Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu ở nước ta hiện nay, cho các bạn tham khảo làm luận văn
Đề tài: Biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu ở nước ta
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN TIẾN ĐẠT
C¸C BIÖN PH¸P PH¸P Lý CHèNG THÊT THU THUÕ NHËP KHÈU
ë N¦íC TA HIÖN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN TIẾN ĐẠT
C¸C BIÖN PH¸P PH¸P Lý CHèNG THÊT THU THUÕ NHËP KHÈU
ë N¦íC TA HIÖN NAY
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN
HÀ NỘI - 2016
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Tiến Đạt
4. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ NHẬP KHẨU
VÀ BIỆN PHÁP PHÁP LÝ CHỐNG THẤT THU THUẾ
NHẬP KHẨU ...................................................................................... 4
1.1. Những vấn đề lý luận về thuế nhập khẩu......................................... 4
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thuế nhập khẩu ......................................... 4
1.1.2. Vai trò của thuế nhập khẩu ................................................................... 6
1.1.3. Vấn đề thất thu thuế nhập khẩu và sự cần thiết phải chống thất thu
thuế nhập khẩu ....................................................................................10
1.2. Những vấn đề lý luận về biện pháp pháp lý chống thất thu
thuế nhập khẩu..................................................................................13
1.2.1. Khái niệm và đặc trưng của biện pháp pháp lý...................................13
1.2.2. Các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu .......................16
1.3. Cơ sở pháp lý của việc áp dụng các biện pháp pháp lý chống
thất thu thuế nhập khẩu ở Việt Nam ..............................................19
1.3.1. Các quy định về nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu...................................19
1.3.2. Các quy định về biện pháp chống thất thu thuế nhập khẩu................24
Kết luận chương 1 .........................................................................................41
5. Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC BIỆN PHÁP PHÁP LÝ
CHỐNG THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.......................................................................42
2.1. Thực tiễn thực hiện các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế
nhập khẩu ở Việt Nam......................................................................42
2.1.1. Thực tiễn thực hiện biện pháp ban hành các quy định về chống
thất thu thuế nhập khẩu.......................................................................42
2.1.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp thanh tra, kiểm tra; xử lý vi phạm
nghĩa vụ thuế nhập khẩu và buộc bồi thường thiệt hại.......................48
2.1.3. Đánh giá kết quả thực hiện các biện pháp pháp lý chống thất thu
thuế nhập khẩu ở Việt Nam ................................................................56
2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng áp dụng các
biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu ở Việt Nam........74
2.2.1. Hoàn thiện pháp luật về chống thất thu thuế nhập khẩu.....................74
2.2.2. Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra; xử lý vi phạm
nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu ..............................................................81
2.2.3. Tăng cường công tác thu hồi nợ thuế nhập khẩu................................86
2.2.4. Nâng cao ý thức pháp luật của người dân và cán bộ, công chức........87
Kết luận chương 2 .........................................................................................89
KẾT LUẬN....................................................................................................90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................92
6. DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 1.1: Mức độ đóng góp vào ngân sách Nhà nước từ hoạt
động xuất nhập khẩu
7
Biểu đồ 1.2: Kim ngạch xuất nhập khẩu 8
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với quốc gia có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, thuế
nhập khẩu đóng góp rất lớn vào nguồn thu ngân sách Nhà nước, đồng thời
cũng là một trong các phương tiện để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý
của mình. Tuy nhiên, đây cũng là một môi trường thu hút nhiều gian lận
thương mại do lợi ích của nó đem lại rất lớn. Trong bối cảnh quá trình hội
nhập kinh tế thế giới đang diễn ra trên phạm vi rộng lớn và sâu sắc. Ngày
càng có nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại với Việt Nam,
nhờ đó mà kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam những năm vừa qua
không ngừng tăng lên nhanh chóng cả về số quy mô, loại hình xuất nhập khẩu
và mặt hàng xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, song song với nó là sự phát triển của
các thủ đoạn gian lận thương mại, trốn thuế ngày càng tinh vi và phức tạp.
Bên cạnh đó, còn có nhiều nguyên nhân khác về chính sách và quản lý gây
thất thu thuế nhập khẩu cho ngân sách Nhà nước, từ đó gây ảnh hưởng tiêu
cực đến nhiều mặt của một quốc gia. Đặc biệt đối với Việt Nam có nhu cầu
nhập khẩu lớn, do vậy thất thu thuế nhập khẩu đối với nước ta càng là vấn đề
nổi cộm hơn. Do đó, việc tìm ra các giải pháp để chống thất thu thuế nhập
khẩu là một trong những nội dung hết sức quan trọng, cần thiết và cấp bách
hiện nay. Mỗi quốc gia đều cố gắng áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để
chống thất thu thuế nhập khẩu, trong đó có các biện pháp pháp lý. Đây là lý
do để tôi quyết định chọn đề tài “Các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế
nhập khẩu ở nước ta hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, thuế nhập khẩu đóng vai trò cung cấp tỷ lệ lớn nguồn thu
của ngân sách Nhà nước hàng năm, đồng thời là một trong các phương tiện để
8. 2
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình. Tuy nhiên, thực tế cho thấy
hiện nay tình trạng thất thu thuế nhập khẩu đang có những diễn biến phức tạp,
thông qua nhiều hình thức khác nhau, trong đó chủ yếu là đối tượng nộp thuế
lợi dụng kẽ hở của pháp luật để có hành vi gian lận nhằm trốn thuế nhập khẩu.
Trong tình hình thu thuế nhập khẩu còn nhiều bất cập như hiện nay, đã
có một số đề tài nghiên cứu về chống thất thu thuế nhập khẩu như:
- “Chống gian lận thương mại qua giá trong hoạt động nhập khẩu ở
Việt Nam” Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Thủy (Năm 2008).
- “Đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu ở nước ta - thực trạng và
giải pháp” Luận văn thạc sỹ của Hoàng Anh Tuấn (Năm 2003).
- "Thất thu thuế qua mã số hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại cục Hải
quan tỉnh Hà Giang" Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Bích Thủy (Năm 2015)
- "Trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế đối với các hành vi vi
phạm pháp luật hải quan về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu" Luận văn thạc
sỹ của Đào Thịnh Vinh (Năm 2011).
Có thể nhận thấy, mặc dù có khá nhiều nghiên cứu liên quan đến thuế
nhập khẩu nhưng đề tài nghiên cứu về các biện pháp pháp lý chống thất thu
thuế nhập khẩu thì chưa nhiều, chưa nhận được sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu ở trong và ngoài nước, đặc biệt là các đề tài nghiên cứu dưới dạng
luận văn thạc sĩ luật học. Vì thế, đây là cơ hội để tác giả lựa chọn và thực hiện
đề tài này trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm phân tích, làm rõ một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập
khẩu, trên cơ sở đó kiến nghị các giải pháp khắc phục những bất cập còn tồn
tại, đảm bảo nguồn thu từ thuế nhập khẩu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm, học thuyết về thuế
9. 3
nhập khẩu và các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu; các quy
định pháp luật về thuế nhập khẩu và những giải pháp cần thiết để hạn chế tình
trạng thất thu thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào các vấn đề lý luận và vấn
đề thực tiễn liên quan đến các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập
khẩu ở Việt Nam hiện nay.
4. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn là một tài liệu tham khảo cần thiết và
bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu,
các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh
viên thuộc chuyên ngành Luật kinh tế tại các cơ sở đào tạo luật.
