giác tội phạm” của tác giả Dương Văn Tiến, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 1 năm 1985; “Các hình thức đồng phạm và trách nhiệm
hình sự của những người đồng phạm” của tác giả Dương Văn Tiến, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 1 năm 1986; “Phân biệt phạm tội có giúp sức, giúp
sức phạm tội và tội phạm có giúp sức” của tác giả Đỗ Ngọc Quang, Tạp chí
Luật học, số 3 năm 1997; ‘Bình luận khoa học BLHS năm 1999 (Phần chung)
của tác giả Đinh Văn Quế, Nhà xuất bản Thành phố hồ Chí Minh, năm 2004;
Như vậy, các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề về
Người giúp sức trong đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, về
phương diện nghiên cứu lý luận chuyên sâu và thực tiễn xét xử trên một địa
bàn cụ thể thì vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức. Qua nghiên cứu
các công trình nêu trên cho thấy: một số công trình có phạm vi nghiên cứu rộng
nhưng tác giả chỉ đề cập nghiên cứu về đồng phạm nói chung, vấn đề người
6
giúp sức chỉ là một phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu của các tác giả nên
chưa được phân tích sâu về mặt lý luận và thực tiễn hoặc chỉ xem xét dưới góc
độ tội phạm học. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy
định của BLHS năm 1999 về người giúp sức trong chế định đồng phạm, cũng
như đề đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về chế
định đồng phạm vẫn còn có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là phục vụ
trực tiếp cho địa bàn Thành phố Hà Nội.
Vì lý do đó, đề tài "Người giúp sức trong đồng phạm theo Luật hình sự
Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" nhằm
nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt, lý giải nguyên nhân phạm
tội, những đặc điểm nhân thân người phạm tội. Ở phạm vi luận văn này, tác giả
nghiên cứu dựa trên thực tiễn tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử vụ án có
người giúp sức trong đồng phạm, giai đoạn 05 năm (2009 - 2013) để từ đó đưa
ra các biện pháp hoàn thiện quy định của BLHS, đồng thời nâng cao hiệu quả
đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về những vấn đề
pháp lý cơ bản của người giúp sức trong đồng phạm như: Khái niệm; các dấu
hiệu pháp lý; trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; phân biệt người
giúp sức với các hình thức đồng phạm khác. Trên cơ sở đó, luận chỉ ra một số
vướng mắc, tồn tại trong xác định vai trò người giúp sức tham gia đồng phạm,
cũng như xác định trách nhiệm hình sự của họ để đề xuất một số kiến nghị,
giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định của BLHS Việt Nam về xử lý đối tượng này.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của đề tài:
"Người giúp sức trong đồng phạm theo Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở
nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)".
7
Đối tượng nghiên cứu của luận văn được các định gồm 02 vấn đề chính:
- Các vấn đề lý luận về người giúp sức trong chế định đồng phạm theo
quy định của Luật hình sự Việt Nam.
- Các vấn đề về thực tiễn áp dụng các quy định đối với người giúp sức
trong vụ án có đồng phạm theo quy định của Luật hình sự Việt Nam (trên địa
bàn thành phố Hà Nội từ năm 2009 đến năm 2013).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối của
Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Quá trình nghiên cứu trong đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phương pháp so
sánh, đối chiếu; phân tích thuần túy quy phạm pháp luật; nghiên cứu, điều tra
án điển hình... để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học cần nghiên
cứu trong luận văn này. Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, học viên đã
tiếp thu có chọn lọc kết quả của các công trình đã công bố; các đánh giá, tổng
kết của các cơ quan chuyên môn và các chuyên gia về những vấn đề có liên
quan đến các vấn đề nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Dưới góc độ lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn
thiện lý luận về chế định đồng phạm trong khoa học Luật hình sự Việt Nam.
Cụ thể, đã làm rõ các vấn đề chung về người giúp sức trong đồng phạm trong
Luật hình sự Việt Nam, phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển
của các quy định pháp luật hình sự nước ta về người giúp sức trong đồng
phạm từ năm 1945 đến nay, phân biệt hình thức đồng phạm này với một số
hình thức đồng phạm khác mà hiện nay thường có sự nhầm lẫn trong thực
tiễn; làm sáng tỏ chế định đồng phạm quy định của Bộ luật hình sự năm 1999;
phân tích thông qua nghiên cứu thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hà
8
Nội từ năm 2009 đến năm 2013 và trên toàn quốc để so sánh, qua đó chỉ ra
những mâu thuẫn, bất cập của các quy định hiện hành; chỉ ra các sai sót trong
quá trình áp dụng các quy định đó cũng như đưa ra nguyên nhân để tìm giải
pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự
về người giúp sức trong chế định đồng phạm ở khía cạnh lập pháp và việc áp
dụng trong thực tiễn.
Về thực tiễn, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận, có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập. Những đề xuất, kiến
nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác
lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam
liên quan đến việc xác định người giúp sức trong đồng phạm, qua đó góp
phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm có sự
tham gia của người giúp sức hiện nay và sắp tới.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về người giúp sức trong đồng phạm
theo Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Người giúp sức theo quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999 và thực tiễn xét xử các vụ án đồng phạm
có liên quan đến người giúp sức trên địa bàn Thành phố
Hà Nội (giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2013).
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999 về các vụ án đồng phạm có liên quan đến
người giúp sức.
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI GIÚP SỨC
TRONG ĐỒNG PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm đồng phạm và các hình thức đồng phạm
1.1.1. Khái niệm đồng phạm
Tội phạm có thể do một chủ thể thực hiện, cũng có thể là sự phối hợp
cùng tham gia của nhiều chủ thể khác nhau. Khi một tội phạm được thực hiện
bởi nhiều người phạm tội thì việc xác định TNHS đối với họ là rất phức tạp.
Một trong những cơ sở quan trọng để chúng ta xác định được đúng người
đúng tội chính là những qui định đã được pháp điển hóa trong các BLHS.
Luật hình sự các nước trên thế giới đều có quy định về đồng phạm. Bộ luật
sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 1979 tại Điều 22 quy định: “Hai hay
nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm” [28, tr.14]. Theo
Điều 33 Bộ luật hình sự của Liên Bang Nga cũng có quy định: “Hai hay
nhiều người cùng cố ý thực hiện một tội cố ý là đồng phạm” [10, tr.58]. Pháp
luật hình sự của các nước trên thế giới có những quy định rất đa dạng về đồng
phạm. Nhưng điều mà chúng ta quan tâm hơn cả đó chính là những quy định
trong pháp luật hình sự Việt Nam về trường hợp nhiều người cùng tham gia
vụ đồng phạm.
Trên lãnh thổ của Nhà nước Việt Nam trước đây, trong thời kỳ phong
kiến, cũng đã có các quy định sơ khai về đồng phạm. Luật hình sự phong kiến
được hình thành và phát triển trên cơ sở của nhiều chế định khác nhau, thì vấn đề
đồng phạm đã bước đầu được đề cập tới. Bộ “Quốc triều hình luật” năm 1483
dưới triều nhà Lê đã xuất hiện những quy định về vấn đề nhiều người cùng phạm
tội. Mặc dù chưa đưa ra định nghĩa về đồng phạm nhưng Bộ luật đã có những
quy định về TNHS cho những người tham gia phạm tội. Điều 454 quy định:
10
Những kẻ đồng mưu với nhau đi ăn cướp nhưng khi đi thì lại
không đi, người đi lấy được của về chia nhau, mà kẻ đồng mưu ở
nhà cũng lấy phần, thì xử tội như là có đi ăn cướp (ăn trộm cũng
vậy) nếu không lấy được phần chia thì xử lưu đi châu gần. Trước
kia vẫn từng đi ăn cướp mà khi ấy không đi, dù không lấy phần
cũng xử tội như đi ăn cướp [8, tr.32]. Hoặc Điều 539 quy định:
Những kẻ xúi giục cho người ta không biết là phạm pháp, hay là
biết phép mà cứ xúi giục họ làm trái phép, cũng là để cho người ta
phạm pháp rồi bất ngờ tố cáo hay là để người khác bắt, hay tố cáo,
chủ ý để lấy thưởng hay hiềm khích mà xúi giục để cho người ta
phạm tội, thì cũng bị xử như người phạm pháp [8, tr.35].
Việc ghi nhận TNHS đối với “kẻ đồng mưu” hay “người xúi giục người
khác phạm pháp” trong hai Điều luật trên cho thấy chế định đồng phạm đã
được đề cập đến trong luật hình sự phong kiến Việt Nam. Bộ “Quốc triều hình
luật” thể hiện đường lối xử lý của Nhà nước phong kiến dưới triều Lê, Điều
35 quy định: “Nhiều người cùng phạm một tội, thì lấy người khởi xướng làm
đầu, người a tòng được giảm một bậc. Nếu tất cả những người trong nhà
cùng phạm một tội, chỉ bắt người tôn trưởng” [37, tr.47].
Sau ngày thành lập Nhà Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật liên quan đến đồng phạm. Sắc lệnh số 233-SL (17/11/1946) quy
định: “Nhiều người phạm tội đưa hối lộ và hối lộ có thể bị xử và tịch thu
nhiều nhất là 3/4 tài sản, những người đồng phạm cũng bị xử như trên” [37].
Sắc lệnh số 133-SL (20/01/1959) và Pháp lệnh ngày 30-10-1967 về trừng trị
những tội phản cách mạng cũng quy định trường hợp phạm tội của nhiều
người trong đó bao gồm bọn chủ mưu, bọn cầm đầu và bọn tham gia tổ chức
phản cách mạng.
11
Thông qua các quy định trên cho thấy việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật hình sự là cả một quá trình. Cho đến giai đoạn này chúng ta vẫn chưa có
một định nghĩa thống nhất về đồng phạm. Thành tựu lập pháp chỉ mới dừng
lại ở quy định các trường hợp phạm tội có đồng phạm như “phạm tội có tổ
chức”, “phạm tội có móc ngoặc” hay quy định những loại người cụ thể trong
vụ phạm tội có nhiều người cùng liên kết thực hiện như bọn chủ mưu, bọn
cầm đầu hay người xúi giục. Trong thực tế, có nhiều thời kỳ việc nhiều người
cố ý cùng phạm một tội được coi là “cộng phạm”. Và đến năm 1963, khái
niệm này đã được khẳng định lại trong báo cáo tổng kết ngành Toà án: “Coi
là cộng phạm nếu hai hoặc nhiều người cùng chung ý chí và hành động,
nghĩa là hoặc tổ chức hoặc xúi giục hoặc giúp sức hoặc tham gia thực hiện
tội phạm để cùng đạt tới kết quả phạm tội” [37, tr.36].
Chúng ta chưa thể tìm thấy sự phân hoá TNHS đối với những kẻ cùng
thực hiện tội phạm nhưng qua đây chúng ta đã có được tư duy để phân biệt
giữa trường hợp phạm tội riêng lẻ và trường hợp phạm tội có sự tham gia
cùng thực hiện của nhiều người. Những quy định trên đây sẽ là tài liệu quan
trọng và thực sự quý báu để nhà làm luật tiếp tục hoàn thiện chế định đồng
phạm trong tương lai.
Pháp luật hình sự giai đoạn sau này có những bước tiến nhảy vọt với sự
ra đời của BLHS năm 1985. Tại đây, lần đầu tiên khái niệm đồng phạm đã
chính thức được sử dụng, Khoản 1 Điều 17 nêu rõ: “Hai hoặc nhiều người cố ý
cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm” [25, tr.22]. Khái niệm này đã thay
thế hoàn toàn khái niệm “cộng phạm” vẫn được sử dụng trước đây. Đến năm
1999 BLHS mới ra đời, một lần nữa chế định đồng phạm được khẳng định kế
thừa và phát triển. Điều 20 BLHS năm 1999 quy định: “Đồng phạm là trường
hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm” [48, tr.56]. Từ
những quy định trên đây, chúng ta có thể nhận ra điểm tương đồng so với
khái niệm đồng phạm đã được quy định trong BLHS năm 1985.
12
Như vậy quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đã cho chúng ta khái niệm đầy
đủ và thống nhất về đồng phạm. Ta biết rằng đồng phạm là trường hợp có hai
người trở lên cố ý cùng thực hiện tội phạm. Hay nói cách khác, khi một tội
phạm được thực hiện bởi ít nhất là hai chủ thể và hai chủ thể đó thoả mãn dấu
hiệu “cùng cố ý” thì trường hợp đó tội phạm được coi là đồng phạm. Để hiểu
rõ hơn bản chất của vấn đề đồng phạm chúng ta tiếp tục nghiên cứu mặt chủ
quan và mặt khách quan thuộc dấu hiệu pháp lý cơ bản của đồng phạm.
1.1.2. Các hình thức đồng phạm
Để xác định một tội phạm có phải là đồng phạm hay không chúng ta có
thể dựa vào dấu hiệu thuộc mặt chủ quan và mặt khách quan của tội phạm đó.
Khoa học luật hình sự và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự từ
trước đến nay cũng dựa vào dấu hiệu này để phân loại các hình thức đồng phạm.
 Phân loại theo dấu hiệu chủ quan
Căn cứ vào đặc điểm về mặt chủ quan thì đồng phạm được phân loại thành:
Đồng phạm không có thông mưu trước và đồng phạm có thông mưu trước.
 Đồng phạm không có thông mưu trước
Hình thức này được hiểu như sau: “Đồng phạm không có thông mưu
trước là hình thức đồng phạm trong đó không có sự thoả thuận bàn bạc với
nhau trước giữa những người đồng phạm hoặc là có sự thoả thuận nhưng
không đáng kể" [3, tr.141].
Những người đồng phạm không có sự bàn bạc trước với nhau về kế
hoạch thực hiện tội phạm, đồng thời giữa những người đồng phạm không có
sự phân công vai trò như tổ chức, thực hành hay xúi giục. Thuộc hình thức
này có thể những người đồng phạm chỉ nhất trí về việc thực hiện tội phạm với
nhau ở hiện trường và bắt tay ngay vào việc thực hiện tội phạm hoặc đồng
phạm được hình thành khi có người đang thực hiện tội phạm, người khác thấy
vậy cũng cùng tham gia phạm tội.
13
Ví dụ: A và B rủ nhau lên đồi hái chè. Đến chiều tối A và B thấy một
con bò đang ăn ở phía cuối vườn chè. Cả hai nảy sinh ý định bắt trộm con bò
đó. Sau đó A và B dắt bò về dưới huyện và bán được 2.000.000 đồng.
Ở đây, A và B cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản công dân nhưng
giữa A và B trước khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản không có sự bàn bạc
vạch kế hoạch trước. Như vậy, so với các hình thức đồng phạm khác thì đồng
phạm không có thông mưu trước nói chung ít nguy hiểm hơn.
 Đồng phạm có thông mưu trước
“Đồng phạm có thông mưu trước là hình thức đồng phạm trong đó
những người đồng phạm đã có sự thoả thuận bàn bạc trước với nhau về tội
phạm cùng thực hiện” [3, tr.141].
Ví dụ: A rủ B cùng mình đột nhập vào nhà ông C để trộm cắp tài sản. B
đồng ý. Cả hai thường xuyên tụ tập tại nhà A để bàn bạc, lập kế hoạch. A giao
cho B tìm cách giết con chó nhà ông C, còn A sẽ theo dõi hoạt động đi lại của
các thành viên trong gia đình ông C. Lợi dụng lúc gia đình ông C đi vắng hết,
A và B đã đột nhập vào nhà ông C lấy đi số tiền là 5.400.000 đồng, một ti vi
và một số vật dụng khác.
Ở hình thức đồng phạm này những người đồng phạm đã ít nhiều có sự
bàn bạc và phân công vai trò nên họ có quan hệ phạm tội chặt chẽ hơn. Loại
đồng phạm này có tính chất nguy hiểm hơn loại đồng phạm không có thông
mưu trước.
 Phân loại theo dấu hiệu khách quan
Dựa vào những đặc điểm về mặt khách quan có thể chia đồng phạm
thành hai loại là đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp.
 Đồng phạm giản đơn
“Đồng phạm giản đơn là hình thức đồng phạm trong đó những người
cùng tham gia vào vụ phạm tội đều có vai trò là người thực hành” [3, tr.142].
14
Đây là trường hợp trong đó những người đồng phạm đều tham gia thực
hiện hành vi phạm tội được mô tả trong CTTP, tức là mỗi người bằng chính
hành vi của mình đều trực tiếp thực hiện hoặc góp phần thực hiện tội phạm. Ở
hình thức đồng phạm này sự cố ý cùng cấu kết của những người phạm tội
không đáng kể và chỉ hạn chế ở chỗ mỗi người đồng phạm chỉ biết về hoạt
động phạm tội của một hoặc nhiều người khác tại thời điểm bắt đầu thực hiện
tội phạm hay trong quá trình thực hiện tội phạm.
Ví dụ: Khoảng 19 giờ 30 phút, Nguyễn Văn A dùng một kìm sắt và một
con dao nhỏ trèo lên cây cột điện tại xã X, nơi có dây truyền thanh chạy qua.
Lúc đang cắt dây thấy Phan Văn B đi qua, Nguyễn Văn A rủ Phan Văn B làm
cùng, B đồng ý. Tại đây, A và B thay nhau trèo lên sáu cột điện có hai dường
dây bắc qua, dùng kìm cắt được dây trong năm khoảng, mỗi khoảng được
50m. Tổng cộng chúng cắt được 500m, sau đó chúng dùng dao bóc vỏ nhựa
để lấy lõi đồng bên trong.
Về mặt chủ quan, đồng phạm giản đơn thường không có sự phân công
vai trò cụ thể (như người tổ chức, xúi giục, giúp sức hay người thực hành), mà
về cơ bản họ có một vai trò là những người cùng hành động. Trong trường hợp
trên, cả A và B đều thực hiện hành vi đã được mô tả trong CTTP tội “trộm cắp
tài sản” với vai trò là người thực hành. Nên những người đồng phạm trong hình
thức đồng phạm giản đơn được coi là những người đồng thực hành.
 Đồng phạm phức tạp
“Đồng phạm phức tạp là hình thức đồng phạm trong đó có một hoặc
một số người tham gia giữ vai trò là người thực hành, còn những người khác
giữ vai trò xúi giục, tổ chức hay giúp sức” [3, tr.142].
Trong đồng phạm phức tạp giữa những người đồng phạm có sự bàn bạc
trước về kế hoạch phạm tội và giữa những người đồng phạm cũng có sự phân
công vai trò, điều này tạo nên mối liên hệ tương đối chặt chẽ ở họ. Ở hình
15
thức đồng phạm này không chỉ có người thực hành thực hiện hành vi được
mô tả trong CTTP mà còn có hành vi của người tổ chức, người xúi giục hay
người giúp sức.
Ví dụ: A, B, C mang dao đi vào công viên thì phát hiện E, F đang ngồi
tâm sự cùng nhau, bên cạnh hai người có dựng một chiếc xe máy. Chúng nảy
sinh ý định cướp xe máy đó. A phân công B đứng ngoài quan sát và cảnh
giới, C dùng dao khống chế E, còn A sẽ xử lý F. Kế hoạch được thực hiện, A
dùng dao dí sát sườn F và quát: “Có tiền bỏ ra đây, đưa đồng hồ, chìa khoá xe
máy nhanh lên”. F chống cự, A đã dùng dao đâm vào bụng và tay trái của F.
Cuối cùng F phải đưa đồng hồ, ví và chìa khoá xe máy cho A. A đưa chìa
khoá xe máy cho B cầm, sau đó chúng trói E, F lại, cùng lúc đó B nổ máy và
cả ba cùng bỏ trốn.
Tội phạm được thực hiện là sự phối hợp cùng hành động của những
người đồng phạm. Trong vụ đồng phạm này không chỉ có người thực hành (A
và C) mà còn có người giúp sức (B) cùng thực hiện hành vi được mô tả trong
CTTP tội cướp tài sản được quy định tại Điều 133 BLHS năm 1999.
Như vậy, vai trò của từng người đồng phạm phụ thuộc vào hình thức
hành vi đồng phạm mà họ thực hiện. Việc tìm hiểu các hình thức đồng phạm
sẽ giúp chúng ta xác định chính xác TNHS cho từng người đồng phạm phù
hợp với loại hình tội phạm mà họ thực hiện.
Phạm tội có tổ chức
Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm đặc biệt mà định nghĩa
pháp lý của nó đã được các nhà làm luật nước ta ghi nhận trong pháp luật hình
sự hiện hành tại Khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung: “Phạm
tội có tổ chức là trường hợp đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những
người cùng thực hiện tội phạm” [48, tr.57].
Trong đồng phạm có tổ chức, giữa những người đồng phạm vừa có sự
16
liên kết chặt chẽ với nhau vừa có sự phân hoá vai trò, phân công nhiệm vụ
tương đối rõ rệt, cụ thể. Chúng ta có thể xác định đồng phạm có tổ chức dựa
vào các đặc điểm của nó như sau:
- Nhóm tội phạm được hình thành với phương hướng hoạt động có tính
lâu dài bền vững, thể hiện ở sự ổn định thường xuyên của chúng. Trong nhóm
tội phạm có tổ chức, sự gia nhập của các thành viên mới là rất hãn hữu do các
thành viên trong nhóm sợ bị lộ, tan vỡ. Nhóm tội phạm luôn tồn tại kỷ luật
chặt chẽ, mỗi người đồng phạm đều chịu sự điều khiển chung, thống nhất của
người cầm đầu.
- Có sự phân công thực hiện tội phạm trong nhóm, người thì được phân
công thực hiện hành vi chuẩn bị như: theo dõi quy luật hoạt động của đối
tượng, đề xuất phương án hành động và che dấu tội phạm, người thì bảo quản,
thu giữ, vận chuyển, tiêu thụ tài sản chiếm đoạt được. Mỗi tên đều hiểu rõ
trách nhiệm của mình, do đó chúng hành động có tổ chức và chặt chẽ.
Với đặc điểm như vậy, đồng phạm có tổ chức có nhiều khả năng cho
phép phạm tội liên tục, nhiều lần, gây ra những hậu quả lớn, rất lớn hoặc
đặc biệt lớn.
Sự khác nhau giữa phạm tội có tổ chức với đồng phạm bình thường là ở
chỗ: những người cùng thực hiện tội phạm có sự câu kết chặt chẽ với nhau
trong khi thực hiện tội phạm thì là phạm tội có tổ chức. Còn trường hợp,
những người cùng thực hiện tội phạm mà không có sự câu kết chặt chẽ với
nhau thì đó không phải là phạm tội có tổ chức. Cũng từ thực tiễn đấu tranh
phòng chống tội phạm cho thấy, có 3 trường hợp được xác định là phạm tội
có tổ chức. Cụ thể như sau:
Trường hợp một: Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức
phạm tội như: đảng phái, hội đoàn phản động, băng ổ trộm cướp… có tên chỉ
huy, cầm đầu. Các điều kiện của trường hợp này là:
17
- Từ hai người trở lên
- Cùng một tổ chức phạm tội
- Có tên chỉ huy, cầm đầu.
Tuy nhiên cũng có khi một tổ chức phạm tội không có tên chỉ huy cầm
