SlideShare a Scribd company logo
1 of 84
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
ššš
CHU QUỐC DŨNG
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG HỆ THỐNG BÁO CHÍ
CÔNG AN NHÂN DÂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2013
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
ššš
CHU QUỐC DŨNG
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG HỆ THỐNG BÁO CHÍ
CÔNG AN NHÂN DÂN
HÀ NỘI - 2013
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 3
Chương 1 PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HỆ
THỐNG BÁO CHÍ CÔNG AN NHÂN DÂN - MỘT
SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM 13
1.1. 13
1.2.
1.3.
Phát triển nguồn nhân lực báo chí Công an Nhân dân:
Quan niệm, nội dung, vai trò và các nhân tố tác động
Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực của một số hệ
thống báo chí ngành khác
18
29
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC TRONG HỆ THỐNG BÁO CHÍ CÔNG AN
NHÂN DÂN HIỆN NAY 36
2.1. Khái quát về nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí
Công an Nhân dân hiện nay 36
2.2. Thành tựu trong phát triển nguồn nhân lực báo chí Công
an nhân dân 40
2.3. Hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần tập
trung giải quyết để đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực
trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân thời gian tới 54
Chương 3 NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC TRONG HỆ THỐNG BÁO CHÍ CÔNG
AN NHÂN DÂN THỜI GIAN TỚI 64
3.1. Những quan điểm cơ bản phát triển nguồn nhân lực
trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân 65
3.2. Những giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực
trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân 73
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
88
89
92
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
Báo An ninh Thủ đô
Báo Công an Nhân dân
Chương trình Truyền hình An ninh ATV
do Báo An ninh Thủ đô sản xuất
Công an Nhân dân
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đại học
Giáo sư
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Kênh truyền hình Công an Nhân dân
Phát thanh- truyền hình
Phó Giáo sư
Quân đội Nhân dân
Xã hội chủ nghĩa
Xây dựng lực lượng
Thành phố Hồ Chí Minh
Tiến sĩ
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Viện sĩ
Báo ANTĐ
Báo CAND
ATV
CAND
CNH, HĐH
ĐH
GS
ASEAN
ANTV
PT-TH
PGS
QĐND
XHCN
XDLL
TP.HCM
TS
THCS
THPT
VS
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế
quốc tế, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Năm 2006, lần đầu tiên thuật ngữ "nguồn nhân
lực chất lượng cao" được sử dụng trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X. 5 năm sau, Đại hội XI xác định, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất
là nguồn nhân lực chất lượng cao, là một trong ba khâu đột phá chiến lược để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong trình hình mới. [15, tr.106]
Phát triển nguồn nhân lực được coi là khâu quan trọng nhất trong ba khâu
đột phá, có vai trò chi phối việc thực hiện các đột phá khác, vì chính con người
tạo ra và thực thi thể chế, xây dựng bộ máy, quy hoạch và phát triển kết cấu hạ
tầng. Đồng thời, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đang
đặt ra yêu cầu rất cao về chất lượng con người trong Công an cũng như Quân đội
- những lực lượng vững chắc bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ Việt Nam XHCN.
Ra đời từ những ngày đầu cách mạng, lực lượng Công an Nhân dân Việt
Nam đã có những đóng góp xứng đáng và đang tiếp tục khẳng định vai trò, vị
thế quan trọng trong quá trình bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Là một
thành tố quan trọng nằm trong lực lượng CAND nói chung, hệ thống báo chí
CAND cũng ra đời rất, từ ngày xuất bản số đầu tiên của tờ Công an mới (1-11-
1946), tiền thân của Báo Công an Nhân dân ngày nay. Trong suốt chặng
đường xây dựng và trưởng thành 67 năm qua, báo chí CAND luôn luôn khẳng
định là cơ quan ngôn luận, vũ khí sắc bén của lực lượng Công an Nhân dân
Việt Nam trên mặt trận tư tưởng. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, báo chí CAND tiếp tục có những thay đổi phù hợp về
hình thức và nội dung tuyên truyền trong từng giai đoạn, từ Báo Công an mới,
Bạn dân đến tờ Nội san Rèn luyện, Tập san Công an Nhân dân và sau cùng
đổi tên thành Báo Công an Nhân dân từ năm 1965 và giữ nguyên tên gọi này
cho đến ngày nay. Từ chỗ chỉ có 1 sản phẩm báo chí chiếm vai trò chủ lưu là
Báo Công an Nhân dân và chỉ lưu hành nội bộ ngành công an, đến năm
1987 hệ thống báo chí CAND bắt đầu một giai đoạn mới khi một số tờ báo
ngành công an (như: Báo Công an Nhân dân, Báo An ninh Thủ đô) bắt đầu
được phát hành công khai và bán rộng rãi đến nhiều tầng lớp nhân dân. Kể
từ đây, hệ thống báo chí CAND khẳng định rõ nét hơn những đóng góp tích
cực và hiệu quả trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, trong sự nghiệp bảo vệ an
ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và xây dựng lực lượng công an
trong sạch, vững mạnh.
Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND từ những ngày đầu sơ
khai là những cán bộ công an có kiêm nhiệm làm công tác tuyên truyền; đội
ngũ chưa được đào tạo bài bản về nghiệp vụ, pháp luật và cả những kỹ năng
truyền thông- báo chí. Trải qua quá trình phát triển, hệ thống báo chí CAND
ngày càng nở rộ với nhiều đơn vị, cho ra đời nhiều ấn phẩm, nhiều loại hình
báo chí (báo in, báo điện tử, báo nói, báo hình), với số lượng công chúng tiếp
cận ngày càng đông đảo. Theo đó, quy mô nguồn nhân lực công tác trong hệ
thống báo chí CAND không ngừng tăng lên về số lượng, cơ cấu ngày càng
phong phú, đa dạng và từng bước được hoàn thiện. Yêu cầu tăng cường sức
mạnh tổng hợp của hệ thống báo chí CAND trong tình hình mới ngày càng
tăng, trong khi thị trường lao động chuyên ngành báo chí lại đáp ứng có hạn,
có đơn vị báo chí chưa đáp ứng kịp đà phát triển. Nguồn nhân lực trong hệ
thống báo chí CAND đứng trước những điểm nghẽn về đào tạo, đãi ngộ và cơ
chế sử dụng lao động ngay trong lực lượng CAND. Cán bộ có nghiệp vụ báo
chí thì có thể chưa nắm vững pháp luật, nghiệp vụ công an; còn cán bộ có
nghiệp vụ công an thì chưa được đào tạo hoặc am hiểu kỹ về chuyên ngành
báo chí - truyền thông. Thêm vào đó, đội ngũ cán bộ, nhân viên công tác
trong hệ thống báo chí CAND hiện nay làm việc giữa bối cảnh mặt trận văn
hóa- tư tưởng diễn biến ngày càng phức tạp, không chỉ có diễn biến hòa bình
của các thế lực thù địch, mà còn có cả hiện tượng “tự diễn biến, tự chuyển
hóa” ngay trong nội bộ, cần phải được đấu tranh phòng ngừa. Hơn nữa, tình
hình thế giới cũng luôn biến chuyển mau lẹ, khó lường trong kỷ nguyên toàn
cầu hóa, bùng nổ công nghệ thông tin, bùng nổ truyền thông đa phương tiện.
Tình hình mới đặt ra nhiều bài toán cần có lời giải đáp về phát triển
nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND. Nói cách khác, trong công tác
xây dựng lực lượng CAND, các đơn vị báo chí CAND cần phải giải những
bài toán để các cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức được đào tạo, bồi dưỡng
chính quy và chuẩn hóa, trau dồi đạo đức nghề nghiệp, nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, pháp luật và khoa học - kỹ thuật, xứng đáng là người
chiến sĩ của lực lượng Công an Nhân dân trên mặt trận tư tưởng- văn hóa, là
cầu nối giữa lực lượng công an với nhân dân; góp phần tích cực vào công cuộc
bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn xã hội, đấu tranh phòng ngừa các loại tội
phạm và tệ nạn xã hội.
Vì lẽ đó, tác giả chọn đề tài: “Phát triển nguồn nhân lực trong hệ
thống báo chí Công an Nhân dân” làm Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Kinh
tế Chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Vấn đề phát triển nguồn nhân lực nói chung đã có nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu.
Công trình “Phát triển văn hoá con người và nguồn nhân lực thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” do GS-VS Phạm Minh Hạc (chủ
biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2007 là một công trình nghiên
cứu sâu sắc về con người trên những giác độ tiếp cận độc đáo [21]. Các nhà
khoa học đã phân tích sự thống nhất biện chứng giữa văn hoá, con người và
nguồn nhân lực. Phát triển văn hoá đi đến hệ giá trị nhân cách rồi đi đến phát
triển nguồn nhân lực (phát triển thể lực, tâm lực và trí lực). Phát triển văn hoá,
con người và nguồn nhân lực phải đặt trong một tổng thể không tách rời nhau,
chúng gắn kết với nhau trong một thể thống nhất. Hệ thống giá trị vật chất và
tinh thần qua giáo dục trở lại với con người, được con người kế thừa và phát
triển trở thành sức mạnh ở con người trong lao động và trở thành vốn người
(Human capital). Nguồn lực con người tạo ra giá trị mới, đáp ứng nhu cầu
phát triển của từng người, nhóm người và cả xã hội. Các tác giả cũng đã đi
sâu phân tích và cho rằng: chất lượng nguồn nhân lực hay nguồn nhân lực
chất lượng cao là nguồn nhân lực với những con người lao động có tri thức
tốt, có kĩ năng cao và có tính nhân văn.
Công trình Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI,
của PGS.TS Trần Khánh Đức, Nxb Giáo dục Việt Nam năm 2010 đã nghiên
cứu vai trò đặc biệt quan trọng của giáo dục và đào tạo trong phát triển con
người nói chung và nguồn nhân lực đất nước nói riêng [19]. Tác giả đã trình
bày hệ thống sâu sắc về nhiều vấn đề trong đó có quá trình phát triển các
chính sách quốc gia về giáo dục và phát triển nguồn nhân lực. Tác giả đã đưa
ra những khái niệm và thuật ngữ cơ bản về nguồn nhân lực, phát triển nguồn
nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực cùng những tiêu chí đánh giá chất lượng
nguồn nhân lực của các nước trên thế giới. Sự sâu sắc của công trình có liên
quan đến đề tài luận văn chính là hệ thống tiếp cận mới, hiện đại và độc đáo
về nguồn nhân lực của đất nước trong bối cảnh cách mạng khoa học và công
nghệ. Đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong việc xác
định phải đổi mới, cải cách giáo dục đào tạo làm khâu đột phá để phát triển
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước trong đó có lĩnh vực quân
sự, xây dựng, phát huy nhân tố con người trong QĐNDVN.
Bài "Nguồn nhân lực Việt Nam: vấn đề đào tạo, thu hút và sử dụng"
của tác giả Nguyễn Văn Tài, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học xã hội
và nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) trong Hội thảo khoa học
về Phát triển nguồn nhân lực - KX - 05 - 11 tháng 3 năm 2003 đã đi sâu phân tích
vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực để phát triển
kinh tế - xã hội trong bối cảnh nước ta gia nhập WTO [30]. Tác giả đã đặc biệt
quan tâm tới vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam để đủ sức cạnh tranh
trên thị trường sức lao động thế giới. Theo tác giả, đào tạo phải gắn với sử dụng và
tập trung vào những ngành, dịch vụ đang thiếu hụt nguồn nhân lực.Việc đào tạo,
thu hút và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của Việt Nam không chỉ là biện pháp mang tính kỹ thuật
mà còn là một nghệ thuật. Nó đòi hỏi phải hiểu biết thấu đáo về đặc điểm dân
cư, truyền thống dân tộc, những đặc điểm tâm lý con người, những ưu điểm
và nhược điểm của lực lượng lao động... để từ đó mới có thể đề ra những
chính sách, những giải pháp hợp lý phát huy nguồn nhân lực đạt hiệu quả cao
nhất. Cũng trong cuộc Hội thảo về Phát triển nguồn nhân lực - KX - 05 - 11 tháng
3 năm 2003, bài viết " Đi vào thế kỷ XXI phát triển nguồn nhân lực phục vụ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" của tác giả Phạm Minh Hạc đã luận
giải rất sâu sắc vai trò của nguồn nhân lực trong thế kỉ XXI. Tác giả cho rằng,
trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay thì
nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực sẽ là yếu tố quyết định đến sự
thành công trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia trong đó có Việt
Nam. Song hiện nay nguồn nhân lực nước ta đang ở trình độ của các nước đã
phát triển cao trong thời kỳ cách mạnh công nghiệp lần thứ nhất do vậy không
đáp ứng được yêu cầu của thời đại công nghệ thông tin, kinh tế tri thức hiện
nay. Vấn đề cấp bách đặt ra là phải đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực để
chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp sang một nền kinh tế công nghiệp
trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Chúng ta phải chuẩn bị một nguồn nhân lực chất lượng cao hướng đến nền
kinh tế tri thức. Do vậy, chăm lo, phát huy, bồi dưỡng nguồn lực con người là
nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp giáo dục nước ta trong những năm tới.
Trong lĩnh vực an ninh quốc phòng, thời gian qua đã có một số nhà khoa
học bước đầu tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề hiện đại hóa quân đội và công
an cũng như phát triển nguồn nhân lực phục vụ quân đội và công an.
Đề tài KHXH. 07 - 06: "Hiện đại hóa quân đội và công an với đẩy
mạnh CNH, HĐH” đã tập trung vào nghiên cứu làm rõ tính tất yếu và nội
dung của vấn đề hiện đại hóa quân đội và công an trong tình hình mới. Đề tài
đưa ra kiến nghị; Nhà nước phải đầu tư trực tiếp và huy động sức mạnh tổng
hợp của quốc gia để phát huy nhân tố con người trong xây dựng Quân đội
nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại.
Luận án tiến sĩ Kinh tế của tác giả Đỗ Văn Dạo về “Phát triển nguồn
nhân lực quân sự chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa Quân đội Nhân
dân Việt Nam” cũng là một công trình nghiên cứu về phát triển nguồn nhân
lực, trong đó xác định rõ được tiêu chí đánh giá và nhân tố ảnh hưởng đến
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa quân
đội hiện nay [3]. Luận án đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm phát
triển lực lượng này đến năm 2020.
Trong lĩnh vực quản lý báo chí, đề tài phát triển nguồn nhân lực cũng là
vấn đề mới. Từ năm 2010, Chính phủ giao Bộ Thông tin- Truyền thông dự
thảo Quy hoạch phát triển nhân lực báo chí, phát thanh, truyền hình.
Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức nhiều hội thảo xây dựng Dự
thảo Quy hoạch phát triển nhân lực báo chí, phát thanh truyền hình đến năm
2020. Trong quy hoạch nhân lực báo chí quan trọng là phải bảo đảm được xu
hướng phát triển của hệ thống báo chí. Đào tạo nhân lực báo chí có sự khác
biệt, không chỉ là chỉ đào tạo thuần túy chuyên môn về nghiệp vụ báo chí mà
báo chí phản ánh toàn diện mọi mặt đời sống nên kiến thức về chuyên ngành
là hết sức quan trọng. Nhân lực báo chí là nhân lực để tác nghiệp, để hình
thành những sản phẩm báo chí, tác phẩm báo chí chứ không phải là người làm
nghiên cứu nên phải có yếu tố, tố chất để đáp ứng được yêu cầu này. Nhân
lực báo chí còn là những người làm nhiệm vụ tuyên truyền tập thể, cổ động
tập thể, những nhà chính trị nên phải hội tụ đầy đủ các phẩm chất về chính trị,
năng lực chuyên môn, đạo đức. Tất cả những cái đó cần phải tính toán trong
phát triển nguồn nhân lực”. Theo đó, quy hoạch nhân lực báo chí cần phải
tính tới cả xu hướng trong hội tụ thông tin, khi một cơ quan báo chí có cả báo
in, PT-TH, báo điện tử sẽ có nhu cầu nhân lực khác với 4 đơn vị báo chí riêng
rẽ. Sự hội tụ đó không chỉ diễn ra trong 1 tòa soạn mà còn diễn ra trong 1 cá
nhân nhà báo. Quy hoạch cũng phải tính đến những vấn đề sâu như vậy để
đưa ra những dự báo phù hợp. Bất cập trong công tác đào tạo nhân lực báo chí
hiện nay là hầu hết các giáo viên không hoặc ít hành nghề báo trong thực tế.
Đó chính là lý do sinh viên ra trường không thể tác nghiệp được. Bởi vậy,
những mâu thuẫn đó cần được giải quyết bằng các quan điểm quy hoạch phát
triển nhân lực báo chí, phát thanh truyền hình.
Nhìn lại phần tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới luận văn, bản
thân tôi nhận thấy, các công trình nghiên cứu thể hiện rõ trong việc đặt vấn
đề, trong cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu mang tính hệ thống trên cơ sở
những phương pháp liên ngành, so sánh,… Bằng cách làm trên, các công
trình đã tìm ra và lý giải một cách thuyết phục vai trò đặc biệt của nhân tố con
người trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và quốc phòng an ninh. Mặt
khác, các công trình cũng đưa ra những dự báo có cơ sở khoa học về tương lai
phát triển nguồn nhân lực và những lợi ích và tính hiệu quả mà chiến lược này
mang lại cho sự phát triển của đất nước nói chung và hệ thống báo chí nói
riêng, mà trong đó hệ thống báo chí Công an Nhân dân là một thành tố.
Mặc dù, tính hệ thống của các công trình trên là tương đối cao, có công
trình nghiên cứu một cách tổng thể về phát triển nguồn nhân lực, nguồn nhân
lực chất lượng cao, có công trình đi sâu vào phân tích phát triển nguồn nhân
lực ở cấp ngành. Tuy nhiên, do những đặc thù riêng biệt, những mục đích
nghiên cứu khác nhau, nên cho tới nay chưa có một công trình nào đi sâu
nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an
Nhân dân với tư cách là một công trình khoa học độc lập.
Do đó, đề tài luận văn này (tập trung nghiên cứu phát triển nguồn nhân
lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân) tuy có kế thừa kết quả nghiên
cứu của nhiều nhà khoa học đi trước, song không trùng lặp với bất kỳ một
công trình khoa học nào đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu đề tài
Luận giải, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển nguồn
nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân. Trên cơ sở đó, đề xuất một
số quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực
trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân.
* Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí
Công an Nhân dân
- Phân tích thực trạng, vai trò, nội dung, cơ cấu và những nhân tố ảnh hưởng
tới phát triển phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân.
Làm rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, những vấn đề đặt ra từ thực trạng.
- Đề xuất những quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu để phát triển
nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phát triển nguồn nhân lực trong
hệ thống báo chí Công an Nhân dân
* Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát nguồn nhân lực công tác tại các cơ quan
báo chí hoạt động có tính chất chuyên nghiệp trong hệ thống báo chí Công an
Nhân dân; với các loại hình truyền thông đa phương tiện như: báo in, báo nói
(phát thanh), báo hình (truyền hình), báo điện tử (báo mạng)… Không khảo sát
các tạp chí, bản tin nghiệp vụ lưu hành nội bộ trong ngành công an, vì đây là loại
hình báo chí không chuyên nghiệp, nhân lực làm tạp chí thường kiêm nhiệm
thêm các chuyên môn khác; nội dung trong các tạp chí hoặc bản tin đó không
phổ biến rộng rãi đến công chúng là các tầng lớp nhân dân.
* Thời gian khảo sát: từ năm 2000 đến nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
phát triển con người, tham khảo các báo cáo chuyên đề xây dựng lực lượng
CAND và bài viết của các học giả và các công trình khoa học có liên quan.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn vận dụng phương pháp chủ nghĩa
duy vật biện chứng, các phương pháp của Kinh tế chính trị, trong đó coi trọng
phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Đồng thời vận dụng tổng hợp các
phương pháp như: hồi cứu tư liệu, phân tích – tổng hợp, lôgíc – lịch sử, tổng
kết thực tiễn, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế, chuyên gia…
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển nguồn
nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân đáp ứng cầu mới. Qua
đó làm phong phú lý luận nghiên cứu về vấn đề phát triển nguồn nhân lực.
Luận văn cũng góp phần xác định chủ trương, chính sách để nguồn nhân
lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân phát huy thế mạnh và tạo ra
hiệu quả rõ nét hơn trong hệ thống báo chí Cách mạng Việt Nam cũng như
trong lực lượng CAND.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm: phần mở đầu, phần nội dung 3 chương,
(8 tiết), phần kết luận.
Chương 1
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HỆ THỐNG BÁO CHÍ
CÔNG AN NHÂN DÂN - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM
Nhân lực là sức lực con người, nằm trong mỗi con người và làm cho
con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển
của cơ thể con người và đến một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham
gia vào quá trình lao động- con người có sức lao động.
C.Mác quan niệm: đó là "những con người có năng lực phát triển toàn
diện, đủ sức tinh thông và nắm nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong
thực tiễn" [26, tr.474].
Lênin đã từng đặc biệt coi trọng của vai trò của con người trong hệ
thống sản xuất vật chất của xã hội, người coi đây là nhân tố có ý nghĩa quyết
định của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lênin nhấn mạnh: “Lực lượng
sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân là người lao động”
[24, tr.430].
Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, con người được coi là một
phương tiên hữu hiệu cho việc đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững,
thậm chí con người được coi là một nguồn vốn đặc biệt cho sự phát triển -
vốn nhân lực. Về phương diện này, Liên Hiệp Quốc cho rằng, nguồn lực con
người là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng lực con người có quan hệ tới
sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngày nay, nguồn nhân lực còn bao
hàm khía cạnh về số lượng, không chỉ những người trong độ tuổi, mà cả
những người ngoài độ tuổi.
Dưới góc độ giáo dục và đào tạo, nguồn nhân lực được xác định là
những người được đào tạo ở các bậc trình độ khác nhau, đáp ứng nhu cầu
hoạt động nghề nghiệp đem lại thu nhập cho bản thân và cộng đồng. Đó là
những con người có đủ những điều kiện về sức khoẻ, bằng cấp, trình độ
nghiệp vụ chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kỹ năng nghề nghiệp, tham gia
trực tiếp vào quá trình hoạt động thực tiễn đem lại hiệu suất lao động cao
Ở nước ta, khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng rộng rãi từ khi
Đảng ta bắt đầu công cuộc Đổi mới sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
năm 1986. Điều này được thể hiện rõ trong các công trình nghiên cứu về
nguồn nhân lực. Theo Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc, nguồn lực con
người được thể hiện thông qua số lượng dân cư, chất lượng con người (bao
gồm thể lực, trí lực và năng lực phẩm chất). Như vậy, nguồn nhân lực không
chỉ bao hàm chất lượng nguồn nhân lực hiện tại mà còn bao hàm cả nguồn
cung cấp nhân lực trong tương lai [20].
Về cơ bản, quan niệm quốc tế và trong nước đều thống nhất với nhau
về bản chất, nội dung và các giới hạn xác định nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn lực đó được xem xét ở
hai khía cạnh. Trước hết, với ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn
lực. Nguồn nhân lực nằm ngay trong bản thân con người, đó cũng là sự khác
nhau cơ bản giữa nguồn lực con người với các nguồn lực khác. Thứ hai,
nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể nguồn lực của từng cá nhân con người.
Với tư cách là một nguồn lực của quá trình phát triển, nguồn nhân lực là
nguồn lực con người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho
xã hội, được biểu hiện ra là số lượng và chất lượng nhất định tại một thời
điểm nhất định.
Từ những phân tích trên, ở dạng khái quát nhất, có thể hiểu nguồn nhân
lực là một phạm trù dùng để chỉ sức mạnh tiềm ẩn trong dân cư, khả năng huy
động tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội
trong hiện tại cũng như trong tương lai. Sức mạnh và khả năng đó được thể
hiện thông qua số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số, nhất là số lượng và chất
lượng con người có đủ điều kiện tham gia vào nền sản xuất xã hội.
n nhân lực là toàn bộ sức lao động của những người trong độ tuổi lao
động có khả năng hoạt động trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội,
quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Cần phân biệt ranh giới và không nên
đồng nhất nguồn nhân lực với lực lượng lao động. Cần quan tâm nghiên cứu
nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh.
Nguồn nhân lực chưa phải là động lực trực tiếp cho sự phát triển kinh
tế xã hội. Nguồn nhân lực với chất lượng thấp, số lượng đông trong nhiều
trường hợp lại trở thành lực cản đối với sự phát triển. Vì vậy, ngày nay người
ta quan tâm nhiều đến sự hình thành hoặc đầu tư để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Khi nghiên cứu về nguồn nhân lực, chúng ta cũng có thể thấy
rằng, vốn nhân lực là yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội ở mỗi
quốc gia cũng như cơ quan- đơn vị, doanh nghiệp. Để nâng cao năng lực cạnh
tranh của nguồn nhân lực, đặc biệt phải phát triển và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Vốn nhân lực là tập hợp các kiến thức, khả năng, kỹ năng mà
con người tích lũy được trong quá trình đào tạo hoặc làm việc.
Cho đến nay, do xuất phát từ cách tiếp cận khác nhau nên khái niệm
phát triển nguồn nhân lực không giống nhau.
Theo Tổ chức Văn hóa – Giáo dục Liên Hiệp Quốc UNESCO, phát
triển nguồn nhân lực là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn phù
hợp trong mối quan hệ với sự phát triển của đất nước. Quan niệm này gắn với
sự phát triển sản xuất; do đó, phát triển nguồn nhân lực giới hạn trong phạm
vi phát triển kỹ năng lao động và thích ứng với yêu cầu về việc làm.
Còn theo Tổ chức Lao động Quốc tế - ILO, phát triển nguồn nhân lực
là sự chiếm lĩnh trình độ lành nghề và phát triển năng lực, sử dụng năng lực
đó của con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả cũng như thỏa mãn
nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân; hay, phát triển nguồn nhân lực là quá trình
làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp
ứng tốt hơn yêu cầu của nền kinh tế xã hội.
Với cách tiếp cận trên, phát triển nguồn nhân lực là quá trình phát triển
thể lực, trí lực, khả năng nhận thức và tiếp cận kiến thức, tay nghề, tính năng
động xã hội và sức sáng tạo của con người; nền văn hóa, truyền thống lịch
sử… Do đó, phát triển nguồn nhân lực đồng nghĩa với quá trình nâng cao
năng lực xã hội và tính năng động xã hội của nguồn nhân lực về mọi mặt: thể
lực, trí lực, nhân cách, đồng thời phân bố, sử dụng, phát huy có hiệu quả nhất
năng lực đó, để phát triển đất nước.
Với góc độ khoa học quản trị nhân lực- một cách hình dung cụ thể thì-
phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hoạt động học tập có tổ chức, được
tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định, để nhằm tạo ra sự thay đổi
hành vi nghề nghiệp của người lao động. Như vậy, xét về nội dung, phát triển
nguồn nhân lực theo góc độ này bao gồm 3 loại hoạt động là: giáo dục, đào
tạo và phát triển. Theo đó, thứ nhất: Giáo dục được hiểu là các hoạt động học
tập để chuẩn bị cho con người bước vào nghề nghiệp thích hợp hơn trong
tương lai. Thứ hai: Đào tạo (hay còn gọi là đào tạo kỹ năng) được hiểu như
các hoạt động học tập, nhằm giúp cho người lao động có thể thực hiện hiệu
quả hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Đó chính là quá trình học tập làm
cho người lao động nắm vững hơn về công việc của mình, là những hoạt động
học tập để nâng cao trình độ, kỹ năng của người lao động để thực hiện nhiệm
vụ của người lao động có hiệu quả hơn. Thứ ba: Phát triển là các hoạt động
học tập vươn ra khỏi phạm vi công việc trước mắt của người lao động, nhằm
mở ra cho họ những công việc mới dựa trên cơ sở những định hướng tương
lai của tổ chức.
Với cách tiếp cận phát triển từ góc độ xã hội, có thể định nghĩa phát triển
nguồn nhân lực là quá trình tăng lên về số lượng (quy mô) nguồn nhân lực và
nâng cao về mặt chất lượng nguồn nhân lực, tạo ra cơ cấu nguồn nhân lực ngày
càng hợp lý. Cả ba mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu trong phát triển nguồn
nhân lực gắn chặt với nhau, trong đó, yếu tố quyết định nhất của phát triển là
chất lượng nguồn nhân lực phải được nâng cao. Phát triển nguồn nhân lực nhằm
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội hoặc phát triển các hoạt động sản xuất
kinh doanh của cơ quan- đơn vị, doanh nghiệp, và đến lượt nó, phát triển kinh tế
xã hội đòi hỏi đòi hỏi phải phát triển nhanh nguồn nhân lực.
1.2. Phát triển nguồn nhân lực báo chí Công an Nhân dân: Khái
niệm, nội dung, vai trò và các nhân tố tác động
1.2.1. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí
Công an nhân dân
Dưới góc độ chung nhất, phát triển là sự biến đổi, gia tăng về số lượng,
chất lượng và các mối quan hệ.
Tiếp cận dưới góc độ con người là mục tiêu của sự phát triển thì phát
triển con người hay phát triển nguồn lực con người là mở rộng các khả năng
của con người, tạo cho con người có cơ hội tiếp cận với nền giáo dục tốt hơn,
các dịch vụ y tế tốt hơn, có chỗ ở tiện nghi và điều kiện làm việc tốt hơn. Hay
nói cách khác, phát triển nguồn nhân lực là tăng cường năng lực, nâng cao
kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm làm việc cho con người.
Đứng trên quan điểm coi con người là trung tâm của sự phát triển kinh
tế - xã hội, khi nói phát triển nguòn nhân lực là nói tới phát triển hoạt động
đầu tư nhằm tạo ra nguồn lực xã hội với số lượng và chất lượng đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời bảo đảm sự phát triển
của mỗi cá nhân. Theo đó, phát triển nguồn nhân lực là những chính sách và
hoạt động tạo ra sự biến đổi về số lượng, chất lượng biểu hiện ở sự hình thành
và hoàn thiện từng bước về thể lực, kiến thức, kỹ năng, thái độ, nhân cách
nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu hoạt động, lao động của cá nhân và sự phát
triển của xã hội.
Tiếp cận phát triển nguồn nhân lực ở một ngành, một tổ chức nào đó
thực chất là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu của
nguồn nhân lực được thực hiện thông qua hệ thống các chính sách, biện pháp
của tổ chức và cá nhân với mục đích là tạo ra lực lượng lao động phù hợp với
nhu cầu, định hướng và mục tiêu phát triển của ngành, lĩnh vực, tổ chức trong
từng thời kỳ. Thực chất phát triển nguồn nhân lực của một ngành, một tổ chức
là hoạt đọng của chủ thể quản lý ngành, tổ chức trước yêu cầu phát triển mang
tính khách quan và hướng đích giúp cho cá nhân và tập thể người lao động đạt
được khả năng thích ứng cao nhất theo định hướng và mục tiêu phát triển
chung của ngành trong mỗi thời kỳ.
Từ những phân tích trên đây tác giả cho rằng, phát triển nguồn nhân
lực trong hệ thống báo chí CAND Việt Nam là đẩy mạnh quá trình sử dụng
tổng hợp các cơ chế, chính sách, biện pháp, cách thức nhằm phát hiện, thu
hút, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý cả về cơ cấu, số lượng
và chất lượng của đội ngũ những người làm báo có phẩm chất chính trị, bản
lĩnh nghề nghiệp vững vàng, có tri thức rộng, kỹ năng nghiệp vụ báo chí tốt,
nắm vững pháp luật và nghiệp vụ công an, nhằm phát huy hiệu quả cao nhất
để các đơn vị báo chí CAND hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trên mặt trận
văn hóa - tư tưởng.
Phát triển nguồn nhân lực báo chí Công an nhân dân có những vai trò
chủ yếu sau:
Một là, bảo đảm xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công nhân
viên, biên tập viên, phóng viên. Phát triển nhân lực báo chí Công an nhân dân
không chỉ nhằm làm tăng năng lực thực thi nhiệm vụ của các báo và từng cán
bộ công nhân viên, biên tập viên, kỹ thuật viên của các báo, mà còn nhằm bảo
đảm cho sự phát triển hiệu quả ngày càng mạnh mẽ của các báo cả về số
lượng và chất lượng. Phát triển nguồn nhân lực báo chí CAND đóng góp
không nhỏ cho công tác xây dựng lực lượng công an trong sạch, vững mạnh.
Trên thực tế, báo chí là một kênh thông tin, kênh kết nối giữa lực lượng công
an với nhân dân và từ báo chí công tác xây dựng lực lượng công an có thêm
nguồn đánh giá, kiểm chứng. Người dân có thêm thiện cảm, gần gũi với lực
lượng công an, giúp đỡ lực lượng công an thực thi nhiệm vụ, cũng là nhờ có
phần đóng góp của báo chí CAND. Đặc biệt, phát triển nguồn nhân lực báo
chí CAND còn giúp củng cố công tác bảo vệ nội bộ; bởi, nếu mặt trận văn
hóa- tư tưởng có một đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức công an sắc bén
nghiệp vụ, thì có thể đấu tranh phòng ngừa tốt trước hiện tượng một số cán
bộ trong lực lượng “tự diễn biến, tự chuyển hóa” hoặc thoái hóa, biến chất từ
tư tưởng đến hành động.
Hai là, phát triển nguồn nhân lực báo chí Công an nhân dân đáp ứng
yêu cầu, nội dung chính quy hóa, chuẩn hóa đội ngũ trong lực lượng CAND.
Thực tiễn hoạt động của hệ thống báo chí Công an nhân dân cho thấy, trước
nhiệm vụ nặng nề của sự nghiệp báo chí cách mạng hiện nay, đòi hỏi đội ngũ
người làm báo cách mạng không chỉ phải không ngừng được trau dồi về phẩm
chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc,
mà còn cần được tạo môi trường điều kiện làm việc thuận lợi, được quan tâm
chăm lo và tạo điều kiện được học tập nâng cao trình độ mọi mặt; có cơ cấu,
qui mô hợp lý.
Đặc biệt hiện nay đặc điểm, tính chất, quy mô của các cuộc chiến tranh
tư tưởng, chiến tranh tâm lý, chiến tranh công nghệ giữa bối cảnh tình hình
thế giới phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch có khả năng sử dụng các hệ
thống truyền thông đa phương tiện hỗ trợ các cuộc chiến tranh tư tưởng, chiến
tranh tâm lý, chiến tranh công nghệ. Chúng ta cần chuẩn bị phương án trong
tương lai (nếu xảy ra, phòng ngừa thế nào) đối với hệ thống báo chí CAND
nói riêng và báo chí cách mạng nói chung. Ví dụ: Điển hình trên thế giới như
cách mạng nhung, cách mạng màu với sự can dự của các thế lực bên ngoài
khi sử dụng mạng xã hội, đè bẹp các phương tiện báo chí truyền thống trong
nước ở Gruzia, Ai Cập…Do vậy, phát triển nguồn nhân lực là nhân tố cơ bản
để phát triển kinh tế báo chí trong CAND góp phần hiện đại hóa và nâng cao
tiềm lực hậu cần - kỹ thuật của lực lượng CAND.
1.2.3. Nội dung phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí
Công an Nhân dân
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện trên nhiều mặt nguồn nhân
lực như phẩm chất chính trị, kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức lối sống, thể lực,
kinh nghiệm công tác.v.v. Theo đó, phát triển về chất lượng nguồn nhân lực
gồm các mặt cơ bản sau:
Một là,
∑ L đào tạo
T đào tạo = x 100
∑ L làm việc
Trong đó:
T đào tạo: là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với tổng lao động đang
làm việc;
L đào tạo: là số lao động đã qua đào tạo đang làm việc
L làm việc: là số lao động đang làm việc
doanh.
Đặc biệt, đối với mỗi một cán bộ, công nhân viên chức công tác trong
hệ thống báo chí CAND thì có 2 nội dung cần hết sức chú trọng là phẩm chất
chính trị và đạo đức nghề nghiệp. Đã công tác trong cơ quan, đơn vị có đặc
thù vũ trang thì phẩm chất chính trị là đặc biệt quan trọng. Nếu không rèn
luyện và thường xuyên tu dưỡng thì không thể đứng vững trên mặt trận văn
hóa - tư tưởng. Thực tiễn nghề báo có muôn vàn những cám dỗ và muôn vàn
những tác động khách quan cũng như chủ quan khiến nhà báo có thể bị “che
mắt”, không thể hiện hết bản chất vấn đề, không đi được đến cùng của sự
việc, hiện tượng. Bởi vậy, Hội Nhà báo Việt Nam đề ra những nội dung về
đạo đức nghề nghiệp cần tuân thủ. Cùng với việc rèn luyện phẩm chất chính
trị thì việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp là 2 nội dung song hành cần đặc biệt
quan tâm trang bị cho nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND.
Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng công tác đánh giá,
bố trí, sử dụng, quy hoạch, bổ nhiệm nhân lực. Quản lý nguồn nhân lực nói
chung và công tác XDLL trong CAND nói riêng là một hoạt động quản lý bao
gồm nhiều nội dung: đánh giá cán bộ, tổ chức thực hiện các chế độ, chính
sách của Nhà nước, của ngành; bố trí, phân công điều động, thuyên chuyển
công tác; đánh giá khen thưởng, kỷ luật cán bộ…v.v… Và, mỗi nội dung có
một vị trí nhất định và có mối liên hệ mật thiết với nhau, trong đó đánh giá là
khâu đầu tiên, là cơ sở để tiến hành các khâu tiếp sau. Đánh giá cán bộ là việc
làm khó, rất nhạy cảm vì nó ảnh hưởng đến tất cả các khâu khác. Đánh giá
nhân lực trong hệ thống báo chí CAND theo quy chuẩn chung của các cơ
quan, đơn vị công an khác và thường theo 2 dạng: (1) đánh giá hàng năm; (2)
đánh giá để nhằm mục tiêu phát triển nhân lực của tổ chức để quyết định bổ
nhiệm, luân chuyển hay đào tạo cán bộ.
Đối với lãnh đạo đơn vị báo chí, công tác cán bộ nhằm: xây dựng kế
hoạch và thực hiện chính sách sử dụng và phát triển nguồn nhân lực; có cơ sở
để quyết định khen thưởng, kỷ luật; sắp xếp bố trí nhân sự sao cho khối lượng
công việc mà mỗi cá nhân- bộ phận đảm đương phù hợp với khả năng thực tế
của họ; có thông tin để xây dựng tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ phù hợp; có cơ sở
đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chỉ huy; có thông tin để xây dựng hoàn thiện các
chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp và cần thiết nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Còn đối với cán bộ (người bị đánh giá) sẽ có cái nhìn khách
quan hơn về bản thân, có thể tự xác định mình thuộc phân loại cán bộ thang bậc
nào và tự điều chỉnh, nhận thức động cơ đúng đắn và gắn bó hơn với công việc,
định hướng kích thích sự vươn lên để thực hiện tốt hơn công việc.
Bố trí, sử dụng cán bộ phải đảm bảo nguyên tắc “đúng người, đúng
việc”, và cần mạnh dạn giao công việc cũng như quyền hạn, trách nhiệm cụ
thể cho cán bộ để họ có thể chủ động, sáng tạo và phát huy hết tiềm năng
phục vụ cho đơn vị. Bên cạnh đó, công tác quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm cán
bộ không những nâng cao được chất lượng nguồn nhân lực, mà còn có ý
nghĩa trong thu hút, tuyển dụng và đãi ngộ nhân tài.
1.2.4. Các nhân tố chủ yếu tác động đến phát triển nguồn nhân lực
trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND có nhiều yếu
tố tác động. Tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung luận giải các yếu tố tác động có
tính chất trực tiếp và cơ bản nhất.
Một là, phát triển nguồn nhân lực báo chí CAND chịu tác động bởi
nguồn nhân lực quốc gia. Bởi vì trước hết, nguồn nhân lực báo chí CAND là
một bộ phận của nguồn nhân lực đất nước. Bởi vậy, giáo dục và đào tạo quốc
dân có vai trò quan trọng cho phát triển nguồn nhân lực cho lực lượng công
an cũng như cho nền báo chí cách mạng nước nhà. Hơn nữa, hoạt động báo
chí công an là rất đặc thù, những cán bộ phóng viên, biên tập viên, họa sĩ…
báo chí công an trước khi được đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện để thực hiện
nhiệm vụ thì phải dựa trên một nền tảng thể lực, trí thức nhất định làm điều
kiện tiên quyết. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng, hiệu quả của
nền giáo dục quốc dân. Nguồn nhân lực quốc gia càng phát triển với chất
lượng cao thì càng có cơ sở để thu hút được nhiều người giỏi, người tài cho
báo chí công an, với cách triển khai đi tắt, đón đầu; và ngược lại.
Hai là, phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực cho báo
chí công an nói riêng luôn chịu sự tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường.
Tôn trọng quy luật kinh tế, hiểu rõ về cơ chế thị trường, đồng thời linh hoạt,
uyển chuyển phù hợp với yêu cầu vận động của thực tiễn, mới là hiểu rõ nhân
tố tác động này. Cơ chế thị trường đặt ra cho nội dung phát triển nguồn nhân
lực những bài toán khó khi các đơn vị báo chí công an chịu sức ép của thị
trường. Công chúng phải bỏ tiền hoặc mất chi phí để tiếp cận được sản phẩm
báo chí công an và họ có quyền chọn lựa hoặc không chọn lựa sản phẩm báo
chí đó. Muốn được công chúng chọn mua, chọn xem thì sản phẩm báo chí
phải hấp dẫn, phải đẹp, phải đúng “gu” thưởng thức. Muốn vậy thì đội ngũ
làm ra sản phẩm báo chí công an phải đủ độ nhạy, đủ tinh tường để vừa
thực hiện nhiệm vụ chính trị trên mặt trận văn hóa- tư tưởng, vừa đáp ứng
được những yêu cầu khắt khe của thị trường, từ phía công chúng trong các
tầng lớp nhân dân.
Ba là, phát triển nguồn nhân lực báo chí CAND chịu tác động của
nhiệm vụ xây dựng lực lượng CAND trong tình hình mới. Là một bộ phận
của lực lượng CAND, nên báo chí công an không lý gì lại không đồng bộ
hướng đến cùng lực lượng CAND chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
Xây dựng chính quy đòi hỏi phải đạt tính thống nhất, tính kỷ luật và tính tiên
tiến. Tình hình mới với những phức tạp khó lường trên trận tuyến bảo vệ an
ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội đặt ra nhiều thách thức với cả lực
lượng CAND nói chung cũng như báo chí công an nói riêng. Do vậy, phải
tiến hành đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức
trong hệ thống báo chí công an để có thể tiếp nhận và chiến đấu có hiệu quả
trên mặt trận văn hóa - tư tưởng đang là vấn đề đặt ra cấp bách.
Bốn là, phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND chịu
sự tác động trực tiếp của những cơ chế, chính sách đãi ngộ các nhà báo công
an. Trước hết, chính sách tốt sẽ thu hút được những sinh viên (báo chí, công
an) tài năng, những du học sinh xuất sắc để bổ trợ cho nguồn nhân lực báo chí
công an mà chi phí đào tạo bổ sung ít đi trong khi thời gian đào tạo lại ngắn
lại. Bên cạnh đó, cần thu hút cả đội ngũ chuyên gia, những nhà báo có kinh
nghiệm từ ngoài ngành công an vào hệ thống báo chí công an. Đội ngũ này
vừa trực tiếp làm gia tăng quy mô về số lượng, vừa khắc phục được một phần
bất cập về cơ cấu, đồng thời làm tăng nhanh yếu tố về chất của nguồn nhân
lực báo chí công an. Thời gian qua, một số nhà báo giỏi ngoài ngành đã
chuyển về Trung tâm phát thanh- truyền hình và điện tử CAND, do đơn vị
thực hiện được một số ưu tiên về cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng đặc thù,
tạo môi trường đãi ngộ cán bộ báo chí công an tốt hơn trước. Việc tuyển
dụng, bố trí, sắp xếp, đãi ngộ trong hệ thống báo chí CAND phải gắn chặt với
cơ chế cụ thể để những người tài, người giỏi trong và ngoài ngành công an có
cơ hội phát triển.
Năm là, việc triển khai đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện là một quá trình
cần thiết, đẩy lui nhân tố ỷ lại, trì trệ có trong các cán bộ Nhà nước. Thông
qua các khóa đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện, cán bộ thay đổi nếp nghĩ cũ,
phấn đấu thực hiện con đường tiến thân bằng năng lực thực chất, hoàn thiện
đạo đức nghề nghiệp báo chí công an. Một đặc điểm rất dễ nhận thấy của các
cán bộ biên chế là sự đảm bảo về vị trí công tác của các cán bộ tạo nên tâm lý
chung an tâm, dễ dẫn tới ỷ lại, ngại phấn đấu, nếu không được lãnh đạo làm
công tác tổ chức xây dựng lực lượng thường xuyên đốc thúc và rà soát lại.
Nhân tố bên trong này ảnh hưởng rất lớn tới phát triển nguồn nhân lực, nếu
không thường xuyên đốc thúc, đẩy mạnh thì hiệu quả hoạt động của các đơn
vị báo chí công an đương nhiên bị giảm sút.
Sáu là, bối cảnh hội nhập hiện nay là nhân tố thuận lợi cho phát triển
nguồn nhân lực báo chí CAND. Trong đó, vấn đề hợp tác đào tạo và mở rộng
các hoạt động đối ngoại công an đang và sẽ tạo điều kiện, tiền đề không nhỏ
để phát triển nguồn nhân lực cho báo chí công an. Vì vậy, việc mở rộng hợp
tác đào tạo, liên kết đào tạo với một số trường danh tiếng trên thế giới về báo
chí về cảnh sát để phát triển nguồn nhân lực báo chí CAND là vấn đề đặt ra.
Đây chính là quá trình phát triển đi tắt, đón đầu nhằm khắc phục sự thiếu hụt
nguồn nhân lực báo chí công an cho các đơn vị hoặc tại một thời điểm mà ở
lĩnh vực đặc thù cụ thể như báo chí thì hệ thống các học viện, nhà trường
trong ngành công an chưa có điều kiện và khả năng đào tạo. Hơn nữa, hoạt
động giao lưu, phối hợp, liên kết hợp tác báo chí trong khu vực Đông Nam Á,
Đông Á và thế giới cũng là điều kiện tốt để sàng lọc, rèn luyện và phát triển
nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND.
1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực của một số hệ thống
báo chí ngành khác:
Trong bối cảnh đất nước bước vào công cuộc Đổi mới kể từ sau Đại hội
toàn quốc lần thứ VI của Đảng, nền báo chí cách mạng ở nước ta đã phát triển
khá nhanh về số lượng và chất lượng, hình thành hệ thống thông tấn, báo chí,
phát thanh, truyền hình rộng khắp cả nước. Trong phạm vi có hạn của luận
văn này, xin phép chỉ điểm qua kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực trong
hệ thống báo chí quân đội, hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và
pháp luật.
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo
chí quân đội:
Một là, chú trọng đào tạo nhân lực thông qua hoạt động thực tiễn công tác
tiễn công tác này.
Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí QĐND ở nước ta khá đông đảo,
có bề dày truyền thống, quân phong, quân kỷ và đội ngũ nguồn nhân lực hùng
hậu, với nhiều nhà báo hoạt động kỳ cựu nhất, dày dặn nhất. Ở cấp Quân ủy
Trung ương phải kể đến Báo Quân đội Nhân dân (Cơ quan của Quân ủy
Trung ương và Bộ Quốc phòng), ở cấp các quân khu đều có báo của quân
khu, các binh chủng, lực lượng của quân đội đều xuất bản báo. Xây dựng và
trưởng thành cùng lực lượng QĐND, trải qua 2 cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ
quốc, nguồn nhân lực báo chí quân đội được tuyển chọn và bồi dưỡng ngay
trong các lĩnh vực hoạt động của báo chí quân đội và chính trong môi trường
này đã tạo nên những tên tuổi cây bút bình luận thời sự trong nước và quốc tế
sắc sảo, đanh thép, có sức nặng, thường xuyên các năm đều giành được giải
thưởng Báo chí Quốc gia và nhiều giải báo chí khác. Chính nhờ có sự đào tạo
bồi dưỡng nguồn nhân lực bằng cách này, báo chí quân đội còn giúp tạo
nguồn cung cấp nhân lực chất lượng cao cho các báo ngoài quân đội. Một số
đồng chí nhà báo quân nhân chuyển ngành, sang công tác ngành khác ngoài
quân đội, đã giữ những vị trí lãnh đạo quan trọng của nhiều tờ báo. Ví dụ: nhà
báo- thiếu tướng Phan Khắc Hải- Tổng Biên tập Báo QĐND (giai đoạn 1989-
1997) chuyển ngành và giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Văn hóa- Thông tin
(1997-2004); nhà báo - đại tá Hồ Quang Lợi - Phó Tổng Biên tập Báo QĐND
năm 2008 chuyển ngành về Thành ủy Hà Nội giữ chức vụ Tổng Biên tập Báo
Hà Nội mới và 2 năm sau giữ chức vụ Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà
Nội. Cũng từ Báo QĐND, nhà báo - thượng tá Hồng Thanh Quang chuyển
sang ngành công an giữ chức vụ Phó Tổng Biên tập Báo CAND phụ trách 2
ấn phẩm “An ninh thế giới” và “Cảnh sát toàn cầu” đều có chỉ số phát hành
trên thị trường rất cao…v.v…
Hai là, dựa vào hệ thống học viện, nhà trường trong quân đội như Học
viện Chính trị, Sĩ quan Chính trị để mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp
ày như Học viện Chính trị, Trường Sĩ quan Chính trị (Đại học Chính trị) phối
hợp với Học viện báo chí tuyên truyền để mở các lớp báo chí. Bằng cách làm
này, cùng với việc đào tạo tại chỗ cũng đã góp phần nhất định vào việc nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực cho hệ thống báo chí quân đội.
Ba là, nhạy bén và linh hoạt trong huy động nguồn nhân lực báo chí từ
các cơ quan đơn vị trong và ngoài quân đội để đáp ứng yêu cầu tăng lên
nhanh chóng của các loại hình báo chí quân đội trong tình hình mới. Nguồn
nhân lực báo chí quân đội sau một thời gian dài ổn định không có biến động
về quy mô, thì 5 - 6 năm trở lại đây có tăng về quy mô số lượng và cơ cấu
biên chế. Việc thiết lập thêm Báo Quân đội Nhân dân điện tử, Cổng thông tin
Điện tử Bộ Quốc phòng, cùng một số trang điện tử khác của quân đội; và đặc
biệt là sự ra đời Kênh Quốc phòng Việt Nam (gọi tắt là QPVN) kể từ ngày
19-5-2013 phát sóng 24/24h; đã tạo ra nhu cầu phát triển nguồn nhân lực
trong báo chí quân đội, tăng quy mô về số lượng và dần hoàn thiện về chất
lượng để đầu tư bổ sung cho 2 loại hình báo chí là báo điện tử và truyền hình.
Đề đáp ứng yêu cầu đó, Quân đội đã có nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi
để thu hút và tuyển dụng các phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên từ các tờ
báo và lĩnh vực có liên quan khác vào làm việc trong quân đội. Tại các đơn vị
báo chí quân đội, không chỉ có đông đảo đội ngũ cán bộ biên chế quân đội (sỹ
quan hoặc viên chức quốc phòng), mà còn có cả đội ngũ các cán bộ, nhân
viên, kỹ thuật viên hợp đồng ngoài biên chế đang làm việc cho các báo; và cả
một đội ngũ các cộng tác viên rộng lớn trong các đơn vị quân đội.
1.3.2. Kinh nghiệm của hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ
nữ và các báo ngành nội chính
Một là, tích cực và chủ động và linh hoạt trong tuyển dụng và bổ sung
nguồn nhân lực. Hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và các báo
ngành nội chính (pháp luật, kiểm sát, tư pháp) tích cực, chủ động phát huy
cao độ nguồn nhân lực báo chí. Là những thành tố trong nền báo chí cách
mạng Việt Nam, hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và báo
ngành nội chính từ năm 2000 trở lại đây đã cho ra đời nhiều ấn phẩm đa dạng,
đem lại cho đời sống báo chí sự sôi động, như chân dung muôn màu của cuộc
sống. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có báo Tiền
Phong, báo Tuổi trẻ TP.HCM, báo Tuổi trẻ Thủ đô, báo Thiếu niên Tiền
phong, báo Hoa học trò, báo Nhi đồng, báo Thời trang trẻ, Tạp chí Thanh
niên…; Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam có báo Thanh Niên, đều là những
báo, tạp chí có số lượng phát hành cao. Hội Liên hiệp Phụ nữ cũng như vậy
với một số tờ như: báo Phụ nữ Việt Nam (có nhiều loại ấn phẩm), báo Phụ nữ
TP.HCM, báo Phụ nữ Thủ đô… Chuyên ngành nội chính có: báo Pháp luật
Việt Nam của Bộ Tư pháp, báo Bảo vệ Pháp luật của Viện Kiểm sát Nhân dân
Tối cao, báo Đời sống và Pháp luật của Hội Luật gia Việt Nam, báo Pháp luật
và xã hội của Sở Tư pháp Hà Nội, báo Pháp luật TP.HCM của Sở Tư pháp
TP.HCM… Nguồn nhân lực mới cho hệ thống báo chí của Đoàn thanh niên,
Hội Phụ nữ hoặc chuyên ngành pháp luật trong quá trình những năm 1995
đến nay liên tục được bổ sung, thay thế và thường xuyên được tuyển hàng
năm lấy từ sinh viên tốt nghiệp các chuyên ngành báo chí - tuyên truyền, hoặc
các chuyên ngành xã hội… Nguồn nhân lực của các tờ báo phải trải qua tuyển
chọn, thi tuyển mới được nhận vào tác nghiệp; chỉ một số nhà báo giỏi mới
được đặc cách bỏ qua các thủ tục tuyển chọn. Các cơ quan báo chí bổ sung
nhân lực theo cơ chế hợp đồng lao động và tiến hành xây dựng hệ thống đảm
bảo chế độ đãi ngộ với nhiều nội dung có tính đột phá, nên đã tạo ra động lực
và sức hấp dẫn để thu hút nguồn nhân lực có chất lượng tốt về làm việc. Các
báo sẵn sàng trả mức thù lao lương, thưởng, nhuận bút cao để thu hút và trọng
dụng với các ứng viên có khả năng tác nghiệp báo chí tốt, những người có
tiềm năng để ký hợp đồng lao động 1 năm, 3 năm hoặc dài hạn (hợp đồng
không xác định thời hạn). Do hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ
và các báo ngành nội chính chủ động, tích cực phát huy cao độ nguồn nhân
lực trong lĩnh vực báo chí nên khoảng 90% các cử nhân báo chí muốn được
công tác tại khối các cơ quan này.
Hai là, có các biện pháp tích cực trong hạn chế hiện tượng “chảy máu
chất xám” ngay trong hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và các
báo ngành nội chính. Do các báo sẵn sàng trả mức thù lao lương, thưởng,
nhuận bút cao để thu hút và trọng dụng nhân tài, nên xảy ra hiện tượng cạnh
tranh lẫn nhau. Nhiều nhà báo “nhảy việc”, tức là thay đổi nơi làm việc từ tòa
soạn báo này sang tòa soạn báo khác. Sự cạnh tranh sản phẩm báo chí trên
thị trường cũng dẫn tới cạnh tranh thu hút nguồn nhân lực. Đó là lý do tại
sao xảy ra hiện tượng “chảy máu chất xám” ngay trong hệ thống báo chí
Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và các báo ngành nội chính, gây xáo trộn và
ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của mỗi cơ quan báo chí. Để hạn chế vấn
đè này các báo đều đã có biện pháp khá chặt chẽ để tìm cách giữ chân các
phóng viên, biên tập viên cho báo mình như tăng tiền thưởng, hỗ trợ tiền đi
công tác phí, tạo môi trường làm việc thuận lợi và xây dựng không khí làm
việc dân chủm cởi mở, đặc biệt là chủ trọng khuyến khích sự sáng tạo của
các phong viên trẻ có tài năng.
1.3.3. Một số bài học kinh nghiệm rút ra
Một là, bài học về tích cực, chủ động chuẩn bị nguồn nhân lực trong
các giai đoạn phát triển phù hợp của mỗi cơ quan, mỗi hệ thống báo chí. Cơ
quan báo chí cần mở báo điện tử khác với cơ quan cần mở rộng thêm lĩnh vực
truyền hình. Có sự chủ động, tích cực chuẩn bị nguồn nhân lực thì sẽ đáp ứng
và tạo ra hiệu quả lâu dài trong hoạt động của các cơ quan báo chí.
Hai là, bài học về phát huy cao độ nguồn nhân lực báo chí, trong đó
chú trọng tiếp tục bồi dưỡng, huấn luyện, đào tạo, để tiếp tục phát huy thế
mạnh của những nhà báo giỏi, có tâm huyết với nghề, tạo tiền đề cho việc
ra đời những tác phẩm báo chí hấp dẫn, xứng tầm. Nếu biết phát huy cao
độ nguồn nhân lực báo chí, hiệu quả công tác trên mặt trận văn hóa- tư
tưởng sẽ rất cao.
Ba là, bài học về xây dựng chiến lược tổng thể phát triển nguồn nhân