Luận văn có thể được dùng như một nguồn tham khảo cho việc sửa đổi,
bổ sung pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện đề tài này, luận văn dựa trên phương pháp luận của học
thuyết Mác – Lênin, các quan điểm, chính sách pháp luật của Nhà nước về
các vấn đề có liên quan, phân tích sự việc trong sự biến động gắn với điều
kiện lịch sử cụ thể và sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp
phân tích, đánh giá, tổng hợp, diễn giải; phương pháp thống kê; phương pháp
so sánh đối chiếu… nhằm giải quyết các yêu cầu đặt ra của đề tài nghiên cứu.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được thiết kế thành 2 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thuế nhập khẩu và biện pháp pháp
lý chống thất thu thuế nhập khẩu.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện các biện pháp pháp lý chống thất thu
thuế nhập khẩu ở Việt Nam và một số kiến nghị
10. 4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ NHẬP KHẨU VÀ BIỆN PHÁP
PHÁP LÝ CHỐNG THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU
1.1. Những vấn đề lý luận về thuế nhập khẩu
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thuế nhập khẩu
Theo quan niệm chung, thuế là khoản đóng góp bắt buộc bằng tiền mà
các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước để cung cấp
nguồn tài chính cho Nhà nước thực hiện chức năng của mình. Nhà nước đặt ra
nhiều sắc thuế khác nhau áp dụng đối với từng lĩnh vực từng đối tượng, trong
đó có thuế nhập khẩu. Trong cấu trúc hệ thống thuế ở mỗi quốc gia, thuế nhập
khẩu có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng đặc biệt khi hoạt động buôn bán trao
đổi hàng hoá giữa các quốc gia ngày càng phát triển. Có nhiều cách hiểu khác
nhau về khái niệm thuế nhập khẩu, tùy thuộc vào từng góc độ tiếp cận.
Xét về phương diện kinh tế, thuế nhập khẩu là khoản đóng góp bằng
tiền của tổ chức, cá nhân vào ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp
luật, khi họ có hành vi nhập khẩu hàng hóa qua biên giới quốc gia. Với cách
tiếp cận này, thuế nhập khẩu được hiểu như là một quan hệ phân phối các
nguồn lực tài chính, phát sinh giữa các chủ thể là tổ chức, cá nhân nộp thuế
với người thu thuế là Nhà nước. Thuế nhập khẩu được sử dụng như một đòn
bẩy kinh tế để Nhà nước điều tiết quá trình sản xuất, tiêu dùng trong phạm vi
quốc gia và gián tiếp chi phối hoạt động kinh tế quốc tế [57, tr. 57 - 58].
Xét về phương diện pháp lí, thuế nhập khẩu là quan hệ pháp luật phát
sinh giữa tổ chức, cá nhân (người nộp thuế) và Nhà nước (người thu thuế) về
việc tạo lập và thực hiện quyền, nghĩa vụ cho các bên trong quá trình hành thu
thuế nhập khẩu. Quan hệ pháp luật này có cơ sở pháp lý là các quy định pháp
luật thuế nhập khẩu mà hậu quả pháp lí chủ yếu là làm phát sinh quyền thu
11. 5
thuế cho Nhà nước và nghĩa vụ đóng thuế của các tổ chức, cá nhân. Với cách
tiếp cận này, ta thấy rõ hơn bản chất của thuế nói chung và thuế nhập khẩu
nói riêng, thực chất là quyết định hành chính đơn phương của quốc gia đối
với người nộp thuế. Qua đây, Nhà nước sẽ có những chính sách thuế nhập
khẩu phù hợp hơn với quyền lợi của Nhà nước và người đóng thuế, giữa các
quốc gia trong quan hệ kinh tế [57, tr. 58 – 59].
Theo quy định tại Điều 1 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm
2005 thì thuế nhập khẩu có thể hiểu là loại thuế đánh vào hàng hóa được nhập
khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam; hàng hóa mua bán, trao đổi của cư
dân biên giới và hàng hóa mua bán, trao đổi khác được coi là hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu.
Xét về phương diện lý thuyết, ngoài những đặc điểm chung của thuế thì
thuế nhập khẩu còn có một số đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, thuế nhập khẩu có đối tượng chịu thuế là các hàng hóa được
phép vận chuyển qua biên giới. Khái niệm “hàng hóa” là đối tượng chịu thuế
nhập khẩu bao gồm các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng được phép lưu thông
trên thị trường bằng cách chuyển vào hoặc chuyển ra khỏi biên giới của một
nước. Các loại hàng hóa vô hình như phần mềm, dịch vụ tuy được xuất, nhập
khẩu trên thực tế giữa các nước nhưng hầu như pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu của các quốc gia đều không quy định đó là đối tượng chịu thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu. Nguyên nhân chủ yếu là do sự khó kiểm soát của Nhà
nước đối với hành vi xuất, nhập khẩu loại hàng hóa vô hình này [57, tr. 61].
Thứ hai, thuế nhập khẩu không hoàn toàn là thuế trực thu hoặc thuế
gián thu. Điều này thể hiện ở chỗ, nếu nhà nhập khẩu nộp thuế nhập khẩu và
tự tiêu dùng số hàng hóa nhập khẩu đó chứ không bán ra thì khoản thuế nhập
khẩu đã nộp có tính chất là thuế trực thu. Còn nếu nhà nhập khẩu đã nộp xong
thuế nhập khẩu và bán lại số hàng hóa đó cho người khác thì số tiền thuế nhập
12. 6
khẩu đã nộp có xu hướng chuyển sang cho người mua hàng chịu, vì vậy
khoản thuế nhập khẩu đã nộp có tính chất là thuế gián thu [57, tr. 61 – 62].
Thứ ba, thuế nhập khẩu gắn liền với hoạt động kinh tế đối ngoại của
mỗi quốc gia trong từng thời kỳ. Thuế nhập khẩu là công cụ góp phần thực
hiện vai trò quản lý, kiểm soát hoạt động ngoại thương và bảo hộ sản xuất
trong nước. Chức năng này của thuế nhập khẩu thể hiện sự khác biệt căn bản
với các loại thuế nội địa khác như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng,
thuế thu nhập… Tuy nhiên, quá trình hội nhập thế giới và tự do hóa thương
mại ngày càng phát triển, nên chức năng bảo hộ sản xuất trong nước của thuế
nhập khẩu ngày càng mờ nhạt. Do đó, ranh giới để phân biệt giữa thuế nhập
khẩu và thuế nội địa sẽ trở nên rất mong manh, thậm chí có thể không còn tồn
tại khi mà tự do hóa thương mại hoàn toàn trên thế giới [57, tr. 62].
1.1.2. Vai trò của thuế nhập khẩu
Lịch sử phát triển của ngành ngoại thương đã chứng minh rằng thuế nói
chung và thuế nhập khẩu nói riêng có vai trò rất quan trọng đối với Nhà nước
và nền kinh tế cũng như các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vai trò
này được thể hiện ở những khía cạnh cơ bản sau đây:
Thứ nhất, thuế nhập khẩu là công cụ tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà
nước hàng năm. Thuế luôn là nguồn thu chính và quan trọng nhất của ngân
sách Nhà nước trong bất kỳ quốc gia nào. Tuy nhiên, tùy thuộc vào mỗi thời
kỳ phát triển kinh tế mà mỗi quốc gia có những chính sách thuế quan khác
nhau. Trong cơ cấu thuế, thuế nhập khẩu có đặc trưng là đánh vào các hàng
hóa nhập khẩu. Chính vì vậy, với các nước phát triển có kim ngạch nhập khẩu
thấp thì nguồn thu từ thuế nhập khẩu chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu ngân
sách Nhà nước. Đối với các nước đang phát triển nói chung và ở nước ta nói
riêng, thuế nhập khẩu luôn chiếm một tỉ trọng đáng kể trong tổng thu ngân
sách Nhà nước.