đầu mà chỉ là sự tập hợp những tên chuyên phạm tội, đã thống nhất cùng nhau
hoạt đồng phạm tội. Ví dụ sau khi hết hạn tù, một số tên chuyên trộm, cướp đã
tập hợp nhau lại và thống nhất cùng nhau tiếp tục hoạt động phạm tội [4, tr.52].
Trường hợp hai: Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều
lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước. Ví dụ một số tên cùng nhau đi
trộm, cướp hoặc một số tên cùng đầu cơ, buôn lậu, có tổ chức đường dây để
nắm nguồn hàng, vận chuyển, thông tin về giá cả… Các điều kiện của trường
hợp này là:
- Số lượng người tham gia từ hai người trở lên.
- Số lần thực hiện từ hai lần trở lên
- Thực hiện theo một kế hoạch thống nhất trước. Phải có đủ ba điều
kiện này mà điều kiện theo một kế hoạch thống nhất trước là điều kiện chủ
yếu để xác định là phạm tội có tổ chức.
Trường hợp ba: Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một
lần, nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính toán kỹ
càng, chu đáo có chuẩn bị phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế
hoạch che giấu tội phạm. Các điều kiện của trường hợp này là:
- Từ hai người trở lên
- Thực hiện tội phạm một lần có kế hoạch tính toán kỹ càng, chu đáo,
có sự chuẩn bị phương tiện hoạt động, kế hoạch che giấu tội phạm.
Ví dụ trường hợp trộm cắp, cướp tài sản mà có phân công điều tra trước
về nơi ở quy luật sinh hoạt, đi lại của người có tài sản, chuẩn bị địa điểm để
thực hiện, phân công chuẩn bị phương tiện, sự hoạt động của mỗi người đồng
phạm và có kế hoạch che giấu tội phạm.
18
1.2. Khái niệm người giúp sức trong đồng phạm và ý nghĩa của việc
xác định đúng vai trò người giúp sức trong đồng phạm
1.2.1. Khái niệm người giúp sức trong đồng phạm trong Luật hình sự
Việt Nam
Theo Th.S Mai Lan Ngọc thì “thuật ngữ người giúp sức đã sớm được
đề cập và nhắc tới trong lịch sử lập pháp hình sự nước ta cho đến trước pháp
điển hóa lần thứ nhất BLHS năm 1985 với các tên gọi khác như: tòng phạm,
người giúp sức” [38, tr.31].
Theo quy định tại khoản 2 Điều 17 BLHS năm 1985 và khoản 2 Điều
20 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung thì “Người giúp sức là người tạo những điều
kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm” [46]; [48, tr.57].
Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất
cho việc thực hiện tội phạm. Trong một vụ án có đồng phạm, vai trò của
người giúp sức cũng rất quan trọng, nếu không có người giúp sức thì người
thực hiện tội phạm cũng gặp khó khăn. Ví dụ: H hứa với T sẽ tiêu thụ toàn bộ
số tài sản nếu T trộm cắp được. Có sự hứa hẹn của H nên đã thúc đẩy T quyết
tâm phạm tội vì đã có nơi tiêu thụ tài sản trộm cắp được.
Người giúp sức có thể giúp bằng lời khuyên, lời chỉ dẫn, cung cấp
phương tiện phạm tội hoặc khắc phục những trở ngại cho việc thực hiện tội
phạm, hứa che giấu người phạm tội, phương tiện, xóa dấu vết, hứa tiêu thụ tài
sản do phạm tội mà có.
Ví dụ: Tạp chí Tòa án nhân dân số 2 tháng 1 năm 2007 đưa ra ý kiến
trao đổi về một vụ án với nội dung như sau:
Công ty SG có ký một hợp đồng vận chuyển hàng hóa với Công ty
TNHH dịch vụ TS do Hồ Ngọc Sang làm giám đốc với nội dung: Công ty TS
mỗi ngày cung ứng cho Công ty SG tối thiểu 5 đầu xe kéo contenner, tối đa
không hạn chế. Đến tháng 7 năm 2005, Công ty SG có chủ trương huy động
19
phương tiện sẵn có trong công ty để vận chuyển hàng hóa nhằm tăng thu nhập
cho cán bộ công nhân viên nên đã giảm số đầu xe của Công ty TS xuống còn
05 xe như thỏa thuận trong hợp đồng.
Do Công ty vừa mua trả góp 05 đầu kéo Contenner để phục vụ cho hợp
đồng nêu trên. Đang trong tình trạng nợ nần nay lại bị giảm lượng xe đến mức
tối thiểu, doanh thu của công ty TS hàng tháng giảm xuống đáng kể (từ 700
triệu/tháng xuống 400 triệu/tháng). Hồ Ngọc Sang tìm hiểu nguyên nhân của
việc giảm đầu xe qua Vũ Xuân Thiên (là đội trưởng đội kéo của công ty SG).
Hồ Ngọc Sang cho rằng: Nguyễn Ngọc Chỉnh (là Phó giám đốc công ty SG)
đã cản trở công việc làm ăn của Công ty TS. Do vậy, Sang đã nảy sinh ý đồ
thuê người đánh cảnh cáo Chỉnh, đánh cho bầm tím mặt mày để anh Chỉnh
không cản trở công việc làm ăn của mình nữa. Ý định này Sang đã cho Vũ
Xuân Thiên biết và được Thiên đồng ý (vì Thiên đã có mâu thuẫn về công
việc với Chỉnh từ trước). Do cùng cơ quan với chỉnh nên Thiên đã cung cấp
thời gian đi làm cũng như lịch trực của Chỉnh cho Sang biết.
Hành vi cung cấp thông tin và hoạt động đi lại của Thiên đã tạo điều
kiện thuận lợi cho đồng bọn do Sang thuê thực hiện hành vi theo như chỉ dẫn
một cách chính xác, đầy đủ nhất.
Cũng có trường hợp hành vi được thể hiện dưới dạng không hành động.
Đó có thể là trường hợp những người có nghĩa vụ pháp lý phải hành động
nhưng đã cố ý không hành động và qua đó đã loại trừ trở ngại khách quan
ngăn cản việc thực hiện tội phạm đến cùng.
Ví dụ: A là bảo vệ cơ sở sản xuất hàng gia dụng, khi đang làm nhiệm
vụ phát hiện thấy bạn cùng phòng mình là B đang mang tài sản ra khỏi kho
chứa hàng, nhưng A không bắt giữ B mà giả vờ như không biết. Kết quả là B
đã lấy được số tài sản lớn trị giá 7.500.000 đồng.
Một dạng giúp sức đặc biệt nữa đó là giúp sức bằng lời hứa hẹn trước
20
sẽ che giấu người phạm tội, che giấu các tang chứng, vật chứng hoặc sẽ tiêu
thụ các vật do phạm tội mà có sau khi tội phạm đã thực hiện xong.
Hành vi giúp sức thường được thực hiện trước khi người thực hành bắt
tay vào hành động. Nhưng cũng có trường hợp người giúp sức tham gia khi
tội phạm đang tiến hành, giúp một người vốn có ý định phạm tội có thêm điều
kiện thuận lợi để thực hiện tội phạm hoặc yên tâm hơn khi thực hiện tội phạm.
Như vậy, hành vi của người giúp sức là tạo điều kiện thuận lợi cho
đồng bọn thực hiện tội phạm. Tính chất và mức độ của hành vi giúp sức
cũng được coi là ít nguy hiểm hơn so với hành vi phạm tội của những người
đồng phạm khác. Do vậy, luật hình sự Việt Nam không coi người giúp sức là
đối tượng cần nghiêm trị như những người đồng phạm khác. Đó là cơ sở để
cơ quan xét xử đưa ra quyết định hình phạt đối với người giúp sức nhẹ hơn
so với quyết định hình phạt đối với những người cùng phạm tội trong vụ
đồng phạm đó.
Dù tạo điều kiện vật chất hay tinh thần cho việc thực hiện tội phạm thì
hành vi đó cũng chỉ tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực hiện tội phạm chứ
người giúp sức không trực tiếp thực hiện tội phạm
Hành vi tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm của người giúp
sức cũng có thể là hành vi của người tổ chức, nhưng khác với người tổ
chức, người giúp sức không phải là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy mà
chỉ có vai trò thứ yếu trong vụ án đồng phạm. Nếu các tình tiết khác như
nhau thì người giúp sức bao giờ cũng được áp dụng hình phạt nhẹ hơn
những người đồng phạm khác.
1.2.2. Ý nghĩa của việc xác định đúng vai trò của người giúp sức trong
đồng phạm
Người giúp sức là một trong những loại người đồng phạm vì thế
việc xác định đúng vai trò của người giúp sức trong đồng phạm là cơ sở
21
quan trọng trong việc định tội danh và trách nhiệm hình sự. Và để hiểu
hết dược vai trò của người giúp sức tác giả hướng tới việc tìm hiểu về
đồng phạm nói chung.
Đồng phạm là sự cố ý cùng phạm một tội của nhiều người, tính chất
và mức độ tham gia thực hiện tội phạm của mỗi người đồng phạm có thể là
không giống nhau. Do vậy luật hình sự thế giới nói chung và luật hình sự
Việt Nam nói riêng đều có những căn cứ khác nhau để phân loại người đồng
phạm. Nhìn chung, pháp luật hình sự của các nước đều chú ý phân biệt vai
trò của người giúp sức với các loại người đồng phạm khác. BLHS của Cộng
hoà Liên bang Đức dành riêng Điều 47, Điều 48, Điều 49 để quy định về
người thực hành, người xúi giục, người tòng phạm. Mỗi điều luật đều đưa ra
khái niệm chung nhất, đồng thời đưa ra đường lối xử lý riêng đối với từng
loại người đồng phạm.
Khái niệm người giúp sức nói riêng được quy định trong Bộ luật hình
sự 1985, Bộ luật hình sự 1999 có ý nghĩa hết sức to lớn về mặt lập pháp.
Đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta. Khái
niệm người giúp sức là cơ sở để từ đó xác định đúng vai trò của họ trong
những loại người đồng phạm; các giai đoạn thực hiện tội phạm của người
giúp sức trong đồng phạm; tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người
giúp sức trong đồng phạm; các hình thức đồng phạm và trách nhiệm hình sự
của người giúp sức trong đồng phạm. Khái niệm người giúp sức trong đồng
phạm còn là cơ sở pháp lý để phân biệt hành vi đồng phạm của người giúp
sức và những hành vi liên quan đến tội phạm đảm bảo thực hiện nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực hình sự nhằm xử lý đúng người,
đúng tội, không kết tội oan, không bỏ lọt tội phạm. Như vậy, khái niệm người
giúp sức trong đồng phạm có ý nghĩa thống nhất về mặt nhận thức trong
nghiên cứu lý luận cũng như trong thực tiễn xét xử.
22
1.2.3. Phân biệt người giúp sức với những đồng phạm khác
Để đưa ra được những tiêu chí phân biệt người giúp sức với những
người đồng phạm khác, trong phần này tác giả trình bày về các loại người
trong đồng phạm:
1.2.3.1. Các loại người đồng phạm
Người thực hành, người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức đều là
người đồng phạm. Hành vi của những người đồng phạm khác như: người tổ
chức, người xúi giục, người giúp sức có sự liên kết thống nhất với hành vi của
người thực hành cả về mặt khách quan, chủ quan và tạo thành một hoạt động
phạm tội chung có mối quan hệ nhân quả với hậu quả phạm tội. Cơ sở để
phân biệt người thực hành với người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức
là tính chất sự tham gia của họ vào việc thực hiện tội phạm.
Trong những vụ đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia thực hiện tội
phạm của mỗi người không giống nhau. Do vậy, sự phân định rõ các loại
người đồng phạm sẽ là cơ sở quan trọng để chúng ta đánh giá một cách khách
quan về hành vi phạm tội của từng người, xác định chính xác tính chất, mức
độ nguy hiểm, tạo cơ sở cho việc cá thể hoá hình phạt. Sau đây, chúng ta sẽ đi
vào tìm hiểu từng loại người đồng phạm cụ thể:
* Người giúp sức
Khoản 2 Điều 20 BLHS 1999 quy định: “Người giúp sức là người tạo
điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm” [48, tr.56].
Theo đó luật hình sự Việt Nam quan niệm hành vi giúp sức căn cứ vào
những dấu hiệu khách quan gồm hai loại: giúp sức về vật chất và giúp sức về
tinh thần. Hành vi của người giúp sức là tạo ra những điều kiện cho người
thực hành thực hiện hành vi phạm tội. Những điều kiện đó có thể có tính vật
chất hoặc có tính tinh thần. Cũng chính vì vậy mà hành vi của người giúp sức
trong đồng phạm có thể là giúp sức về vật chất hoặc giúp sức về tinh thần.
23
- Giúp sức về tinh thần: có thể là những hành vi cung cấp những gì tuy
không có tính vật chất nhưng cũng tạo ra cho người thực hành thực hiện tội
phạm được thuận lợi hơn như: Chỉ dẫn, góp ý kiến, cung cấp tình hình.
Ví dụ: Tạp chí Tòa án nhân dân số 2 tháng 1 năm 2007 đưa ra ý kiến
trao đổi về một vụ án với nội dung như sau:
Công ty SG có ký một hợp đồng vận chuyển hàng hóa với Công ty
TNHH dịch vụ TS do Hồ Ngọc Sang làm giám đốc với nội dung: Công ty TS
mỗi ngày cung ứng cho Công ty SG tối thiểu 5 đầu xe kéo contenner, tối đa
không hạn chế. Đến tháng 7 năm 2005, Công ty SG có chủ trương huy động
phương tiện sẵn có trong công ty để vận chuyển hàng hóa nhằm tăng thu nhập
cho cán bộ công nhân viên nên đã giảm số đầu xe của Công ty TS xuống còn
05 xe như thỏa thuận trong hợp đồng.
Do Công ty vừa mua trả góp 05 đầu kéo Contenner để phục vụ cho hợp
đồng nêu trên. Đang trong tình trạng nợ nần nay lại bị giảm lượng xe đến mức
tối thiểu, doanh thu của công ty TS hàng tháng giảm xuống đáng kể (từ 700
triệu/tháng xuống 400 triệu/tháng). Hồ Ngọc Sang tìm hiểu nguyên nhân của
việc giảm đầu xe qua Vũ Xuân Thiên (là đội trưởng đội kéo của công ty SG).
Hồ Ngọc Sang cho rằng: Nguyễn Ngọc Chỉnh (là Phó giám đốc công ty SG)
đã cản trở công việc làm ăn của Công ty TS. Do vậy, Sang đã nảy sinh ý đồ
thuê người đánh cảnh cáo Chỉnh, đánh cho bầm tím mặt mày để anh Chỉnh
không cản trở công việc làm ăn của mình nữa. Ý định này Sang đã cho Vũ
Xuân Thiên biết và được Thiên đồng ý (vì Thiên đã có mâu thuẫn về công
việc với Chỉnh từ trước). Do cùng cơ quan với chỉnh nên Thiên đã cung cấp
thời gian đi làm cũng như lịch trực của Chỉnh cho Sang biết.
Hoặc là hành vi cung cấp thông tin và hoạt động đi lại của Thiên đã tạo
điều kiện thuận lợi cho đồng bọn do Sang thuê thực hiện hành vi theo như chỉ
dẫn một cách chính xác, đầy đủ nhất.
24
Cũng có trường hợp hành vi được thể hiện dưới dạng không hành động.
Đó có thể là trường hợp những người có nghĩa vụ pháp lý phải hành động
nhưng đã cố ý không hành động và qua đó đã loại trừ trở ngại khách quan
ngăn cản việc thực hiện tội phạm đến cùng.
Ví dụ: A là bảo vệ cơ sở sản xuất hàng gia dụng, khi đang làm nhiệm
vụ phát hiện thấy bạn cùng phòng mình là B đang mang tài sản ra khỏi kho
chứa hàng, nhưng A không bắt giữ B mà giả vờ như không biết. Kết quả là B
đã lấy được số tài sản lớn trị giá 7.500.000 đồng.
Một dạng giúp sức đặc biệt nữa đó là giúp sức bằng lời hứa hẹn trước
sẽ che giấu người phạm tội, che giấu các tang chứng, vật chứng hoặc sẽ tiêu
thụ các vật do phạm tội mà có sau khi tội phạm đã thực hiện xong.
- Giúp sức về vật chất: là hành vi cung cấp công cụ, phương tiện phạm
tội, khắc phục những trở ngại để người thực hành thực hiện tội phạm được
một cách thuận lợi và dễ dàng hơn. Và vấn đề đặt ra ở đây là chúng ta cần
phải làm roc khái niệm phương tiện phạm tội và công cụ phạm tội để có thể
làm rõ hơn hành vi giúp sức về vật chất. Theo TS.Trần Quang Tiệp thì:
Công cụ phạm tội là những vật thể mà người phạm tội sử dụng để
tác động trực tiếp vào đối tượng tác động của tội phạm. Còn
phương tiện phạm tội là những vật thể tuy không trực tiếp tác động
vào đối tượng tác động của tội phạm nhưng tham gia vào quá trình
thực hiện tội phạm [61, tr.133].
Ví dụ: H phạm tội cướp tài sản với vai trò là người giúp sức, vì y cung
cấp xe máy làm phương tiện để hoạt động cướp tài sản, cung cấp cho L dao
găm và dây thừng để uy hiếp nạn nhân khi nạn nhân đuổi theo, sau đó chở tên
K bỏ trốn.
Trong một số trường hợp hành vi giúp sức về mặt vật chất, ngoài việc tác
động, hỗ trợ cho người thực hành thực hiện tội phạm còn có thể CTTP độc lập.
Ví dụ: Hành vi cung cấp súng cho người thực hành thực hiện hành vi
25
giết người ngoài việc thỏa mãn dấu hiệu hành vi của người giúp sức còn cấu
thành tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng theo quy định tại Điều 230
BLHS năm 1999.
Vậy hành vi giúp sức có thể được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp hoặc
lỗi cố ý gián tiếp.
Hành vi giúp sức thường được thực hiện trước khi người thực hành bắt
tay vào hành động. Nhưng cũng có trường hợp người giúp sức tham gia khi
tội phạm đang tiến hành, giúp một người vốn có ý định phạm tội có thêm điều
kiện thuận lợi để thực hiện tội phạm hoặc yên tâm hơn khi thực hiện tội phạm.
Như vậy, hành vi của người giúp sức là tạo điều kiện thuận lợi cho
đồng bọn thực hiện tội phạm. Tính chất và mức độ của hành vi giúp sức
cũng được coi là ít nguy hiểm hơn so với hành vi phạm tội của những người
đồng phạm khác. Do vậy, luật hình sự Việt Nam không coi người giúp sức là
đối tượng cần nghiêm trị như những người đồng phạm khác. Đó là cơ sở để
cơ quan xét xử đưa ra quyết định hình phạt đối với người giúp sức nhẹ hơn
so với quyết định hình phạt đối với những người cùng phạm tội trong vụ
đồng phạm đó.
1.2.3.2. Phân biệt người giúp sức với các loại người khác trong đồng phạm
* Sự giống nhau:
- Người giúp sức và những người đồng phạm khác đều có chung ý chí
thực hiện tội phạm.
- Người giúp sức và mỗi người đồng phạm đều có những hành động cụ
thể nhằm mục đích chung là thực hiện tội phạm.
- Họ đều phải chịu trách nhiệm về hậu quả chung mà họ và đồng
phạm gây ra.
* Sự khác biệt:
- Hành vi của người giúp sức khác với lại hành vi của người thực hành
26
và người xúi giục ở chỗ là: hành vi của người giúp sức có thể là trực tiếp hoặc
gián tiếp, tuy nhiên hành vi của người thực hành và người xúi giục bắt buộc
phải là trực tiếp.
- Hành vi của người giúp sức chỉ tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực
hiện tội phạm chứ nó không trực tiếp thực hiện tội phạm, không thực hiện
hành vi mô tả trong cấu thành tội phạm. trong khi đó người thực hành phải
là người trực tiếp thực hiện tội phạm, thực hiện hành vi mô tả trong cấu
thành tội phạm.
Cũng theo Th. S Mai Lan Ngọc thì người giúp sức và người xúi giục có
điểm giống nhau là cùng sử dụng thủ đoạn chỉ dẫn, khuyên bảo, nhưng người
giúp sức và người xúi giục có vai trò khác nhau trong việc hình thành thái độ
quyết tâm thực hiện tội phạm của người thực hành. Nếu như người xúi giục
làm xuất hiện thái độ quyết tâm thực hiện tội phạm, thì người giúp sức (giúp
sức về tinh thần) chỉ có vai trò củng cố thái độ quyết tâm thực hiện tội phạm
đã được hình thành của người thực hành [38,tr. 33].
Nếu hành vi giúp sức không có tính chất quyết định trong việc kích
động người khác phạm tội thì hành vi xúi giục lại thúc đẩy người khác từ chỗ
chưa có ý định phạm tội, mặc dù không yêu cầu phải thúc đẩy theo một hình
thức nào: có thể bằng lời nói hoặc thư viết. Người thúc đẩy người khác phạm
tội phải chịu TNHS. Việc xác định rõ TNHS mà người xúi giục phải chịu tuỳ
thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi cũng như bản chất của người xúi
giục và người bị xúi giục. Trong mọi trường hợp hậu quả mà người thực hành
gây ra phải là kết quả của hành vi xúi giục. Người xúi giục luôn được coi là
tác giả tinh thần của tội phạm. Do đó người xúi giục được coi là loại người
nguy hiểm trong đồng phạm, cần phải có biện pháp để trừng trị nghiêm khắc.
- Hành vi của người giúp sức là tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bọn
thực hiện tội phạm. Tính chất và mức độ của hành vi giúp sức cũng được coi
27
là ít nguy hiểm hơn so với hành vi phạm tội của những người đồng phạm
khác. Do vậy, luật hình sự Việt Nam không coi người giúp sức là đối tượng
cần nghiêm trị như những người đồng phạm khác. Đó là cơ sở để cơ quan xét
xử đưa ra quyết định hình phạt đối với người giúp sức nhẹ hơn so với quyết
định hình phạt đối với những người cùng phạm tội trong vụ đồng phạm đó.
- Bên cạnh đó, trong nội dung của luận văn này tác giả còn đưa ra sự
khác nhau giữa hành vi của người giúp sức trong đồng phạm với hành vi giúp
sức cấu thành tội phạm độc lập; hành vi giúp sức với những trường hợp vô ý
tạo điều kiện cho tội phạm:
+) Hành vi giúp sức trong đồng phạm thì sẽ chịu TNHS chung với đồng
phạm về hành vi phạm tội gây ra, tuy nhiên được chia theo mức độ phạm tội.
Ví dụ: A là giúp sức trong tội Cướp tài sản thì A sẽ chịu TNHS của tội Cướp
tài sản cùng với các đồng phạm khác; Còn hành vi giúp sức cấu thành tội
phạm độc lập thì sẽ chịu TNHS độc lập với tội phạm do hành vi gây ra. Ví dụ:
A, B, C, D rủ nhau đi cướp tàu chở phân đạm trên sông Kalong vào lúc 22h
nhằm lúc chủ tàu ngủ say, A được phân công đứng cảnh giới trên bờ còn
B,C,D xuống dưới tàu ăn trộm. A đứng khá xa bờ và do trời tối nên không thể
quan sát được sự việc xảy ra bên dưới tàu. Trong khi đó dưới tàu lúc B,C,D
đang vác trộm phân đạm bị chủ tàu phát hiện nên B dí dao vào cổ chủ tàu uy
hiếp, còn C và D dung dây thừng trói chủ tàu vào thành tàu rồi cả 3 tiếp tục
vác trộm phân đạm. Trong ví dụ này tội phạm đã được chuyển hóa từ trộm
sang cướp vì thế B, C, và D chịu TNHS với tội Cướp tài sản; riêng A được
phân công với vai trò cảnh giới nhằm đi trộm tài sản vì thế A sẽ chịu TNHS
với tội Trộm tài sản.
+)Hành vi giúp sức với trường hợp vô ý tạo điều kiện cho tội phạm:
Hành vi của người giúp sức thì sẽ phải chịu TNHS còn hành vi của người vô
ý tạo điều kiện cho tội phạm thì không khải chịu TNHS. Ví dụ: Bảo vệ nhà
28
kho của Công ty A do mệt quá ngủ quên nên đã tạo sơ hở cho trộm vào lấy
mất một số máy móc có giá của công ty, Trường hợp này Bảo vệ không phải
chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản tuy nhiên sẽ phải bồi thường máy móc và
thiệt hại cho Công ty.
1.3. Người giúp sức theo quy định trong Bộ luật hình sự một số
nước trên thế giới
Đồng phạm là một chế định quan trọng của Luật hình sự. Luật hình sự
của nhiều nước trên thế giới đều quy định trường hợp một tội phạm do nhiều
người thực hiện. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật của nhiều nước
không có quy định định nghĩa về đồng phạm cũng như các loại người trong
đồng phạm.