lực báo chí. Nếu không có chiến lược tổng thể, quá trình phát triển nguồn
nhân lực manh mún sẽ tạo ra sự khập khiễng, chắp vá, nửa vời trong việc
tuyển chọn, đào tạo, bố trí, sử dụng nguồn nhân lực. Xây dựng chiến lược
tổng thể còn có tác dụng ngăn ngừa hiện tượng “chảy máu chất xám” đã xảy
ra tại các hệ thống báo chí, tránh những lãng phí không cần thiết.
Bốn là, bài học kinh nghiệm về xây dựng và thực hiện cơ chế, chính
sách thu hút và trọng dụng đối với các cán bộ giỏi, có tiềm năng, tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao tiếp sau. Trên thực tế, phát triển nguồn nhân lực
trong hệ thống báo chí nào cũng khó có thể phát huy hiệu quả nếu như không
có những chính sách, cơ chế hợp lý, đồng bộ. Phần nhiều các chính sách đều
tập trung vào việc nâng cao thu nhập qua lương, thưởng, nhuận bút, đảm bảo
đời sống tốt nhất có thể cho nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí. Ngoài ra
việc tạo môi trường với những cơ chế làm việc tốt để nhân tài phát huy hết tài
năng, tiềm năng cũng cần được chú trọng. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực
trong hệ thống báo chí CAND cũng cần nghiên cứu kinh nghiệm này để lựa
chọn xây dựng các chính sách và cơ chế một cách phù hợp nhất.
Năm là, kinh nghiệm về tạo nguồn, xây dựng và kiện toàn, đổi mới
hệ thống học viện, nhà trường trong quân đội là hết sức thiết thực đối với
hệ thống học viện, nhà trường trong công an. Kinh nghiệm của hệ thống
báo chí quân đội đã cho thấy, các nhà trường, học viện quân đội đóng vai
trò rất lớn trong việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho hệ thống báo
chí quân đội trưởng thành như ngày nay. Vì vậy, cần tham khảo những
kinh nghiệm của quân đội về vấn đề này. Điều quan trọng là phải có tư
duy, tầm nhìn quyết tâm và lộ trình để thực hiện một cách khoa học trong
thực tiễn đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ, công nhân viên chức trong
hệ thống báo chí CAND.
* *
*
Có thể nói, lao động nhà báo là một loại hình lao động đặc biệt, có đặc
thù riêng, cho nên nguồn nhân lực báo chí đòi hỏi được quan niệm với tư duy
và cách tiếp cận mới, giữa bối cảnh xã hội thông tin, kỷ nguyên toàn cầu hóa.
Trên thực tế, quyền lực của các cơ quan truyền thông và công cụ tuyên truyền
hết sức lớn trên mặt trận văn hóa- tư tưởng. Hệ thống báo chí CAND là một
bộ phận không thể tách rời trong lực lượng CAND nên càng đóng vai trò hết
sức quan trọng để thực hiện nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới.
Phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND là quá trình
tạo ra sự chuyển biến đồng bộ trong tạo nguồn, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng,
sử dụng lực lượng này trên cả ba nội dung số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Số lượng có thể tăng trưởng về quy mô, nhưng không thể xem xét như tăng
trưởng kinh tế cứ cao lên là tốt, mà phải căn cứ vào đặc thù chức năng,
nhiệm vụ. Nội dung phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND
bao gồm về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Các nội dung này là một thể
thống nhất song phát triển về chất lượng có vai trò đặc biệt quan trọng, có
thể chi phối đến số lượng và cơ cấu. Có nhiều yếu tố tác động đến phát triển
nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND, nhưng cơ bản và trực tiếp
nhất là chất lượng đào tạo và những cơ chế, chính sách sử dụng lực lượng
này. Hiện chúng ta cũng có điều kiện tham khảo được một số kinh nghiệm
về phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí khác cũng nằm trong
nền báo chí cách mạng Việt Nam, để áp dụng phù hợp với điều kiện hiện
nay của hệ thống báo chí CAND.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG
HỆ THỐNG BÁO CHÍ CÔNG AN NHÂN DÂN HIỆN NAY
Báo chí CAND có nhiệm vụ thông qua các kênh phương tiện truyền
thông đa dạng (báo in, báo điện tử, phát thanh, truyền hình) phổ biến đường
lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
phục vụ công tác bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; thông tin
kịp thời các sự kiện trong nước, quốc tế liên quan tới nhiều lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước; tuyên
truyền về các ngày lễ kỷ niệm lớn của Đảng, của đất nước và của ngành, góp
phần giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc đối với cán bộ
chiến sĩ công an nói riêng và các tầng lớp nhân dân nói chung; biểu dương
gương người tốt việc tốt trong quá trình phòng ngừa, đấu tranh các loại tội
phạm và tệ nạn xã hội; đồng thời phản ánh ý kiến, nguyện vọng của các tầng
lớp nhân dân, kiến nghị của các tổ chức xã hội trong việc xây dựng, hoàn
thiện pháp luật và các chính sách phát triển kinh tế xã hội. Một số cơ quan
báo chí công an có tiềm lực và ổn định về nguồn nhân lực thì khẳng định
được thương hiệu của mình trong tổ chức các hoạt động công tác xã hội phụ
trợ, như: Báo Công an Nhân dân, Báo An ninh Thủ đô, Báo Công an
TPHCM, kênh Truyền hình Công an Nhân dân ANTV…, là cầu nối gắn bó
tình cảm giữa nhân dân với lực lượng công an, giúp đỡ lực lượng công an
hoàn thành chức trách nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự.
Trên trận tuyến đấu tranh về an ninh chính trị, một số cây bút chủ lực là
nhà văn, nhà báo công an có tên tuổi, tham gia đấu tranh phòng ngừa thủ đoạn
diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch; đồng thời phòng ngừa hiện tượng
“tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ. Riêng nội dung đấu tranh về an
ninh chính trị, bảo vệ nội bộ đòi hỏi những cán bộ tham gia phải có bề dày
kinh nghiệm, giỏi về lý luận, sắc về nghiệp vụ và chắc về pháp luật, mới có
thể đáp ứng được yêu cầu cao trong công tác.
Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân là những cán
bộ, chiến sĩ, công nhân- nhân viên trong hệ thống báo chí của lực lượng Công
an Nhân dân (cả trong và ngoài biên chế CAND) được thu hút, tuyển chọn,
đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hợp lý, để đáp ứng những yêu cầu chuyên
môn, công tác nghiệp vụ báo chí ở nhiều vị trí (ban biên tập- cấp ủy, thư ký
tòa soạn, phóng viên, biên tập viên, họa sĩ trình bày, kỹ thuật viên, nhân viên
quảng cáo- phát hành …) phục vụ nhiệm vụ chính trị do lực lượng CAND
giao, trên mặt trận văn hóa- tư tưởng.
Hệ thống báo chí trong lực lượng Công an Nhân dân được cơ cấu như sau:
Thứ nhất, cơ cấu theo cấp ngành dọc. Ở cấp Bộ Công an: có Báo Công an
Nhân dân (gồm 4 ấn phẩm: Báo Công an Nhân dân, chuyên đề An ninh thế
giới, chuyên đề Cảnh sát toàn cầu, chuyên đề Văn hóa Văn nghệ Công an),
Trung tâm Phát thanh - Truyền hình - Điện ảnh CAND, Cổng thông tin điện
tử Bộ Công an. Ở cấp công an các địa phương: có 5 công an địa phương ra
báo. Báo An ninh Thủ đô của Công an TP Hà Nội, Báo An ninh Hải Phòng
của Công an TP Hải Phòng, Báo Công an TP.HCM của Công an TP Hồ Chí
Minh, Báo Công an Đà Nẵng của Công an TP Đà Nẵng, Báo Công an Nghệ
An của Công an tỉnh Nghệ An.
Thứ hai, cơ cấu theo 3 loại hình truyền thông đa phương tiện là báo in, báo
điện tử, truyền hình- phát thanh. Về báo in: Báo Công an Nhân dân (4 loại ấn
phẩm báo in- đã nêu ở trên), Báo An ninh Thủ đô (số hàng ngày, số cuối
tuần), Báo Công an TP.HCM, Báo Công an Đà Nẵng, Báo An ninh Hải
Phòng, Báo Công an Nghệ An. Các tạp chí trong ngành CAND: có 14 tạp chí
gần gũi về hình thức in ấn so với các tờ báo in. Trong đó, các Tổng cục (trừ 2
Tổng cục An ninh) và Viện Chiến lược và khoa học Công an (V21), đều có
tạp chí. Tạp chí Cảnh sát Phòng chống tội phạm (thuộc Tổng cục VI), Tạp chí
Cảnh sát trật tự an toàn xã hội (thuộc Tổng cục VII), Tạp chí Khoa học quản
lý và giáo dục tội phạm (thuộc Tổng cục VIII), Tạp chí Khoa học – Công
nghệ và môi trường Công an (thuộc Tổng cục IV), Tạp chí Y học Công an
(thuộc Tổng cục IV), Tạp chí Sự kiện và nhân vật nước ngoài (thuộc Tổng
cục V), Tạp chí Khoa học và Chiến lược (thuộc V21), Tạp chí Công an nhân
dân (thuộc Đảng ủy Công an Trung ương). Ngoài ra, một số Tổng cục với
chức năng thường trực của các ban, ủy ban Nhà nước còn chịu trách nhiệm
xuất bản tạp chí, bản tin chuyên biệt như: Tạp chí Ma túy, Tạp chí Nhân
quyền. Hệ thống nhà trường trong CAND có 6 tạp chí: Tạp chí Khoa học và
Giáo dục An ninh (T31), Tạp chí Cảnh sát Nhân dân (T32), Tạp chí Khoa học
và huấn luyện tình báo (B43), Tạp chí Phòng cháy và chữa cháy (T34), Tạp
chí Khoa học và giáo dục an ninh (T47), Tạp chí Khoa học và giáo dục Cảnh
sát nhân dân (T48). Tuy nhiên, dù có những tương đồng về cách thức in ấn,
thể hiện gần giống sản phẩm báo in, nhưng các tạp chí chưa thuộc diện đối
tượng khảo sát trong khuôn khổ luận văn này do các tạp chí chỉ nghiêng về là
đặc trưng sản phẩm xuất bản, hơn là sản phẩm báo chí. Các tạp chí trên chỉ
lưu hành nội bộ trong lực lượng công an, không phát hành rộng rãi tới công
chúng là các tầng lớp nhân dân. Có Tạp chí dù hoạt động lâu đời, nhưng
không theo mô hình đơn vị báo chí chuyên nghiệp, nhân lực làm tạp chí
thường phải kiêm nhiệm nhiều công tác nghiệp vụ công an khác, do đó đối
tượng các tạp chí nội bộ không nằm trong diện khảo sát của luận văn này.
Về báo điện tử: Cổng thông tin điện tử Bộ Công an, Báo Công an Nhân
dân, Báo An ninh Thủ đô, Báo Công an TP.HCM, Báo Công an Đà Nẵng,
Báo An ninh Hải Phòng.
Về truyền hình, phát thanh: Kênh Truyền hình Công an Nhân dân
(ANTV), Chương trình phát thanh Vì An ninh Tổ quốc, Truyền hình Vì An
ninh Tổ quốc (đều do Trung tâm Phát thanh- Truyền hình- Điện ảnh CAND
sản xuất); Chương trình Truyền hình An ninh - ATV (do Báo An ninh Thủ đô
sản xuất). Trong số các đơn vị trên, chỉ có Báo An ninh Thủ đô của Công an
TP. Hà Nội là đơn vị báo chí tích hợp đủ 4 loại hình truyền thông đa phương
tiện trong một tòa soạn (đầy đủ báo in, báo nói, báo hình và báo điện tử).
Thứ ba, cơ cấu theo mức độ công khai rộng rãi. Phát hành, phát sóng trên
toàn quốc có: Cổng Thông tin Điện tử Bộ Công an, Kênh Truyền hình ANTV,
Phát thanh Vì An ninh Tổ quốc, Truyền hình Vì An ninh Tổ quốc, Báo Công
an Nhân dân, Báo An ninh Thủ đô, Báo Công an TP.HCM. Phát hành, phát
sóng cấp địa phương thì có: Chương trình Truyền hình An ninh ATV do Báo
ANTĐ sản xuất phát trên kênh H2 của Truyền hình Hà Nội (chủ yếu phát
sóng analog ở một số tỉnh, thành phố đồng bằng Bắc bộ), Báo Công an Nghệ
An (chủ yếu phát hành ở địa bàn Bắc Trung Bộ), Báo Công an Đà Nẵng (chủ
yếu phát hành ở một số tỉnh miền Trung và Tây Nguyên), Báo An ninh Hải
Phòng (chủ yếu phát hành ở Vùng Duyên hải Bắc bộ và tỉnh Hải Dương).
Thống kê của Tổng cục XDLL CAND tại Hội nghị giao ban báo chí
năm 2013 cho biết, hệ thống báo chí CAND (tính đến tháng 12-2012) có 937
cán bộ công tác tại 8 đơn vị với 4 loại hình báo chí: báo in, báo nói, báo hình,
báo điện tử. Trong số này có 6 đơn vị báo in với 10 ấn phẩm báo in được phát
hành, 7 đơn vị có ấn bản báo điện tử. Trung tâm phát thanh - truyền hình -
điện ảnh CAND với 1 kênh truyền hình ANTV phát sóng 24/24 giờ, 1 chương
trình phát thanh phát sóng hàng ngày, Báo An ninh Thủ đô sản xuất 1 chương
trình truyền hình địa phương phát sóng hàng ngày.
2.2. Thành tựu trong phát triển nguồn nhân lực hệ thống báo chí
Công an nhân dân hiện nay
2.2.1. Số lượng quy mô nhân lực không ngừng tăng lên, cơ cấu ngày
một phong phú, đa dạng và từng bước được hoàn thiện.
CAND Đơn
STT Năm
2000
Năm
2007
Năm
2012
237 300 562
1 129 179 210
2 40 41 0
3 68 80 0
4
0 0 322
5
0 0 30
268 354 375
6 62 92 112
7 105 135 130
8
30 37 42
9 52 68 72
10 19 22 19
505 654 937
Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND tăng trưởng về quy mô
qua các năm. Nếu như năm 2000, số lượng cán bộ chiến sĩ công tác trong hệ
thống báo chí CAND là 505, thì đến năm 2007 tăng lên 654. Quy mô số
lượng nhân lực trong hệ thống báo chí CAND tăng mạnh hơn phải kể đến giai
đoạn 2007-2012, từ 654 cán bộ chiến sĩ tăng lên 937 cán bộ chiến sĩ.
Như vậy, giai đoạn 2000-2007 hệ thống báo chí CAND tăng 29,5% về
số lượng cán bộ. Đây là giai đoạn các đơn vị trong hệ thống báo chí CAND
tăng kỳ xuất bản, tăng số lượng phát hành, ra thêm ấn phẩm mới. Các báo:
Công an Nhân dân, An ninh Thủ đô liên tục tăng kỳ từ một tuần 4 kỳ lên một
tuần 5 kỳ, một tuần 6 kỳ và trở thành nhật báo ra hàng ngày. Đối với các báo
còn lại như Công an Đà Nẵng, An ninh Hải Phòng, Công an TP.HCM việc
tăng kỳ phát hành cũng diễn ra từ một tuần 2 kỳ lên một tuần 3 kỳ. Riêng Báo
Công an Nghệ An không tăng kỳ xuất bản do cơ quan chủ quản trực tiếp của
tờ báo này là Đảng ủy- Ban Giám đốc Công an tỉnh Nghệ An thấy rằng nguồn
nhân lực tại chỗ chưa đáp ứng được việc mở rộng quy mô tòa soạn và mức
tăng trưởng của thị trường báo chí khu vực Bắc Trung Bộ rất chậm, cũng bởi
vậy giai đoạn này Báo Công an Nghệ An vẫn giữ vững số lượng phát hành,
không tăng kỳ.
Việc tăng kỳ xuất bản và trở thành nhật báo (từ năm 2006 đối với Báo
An ninh Thủ đô, từ năm 2007 đối với Báo Công an Nhân dân) đã đòi hỏi các
tòa soạn báo trong hệ thống báo chí CAND phải bố trí tuyển chọn tăng thêm
nhân lực (phóng viên, biên tập viên, họa sĩ trình bày, nhân viên phát hành…)
để phục vụ nhu cầu thông tin nóng hổi hơn tới bạn đọc. Có thể nói, đây là
khoảng thời gian hoàng kim, phát triển sôi động nhất của loại hình báo in giữa
bối cảnh kinh tế trong nước tăng trưởng cao và liên tục trước thời điểm Việt
Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO vào năm 2007. Các báo
trong hệ thống báo chí CAND giai đoạn này tăng liên tục số kỳ phát hành
báo in, tăng liên tục số lượng phát hành báo in.
Giai đoạn 2007-2012, hệ thống báo chí CAND tăng quy mô số lượng
cán bộ 43,27%. Có thể lý giải nguyên nhân nguồn nhân lực báo chí CAND
tăng trưởng mạnh về số lượng trong giai đoạn 2007-2012 bởi 2 lý do.
Thứ nhất, bắt nhịp xu hướng báo chí trong nước và thế giới bắt đầu
phát triển nóng loại hình truyền thông báo điện tử (cấp thấp hơn là trang
thông tin điện tử) hay còn gọi là báo mạng, hệ thống báo chí CAND ra mắt
hàng loạt trang thông tin điện tử, sau đó nâng cấp thành báo điện tử, như các
báo: Công an Nhân dân, An ninh Thủ đô, Công an TP.HCM, An ninh Hải
Phòng, Công an Đà Nẵng. Bắt đầu từ năm 2011, Bộ Công an có chủ trương
thành lập Cổng thông tin điện tử Bộ Công an và giao cho Trung tâm Báo chí
Bộ Công an- đơn vị trực thuộc Văn phòng Bộ (V11), chịu trách nhiệm nội
dung và vận hành Cổng thông tin điện tử của Bộ Công an. Đây là một đơn vị
báo chí mới và nhanh chóng khẳng định vị thế của mình trong hệ thống báo
chí CAND, góp phần truyền tải nhanh chóng, kịp thời những định hướng,
quan điểm, hoạt động của lãnh đạo Đảng ủy Công an Trung ương- lãnh đạo
Bộ Công an, cung cấp những thông tin nóng nhất, mới nhất trên lĩnh vực bảo
vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; đồng thời là mô hình giao tiếp
hành chính điện tử giữa công dân với Bộ Công an… Trong giai đoạn 2007-
2012, riêng báo Công an Nghệ An không có sự mở rộng, thậm chí còn giảm
bớt nguồn nhân lực (số lượng cán bộ chiến sĩ tăng 13,6% từ năm 2000 đến
2007, nhưng lại giảm bớt từ năm 2007 đến 2012 và trở lại mốc cũ vào năm
2012), không mở thêm báo điện tử hoặc trang thông tin điện tử với lý do
không lo được kinh phí. Bộ máy tổ chức tờ báo- ban biên tập báo Công an
Nghệ An có dấu hiệu kém năng động, trì trệ, ngại đổi mới.
Thứ hai, cùng với báo điện tử thì hệ thống báo chí CAND có sự đầu tư
lớn về truyền hình- một loại hình phương tiện truyền thông có sức mạnh
truyền tải tổng hợp khi công chúng tiếp nhận được thông tin đồng thời cả âm
thanh, hình ảnh tĩnh và động. Giai đoạn 2007-2012 đánh dấu việc sáp nhập
Phát thanh CAND, Truyền hình CAND và cả Điện ảnh CAND vào làm một,
cho ra đời Trung tâm phát thanh- truyền hình- điện ảnh CAND. Sau khi hợp
nhất, đến tháng 6-2011, Bộ Công an có quyết định quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Trung tâm từ 5 đơn vị nâng lên 10 đơn
vị trực thuộc, quân số tăng nhanh (166%), trong đó chủ yếu tuyển chọn mới
từ các cơ quan báo chí ngoài ngành công an vào để bổ sung cho nguồn nhân
lực báo chí CAND. Trong nửa cuối năm 2011, Trung tâm phát thanh- truyền
hình- điện ảnh CAND đã nhanh chóng xây dựng và tổ chức hoạt động Kênh
Truyền hình Công an Nhân dân ANTV, bắt đầu phát sóng từ ngày 11-12-2011
liên tục 24/24giờ (trên hệ thống tín hiệu cáp và tín hiệu vệ tinh truyền hình kỹ
thuật số trả tiền VTVcab, AVG, SCTV…). Ở mức độ đầu tư nhỏ hơn, Báo An
ninh Thủ đô bắt đầu ra mắt chương trình Truyền hình An ninh - ATV phát sóng
hàng ngày kể từ năm 2010 với thời lượng ngắn 30 phút trên sóng của truyền
hình địa phương (kênh H2 và kênh HiTV của Đài Truyền hình Hà Nội). Nguồn
nhân lực của Báo An ninh Thủ đô trong giai đoạn 2007-2012 cũng tăng 21,74%
do cần bổ sung nguồn nhân lực cho báo điện tử và truyền hình.
*Cơ cấu nguồn nhân lực theo nhóm tuổi, giới tính:
Độ tuổi 31-39 chiếm tỷ lệ cao nhất 42% nguồn nhân lực trong hệ thống
CAND. Độ tuổi dưới 30 cũng chiếm tỷ lệ cao thứ hai với 37%. Đây là hai “độ
tuổi vàng”, rất lý tưởng để có thể đáp ứng yêu cầu áp lực cao trong công tác,
đồng thời có thể đáp ứng tốt những yêu cầu về tâm lý, sức khỏe, mức độ đáp
ứng khi đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ bổ sung. Trên cơ sở này, có
thể đề ra giải pháp đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ, góp phần nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND sẽ được đề cập
ở chương 3 luận văn này.
Tiếp theo, chúng ta xem xét thực trạng giới tính trong cơ cấu nguồn
nhân lực trong hệ thống báo chí CAND vẫn được phân chia theo các mức lứa
tuổi: Dưới 30, từ 31 đến 39, từ 40 đến 49 và trên 50.
Qua khảo sát thực trạng cho thấy, lứa tuổi 31-39 có sự đột biến nữ
giới nhiều hơn nam giới. Đây cũng là độ tuổi giới nữ cận trung niên, đạt độ
chín về năng lực, sức khỏe, lòng say mê, nhiệt tình, tâm huyết với nghề
báo. Ở các lứa tuổi khác, nam giới nhiều hơn nữ giới và là điều khá phổ
biến khi khảo sát cán bộ trong lực lượng vũ trang, thường nhiều nam, ít nữ.
Tuy nhiên, đặc thù đơn vị báo chí công an có tỷ lệ nữ nhiều hơn so với các
đơn vị nghiệp vụ công an khác.
37%
42%
13%
8%
D i 30
31-39
40-49
Trên 50
48.55%
53.21%
24.19%
15.38%
0.00%
10.00%
20.00%
30.00%
40.00%
50.00%
60.00%
70.00%
80.00%
90.00%
D i 30 31-39 40-49 Trên 50
Nam
N
* Cơ cấu nguồn nhân lực theo biên chế:
Bảng 2.2: Cơ cấu biên chế công an trong các đơn vị báo chí CAND
Đơn vị tính: Người
STT
222 39.50 340 60.50 562
1 92 43.81 118 56.19 210
2
105 32.61 217 67.39 322
3
25 83.33 5 16.67 30
144 38.40 231 61.60 375
4 34 30.36 78 69.64 112
5 40 30.77 90 69.23 130
6
22 52.38 20 47.62 42
7 31 43.06 41 56.94 72
8 17 89.47 2 10.53 19
m tỷ lệ lớn).
Tỷ lệ sĩ quan trong biên chế ở cơ quan cấp bộ cũng như cấp địa phương
khá tương đồng nhau. Cấp bộ có 39,5% trong biên chế, cấp địa phương là
38,40%. Trong khi, cấp bộ có 60,5% là cán bộ hợp đồng, cấp địa phương có
61,60%. Như vậy, số lượng cán bộ viên chức ngoài biên chế nhiều hơn
khoảng 150% so với số lượng cán bộ trong biên chế được phong hàm sĩ quan.
Bảng 2.3: Trình độ học vấn của nguồn nhân lực báo chí CAND
Đơn vị tính: người
T
T
1 15
7.14
% 10 4.76% 181 86.19% 4 1.90%
2 8
2.48
% 51 15.84% 255 79.19% 8 2.48%
3 2
6.67
% 1 3.33% 25 83.33% 2 6.67%
4 9
8.04
% 7 6.25% 90 80.36% 6 5.36%
5 10
7.69
% 6 4.62% 110 84.62% 4 3.08%
6 5
11.9
% 1 2.38% 35 83.33% 1 2.38%
7 6
8.33
% 4 5.56% 60 83.33% 2 2.78%
8 1
5.26
% 2 10.53% 16 84.21% 0 0.00%
56 82 772 27
Xem xét về trình độ học vấn của nguồn nhân lực qua số liệu bảng 2.3
cho thấy, số lao động phổ thông tại các đơn vị báo chí CAND đều gián tiếp
tham gia vào quá trình sản xuất các sản phẩm truyền thông, không tham gia
trực tiếp. Đó là các bộ phận bảo vệ, tạp vụ, lái xe. Còn lại, trên 80% có trình
độ Đại học. Đây cũng là một trong những yêu cầu khi tuyển dụng nguồn nhân
lực làm việc trực tiếp tạo ra các sản phẩm báo chí. Riêng Trung tâm phát
thanh- truyền hình và điện tử CAND có số cán bộ tốt nghiệp cao đẳng/trung
cấp nhỉnh hơn bình thường (tỷ lệ 15,84%) bởi đây là lao động làm công tác
quay phim, dựng hình, hậu kỳ truyền hình, phát thanh thường tốt nghiệp cao
đẳng truyền hình, cao đẳng Công nghệ thông tin. Số lượng cán bộ có trình độ
trên đại học chưa cao, đều ở mức dưới 7%, thậm chí có đơn vị không có cán
bộ nào trình độ trên đại học.
Xét ở góc độ nghiệp vụ báo chí: thực trạng mới có dưới 30% cán bộ đã
tốt nghiệp đại học báo chí làm việc trong hệ thống báo chí CAND. Việc tuyển
chọn cán bộ với yêu cầu phải có năng khiếu báo chí, cũng không nhất thiết
phải có bằng đại học báo chí. Tiếp đó, số lượng cán bộ được đào tạo bổ sung
nghiệp vụ báo chí cũng khá khiêm tốn và phổ biến ở mức 10%, riêng Cổng
thông tin điện tử Bộ Công an có 30% được đào tạo bổ sung nghiệp vụ báo
chí, đây là một tín hiệu đáng chú ý, khi nguồn cán bộ Cổng thông tin điện tử
Bộ Công an được chú trọng công tác bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí. Cũng bởi
vậy, trừ Cổng thông tin điện tử Bộ Công an, các đơn vị báo chí công an khác
đều có tỷ lệ cán bộ chưa qua đào tạo nghiệp vụ báo chí vượt trên mức 63%
(xem thêm bảng số liệu ở Phụ lục 1). Điều này đòi hỏi các giải pháp ở phần
sau phải tính đến chiến lược đào tạo, liên kết đào tạo nghiệp vụ báo chí.
được đào tạo chính quy nghiệp vụ công an chỉ chiếm tỷ lệ khiêm tốn
thường là dưới 20% (trừ Cổng thông tin điện tử Chính phủ và Báo Công an
Nghệ An). Do số lượng biên chế CAND trong các đơn vị báo chí công an
thường chỉ chiếm 30-40%, nên tỷ lệ được bồi dưỡng bổ sung nghiệp vụ công
an (mức sơ cấp, trung cấp) cũng không thể cao, vì thường phải trong biên chế
CAND mới học nghiệp vụ công an, ngoài biên chế thì không thuộc diện đào
tạo, bồi dưỡng, huấn luyện bổ sung về nghiệp vụ công an (theo quy định của
Tổng cục Xây dựng lực lượng). Đây cũng là một khó khăn cần tính đến để
giải quyết điểm nghẽn trong trình độ nghiệp vụ công an đối với nguồn nhân
lực báo chí CAND (xem thêm bảng số liệu ở Phụ lục 2).
Nội dung phát triển chất lượng đội ngũ cán bộ báo chí luôn được lãnh
đạo Bộ Công an, Tổng cục XDLL quan tâm, trong đó công tác đào tạo, bồi
dưỡng, được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Trong thời gian từ
năm 2000 tới nay, công tác đào tạo, bồi dưỡng trong hệ thống báo chí CAND
từng bước có thay đổi, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập cũng như mục tiêu
phát triển đội ngũ cán bộ.
Giai đoạn từ năm 2000 đến nay, hệ thống báo chí CAND tập trung đào
tạo, bồi dưỡng sơ cấp về pháp luật, nghiệp vụ công an (trong khoảng thời gian
từ 6 đến 9 tháng mỗi khóa) cho 260 cán bộ tuyển dụng từ ngành ngoài vào
biên chế báo chí công an. Số liệu năm 2012 của Tổng cục XDLL cho thấy, số
lượng cán bộ đã được đào tạo bổ sung nghiệp vụ công an hiện công tác trong
hệ thống báo chí là 239 người. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng chủ yếu được
thực hiện bởi Học viện An ninh Nhân dân (T31), Học viện Cảnh sát Nhân dân
(T32), Đại học Cảnh sát Nhân dân (T48), Đại học Cảnh sát Phòng cháy chữa
cháy (T34), Đại học An ninh Nhân dân (T47) với các môn học, chuyên đề
chuyên ngành về pháp luật, nghiệp vụ công an. Tuy nhiên, dù chiếm tỷ lệ cao
trong tổng số cán bộ, nhưng cán bộ viên chức ngoài biên chế vì chưa là sĩ
quan nên theo quy định chưa thể bố trí đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ công an.
Đây là điểm nghẽn lớn trong công tác đào tạo, bố trí sử dụng, khi nhiều cán
bộ báo chí công an lại chưa hề có kiến thức nghiệp vụ công an.
Giai đoạn từ năm 2007 đến nay, hệ thống báo chí CAND bắt đầu chú
trọng đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ báo chí. Do hệ thống nhà
trường trong công an chưa có nội dung đào tạo nghiệp vụ báo chí, nên cán bộ
muốn đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ này phải dự tuyển ở các trường có chuyên
ngành báo chí, như: Học viện Báo chí và tuyên truyền thuộc Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa báo chí ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH Đà Nẵng,
ĐH Quốc gia TP.HCM, Học viện bưu chính viễn thông, các trường cao đẳng
truyền thông- truyền hình, Học viện Bưu chính Viễn thông. Một số công việc
chuyên biệt phục vụ cho báo chí, như: mỹ thuật, trình bày báo, sáng tác ảnh-
hình ảnh, quay phim, đạo diễn sân khấu, thiết kế sân khấu…, thì cán bộ phải
dự tuyển ở các trường Đại học Mỹ thuật, Đại học Mỹ thuật Công nghiệp, Đại
học Mỹ thuật TP.HCM, Đại học Kiến trúc, Đại học Sân khấu – Điện ảnh. Các
khóa đào tạo thường phải phối hợp theo mô hình Liên Chi hội Nhà báo Bộ
Công an cùng Hội Nhà báo Việt Nam đứng ra tổ chức (đối với các đơn vị báo
chí cấp Bộ Công an) hoặc Hội Nhà báo các tỉnh, thành phố đứng ra tổ chức
(đối với các đơn vị báo chí cấp công an địa phương). Do đó, không phải năm
nào hệ thống báo chí công an cũng chủ động mở được liên tục các khóa đào
tạo nghiệp vụ báo chí cho ngành công an mà phải chờ có đủ cơ số học viên
cho mỗi khóa thì mới tổ chức, thường khoảng 3-5 năm mới tổ chức được 1
khóa mới, số lượng cán bộ tham gia cũng không thể ồ ạt đi học cùng lúc. Như
vậy, công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí cũng tồn tại điểm nghẽn,
do bị động trong khâu tổ chức lớp học.
ác nghiệp thử. Trong quá trình tác nghiệp thử (khoảng 3 tháng) và sau
đó (nếu được ký hợp đồng lao động) các phóng viên, biên tập viên, họa sĩ…
được rèn luyện về kỹ năng mềm.
Các kỹ năng được trau dồi liên tục trong hệ thống báo chí CAND như:
tế.
Trước thực trạng đội ngũ cán bộ báo chí công an còn hạn chế về kỹ
năng, nghiệp vụ, phương pháp tác phong công tác và đang dần dần được đào
tạo, bồi dưỡng, huấn luyện bổ sung, các đơn vị báo chí công an đã lựa chọn
hình thức nội dung bồi dưỡng nâng cao trình độ nhận thức tương đối phù hợp.
Quan điểm chủ yếu được các cơ quan báo chí áp dụng khi tiến hành khi tiến
hành bồi dưỡng cán bộ báo chí công an là “Lý thuyết đi đôi với thực hành, lấy
thực hành làm chính”; “Yếu gì bồi dưỡng đó”. Nội dung bồi dưỡng chủ yếu
tập trung vào những vấn đề căn bản và cụ thể sau: (1) Nâng cao nhận thức về
lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống của
CAND; (2) Bồi dưỡng nâng cao nhận thức về quan điểm chủ trương đường
lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước trên mọi lĩnh vực, nhất là về bảo vệ an
ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; (3) Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng tư
tưởng, củng cố niềm tin, ý chí, rèn luyện phẩm chất chính trị, nâng cao cảnh
giác cách mạng trên mặt trận văn hóa- tư tưởng; (4) Tích cực học tập và làm
theo Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện tốt Cuộc vận động CAND
chấp hành nghiêm Điều lệnh, xây dựng nếp sống văn hóa vì nhân dân phục
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân

More Related Content

What's hot

Luận văn: Tạo động lực làm việc cho cán bộ công chức chi cục hải quan, 9 ĐIỂM!
Luận văn: Tạo động lực làm việc cho cán bộ công chức chi cục hải quan, 9 ĐIỂM!Luận văn: Tạo động lực làm việc cho cán bộ công chức chi cục hải quan, 9 ĐIỂM!
Luận văn: Tạo động lực làm việc cho cán bộ công chức chi cục hải quan, 9 ĐIỂM!Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Luận văn: Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực công...
Luận văn: Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực công...Luận văn: Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực công...
Luận văn: Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực công...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

What's hot (20)

Luận văn: Đào tạo bồi dưỡng công chức cấp xã TP Rạch Giá, HOT
Luận văn: Đào tạo bồi dưỡng công chức cấp xã TP Rạch Giá, HOTLuận văn: Đào tạo bồi dưỡng công chức cấp xã TP Rạch Giá, HOT
Luận văn: Đào tạo bồi dưỡng công chức cấp xã TP Rạch Giá, HOT
 
Đề tài: Năng lực thực thi công vụ của công chức cơ quan, HOT
Đề tài: Năng lực thực thi công vụ của công chức cơ quan, HOTĐề tài: Năng lực thực thi công vụ của công chức cơ quan, HOT
Đề tài: Năng lực thực thi công vụ của công chức cơ quan, HOT
 
Luận văn: Thực hiện văn hoá công sở tại uỷ ban nhân dân Huyện Ứng Hoà, HAY
Luận văn: Thực hiện văn hoá công sở tại uỷ ban nhân dân Huyện Ứng Hoà, HAYLuận văn: Thực hiện văn hoá công sở tại uỷ ban nhân dân Huyện Ứng Hoà, HAY
Luận văn: Thực hiện văn hoá công sở tại uỷ ban nhân dân Huyện Ứng Hoà, HAY
 
Luận văn: Công tác quản trị nhân lực tại Công ty thiết bị điện, 9đ
Luận văn: Công tác quản trị nhân lực tại Công ty thiết bị điện, 9đLuận văn: Công tác quản trị nhân lực tại Công ty thiết bị điện, 9đ
Luận văn: Công tác quản trị nhân lực tại Công ty thiết bị điện, 9đ
 
Luận văn: Thu Hút Nguồn nhân lực chất lượng cao cho đơn vị sự nghiệp.
Luận văn: Thu Hút Nguồn nhân lực chất lượng cao cho đơn vị sự nghiệp.Luận văn: Thu Hút Nguồn nhân lực chất lượng cao cho đơn vị sự nghiệp.
Luận văn: Thu Hút Nguồn nhân lực chất lượng cao cho đơn vị sự nghiệp.
 
Luận văn: Năng lực cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã tỉnh Đắk Nông
Luận văn: Năng lực cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã tỉnh Đắk NôngLuận văn: Năng lực cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã tỉnh Đắk Nông
Luận văn: Năng lực cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã tỉnh Đắk Nông
 
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOT
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOTLuận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOT
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOT
 
lv: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Triệu Phong
lv: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Triệu Phonglv: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Triệu Phong
lv: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Triệu Phong
 
Đánh giá kết quả công việc của công chức tại cơ quan chuyên môn
Đánh giá kết quả công việc của công chức tại cơ quan chuyên mônĐánh giá kết quả công việc của công chức tại cơ quan chuyên môn
Đánh giá kết quả công việc của công chức tại cơ quan chuyên môn
 
Đề tài: Đánh giá thực thi công vụ của công chức phường Quận 12
Đề tài: Đánh giá thực thi công vụ của công chức phường Quận 12Đề tài: Đánh giá thực thi công vụ của công chức phường Quận 12
Đề tài: Đánh giá thực thi công vụ của công chức phường Quận 12
 
Luận văn: Tạo động lực làm việc cho cán bộ công chức chi cục hải quan, 9 ĐIỂM!
Luận văn: Tạo động lực làm việc cho cán bộ công chức chi cục hải quan, 9 ĐIỂM!Luận văn: Tạo động lực làm việc cho cán bộ công chức chi cục hải quan, 9 ĐIỂM!
Luận văn: Tạo động lực làm việc cho cán bộ công chức chi cục hải quan, 9 ĐIỂM!
 
Luận văn: Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực công...
Luận văn: Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực công...Luận văn: Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực công...
Luận văn: Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực công...
 