13. 7
Qua các số liệu thống kê sau, ta có thể thấy thuế nhập khẩu đóng góp
rất lớn vào ngân sách Nhà nước hàng năm ở Việt Nam:
Biểu đồ 1.1: Mức độ đóng góp vào ngân sách Nhà nước
từ hoạt động xuất nhập khẩu
(Nguồn: Bộ Tài chính (2009 – 2013), Công khai số liệu quyết
toán ngân sách nhà nước; trang web http://www.mof.gov.vn/).
Nhìn vào Biểu đồ 1.1 trên, chúng ta thấy mức độ đóng góp vào ngân
sách từ hoạt động xuất nhập khẩu luôn chiếm trên 10%, có những năm đạt tới
16,51% (năm 2009), thấp nhất là năm 2012 cũng đạt tới 10,34%. Mặc dù có
những thay đổi nhưng nguồn thu từ thuế nhập khẩu luôn đóng góp một phần
đáng kể vào ngân sách Nhà nước. Ta thấy mức độ đóng góp vào ngân sách từ
hoạt động xuất nhập khẩu có giảm dần qua các năm. Nguyên nhân của thực
trạng này là do sự phát triển của các nguồn thu ngân sách Nhà nước khác chứ
không phải thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bị giảm. Ngược lại, ta
có thể thấy mức độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu qua biểu đồ sau:
14. 8
0
50
100
150
200
250
300
2009 2010 2011 2012 2013
Tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu
Kim ngạch xuất khẩu
Kim ngạch nhập khẩu
Biểu đồ 1.2: Kim ngạch xuất nhập khẩu (đơn vị: tỷ USD)
(Nguồn: Thống kê Hải quan (2009 – 2013), Tình hình xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hóa của Việt Nam; website: www.customs.gov.vn).
Vậy, qua đây ta có thể thấy vai trò đóng góp vào ngân sách Nhà nước
của thuế nhập khẩu, đặc biệt với tình hình kinh tế nước ta đang có nhu cầu
nhập khẩu lớn.
Thứ hai, thuế nhập khẩu góp phần bảo hộ sản xuất trong nước và
khuyến khích sản xuất trong nước. Thuế nhập khẩu đánh vào các hàng hóa
nhập khẩu và được cấu thành trong giá cả của hàng hóa đó nên thuế nhập
khẩu có vai trò đặc thù là bảo hộ nền sản xuất trong nước, chống lại xu hướng
cạnh tranh không cân sức giữa hàng hóa nội địa và hàng ngoại nhập. Cụ thể
là, hàng hóa nhập khẩu do bị đánh thuế nhập khẩu nên giá cả trên thị trường
nước nhập khẩu sẽ tăng lên. Trong khi đó, giá của hàng hóa trong nước
thường thấp hơn do không phải chịu thuế nhập khẩu hoặc chỉ chịu phần thuế
nhập khẩu cho nguyên liệu đầu vào. Vì vậy, hàng hóa trong nước có sức cạnh
tranh lớn hơn hàng ngoại nhập. Bên cạnh đó, việc đánh thuế nhập khẩu thấp
15. 9
đối với một số mặt hàng như máy móc, tư liệu, thiết bị sản xuất… là những
hàng hóa tác động trực tiếp đến đầu vào quá trình sản xuất giúp cho doanh
nghiệp sản xuất trong nước có điều kiện đổi mới công nghệ, giảm giá thành,
nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa
sản xuất trong nước. Tóm lại, thuế nhập khẩu tạo ra một môi trường sản xuất,
kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước, đồng thời là bước
đệm để các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh khi bước
vào thị trường quốc tế [1, tr. 8 - 9].
Đối với Việt Nam - một nền kinh tế còn đang phát triển, các doanh
nghiệp trong nước còn non trẻ do vậy việc bảo hộ sản xuất là rất cần thiết.
Tuy nhiên, ta cần phải khẳng định, Việt Nam không lấy chính sách bảo hộ
làm chiến lược phát triển lâu dài. Chúng ta có chính sách bảo hộ ở từng thời
kỳ, ở từng vùng và từng ngành nghề khác nhau. Mục đích chính của bảo hộ
tạo cơ sở cho các doanh nghiệp trong nước có thời gian để học hỏi kinh
nghiệm, tiếp thu khoa học công nghệ của nước ngoài, cải thiện tình hình sản
xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta bảo
hộ ở những lĩnh vực cần thiết, mũi nhọn đặc biệt cần sự hỗ trợ của Nhà nước
và việc bảo hộ cũng chỉ trong một thời hạn nhất định. Mục tiêu cuối cùng của
Việt Nam vẫn là tiến tới hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa thương mại.
Thứ ba, thuế nhập khẩu góp phần kiểm soát hàng nhập khẩu và định
hướng người tiêu dùng. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay, việc
mua bán, trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia ngày càng phát triển, dưới nhiều
hình thức, đa dạng về chủng loại hàng hóa, có hàng hóa phục vụ nhu cầu thiết
yếu, nhưng cũng có loại hàng hóa bị hạn chế lưu thông… Do đó, thông qua
việc kiểm tra và thu thuế nhập khẩu, Nhà nước có thể nắm được tình hình
hàng hóa nhập khẩu. Qua đó, Nhà nước kiểm soát được các loại hàng hóa
nhập khẩu, để có sự điều chỉnh chính sách nhập khẩu hàng hóa kịp thời và
16. 10
phù hợp với thực tiễn. Đồng thời, việc đánh thuế nhập khẩu cao hay thấp đối
với mỗi loại hàng hóa cũng là định hướng cho người tiêu dùng khuyến khích
sử dụng loại mặt hàng nào và hạn chế sử dụng loại mặt hàng nào.
Thứ tư, thuế nhập khẩu góp phần thực hiện chính sách đối ngoại của
đất nước trong thời kỳ hội nhập. Điều đó thể hiện ở chỗ, trong giai đoạn hội
nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, việc các nước ký kết với nhau các hiệp
định thương mại thuế quan diễn ra ngày càng phổ biến. Do đó, Nhà nước có
sự phân biệt khu vực thuế cho từng nước có hiệp định thương mại với nước
mình và đối với từng mặt hàng cụ thể. Trên cơ sở đó, Nhà nước áp dụng các
loại thuế suất: thuế suất thông thường, thuế suất ưu đãi và thuế suất ưu đãi đặc
biệt. Ngược lại, mọi hành động phân biệt đối xử của nước ngoài với hàng hóa
Việt Nam nếu làm tổn hại đến nền sản xuất trong nước đều phải chịu các biện
pháp trả đũa thông qua áp dụng thuế nhập khẩu bổ sung [1, tr. 7 - 8].
Tóm lại, đối với một nước đang phát triển như Việt Nam thì thuế nhập
khẩu có vai trò vô cùng quan trọng. Chính vì lẽ đó, vấn đề chống thất thu thuế
có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế nước nhà. Để làm được điều này, trước
hết, chúng ta cần phải hiểu được thất thu thuế nhập khẩu là gì, nguyên nhân
và ảnh hưởng của thất thu thuế nhập khẩu đối với một quốc gia.
1.1.3. Vấn đề thất thu thuế nhập khẩu và sự cần thiết phải chống thất
thu thuế nhập khẩu
Trước hết, cần phải hiểu quan niệm như thế nào về thất thu thuế
nhập khẩu?
Trong bất kỳ quốc gia nào, Nhà nước thu thuế là để cung cấp nguồn tài
chính cho việc thực hiện chức năng của mình. Nhà nước chi ngân sách càng
nhiều thì nhu cầu thu thuế càng cao để bù đắp vào chi phí đó. Vì vậy Nhà
nước luôn mong muốn thu đủ thuế, trong khi người nộp thuế (các tổ chức, cá
nhân kinh doanh) đều mong muốn giảm số thuế phải nộp càng nhiều càng tốt.