Bộ luật sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 1979 tại Điều 22
quy định định tương đối đầy đủ:
Hai hay nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là
đồng phạm.
Hai hoặc nhiều người vô ý cùng thực hiện một tội phạm không
phải là đồng phạm. Điều 23 quy định: Người tổ chức, chỉ huy các loại
hoạt động phạm tội hoặc giữ vai trò chính trong đồng phạm là chính
phạm. Điều 24 quy định về người tòng phạm: Người giữ vai trò thứ
yếu hoặc giúp sức trong đồng phạm là tòng phạm [28, tr.40].
Từ quy định trên của bộ luật hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa 1979 ta thấy đồng phạm nói chung và vai trò của từng loại đồng phạm
nói riêng được quy định đầy đủ và rõ ràng. Đồng phạm được nhắc tới lỗi cố ý
và lỗi vô ý thì được quy định rõ không phải là đồng phạm – Điều 22, điều này
là thuận lợi trong việc áp dụng luật sẽ tránh nhũng vướng mắc về việc nhầm
lẫn giữa các hành vi phạm tội do lỗi cố ý hay vô ý; Điều 23 quy định về từng
loại đồng phạm trong đó có người giúp sức với tên gọi là “Tòng phạm”.
29
Theo Điều 33 Bộ luật hình sự của Liên Bang Nga cũng có quy định:
“Hai hay nhiều người cùng cố ý thực hiện một tội cố ý là đồng phạm” [10,
tr.32]. Cũng như Bộ luật hình sự Liên Bang Nga, Bộ luật hình sự Việt Nam
quy định đồng phạm là trường hợp có hai hay nhiều người cố ý cùng thực hiện
một tội phạm. Pháp luật hình sự của các nước trên thế giới có những quy định
rất đa dạng về đồng phạm. Nhưng chỉ có một số ít các quốc gia trong đó có
Việt nam quy định về các loại người đồng phạm và người thực hành trong
đồng phạm.
Trong luật hình sự của CHLB Đức, nhà làm luật không ghi nhận các
định nghĩa pháp lý của các khái niệm đồng phạm, các loại người đồng phạm và
các hình thức đồng phạm, mà chỉ quy định việc trừng phạt về hình sự hành vi
thực hành, xúi giục, giúp sức và phạm tội chưa đạt trong đồng phạm. Về người
thực hành điều 47 quy định: “Nhiều người thực hiện một hành vi phạm tội, mỗi
người trong số họ sẽ bị trừng phạt với vai trò người thực hành” [9, tr. 39].
Trong BLHS Liên Bang Nga được Đuma Quốc 24/5/1996 và tổng
thống Lin Bang Nga ký Luật số 64 ngày 13/6/1996 “Về việc thi hành BLHS
của Liên Bang Nga” có hiệu lực từ ngày 01/01/1997. Theo Điều 34 BLHS
Liên Bang Nga thì người giúp sức được quy định như sau:
Người giúp sức là người thúc đẩy việc phạm tội bằng chỉ dẫn,
bày cách, cung cấp thụng tin hoặc phương tiện, công cụ phạm tội
hoặc khắc phục trở ngại, cũng như người hứa hẹn trước che giấu
người phạm tội, cất giấu phương tiện, công cụ phạm tội, che giấu
dấu vết của tội phạm hoặc đồ vật do phạm tội mà cú hoặc là người
hứa hẹn trước việc tiêu thụ những đồ vật này [10, tr.32].
Điểm tương đồng giữa BLHS Liên Bang Nga so với BLHS Việt Nam năm
1999 chính là sự phân chia các chủ thể trong đồng phạm thành bốn loại người
đồng phạm: người thực hành, người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức.
30
Nếu so sánh với khái niệm về các loại người đồng phạm có trong Bộ
luật hình sự của các nước nêu trên với quy định trong Bộ luật hình sự nước ta,
thấy rằng khái niệm người thực hành được hiểu giống nhau, người giúp sức
về mặt hành vi khách quan giống nhau nhưng tên gọi có thể khác là người
tòng phạm; người xúi giục được hiểu giống nhau nhưng tên gọi có thể khác là
người chính phạm; không có khái niệm về người tổ chức. Đây là điểm khác
nhau cơ bản về quy định các loại người đồng phạm giữa Bộ luật hình sự nước
ta với Bộ luật hình sự các nước trên.
31
Chương 2
NGƯỜI GIÚP SỨC THEO CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH
VỀ NGƯỜI GIÚP SỨC TRONG ĐỒNG PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Người giúp sức theo các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999
2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự
Tại Khoản 1 Điều 20 BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 đã quy định:
Đồng phạm là trường hợp hai người trở lên cùng cố ý thực
hiện một tội phạm.
Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp
sức đều là những người đồng phạm.
Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc
vật chất cho việc thực hiện tội phạm [48, tr.57].
Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất
cho việc thực hiện tội phạm. Trong một vụ án có đồng phạm, vai trò của
người giúp sức cũng rất quan trọng, nếu không có người giúp sức, thì
người thực hiện tội phạm sẽ gặp khó khăn. Ví dụ: Phạm Thị H hứa với
Trần Công T sẽ tiêu thụ toàn bộ số tài sản nếu T trộm cắp được. Vì có sự
hứa hẹn của H nên đã thúc đẩy T quyết tâm phạm tội (vì đã có nơi tiêu thụ
tài sản trộm cắp được).
Người giúp sức có thể giúp bằng lời khuyên, lời chỉ dẫn; cung cấp
phương tiện phạm tội hoặc khắc phục những trở ngại cho việc thực hiện tội
phạm; hứa che giấu người phạm tội, phương tiện, xoá dấu vết, hứa tiêu thụ tài
sản do phạm tội mà có...
32
Hành vi tạo những điều kiện về tinh thần thường được biểu hiện như:
Hứa hẹn sẽ che giấu hoặc hứa ban phát cho người phạm tội một lợi ích tinh
thần nào đó như: hứa gả con, hứa đề bạt, thăng cấp, tăng lương cho người
phạm tội; bày vẽ cho người phạm tội cách thức thực hiện tội phạm như: nói
cho người phạm tội biết chủ nhà thường vắng nhà vào giờ nào để đến trộm
cắp, nói cho người phạm tội biết người bị hại hay đi về đường nào để người
phạm tội phục đánh...
Hành vi tạo điều kiện vật chất cho việc thực hiện tội phạm là hành vi
cung cấp phương tiện phạm tội như: cung cấp dao, súng, côn gỗ, xe máy, xe ô
tô... để người phạm tội thực hiện tội phạm.
Dù tạo điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm, thì
hành vi đó cũng chỉ tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực hiện tội phạm chứ
người giúp sức không trực tiếp thực hiện tội phạm.
Hành vi tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm cuả người giúp sức
cũng có thể là hành vi của người tổ chức, nhưng khác với người tổ chức,
người giúp sức không phải là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy mà chỉ có vai
trò thứ yếu trong vụ án đồng phạm. Nếu các tình tiết khác như nhau thì người
giúp sức bao giờ cũng được áp dụng hình phạt nhẹ hơn những người đồng
phạm khác.
Như vậy, người giúp sức trong đồng phạm trước hết phải thoả mãn các
dấu hiệu của quy định về đồng phạm.
* Về mặt khách quan của đồng phạm:
Dấu hiệu thứ nhất thuộc mặt khách quan của đồng phạm đòi hỏi phải có
ít nhất hai người trở lên có đủ điều kiện chủ thể tham gia thực hiện một tội
phạm độc lập.
Nói hai người trở lên là nói về những người có hành vi nguy hiểm cho
xã hội đến một mức độ nhất định nào đó cùng thực hiện một tội phạm. Theo
33
TSKH.PGS Lê Cảm thì “Phải có sự cùng tham gia của từ hai người trở lên
vào việc thực hiện tội phạm (nói như vậy mới đảm bảo sự chính xác vì nếu nói
là “cùng thực hiện” thì có nghĩa là mới chỉ đề cập tới hành vi của một loại
người đồng phạm – người thực hành mà thôi)” [24, tr.26].
Khoản 4 Điều 8 BLHS sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định:
“Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã
hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp
khác” [48, tr.52]. Trong thực tiễn, nguyên tắc này được áp dụng khi xử lý đối
với tất cả các tội phạm kể cả những tội phạm có đồng phạm. Chúng ta thường
thấy trong những vụ âm mưu lật đổ chính quyền, bạo loạn, hoạt động phỉ…
có đông người tham gia, không phải tất cả những người tham gia đều bị đưa
ra truy tố xét xử mà chỉ những người có mức độ tham gia đáng kể mới bị truy
tố xét xử, còn những người tham gia với mức độ nhỏ nhặt không đáng kể
thường được xử lý bằng các biện pháp khác không phải biện pháp hình sự.
Tội phạm có người trở lên cùng thực hiện nhưng chỉ có một người thỏa mãn
dấu hiệu chủ thể thì vụ án đó không có đồng phạm. Nếu vụ án có rất nhiều
người tham gia thực hiện nhưng chỉ có hai người thỏa mãn dấu hiệu chủ thể
thì vụ án vẫn được xác định là có đồng phạm.
Yếu tố chủ thể tham gia thực hiện tội phạm là cơ sở quyết định tính
chất của tội phạm. Thực tế cho thấy, một tội phạm được thực hiện chỉ do một
người thực hiện nhưng cũng có thể nó là kết quả của sự liên kết, phối hợp
giữa nhiều chủ thể khác nhau. Sự tham gia của nhiều người vào việc gây án
đã làm cho tội phạm có sự thay đổi về chất và có tính nguy hiểm cho xã hội
cao hơn hẳn trường hợp phạm tội riêng lẻ. Khi tội phạm có nhiều người cùng
tham gia thì những người phạm tội có tâm lý dựa vào sức mạnh tập thể, nên
liều lĩnh và táo bạo hơn, quyết tâm phạm tội hơn. Do đó, tội phạm có khả
năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội cao hơn.
34
Trong một vụ đồng phạm, có thể có đủ bốn loại hành vi: hành vi thực
hành, hành vi tổ chức, hành vi xúi giục, hành vi giúp sức nhưng cùng có thể
không có đủ cả bốn loại hành vi. Hành vi thực hành là hành vi trung tâm, nếu
thiếu hành vi thực hành thì không có đồng phạm. Một người đồng phạm có
thể tham gia thực hiện tội phạm với một hoặc nhiều loại hành vi khác nhau.
Vì vậy để có được sự áp dụng, xử lý phù hợp, chính xác vai trò, loại hành vi
của đồng phạm trong tội phạm cần có những nghiên cứu cụ thể về lý luận
cũng như các quy định rõ ràng trong hoạt động thực tiễn.
Thực tế xét xử đã có những vụ việc trong bản án có đủ các loại người
trong đồng phạm và một người tham gia với nhiều loại hành vi khác nhau.
Nếu hành vi của họ chỉ tham gia một tội phạm độc lập mà không tham gia tất
cả các hành vi phạm tội mà những người khác đã thực hiện thì họ chỉ chịu
trách nhiệm đối với những hành vi phạm tội mà họ đã tham gia [53, tr.43]..
Ví dụ: Tại bản án số 25/2010/HSST ngày 08/11/2010 TAND quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội xét xử cho thấy: Lợi dụng nhu cầu của một số người
muốn mua xe máy giá rẻ giáo bán trên mạng internet Phạm Văn Bảo đã bàn
bạc cùng Nguyễn Văn Hùng vờ có xe máy bán rồi hẹn người mua đem tiền
đến địa điểm do Bảo và đồng bọn bố trí để ép họ phải giao tiền, nếu họ không
giao sẽ dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản của họ. Quá trình thực hiện hành vi,
Bảo, Hùng là người chủ động tìm đối tượng muốn mua xe, lên kế hoạch về
thời gian, địa điểm, chuẩn bị phương tiện đi lại, dụng cụ thực hiện tội phạm
mang theo. Ở mỗi lần thực hiện tội phạm khác nhau Bảo, Hùng còn rủ thêm
Duy Linh, Văn Sơn, Văn Duy, Công Long và Quang Duy tham gia. Trong
khoảng thời gian từ tháng 8 đến tháng 10 năm 2009, bảo và đồng phạm đã
thực hiện trót lọt 03 vụ “Cướp tài sản” và 04 vụ “Cưỡng đoạt tài sản”. Trong
nhiều vụ án Long, Sơn có mặt tại nơi xảy ra sự việc cảnh giới, uy hiếp tinh
thần cho đồng phạm khác thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người bị
35
hại hoặc nổ máy xe chờ đồng bọn thực hiện xong việc chiếm đoạt việc tài sản
của người bị hại thì cùng tẩu thoát. Duy Linh, Văn Duy, Quang Duy nhiều lần
cùng Bảo, Hùng tham gia đánh, lục soát, lấy tài sản của người bị hại.
Trong vụ án này, Bảo Hùng vừa là người tổ chức, vừa có hành vi của
người thực hành, người xúi giục. Các bị cáo Linh, Sơn, Văn Duy, Quang Duy,
Long thì có vai trò là người thực hành, người giúp sức trong từng vụ việc.
Những vụ “Cướp tài sản” Bảo, Hùng cùng nhau thực hiện Linh, Sơn,
Văn Duy, Quang Duy, Long không biết, không tham gia nên không phải là
đồng phạm, không phải chịu trách nhiệm với Bảo, Hùng.
Tuy vậy, không phải trong mọi trường hợp cứ có nhiều người cùng
thực hiện một tội phạm đều là đồng phạm.
Vụ án cụ thể như sau:
Qua bài viết của tác giả Nguyễn Văn Tú- Toà án Quân sự Quân chủng
Hải Quân, được đăng trên Tạp chí Toà án số 03 tháng 02 năm 2007 về việc
xác định tội danh đối với Hoàng Tiến H, nội dung sự việc như sau:
Cuối tháng 05/2006, Nguyễn Huy Quân bàn bạc với Nguyễn Văn Lâm
và Đặng Ngọc Cương về việc đào đường ông cấp nước cho bán đảo X, được
Lâm và Cương đồng ý và yêu cầu Quân nhờ Hoàng Tiến H là Trung đội phó
trinh sát có nhiệm vụ bảo vệ toàn bộ khu vực để Hoàng Tiến H móc nói với các
chiến sỹ bảo vệ thì Lâm và Cương mới tham gia. Nguyễn Huy Quân đã đến
phòng ngủ của Hoàng Tiến H để nhờ H móc nối với các chiến sỹ bảo vệ của
đơn vị cảnh giới cho nhóm của Quân đào ống nước và hứa sẽ chia tiền cho
Hoàng Tiến H và được H đồng ý giúp và còn hẹn với Nguyễn Huy Quân khi
nào nhóm của Quân hành sự thì báo cho Hoàng Tiến H biết để H không phân
công đi tuần ở khu vực đó. Nguyễn Huy Quân và Hoàng Tiến H trao đổi cho
nhau số điện thoại di động để tiện liên lạc khi cần, hẹn khi nào nhóm của Quân
đào được ông nước thì Hoàng Tiến H ra theo xe đến nhà cô Chúc để chia tiền.
36
Đến trưa ngày 07-06-2006, Nguyễn Huy Quân gặp Hoàng Tiến H nói:
“Bọn Lâm, Cương định làm nhưng do diễn tập nên chưa đưa người vào được”
đồng thời nhờ H tiếp tục giúp đỡ. Hoàng Tiến H động viên Quân cứ đưa
người vào đào ống nước vì đã có H lo việc cảnh giới, và như để Nguyễn Văn
Lâm và Đặng Ngọc Cương yên tâm thực hiện tội phạm Hoàng Tiến H đã chủ
động hẹn gặp hai người tại quán Cà phê và nói: “Quân đã thông qua công việc
làm ăn với em, các anh cứ làm em lo vòng ngoài”.
Đến khoảng 17 giờ 30 ngày 08-06-2006, Lâm và Cương vào khu vực
trạm cấp nước số 01 đào trộm ống nước, đến 23 giờ cùng ngày thì bị tổ tuần
tra phát hiện vây bắt nhưng lại bắt được Nguyễn Ngọc Tiến. Đến chiều ngày
9-8-2006 Hoàng Tiến H chủ động hẹn gặp Nguyễn Huy Quân để hỏi tại sao
Nguyễn Ngọc Tiến bị bắt tại đây Hoàng Tiến H đã xúi dục Lâm và Cương
nên bỏ trốn.
Khi bị đồng bọn nghi là Hoàng Tiến H đã báo cho đơn vị thì H nói:
“em không báo, e đã dính vào thì làm sao e báo”. Đến đây tác giả nêu hai
quan điểm trong việc định tội danh đối với Hoàng Tiến H cụ thể như sau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, Hoàng Tiến H phạm tội không tố giác
tội phạm theo Điều 314 Bộ luật Hình sự.
- Quan điểm thứ hai cho rằng, Hoàng Tiến H phạm tội phá huỷ công
trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia theo khoản 1 Điều 231 Bộ
luật Hình sự.
Qua xem xét nội dung bài viết của tác giả, tôi xin có một số ý kiến
trong việc xác định tội danh đối với Hoàng Tiến H như sau:
Đối với quan điểm thứ nhất cho rằng Hoàng Tiến H phạm tội không tố
giác tội phạm theo quy định tại Điều 314 Bộ luật Hình sự, ta thấy:
+ Hành vi thể hiện về mặt khách quan của tội không tố giác tội phạm là
dưới dạng không hành động, nghĩa là một người có đầy đủ năng lực trách
37
nhiệm hình sự, khi biết rõ về một tội phạm đang được chuẩn bị hoặc đang
được thực hiện nhưng không báo với người, cơ quan có thẩm quyền, mặc dù
có đủ điều kiện để làm việc này. Nói cách khác với phạm tội đã thờ ơ, dửng
dưng trước hành vi phạm tội đang được chuẩn bị hoặc đang diễn ra, và chính
vì thái độ này mà tội phạm đã không được ngăn chặn kịp thời, xâm hại đến
các khách thể quy định tại Điều 313 Bộ luật Hình sự. Trong một xã hội có
Nhà nước và pháp luật nếu ai cũng thờ ơ trước những vi phạm pháp luật nói
chung và hành vi phạm tội nói riêng thì chắc chắn là việc phòng chống tội
phạm sẽ rất khó khăn và hệ quả kéo theo sẽ là sự mất trật tự xã hội và hoang
mang nơi quần chúng nhân dân. Chính vì vậy mà người có hành vi không tố
giác tội phạm bị coi là có lỗi và phải chịu trách nhiệm hình sự trong những
trường hợp cụ thể quy định tại Điều 313 Bộ luật Hình sự.
+ Trở lại vụ án đối với Hoàng Tiến H chúng ta thấy Hoàng Tiến H đã
có một loạt hành vi dưới dạng hành động hết sức tích cực trong một vụ án có
đồng phạm, cụ thể như sau: Hoàng Tiến H là Trung đội phó trinh sát, có
nhiệm vụ bảo vệ toàn bộ khu vực đơn vị đóng quân tại bán đảo X. Khi
Nguyễn Huy Quân bàn bạc với Hoàng Tiến H việc đào đường ống nước bán
chia nhau tiền, đáng lẽ ra H phải ra sẽ ngăn cản hành vi của Quân và đồng
bọn, mặc dù Hoàng Tiến H hoàn toàn có khả năng để là việc này, nhưng H đã
không làm thế mà mặc nhiên đồng ý.
Đến đây chúng ta thấy Hoàng Tiến H đã tiếp nhận ý thức phạm tội từ
Nguyễn Huy Quân để từ một người (một chiến sỹ) có trách nhiệm bảo vệ tài
sản của Nhà nước, của đơn vị và cả của nhân dân, trở thành kẻ đồng loã hay
nói chính xác theo pháp luật là đồng phạm trong vụ án. Thế nhưng, chưa dừng
lại ở đó Hoàng Tiến H còn cho Quân số điện thoại để hai bên liên lạc với
nhau thống nhất thời gian khi thực hiện tội phạm, và cũng là để H biết mà lo
cảnh giới cho Nguyễn Văn Lâm và Đặng Ngọc Cương là người thực hành
38
trong vụ án đồng phạm này. Riêng đối với Nguyễn Huy Quân là người tổ
chức, chủ mưu thực hiện tội phạm.
Như vậy, kể từ thời điểm Nguyễn Huy Quân bàn bạc việc đào phá ống
nước với Hoàng Tiến H và hứa chia tiền cho H được Hoàng Tiến H đồng ý thì
H đã trở thành đồng phạm với vai trò là người giúp sức; Hoàng Tiến H không
chỉ giúp sức về mặt tin thần như tác giả Nguyễn Văn Tú nhận định mà cả về
mặt vật chất đó là đã tạo ra sự thuận lợi là khoảng trống về thời gian trong
một đơn vị của Quân đội vốn được canh phòng nghiêm ngặt và thường xuyên,
điều này càng thể hiện rõ hơn nữa khi Hoàng Tiến H cho Quân số điện thoại
của mình để tiện liên lạc với nhau khi hành sự. Mặt khác khi Lâm và Cương
chưa thực hiện được hành vi phạm tội vì sợ đơn vị Quân đội đang diễn tập thì
Hoàng Tiến H đã chủ động hẹn gặp Lâm và Cương ở quán Cà phê và nói:
“Quân đã thông qua công việc làm ăn với em, các anh cứ làm em lo vòng
ngoài”. Đến đây ta thấy, ngoài việc giúp sức tích cực về tinh thần và vật chất
thì Hoàng Tiến H còn là kẻ xúi giục trong vụ án đồng phạm này, và qua câu
nói trên Hoàng Tiến H đã thể hiện ý chí rất rõ ràng rằng: “H là đồng phạm
trong vụ án có trách nhiệm thực hiện một phần tiến trình phạm tội của đồng
phạm”. Thậm chí là khi vụ việc đã bị vỡ lở, nhận thấy nguy cơ sẽ bị phát hiện,
Hoàng Tiến H thông qua Nguyễn Huy Quân đã xúi giục Nguyễn Văn Lâm và
Đặng Ngọc Cương bỏ trốn, những tưởng sẽ nhân cơ hội này đổ hết tội lỗi cho
Lâm và Cương nhưng có lẽ “Luật bất dung gian” nên hành vi của Hoàng Tiến
H đã bị phát hiện.
Từ những phân tích trên, chúng ta thấy, Hoàng Tiến H đã có một loạt
hành vi bằng hành động cụ thể chứ không chỉ đơn thuần là không hành động
như mặt khách quan của tội không tố giác tội phạm. Chính vì thế hành vi của
Hoàng Tiến H không thoả mãn quy định tại Điều 314 Bộ luật Hình sự.
Đối với ý kiến thứ hai cho rằng Hoàng Tiến H phạm tội phá huỷ công
39
trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia theo khoản 1 Điều 231 Bộ
luật hình sự; như phân tích ở trên chúng ta thấy, Hoàng Tiến H sau khi tiếp
nhận ý thức phạm tội từ Nguyễn Huy Quân đã có một loạt hành vi thể hiện ý
thức chủ quan rõ ràng là cố ý cùng đồng bọn thực hiện hành vi phạm tội và
mong muốn tội phạm ra để mong hưởng lợi từ vụ đào trộm ống nước này.
Như vậy, có thể khẳng định Hoàng Tiến H là đồng phạm của vụ án.
Tuy nhiên, có một điều cần lưu ý là ông nước này có phải là công trình,
phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia hay không, cũng như ống nước
này có phải của đơn vị quân đội đóng trên bán đảo X, hay chỉ là của một số
hộ dân sinh sống trên bán đảo X bắc ngang qua đơn vị quân đội? Nó có ý
nghĩa và tầm quan trọng thế nào đối với quốc gia? Cũng là những yếu tố hết
sức quan trọng trong việc định tội danh đối với Hoàng Tiến H. Nếu thực sự
đây là công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia thì Hoàng Tiến
H phải bị truy tố về tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh
quốc gia theo khoản 2 Điều 231 BLHS với tình tiết định khung là “Có tổ
chức” mới thoả đáng, vì khoản 3 Điều 20 Bộ luật Hình sự quy định: “Phạm
tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những
người cùng thực hiện tội phạm” [48, tr.57].
Trở lại vụ án đồng phạm này, ta thấy đã có sự câu kết chặt chẽ, thử hiện
ở những điểm sau:
- Nguyễn Huy Quân là người tổ chức, chủ mưu sau khi bàn bạc với
Nguyễn Văn Lâm và Đặng Ngọc Cương được Lâm và Cương đồng ý, nhưng
cả bọn thấy rằng nếu không có người bảo vệ, cảnh giới vòng ngoài thì không
thể đào lấy ống nước được nên đã chủ động lôi kéo Hoàng Tiến H là người có
trách nhiệm bảo vệ khu vực đơn vị Quân đội và cũng là người có trách nhiệm
bảo vệ cả đường ống nước cùng tham gia và đã được H đồng ý. Quân và H đã
bàn bạc và cho nhau số điện thoại di động để thống nhất thời gian hành sự.
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luậtLuận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện BiênLuận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà NẵngLuận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam, HAY
Luận văn: Tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam, HAYLuận văn: Tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam, HAY
Luận văn: Tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam, HAY
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túyLuận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
 