Tổ chức và hoạt động của văn phòng UBND cấp huyện, HAY
Tổ chức và hoạt động của văn phòng UBND cấp huyện, HAYTổ chức và hoạt động của văn phòng UBND cấp huyện, HAY
Tổ chức và hoạt động của văn phòng UBND cấp huyện, HAY
 
Đề tài: Năng lực thực thi công vụ của công chức cấp xã tỉnh Bến Tre
Đề tài: Năng lực thực thi công vụ của công chức cấp xã tỉnh Bến TreĐề tài: Năng lực thực thi công vụ của công chức cấp xã tỉnh Bến Tre
Đề tài: Năng lực thực thi công vụ của công chức cấp xã tỉnh Bến Tre
 
Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao ở Đà Nẵng, HAY
Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao ở Đà Nẵng, HAYChính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao ở Đà Nẵng, HAY
Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao ở Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Chất lượng công chức cấp xã ở tỉnh Lâm Đồng, HOT
Luận văn: Chất lượng công chức cấp xã ở tỉnh Lâm Đồng, HOTLuận văn: Chất lượng công chức cấp xã ở tỉnh Lâm Đồng, HOT
Luận văn: Chất lượng công chức cấp xã ở tỉnh Lâm Đồng, HOT
 
Luận án: Pháp luật về đối thoại xã hội trong quan hệ lao động
Luận án: Pháp luật về đối thoại xã hội trong quan hệ lao độngLuận án: Pháp luật về đối thoại xã hội trong quan hệ lao động
Luận án: Pháp luật về đối thoại xã hội trong quan hệ lao động
 
Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, HOT
Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, HOTLuận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, HOT
Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, HOT
 
Luận văn: Năng lực thực thi công vụ của công chức phường
Luận văn: Năng lực thực thi công vụ của công chức phườngLuận văn: Năng lực thực thi công vụ của công chức phường
Luận văn: Năng lực thực thi công vụ của công chức phường
 
Khảo Sát Công Tác Tuyển Dụng Nhân Sự Tại Công Ty
Khảo Sát Công Tác Tuyển Dụng Nhân Sự Tại Công TyKhảo Sát Công Tác Tuyển Dụng Nhân Sự Tại Công Ty
Khảo Sát Công Tác Tuyển Dụng Nhân Sự Tại Công Ty
 

Similar to Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân

Luận án: Hình tượng người chiến sĩ công an nhân dân trên báo chí - Gửi miễn p...
Luận án: Hình tượng người chiến sĩ công an nhân dân trên báo chí - Gửi miễn p...Luận án: Hình tượng người chiến sĩ công an nhân dân trên báo chí - Gửi miễn p...
Luận án: Hình tượng người chiến sĩ công an nhân dân trên báo chí - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực tại UBND Huyện Kon Rẫy, Tỉnh Kon Tum.doc
Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực tại UBND Huyện Kon Rẫy, Tỉnh Kon Tum.docLuận Văn Phát triển nguồn nhân lực tại UBND Huyện Kon Rẫy, Tỉnh Kon Tum.doc
Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực tại UBND Huyện Kon Rẫy, Tỉnh Kon Tum.docsividocz
 
Luận án: Công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng C...
Luận án: Công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng C...Luận án: Công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng C...
Luận án: Công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng C...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
LV: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hội
LV: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hộiLV: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hội
LV: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hộiDịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Đại-hội-xiii-và-vấn-đề-xây-dựng-và-phát-triển-nguồn-nhân-lực-chất-lượng-cao-c...
Đại-hội-xiii-và-vấn-đề-xây-dựng-và-phát-triển-nguồn-nhân-lực-chất-lượng-cao-c...Đại-hội-xiii-và-vấn-đề-xây-dựng-và-phát-triển-nguồn-nhân-lực-chất-lượng-cao-c...
Đại-hội-xiii-và-vấn-đề-xây-dựng-và-phát-triển-nguồn-nhân-lực-chất-lượng-cao-c...inhHngMinh2
 
Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Bì...
Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Bì...Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Bì...
Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Bì...sividocz
 
Luận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Luận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lựcLuận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Luận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lựcLuan van Viet
 
Tailieu.vncty.com thuc trang-nguon_nhan_luc_co_trinh_do_cao_o_dong_bang_son...
Tailieu.vncty.com   thuc trang-nguon_nhan_luc_co_trinh_do_cao_o_dong_bang_son...Tailieu.vncty.com   thuc trang-nguon_nhan_luc_co_trinh_do_cao_o_dong_bang_son...
Tailieu.vncty.com thuc trang-nguon_nhan_luc_co_trinh_do_cao_o_dong_bang_son...Trần Đức Anh
 
Những nhận thức chung về nguồn nhân lực
Những nhận thức chung về nguồn nhân lựcNhững nhận thức chung về nguồn nhân lực
Những nhận thức chung về nguồn nhân lựcdohaiyen0907
 
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn ...
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn ...Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn ...
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn ...NuioKila
 
Vận dụng tư tưởng dân là gốc của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở thành phố...
Vận dụng tư tưởng dân là gốc của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở thành phố...Vận dụng tư tưởng dân là gốc của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở thành phố...
Vận dụng tư tưởng dân là gốc của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở thành phố...dịch vụ viết đề tài trọn gói 0973287149
 

Similar to Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân (20)

Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực của Đài tiếng nói Việt Nam, 9đ
Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực của Đài tiếng nói Việt Nam, 9đLuận văn: Phát triển nguồn nhân lực của Đài tiếng nói Việt Nam, 9đ
Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực của Đài tiếng nói Việt Nam, 9đ
 
Luận án: Hình tượng người chiến sĩ công an nhân dân trên báo chí - Gửi miễn p...
Luận án: Hình tượng người chiến sĩ công an nhân dân trên báo chí - Gửi miễn p...Luận án: Hình tượng người chiến sĩ công an nhân dân trên báo chí - Gửi miễn p...
Luận án: Hình tượng người chiến sĩ công an nhân dân trên báo chí - Gửi miễn p...
 
Luận án: Quan niệm về con người trong triết học của C.Mác, HAY
Luận án: Quan niệm về con người trong triết học của C.Mác, HAYLuận án: Quan niệm về con người trong triết học của C.Mác, HAY
Luận án: Quan niệm về con người trong triết học của C.Mác, HAY
 
Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực tại UBND Huyện Kon Rẫy, Tỉnh Kon Tum.doc
Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực tại UBND Huyện Kon Rẫy, Tỉnh Kon Tum.docLuận Văn Phát triển nguồn nhân lực tại UBND Huyện Kon Rẫy, Tỉnh Kon Tum.doc
Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực tại UBND Huyện Kon Rẫy, Tỉnh Kon Tum.doc
 
Vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an
Vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công anVận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an
Vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an
 
Luận án: Công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng C...
Luận án: Công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng C...Luận án: Công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng C...
Luận án: Công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng C...
 
LV: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hội
LV: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hộiLV: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hội
LV: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hội
 
Đại-hội-xiii-và-vấn-đề-xây-dựng-và-phát-triển-nguồn-nhân-lực-chất-lượng-cao-c...
Đại-hội-xiii-và-vấn-đề-xây-dựng-và-phát-triển-nguồn-nhân-lực-chất-lượng-cao-c...Đại-hội-xiii-và-vấn-đề-xây-dựng-và-phát-triển-nguồn-nhân-lực-chất-lượng-cao-c...
Đại-hội-xiii-và-vấn-đề-xây-dựng-và-phát-triển-nguồn-nhân-lực-chất-lượng-cao-c...
 
Luận văn: Vai trò đội ngũ trí thức Thành phố Hồ Chí Minh, HOT
Luận văn: Vai trò đội ngũ trí thức Thành phố Hồ Chí Minh, HOTLuận văn: Vai trò đội ngũ trí thức Thành phố Hồ Chí Minh, HOT
Luận văn: Vai trò đội ngũ trí thức Thành phố Hồ Chí Minh, HOT
 
Luận án: Vai trò đội ngũ trí thức TPHCM trong giai đoạn hiện nay
Luận án: Vai trò đội ngũ trí thức TPHCM trong giai đoạn hiện nayLuận án: Vai trò đội ngũ trí thức TPHCM trong giai đoạn hiện nay
Luận án: Vai trò đội ngũ trí thức TPHCM trong giai đoạn hiện nay
 
Luận văn: Phát triển nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học
Luận văn: Phát triển nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa họcLuận văn: Phát triển nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học
Luận văn: Phát triển nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học
 
Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Bì...
Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Bì...Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Bì...
Luận Văn Phát triển nguồn nhân lực bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Bì...
 
Luận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Luận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lựcLuận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Luận văn thạc sỹ giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
 
Tailieu.vncty.com thuc trang-nguon_nhan_luc_co_trinh_do_cao_o_dong_bang_son...
Tailieu.vncty.com   thuc trang-nguon_nhan_luc_co_trinh_do_cao_o_dong_bang_son...Tailieu.vncty.com   thuc trang-nguon_nhan_luc_co_trinh_do_cao_o_dong_bang_son...
Tailieu.vncty.com thuc trang-nguon_nhan_luc_co_trinh_do_cao_o_dong_bang_son...
 
Những nhận thức chung về nguồn nhân lực
Những nhận thức chung về nguồn nhân lựcNhững nhận thức chung về nguồn nhân lực
Những nhận thức chung về nguồn nhân lực
 
Công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an nh...
Công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an nh...Công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an nh...
Công tác vận động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự của lực lượng Công an nh...
 
Luận án: Công bằng xã hội với việc phát triển con người Việt Nam
Luận án: Công bằng xã hội với việc phát triển con người Việt NamLuận án: Công bằng xã hội với việc phát triển con người Việt Nam
Luận án: Công bằng xã hội với việc phát triển con người Việt Nam
 
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn ...
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn ...Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn ...
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH NN, NT Hưng Yên giai đoạn ...
 
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Học Giáo Dục Việt Nam.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Học Giáo Dục Việt Nam.Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Học Giáo Dục Việt Nam.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Học Giáo Dục Việt Nam.
 
Vận dụng tư tưởng dân là gốc của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở thành phố...
Vận dụng tư tưởng dân là gốc của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở thành phố...Vận dụng tư tưởng dân là gốc của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở thành phố...
Vận dụng tư tưởng dân là gốc của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở thành phố...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGhoinnhgtctat
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 