17. 11
Điều này cho thấy trong nền kinh tế luôn tồn tại mâu thuẫn lợi ích giữa một
bên là Nhà nước và một bên là các doanh nghiệp kinh doanh. Do đó, việc các
tổ chức, cá nhân kinh doanh nói chung và doanh nghiệp nhập khẩu nói riêng
tìm cách trốn thuế thường xuyên xảy ra. Nhà nước tuy có biện pháp ngăn
chặn trốn thuế nhưng không thể triệt để được. Chính điều này là nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến tình trạng Nhà nước bị thất thu thuế.
Theo quan niệm này, có thể hiểu thất thu thuế nhập khẩu là tình trạng
Nhà nước không thu đủ số thuế nhập khẩu theo kế hoạch thu ngân sách Nhà
nước hàng năm, do người nộp thuế không nộp đúng, nộp đủ số thuế nhập
khẩu theo quy định của pháp luật thuế nhập khẩu.
Tình trạng thất thu thuế nhập khẩu bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác
nhau, trong đó có một nguyên nhân sâu sa là Luật thuế xuất nhập khẩu đã được
ban hành không lường trước được những sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa
vụ nộp thuế nhập khẩu trong nền kinh tế để có thể dự liệu trước trong luật. Việc
không tính hết hay không dự liệu hết được các tình huống thực tiễn là luôn tồn
tại ở mỗi quốc gia bởi nền kinh tế luôn luôn vận động và biến đổi. Điều đó cho
thấy rằng để giảm thất thu thuế nói chung và thuế nhập khẩu nói riêng thì khi
hoạch định chính sách thuế cần có sự nghiên cứu một cách khoa học và tiên
liệu trước các tình huống có thể xảy ra trong nền kinh tế.
Sự cần thiết phải chống thất thu thuế nhập khẩu thể hiện qua những lý
do cơ bản sau đây:
Thứ nhất, theo sự phát triển của nền kinh tế - xã hội thì nhu cầu chi tiêu
của Nhà nước ngày càng tăng lên. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách
Nhà nước nên nếu thất thu thuế thì ngân sách Nhà nước sẽ bị mất cân đối,
theo hướng các khoản thu không đủ để đáp ứng nhiệm vụ chi của Nhà nước.
Mặt khác, tình trạng thất thu thuế có thể khiến môi trường kinh doanh trở nên
bất bình đẳng, có sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các nhà kinh doanh với
18. 12
nhau. Sự bất bình đẳng thể hiện ở chỗ, bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn
chân chính, thực hiện tốt nghĩa vụ về thuế và tuân thủ chế độ quyết toán thuế
thì vẫn có những doanh nghiệp khác lợi dụng sự lỏng lẻo trong quản lý thuế
để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế nhằm mưu lợi cho mình. Như vậy, thất thu
thuế đã góp phần khiến cho môi trường cạnh tranh không công bằng, không
lành mạnh. Điều này sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế và ảnh hưởng đến
quyền lợi của người tiêu dùng.
Thứ hai, từ những bất ổn về kinh tế, thất thu thuế sẽ tác động xấu về
mặt xã hội. Ngày nay, hầu hết các Nhà nước đều đã quan tâm nhiều đến chính
sách xã hội, công bằng xã hội. Đặc biệt đối với nước ta đang phấn đấu thực
hiện mục tiêu chủ nghĩa xã hội thì đây là một trong những ưu tiên hàng đầu.
Do đó, nguồn thu thuế một phần luôn được sử dụng để chi cho phúc lợi xã
hội, an sinh xã hội, chi cho các chương trình mục tiêu để hỗ trợ những người
có thu nhập thấp, những người thuộc diện chính sách, khó khăn… luôn chiếm
một tỷ lệ không nhỏ trong tổng chi ngân sách Nhà nước. Ý nghĩa của việc chi
cho chính sách xã hội là để đảm bảo công bằng xã hội, giảm sự chênh lệch
giàu nghèo mà đây là yếu tố gây mất ổn định xã hội.
Thứ ba, việc ban hành một chính sách thuế, pháp luật thuế tốt là chưa
đủ nếu như không được thực thi đúng trong thực tế. Nếu để thực trạng thất thu
thuế xảy ra phổ biến thì ý thức tự giác nộp thuế của người dân cũng như ý
thức về trách nhiệm thu thuế của cơ quan Nhà nước sẽ trở nên rất kém. Dần
dần dẫn đến tình trạng người dân coi thường pháp luật, cán bộ tham nhũng,
tiếp tay cho kẻ vi phạm. Thực tế đã có vụ việc doanh nghiệp và quan chức
Nhà nước cấu kết với nhau gây thất thu thuế. Do vậy vấn đề ý thức tuân thủ
pháp luật, đạo đức nghề nghiệp đối với người nộp thuế và cơ quan Nhà nước
là rất quan trọng.
Thứ tư, đối với một quốc gia, thuế nhập khẩu có vai trò đặc biệt quan
19. 13
trọng, trong đó có vai trò tạo nguồn thu ngân sách Nhà nước, kiểm soát hàng
nhập khẩu, góp phần thực hiện chính sách đối ngoại của đất nước, góp phần
bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước. Do đó, thất thu thuế nhập khẩu
sẽ hạn chế vai trò của thuế nhập khẩu.
Qua những phân tích trên, có thể khẳng định hiện tượng thất thu thuế
nhập khẩu ảnh hưởng rất lớn đến nhiều mặt của mỗi quốc gia. Do vậy, cần có
những biện pháp đúng đắn và kịp thời để ngăn chặn, giảm thiểu tình trạng thất
thu thuế nhập khẩu.
1.2. Những vấn đề lý luận về biện pháp pháp lý chống thất thu thuế
nhập khẩu
1.2.1. Khái niệm và đặc trưng của biện pháp pháp lý
Biện pháp pháp lý có thể hiểu là tổng hợp các phương pháp, cách thức
giải quyết vấn đề được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật, do đó
việc thực hiện các biện pháp này đều dựa trên cơ sở quy định pháp luật.
Theo cách hiểu nêu trên, biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập
khẩu là tổng hợp các phương pháp, cách thức chống thất thu thuế nhập khẩu
đã được luật hóa và do đó việc thực hiện các biện pháp này đều dựa trên cơ sở
quy định pháp luật về thuế nhập khẩu. Các biện pháp pháp lý chống thất thu
thuế nhập khẩu được hiểu như là công cụ mà pháp luật ghi nhận để ngăn chặn
các hành vi làm thất thoát nguồn thu từ thuế nhập khẩu của Nhà nước.
Để chống thất thu thuế nhập khẩu Nhà nước cần phải sử dụng tổng hợp
các biện pháp như pháp lý, kinh tế, tuyên truyền, khoa học... Mỗi biện pháp
đều có ưu điểm và nhược điểm riêng, do đó việc áp dụng nhiều biện pháp hỗ
trợ, tương tác với nhau sẽ đạt hiệu quả tốt hơn. Trong đó, biện pháp pháp lý
giữ vai trò chủ đạo bởi những đặc trưng riêng.
Về lý thuyết, biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu có
những đặc trưng cơ bản sau đây:
20. 14
Một là, biện pháp pháp lý đã được luật hóa trong văn bản quy phạm
pháp luật. Đây là đặc trưng cơ bản và quan trọng nhất của biện pháp pháp lý,
hay có thể hiểu là một biện pháp chỉ được coi là biện pháp pháp lý khi biện
pháp này đã được quy định trong ít nhất một văn bản quy phạm pháp luật.