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOTĐề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOTLuận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạtLuận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túyLuận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 

Similar to Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự

Áp dụng pháp luật trong điều tra tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ...
Áp dụng pháp luật trong điều tra tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ...Áp dụng pháp luật trong điều tra tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ...
Áp dụng pháp luật trong điều tra tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ...nataliej4
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sảnLuận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sảnDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019PinkHandmade
 

Similar to Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự (20)

Chế định đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam.doc
Chế định đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam.docChế định đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam.doc
Chế định đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam.doc
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOTĐề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng Nai
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng NaiLuận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng Nai
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng Nai
 
Áp dụng pháp luật trong điều tra tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ...
Áp dụng pháp luật trong điều tra tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ...Áp dụng pháp luật trong điều tra tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ...
Áp dụng pháp luật trong điều tra tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ...
 
Luận văn: Nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội cướp giật tài sản
Luận văn: Nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội cướp giật tài sảnLuận văn: Nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội cướp giật tài sản
Luận văn: Nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội cướp giật tài sản
 
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, 9 ĐIỂM
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, 9 ĐIỂMLuận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, 9 ĐIỂM
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOTLuận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sảnLuận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản
 
Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản tại quận Tân Phú, HAY
Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản tại quận Tân Phú, HAYNhân thân người phạm tội cướp giật tài sản tại quận Tân Phú, HAY
Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản tại quận Tân Phú, HAY
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản tại tp HCM
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản tại tp HCMLuận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản tại tp HCM
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản tại tp HCM
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản, HAY, 9đ
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản, HAY, 9đLuận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản, HAY, 9đ
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản, HAY, 9đ
 
Luận văn: Tình hình tội phạm tại huyện Củ Chi, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại huyện Củ Chi, TPHCM, 9đLuận văn: Tình hình tội phạm tại huyện Củ Chi, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại huyện Củ Chi, TPHCM, 9đ
 
Luận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long An
Luận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long AnLuận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long An
Luận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long An
 
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAYLuận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
 
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
 
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAYLuận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 

Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ LOAN NG¦êI GIóP SøC TRONG §åNG PH¹M THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së nghiªn cøu thùc tiÔn ®Þa bµn Thµnh phè Hµ Néi) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ LOAN NG¦êI GIóP SøC TRONG §åNG PH¹M THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së nghiªn cøu thùc tiÔn ®Þa bµn Thµnh phè Hµ Néi) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH. LÊ VĂN CẢM HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi và hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung khoa học của Luận văn này. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Lê Thị Loan
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục chữ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI GIÚP SỨC TRONG ĐỒNG PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .........9 1.1. Khái niệm đồng phạm và các hình thức đồng phạm ..................... 9 1.1.1. Khái niệm đồng phạm........................................................................ 9 1.1.2. Các hình thức đồng phạm ................................................................ 12 1.2. Khái niệm người giúp sức trong đồng phạm và ý nghĩa của việc xác định đúng vai trò người giúp sức trong đồng phạm ...... 18 1.2.1. Khái niệm người giúp sức trong đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam ......................................................................................... 18 1.2.2. Ý nghĩa của việc xác định đúng vai trò của người giúp sức trong đồng phạm....................................................................................... 20 1.2.3. Phân biệt người giúp sức với những đồng phạm khác...................... 22 1.3. Người giúp sức theo quy định trong Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới........................................................................... 28 Chương 2: NGƯỜI GIÚP SỨC THEO CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGƯỜI GIÚP SỨC TRONG ĐỒNG PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI.................31 2.1. Người giúp sức theo các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999......................................................................................... 31
  • 5. 2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự ........................................................... 31 2.1.2. Trách nhiệm hình sự đối với người giúp sức trong đồng phạm ........ 49 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về người giúp sức trong đồng phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội.................................. 57 2.2.1. Một số đặc điểm về tình hình chính trị - quốc phòng, kinh tế - xã hội, văn hóa... của địa bàn thành phố Hà Nội................................... 57 2.2.2. Tình hình phạm tội với người giúp sức trong đồng phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội và những tồn tại, hạn chế.............................. 58 2.2.3. Nguyên nhân cơ bản của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử người giúp sức trong đồng phạm ............. 61 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VỀ NGƯỜI GIÚP SỨC TRONG ĐỒNG PHẠM............................................. 64 3.1. Sự cần thiết, ý nghĩa và cơ sở của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về người giúp sức trong đồng phạm...................................................................................... 64 3.1.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về người giúp sức trong đồng phạm ................ 64 3.1.2. Ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về người giúp sức trong đồng phạm ................ 65 3.1.3. Cơ sở của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về người giúp sức trong đồng phạm........................ 65 3.2. Nội dung hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự việt Nam năm 1999 về người giúp sức trong đồng phạm.................... 66 3.2.1. Nhận xét chung................................................................................ 66 3.2.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung ............................................................... 68
  • 6. 3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về người giúp sức trong đồng phạm............................................................................ 72 3.3.1. Về mặt lập pháp............................................................................... 72 3.3.2. Tăng cường giải thích pháp luật, hướng dẫn áp dụng pháp luật........ 73 3.3.3. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức pháp luật và trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ thẩm phán Tòa án các cấp...... 74 3.3.4. Tăng cường kiểm sát việc áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến những loại người đồng phạm của Viện kiểm sát nhân dân......... 75 KẾT LUẬN................................................................................................. 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 78
  • 7. CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự CHLB: Cộng hòa liên bang CTTP: Cấu thành tội phạm NLTNHS: Năng lực trách nhiệm hình sự TANDTC: Tòa án nhân dân Tối cao TNHH: Trách nhiệm hữu hạn TNHS: Trách nhiệm hình sự
  • 8. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Một số nhóm tội, loại tội trong số 202 bản án có đồng phạm mà tác giả đã nghiên cứu 59
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong những năm qua, các ngành, các cấp do các lực lượng chuyên trách làm nòng cốt đã triển khai đồng bộ, toàn diện nhiều nội dung, biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm, thu được nhiều kết quả quan trọng. Cuộc đấu tranh đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo, điều hành của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, huy động được nhiều nguồn lực xã hội, động viên được sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân. Công tác phòng ngừa xã hội mà nòng cốt là phong trào “Toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm và quản lý, giáo dục, giúp đỡ người phạm tội trong gia đình, ở địa bàn dân cư” được triển khai sâu rộng, gắn với Cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và nhiệm vụ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân đã mang lại hiệu quả rõ nét, góp phần củng cố nền tảng ngăn ngừa tội phạm ngay từ cơ sở. Các lực lượng chuyên trách tập trung lực lượng, phương tiện, biện pháp mở nhiều đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm trên các tuyến, địa bàn trọng điểm. Hàng chục nghìn băng nhóm tội phạm hình sự nguy hiểm, đường dây mua bán vận chuyển ma túy đã được triệt phá, bóc gỡ; nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng lớn được phát hiện, điều tra, xử lý; hoạt động của tội phạm có tổ chức và băng nhóm tội phạm hình sự mang tính chất “xã hội đen” đã được ngăn chặn; tình hình tội phạm ở các thành phố lớn, trên các tuyến, địa bàn trọng điểm cơ bản được kiềm chế. Đạt được những kết quả trên là do đã huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sức mạnh tổng hợp của xã hội và sự cố gắng, nỗ lực của các lực lượng chuyên trách. Mặc dù vậy, tình hình tội phạm ở nước ta vẫn diễn biến rất phức tạp. Nhiều loại tội phạm nghiêm trọng chưa được kiềm chế. Tội phạm có tổ chức, băng nhóm tội phạm mang tính chất “xã hội đen”, tội
  • 10. 2 phạm buôn lậu, gian lận thương mại, tội phạm về ma túy hoạt động công khai, lộng hành ở nhiều thành phố lớn, trên các tuyến biên giới, trắng trợn xâm phạm quyền, lợi ích của Nhà nước, xã hội và nhân dân. Tham nhũng và tội phạm tham nhũng vẫn hết sức nhức nhối, trở thành một trong những mối đe dọa trực tiếp sự tồn vong của chế độ. Tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường xảy ra trong nhiều lĩnh vực, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế của đất nước, xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi của người dân và sức khỏe cộng đồng. Tội phạm có tính quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia và tội phạm sử dụng công nghệ cao đang là một thách thức lớn. Tính chất tội phạm ngày càng nguy hiểm, mang yếu tố quốc tế, có tổ chức, xuyên quốc gia và sử dụng công nghệ cao. Thủ đoạn hoạt động tinh vi, phương thức hoạt động xảo quyệt, manh động, liều lĩnh. Tội phạm hình sự có tổ chức, băng nhóm “xã hội đen” gây án nghiêm trọng, băng nhóm tội phạm ma túy có vũ trang ở khu vực biên giới, tội phạm tham nhũng và tội phạm kinh tế trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, đầu tư, quản lý, sử dụng đất đai và thương mại, tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường vẫn hết sức nhức nhối. Xu hướng tội phạm cấu kết với nhau hình thành các tập đoàn tội phạm lớn hoạt động đa lĩnh vực, liên tỉnh, xuyên quốc gia, nếu không được đấu tranh ngăn chặn, có thể trở thành hiện thực. Tội phạm do suy thoái đạo đức xã hội, đạo đức gia đình có xu hướng gia tăng, trực tiếp đe dọa phá vỡ nền tảng đạo đức, văn hóa của xã hội. Mức độ hậu quả gây ra cho xã hội của các loại tội phạm ngày càng lớn, xâm phạm nghiêm trọng trật tự, kỷ cương pháp luật xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước và xã hội, tài sản, tính mạng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, làm suy giảm niềm tin xã hội và cản trở công cuộc phát triển đất nước. Thành phần phạm tội đa dạng, phức tạp. Tội phạm nghiêm trọng chủ yếu do các đối tượng chuyên nghiệp gây ra. Tuy nhiên, cũng cần đặc biệt chú ý phòng ngừa, ngăn chặn, làm giảm
  • 11. 3 những nhân tố đầu vào của tội phạm, những người có nguy cơ mắc vào các tệ nạn xã hội và sa vào con đường phạm tội, như những người lao động tự do, thiếu việc làm và thất nghiệp do chịu ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế vừa qua; thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên bỏ học, bỏ nhà tụ tập, lang thang, sống bầy đàn và một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức hư hỏng, thoái hóa, biến chất. Địa bàn hoạt động của tội phạm chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, các tuyến trọng điểm, các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội, nhất là ở Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các đô thị loại 1 và các vùng chiến lược về an ninh, trật tự; trên các tuyến biên giới, quốc lộ trọng điểm, tuyến hàng không quốc tế, tuyến bưu chính - viễn thông; trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, quản lý, sử dụng đất đai, xuất - nhập khẩu, thương mại điện tử, tổ chức cán bộ và an sinh xã hội... Trong những năm gần đây thì tình hình tội phạm nói chung, cũng như tình hình phạm tội có tổ chức trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng diễn ra hết sức tinh vi, phức tạp. Bên cạnh đó vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc làm hạn chế quá trình áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 của các cơ quan áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, đi đôi với bối cảnh đó là sự diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm, tội phạm do nhiều người cùng thực hiện, mang tính chất quốc tế, xuyên quốc gia. So với tội phạm do một người thực hiện, tội phạm do có đồng phạm thực hiện thường nguy hiểm hơn, vì khi một nhóm người cùng cố ý thực hiện hành vi phạm tội thì tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội sẽ tăng lên đáng kể, nhất là khi có sự câu kết chặt chẽ về giúp sức và cách thức thực hiện. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao thì số vụ án hình sự có đông các bị cáo (từ 02 trở lên) tham gia, đều thể hiện năm sau tăng hơn năm trước, tính chất thực hiện hành vi phạm tội quy mô hơn, phức tạp hơn, nguy hiểm hơn. Bởi lẽ trong những vụ án đó luôn có những người đứng ra giúp sức, chỉ huy các đồng phạm khác thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, người giúp sức bao giờ cũng giữ vai trò chính trong vụ án. Tuy
  • 12. 4 nhiên, thực tiễn công tác điều tra, truy tố và xét xử cho thấy nhận thức về đồng phạm, cũng như nhận thức để xác định vai trò người giúp sức trong đồng phạm hiện nay chưa được thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, vẫn còn nhiều quan điểm và ý kiến trái ngược nhau. Những ý kiến khác nhau này đã gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Nhằm làm sáng tỏ các dấu hiệu, đặc điểm pháp lý của "người giúp sức trong đồng phạm", tác giả phân tích, khái quát lịch sự hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay và thực tiễn xét xử các vụ án có đồng phạm ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn (2009 - 2013) để trên cơ sở đó, tìm giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự và giải pháp về mặt thực tiễn nhằm góp phần phòng, chống các tội phạm có đồng phạm, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội. Đây cũng là lý do để học viên quyết định lựa chọn đề tài: "Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu về đồng phạm đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận, luật gia hình sự và cán bộ thực tiễn. Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố dưới các góc độ và mức độ khác nhau như: * Dưới góc độ luận án tiễn sĩ, luận văn thạc sĩ luật học, có các công trình sau: “Đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Quang Tiệp, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2000; “Các hình thức đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam”của tác giả Nguyễn Thị Liên, Luận văn thạc sỹ luật học năm 2009 của Khoa Luật Trường Đại học Quốc gia Hà Nội; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Mai Lan Ngọc, luận văn thạc sỹ luật học năm 2012, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
  • 13. 5 * Dưới góc độ đề tài khoa học, bài viết trên báo, tạp chí, có nhiều công trình, bài viết như: “Về chế định đồng phạm” của GS.TSKH Lê Văn Cảm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2 năm 1998; “Trần Quốc Dũng phạm tội gỉ? Bàn về giai đoạn phạm tội và vấn đề cộng phạm” của tác giả Nguyễn Ngọc Hòa, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2 năm 1980; “Đồng phạm và một số vấn đề về thực tiễn xét xử” của tác giả Đoàn Văn Hường, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4 năm 2003; “Vấn đề đồng phạm” của tác giả Đặng Văn Doãn, Nhà xuất bản Pháp lý Hà Nội năm 1986; “Đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam” của TS Trần Quang Tiệp, Tạp chí nhà xuất bản Tư pháp năm 2007; “Chế định đồng phạm trong pháp luật hình sự ở một số nước trên thế giới”của tác giả Trần Quang Tiệp; Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11 năm 1997; “Về các giai đoạn thực hiện hành vi đồng phạm” Của tác giả Lê Thị Sơn, Tạp chí Luật học, số 3 năm 1998; Phạm tội có giúp sức trong luật hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Trung Thành, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9 năm 1999; “Phân biệt đồng phạm với che dấu tội phạm và không tố giác tội phạm” của tác giả Dương Văn Tiến, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1 năm 1985; “Các hình thức đồng phạm và trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm” của tác giả Dương Văn Tiến, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1 năm 1986; “Phân biệt phạm tội có giúp sức, giúp sức phạm tội và tội phạm có giúp sức” của tác giả Đỗ Ngọc Quang, Tạp chí Luật học, số 3 năm 1997; ‘Bình luận khoa học BLHS năm 1999 (Phần chung) của tác giả Đinh Văn Quế, Nhà xuất bản Thành phố hồ Chí Minh, năm 2004; Như vậy, các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề về Người giúp sức trong đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, về phương diện nghiên cứu lý luận chuyên sâu và thực tiễn xét xử trên một địa bàn cụ thể thì vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức. Qua nghiên cứu các công trình nêu trên cho thấy: một số công trình có phạm vi nghiên cứu rộng nhưng tác giả chỉ đề cập nghiên cứu về đồng phạm nói chung, vấn đề người
  • 14. 6 giúp sức chỉ là một phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu của các tác giả nên chưa được phân tích sâu về mặt lý luận và thực tiễn hoặc chỉ xem xét dưới góc độ tội phạm học. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của BLHS năm 1999 về người giúp sức trong chế định đồng phạm, cũng như đề đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về chế định đồng phạm vẫn còn có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là phục vụ trực tiếp cho địa bàn Thành phố Hà Nội. Vì lý do đó, đề tài "Người giúp sức trong đồng phạm theo Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" nhằm nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt, lý giải nguyên nhân phạm tội, những đặc điểm nhân thân người phạm tội. Ở phạm vi luận văn này, tác giả nghiên cứu dựa trên thực tiễn tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử vụ án có người giúp sức trong đồng phạm, giai đoạn 05 năm (2009 - 2013) để từ đó đưa ra các biện pháp hoàn thiện quy định của BLHS, đồng thời nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội. 3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ bản của người giúp sức trong đồng phạm như: Khái niệm; các dấu hiệu pháp lý; trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; phân biệt người giúp sức với các hình thức đồng phạm khác. Trên cơ sở đó, luận chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại trong xác định vai trò người giúp sức tham gia đồng phạm, cũng như xác định trách nhiệm hình sự của họ để đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS Việt Nam về xử lý đối tượng này. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của đề tài: "Người giúp sức trong đồng phạm theo Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)".
  • 15. 7 Đối tượng nghiên cứu của luận văn được các định gồm 02 vấn đề chính: - Các vấn đề lý luận về người giúp sức trong chế định đồng phạm theo quy định của Luật hình sự Việt Nam. - Các vấn đề về thực tiễn áp dụng các quy định đối với người giúp sức trong vụ án có đồng phạm theo quy định của Luật hình sự Việt Nam (trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2009 đến năm 2013). 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Quá trình nghiên cứu trong đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phương pháp so sánh, đối chiếu; phân tích thuần túy quy phạm pháp luật; nghiên cứu, điều tra án điển hình... để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu trong luận văn này. Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, học viên đã tiếp thu có chọn lọc kết quả của các công trình đã công bố; các đánh giá, tổng kết của các cơ quan chuyên môn và các chuyên gia về những vấn đề có liên quan đến các vấn đề nghiên cứu trong luận văn. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Dưới góc độ lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về chế định đồng phạm trong khoa học Luật hình sự Việt Nam. Cụ thể, đã làm rõ các vấn đề chung về người giúp sức trong đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam, phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định pháp luật hình sự nước ta về người giúp sức trong đồng phạm từ năm 1945 đến nay, phân biệt hình thức đồng phạm này với một số hình thức đồng phạm khác mà hiện nay thường có sự nhầm lẫn trong thực tiễn; làm sáng tỏ chế định đồng phạm quy định của Bộ luật hình sự năm 1999; phân tích thông qua nghiên cứu thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hà