Đề tài: Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân

  • 1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ ššš CHU QUỐC DŨNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HỆ THỐNG BÁO CHÍ CÔNG AN NHÂN DÂN LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2013
  • 2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ ššš CHU QUỐC DŨNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HỆ THỐNG BÁO CHÍ CÔNG AN NHÂN DÂN HÀ NỘI - 2013
  • 3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HỆ THỐNG BÁO CHÍ CÔNG AN NHÂN DÂN - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM 13 1.1. 13 1.2. 1.3. Phát triển nguồn nhân lực báo chí Công an Nhân dân: Quan niệm, nội dung, vai trò và các nhân tố tác động Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực của một số hệ thống báo chí ngành khác 18 29 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HỆ THỐNG BÁO CHÍ CÔNG AN NHÂN DÂN HIỆN NAY 36 2.1. Khái quát về nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân hiện nay 36 2.2. Thành tựu trong phát triển nguồn nhân lực báo chí Công an nhân dân 40 2.3. Hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần tập trung giải quyết để đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân thời gian tới 54 Chương 3 NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HỆ THỐNG BÁO CHÍ CÔNG AN NHÂN DÂN THỜI GIAN TỚI 64 3.1. Những quan điểm cơ bản phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân 65 3.2. Những giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân 73 KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 88 89 92 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
  • 4. 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15. 16. 17. 18. 19. Báo An ninh Thủ đô Báo Công an Nhân dân Chương trình Truyền hình An ninh ATV do Báo An ninh Thủ đô sản xuất Công an Nhân dân Công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đại học Giáo sư Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Kênh truyền hình Công an Nhân dân Phát thanh- truyền hình Phó Giáo sư Quân đội Nhân dân Xã hội chủ nghĩa Xây dựng lực lượng Thành phố Hồ Chí Minh Tiến sĩ Trung học cơ sở Trung học phổ thông Viện sĩ Báo ANTĐ Báo CAND ATV CAND CNH, HĐH ĐH GS ASEAN ANTV PT-TH PGS QĐND XHCN XDLL TP.HCM TS THCS THPT VS
  • 5. MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Năm 2006, lần đầu tiên thuật ngữ "nguồn nhân lực chất lượng cao" được sử dụng trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. 5 năm sau, Đại hội XI xác định, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, là một trong ba khâu đột phá chiến lược để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong trình hình mới. [15, tr.106] Phát triển nguồn nhân lực được coi là khâu quan trọng nhất trong ba khâu đột phá, có vai trò chi phối việc thực hiện các đột phá khác, vì chính con người tạo ra và thực thi thể chế, xây dựng bộ máy, quy hoạch và phát triển kết cấu hạ tầng. Đồng thời, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đang đặt ra yêu cầu rất cao về chất lượng con người trong Công an cũng như Quân đội - những lực lượng vững chắc bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ Việt Nam XHCN. Ra đời từ những ngày đầu cách mạng, lực lượng Công an Nhân dân Việt Nam đã có những đóng góp xứng đáng và đang tiếp tục khẳng định vai trò, vị thế quan trọng trong quá trình bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Là một thành tố quan trọng nằm trong lực lượng CAND nói chung, hệ thống báo chí CAND cũng ra đời rất, từ ngày xuất bản số đầu tiên của tờ Công an mới (1-11- 1946), tiền thân của Báo Công an Nhân dân ngày nay. Trong suốt chặng đường xây dựng và trưởng thành 67 năm qua, báo chí CAND luôn luôn khẳng định là cơ quan ngôn luận, vũ khí sắc bén của lực lượng Công an Nhân dân Việt Nam trên mặt trận tư tưởng. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, báo chí CAND tiếp tục có những thay đổi phù hợp về hình thức và nội dung tuyên truyền trong từng giai đoạn, từ Báo Công an mới, Bạn dân đến tờ Nội san Rèn luyện, Tập san Công an Nhân dân và sau cùng đổi tên thành Báo Công an Nhân dân từ năm 1965 và giữ nguyên tên gọi này cho đến ngày nay. Từ chỗ chỉ có 1 sản phẩm báo chí chiếm vai trò chủ lưu là
  • 6. Báo Công an Nhân dân và chỉ lưu hành nội bộ ngành công an, đến năm 1987 hệ thống báo chí CAND bắt đầu một giai đoạn mới khi một số tờ báo ngành công an (như: Báo Công an Nhân dân, Báo An ninh Thủ đô) bắt đầu được phát hành công khai và bán rộng rãi đến nhiều tầng lớp nhân dân. Kể từ đây, hệ thống báo chí CAND khẳng định rõ nét hơn những đóng góp tích cực và hiệu quả trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và xây dựng lực lượng công an trong sạch, vững mạnh. Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND từ những ngày đầu sơ khai là những cán bộ công an có kiêm nhiệm làm công tác tuyên truyền; đội ngũ chưa được đào tạo bài bản về nghiệp vụ, pháp luật và cả những kỹ năng truyền thông- báo chí. Trải qua quá trình phát triển, hệ thống báo chí CAND ngày càng nở rộ với nhiều đơn vị, cho ra đời nhiều ấn phẩm, nhiều loại hình báo chí (báo in, báo điện tử, báo nói, báo hình), với số lượng công chúng tiếp cận ngày càng đông đảo. Theo đó, quy mô nguồn nhân lực công tác trong hệ thống báo chí CAND không ngừng tăng lên về số lượng, cơ cấu ngày càng phong phú, đa dạng và từng bước được hoàn thiện. Yêu cầu tăng cường sức mạnh tổng hợp của hệ thống báo chí CAND trong tình hình mới ngày càng tăng, trong khi thị trường lao động chuyên ngành báo chí lại đáp ứng có hạn, có đơn vị báo chí chưa đáp ứng kịp đà phát triển. Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND đứng trước những điểm nghẽn về đào tạo, đãi ngộ và cơ chế sử dụng lao động ngay trong lực lượng CAND. Cán bộ có nghiệp vụ báo chí thì có thể chưa nắm vững pháp luật, nghiệp vụ công an; còn cán bộ có nghiệp vụ công an thì chưa được đào tạo hoặc am hiểu kỹ về chuyên ngành báo chí - truyền thông. Thêm vào đó, đội ngũ cán bộ, nhân viên công tác trong hệ thống báo chí CAND hiện nay làm việc giữa bối cảnh mặt trận văn hóa- tư tưởng diễn biến ngày càng phức tạp, không chỉ có diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, mà còn có cả hiện tượng “tự diễn biến, tự chuyển hóa” ngay trong nội bộ, cần phải được đấu tranh phòng ngừa. Hơn nữa, tình
  • 7. hình thế giới cũng luôn biến chuyển mau lẹ, khó lường trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, bùng nổ công nghệ thông tin, bùng nổ truyền thông đa phương tiện. Tình hình mới đặt ra nhiều bài toán cần có lời giải đáp về phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND. Nói cách khác, trong công tác xây dựng lực lượng CAND, các đơn vị báo chí CAND cần phải giải những bài toán để các cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức được đào tạo, bồi dưỡng chính quy và chuẩn hóa, trau dồi đạo đức nghề nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, pháp luật và khoa học - kỹ thuật, xứng đáng là người chiến sĩ của lực lượng Công an Nhân dân trên mặt trận tư tưởng- văn hóa, là cầu nối giữa lực lượng công an với nhân dân; góp phần tích cực vào công cuộc bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn xã hội, đấu tranh phòng ngừa các loại tội phạm và tệ nạn xã hội. Vì lẽ đó, tác giả chọn đề tài: “Phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân” làm Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế Chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan Vấn đề phát triển nguồn nhân lực nói chung đã có nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Công trình “Phát triển văn hoá con người và nguồn nhân lực thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” do GS-VS Phạm Minh Hạc (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2007 là một công trình nghiên cứu sâu sắc về con người trên những giác độ tiếp cận độc đáo [21]. Các nhà khoa học đã phân tích sự thống nhất biện chứng giữa văn hoá, con người và nguồn nhân lực. Phát triển văn hoá đi đến hệ giá trị nhân cách rồi đi đến phát triển nguồn nhân lực (phát triển thể lực, tâm lực và trí lực). Phát triển văn hoá, con người và nguồn nhân lực phải đặt trong một tổng thể không tách rời nhau, chúng gắn kết với nhau trong một thể thống nhất. Hệ thống giá trị vật chất và tinh thần qua giáo dục trở lại với con người, được con người kế thừa và phát triển trở thành sức mạnh ở con người trong lao động và trở thành vốn người (Human capital). Nguồn lực con người tạo ra giá trị mới, đáp ứng nhu cầu
  • 8. phát triển của từng người, nhóm người và cả xã hội. Các tác giả cũng đã đi sâu phân tích và cho rằng: chất lượng nguồn nhân lực hay nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực với những con người lao động có tri thức tốt, có kĩ năng cao và có tính nhân văn. Công trình Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI, của PGS.TS Trần Khánh Đức, Nxb Giáo dục Việt Nam năm 2010 đã nghiên cứu vai trò đặc biệt quan trọng của giáo dục và đào tạo trong phát triển con người nói chung và nguồn nhân lực đất nước nói riêng [19]. Tác giả đã trình bày hệ thống sâu sắc về nhiều vấn đề trong đó có quá trình phát triển các chính sách quốc gia về giáo dục và phát triển nguồn nhân lực. Tác giả đã đưa ra những khái niệm và thuật ngữ cơ bản về nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực cùng những tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực của các nước trên thế giới. Sự sâu sắc của công trình có liên quan đến đề tài luận văn chính là hệ thống tiếp cận mới, hiện đại và độc đáo về nguồn nhân lực của đất nước trong bối cảnh cách mạng khoa học và công nghệ. Đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong việc xác định phải đổi mới, cải cách giáo dục đào tạo làm khâu đột phá để phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước trong đó có lĩnh vực quân sự, xây dựng, phát huy nhân tố con người trong QĐNDVN. Bài "Nguồn nhân lực Việt Nam: vấn đề đào tạo, thu hút và sử dụng" của tác giả Nguyễn Văn Tài, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) trong Hội thảo khoa học về Phát triển nguồn nhân lực - KX - 05 - 11 tháng 3 năm 2003 đã đi sâu phân tích vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh nước ta gia nhập WTO [30]. Tác giả đã đặc biệt quan tâm tới vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam để đủ sức cạnh tranh trên thị trường sức lao động thế giới. Theo tác giả, đào tạo phải gắn với sử dụng và tập trung vào những ngành, dịch vụ đang thiếu hụt nguồn nhân lực.Việc đào tạo, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam không chỉ là biện pháp mang tính kỹ thuật
  • 9. mà còn là một nghệ thuật. Nó đòi hỏi phải hiểu biết thấu đáo về đặc điểm dân cư, truyền thống dân tộc, những đặc điểm tâm lý con người, những ưu điểm và nhược điểm của lực lượng lao động... để từ đó mới có thể đề ra những chính sách, những giải pháp hợp lý phát huy nguồn nhân lực đạt hiệu quả cao nhất. Cũng trong cuộc Hội thảo về Phát triển nguồn nhân lực - KX - 05 - 11 tháng 3 năm 2003, bài viết " Đi vào thế kỷ XXI phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" của tác giả Phạm Minh Hạc đã luận giải rất sâu sắc vai trò của nguồn nhân lực trong thế kỉ XXI. Tác giả cho rằng, trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay thì nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực sẽ là yếu tố quyết định đến sự thành công trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam. Song hiện nay nguồn nhân lực nước ta đang ở trình độ của các nước đã phát triển cao trong thời kỳ cách mạnh công nghiệp lần thứ nhất do vậy không đáp ứng được yêu cầu của thời đại công nghệ thông tin, kinh tế tri thức hiện nay. Vấn đề cấp bách đặt ra là phải đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực để chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp sang một nền kinh tế công nghiệp trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Chúng ta phải chuẩn bị một nguồn nhân lực chất lượng cao hướng đến nền kinh tế tri thức. Do vậy, chăm lo, phát huy, bồi dưỡng nguồn lực con người là nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp giáo dục nước ta trong những năm tới. Trong lĩnh vực an ninh quốc phòng, thời gian qua đã có một số nhà khoa học bước đầu tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề hiện đại hóa quân đội và công an cũng như phát triển nguồn nhân lực phục vụ quân đội và công an. Đề tài KHXH. 07 - 06: "Hiện đại hóa quân đội và công an với đẩy mạnh CNH, HĐH” đã tập trung vào nghiên cứu làm rõ tính tất yếu và nội dung của vấn đề hiện đại hóa quân đội và công an trong tình hình mới. Đề tài đưa ra kiến nghị; Nhà nước phải đầu tư trực tiếp và huy động sức mạnh tổng hợp của quốc gia để phát huy nhân tố con người trong xây dựng Quân đội
  • 10. nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Luận án tiến sĩ Kinh tế của tác giả Đỗ Văn Dạo về “Phát triển nguồn nhân lực quân sự chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa Quân đội Nhân dân Việt Nam” cũng là một công trình nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực, trong đó xác định rõ được tiêu chí đánh giá và nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa quân đội hiện nay [3]. Luận án đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm phát triển lực lượng này đến năm 2020. Trong lĩnh vực quản lý báo chí, đề tài phát triển nguồn nhân lực cũng là vấn đề mới. Từ năm 2010, Chính phủ giao Bộ Thông tin- Truyền thông dự thảo Quy hoạch phát triển nhân lực báo chí, phát thanh, truyền hình. Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức nhiều hội thảo xây dựng Dự thảo Quy hoạch phát triển nhân lực báo chí, phát thanh truyền hình đến năm 2020. Trong quy hoạch nhân lực báo chí quan trọng là phải bảo đảm được xu hướng phát triển của hệ thống báo chí. Đào tạo nhân lực báo chí có sự khác biệt, không chỉ là chỉ đào tạo thuần túy chuyên môn về nghiệp vụ báo chí mà báo chí phản ánh toàn diện mọi mặt đời sống nên kiến thức về chuyên ngành là hết sức quan trọng. Nhân lực báo chí là nhân lực để tác nghiệp, để hình thành những sản phẩm báo chí, tác phẩm báo chí chứ không phải là người làm nghiên cứu nên phải có yếu tố, tố chất để đáp ứng được yêu cầu này. Nhân lực báo chí còn là những người làm nhiệm vụ tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, những nhà chính trị nên phải hội tụ đầy đủ các phẩm chất về chính trị, năng lực chuyên môn, đạo đức. Tất cả những cái đó cần phải tính toán trong phát triển nguồn nhân lực”. Theo đó, quy hoạch nhân lực báo chí cần phải tính tới cả xu hướng trong hội tụ thông tin, khi một cơ quan báo chí có cả báo in, PT-TH, báo điện tử sẽ có nhu cầu nhân lực khác với 4 đơn vị báo chí riêng rẽ. Sự hội tụ đó không chỉ diễn ra trong 1 tòa soạn mà còn diễn ra trong 1 cá
  • 11. nhân nhà báo. Quy hoạch cũng phải tính đến những vấn đề sâu như vậy để đưa ra những dự báo phù hợp. Bất cập trong công tác đào tạo nhân lực báo chí hiện nay là hầu hết các giáo viên không hoặc ít hành nghề báo trong thực tế. Đó chính là lý do sinh viên ra trường không thể tác nghiệp được. Bởi vậy, những mâu thuẫn đó cần được giải quyết bằng các quan điểm quy hoạch phát triển nhân lực báo chí, phát thanh truyền hình. Nhìn lại phần tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới luận văn, bản thân tôi nhận thấy, các công trình nghiên cứu thể hiện rõ trong việc đặt vấn đề, trong cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu mang tính hệ thống trên cơ sở những phương pháp liên ngành, so sánh,… Bằng cách làm trên, các công trình đã tìm ra và lý giải một cách thuyết phục vai trò đặc biệt của nhân tố con người trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và quốc phòng an ninh. Mặt khác, các công trình cũng đưa ra những dự báo có cơ sở khoa học về tương lai phát triển nguồn nhân lực và những lợi ích và tính hiệu quả mà chiến lược này mang lại cho sự phát triển của đất nước nói chung và hệ thống báo chí nói riêng, mà trong đó hệ thống báo chí Công an Nhân dân là một thành tố. Mặc dù, tính hệ thống của các công trình trên là tương đối cao, có công trình nghiên cứu một cách tổng thể về phát triển nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao, có công trình đi sâu vào phân tích phát triển nguồn nhân lực ở cấp ngành. Tuy nhiên, do những đặc thù riêng biệt, những mục đích nghiên cứu khác nhau, nên cho tới nay chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân với tư cách là một công trình khoa học độc lập. Do đó, đề tài luận văn này (tập trung nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân) tuy có kế thừa kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học đi trước, song không trùng lặp với bất kỳ một công trình khoa học nào đã được công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
  • 12. * Mục đích nghiên cứu đề tài Luận giải, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân. Trên cơ sở đó, đề xuất một số quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân. * Nhiệm vụ Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ: - Làm rõ cơ sở lý luận phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân - Phân tích thực trạng, vai trò, nội dung, cơ cấu và những nhân tố ảnh hưởng tới phát triển phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân. Làm rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, những vấn đề đặt ra từ thực trạng. - Đề xuất những quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân * Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát nguồn nhân lực công tác tại các cơ quan báo chí hoạt động có tính chất chuyên nghiệp trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân; với các loại hình truyền thông đa phương tiện như: báo in, báo nói (phát thanh), báo hình (truyền hình), báo điện tử (báo mạng)… Không khảo sát các tạp chí, bản tin nghiệp vụ lưu hành nội bộ trong ngành công an, vì đây là loại hình báo chí không chuyên nghiệp, nhân lực làm tạp chí thường kiêm nhiệm thêm các chuyên môn khác; nội dung trong các tạp chí hoặc bản tin đó không phổ biến rộng rãi đến công chúng là các tầng lớp nhân dân. * Thời gian khảo sát: từ năm 2000 đến nay 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
  • 13. - Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người, tham khảo các báo cáo chuyên đề xây dựng lực lượng CAND và bài viết của các học giả và các công trình khoa học có liên quan. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn vận dụng phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng, các phương pháp của Kinh tế chính trị, trong đó coi trọng phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Đồng thời vận dụng tổng hợp các phương pháp như: hồi cứu tư liệu, phân tích – tổng hợp, lôgíc – lịch sử, tổng kết thực tiễn, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế, chuyên gia… 6. Ý nghĩa của luận văn Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân đáp ứng cầu mới. Qua đó làm phong phú lý luận nghiên cứu về vấn đề phát triển nguồn nhân lực. Luận văn cũng góp phần xác định chủ trương, chính sách để nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân phát huy thế mạnh và tạo ra hiệu quả rõ nét hơn trong hệ thống báo chí Cách mạng Việt Nam cũng như trong lực lượng CAND. 7. Kết cấu của luận văn Kết cấu của luận văn gồm: phần mở đầu, phần nội dung 3 chương, (8 tiết), phần kết luận.
  • 14.
  • 15. Chương 1 PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HỆ THỐNG BÁO CHÍ CÔNG AN NHÂN DÂN - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM Nhân lực là sức lực con người, nằm trong mỗi con người và làm cho con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể con người và đến một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham gia vào quá trình lao động- con người có sức lao động. C.Mác quan niệm: đó là "những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông và nắm nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn" [26, tr.474]. Lênin đã từng đặc biệt coi trọng của vai trò của con người trong hệ thống sản xuất vật chất của xã hội, người coi đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lênin nhấn mạnh: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân là người lao động” [24, tr.430]. Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, con người được coi là một phương tiên hữu hiệu cho việc đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững, thậm chí con người được coi là một nguồn vốn đặc biệt cho sự phát triển - vốn nhân lực. Về phương diện này, Liên Hiệp Quốc cho rằng, nguồn lực con người là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng lực con người có quan hệ tới sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngày nay, nguồn nhân lực còn bao hàm khía cạnh về số lượng, không chỉ những người trong độ tuổi, mà cả những người ngoài độ tuổi. Dưới góc độ giáo dục và đào tạo, nguồn nhân lực được xác định là những người được đào tạo ở các bậc trình độ khác nhau, đáp ứng nhu cầu hoạt động nghề nghiệp đem lại thu nhập cho bản thân và cộng đồng. Đó là những con người có đủ những điều kiện về sức khoẻ, bằng cấp, trình độ
  • 16. nghiệp vụ chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kỹ năng nghề nghiệp, tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động thực tiễn đem lại hiệu suất lao động cao Ở nước ta, khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng rộng rãi từ khi Đảng ta bắt đầu công cuộc Đổi mới sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986. Điều này được thể hiện rõ trong các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực. Theo Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc, nguồn lực con người được thể hiện thông qua số lượng dân cư, chất lượng con người (bao gồm thể lực, trí lực và năng lực phẩm chất). Như vậy, nguồn nhân lực không chỉ bao hàm chất lượng nguồn nhân lực hiện tại mà còn bao hàm cả nguồn cung cấp nhân lực trong tương lai [20]. Về cơ bản, quan niệm quốc tế và trong nước đều thống nhất với nhau về bản chất, nội dung và các giới hạn xác định nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn lực đó được xem xét ở hai khía cạnh. Trước hết, với ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn lực. Nguồn nhân lực nằm ngay trong bản thân con người, đó cũng là sự khác nhau cơ bản giữa nguồn lực con người với các nguồn lực khác. Thứ hai, nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể nguồn lực của từng cá nhân con người. Với tư cách là một nguồn lực của quá trình phát triển, nguồn nhân lực là nguồn lực con người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, được biểu hiện ra là số lượng và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất định. Từ những phân tích trên, ở dạng khái quát nhất, có thể hiểu nguồn nhân lực là một phạm trù dùng để chỉ sức mạnh tiềm ẩn trong dân cư, khả năng huy động tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội trong hiện tại cũng như trong tương lai. Sức mạnh và khả năng đó được thể hiện thông qua số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số, nhất là số lượng và chất lượng con người có đủ điều kiện tham gia vào nền sản xuất xã hội. n nhân lực là toàn bộ sức lao động của những người trong độ tuổi lao động có khả năng hoạt động trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Cần phân biệt ranh giới và không nên
  • 17. đồng nhất nguồn nhân lực với lực lượng lao động. Cần quan tâm nghiên cứu nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh. Nguồn nhân lực chưa phải là động lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực với chất lượng thấp, số lượng đông trong nhiều trường hợp lại trở thành lực cản đối với sự phát triển. Vì vậy, ngày nay người ta quan tâm nhiều đến sự hình thành hoặc đầu tư để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Khi nghiên cứu về nguồn nhân lực, chúng ta cũng có thể thấy rằng, vốn nhân lực là yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội ở mỗi quốc gia cũng như cơ quan- đơn vị, doanh nghiệp. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực, đặc biệt phải phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Vốn nhân lực là tập hợp các kiến thức, khả năng, kỹ năng mà con người tích lũy được trong quá trình đào tạo hoặc làm việc. Cho đến nay, do xuất phát từ cách tiếp cận khác nhau nên khái niệm phát triển nguồn nhân lực không giống nhau. Theo Tổ chức Văn hóa – Giáo dục Liên Hiệp Quốc UNESCO, phát triển nguồn nhân lực là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn phù hợp trong mối quan hệ với sự phát triển của đất nước. Quan niệm này gắn với sự phát triển sản xuất; do đó, phát triển nguồn nhân lực giới hạn trong phạm vi phát triển kỹ năng lao động và thích ứng với yêu cầu về việc làm. Còn theo Tổ chức Lao động Quốc tế - ILO, phát triển nguồn nhân lực là sự chiếm lĩnh trình độ lành nghề và phát triển năng lực, sử dụng năng lực đó của con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả cũng như thỏa mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân; hay, phát triển nguồn nhân lực là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nền kinh tế xã hội. Với cách tiếp cận trên, phát triển nguồn nhân lực là quá trình phát triển thể lực, trí lực, khả năng nhận thức và tiếp cận kiến thức, tay nghề, tính năng động xã hội và sức sáng tạo của con người; nền văn hóa, truyền thống lịch sử… Do đó, phát triển nguồn nhân lực đồng nghĩa với quá trình nâng cao năng lực xã hội và tính năng động xã hội của nguồn nhân lực về mọi mặt: thể