Tuy nhiên trên thực tế, mỗi quan hệ pháp luật phát sinh thường được điều
chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Bản thân các đạo
luật cũng thừa nhận và áp dụng nguyên tắc dẫn chiếu tới các văn bản quy
phạm pháp luật khác có liên quan. Do đó, biện pháp pháp lý chống thất thu
thuế nhập khẩu cũng được quy định tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật
khác nhau, như Luật quản lý thuế; Luật hải quan; Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu...
Hai là, việc thực hiện các biện pháp pháp lý đều dựa trên cơ sở quy
định pháp luật. Pháp luật phải đi vào cuộc sống thì mới phát huy được vai trò
điều chỉnh hành vi xử sự của mình. Vì vậy, thực hiện các biện pháp pháp lý
cũng tức là đưa các biện pháp đã được quy định trong văn bản pháp luật vào
cuộc sống; như việc các cá nhân, tổ chức sử dụng các biện pháp mà pháp luật
cho phép hay việc áp dụng các biện pháp của cơ quan có thẩm quyền; đồng
thời việc sử dụng hay áp dụng các biện pháp này đều phải tuân thủ các quy
định pháp luật. Như vậy, thực hiện các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế
nhập khẩu phải dựa trên cơ sở pháp luật thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, trong
phạm vi đề tài, tác giả chỉ xem xét các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế
nhập khẩu cơ bản, có vai trò quan trọng, chủ yếu, có tính hệ thống, tính tổ
chức và được thực hiện thường xuyên. Đó là các biện pháp được thực hiện
bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như thanh tra, kiểm tra hải quan; xử lý
vi phạm hải quan;... Ngoài ra, các biện pháp được sử dụng bởi các cá nhân, tổ
chức như tố cáo hành vi vi phạm nghĩa vụ thuế nhập khẩu cũng có tác dụng
nhất định trong việc chống thất thu thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, các biện pháp
21. 15
này có tác dụng không lớn; không được thực hiện một cách có hệ thống, có tổ
chức và thường xuyên; nên tác giả không phân tích sâu trong phạm vi đề tài.
Ba là, biện pháp pháp lý mang tính bắt buộc chung và được đảm bảo
thực hiện bằng quyền lực Nhà nước.
Biện pháp pháp lý luôn dựa trên hệ thống các quy phạm pháp luật để
điều chỉnh hành vi xử sự của con người. Do đó, biện pháp pháp lý mang tính
bắt buộc chung và được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực Nhà nước. Điều
này được thể hiện ở chỗ các chủ thể chịu sự điều chỉnh của các biện pháp
pháp lý phải thực hiện đầy đủ, chủ động nghĩa vụ của mình; nếu làm trái hoặc
thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thì phải chịu chế tài theo quy định pháp luật.
Như vậy, các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu có tác dụng
điều chỉnh, ngăn chặn các hành vi làm thất thoát nguồn thu từ thuế nhập khẩu
của Nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực Nhà nước, hệ thống
cơ quan Nhà nước. Do đó, các biện pháp này có tác dụng lớn và hiệu quả cao
trong việc chống thất thu thuế nhập khẩu. Trong khi đó, việc thực hiện các
biện pháp chống thất thu thuế nhập khẩu khác không dựa trên cơ sở quy định
pháp luật nên nguồn lực, cũng như khả năng thực hiện và tính hiệu quả của
các biện pháp này không bằng biện pháp pháp lý.
Bốn là, biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu tác động, chi
phối đến các biện pháp khác. Theo nguyên tắc, pháp luật là tối thượng, do đó
mọi hành vi, mọi biện pháp đều không được trái với các quy định pháp luật,
đồng thời chịu sự tác động, ảnh hưởng của pháp luật như cấm, hạn chế hay
thúc đẩy. Vì vậy, các biện pháp chống thất thu thuế nhập khẩu khác đều chịu
sự chi phối, tác động của biện pháp pháp lý. Ngược lại, các biện pháp khác
cũng tác động, hỗ trợ tới biện pháp pháp lý nhằm đạt được hiệu quả chống
thất thu thuế nhập khẩu cao nhất.
Ở đây, cũng cần phân biệt các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế
22. 16
nhập khẩu với quản lý thuế nhập khẩu. Về bản chất, quản lý thuế nhập khẩu là
hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc tổ chức, triển khai
thực hiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực quản lý thuế nhập khẩu nhằm
đảm bảo công tác thu - nộp thuế nhập khẩu tiến hành nhanh chóng, thuận tiện,
hiệu quả; phòng chống thất thu thuế nhập khẩu; giải quyết khiếu nại, tố cáo về
thuế nhập khẩu. Nội dung quản lý thuế nhập khẩu cũng nằm trong phạm vi
nội dung của quản lý thuế nói chung, theo Điều 3 Luật quản lý thuế quy định
về nội dung quản lý thuế gồm: Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định
thuế; thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế; xoá nợ tiền thuế, tiền phạt;
quản lý thông tin về người nộp thuế; kiểm tra thuế, thanh tra thuế; cưỡng chế
thi hành quyết định hành chính thuế; xử lý vi phạm pháp luật về thuế; giải
quyết khiếu nại, tố cáo về thuế.
Vậy, quản lý thuế nhập khẩu khác biệt ở chỗ đây là hoạt động của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm thực hiện nhiều mục đích như đảm bảo
công tác thu - nộp thuế nhập khẩu tiến hành nhanh chóng, hiệu quả; phòng
chống thất thu thuế nhập khẩu; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế nhập khẩu.
Trong khi đó, các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu có thể là
hoạt động của cá nhân, tổ chức hay cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm
chống thất thoát nguồn thu từ thuế nhập khẩu.
1.2.2. Các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu
Về lý thuyết cũng như thực tiễn, dựa trên tiêu chí là vai trò, có thể phân
loại các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu thành các loại sau đây:
Một là, ban hành các quy định về chống thất thu thuế nhập khẩu
Đây là biện pháp cơ sở, nền tảng trong các biện pháp pháp lý chống
thất thu thuế nhập khẩu. Biện pháp này tạo căn cứ pháp lý cho việc thu thuế
nhập khẩu thông qua việc quy định các vấn đề sau:
- Ban hành quy định về nghĩa vụ nộp thuế, đối tượng chịu thuế, chủ thể
nộp thuế và quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan thu thuế nhập khẩu.
23. 17
- Ban hành quy định về cách thức quản lý về thu và nộp thuế nhập khẩu
nhằm đảm bảo thu đúng, thu đủ thuế theo chính sách của Nhà nước.
- Ban hành quy định về thanh tra, kiểm tra các hành vi vi phạm nghĩa
vụ thuế nhập khẩu.
- Ban hành quy định về chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm
nghĩa vụ thuế nhập khẩu và bồi thường thiệt hại cho Nhà nước.
Vậy biện pháp “Ban hành các quy định về chống thất thu thuế nhập
khẩu” có vai trò gián tiếp trong việc chống thất thu thuế nhập khẩu bằng việc
quy định cụ thể những biện pháp nào được cho là cần thiết nhằm chống thất
thu thuế nhập khẩu vào các văn bản quy phạm pháp luật để các biện pháp này
được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực Nhà nước.