  • 16. 8 Nội từ năm 2009 đến năm 2013 và trên toàn quốc để so sánh, qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập của các quy định hiện hành; chỉ ra các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó cũng như đưa ra nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về người giúp sức trong chế định đồng phạm ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn. Về thực tiễn, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận, có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam liên quan đến việc xác định người giúp sức trong đồng phạm, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm có sự tham gia của người giúp sức hiện nay và sắp tới. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về người giúp sức trong đồng phạm theo Luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Người giúp sức theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn xét xử các vụ án đồng phạm có liên quan đến người giúp sức trên địa bàn Thành phố Hà Nội (giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2013). Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về các vụ án đồng phạm có liên quan đến người giúp sức.
  • 17. 9 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI GIÚP SỨC TRONG ĐỒNG PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm đồng phạm và các hình thức đồng phạm 1.1.1. Khái niệm đồng phạm Tội phạm có thể do một chủ thể thực hiện, cũng có thể là sự phối hợp cùng tham gia của nhiều chủ thể khác nhau. Khi một tội phạm được thực hiện bởi nhiều người phạm tội thì việc xác định TNHS đối với họ là rất phức tạp. Một trong những cơ sở quan trọng để chúng ta xác định được đúng người đúng tội chính là những qui định đã được pháp điển hóa trong các BLHS. Luật hình sự các nước trên thế giới đều có quy định về đồng phạm. Bộ luật sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 1979 tại Điều 22 quy định: “Hai hay nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm” [28, tr.14]. Theo Điều 33 Bộ luật hình sự của Liên Bang Nga cũng có quy định: “Hai hay nhiều người cùng cố ý thực hiện một tội cố ý là đồng phạm” [10, tr.58]. Pháp luật hình sự của các nước trên thế giới có những quy định rất đa dạng về đồng phạm. Nhưng điều mà chúng ta quan tâm hơn cả đó chính là những quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam về trường hợp nhiều người cùng tham gia vụ đồng phạm. Trên lãnh thổ của Nhà nước Việt Nam trước đây, trong thời kỳ phong kiến, cũng đã có các quy định sơ khai về đồng phạm. Luật hình sự phong kiến được hình thành và phát triển trên cơ sở của nhiều chế định khác nhau, thì vấn đề đồng phạm đã bước đầu được đề cập tới. Bộ “Quốc triều hình luật” năm 1483 dưới triều nhà Lê đã xuất hiện những quy định về vấn đề nhiều người cùng phạm tội. Mặc dù chưa đưa ra định nghĩa về đồng phạm nhưng Bộ luật đã có những quy định về TNHS cho những người tham gia phạm tội. Điều 454 quy định:
  • 18. 10 Những kẻ đồng mưu với nhau đi ăn cướp nhưng khi đi thì lại không đi, người đi lấy được của về chia nhau, mà kẻ đồng mưu ở nhà cũng lấy phần, thì xử tội như là có đi ăn cướp (ăn trộm cũng vậy) nếu không lấy được phần chia thì xử lưu đi châu gần. Trước kia vẫn từng đi ăn cướp mà khi ấy không đi, dù không lấy phần cũng xử tội như đi ăn cướp [8, tr.32]. Hoặc Điều 539 quy định: Những kẻ xúi giục cho người ta không biết là phạm pháp, hay là biết phép mà cứ xúi giục họ làm trái phép, cũng là để cho người ta phạm pháp rồi bất ngờ tố cáo hay là để người khác bắt, hay tố cáo, chủ ý để lấy thưởng hay hiềm khích mà xúi giục để cho người ta phạm tội, thì cũng bị xử như người phạm pháp [8, tr.35]. Việc ghi nhận TNHS đối với “kẻ đồng mưu” hay “người xúi giục người khác phạm pháp” trong hai Điều luật trên cho thấy chế định đồng phạm đã được đề cập đến trong luật hình sự phong kiến Việt Nam. Bộ “Quốc triều hình luật” thể hiện đường lối xử lý của Nhà nước phong kiến dưới triều Lê, Điều 35 quy định: “Nhiều người cùng phạm một tội, thì lấy người khởi xướng làm đầu, người a tòng được giảm một bậc. Nếu tất cả những người trong nhà cùng phạm một tội, chỉ bắt người tôn trưởng” [37, tr.47]. Sau ngày thành lập Nhà Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến đồng phạm. Sắc lệnh số 233-SL (17/11/1946) quy định: “Nhiều người phạm tội đưa hối lộ và hối lộ có thể bị xử và tịch thu nhiều nhất là 3/4 tài sản, những người đồng phạm cũng bị xử như trên” [37]. Sắc lệnh số 133-SL (20/01/1959) và Pháp lệnh ngày 30-10-1967 về trừng trị những tội phản cách mạng cũng quy định trường hợp phạm tội của nhiều người trong đó bao gồm bọn chủ mưu, bọn cầm đầu và bọn tham gia tổ chức phản cách mạng.
  • 19. 11 Thông qua các quy định trên cho thấy việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự là cả một quá trình. Cho đến giai đoạn này chúng ta vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về đồng phạm. Thành tựu lập pháp chỉ mới dừng lại ở quy định các trường hợp phạm tội có đồng phạm như “phạm tội có tổ chức”, “phạm tội có móc ngoặc” hay quy định những loại người cụ thể trong vụ phạm tội có nhiều người cùng liên kết thực hiện như bọn chủ mưu, bọn cầm đầu hay người xúi giục. Trong thực tế, có nhiều thời kỳ việc nhiều người cố ý cùng phạm một tội được coi là “cộng phạm”. Và đến năm 1963, khái niệm này đã được khẳng định lại trong báo cáo tổng kết ngành Toà án: “Coi là cộng phạm nếu hai hoặc nhiều người cùng chung ý chí và hành động, nghĩa là hoặc tổ chức hoặc xúi giục hoặc giúp sức hoặc tham gia thực hiện tội phạm để cùng đạt tới kết quả phạm tội” [37, tr.36]. Chúng ta chưa thể tìm thấy sự phân hoá TNHS đối với những kẻ cùng thực hiện tội phạm nhưng qua đây chúng ta đã có được tư duy để phân biệt giữa trường hợp phạm tội riêng lẻ và trường hợp phạm tội có sự tham gia cùng thực hiện của nhiều người. Những quy định trên đây sẽ là tài liệu quan trọng và thực sự quý báu để nhà làm luật tiếp tục hoàn thiện chế định đồng phạm trong tương lai. Pháp luật hình sự giai đoạn sau này có những bước tiến nhảy vọt với sự ra đời của BLHS năm 1985. Tại đây, lần đầu tiên khái niệm đồng phạm đã chính thức được sử dụng, Khoản 1 Điều 17 nêu rõ: “Hai hoặc nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm” [25, tr.22]. Khái niệm này đã thay thế hoàn toàn khái niệm “cộng phạm” vẫn được sử dụng trước đây. Đến năm 1999 BLHS mới ra đời, một lần nữa chế định đồng phạm được khẳng định kế thừa và phát triển. Điều 20 BLHS năm 1999 quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm” [48, tr.56]. Từ những quy định trên đây, chúng ta có thể nhận ra điểm tương đồng so với khái niệm đồng phạm đã được quy định trong BLHS năm 1985.
  • 20. 12 Như vậy quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đã cho chúng ta khái niệm đầy đủ và thống nhất về đồng phạm. Ta biết rằng đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện tội phạm. Hay nói cách khác, khi một tội phạm được thực hiện bởi ít nhất là hai chủ thể và hai chủ thể đó thoả mãn dấu hiệu “cùng cố ý” thì trường hợp đó tội phạm được coi là đồng phạm. Để hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề đồng phạm chúng ta tiếp tục nghiên cứu mặt chủ quan và mặt khách quan thuộc dấu hiệu pháp lý cơ bản của đồng phạm. 1.1.2. Các hình thức đồng phạm Để xác định một tội phạm có phải là đồng phạm hay không chúng ta có thể dựa vào dấu hiệu thuộc mặt chủ quan và mặt khách quan của tội phạm đó. Khoa học luật hình sự và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự từ trước đến nay cũng dựa vào dấu hiệu này để phân loại các hình thức đồng phạm.  Phân loại theo dấu hiệu chủ quan Căn cứ vào đặc điểm về mặt chủ quan thì đồng phạm được phân loại thành: Đồng phạm không có thông mưu trước và đồng phạm có thông mưu trước.  Đồng phạm không có thông mưu trước Hình thức này được hiểu như sau: “Đồng phạm không có thông mưu trước là hình thức đồng phạm trong đó không có sự thoả thuận bàn bạc với nhau trước giữa những người đồng phạm hoặc là có sự thoả thuận nhưng không đáng kể" [3, tr.141]. Những người đồng phạm không có sự bàn bạc trước với nhau về kế hoạch thực hiện tội phạm, đồng thời giữa những người đồng phạm không có sự phân công vai trò như tổ chức, thực hành hay xúi giục. Thuộc hình thức này có thể những người đồng phạm chỉ nhất trí về việc thực hiện tội phạm với nhau ở hiện trường và bắt tay ngay vào việc thực hiện tội phạm hoặc đồng phạm được hình thành khi có người đang thực hiện tội phạm, người khác thấy vậy cũng cùng tham gia phạm tội.
  • 21. 13 Ví dụ: A và B rủ nhau lên đồi hái chè. Đến chiều tối A và B thấy một con bò đang ăn ở phía cuối vườn chè. Cả hai nảy sinh ý định bắt trộm con bò đó. Sau đó A và B dắt bò về dưới huyện và bán được 2.000.000 đồng. Ở đây, A và B cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản công dân nhưng giữa A và B trước khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản không có sự bàn bạc vạch kế hoạch trước. Như vậy, so với các hình thức đồng phạm khác thì đồng phạm không có thông mưu trước nói chung ít nguy hiểm hơn.  Đồng phạm có thông mưu trước “Đồng phạm có thông mưu trước là hình thức đồng phạm trong đó những người đồng phạm đã có sự thoả thuận bàn bạc trước với nhau về tội phạm cùng thực hiện” [3, tr.141]. Ví dụ: A rủ B cùng mình đột nhập vào nhà ông C để trộm cắp tài sản. B đồng ý. Cả hai thường xuyên tụ tập tại nhà A để bàn bạc, lập kế hoạch. A giao cho B tìm cách giết con chó nhà ông C, còn A sẽ theo dõi hoạt động đi lại của các thành viên trong gia đình ông C. Lợi dụng lúc gia đình ông C đi vắng hết, A và B đã đột nhập vào nhà ông C lấy đi số tiền là 5.400.000 đồng, một ti vi và một số vật dụng khác. Ở hình thức đồng phạm này những người đồng phạm đã ít nhiều có sự bàn bạc và phân công vai trò nên họ có quan hệ phạm tội chặt chẽ hơn. Loại đồng phạm này có tính chất nguy hiểm hơn loại đồng phạm không có thông mưu trước.  Phân loại theo dấu hiệu khách quan Dựa vào những đặc điểm về mặt khách quan có thể chia đồng phạm thành hai loại là đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp.  Đồng phạm giản đơn “Đồng phạm giản đơn là hình thức đồng phạm trong đó những người cùng tham gia vào vụ phạm tội đều có vai trò là người thực hành” [3, tr.142].
  • 22. 14 Đây là trường hợp trong đó những người đồng phạm đều tham gia thực hiện hành vi phạm tội được mô tả trong CTTP, tức là mỗi người bằng chính hành vi của mình đều trực tiếp thực hiện hoặc góp phần thực hiện tội phạm. Ở hình thức đồng phạm này sự cố ý cùng cấu kết của những người phạm tội không đáng kể và chỉ hạn chế ở chỗ mỗi người đồng phạm chỉ biết về hoạt động phạm tội của một hoặc nhiều người khác tại thời điểm bắt đầu thực hiện tội phạm hay trong quá trình thực hiện tội phạm. Ví dụ: Khoảng 19 giờ 30 phút, Nguyễn Văn A dùng một kìm sắt và một con dao nhỏ trèo lên cây cột điện tại xã X, nơi có dây truyền thanh chạy qua. Lúc đang cắt dây thấy Phan Văn B đi qua, Nguyễn Văn A rủ Phan Văn B làm cùng, B đồng ý. Tại đây, A và B thay nhau trèo lên sáu cột điện có hai dường dây bắc qua, dùng kìm cắt được dây trong năm khoảng, mỗi khoảng được 50m. Tổng cộng chúng cắt được 500m, sau đó chúng dùng dao bóc vỏ nhựa để lấy lõi đồng bên trong. Về mặt chủ quan, đồng phạm giản đơn thường không có sự phân công vai trò cụ thể (như người tổ chức, xúi giục, giúp sức hay người thực hành), mà về cơ bản họ có một vai trò là những người cùng hành động. Trong trường hợp trên, cả A và B đều thực hiện hành vi đã được mô tả trong CTTP tội “trộm cắp tài sản” với vai trò là người thực hành. Nên những người đồng phạm trong hình thức đồng phạm giản đơn được coi là những người đồng thực hành.  Đồng phạm phức tạp “Đồng phạm phức tạp là hình thức đồng phạm trong đó có một hoặc một số người tham gia giữ vai trò là người thực hành, còn những người khác giữ vai trò xúi giục, tổ chức hay giúp sức” [3, tr.142]. Trong đồng phạm phức tạp giữa những người đồng phạm có sự bàn bạc trước về kế hoạch phạm tội và giữa những người đồng phạm cũng có sự phân công vai trò, điều này tạo nên mối liên hệ tương đối chặt chẽ ở họ. Ở hình
  • 23. 15 thức đồng phạm này không chỉ có người thực hành thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP mà còn có hành vi của người tổ chức, người xúi giục hay người giúp sức. Ví dụ: A, B, C mang dao đi vào công viên thì phát hiện E, F đang ngồi tâm sự cùng nhau, bên cạnh hai người có dựng một chiếc xe máy. Chúng nảy sinh ý định cướp xe máy đó. A phân công B đứng ngoài quan sát và cảnh giới, C dùng dao khống chế E, còn A sẽ xử lý F. Kế hoạch được thực hiện, A dùng dao dí sát sườn F và quát: “Có tiền bỏ ra đây, đưa đồng hồ, chìa khoá xe máy nhanh lên”. F chống cự, A đã dùng dao đâm vào bụng và tay trái của F. Cuối cùng F phải đưa đồng hồ, ví và chìa khoá xe máy cho A. A đưa chìa khoá xe máy cho B cầm, sau đó chúng trói E, F lại, cùng lúc đó B nổ máy và cả ba cùng bỏ trốn. Tội phạm được thực hiện là sự phối hợp cùng hành động của những người đồng phạm. Trong vụ đồng phạm này không chỉ có người thực hành (A và C) mà còn có người giúp sức (B) cùng thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP tội cướp tài sản được quy định tại Điều 133 BLHS năm 1999. Như vậy, vai trò của từng người đồng phạm phụ thuộc vào hình thức hành vi đồng phạm mà họ thực hiện. Việc tìm hiểu các hình thức đồng phạm sẽ giúp chúng ta xác định chính xác TNHS cho từng người đồng phạm phù hợp với loại hình tội phạm mà họ thực hiện. Phạm tội có tổ chức Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm đặc biệt mà định nghĩa pháp lý của nó đã được các nhà làm luật nước ta ghi nhận trong pháp luật hình sự hiện hành tại Khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung: “Phạm tội có tổ chức là trường hợp đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm” [48, tr.57]. Trong đồng phạm có tổ chức, giữa những người đồng phạm vừa có sự
  • 24. 16 liên kết chặt chẽ với nhau vừa có sự phân hoá vai trò, phân công nhiệm vụ tương đối rõ rệt, cụ thể. Chúng ta có thể xác định đồng phạm có tổ chức dựa vào các đặc điểm của nó như sau: - Nhóm tội phạm được hình thành với phương hướng hoạt động có tính lâu dài bền vững, thể hiện ở sự ổn định thường xuyên của chúng. Trong nhóm tội phạm có tổ chức, sự gia nhập của các thành viên mới là rất hãn hữu do các thành viên trong nhóm sợ bị lộ, tan vỡ. Nhóm tội phạm luôn tồn tại kỷ luật chặt chẽ, mỗi người đồng phạm đều chịu sự điều khiển chung, thống nhất của người cầm đầu. - Có sự phân công thực hiện tội phạm trong nhóm, người thì được phân công thực hiện hành vi chuẩn bị như: theo dõi quy luật hoạt động của đối tượng, đề xuất phương án hành động và che dấu tội phạm, người thì bảo quản, thu giữ, vận chuyển, tiêu thụ tài sản chiếm đoạt được. Mỗi tên đều hiểu rõ trách nhiệm của mình, do đó chúng hành động có tổ chức và chặt chẽ. Với đặc điểm như vậy, đồng phạm có tổ chức có nhiều khả năng cho phép phạm tội liên tục, nhiều lần, gây ra những hậu quả lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn. Sự khác nhau giữa phạm tội có tổ chức với đồng phạm bình thường là ở chỗ: những người cùng thực hiện tội phạm có sự câu kết chặt chẽ với nhau trong khi thực hiện tội phạm thì là phạm tội có tổ chức. Còn trường hợp, những người cùng thực hiện tội phạm mà không có sự câu kết chặt chẽ với nhau thì đó không phải là phạm tội có tổ chức. Cũng từ thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy, có 3 trường hợp được xác định là phạm tội có tổ chức. Cụ thể như sau: Trường hợp một: Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm tội như: đảng phái, hội đoàn phản động, băng ổ trộm cướp… có tên chỉ huy, cầm đầu. Các điều kiện của trường hợp này là:
  • 25. 17 - Từ hai người trở lên - Cùng một tổ chức phạm tội - Có tên chỉ huy, cầm đầu. Tuy nhiên cũng có khi một tổ chức phạm tội không có tên chỉ huy cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp những tên chuyên phạm tội, đã thống nhất cùng nhau hoạt đồng phạm tội. Ví dụ sau khi hết hạn tù, một số tên chuyên trộm, cướp đã tập hợp nhau lại và thống nhất cùng nhau tiếp tục hoạt động phạm tội [4, tr.52]. Trường hợp hai: Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước. Ví dụ một số tên cùng nhau đi trộm, cướp hoặc một số tên cùng đầu cơ, buôn lậu, có tổ chức đường dây để nắm nguồn hàng, vận chuyển, thông tin về giá cả… Các điều kiện của trường hợp này là: - Số lượng người tham gia từ hai người trở lên. - Số lần thực hiện từ hai lần trở lên - Thực hiện theo một kế hoạch thống nhất trước. Phải có đủ ba điều kiện này mà điều kiện theo một kế hoạch thống nhất trước là điều kiện chủ yếu để xác định là phạm tội có tổ chức. Trường hợp ba: Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần, nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo có chuẩn bị phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm. Các điều kiện của trường hợp này là: - Từ hai người trở lên - Thực hiện tội phạm một lần có kế hoạch tính toán kỹ càng, chu đáo, có sự chuẩn bị phương tiện hoạt động, kế hoạch che giấu tội phạm. Ví dụ trường hợp trộm cắp, cướp tài sản mà có phân công điều tra trước về nơi ở quy luật sinh hoạt, đi lại của người có tài sản, chuẩn bị địa điểm để thực hiện, phân công chuẩn bị phương tiện, sự hoạt động của mỗi người đồng phạm và có kế hoạch che giấu tội phạm.
  • 26. 18 1.2. Khái niệm người giúp sức trong đồng phạm và ý nghĩa của việc xác định đúng vai trò người giúp sức trong đồng phạm 1.2.1. Khái niệm người giúp sức trong đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam Theo Th.S Mai Lan Ngọc thì “thuật ngữ người giúp sức đã sớm được đề cập và nhắc tới trong lịch sử lập pháp hình sự nước ta cho đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất BLHS năm 1985 với các tên gọi khác như: tòng phạm, người giúp sức” [38, tr.31]. Theo quy định tại khoản 2 Điều 17 BLHS năm 1985 và khoản 2 Điều 20 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung thì “Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm” [46]; [48, tr.57]. Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Trong một vụ án có đồng phạm, vai trò của người giúp sức cũng rất quan trọng, nếu không có người giúp sức thì người thực hiện tội phạm cũng gặp khó khăn. Ví dụ: H hứa với T sẽ tiêu thụ toàn bộ số tài sản nếu T trộm cắp được. Có sự hứa hẹn của H nên đã thúc đẩy T quyết tâm phạm tội vì đã có nơi tiêu thụ tài sản trộm cắp được. Người giúp sức có thể giúp bằng lời khuyên, lời chỉ dẫn, cung cấp phương tiện phạm tội hoặc khắc phục những trở ngại cho việc thực hiện tội phạm, hứa che giấu người phạm tội, phương tiện, xóa dấu vết, hứa tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có. Ví dụ: Tạp chí Tòa án nhân dân số 2 tháng 1 năm 2007 đưa ra ý kiến trao đổi về một vụ án với nội dung như sau: Công ty SG có ký một hợp đồng vận chuyển hàng hóa với Công ty TNHH dịch vụ TS do Hồ Ngọc Sang làm giám đốc với nội dung: Công ty TS mỗi ngày cung ứng cho Công ty SG tối thiểu 5 đầu xe kéo contenner, tối đa không hạn chế. Đến tháng 7 năm 2005, Công ty SG có chủ trương huy động