  • 18. lực, trí lực, nhân cách, đồng thời phân bố, sử dụng, phát huy có hiệu quả nhất năng lực đó, để phát triển đất nước. Với góc độ khoa học quản trị nhân lực- một cách hình dung cụ thể thì- phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hoạt động học tập có tổ chức, được tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định, để nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi nghề nghiệp của người lao động. Như vậy, xét về nội dung, phát triển nguồn nhân lực theo góc độ này bao gồm 3 loại hoạt động là: giáo dục, đào tạo và phát triển. Theo đó, thứ nhất: Giáo dục được hiểu là các hoạt động học tập để chuẩn bị cho con người bước vào nghề nghiệp thích hợp hơn trong tương lai. Thứ hai: Đào tạo (hay còn gọi là đào tạo kỹ năng) được hiểu như các hoạt động học tập, nhằm giúp cho người lao động có thể thực hiện hiệu quả hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Đó chính là quá trình học tập làm cho người lao động nắm vững hơn về công việc của mình, là những hoạt động học tập để nâng cao trình độ, kỹ năng của người lao động để thực hiện nhiệm vụ của người lao động có hiệu quả hơn. Thứ ba: Phát triển là các hoạt động học tập vươn ra khỏi phạm vi công việc trước mắt của người lao động, nhằm mở ra cho họ những công việc mới dựa trên cơ sở những định hướng tương lai của tổ chức. Với cách tiếp cận phát triển từ góc độ xã hội, có thể định nghĩa phát triển nguồn nhân lực là quá trình tăng lên về số lượng (quy mô) nguồn nhân lực và nâng cao về mặt chất lượng nguồn nhân lực, tạo ra cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng hợp lý. Cả ba mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu trong phát triển nguồn nhân lực gắn chặt với nhau, trong đó, yếu tố quyết định nhất của phát triển là chất lượng nguồn nhân lực phải được nâng cao. Phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội hoặc phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ quan- đơn vị, doanh nghiệp, và đến lượt nó, phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi đòi hỏi phải phát triển nhanh nguồn nhân lực. 1.2. Phát triển nguồn nhân lực báo chí Công an Nhân dân: Khái niệm, nội dung, vai trò và các nhân tố tác động
  • 19. 1.2.1. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an nhân dân Dưới góc độ chung nhất, phát triển là sự biến đổi, gia tăng về số lượng, chất lượng và các mối quan hệ. Tiếp cận dưới góc độ con người là mục tiêu của sự phát triển thì phát triển con người hay phát triển nguồn lực con người là mở rộng các khả năng của con người, tạo cho con người có cơ hội tiếp cận với nền giáo dục tốt hơn, các dịch vụ y tế tốt hơn, có chỗ ở tiện nghi và điều kiện làm việc tốt hơn. Hay nói cách khác, phát triển nguồn nhân lực là tăng cường năng lực, nâng cao kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm làm việc cho con người. Đứng trên quan điểm coi con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội, khi nói phát triển nguòn nhân lực là nói tới phát triển hoạt động đầu tư nhằm tạo ra nguồn lực xã hội với số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời bảo đảm sự phát triển của mỗi cá nhân. Theo đó, phát triển nguồn nhân lực là những chính sách và hoạt động tạo ra sự biến đổi về số lượng, chất lượng biểu hiện ở sự hình thành và hoàn thiện từng bước về thể lực, kiến thức, kỹ năng, thái độ, nhân cách nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu hoạt động, lao động của cá nhân và sự phát triển của xã hội. Tiếp cận phát triển nguồn nhân lực ở một ngành, một tổ chức nào đó thực chất là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu của nguồn nhân lực được thực hiện thông qua hệ thống các chính sách, biện pháp của tổ chức và cá nhân với mục đích là tạo ra lực lượng lao động phù hợp với nhu cầu, định hướng và mục tiêu phát triển của ngành, lĩnh vực, tổ chức trong từng thời kỳ. Thực chất phát triển nguồn nhân lực của một ngành, một tổ chức là hoạt đọng của chủ thể quản lý ngành, tổ chức trước yêu cầu phát triển mang tính khách quan và hướng đích giúp cho cá nhân và tập thể người lao động đạt được khả năng thích ứng cao nhất theo định hướng và mục tiêu phát triển chung của ngành trong mỗi thời kỳ.
  • 20. Từ những phân tích trên đây tác giả cho rằng, phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND Việt Nam là đẩy mạnh quá trình sử dụng tổng hợp các cơ chế, chính sách, biện pháp, cách thức nhằm phát hiện, thu hút, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý cả về cơ cấu, số lượng và chất lượng của đội ngũ những người làm báo có phẩm chất chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, có tri thức rộng, kỹ năng nghiệp vụ báo chí tốt, nắm vững pháp luật và nghiệp vụ công an, nhằm phát huy hiệu quả cao nhất để các đơn vị báo chí CAND hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trên mặt trận văn hóa - tư tưởng. Phát triển nguồn nhân lực báo chí Công an nhân dân có những vai trò chủ yếu sau: Một là, bảo đảm xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công nhân viên, biên tập viên, phóng viên. Phát triển nhân lực báo chí Công an nhân dân không chỉ nhằm làm tăng năng lực thực thi nhiệm vụ của các báo và từng cán bộ công nhân viên, biên tập viên, kỹ thuật viên của các báo, mà còn nhằm bảo đảm cho sự phát triển hiệu quả ngày càng mạnh mẽ của các báo cả về số lượng và chất lượng. Phát triển nguồn nhân lực báo chí CAND đóng góp không nhỏ cho công tác xây dựng lực lượng công an trong sạch, vững mạnh. Trên thực tế, báo chí là một kênh thông tin, kênh kết nối giữa lực lượng công an với nhân dân và từ báo chí công tác xây dựng lực lượng công an có thêm nguồn đánh giá, kiểm chứng. Người dân có thêm thiện cảm, gần gũi với lực lượng công an, giúp đỡ lực lượng công an thực thi nhiệm vụ, cũng là nhờ có phần đóng góp của báo chí CAND. Đặc biệt, phát triển nguồn nhân lực báo chí CAND còn giúp củng cố công tác bảo vệ nội bộ; bởi, nếu mặt trận văn hóa- tư tưởng có một đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức công an sắc bén nghiệp vụ, thì có thể đấu tranh phòng ngừa tốt trước hiện tượng một số cán bộ trong lực lượng “tự diễn biến, tự chuyển hóa” hoặc thoái hóa, biến chất từ tư tưởng đến hành động.
  • 21. Hai là, phát triển nguồn nhân lực báo chí Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu, nội dung chính quy hóa, chuẩn hóa đội ngũ trong lực lượng CAND. Thực tiễn hoạt động của hệ thống báo chí Công an nhân dân cho thấy, trước nhiệm vụ nặng nề của sự nghiệp báo chí cách mạng hiện nay, đòi hỏi đội ngũ người làm báo cách mạng không chỉ phải không ngừng được trau dồi về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc, mà còn cần được tạo môi trường điều kiện làm việc thuận lợi, được quan tâm chăm lo và tạo điều kiện được học tập nâng cao trình độ mọi mặt; có cơ cấu, qui mô hợp lý. Đặc biệt hiện nay đặc điểm, tính chất, quy mô của các cuộc chiến tranh tư tưởng, chiến tranh tâm lý, chiến tranh công nghệ giữa bối cảnh tình hình thế giới phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch có khả năng sử dụng các hệ thống truyền thông đa phương tiện hỗ trợ các cuộc chiến tranh tư tưởng, chiến tranh tâm lý, chiến tranh công nghệ. Chúng ta cần chuẩn bị phương án trong tương lai (nếu xảy ra, phòng ngừa thế nào) đối với hệ thống báo chí CAND nói riêng và báo chí cách mạng nói chung. Ví dụ: Điển hình trên thế giới như cách mạng nhung, cách mạng màu với sự can dự của các thế lực bên ngoài khi sử dụng mạng xã hội, đè bẹp các phương tiện báo chí truyền thống trong nước ở Gruzia, Ai Cập…Do vậy, phát triển nguồn nhân lực là nhân tố cơ bản để phát triển kinh tế báo chí trong CAND góp phần hiện đại hóa và nâng cao tiềm lực hậu cần - kỹ thuật của lực lượng CAND. 1.2.3. Nội dung phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện trên nhiều mặt nguồn nhân lực như phẩm chất chính trị, kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức lối sống, thể lực,
  • 22. kinh nghiệm công tác.v.v. Theo đó, phát triển về chất lượng nguồn nhân lực gồm các mặt cơ bản sau: Một là, ∑ L đào tạo T đào tạo = x 100 ∑ L làm việc Trong đó: T đào tạo: là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với tổng lao động đang làm việc; L đào tạo: là số lao động đã qua đào tạo đang làm việc L làm việc: là số lao động đang làm việc doanh. Đặc biệt, đối với mỗi một cán bộ, công nhân viên chức công tác trong hệ thống báo chí CAND thì có 2 nội dung cần hết sức chú trọng là phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp. Đã công tác trong cơ quan, đơn vị có đặc thù vũ trang thì phẩm chất chính trị là đặc biệt quan trọng. Nếu không rèn luyện và thường xuyên tu dưỡng thì không thể đứng vững trên mặt trận văn hóa - tư tưởng. Thực tiễn nghề báo có muôn vàn những cám dỗ và muôn vàn
  • 23. những tác động khách quan cũng như chủ quan khiến nhà báo có thể bị “che mắt”, không thể hiện hết bản chất vấn đề, không đi được đến cùng của sự việc, hiện tượng. Bởi vậy, Hội Nhà báo Việt Nam đề ra những nội dung về đạo đức nghề nghiệp cần tuân thủ. Cùng với việc rèn luyện phẩm chất chính trị thì việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp là 2 nội dung song hành cần đặc biệt quan tâm trang bị cho nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND. Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng công tác đánh giá, bố trí, sử dụng, quy hoạch, bổ nhiệm nhân lực. Quản lý nguồn nhân lực nói chung và công tác XDLL trong CAND nói riêng là một hoạt động quản lý bao gồm nhiều nội dung: đánh giá cán bộ, tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách của Nhà nước, của ngành; bố trí, phân công điều động, thuyên chuyển công tác; đánh giá khen thưởng, kỷ luật cán bộ…v.v… Và, mỗi nội dung có một vị trí nhất định và có mối liên hệ mật thiết với nhau, trong đó đánh giá là khâu đầu tiên, là cơ sở để tiến hành các khâu tiếp sau. Đánh giá cán bộ là việc làm khó, rất nhạy cảm vì nó ảnh hưởng đến tất cả các khâu khác. Đánh giá nhân lực trong hệ thống báo chí CAND theo quy chuẩn chung của các cơ quan, đơn vị công an khác và thường theo 2 dạng: (1) đánh giá hàng năm; (2) đánh giá để nhằm mục tiêu phát triển nhân lực của tổ chức để quyết định bổ nhiệm, luân chuyển hay đào tạo cán bộ. Đối với lãnh đạo đơn vị báo chí, công tác cán bộ nhằm: xây dựng kế hoạch và thực hiện chính sách sử dụng và phát triển nguồn nhân lực; có cơ sở để quyết định khen thưởng, kỷ luật; sắp xếp bố trí nhân sự sao cho khối lượng công việc mà mỗi cá nhân- bộ phận đảm đương phù hợp với khả năng thực tế của họ; có thông tin để xây dựng tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ phù hợp; có cơ sở đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chỉ huy; có thông tin để xây dựng hoàn thiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp và cần thiết nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Còn đối với cán bộ (người bị đánh giá) sẽ có cái nhìn khách quan hơn về bản thân, có thể tự xác định mình thuộc phân loại cán bộ thang bậc nào và tự điều chỉnh, nhận thức động cơ đúng đắn và gắn bó hơn với công việc, định hướng kích thích sự vươn lên để thực hiện tốt hơn công việc.
  • 24. Bố trí, sử dụng cán bộ phải đảm bảo nguyên tắc “đúng người, đúng việc”, và cần mạnh dạn giao công việc cũng như quyền hạn, trách nhiệm cụ thể cho cán bộ để họ có thể chủ động, sáng tạo và phát huy hết tiềm năng phục vụ cho đơn vị. Bên cạnh đó, công tác quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ không những nâng cao được chất lượng nguồn nhân lực, mà còn có ý nghĩa trong thu hút, tuyển dụng và đãi ngộ nhân tài. 1.2.4. Các nhân tố chủ yếu tác động đến phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân Phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND có nhiều yếu tố tác động. Tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung luận giải các yếu tố tác động có tính chất trực tiếp và cơ bản nhất. Một là, phát triển nguồn nhân lực báo chí CAND chịu tác động bởi nguồn nhân lực quốc gia. Bởi vì trước hết, nguồn nhân lực báo chí CAND là một bộ phận của nguồn nhân lực đất nước. Bởi vậy, giáo dục và đào tạo quốc dân có vai trò quan trọng cho phát triển nguồn nhân lực cho lực lượng công an cũng như cho nền báo chí cách mạng nước nhà. Hơn nữa, hoạt động báo chí công an là rất đặc thù, những cán bộ phóng viên, biên tập viên, họa sĩ… báo chí công an trước khi được đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện để thực hiện nhiệm vụ thì phải dựa trên một nền tảng thể lực, trí thức nhất định làm điều kiện tiên quyết. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng, hiệu quả của nền giáo dục quốc dân. Nguồn nhân lực quốc gia càng phát triển với chất lượng cao thì càng có cơ sở để thu hút được nhiều người giỏi, người tài cho báo chí công an, với cách triển khai đi tắt, đón đầu; và ngược lại. Hai là, phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực cho báo chí công an nói riêng luôn chịu sự tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường. Tôn trọng quy luật kinh tế, hiểu rõ về cơ chế thị trường, đồng thời linh hoạt, uyển chuyển phù hợp với yêu cầu vận động của thực tiễn, mới là hiểu rõ nhân tố tác động này. Cơ chế thị trường đặt ra cho nội dung phát triển nguồn nhân lực những bài toán khó khi các đơn vị báo chí công an chịu sức ép của thị
  • 25. trường. Công chúng phải bỏ tiền hoặc mất chi phí để tiếp cận được sản phẩm báo chí công an và họ có quyền chọn lựa hoặc không chọn lựa sản phẩm báo chí đó. Muốn được công chúng chọn mua, chọn xem thì sản phẩm báo chí phải hấp dẫn, phải đẹp, phải đúng “gu” thưởng thức. Muốn vậy thì đội ngũ làm ra sản phẩm báo chí công an phải đủ độ nhạy, đủ tinh tường để vừa thực hiện nhiệm vụ chính trị trên mặt trận văn hóa- tư tưởng, vừa đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của thị trường, từ phía công chúng trong các tầng lớp nhân dân. Ba là, phát triển nguồn nhân lực báo chí CAND chịu tác động của nhiệm vụ xây dựng lực lượng CAND trong tình hình mới. Là một bộ phận của lực lượng CAND, nên báo chí công an không lý gì lại không đồng bộ hướng đến cùng lực lượng CAND chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Xây dựng chính quy đòi hỏi phải đạt tính thống nhất, tính kỷ luật và tính tiên tiến. Tình hình mới với những phức tạp khó lường trên trận tuyến bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội đặt ra nhiều thách thức với cả lực lượng CAND nói chung cũng như báo chí công an nói riêng. Do vậy, phải tiến hành đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức trong hệ thống báo chí công an để có thể tiếp nhận và chiến đấu có hiệu quả trên mặt trận văn hóa - tư tưởng đang là vấn đề đặt ra cấp bách. Bốn là, phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND chịu sự tác động trực tiếp của những cơ chế, chính sách đãi ngộ các nhà báo công an. Trước hết, chính sách tốt sẽ thu hút được những sinh viên (báo chí, công an) tài năng, những du học sinh xuất sắc để bổ trợ cho nguồn nhân lực báo chí công an mà chi phí đào tạo bổ sung ít đi trong khi thời gian đào tạo lại ngắn lại. Bên cạnh đó, cần thu hút cả đội ngũ chuyên gia, những nhà báo có kinh nghiệm từ ngoài ngành công an vào hệ thống báo chí công an. Đội ngũ này vừa trực tiếp làm gia tăng quy mô về số lượng, vừa khắc phục được một phần bất cập về cơ cấu, đồng thời làm tăng nhanh yếu tố về chất của nguồn nhân lực báo chí công an. Thời gian qua, một số nhà báo giỏi ngoài ngành đã chuyển về Trung tâm phát thanh- truyền hình và điện tử CAND, do đơn vị
  • 26. thực hiện được một số ưu tiên về cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng đặc thù, tạo môi trường đãi ngộ cán bộ báo chí công an tốt hơn trước. Việc tuyển dụng, bố trí, sắp xếp, đãi ngộ trong hệ thống báo chí CAND phải gắn chặt với cơ chế cụ thể để những người tài, người giỏi trong và ngoài ngành công an có cơ hội phát triển. Năm là, việc triển khai đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện là một quá trình cần thiết, đẩy lui nhân tố ỷ lại, trì trệ có trong các cán bộ Nhà nước. Thông qua các khóa đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện, cán bộ thay đổi nếp nghĩ cũ, phấn đấu thực hiện con đường tiến thân bằng năng lực thực chất, hoàn thiện đạo đức nghề nghiệp báo chí công an. Một đặc điểm rất dễ nhận thấy của các cán bộ biên chế là sự đảm bảo về vị trí công tác của các cán bộ tạo nên tâm lý chung an tâm, dễ dẫn tới ỷ lại, ngại phấn đấu, nếu không được lãnh đạo làm công tác tổ chức xây dựng lực lượng thường xuyên đốc thúc và rà soát lại. Nhân tố bên trong này ảnh hưởng rất lớn tới phát triển nguồn nhân lực, nếu không thường xuyên đốc thúc, đẩy mạnh thì hiệu quả hoạt động của các đơn vị báo chí công an đương nhiên bị giảm sút. Sáu là, bối cảnh hội nhập hiện nay là nhân tố thuận lợi cho phát triển nguồn nhân lực báo chí CAND. Trong đó, vấn đề hợp tác đào tạo và mở rộng các hoạt động đối ngoại công an đang và sẽ tạo điều kiện, tiền đề không nhỏ để phát triển nguồn nhân lực cho báo chí công an. Vì vậy, việc mở rộng hợp tác đào tạo, liên kết đào tạo với một số trường danh tiếng trên thế giới về báo chí về cảnh sát để phát triển nguồn nhân lực báo chí CAND là vấn đề đặt ra. Đây chính là quá trình phát triển đi tắt, đón đầu nhằm khắc phục sự thiếu hụt nguồn nhân lực báo chí công an cho các đơn vị hoặc tại một thời điểm mà ở lĩnh vực đặc thù cụ thể như báo chí thì hệ thống các học viện, nhà trường trong ngành công an chưa có điều kiện và khả năng đào tạo. Hơn nữa, hoạt động giao lưu, phối hợp, liên kết hợp tác báo chí trong khu vực Đông Nam Á, Đông Á và thế giới cũng là điều kiện tốt để sàng lọc, rèn luyện và phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND.
  • 27. 1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực của một số hệ thống báo chí ngành khác: Trong bối cảnh đất nước bước vào công cuộc Đổi mới kể từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, nền báo chí cách mạng ở nước ta đã phát triển khá nhanh về số lượng và chất lượng, hình thành hệ thống thông tấn, báo chí, phát thanh, truyền hình rộng khắp cả nước. Trong phạm vi có hạn của luận văn này, xin phép chỉ điểm qua kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí quân đội, hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và pháp luật. 1.3.1. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí quân đội: Một là, chú trọng đào tạo nhân lực thông qua hoạt động thực tiễn công tác tiễn công tác này. Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí QĐND ở nước ta khá đông đảo, có bề dày truyền thống, quân phong, quân kỷ và đội ngũ nguồn nhân lực hùng hậu, với nhiều nhà báo hoạt động kỳ cựu nhất, dày dặn nhất. Ở cấp Quân ủy Trung ương phải kể đến Báo Quân đội Nhân dân (Cơ quan của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng), ở cấp các quân khu đều có báo của quân khu, các binh chủng, lực lượng của quân đội đều xuất bản báo. Xây dựng và trưởng thành cùng lực lượng QĐND, trải qua 2 cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, nguồn nhân lực báo chí quân đội được tuyển chọn và bồi dưỡng ngay trong các lĩnh vực hoạt động của báo chí quân đội và chính trong môi trường này đã tạo nên những tên tuổi cây bút bình luận thời sự trong nước và quốc tế sắc sảo, đanh thép, có sức nặng, thường xuyên các năm đều giành được giải thưởng Báo chí Quốc gia và nhiều giải báo chí khác. Chính nhờ có sự đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực bằng cách này, báo chí quân đội còn giúp tạo nguồn cung cấp nhân lực chất lượng cao cho các báo ngoài quân đội. Một số đồng chí nhà báo quân nhân chuyển ngành, sang công tác ngành khác ngoài quân đội, đã giữ những vị trí lãnh đạo quan trọng của nhiều tờ báo. Ví dụ: nhà báo- thiếu tướng Phan Khắc Hải- Tổng Biên tập Báo QĐND (giai đoạn 1989- 1997) chuyển ngành và giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Văn hóa- Thông tin
  • 28. (1997-2004); nhà báo - đại tá Hồ Quang Lợi - Phó Tổng Biên tập Báo QĐND năm 2008 chuyển ngành về Thành ủy Hà Nội giữ chức vụ Tổng Biên tập Báo Hà Nội mới và 2 năm sau giữ chức vụ Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội. Cũng từ Báo QĐND, nhà báo - thượng tá Hồng Thanh Quang chuyển sang ngành công an giữ chức vụ Phó Tổng Biên tập Báo CAND phụ trách 2 ấn phẩm “An ninh thế giới” và “Cảnh sát toàn cầu” đều có chỉ số phát hành trên thị trường rất cao…v.v… Hai là, dựa vào hệ thống học viện, nhà trường trong quân đội như Học viện Chính trị, Sĩ quan Chính trị để mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp ày như Học viện Chính trị, Trường Sĩ quan Chính trị (Đại học Chính trị) phối hợp với Học viện báo chí tuyên truyền để mở các lớp báo chí. Bằng cách làm này, cùng với việc đào tạo tại chỗ cũng đã góp phần nhất định vào việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho hệ thống báo chí quân đội. Ba là, nhạy bén và linh hoạt trong huy động nguồn nhân lực báo chí từ các cơ quan đơn vị trong và ngoài quân đội để đáp ứng yêu cầu tăng lên nhanh chóng của các loại hình báo chí quân đội trong tình hình mới. Nguồn nhân lực báo chí quân đội sau một thời gian dài ổn định không có biến động về quy mô, thì 5 - 6 năm trở lại đây có tăng về quy mô số lượng và cơ cấu biên chế. Việc thiết lập thêm Báo Quân đội Nhân dân điện tử, Cổng thông tin Điện tử Bộ Quốc phòng, cùng một số trang điện tử khác của quân đội; và đặc biệt là sự ra đời Kênh Quốc phòng Việt Nam (gọi tắt là QPVN) kể từ ngày 19-5-2013 phát sóng 24/24h; đã tạo ra nhu cầu phát triển nguồn nhân lực trong báo chí quân đội, tăng quy mô về số lượng và dần hoàn thiện về chất lượng để đầu tư bổ sung cho 2 loại hình báo chí là báo điện tử và truyền hình. Đề đáp ứng yêu cầu đó, Quân đội đã có nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi để thu hút và tuyển dụng các phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên từ các tờ báo và lĩnh vực có liên quan khác vào làm việc trong quân đội. Tại các đơn vị báo chí quân đội, không chỉ có đông đảo đội ngũ cán bộ biên chế quân đội (sỹ quan hoặc viên chức quốc phòng), mà còn có cả đội ngũ các cán bộ, nhân
  • 29. viên, kỹ thuật viên hợp đồng ngoài biên chế đang làm việc cho các báo; và cả một đội ngũ các cộng tác viên rộng lớn trong các đơn vị quân đội. 1.3.2. Kinh nghiệm của hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và các báo ngành nội chính Một là, tích cực và chủ động và linh hoạt trong tuyển dụng và bổ sung nguồn nhân lực. Hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và các báo ngành nội chính (pháp luật, kiểm sát, tư pháp) tích cực, chủ động phát huy cao độ nguồn nhân lực báo chí. Là những thành tố trong nền báo chí cách mạng Việt Nam, hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và báo ngành nội chính từ năm 2000 trở lại đây đã cho ra đời nhiều ấn phẩm đa dạng, đem lại cho đời sống báo chí sự sôi động, như chân dung muôn màu của cuộc sống. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có báo Tiền Phong, báo Tuổi trẻ TP.HCM, báo Tuổi trẻ Thủ đô, báo Thiếu niên Tiền phong, báo Hoa học trò, báo Nhi đồng, báo Thời trang trẻ, Tạp chí Thanh niên…; Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam có báo Thanh Niên, đều là những báo, tạp chí có số lượng phát hành cao. Hội Liên hiệp Phụ nữ cũng như vậy với một số tờ như: báo Phụ nữ Việt Nam (có nhiều loại ấn phẩm), báo Phụ nữ TP.HCM, báo Phụ nữ Thủ đô… Chuyên ngành nội chính có: báo Pháp luật Việt Nam của Bộ Tư pháp, báo Bảo vệ Pháp luật của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, báo Đời sống và Pháp luật của Hội Luật gia Việt Nam, báo Pháp luật và xã hội của Sở Tư pháp Hà Nội, báo Pháp luật TP.HCM của Sở Tư pháp TP.HCM… Nguồn nhân lực mới cho hệ thống báo chí của Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ hoặc chuyên ngành pháp luật trong quá trình những năm 1995 đến nay liên tục được bổ sung, thay thế và thường xuyên được tuyển hàng năm lấy từ sinh viên tốt nghiệp các chuyên ngành báo chí - tuyên truyền, hoặc các chuyên ngành xã hội… Nguồn nhân lực của các tờ báo phải trải qua tuyển chọn, thi tuyển mới được nhận vào tác nghiệp; chỉ một số nhà báo giỏi mới được đặc cách bỏ qua các thủ tục tuyển chọn. Các cơ quan báo chí bổ sung nhân lực theo cơ chế hợp đồng lao động và tiến hành xây dựng hệ thống đảm bảo chế độ đãi ngộ với nhiều nội dung có tính đột phá, nên đã tạo ra động lực
  • 30. và sức hấp dẫn để thu hút nguồn nhân lực có chất lượng tốt về làm việc. Các báo sẵn sàng trả mức thù lao lương, thưởng, nhuận bút cao để thu hút và trọng dụng với các ứng viên có khả năng tác nghiệp báo chí tốt, những người có tiềm năng để ký hợp đồng lao động 1 năm, 3 năm hoặc dài hạn (hợp đồng không xác định thời hạn). Do hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và các báo ngành nội chính chủ động, tích cực phát huy cao độ nguồn nhân lực trong lĩnh vực báo chí nên khoảng 90% các cử nhân báo chí muốn được công tác tại khối các cơ quan này. Hai là, có các biện pháp tích cực trong hạn chế hiện tượng “chảy máu chất xám” ngay trong hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và các báo ngành nội chính. Do các báo sẵn sàng trả mức thù lao lương, thưởng, nhuận bút cao để thu hút và trọng dụng nhân tài, nên xảy ra hiện tượng cạnh tranh lẫn nhau. Nhiều nhà báo “nhảy việc”, tức là thay đổi nơi làm việc từ tòa soạn báo này sang tòa soạn báo khác. Sự cạnh tranh sản phẩm báo chí trên thị trường cũng dẫn tới cạnh tranh thu hút nguồn nhân lực. Đó là lý do tại sao xảy ra hiện tượng “chảy máu chất xám” ngay trong hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và các báo ngành nội chính, gây xáo trộn và ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của mỗi cơ quan báo chí. Để hạn chế vấn đè này các báo đều đã có biện pháp khá chặt chẽ để tìm cách giữ chân các phóng viên, biên tập viên cho báo mình như tăng tiền thưởng, hỗ trợ tiền đi công tác phí, tạo môi trường làm việc thuận lợi và xây dựng không khí làm việc dân chủm cởi mở, đặc biệt là chủ trọng khuyến khích sự sáng tạo của các phong viên trẻ có tài năng. 1.3.3. Một số bài học kinh nghiệm rút ra Một là, bài học về tích cực, chủ động chuẩn bị nguồn nhân lực trong các giai đoạn phát triển phù hợp của mỗi cơ quan, mỗi hệ thống báo chí. Cơ quan báo chí cần mở báo điện tử khác với cơ quan cần mở rộng thêm lĩnh vực truyền hình. Có sự chủ động, tích cực chuẩn bị nguồn nhân lực thì sẽ đáp ứng và tạo ra hiệu quả lâu dài trong hoạt động của các cơ quan báo chí. Hai là, bài học về phát huy cao độ nguồn nhân lực báo chí, trong đó chú trọng tiếp tục bồi dưỡng, huấn luyện, đào tạo, để tiếp tục phát huy thế