Hai là, thanh tra, kiểm tra việc thu - nộp thuế nhập khẩu
Biện pháp “thanh tra, kiểm tra việc thu - nộp thuế nhập khẩu” là hoạt
động của các cơ quan có thẩm quyền nhằm phát hiện các hành vi vi phạm nghĩa
vụ thuế nhập khẩu. Biện pháp này được thực hiện dựa trên cơ sở các quy định
pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu và được thực hiện dưới các hình thức chủ
yếu là thanh tra, kiểm tra, giám sát hải quan. Thanh tra, kiểm tra, giám sát là yêu
cầu tất yếu trong quản lý Nhà nước. Đây là những biện pháp pháp lý hữu hiệu
góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong hoạt động quản lý Nhà nước
nói chung cũng như đảm bảo hiệu quả của công tác thu, nộp thuế nhập khẩu nói
riêng. Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát hải quan được triển khai hiệu quả
sẽ phát hiện những sai phạm về nghĩa vụ thuế nhập khẩu để có thể ngăn chặn và
xử lý kịp thời, qua đó nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể trong
hoạt động thu, nộp thuế nhập khẩu. Ở đây, nội dung thanh tra, kiểm tra không
chỉ hướng tới hoạt động nộp thuế của các chủ thể nhập khẩu mà còn hướng tới
hoạt động thu thuế của các cán bộ hải quan. Mặt khác, công tác thanh tra, kiểm
tra còn góp phần phản ánh tính phù hợp của pháp luật thuế nhập khẩu so với
24. 18
thực tiễn đời sống kinh tế xã hội, thấy được những vướng mắc trên thực tế khi
triển khai áp dụng quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó, cơ quan thuế sẽ có
những giải đáp, hướng dẫn các chủ thể thực hiện việc thu, nộp thuế theo đúng
quy định và có biện pháp hoàn thiện pháp luật, hoàn thiện quy trình nghiệp vụ,
xây dựng các biện pháp để ngăn ngừa vi phạm. Với ý nghĩa này, thanh tra, kiểm
tra, giám sát việc thu, nộp thuế nhập khẩu luôn đi liền với nội dung xử lý vi
phạm pháp luật thuế nhập khẩu.
Ba là, xử lý đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ thuế nhập khẩu.
Biện pháp “xử lý đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ thuế nhập khẩu” là
hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng chế tài đối với
chủ thể có hành vi vi phạm nghĩa vụ thuế nhập khẩu.
Biện pháp xử lý vi phạm được thực hiện dựa trên cơ sở các quy định về
xử lý vi phạm pháp luật thuế nhập khẩu và kết quả của biện pháp thanh tra,
kiểm tra. Biện pháp xử lý thường thực hiện dưới hai hình thức là xử lý hình
sự và xử lý hành chính. Biện pháp xử lý vi phạm nhằm mục đích ngăn chặn
kịp thời các vi phạm nghĩa vụ thuế nhập khẩu và có tác dụng phòng ngừa,
giáo dục, răn đe những đối tượng có ý định vi phạm; qua đó nâng cao ý thức
tuân thủ, chấp hành pháp luật của các chủ thể. Việc xử lý vi phạm là một loại
cưỡng chế nhà nước. Bên cạnh việc sử dụng các biện pháp thuyết phục, vận
động thì các biện pháp cưỡng chế nhà nước có vai trò, ý nghĩa rất lớn trong
việc bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm pháp chế. Có thể khẳng định không
có cưỡng chế, không có xử phạt vi phạm thì không có trật tự, quyền và lợi ích
của nhà nước cũng như của mỗi cá nhân, tổ chức bị xâm phạm.
Bốn là, buộc người nộp thuế bồi thường thiệt hại cho Nhà nước do
hành vi vi phạm nghĩa vụ thuế nhập khẩu.
Biện pháp “bồi thường thiệt hại” thể hiện sự cưỡng chế của các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với chủ thể vi phạm nghĩa vụ thuế nhập
khẩu nhằm thu hồi số thuế Nhà nước bị thất thoát do hành vi vi phạm gây ra.
25. 19
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thất thu thuế nhập khẩu, nhưng qua thực
tiễn cho thấy nguyên nhân chủ yếu là do các đối tượng nộp thuế có tình trốn
tránh nghĩa vụ thuế bằng các hình thức như gian lận thương mại, nợ thuế rồi bỏ
trốn,... Vì vậy, để đảm bảo nguồn thu từ thuế nhập khẩu, cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp có tính chất cưỡng chế nhằm truy đòi số
tiền thuế chưa nộp theo quy định pháp luật đối với người nộp thuế nhập khẩu.
Biện pháp này được thực hiện dựa trên cơ sở các quy định pháp luật về quản lý
thuế nhập khẩu, kết quả của biện pháp thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm.
1.3. Cơ sở pháp lý của việc áp dụng các biện pháp pháp lý chống
thất thu thuế nhập khẩu ở Việt Nam
1.3.1. Các quy định về nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu
1.3.1.1. Quy định về chủ thể nộp thuế nhập khẩu và đối tượng chịu thuế
nhập khẩu
Trước hết, cần làm rõ quy định về chủ thể nộp thuế nhập khẩu.
Việc xác định chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế có ý nghĩa quan trọng trong
quá trình hành thu thuế nhập khẩu, không những nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật đồng thời góp phần hạn chế các vi phạm pháp luật về thuế nhập khẩu.
Theo quy định tại Điều 4 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 2005, “Người
nộp thuế nhập khẩu là tổ chức, cá nhân có hàng hóa nhập khẩu thuộc đối
tượng chịu thuế nhập khẩu. Trong thực tiễn pháp lý, người nộp thuế nhập khẩu
được hiểu chính là người trực tiếp đứng tên làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa”.
Người nộp thuế nhập khẩu thường bao gồm:
- Người trực tiếp đứng tên làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa cho chính
mình (kể cả trường hợp tổ chức, cá nhân Việt Nam nhập khẩu hàng hóa từ nước
ngoài về để bán tại Việt Nam với tư cách là bên đại lý tiêu thụ sản phẩm cho tổ
chức, cá nhân nước ngoài theo hợp đồng đại lý tiêu thụ sản phẩm) [57, tr. 70].
- Người nhận ủy thác nhập khẩu hàng hóa cho chủ thể khác theo hợp
đồng nhập khẩu [57, tr. 70].
26. 20
Ngoài ra, theo Điều 3 Nghị định số 87/2010/NĐ-CP, người nộp thuế
nhập khẩu có thể là: Đại lý làm thủ tục Hải quan trong trường hợp được đối
tượng nộp thuế ủy quyền nộp thuế nhập khẩu; doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
bưu chính, dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế trong trường hợp nộp thay thuế
cho đối tượng nộp thuế; tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo
quy định của Luật Các tổ chức tín dụng trong trường hợp bảo lãnh, nộp thay
thuế cho đối tượng nộp thuế theo quy định của pháp luật quản lý thuế.
Theo sự phát triển của xã hội, các đại lý thuế ngày càng được xem
trọng, do đây là những tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực kê khai, tính
thuế, nộp thuế và thậm chí có thể thay mặt đối tượng nộp thuế giải quyết các
vấn đề liên quan đến nghĩa vụ thuế, vì không phải đối tượng nộp thuế nào
cũng am hiểu pháp luật thuế. Chế định về đại lý thuế đã tồn tại từ lâu trên thế
giới và sự xuất hiện của các tổ chức này được coi là tất yếu trong cơ chế tự
khai, tự nộp thuế. Tuy nhiên, ở Việt Nam trước đây chỉ có Luật quản lý thuế
có đề cập đến đại lý thuế nhưng chưa có quy định chi tiết. Nhận thấy những
thiếu sót này, ngày 16/2/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
14/2011/NĐ-CP quy định về điều kiện đăng ký và hoạt động của đại lý làm
thủ tục Hải quan và Thông tư số 80/2011/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị
định số 14/2011/NĐ-CP. Việc ban hành các văn bản pháp luật quy định chi
tiết về vấn đề này là vô cùng hợp lý trong tình hình hiện nay, góp phần nâng
cao hiệu quả trong quá trình nộp thuế - thu thuế nhập khẩu, đồng thời hạn chế
phần nào những gian lận thương mại về thuế nhập khẩu [55, tr. 39].