  • 27. 19 phương tiện sẵn có trong công ty để vận chuyển hàng hóa nhằm tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên nên đã giảm số đầu xe của Công ty TS xuống còn 05 xe như thỏa thuận trong hợp đồng. Do Công ty vừa mua trả góp 05 đầu kéo Contenner để phục vụ cho hợp đồng nêu trên. Đang trong tình trạng nợ nần nay lại bị giảm lượng xe đến mức tối thiểu, doanh thu của công ty TS hàng tháng giảm xuống đáng kể (từ 700 triệu/tháng xuống 400 triệu/tháng). Hồ Ngọc Sang tìm hiểu nguyên nhân của việc giảm đầu xe qua Vũ Xuân Thiên (là đội trưởng đội kéo của công ty SG). Hồ Ngọc Sang cho rằng: Nguyễn Ngọc Chỉnh (là Phó giám đốc công ty SG) đã cản trở công việc làm ăn của Công ty TS. Do vậy, Sang đã nảy sinh ý đồ thuê người đánh cảnh cáo Chỉnh, đánh cho bầm tím mặt mày để anh Chỉnh không cản trở công việc làm ăn của mình nữa. Ý định này Sang đã cho Vũ Xuân Thiên biết và được Thiên đồng ý (vì Thiên đã có mâu thuẫn về công việc với Chỉnh từ trước). Do cùng cơ quan với chỉnh nên Thiên đã cung cấp thời gian đi làm cũng như lịch trực của Chỉnh cho Sang biết. Hành vi cung cấp thông tin và hoạt động đi lại của Thiên đã tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bọn do Sang thuê thực hiện hành vi theo như chỉ dẫn một cách chính xác, đầy đủ nhất. Cũng có trường hợp hành vi được thể hiện dưới dạng không hành động. Đó có thể là trường hợp những người có nghĩa vụ pháp lý phải hành động nhưng đã cố ý không hành động và qua đó đã loại trừ trở ngại khách quan ngăn cản việc thực hiện tội phạm đến cùng. Ví dụ: A là bảo vệ cơ sở sản xuất hàng gia dụng, khi đang làm nhiệm vụ phát hiện thấy bạn cùng phòng mình là B đang mang tài sản ra khỏi kho chứa hàng, nhưng A không bắt giữ B mà giả vờ như không biết. Kết quả là B đã lấy được số tài sản lớn trị giá 7.500.000 đồng. Một dạng giúp sức đặc biệt nữa đó là giúp sức bằng lời hứa hẹn trước
  • 28. 20 sẽ che giấu người phạm tội, che giấu các tang chứng, vật chứng hoặc sẽ tiêu thụ các vật do phạm tội mà có sau khi tội phạm đã thực hiện xong. Hành vi giúp sức thường được thực hiện trước khi người thực hành bắt tay vào hành động. Nhưng cũng có trường hợp người giúp sức tham gia khi tội phạm đang tiến hành, giúp một người vốn có ý định phạm tội có thêm điều kiện thuận lợi để thực hiện tội phạm hoặc yên tâm hơn khi thực hiện tội phạm. Như vậy, hành vi của người giúp sức là tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bọn thực hiện tội phạm. Tính chất và mức độ của hành vi giúp sức cũng được coi là ít nguy hiểm hơn so với hành vi phạm tội của những người đồng phạm khác. Do vậy, luật hình sự Việt Nam không coi người giúp sức là đối tượng cần nghiêm trị như những người đồng phạm khác. Đó là cơ sở để cơ quan xét xử đưa ra quyết định hình phạt đối với người giúp sức nhẹ hơn so với quyết định hình phạt đối với những người cùng phạm tội trong vụ đồng phạm đó. Dù tạo điều kiện vật chất hay tinh thần cho việc thực hiện tội phạm thì hành vi đó cũng chỉ tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực hiện tội phạm chứ người giúp sức không trực tiếp thực hiện tội phạm Hành vi tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm của người giúp sức cũng có thể là hành vi của người tổ chức, nhưng khác với người tổ chức, người giúp sức không phải là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy mà chỉ có vai trò thứ yếu trong vụ án đồng phạm. Nếu các tình tiết khác như nhau thì người giúp sức bao giờ cũng được áp dụng hình phạt nhẹ hơn những người đồng phạm khác. 1.2.2. Ý nghĩa của việc xác định đúng vai trò của người giúp sức trong đồng phạm Người giúp sức là một trong những loại người đồng phạm vì thế việc xác định đúng vai trò của người giúp sức trong đồng phạm là cơ sở
  • 29. 21 quan trọng trong việc định tội danh và trách nhiệm hình sự. Và để hiểu hết dược vai trò của người giúp sức tác giả hướng tới việc tìm hiểu về đồng phạm nói chung. Đồng phạm là sự cố ý cùng phạm một tội của nhiều người, tính chất và mức độ tham gia thực hiện tội phạm của mỗi người đồng phạm có thể là không giống nhau. Do vậy luật hình sự thế giới nói chung và luật hình sự Việt Nam nói riêng đều có những căn cứ khác nhau để phân loại người đồng phạm. Nhìn chung, pháp luật hình sự của các nước đều chú ý phân biệt vai trò của người giúp sức với các loại người đồng phạm khác. BLHS của Cộng hoà Liên bang Đức dành riêng Điều 47, Điều 48, Điều 49 để quy định về người thực hành, người xúi giục, người tòng phạm. Mỗi điều luật đều đưa ra khái niệm chung nhất, đồng thời đưa ra đường lối xử lý riêng đối với từng loại người đồng phạm. Khái niệm người giúp sức nói riêng được quy định trong Bộ luật hình sự 1985, Bộ luật hình sự 1999 có ý nghĩa hết sức to lớn về mặt lập pháp. Đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta. Khái niệm người giúp sức là cơ sở để từ đó xác định đúng vai trò của họ trong những loại người đồng phạm; các giai đoạn thực hiện tội phạm của người giúp sức trong đồng phạm; tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người giúp sức trong đồng phạm; các hình thức đồng phạm và trách nhiệm hình sự của người giúp sức trong đồng phạm. Khái niệm người giúp sức trong đồng phạm còn là cơ sở pháp lý để phân biệt hành vi đồng phạm của người giúp sức và những hành vi liên quan đến tội phạm đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực hình sự nhằm xử lý đúng người, đúng tội, không kết tội oan, không bỏ lọt tội phạm. Như vậy, khái niệm người giúp sức trong đồng phạm có ý nghĩa thống nhất về mặt nhận thức trong nghiên cứu lý luận cũng như trong thực tiễn xét xử.
  • 30. 22 1.2.3. Phân biệt người giúp sức với những đồng phạm khác Để đưa ra được những tiêu chí phân biệt người giúp sức với những người đồng phạm khác, trong phần này tác giả trình bày về các loại người trong đồng phạm: 1.2.3.1. Các loại người đồng phạm Người thực hành, người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức đều là người đồng phạm. Hành vi của những người đồng phạm khác như: người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức có sự liên kết thống nhất với hành vi của người thực hành cả về mặt khách quan, chủ quan và tạo thành một hoạt động phạm tội chung có mối quan hệ nhân quả với hậu quả phạm tội. Cơ sở để phân biệt người thực hành với người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức là tính chất sự tham gia của họ vào việc thực hiện tội phạm. Trong những vụ đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia thực hiện tội phạm của mỗi người không giống nhau. Do vậy, sự phân định rõ các loại người đồng phạm sẽ là cơ sở quan trọng để chúng ta đánh giá một cách khách quan về hành vi phạm tội của từng người, xác định chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm, tạo cơ sở cho việc cá thể hoá hình phạt. Sau đây, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu từng loại người đồng phạm cụ thể: * Người giúp sức Khoản 2 Điều 20 BLHS 1999 quy định: “Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm” [48, tr.56]. Theo đó luật hình sự Việt Nam quan niệm hành vi giúp sức căn cứ vào những dấu hiệu khách quan gồm hai loại: giúp sức về vật chất và giúp sức về tinh thần. Hành vi của người giúp sức là tạo ra những điều kiện cho người thực hành thực hiện hành vi phạm tội. Những điều kiện đó có thể có tính vật chất hoặc có tính tinh thần. Cũng chính vì vậy mà hành vi của người giúp sức trong đồng phạm có thể là giúp sức về vật chất hoặc giúp sức về tinh thần.
  • 31. 23 - Giúp sức về tinh thần: có thể là những hành vi cung cấp những gì tuy không có tính vật chất nhưng cũng tạo ra cho người thực hành thực hiện tội phạm được thuận lợi hơn như: Chỉ dẫn, góp ý kiến, cung cấp tình hình. Ví dụ: Tạp chí Tòa án nhân dân số 2 tháng 1 năm 2007 đưa ra ý kiến trao đổi về một vụ án với nội dung như sau: Công ty SG có ký một hợp đồng vận chuyển hàng hóa với Công ty TNHH dịch vụ TS do Hồ Ngọc Sang làm giám đốc với nội dung: Công ty TS mỗi ngày cung ứng cho Công ty SG tối thiểu 5 đầu xe kéo contenner, tối đa không hạn chế. Đến tháng 7 năm 2005, Công ty SG có chủ trương huy động phương tiện sẵn có trong công ty để vận chuyển hàng hóa nhằm tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên nên đã giảm số đầu xe của Công ty TS xuống còn 05 xe như thỏa thuận trong hợp đồng. Do Công ty vừa mua trả góp 05 đầu kéo Contenner để phục vụ cho hợp đồng nêu trên. Đang trong tình trạng nợ nần nay lại bị giảm lượng xe đến mức tối thiểu, doanh thu của công ty TS hàng tháng giảm xuống đáng kể (từ 700 triệu/tháng xuống 400 triệu/tháng). Hồ Ngọc Sang tìm hiểu nguyên nhân của việc giảm đầu xe qua Vũ Xuân Thiên (là đội trưởng đội kéo của công ty SG). Hồ Ngọc Sang cho rằng: Nguyễn Ngọc Chỉnh (là Phó giám đốc công ty SG) đã cản trở công việc làm ăn của Công ty TS. Do vậy, Sang đã nảy sinh ý đồ thuê người đánh cảnh cáo Chỉnh, đánh cho bầm tím mặt mày để anh Chỉnh không cản trở công việc làm ăn của mình nữa. Ý định này Sang đã cho Vũ Xuân Thiên biết và được Thiên đồng ý (vì Thiên đã có mâu thuẫn về công việc với Chỉnh từ trước). Do cùng cơ quan với chỉnh nên Thiên đã cung cấp thời gian đi làm cũng như lịch trực của Chỉnh cho Sang biết. Hoặc là hành vi cung cấp thông tin và hoạt động đi lại của Thiên đã tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bọn do Sang thuê thực hiện hành vi theo như chỉ dẫn một cách chính xác, đầy đủ nhất.
  • 32. 24 Cũng có trường hợp hành vi được thể hiện dưới dạng không hành động. Đó có thể là trường hợp những người có nghĩa vụ pháp lý phải hành động nhưng đã cố ý không hành động và qua đó đã loại trừ trở ngại khách quan ngăn cản việc thực hiện tội phạm đến cùng. Ví dụ: A là bảo vệ cơ sở sản xuất hàng gia dụng, khi đang làm nhiệm vụ phát hiện thấy bạn cùng phòng mình là B đang mang tài sản ra khỏi kho chứa hàng, nhưng A không bắt giữ B mà giả vờ như không biết. Kết quả là B đã lấy được số tài sản lớn trị giá 7.500.000 đồng. Một dạng giúp sức đặc biệt nữa đó là giúp sức bằng lời hứa hẹn trước sẽ che giấu người phạm tội, che giấu các tang chứng, vật chứng hoặc sẽ tiêu thụ các vật do phạm tội mà có sau khi tội phạm đã thực hiện xong. - Giúp sức về vật chất: là hành vi cung cấp công cụ, phương tiện phạm tội, khắc phục những trở ngại để người thực hành thực hiện tội phạm được một cách thuận lợi và dễ dàng hơn. Và vấn đề đặt ra ở đây là chúng ta cần phải làm roc khái niệm phương tiện phạm tội và công cụ phạm tội để có thể làm rõ hơn hành vi giúp sức về vật chất. Theo TS.Trần Quang Tiệp thì: Công cụ phạm tội là những vật thể mà người phạm tội sử dụng để tác động trực tiếp vào đối tượng tác động của tội phạm. Còn phương tiện phạm tội là những vật thể tuy không trực tiếp tác động vào đối tượng tác động của tội phạm nhưng tham gia vào quá trình thực hiện tội phạm [61, tr.133]. Ví dụ: H phạm tội cướp tài sản với vai trò là người giúp sức, vì y cung cấp xe máy làm phương tiện để hoạt động cướp tài sản, cung cấp cho L dao găm và dây thừng để uy hiếp nạn nhân khi nạn nhân đuổi theo, sau đó chở tên K bỏ trốn. Trong một số trường hợp hành vi giúp sức về mặt vật chất, ngoài việc tác động, hỗ trợ cho người thực hành thực hiện tội phạm còn có thể CTTP độc lập. Ví dụ: Hành vi cung cấp súng cho người thực hành thực hiện hành vi
  • 33. 25 giết người ngoài việc thỏa mãn dấu hiệu hành vi của người giúp sức còn cấu thành tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng theo quy định tại Điều 230 BLHS năm 1999. Vậy hành vi giúp sức có thể được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Hành vi giúp sức thường được thực hiện trước khi người thực hành bắt tay vào hành động. Nhưng cũng có trường hợp người giúp sức tham gia khi tội phạm đang tiến hành, giúp một người vốn có ý định phạm tội có thêm điều kiện thuận lợi để thực hiện tội phạm hoặc yên tâm hơn khi thực hiện tội phạm. Như vậy, hành vi của người giúp sức là tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bọn thực hiện tội phạm. Tính chất và mức độ của hành vi giúp sức cũng được coi là ít nguy hiểm hơn so với hành vi phạm tội của những người đồng phạm khác. Do vậy, luật hình sự Việt Nam không coi người giúp sức là đối tượng cần nghiêm trị như những người đồng phạm khác. Đó là cơ sở để cơ quan xét xử đưa ra quyết định hình phạt đối với người giúp sức nhẹ hơn so với quyết định hình phạt đối với những người cùng phạm tội trong vụ đồng phạm đó. 1.2.3.2. Phân biệt người giúp sức với các loại người khác trong đồng phạm * Sự giống nhau: - Người giúp sức và những người đồng phạm khác đều có chung ý chí thực hiện tội phạm. - Người giúp sức và mỗi người đồng phạm đều có những hành động cụ thể nhằm mục đích chung là thực hiện tội phạm. - Họ đều phải chịu trách nhiệm về hậu quả chung mà họ và đồng phạm gây ra. * Sự khác biệt: - Hành vi của người giúp sức khác với lại hành vi của người thực hành
  • 34. 26 và người xúi giục ở chỗ là: hành vi của người giúp sức có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp, tuy nhiên hành vi của người thực hành và người xúi giục bắt buộc phải là trực tiếp. - Hành vi của người giúp sức chỉ tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực hiện tội phạm chứ nó không trực tiếp thực hiện tội phạm, không thực hiện hành vi mô tả trong cấu thành tội phạm. trong khi đó người thực hành phải là người trực tiếp thực hiện tội phạm, thực hiện hành vi mô tả trong cấu thành tội phạm. Cũng theo Th. S Mai Lan Ngọc thì người giúp sức và người xúi giục có điểm giống nhau là cùng sử dụng thủ đoạn chỉ dẫn, khuyên bảo, nhưng người giúp sức và người xúi giục có vai trò khác nhau trong việc hình thành thái độ quyết tâm thực hiện tội phạm của người thực hành. Nếu như người xúi giục làm xuất hiện thái độ quyết tâm thực hiện tội phạm, thì người giúp sức (giúp sức về tinh thần) chỉ có vai trò củng cố thái độ quyết tâm thực hiện tội phạm đã được hình thành của người thực hành [38,tr. 33]. Nếu hành vi giúp sức không có tính chất quyết định trong việc kích động người khác phạm tội thì hành vi xúi giục lại thúc đẩy người khác từ chỗ chưa có ý định phạm tội, mặc dù không yêu cầu phải thúc đẩy theo một hình thức nào: có thể bằng lời nói hoặc thư viết. Người thúc đẩy người khác phạm tội phải chịu TNHS. Việc xác định rõ TNHS mà người xúi giục phải chịu tuỳ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi cũng như bản chất của người xúi giục và người bị xúi giục. Trong mọi trường hợp hậu quả mà người thực hành gây ra phải là kết quả của hành vi xúi giục. Người xúi giục luôn được coi là tác giả tinh thần của tội phạm. Do đó người xúi giục được coi là loại người nguy hiểm trong đồng phạm, cần phải có biện pháp để trừng trị nghiêm khắc. - Hành vi của người giúp sức là tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bọn thực hiện tội phạm. Tính chất và mức độ của hành vi giúp sức cũng được coi
  • 35. 27 là ít nguy hiểm hơn so với hành vi phạm tội của những người đồng phạm khác. Do vậy, luật hình sự Việt Nam không coi người giúp sức là đối tượng cần nghiêm trị như những người đồng phạm khác. Đó là cơ sở để cơ quan xét xử đưa ra quyết định hình phạt đối với người giúp sức nhẹ hơn so với quyết định hình phạt đối với những người cùng phạm tội trong vụ đồng phạm đó. - Bên cạnh đó, trong nội dung của luận văn này tác giả còn đưa ra sự khác nhau giữa hành vi của người giúp sức trong đồng phạm với hành vi giúp sức cấu thành tội phạm độc lập; hành vi giúp sức với những trường hợp vô ý tạo điều kiện cho tội phạm: +) Hành vi giúp sức trong đồng phạm thì sẽ chịu TNHS chung với đồng phạm về hành vi phạm tội gây ra, tuy nhiên được chia theo mức độ phạm tội. Ví dụ: A là giúp sức trong tội Cướp tài sản thì A sẽ chịu TNHS của tội Cướp tài sản cùng với các đồng phạm khác; Còn hành vi giúp sức cấu thành tội phạm độc lập thì sẽ chịu TNHS độc lập với tội phạm do hành vi gây ra. Ví dụ: A, B, C, D rủ nhau đi cướp tàu chở phân đạm trên sông Kalong vào lúc 22h nhằm lúc chủ tàu ngủ say, A được phân công đứng cảnh giới trên bờ còn B,C,D xuống dưới tàu ăn trộm. A đứng khá xa bờ và do trời tối nên không thể quan sát được sự việc xảy ra bên dưới tàu. Trong khi đó dưới tàu lúc B,C,D đang vác trộm phân đạm bị chủ tàu phát hiện nên B dí dao vào cổ chủ tàu uy hiếp, còn C và D dung dây thừng trói chủ tàu vào thành tàu rồi cả 3 tiếp tục vác trộm phân đạm. Trong ví dụ này tội phạm đã được chuyển hóa từ trộm sang cướp vì thế B, C, và D chịu TNHS với tội Cướp tài sản; riêng A được phân công với vai trò cảnh giới nhằm đi trộm tài sản vì thế A sẽ chịu TNHS với tội Trộm tài sản. +)Hành vi giúp sức với trường hợp vô ý tạo điều kiện cho tội phạm: Hành vi của người giúp sức thì sẽ phải chịu TNHS còn hành vi của người vô ý tạo điều kiện cho tội phạm thì không khải chịu TNHS. Ví dụ: Bảo vệ nhà
  • 36. 28 kho của Công ty A do mệt quá ngủ quên nên đã tạo sơ hở cho trộm vào lấy mất một số máy móc có giá của công ty, Trường hợp này Bảo vệ không phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản tuy nhiên sẽ phải bồi thường máy móc và thiệt hại cho Công ty. 1.3. Người giúp sức theo quy định trong Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới Đồng phạm là một chế định quan trọng của Luật hình sự. Luật hình sự của nhiều nước trên thế giới đều quy định trường hợp một tội phạm do nhiều người thực hiện. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật của nhiều nước không có quy định định nghĩa về đồng phạm cũng như các loại người trong đồng phạm. Bộ luật sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 1979 tại Điều 22 quy định định tương đối đầy đủ: Hai hay nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm. Hai hoặc nhiều người vô ý cùng thực hiện một tội phạm không phải là đồng phạm. Điều 23 quy định: Người tổ chức, chỉ huy các loại hoạt động phạm tội hoặc giữ vai trò chính trong đồng phạm là chính phạm. Điều 24 quy định về người tòng phạm: Người giữ vai trò thứ yếu hoặc giúp sức trong đồng phạm là tòng phạm [28, tr.40]. Từ quy định trên của bộ luật hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 1979 ta thấy đồng phạm nói chung và vai trò của từng loại đồng phạm nói riêng được quy định đầy đủ và rõ ràng. Đồng phạm được nhắc tới lỗi cố ý và lỗi vô ý thì được quy định rõ không phải là đồng phạm – Điều 22, điều này là thuận lợi trong việc áp dụng luật sẽ tránh nhũng vướng mắc về việc nhầm lẫn giữa các hành vi phạm tội do lỗi cố ý hay vô ý; Điều 23 quy định về từng loại đồng phạm trong đó có người giúp sức với tên gọi là “Tòng phạm”.