  • 31. mạnh của những nhà báo giỏi, có tâm huyết với nghề, tạo tiền đề cho việc ra đời những tác phẩm báo chí hấp dẫn, xứng tầm. Nếu biết phát huy cao độ nguồn nhân lực báo chí, hiệu quả công tác trên mặt trận văn hóa- tư tưởng sẽ rất cao. Ba là, bài học về xây dựng chiến lược tổng thể phát triển nguồn nhân lực báo chí. Nếu không có chiến lược tổng thể, quá trình phát triển nguồn nhân lực manh mún sẽ tạo ra sự khập khiễng, chắp vá, nửa vời trong việc tuyển chọn, đào tạo, bố trí, sử dụng nguồn nhân lực. Xây dựng chiến lược tổng thể còn có tác dụng ngăn ngừa hiện tượng “chảy máu chất xám” đã xảy ra tại các hệ thống báo chí, tránh những lãng phí không cần thiết. Bốn là, bài học kinh nghiệm về xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách thu hút và trọng dụng đối với các cán bộ giỏi, có tiềm năng, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tiếp sau. Trên thực tế, phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí nào cũng khó có thể phát huy hiệu quả nếu như không có những chính sách, cơ chế hợp lý, đồng bộ. Phần nhiều các chính sách đều tập trung vào việc nâng cao thu nhập qua lương, thưởng, nhuận bút, đảm bảo đời sống tốt nhất có thể cho nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí. Ngoài ra việc tạo môi trường với những cơ chế làm việc tốt để nhân tài phát huy hết tài năng, tiềm năng cũng cần được chú trọng. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND cũng cần nghiên cứu kinh nghiệm này để lựa chọn xây dựng các chính sách và cơ chế một cách phù hợp nhất. Năm là, kinh nghiệm về tạo nguồn, xây dựng và kiện toàn, đổi mới hệ thống học viện, nhà trường trong quân đội là hết sức thiết thực đối với hệ thống học viện, nhà trường trong công an. Kinh nghiệm của hệ thống báo chí quân đội đã cho thấy, các nhà trường, học viện quân đội đóng vai trò rất lớn trong việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho hệ thống báo chí quân đội trưởng thành như ngày nay. Vì vậy, cần tham khảo những kinh nghiệm của quân đội về vấn đề này. Điều quan trọng là phải có tư duy, tầm nhìn quyết tâm và lộ trình để thực hiện một cách khoa học trong thực tiễn đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ, công nhân viên chức trong hệ thống báo chí CAND. * *
  • 32. * Có thể nói, lao động nhà báo là một loại hình lao động đặc biệt, có đặc thù riêng, cho nên nguồn nhân lực báo chí đòi hỏi được quan niệm với tư duy và cách tiếp cận mới, giữa bối cảnh xã hội thông tin, kỷ nguyên toàn cầu hóa. Trên thực tế, quyền lực của các cơ quan truyền thông và công cụ tuyên truyền hết sức lớn trên mặt trận văn hóa- tư tưởng. Hệ thống báo chí CAND là một bộ phận không thể tách rời trong lực lượng CAND nên càng đóng vai trò hết sức quan trọng để thực hiện nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới. Phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND là quá trình tạo ra sự chuyển biến đồng bộ trong tạo nguồn, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng lực lượng này trên cả ba nội dung số lượng, chất lượng và cơ cấu. Số lượng có thể tăng trưởng về quy mô, nhưng không thể xem xét như tăng trưởng kinh tế cứ cao lên là tốt, mà phải căn cứ vào đặc thù chức năng, nhiệm vụ. Nội dung phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND bao gồm về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Các nội dung này là một thể thống nhất song phát triển về chất lượng có vai trò đặc biệt quan trọng, có thể chi phối đến số lượng và cơ cấu. Có nhiều yếu tố tác động đến phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND, nhưng cơ bản và trực tiếp nhất là chất lượng đào tạo và những cơ chế, chính sách sử dụng lực lượng này. Hiện chúng ta cũng có điều kiện tham khảo được một số kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí khác cũng nằm trong nền báo chí cách mạng Việt Nam, để áp dụng phù hợp với điều kiện hiện nay của hệ thống báo chí CAND.
  • 33. Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HỆ THỐNG BÁO CHÍ CÔNG AN NHÂN DÂN HIỆN NAY Báo chí CAND có nhiệm vụ thông qua các kênh phương tiện truyền thông đa dạng (báo in, báo điện tử, phát thanh, truyền hình) phổ biến đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phục vụ công tác bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; thông tin kịp thời các sự kiện trong nước, quốc tế liên quan tới nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước; tuyên truyền về các ngày lễ kỷ niệm lớn của Đảng, của đất nước và của ngành, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc đối với cán bộ chiến sĩ công an nói riêng và các tầng lớp nhân dân nói chung; biểu dương gương người tốt việc tốt trong quá trình phòng ngừa, đấu tranh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; đồng thời phản ánh ý kiến, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, kiến nghị của các tổ chức xã hội trong việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật và các chính sách phát triển kinh tế xã hội. Một số cơ quan báo chí công an có tiềm lực và ổn định về nguồn nhân lực thì khẳng định được thương hiệu của mình trong tổ chức các hoạt động công tác xã hội phụ trợ, như: Báo Công an Nhân dân, Báo An ninh Thủ đô, Báo Công an TPHCM, kênh Truyền hình Công an Nhân dân ANTV…, là cầu nối gắn bó tình cảm giữa nhân dân với lực lượng công an, giúp đỡ lực lượng công an hoàn thành chức trách nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự. Trên trận tuyến đấu tranh về an ninh chính trị, một số cây bút chủ lực là nhà văn, nhà báo công an có tên tuổi, tham gia đấu tranh phòng ngừa thủ đoạn diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch; đồng thời phòng ngừa hiện tượng “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ. Riêng nội dung đấu tranh về an ninh chính trị, bảo vệ nội bộ đòi hỏi những cán bộ tham gia phải có bề dày
  • 34. kinh nghiệm, giỏi về lý luận, sắc về nghiệp vụ và chắc về pháp luật, mới có thể đáp ứng được yêu cầu cao trong công tác. Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân là những cán bộ, chiến sĩ, công nhân- nhân viên trong hệ thống báo chí của lực lượng Công an Nhân dân (cả trong và ngoài biên chế CAND) được thu hút, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hợp lý, để đáp ứng những yêu cầu chuyên môn, công tác nghiệp vụ báo chí ở nhiều vị trí (ban biên tập- cấp ủy, thư ký tòa soạn, phóng viên, biên tập viên, họa sĩ trình bày, kỹ thuật viên, nhân viên quảng cáo- phát hành …) phục vụ nhiệm vụ chính trị do lực lượng CAND giao, trên mặt trận văn hóa- tư tưởng. Hệ thống báo chí trong lực lượng Công an Nhân dân được cơ cấu như sau: Thứ nhất, cơ cấu theo cấp ngành dọc. Ở cấp Bộ Công an: có Báo Công an Nhân dân (gồm 4 ấn phẩm: Báo Công an Nhân dân, chuyên đề An ninh thế giới, chuyên đề Cảnh sát toàn cầu, chuyên đề Văn hóa Văn nghệ Công an), Trung tâm Phát thanh - Truyền hình - Điện ảnh CAND, Cổng thông tin điện tử Bộ Công an. Ở cấp công an các địa phương: có 5 công an địa phương ra báo. Báo An ninh Thủ đô của Công an TP Hà Nội, Báo An ninh Hải Phòng của Công an TP Hải Phòng, Báo Công an TP.HCM của Công an TP Hồ Chí Minh, Báo Công an Đà Nẵng của Công an TP Đà Nẵng, Báo Công an Nghệ An của Công an tỉnh Nghệ An. Thứ hai, cơ cấu theo 3 loại hình truyền thông đa phương tiện là báo in, báo điện tử, truyền hình- phát thanh. Về báo in: Báo Công an Nhân dân (4 loại ấn phẩm báo in- đã nêu ở trên), Báo An ninh Thủ đô (số hàng ngày, số cuối tuần), Báo Công an TP.HCM, Báo Công an Đà Nẵng, Báo An ninh Hải Phòng, Báo Công an Nghệ An. Các tạp chí trong ngành CAND: có 14 tạp chí gần gũi về hình thức in ấn so với các tờ báo in. Trong đó, các Tổng cục (trừ 2 Tổng cục An ninh) và Viện Chiến lược và khoa học Công an (V21), đều có tạp chí. Tạp chí Cảnh sát Phòng chống tội phạm (thuộc Tổng cục VI), Tạp chí Cảnh sát trật tự an toàn xã hội (thuộc Tổng cục VII), Tạp chí Khoa học quản lý và giáo dục tội phạm (thuộc Tổng cục VIII), Tạp chí Khoa học – Công nghệ và môi trường Công an (thuộc Tổng cục IV), Tạp chí Y học Công an
  • 35. (thuộc Tổng cục IV), Tạp chí Sự kiện và nhân vật nước ngoài (thuộc Tổng cục V), Tạp chí Khoa học và Chiến lược (thuộc V21), Tạp chí Công an nhân dân (thuộc Đảng ủy Công an Trung ương). Ngoài ra, một số Tổng cục với chức năng thường trực của các ban, ủy ban Nhà nước còn chịu trách nhiệm xuất bản tạp chí, bản tin chuyên biệt như: Tạp chí Ma túy, Tạp chí Nhân quyền. Hệ thống nhà trường trong CAND có 6 tạp chí: Tạp chí Khoa học và Giáo dục An ninh (T31), Tạp chí Cảnh sát Nhân dân (T32), Tạp chí Khoa học và huấn luyện tình báo (B43), Tạp chí Phòng cháy và chữa cháy (T34), Tạp chí Khoa học và giáo dục an ninh (T47), Tạp chí Khoa học và giáo dục Cảnh sát nhân dân (T48). Tuy nhiên, dù có những tương đồng về cách thức in ấn, thể hiện gần giống sản phẩm báo in, nhưng các tạp chí chưa thuộc diện đối tượng khảo sát trong khuôn khổ luận văn này do các tạp chí chỉ nghiêng về là đặc trưng sản phẩm xuất bản, hơn là sản phẩm báo chí. Các tạp chí trên chỉ lưu hành nội bộ trong lực lượng công an, không phát hành rộng rãi tới công chúng là các tầng lớp nhân dân. Có Tạp chí dù hoạt động lâu đời, nhưng không theo mô hình đơn vị báo chí chuyên nghiệp, nhân lực làm tạp chí thường phải kiêm nhiệm nhiều công tác nghiệp vụ công an khác, do đó đối tượng các tạp chí nội bộ không nằm trong diện khảo sát của luận văn này. Về báo điện tử: Cổng thông tin điện tử Bộ Công an, Báo Công an Nhân dân, Báo An ninh Thủ đô, Báo Công an TP.HCM, Báo Công an Đà Nẵng, Báo An ninh Hải Phòng. Về truyền hình, phát thanh: Kênh Truyền hình Công an Nhân dân (ANTV), Chương trình phát thanh Vì An ninh Tổ quốc, Truyền hình Vì An ninh Tổ quốc (đều do Trung tâm Phát thanh- Truyền hình- Điện ảnh CAND sản xuất); Chương trình Truyền hình An ninh - ATV (do Báo An ninh Thủ đô sản xuất). Trong số các đơn vị trên, chỉ có Báo An ninh Thủ đô của Công an TP. Hà Nội là đơn vị báo chí tích hợp đủ 4 loại hình truyền thông đa phương tiện trong một tòa soạn (đầy đủ báo in, báo nói, báo hình và báo điện tử).
  • 36. Thứ ba, cơ cấu theo mức độ công khai rộng rãi. Phát hành, phát sóng trên toàn quốc có: Cổng Thông tin Điện tử Bộ Công an, Kênh Truyền hình ANTV, Phát thanh Vì An ninh Tổ quốc, Truyền hình Vì An ninh Tổ quốc, Báo Công an Nhân dân, Báo An ninh Thủ đô, Báo Công an TP.HCM. Phát hành, phát sóng cấp địa phương thì có: Chương trình Truyền hình An ninh ATV do Báo ANTĐ sản xuất phát trên kênh H2 của Truyền hình Hà Nội (chủ yếu phát sóng analog ở một số tỉnh, thành phố đồng bằng Bắc bộ), Báo Công an Nghệ An (chủ yếu phát hành ở địa bàn Bắc Trung Bộ), Báo Công an Đà Nẵng (chủ yếu phát hành ở một số tỉnh miền Trung và Tây Nguyên), Báo An ninh Hải Phòng (chủ yếu phát hành ở Vùng Duyên hải Bắc bộ và tỉnh Hải Dương). Thống kê của Tổng cục XDLL CAND tại Hội nghị giao ban báo chí năm 2013 cho biết, hệ thống báo chí CAND (tính đến tháng 12-2012) có 937 cán bộ công tác tại 8 đơn vị với 4 loại hình báo chí: báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử. Trong số này có 6 đơn vị báo in với 10 ấn phẩm báo in được phát hành, 7 đơn vị có ấn bản báo điện tử. Trung tâm phát thanh - truyền hình - điện ảnh CAND với 1 kênh truyền hình ANTV phát sóng 24/24 giờ, 1 chương trình phát thanh phát sóng hàng ngày, Báo An ninh Thủ đô sản xuất 1 chương trình truyền hình địa phương phát sóng hàng ngày. 2.2. Thành tựu trong phát triển nguồn nhân lực hệ thống báo chí Công an nhân dân hiện nay 2.2.1. Số lượng quy mô nhân lực không ngừng tăng lên, cơ cấu ngày một phong phú, đa dạng và từng bước được hoàn thiện. CAND Đơn STT Năm 2000 Năm 2007 Năm 2012 237 300 562 1 129 179 210 2 40 41 0
  • 37. 3 68 80 0 4 0 0 322 5 0 0 30 268 354 375 6 62 92 112 7 105 135 130 8 30 37 42 9 52 68 72 10 19 22 19 505 654 937 Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND tăng trưởng về quy mô qua các năm. Nếu như năm 2000, số lượng cán bộ chiến sĩ công tác trong hệ thống báo chí CAND là 505, thì đến năm 2007 tăng lên 654. Quy mô số lượng nhân lực trong hệ thống báo chí CAND tăng mạnh hơn phải kể đến giai đoạn 2007-2012, từ 654 cán bộ chiến sĩ tăng lên 937 cán bộ chiến sĩ. Như vậy, giai đoạn 2000-2007 hệ thống báo chí CAND tăng 29,5% về số lượng cán bộ. Đây là giai đoạn các đơn vị trong hệ thống báo chí CAND tăng kỳ xuất bản, tăng số lượng phát hành, ra thêm ấn phẩm mới. Các báo: Công an Nhân dân, An ninh Thủ đô liên tục tăng kỳ từ một tuần 4 kỳ lên một tuần 5 kỳ, một tuần 6 kỳ và trở thành nhật báo ra hàng ngày. Đối với các báo còn lại như Công an Đà Nẵng, An ninh Hải Phòng, Công an TP.HCM việc tăng kỳ phát hành cũng diễn ra từ một tuần 2 kỳ lên một tuần 3 kỳ. Riêng Báo Công an Nghệ An không tăng kỳ xuất bản do cơ quan chủ quản trực tiếp của tờ báo này là Đảng ủy- Ban Giám đốc Công an tỉnh Nghệ An thấy rằng nguồn nhân lực tại chỗ chưa đáp ứng được việc mở rộng quy mô tòa soạn và mức tăng trưởng của thị trường báo chí khu vực Bắc Trung Bộ rất chậm, cũng bởi vậy giai đoạn này Báo Công an Nghệ An vẫn giữ vững số lượng phát hành, không tăng kỳ.
  • 38. Việc tăng kỳ xuất bản và trở thành nhật báo (từ năm 2006 đối với Báo An ninh Thủ đô, từ năm 2007 đối với Báo Công an Nhân dân) đã đòi hỏi các tòa soạn báo trong hệ thống báo chí CAND phải bố trí tuyển chọn tăng thêm nhân lực (phóng viên, biên tập viên, họa sĩ trình bày, nhân viên phát hành…) để phục vụ nhu cầu thông tin nóng hổi hơn tới bạn đọc. Có thể nói, đây là khoảng thời gian hoàng kim, phát triển sôi động nhất của loại hình báo in giữa bối cảnh kinh tế trong nước tăng trưởng cao và liên tục trước thời điểm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO vào năm 2007. Các báo trong hệ thống báo chí CAND giai đoạn này tăng liên tục số kỳ phát hành báo in, tăng liên tục số lượng phát hành báo in. Giai đoạn 2007-2012, hệ thống báo chí CAND tăng quy mô số lượng cán bộ 43,27%. Có thể lý giải nguyên nhân nguồn nhân lực báo chí CAND tăng trưởng mạnh về số lượng trong giai đoạn 2007-2012 bởi 2 lý do. Thứ nhất, bắt nhịp xu hướng báo chí trong nước và thế giới bắt đầu phát triển nóng loại hình truyền thông báo điện tử (cấp thấp hơn là trang thông tin điện tử) hay còn gọi là báo mạng, hệ thống báo chí CAND ra mắt hàng loạt trang thông tin điện tử, sau đó nâng cấp thành báo điện tử, như các báo: Công an Nhân dân, An ninh Thủ đô, Công an TP.HCM, An ninh Hải Phòng, Công an Đà Nẵng. Bắt đầu từ năm 2011, Bộ Công an có chủ trương thành lập Cổng thông tin điện tử Bộ Công an và giao cho Trung tâm Báo chí Bộ Công an- đơn vị trực thuộc Văn phòng Bộ (V11), chịu trách nhiệm nội dung và vận hành Cổng thông tin điện tử của Bộ Công an. Đây là một đơn vị báo chí mới và nhanh chóng khẳng định vị thế của mình trong hệ thống báo chí CAND, góp phần truyền tải nhanh chóng, kịp thời những định hướng, quan điểm, hoạt động của lãnh đạo Đảng ủy Công an Trung ương- lãnh đạo Bộ Công an, cung cấp những thông tin nóng nhất, mới nhất trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; đồng thời là mô hình giao tiếp hành chính điện tử giữa công dân với Bộ Công an… Trong giai đoạn 2007- 2012, riêng báo Công an Nghệ An không có sự mở rộng, thậm chí còn giảm
  • 39. bớt nguồn nhân lực (số lượng cán bộ chiến sĩ tăng 13,6% từ năm 2000 đến 2007, nhưng lại giảm bớt từ năm 2007 đến 2012 và trở lại mốc cũ vào năm 2012), không mở thêm báo điện tử hoặc trang thông tin điện tử với lý do không lo được kinh phí. Bộ máy tổ chức tờ báo- ban biên tập báo Công an Nghệ An có dấu hiệu kém năng động, trì trệ, ngại đổi mới. Thứ hai, cùng với báo điện tử thì hệ thống báo chí CAND có sự đầu tư lớn về truyền hình- một loại hình phương tiện truyền thông có sức mạnh truyền tải tổng hợp khi công chúng tiếp nhận được thông tin đồng thời cả âm thanh, hình ảnh tĩnh và động. Giai đoạn 2007-2012 đánh dấu việc sáp nhập Phát thanh CAND, Truyền hình CAND và cả Điện ảnh CAND vào làm một, cho ra đời Trung tâm phát thanh- truyền hình- điện ảnh CAND. Sau khi hợp nhất, đến tháng 6-2011, Bộ Công an có quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Trung tâm từ 5 đơn vị nâng lên 10 đơn vị trực thuộc, quân số tăng nhanh (166%), trong đó chủ yếu tuyển chọn mới từ các cơ quan báo chí ngoài ngành công an vào để bổ sung cho nguồn nhân lực báo chí CAND. Trong nửa cuối năm 2011, Trung tâm phát thanh- truyền hình- điện ảnh CAND đã nhanh chóng xây dựng và tổ chức hoạt động Kênh Truyền hình Công an Nhân dân ANTV, bắt đầu phát sóng từ ngày 11-12-2011 liên tục 24/24giờ (trên hệ thống tín hiệu cáp và tín hiệu vệ tinh truyền hình kỹ thuật số trả tiền VTVcab, AVG, SCTV…). Ở mức độ đầu tư nhỏ hơn, Báo An ninh Thủ đô bắt đầu ra mắt chương trình Truyền hình An ninh - ATV phát sóng hàng ngày kể từ năm 2010 với thời lượng ngắn 30 phút trên sóng của truyền hình địa phương (kênh H2 và kênh HiTV của Đài Truyền hình Hà Nội). Nguồn nhân lực của Báo An ninh Thủ đô trong giai đoạn 2007-2012 cũng tăng 21,74% do cần bổ sung nguồn nhân lực cho báo điện tử và truyền hình. *Cơ cấu nguồn nhân lực theo nhóm tuổi, giới tính: Độ tuổi 31-39 chiếm tỷ lệ cao nhất 42% nguồn nhân lực trong hệ thống CAND. Độ tuổi dưới 30 cũng chiếm tỷ lệ cao thứ hai với 37%. Đây là hai “độ tuổi vàng”, rất lý tưởng để có thể đáp ứng yêu cầu áp lực cao trong công tác,
  • 40. đồng thời có thể đáp ứng tốt những yêu cầu về tâm lý, sức khỏe, mức độ đáp ứng khi đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ bổ sung. Trên cơ sở này, có thể đề ra giải pháp đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND sẽ được đề cập ở chương 3 luận văn này. Tiếp theo, chúng ta xem xét thực trạng giới tính trong cơ cấu nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND vẫn được phân chia theo các mức lứa tuổi: Dưới 30, từ 31 đến 39, từ 40 đến 49 và trên 50. Qua khảo sát thực trạng cho thấy, lứa tuổi 31-39 có sự đột biến nữ giới nhiều hơn nam giới. Đây cũng là độ tuổi giới nữ cận trung niên, đạt độ chín về năng lực, sức khỏe, lòng say mê, nhiệt tình, tâm huyết với nghề báo. Ở các lứa tuổi khác, nam giới nhiều hơn nữ giới và là điều khá phổ biến khi khảo sát cán bộ trong lực lượng vũ trang, thường nhiều nam, ít nữ. Tuy nhiên, đặc thù đơn vị báo chí công an có tỷ lệ nữ nhiều hơn so với các đơn vị nghiệp vụ công an khác. 37% 42% 13% 8% D i 30 31-39 40-49 Trên 50
  • 41. 48.55% 53.21% 24.19% 15.38% 0.00% 10.00% 20.00% 30.00% 40.00% 50.00% 60.00% 70.00% 80.00% 90.00% D i 30 31-39 40-49 Trên 50 Nam N * Cơ cấu nguồn nhân lực theo biên chế: Bảng 2.2: Cơ cấu biên chế công an trong các đơn vị báo chí CAND Đơn vị tính: Người STT 222 39.50 340 60.50 562 1 92 43.81 118 56.19 210 2 105 32.61 217 67.39 322 3 25 83.33 5 16.67 30 144 38.40 231 61.60 375 4 34 30.36 78 69.64 112 5 40 30.77 90 69.23 130 6 22 52.38 20 47.62 42 7 31 43.06 41 56.94 72 8 17 89.47 2 10.53 19 m tỷ lệ lớn). Tỷ lệ sĩ quan trong biên chế ở cơ quan cấp bộ cũng như cấp địa phương khá tương đồng nhau. Cấp bộ có 39,5% trong biên chế, cấp địa phương là 38,40%. Trong khi, cấp bộ có 60,5% là cán bộ hợp đồng, cấp địa phương có 61,60%. Như vậy, số lượng cán bộ viên chức ngoài biên chế nhiều hơn khoảng 150% so với số lượng cán bộ trong biên chế được phong hàm sĩ quan.
  • 42. Bảng 2.3: Trình độ học vấn của nguồn nhân lực báo chí CAND Đơn vị tính: người T T 1 15 7.14 % 10 4.76% 181 86.19% 4 1.90% 2 8 2.48 % 51 15.84% 255 79.19% 8 2.48% 3 2 6.67 % 1 3.33% 25 83.33% 2 6.67% 4 9 8.04 % 7 6.25% 90 80.36% 6 5.36% 5 10 7.69 % 6 4.62% 110 84.62% 4 3.08% 6 5 11.9 % 1 2.38% 35 83.33% 1 2.38% 7 6 8.33 % 4 5.56% 60 83.33% 2 2.78% 8 1 5.26 % 2 10.53% 16 84.21% 0 0.00% 56 82 772 27 Xem xét về trình độ học vấn của nguồn nhân lực qua số liệu bảng 2.3 cho thấy, số lao động phổ thông tại các đơn vị báo chí CAND đều gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất các sản phẩm truyền thông, không tham gia trực tiếp. Đó là các bộ phận bảo vệ, tạp vụ, lái xe. Còn lại, trên 80% có trình độ Đại học. Đây cũng là một trong những yêu cầu khi tuyển dụng nguồn nhân lực làm việc trực tiếp tạo ra các sản phẩm báo chí. Riêng Trung tâm phát thanh- truyền hình và điện tử CAND có số cán bộ tốt nghiệp cao đẳng/trung cấp nhỉnh hơn bình thường (tỷ lệ 15,84%) bởi đây là lao động làm công tác
  • 43. quay phim, dựng hình, hậu kỳ truyền hình, phát thanh thường tốt nghiệp cao đẳng truyền hình, cao đẳng Công nghệ thông tin. Số lượng cán bộ có trình độ trên đại học chưa cao, đều ở mức dưới 7%, thậm chí có đơn vị không có cán bộ nào trình độ trên đại học. Xét ở góc độ nghiệp vụ báo chí: thực trạng mới có dưới 30% cán bộ đã tốt nghiệp đại học báo chí làm việc trong hệ thống báo chí CAND. Việc tuyển chọn cán bộ với yêu cầu phải có năng khiếu báo chí, cũng không nhất thiết phải có bằng đại học báo chí. Tiếp đó, số lượng cán bộ được đào tạo bổ sung nghiệp vụ báo chí cũng khá khiêm tốn và phổ biến ở mức 10%, riêng Cổng thông tin điện tử Bộ Công an có 30% được đào tạo bổ sung nghiệp vụ báo chí, đây là một tín hiệu đáng chú ý, khi nguồn cán bộ Cổng thông tin điện tử Bộ Công an được chú trọng công tác bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí. Cũng bởi vậy, trừ Cổng thông tin điện tử Bộ Công an, các đơn vị báo chí công an khác đều có tỷ lệ cán bộ chưa qua đào tạo nghiệp vụ báo chí vượt trên mức 63% (xem thêm bảng số liệu ở Phụ lục 1). Điều này đòi hỏi các giải pháp ở phần sau phải tính đến chiến lược đào tạo, liên kết đào tạo nghiệp vụ báo chí. được đào tạo chính quy nghiệp vụ công an chỉ chiếm tỷ lệ khiêm tốn thường là dưới 20% (trừ Cổng thông tin điện tử Chính phủ và Báo Công an Nghệ An). Do số lượng biên chế CAND trong các đơn vị báo chí công an thường chỉ chiếm 30-40%, nên tỷ lệ được bồi dưỡng bổ sung nghiệp vụ công an (mức sơ cấp, trung cấp) cũng không thể cao, vì thường phải trong biên chế CAND mới học nghiệp vụ công an, ngoài biên chế thì không thuộc diện đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện bổ sung về nghiệp vụ công an (theo quy định của Tổng cục Xây dựng lực lượng). Đây cũng là một khó khăn cần tính đến để giải quyết điểm nghẽn trong trình độ nghiệp vụ công an đối với nguồn nhân lực báo chí CAND (xem thêm bảng số liệu ở Phụ lục 2). Nội dung phát triển chất lượng đội ngũ cán bộ báo chí luôn được lãnh đạo Bộ Công an, Tổng cục XDLL quan tâm, trong đó công tác đào tạo, bồi dưỡng, được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Trong thời gian từ năm 2000 tới nay, công tác đào tạo, bồi dưỡng trong hệ thống báo chí CAND
  • 44. từng bước có thay đổi, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập cũng như mục tiêu phát triển đội ngũ cán bộ. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay, hệ thống báo chí CAND tập trung đào tạo, bồi dưỡng sơ cấp về pháp luật, nghiệp vụ công an (trong khoảng thời gian từ 6 đến 9 tháng mỗi khóa) cho 260 cán bộ tuyển dụng từ ngành ngoài vào biên chế báo chí công an. Số liệu năm 2012 của Tổng cục XDLL cho thấy, số lượng cán bộ đã được đào tạo bổ sung nghiệp vụ công an hiện công tác trong hệ thống báo chí là 239 người. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng chủ yếu được thực hiện bởi Học viện An ninh Nhân dân (T31), Học viện Cảnh sát Nhân dân (T32), Đại học Cảnh sát Nhân dân (T48), Đại học Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy (T34), Đại học An ninh Nhân dân (T47) với các môn học, chuyên đề chuyên ngành về pháp luật, nghiệp vụ công an. Tuy nhiên, dù chiếm tỷ lệ cao trong tổng số cán bộ, nhưng cán bộ viên chức ngoài biên chế vì chưa là sĩ quan nên theo quy định chưa thể bố trí đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ công an. Đây là điểm nghẽn lớn trong công tác đào tạo, bố trí sử dụng, khi nhiều cán bộ báo chí công an lại chưa hề có kiến thức nghiệp vụ công an. Giai đoạn từ năm 2007 đến nay, hệ thống báo chí CAND bắt đầu chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ báo chí. Do hệ thống nhà trường trong công an chưa có nội dung đào tạo nghiệp vụ báo chí, nên cán bộ muốn đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ này phải dự tuyển ở các trường có chuyên ngành báo chí, như: Học viện Báo chí và tuyên truyền thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa báo chí ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH Đà Nẵng, ĐH Quốc gia TP.HCM, Học viện bưu chính viễn thông, các trường cao đẳng truyền thông- truyền hình, Học viện Bưu chính Viễn thông. Một số công việc chuyên biệt phục vụ cho báo chí, như: mỹ thuật, trình bày báo, sáng tác ảnh- hình ảnh, quay phim, đạo diễn sân khấu, thiết kế sân khấu…, thì cán bộ phải dự tuyển ở các trường Đại học Mỹ thuật, Đại học Mỹ thuật Công nghiệp, Đại học Mỹ thuật TP.HCM, Đại học Kiến trúc, Đại học Sân khấu – Điện ảnh. Các khóa đào tạo thường phải phối hợp theo mô hình Liên Chi hội Nhà báo Bộ Công an cùng Hội Nhà báo Việt Nam đứng ra tổ chức (đối với các đơn vị báo chí cấp Bộ Công an) hoặc Hội Nhà báo các tỉnh, thành phố đứng ra tổ chức
  • 45. (đối với các đơn vị báo chí cấp công an địa phương). Do đó, không phải năm nào hệ thống báo chí công an cũng chủ động mở được liên tục các khóa đào tạo nghiệp vụ báo chí cho ngành công an mà phải chờ có đủ cơ số học viên cho mỗi khóa thì mới tổ chức, thường khoảng 3-5 năm mới tổ chức được 1 khóa mới, số lượng cán bộ tham gia cũng không thể ồ ạt đi học cùng lúc. Như vậy, công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí cũng tồn tại điểm nghẽn, do bị động trong khâu tổ chức lớp học. ác nghiệp thử. Trong quá trình tác nghiệp thử (khoảng 3 tháng) và sau đó (nếu được ký hợp đồng lao động) các phóng viên, biên tập viên, họa sĩ… được rèn luyện về kỹ năng mềm. Các kỹ năng được trau dồi liên tục trong hệ thống báo chí CAND như: tế. Trước thực trạng đội ngũ cán bộ báo chí công an còn hạn chế về kỹ năng, nghiệp vụ, phương pháp tác phong công tác và đang dần dần được đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện bổ sung, các đơn vị báo chí công an đã lựa chọn hình thức nội dung bồi dưỡng nâng cao trình độ nhận thức tương đối phù hợp. Quan điểm chủ yếu được các cơ quan báo chí áp dụng khi tiến hành khi tiến hành bồi dưỡng cán bộ báo chí công an là “Lý thuyết đi đôi với thực hành, lấy thực hành làm chính”; “Yếu gì bồi dưỡng đó”. Nội dung bồi dưỡng chủ yếu tập trung vào những vấn đề căn bản và cụ thể sau: (1) Nâng cao nhận thức về lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống của CAND; (2) Bồi dưỡng nâng cao nhận thức về quan điểm chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước trên mọi lĩnh vực, nhất là về bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; (3) Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng tư tưởng, củng cố niềm tin, ý chí, rèn luyện phẩm chất chính trị, nâng cao cảnh giác cách mạng trên mặt trận văn hóa- tư tưởng; (4) Tích cực học tập và làm theo Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện tốt Cuộc vận động CAND chấp hành nghiêm Điều lệnh, xây dựng nếp sống văn hóa vì nhân dân phục