Thứ hai, về đối tượng chịu thuế nhập khẩu.
Theo Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và hướng dẫn tại Điều 1
Nghị định số 87/2010/NĐ-CP, đối tượng chịu thuế nhập khẩu bao gồm các
loại hàng hóa sau đây:
- Hàng hóa nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam (hàng hóa
nhập khẩu qua cửa khẩu đường bộ, đường sông, cảng biển, cảng hàng không,
27. 21
đường sắt liên vận quốc tế, bưu điện quốc tế và địa điểm làm thủ tục Hải quan
khác được thành lập theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền);
- Hàng hóa được đưa từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước.
Khu phi thuế quan là khu vực kinh tế nằm trong lãnh thổ Việt Nam, có ranh
giới địa lý xác định, được thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính
phủ; quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa giữa khu này với bên ngoài là quan
hệ xuất khẩu, nhập khẩu.
Có thể nói, quy định về đối tượng chịu thuế nhập khẩu trong Luật thuế
xuất khẩu, nhập khẩu năm 2005 phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế hơn
so với Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 1991. Thật vậy, theo quy định tại
Điều 1 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 1991, “đối tượng chịu thuế nhập
khẩu là hàng hóa được phép nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam, kể
cả hàng hóa từ khu chế xuất đưa vào thị trường trong nước”. Tuy nhiên, theo
sự phát triển của đất nước, ngoài những khu chế xuất còn hình thành nhiều
khu kinh tế thương mại khác được ưu đãi thuế quan tương tự như khu chế
xuất, có thể kể đến một vài ví dụ như là: khu thương mại và phát triển kinh tế
Lao Bảo (Hướng Hóa – Quảng Trị), khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam),
Khu kinh tế Cầu Treo (Hương Sơn – Hà Tĩnh)… Theo Luật thuế xuất khẩu,
nhập khẩu năm 2005, những khu vực này gọi chung là Khu phi thuế quan và
hàng hóa được đưa từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước là đối
tượng chịu thuế nhập khẩu. Như vậy, quy định của Luật thuế xuất khẩu, nhập
khẩu năm 2005 đã bao quát hơn về đối tượng chịu thuế nhập khẩu, do đó góp
phần tránh thất thu thuế tiềm năng.
1.3.1.2. Quy định về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu của
nhà nhập khẩu và trách nhiệm của cơ quan thu thuế nhập khẩu
Trước hết, về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu
Như đã đề cập ở trên, nộp thuế nhập khẩu là nghĩa vụ cơ bản, cốt lõi
của tổ chức, cá nhân nhập khẩu. Hiện nay, do thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp
28. 22
thuế nên người nộp thuế nhập khẩu phải có trách nhiệm kê khai thuế đầy đủ,
chính xác, minh bạch và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung mà
mình đã kê khai. Cơ chế tự khai tự nộp thuế là cơ chế quản lý thuế trong đó
các đối tượng nộp thuế tự giác căn cứ vào kết quả, hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình và căn cứ vào những quy định của pháp luật để tự xác định
nghĩa vụ thuế của mình, kê khai, nộp thuế vào ngân sách Nhà nước và tự chịu
trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực, chính xác của việc kê khai.
Đây là điểm mới trong cơ chế quản lý thuế ở Việt Nam, theo hướng tiệm cận
gần hơn với thông lệ và chuẩn mực quốc tế trong quản lý thuế hiện đại.
Cơ chế tự khai, tự nộp thuế được xây dựng dựa trên nền tảng là sự tự
nguyện, tự giác tuân thủ của đối tượng nộp thuế, theo đó việc quản lý thuế dựa
trên kĩ thuật quản lý rủi ro. Theo cơ chế này, cơ quan Hải quan không can thiệp
vào quá trình kê khai, nộp thuế nhập khẩu của tổ chức, cá nhân nhập khẩu
nhưng sẽ chủ động thực hiện việc thanh tra, kiểm tra và áp dụng các biện pháp
xử phạt, cưỡng chế theo luật định đối với những trường hợp người nộp thuế có
hành vi vi phạm pháp luật như trốn thuế, gian lận về thuế nhập khẩu.
Qua thực tiễn hành thu thuế nhập khẩu cho thấy, cơ chế tự cơ chế tự
khai, tự nộp thuế có những tác dụng cơ bản sau:
- Cơ chế tự khai, tự nộp thuế nhập khẩu là cơ chế quản lý thuế tiên tiến,
hiện đại, khoa học, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, phù hợp với
trình độ quản lý của cơ quan Hải quan, phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế của đất nước. Cơ chế này cho phép các cơ quan thuế phân bổ nguồn
lực theo hướng chuyên môn hóa, chuyên sâu trong quản lý, cải tiến các quy
trình quản lý rõ ràng, làm tăng sự minh bạch trong quản lý thuế [56, tr. 6].
- Theo cơ chế tự khai tự nộp thuế, doanh nghiệp không phải chịu sự áp
đặt của cơ quan Hải quan mà chủ động về số thuế phải nộp cho lô hàng nhập
khẩu của mình. Đây là cơ sở để ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp từ
29. 23
khâu khai báo đến khâu nộp thuế, giúp phân biệt rõ trách nhiệm của doanh
nghiệp và cán bộ Hải quan trong việc xử lý sai phạm về thuế. Việc kê khai
tính thuế hoàn toàn dựa vào tinh thần tự giác và ý thức chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật về thuế của doanh nghiệp. Do đó các tổ chức, cá nhân nộp
thuế nhập khẩu phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực của số liệu
kê khai, tính chính xác của việc tính toán số thuế. Như vậy, có thể thấy cơ chế
tự khai tự nộp thuế góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm pháp lý của đối
tượng nộp thuế [56, tr. 7].
- Cơ chế tự khai tự nộp thuế tạo tiền đề nâng cao hiệu quả công tác
quản lý thu thuế của cơ quan thuế. Do không mất thời gian tính lại số thuế
phải nộp, gửi thông báo thuế nên cán bộ thuế có điều kiện tập trung thời gian,
công sức cho các công việc quản lý như công tác thanh tra, kiểm tra, đôn đốc
thu nộp và xử phạt vi phạm đối với hành vi vi phạm pháp luật thuế [56, tr. 8].
Như vậy, nếu thực hiện hiệu quả cơ chế tự khai, tự nộp thuế, chắc chắn
sẽ đẩy nhanh thủ tục hành chính thuế, đồng thời nâng cao khả năng phát hiện
và xử lý vi phạm về thuế; do đó góp phần hạn chế tình trạng thất thu thuế
nhập khẩu hiện nay ở Việt Nam.
Sau khi kê khai, tự tính số thuế phải nộp thì người nộp thuế phải thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình trong thời hạn theo luật định. Thời hạn nộp
thuế nhập khẩu được quy định tại Điều 15 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu năm 2005 và các văn bản hướng dẫn. Trong trường hợp quá thời hạn
nộp thuế mà nghĩa vụ nộp thuế mới được thực hiện hoặc không được thực
hiện thì người nộp thuế bị coi là vi phạm nghĩa vụ nộp thuế và phải chịu chế
tài xử phạt theo quy định của pháp luật.
Không chỉ quy định nghĩa vụ của người nộp thuế nhập khẩu, tại chương
VI Luật quản lý thuế năm 2006 và các văn bản hướng dẫn như Thông tư số
156/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính còn quy định về “trách nhiệm hoàn thành
30. 24
nghĩa vụ nộp thuế” trong các trường hợp: người nộp thuế xuất cảnh, chết, mất
năng lực hành vi dân sự hoặc mất tích; doanh nghiệp nộp thuế bị giải thể, phá
sản, chấm dứt hoạt động hoặc tổ chức lại doanh nghiệp mà trước đó các đối
tượng nộp thuế trên chưa hoàn hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của mình.