  • 37. 29 Theo Điều 33 Bộ luật hình sự của Liên Bang Nga cũng có quy định: “Hai hay nhiều người cùng cố ý thực hiện một tội cố ý là đồng phạm” [10, tr.32]. Cũng như Bộ luật hình sự Liên Bang Nga, Bộ luật hình sự Việt Nam quy định đồng phạm là trường hợp có hai hay nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Pháp luật hình sự của các nước trên thế giới có những quy định rất đa dạng về đồng phạm. Nhưng chỉ có một số ít các quốc gia trong đó có Việt nam quy định về các loại người đồng phạm và người thực hành trong đồng phạm. Trong luật hình sự của CHLB Đức, nhà làm luật không ghi nhận các định nghĩa pháp lý của các khái niệm đồng phạm, các loại người đồng phạm và các hình thức đồng phạm, mà chỉ quy định việc trừng phạt về hình sự hành vi thực hành, xúi giục, giúp sức và phạm tội chưa đạt trong đồng phạm. Về người thực hành điều 47 quy định: “Nhiều người thực hiện một hành vi phạm tội, mỗi người trong số họ sẽ bị trừng phạt với vai trò người thực hành” [9, tr. 39]. Trong BLHS Liên Bang Nga được Đuma Quốc 24/5/1996 và tổng thống Lin Bang Nga ký Luật số 64 ngày 13/6/1996 “Về việc thi hành BLHS của Liên Bang Nga” có hiệu lực từ ngày 01/01/1997. Theo Điều 34 BLHS Liên Bang Nga thì người giúp sức được quy định như sau: Người giúp sức là người thúc đẩy việc phạm tội bằng chỉ dẫn, bày cách, cung cấp thụng tin hoặc phương tiện, công cụ phạm tội hoặc khắc phục trở ngại, cũng như người hứa hẹn trước che giấu người phạm tội, cất giấu phương tiện, công cụ phạm tội, che giấu dấu vết của tội phạm hoặc đồ vật do phạm tội mà cú hoặc là người hứa hẹn trước việc tiêu thụ những đồ vật này [10, tr.32]. Điểm tương đồng giữa BLHS Liên Bang Nga so với BLHS Việt Nam năm 1999 chính là sự phân chia các chủ thể trong đồng phạm thành bốn loại người đồng phạm: người thực hành, người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức.
  • 38. 30 Nếu so sánh với khái niệm về các loại người đồng phạm có trong Bộ luật hình sự của các nước nêu trên với quy định trong Bộ luật hình sự nước ta, thấy rằng khái niệm người thực hành được hiểu giống nhau, người giúp sức về mặt hành vi khách quan giống nhau nhưng tên gọi có thể khác là người tòng phạm; người xúi giục được hiểu giống nhau nhưng tên gọi có thể khác là người chính phạm; không có khái niệm về người tổ chức. Đây là điểm khác nhau cơ bản về quy định các loại người đồng phạm giữa Bộ luật hình sự nước ta với Bộ luật hình sự các nước trên.
  • 39. 31 Chương 2 NGƯỜI GIÚP SỨC THEO CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGƯỜI GIÚP SỨC TRONG ĐỒNG PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Người giúp sức theo các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự Tại Khoản 1 Điều 20 BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 đã quy định: Đồng phạm là trường hợp hai người trở lên cùng cố ý thực hiện một tội phạm. Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm. Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm [48, tr.57]. Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Trong một vụ án có đồng phạm, vai trò của người giúp sức cũng rất quan trọng, nếu không có người giúp sức, thì người thực hiện tội phạm sẽ gặp khó khăn. Ví dụ: Phạm Thị H hứa với Trần Công T sẽ tiêu thụ toàn bộ số tài sản nếu T trộm cắp được. Vì có sự hứa hẹn của H nên đã thúc đẩy T quyết tâm phạm tội (vì đã có nơi tiêu thụ tài sản trộm cắp được). Người giúp sức có thể giúp bằng lời khuyên, lời chỉ dẫn; cung cấp phương tiện phạm tội hoặc khắc phục những trở ngại cho việc thực hiện tội phạm; hứa che giấu người phạm tội, phương tiện, xoá dấu vết, hứa tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có...
  • 40. 32 Hành vi tạo những điều kiện về tinh thần thường được biểu hiện như: Hứa hẹn sẽ che giấu hoặc hứa ban phát cho người phạm tội một lợi ích tinh thần nào đó như: hứa gả con, hứa đề bạt, thăng cấp, tăng lương cho người phạm tội; bày vẽ cho người phạm tội cách thức thực hiện tội phạm như: nói cho người phạm tội biết chủ nhà thường vắng nhà vào giờ nào để đến trộm cắp, nói cho người phạm tội biết người bị hại hay đi về đường nào để người phạm tội phục đánh... Hành vi tạo điều kiện vật chất cho việc thực hiện tội phạm là hành vi cung cấp phương tiện phạm tội như: cung cấp dao, súng, côn gỗ, xe máy, xe ô tô... để người phạm tội thực hiện tội phạm. Dù tạo điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm, thì hành vi đó cũng chỉ tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực hiện tội phạm chứ người giúp sức không trực tiếp thực hiện tội phạm. Hành vi tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm cuả người giúp sức cũng có thể là hành vi của người tổ chức, nhưng khác với người tổ chức, người giúp sức không phải là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy mà chỉ có vai trò thứ yếu trong vụ án đồng phạm. Nếu các tình tiết khác như nhau thì người giúp sức bao giờ cũng được áp dụng hình phạt nhẹ hơn những người đồng phạm khác. Như vậy, người giúp sức trong đồng phạm trước hết phải thoả mãn các dấu hiệu của quy định về đồng phạm. * Về mặt khách quan của đồng phạm: Dấu hiệu thứ nhất thuộc mặt khách quan của đồng phạm đòi hỏi phải có ít nhất hai người trở lên có đủ điều kiện chủ thể tham gia thực hiện một tội phạm độc lập. Nói hai người trở lên là nói về những người có hành vi nguy hiểm cho xã hội đến một mức độ nhất định nào đó cùng thực hiện một tội phạm. Theo
  • 41. 33 TSKH.PGS Lê Cảm thì “Phải có sự cùng tham gia của từ hai người trở lên vào việc thực hiện tội phạm (nói như vậy mới đảm bảo sự chính xác vì nếu nói là “cùng thực hiện” thì có nghĩa là mới chỉ đề cập tới hành vi của một loại người đồng phạm – người thực hành mà thôi)” [24, tr.26]. Khoản 4 Điều 8 BLHS sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác” [48, tr.52]. Trong thực tiễn, nguyên tắc này được áp dụng khi xử lý đối với tất cả các tội phạm kể cả những tội phạm có đồng phạm. Chúng ta thường thấy trong những vụ âm mưu lật đổ chính quyền, bạo loạn, hoạt động phỉ… có đông người tham gia, không phải tất cả những người tham gia đều bị đưa ra truy tố xét xử mà chỉ những người có mức độ tham gia đáng kể mới bị truy tố xét xử, còn những người tham gia với mức độ nhỏ nhặt không đáng kể thường được xử lý bằng các biện pháp khác không phải biện pháp hình sự. Tội phạm có người trở lên cùng thực hiện nhưng chỉ có một người thỏa mãn dấu hiệu chủ thể thì vụ án đó không có đồng phạm. Nếu vụ án có rất nhiều người tham gia thực hiện nhưng chỉ có hai người thỏa mãn dấu hiệu chủ thể thì vụ án vẫn được xác định là có đồng phạm. Yếu tố chủ thể tham gia thực hiện tội phạm là cơ sở quyết định tính chất của tội phạm. Thực tế cho thấy, một tội phạm được thực hiện chỉ do một người thực hiện nhưng cũng có thể nó là kết quả của sự liên kết, phối hợp giữa nhiều chủ thể khác nhau. Sự tham gia của nhiều người vào việc gây án đã làm cho tội phạm có sự thay đổi về chất và có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn hẳn trường hợp phạm tội riêng lẻ. Khi tội phạm có nhiều người cùng tham gia thì những người phạm tội có tâm lý dựa vào sức mạnh tập thể, nên liều lĩnh và táo bạo hơn, quyết tâm phạm tội hơn. Do đó, tội phạm có khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội cao hơn.
  • 42. 34 Trong một vụ đồng phạm, có thể có đủ bốn loại hành vi: hành vi thực hành, hành vi tổ chức, hành vi xúi giục, hành vi giúp sức nhưng cùng có thể không có đủ cả bốn loại hành vi. Hành vi thực hành là hành vi trung tâm, nếu thiếu hành vi thực hành thì không có đồng phạm. Một người đồng phạm có thể tham gia thực hiện tội phạm với một hoặc nhiều loại hành vi khác nhau. Vì vậy để có được sự áp dụng, xử lý phù hợp, chính xác vai trò, loại hành vi của đồng phạm trong tội phạm cần có những nghiên cứu cụ thể về lý luận cũng như các quy định rõ ràng trong hoạt động thực tiễn. Thực tế xét xử đã có những vụ việc trong bản án có đủ các loại người trong đồng phạm và một người tham gia với nhiều loại hành vi khác nhau. Nếu hành vi của họ chỉ tham gia một tội phạm độc lập mà không tham gia tất cả các hành vi phạm tội mà những người khác đã thực hiện thì họ chỉ chịu trách nhiệm đối với những hành vi phạm tội mà họ đã tham gia [53, tr.43].. Ví dụ: Tại bản án số 25/2010/HSST ngày 08/11/2010 TAND quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xét xử cho thấy: Lợi dụng nhu cầu của một số người muốn mua xe máy giá rẻ giáo bán trên mạng internet Phạm Văn Bảo đã bàn bạc cùng Nguyễn Văn Hùng vờ có xe máy bán rồi hẹn người mua đem tiền đến địa điểm do Bảo và đồng bọn bố trí để ép họ phải giao tiền, nếu họ không giao sẽ dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản của họ. Quá trình thực hiện hành vi, Bảo, Hùng là người chủ động tìm đối tượng muốn mua xe, lên kế hoạch về thời gian, địa điểm, chuẩn bị phương tiện đi lại, dụng cụ thực hiện tội phạm mang theo. Ở mỗi lần thực hiện tội phạm khác nhau Bảo, Hùng còn rủ thêm Duy Linh, Văn Sơn, Văn Duy, Công Long và Quang Duy tham gia. Trong khoảng thời gian từ tháng 8 đến tháng 10 năm 2009, bảo và đồng phạm đã thực hiện trót lọt 03 vụ “Cướp tài sản” và 04 vụ “Cưỡng đoạt tài sản”. Trong nhiều vụ án Long, Sơn có mặt tại nơi xảy ra sự việc cảnh giới, uy hiếp tinh thần cho đồng phạm khác thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người bị
  • 43. 35 hại hoặc nổ máy xe chờ đồng bọn thực hiện xong việc chiếm đoạt việc tài sản của người bị hại thì cùng tẩu thoát. Duy Linh, Văn Duy, Quang Duy nhiều lần cùng Bảo, Hùng tham gia đánh, lục soát, lấy tài sản của người bị hại. Trong vụ án này, Bảo Hùng vừa là người tổ chức, vừa có hành vi của người thực hành, người xúi giục. Các bị cáo Linh, Sơn, Văn Duy, Quang Duy, Long thì có vai trò là người thực hành, người giúp sức trong từng vụ việc. Những vụ “Cướp tài sản” Bảo, Hùng cùng nhau thực hiện Linh, Sơn, Văn Duy, Quang Duy, Long không biết, không tham gia nên không phải là đồng phạm, không phải chịu trách nhiệm với Bảo, Hùng. Tuy vậy, không phải trong mọi trường hợp cứ có nhiều người cùng thực hiện một tội phạm đều là đồng phạm. Vụ án cụ thể như sau: Qua bài viết của tác giả Nguyễn Văn Tú- Toà án Quân sự Quân chủng Hải Quân, được đăng trên Tạp chí Toà án số 03 tháng 02 năm 2007 về việc xác định tội danh đối với Hoàng Tiến H, nội dung sự việc như sau: Cuối tháng 05/2006, Nguyễn Huy Quân bàn bạc với Nguyễn Văn Lâm và Đặng Ngọc Cương về việc đào đường ông cấp nước cho bán đảo X, được Lâm và Cương đồng ý và yêu cầu Quân nhờ Hoàng Tiến H là Trung đội phó trinh sát có nhiệm vụ bảo vệ toàn bộ khu vực để Hoàng Tiến H móc nói với các chiến sỹ bảo vệ thì Lâm và Cương mới tham gia. Nguyễn Huy Quân đã đến phòng ngủ của Hoàng Tiến H để nhờ H móc nối với các chiến sỹ bảo vệ của đơn vị cảnh giới cho nhóm của Quân đào ống nước và hứa sẽ chia tiền cho Hoàng Tiến H và được H đồng ý giúp và còn hẹn với Nguyễn Huy Quân khi nào nhóm của Quân hành sự thì báo cho Hoàng Tiến H biết để H không phân công đi tuần ở khu vực đó. Nguyễn Huy Quân và Hoàng Tiến H trao đổi cho nhau số điện thoại di động để tiện liên lạc khi cần, hẹn khi nào nhóm của Quân đào được ông nước thì Hoàng Tiến H ra theo xe đến nhà cô Chúc để chia tiền.
  • 44. 36 Đến trưa ngày 07-06-2006, Nguyễn Huy Quân gặp Hoàng Tiến H nói: “Bọn Lâm, Cương định làm nhưng do diễn tập nên chưa đưa người vào được” đồng thời nhờ H tiếp tục giúp đỡ. Hoàng Tiến H động viên Quân cứ đưa người vào đào ống nước vì đã có H lo việc cảnh giới, và như để Nguyễn Văn Lâm và Đặng Ngọc Cương yên tâm thực hiện tội phạm Hoàng Tiến H đã chủ động hẹn gặp hai người tại quán Cà phê và nói: “Quân đã thông qua công việc làm ăn với em, các anh cứ làm em lo vòng ngoài”. Đến khoảng 17 giờ 30 ngày 08-06-2006, Lâm và Cương vào khu vực trạm cấp nước số 01 đào trộm ống nước, đến 23 giờ cùng ngày thì bị tổ tuần tra phát hiện vây bắt nhưng lại bắt được Nguyễn Ngọc Tiến. Đến chiều ngày 9-8-2006 Hoàng Tiến H chủ động hẹn gặp Nguyễn Huy Quân để hỏi tại sao Nguyễn Ngọc Tiến bị bắt tại đây Hoàng Tiến H đã xúi dục Lâm và Cương nên bỏ trốn. Khi bị đồng bọn nghi là Hoàng Tiến H đã báo cho đơn vị thì H nói: “em không báo, e đã dính vào thì làm sao e báo”. Đến đây tác giả nêu hai quan điểm trong việc định tội danh đối với Hoàng Tiến H cụ thể như sau: - Quan điểm thứ nhất cho rằng, Hoàng Tiến H phạm tội không tố giác tội phạm theo Điều 314 Bộ luật Hình sự. - Quan điểm thứ hai cho rằng, Hoàng Tiến H phạm tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia theo khoản 1 Điều 231 Bộ luật Hình sự. Qua xem xét nội dung bài viết của tác giả, tôi xin có một số ý kiến trong việc xác định tội danh đối với Hoàng Tiến H như sau: Đối với quan điểm thứ nhất cho rằng Hoàng Tiến H phạm tội không tố giác tội phạm theo quy định tại Điều 314 Bộ luật Hình sự, ta thấy: + Hành vi thể hiện về mặt khách quan của tội không tố giác tội phạm là dưới dạng không hành động, nghĩa là một người có đầy đủ năng lực trách
  • 45. 37 nhiệm hình sự, khi biết rõ về một tội phạm đang được chuẩn bị hoặc đang được thực hiện nhưng không báo với người, cơ quan có thẩm quyền, mặc dù có đủ điều kiện để làm việc này. Nói cách khác với phạm tội đã thờ ơ, dửng dưng trước hành vi phạm tội đang được chuẩn bị hoặc đang diễn ra, và chính vì thái độ này mà tội phạm đã không được ngăn chặn kịp thời, xâm hại đến các khách thể quy định tại Điều 313 Bộ luật Hình sự. Trong một xã hội có Nhà nước và pháp luật nếu ai cũng thờ ơ trước những vi phạm pháp luật nói chung và hành vi phạm tội nói riêng thì chắc chắn là việc phòng chống tội phạm sẽ rất khó khăn và hệ quả kéo theo sẽ là sự mất trật tự xã hội và hoang mang nơi quần chúng nhân dân. Chính vì vậy mà người có hành vi không tố giác tội phạm bị coi là có lỗi và phải chịu trách nhiệm hình sự trong những trường hợp cụ thể quy định tại Điều 313 Bộ luật Hình sự. + Trở lại vụ án đối với Hoàng Tiến H chúng ta thấy Hoàng Tiến H đã có một loạt hành vi dưới dạng hành động hết sức tích cực trong một vụ án có đồng phạm, cụ thể như sau: Hoàng Tiến H là Trung đội phó trinh sát, có nhiệm vụ bảo vệ toàn bộ khu vực đơn vị đóng quân tại bán đảo X. Khi Nguyễn Huy Quân bàn bạc với Hoàng Tiến H việc đào đường ống nước bán chia nhau tiền, đáng lẽ ra H phải ra sẽ ngăn cản hành vi của Quân và đồng bọn, mặc dù Hoàng Tiến H hoàn toàn có khả năng để là việc này, nhưng H đã không làm thế mà mặc nhiên đồng ý. Đến đây chúng ta thấy Hoàng Tiến H đã tiếp nhận ý thức phạm tội từ Nguyễn Huy Quân để từ một người (một chiến sỹ) có trách nhiệm bảo vệ tài sản của Nhà nước, của đơn vị và cả của nhân dân, trở thành kẻ đồng loã hay nói chính xác theo pháp luật là đồng phạm trong vụ án. Thế nhưng, chưa dừng lại ở đó Hoàng Tiến H còn cho Quân số điện thoại để hai bên liên lạc với nhau thống nhất thời gian khi thực hiện tội phạm, và cũng là để H biết mà lo cảnh giới cho Nguyễn Văn Lâm và Đặng Ngọc Cương là người thực hành
  • 46. 38 trong vụ án đồng phạm này. Riêng đối với Nguyễn Huy Quân là người tổ chức, chủ mưu thực hiện tội phạm. Như vậy, kể từ thời điểm Nguyễn Huy Quân bàn bạc việc đào phá ống nước với Hoàng Tiến H và hứa chia tiền cho H được Hoàng Tiến H đồng ý thì H đã trở thành đồng phạm với vai trò là người giúp sức; Hoàng Tiến H không chỉ giúp sức về mặt tin thần như tác giả Nguyễn Văn Tú nhận định mà cả về mặt vật chất đó là đã tạo ra sự thuận lợi là khoảng trống về thời gian trong một đơn vị của Quân đội vốn được canh phòng nghiêm ngặt và thường xuyên, điều này càng thể hiện rõ hơn nữa khi Hoàng Tiến H cho Quân số điện thoại của mình để tiện liên lạc với nhau khi hành sự. Mặt khác khi Lâm và Cương chưa thực hiện được hành vi phạm tội vì sợ đơn vị Quân đội đang diễn tập thì Hoàng Tiến H đã chủ động hẹn gặp Lâm và Cương ở quán Cà phê và nói: “Quân đã thông qua công việc làm ăn với em, các anh cứ làm em lo vòng ngoài”. Đến đây ta thấy, ngoài việc giúp sức tích cực về tinh thần và vật chất thì Hoàng Tiến H còn là kẻ xúi giục trong vụ án đồng phạm này, và qua câu nói trên Hoàng Tiến H đã thể hiện ý chí rất rõ ràng rằng: “H là đồng phạm trong vụ án có trách nhiệm thực hiện một phần tiến trình phạm tội của đồng phạm”. Thậm chí là khi vụ việc đã bị vỡ lở, nhận thấy nguy cơ sẽ bị phát hiện, Hoàng Tiến H thông qua Nguyễn Huy Quân đã xúi giục Nguyễn Văn Lâm và Đặng Ngọc Cương bỏ trốn, những tưởng sẽ nhân cơ hội này đổ hết tội lỗi cho Lâm và Cương nhưng có lẽ “Luật bất dung gian” nên hành vi của Hoàng Tiến H đã bị phát hiện. Từ những phân tích trên, chúng ta thấy, Hoàng Tiến H đã có một loạt hành vi bằng hành động cụ thể chứ không chỉ đơn thuần là không hành động như mặt khách quan của tội không tố giác tội phạm. Chính vì thế hành vi của Hoàng Tiến H không thoả mãn quy định tại Điều 314 Bộ luật Hình sự. Đối với ý kiến thứ hai cho rằng Hoàng Tiến H phạm tội phá huỷ công
  • 47. 39 trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia theo khoản 1 Điều 231 Bộ luật hình sự; như phân tích ở trên chúng ta thấy, Hoàng Tiến H sau khi tiếp nhận ý thức phạm tội từ Nguyễn Huy Quân đã có một loạt hành vi thể hiện ý thức chủ quan rõ ràng là cố ý cùng đồng bọn thực hiện hành vi phạm tội và mong muốn tội phạm ra để mong hưởng lợi từ vụ đào trộm ống nước này. Như vậy, có thể khẳng định Hoàng Tiến H là đồng phạm của vụ án. Tuy nhiên, có một điều cần lưu ý là ông nước này có phải là công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia hay không, cũng như ống nước này có phải của đơn vị quân đội đóng trên bán đảo X, hay chỉ là của một số hộ dân sinh sống trên bán đảo X bắc ngang qua đơn vị quân đội? Nó có ý nghĩa và tầm quan trọng thế nào đối với quốc gia? Cũng là những yếu tố hết sức quan trọng trong việc định tội danh đối với Hoàng Tiến H. Nếu thực sự đây là công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia thì Hoàng Tiến H phải bị truy tố về tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia theo khoản 2 Điều 231 BLHS với tình tiết định khung là “Có tổ chức” mới thoả đáng, vì khoản 3 Điều 20 Bộ luật Hình sự quy định: “Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm” [48, tr.57]. Trở lại vụ án đồng phạm này, ta thấy đã có sự câu kết chặt chẽ, thử hiện ở những điểm sau: - Nguyễn Huy Quân là người tổ chức, chủ mưu sau khi bàn bạc với Nguyễn Văn Lâm và Đặng Ngọc Cương được Lâm và Cương đồng ý, nhưng cả bọn thấy rằng nếu không có người bảo vệ, cảnh giới vòng ngoài thì không thể đào lấy ống nước được nên đã chủ động lôi kéo Hoàng Tiến H là người có trách nhiệm bảo vệ khu vực đơn vị Quân đội và cũng là người có trách nhiệm bảo vệ cả đường ống nước cùng tham gia và đã được H đồng ý. Quân và H đã bàn bạc và cho nhau số điện thoại di động để thống nhất thời gian hành sự.