Thứ hai, về trách nhiệm của cơ quan thu thuế nhập khẩu
Về phương diện lý thuyết, khi quy định nghĩa vụ thuế nhập khẩu, nhà
làm luật không chỉ xác định rõ ai phải nộp thuế nhập khẩu, hàng hóa nào phải
chịu thuế nhập khẩu, cách thức thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu như
thế nào mà còn phải quy định rõ trách nhiệm của cơ quan thu thuế nhập khẩu
ra sao khi tổ chức hành thu thuế nhập khẩu. Trên tinh thần đó, pháp luật hiện
hành ở Việt Nam quy định cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và chịu trách
nhiệm chính trong việc tổ chức thu thuế nhập khẩu (đồng nghĩa với việc tổ
chức thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu) là cơ quan Hải quan.
Theo quy định Luật Hải quan năm 2014, một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của Hải quan là tổ chức thu thuế nhập khẩu theo pháp
luật. Đồng thời, cơ quan Hải quan có trách nhiệm đảm bảo để các chủ thể
thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo đúng quy định pháp luật bằng các biện pháp
như thanh tra, kiểm tra, giám sát, ấn định thuế, truy thu thuế, xử lý vi phạm,
cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế. Bên cạnh đó, để thực hiện
chức năng hành thu thuế nhập khẩu có hiệu quả, Nhà nước còn trao quyền cho
một số cơ quan hữu trách khác cùng phối hợp với cơ quan Hải quan, chẳng
hạn như Bộ tài chính, Kho bạc Nhà nước, Tổng cục thuế, Ủy ban nhân dân
các cấp chính quyền địa phương…
1.3.2. Các quy định về biện pháp chống thất thu thuế nhập khẩu
1.3.2.1. Quy định về quản lý thông tin người nộp thuế
Hệ thống thông tin về người nộp thuế là tất cả các thông tin, tài liệu liên
quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế và thực hiện nghĩa vụ thuế của người
31. 25
nộp thuế, bao gồm các thông tin định danh, thông tin về tình hình sản xuất
kinh doanh, kê khai, nộp thuế, tình hình tuân thủ pháp luật thuế, giải quyết
khiếu nại tố cáo về thuế và các thông tin khác do người nộp thuế và các tổ
chức, cá nhân khác tự nguyện cung cấp hoặc cung cấp theo yêu cầu bắt buộc
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền [52, tr. 38].
Thực tế cho thấy hệ thống thông tin về người nộp thuế có vai trò rất
quan trọng trong việc đảm bảo thu đúng, thu đủ tiền thuế và chống thất thu
thuế nói chung, trong đó có thuế nhập khẩu. Thật vậy, thông tin về người nộp
thuế là cơ sở thiết yếu để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đánh giá tác động
của chính sách thuế đến hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tăng
trưởng kinh tế để xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện chính sách thuế, cơ chế
quản lý thuế, ngăn ngừa các hành vi gian lận thuế; dự báo, phân tích khả năng
thu ngân sách và mức độ động viên, đóng góp nghĩa vụ thuế đối với từng
người nộp thuế hoặc nhóm người nộp thuế; lập báo cáo thống kê phục vụ cho
việc chỉ đạo điều hành công tác quản lý thuế và phục vụ cho các mục đích
quản lý khác của Nhà nước; xây dựng và thực hiện các biện pháp quản lý
thuế, các chương trình rà soát đánh giá tình hình kê khai, nộp thuế để ngăn
ngừa, phát hiện kịp thời các vi phạm pháp luật về thuế; đánh giá mức độ tuân
thủ pháp luật về thuế của người nộp thuế để áp dụng các biện pháp quản lý,
xử lý thuế phù hợp [52, tr. 38].
Xuất phát từ tầm quan trọng nêu trên, hệ thống thông tin về người
nộp thuế phải đảm bảo chính xác và được cập nhật kịp thời. Luật quản lý
thuế và các văn bản hướng dẫn quy định cụ thể về việc xây dựng, thu thập,
xử lý và quản lý hệ thống thông tin về người nộp thuế của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền; trách nhiệm cung cấp thông tin của người nộp thuế và
tổ chức, cá nhân có liên quan. Đồng thời luật nghiêm cấm hành vi làm sai
lệch, sử dụng sai mục đích, truy cập trái phép, lấy cắp thông tin, làm ngừng
32. 26
trệ hoạt động của hệ thống thông tin, phá huỷ hệ thống thông tin về người
nộp thuế. Mọi hành vi vi phạm về quản lý, sử dụng thông tin đều bị xử lý
theo quy định của pháp luật.
1.3.2.2. Quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát hải quan
Trước hết, về các quy định liên quan đến thanh tra thuế nhập khẩu
Thanh tra thuế nhập khẩu là một trong những nội dung quan trọng của
chống thất thu thuế nhập khẩu. Việc thanh tra thuế được thực hiện bởi hệ
thống các cơ quan thanh tra chuyên ngành về thuế và sự phối hợp của các cơ
quan chức năng có liên quan. Theo quy định hiện hành, đối tượng thanh tra
thuế là các tổ chức kinh tế và cá nhân hoạt động xuất nhập khẩu và bao gồm
cả các đơn vị thuộc ngành thuế. Mục đích của thanh tra thuế là nhằm phát
hiện để từ đó có biện pháp xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật
thuế nhằm hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng thất thu thuế; đảm bảo nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật thuế cho các đối tượng nộp thuế và cho người
thi hành công vụ trong ngành thuế; phát hiện những nội dung không phù hợp
trong các văn bản pháp quy về thuế, những điểm không hợp lý về công tác tổ
chức hệ thống bộ máy ngành thuế, các vấn đề nghiệp vụ của công tác hành
thu, từ đó kiến nghị các cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung kịp thời để không
ngừng hoàn thiện hệ thống thuế [52, tr. 45].
Nội dung thanh tra thuế được xác định theo từng loại đối tượng thanh
tra, cụ thể là: Đối với các tổ chức và cá nhân là đối tượng nộp thuế, việc
thanh tra tập trung vào các vấn đề cơ bản như: Thanh tra việc chấp hành
những quy định về đăng ký kê khai nộp thuế; thanh tra việc chấp hành chế
độ thống kế - kế toán, hoá đơn - chứng từ; thanh tra việc thực hiện nghĩa vụ
nộp thuế cho Nhà nước. Đối với các đơn vị trong nội bộ ngành thuế, việc
thanh tra tập trung vào các nội dung như: Thanh tra việc tuyên truyền, phổ
biến và hướng dẫn chấp hành các luật thuế; thanh tra việc thực hiện quy
33. 27
trình và các nghiệp vụ trong quản lý thu thuế; thanh tra việc giải quyết các
khiếu kiện và xử lý các vi phạm về thuế; các nội dung khác như tình hình tài
chính, tổ chức nhân sự [52, tr. 45].
Hình thức thanh tra được quy định khá đa dạng, bao gồm: thanh tra
thường xuyên và thanh tra đột xuất; thanh tra toàn diện và thanh tra có trọng
điểm; thanh tra tại chỗ và thanh tra từ xa.
Phương pháp thanh tra được quy định theo nguyên tắc đảm bảo tính
phù hợp với mục đích, yêu cầu và đối tượng của các cuộc thanh tra. Thực
tế cho thấy có một số phương pháp thường được áp dụng như phương pháp
kiểm tra, đối chiếu và phương pháp phân tổ, thu thập các thông tin về sự
việc [52, tr. 45].
Kết luận thanh tra có các nội dung sau: Đánh giá việc thực hiện pháp
luật về thuế của đối tượng thanh tra; xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm,
nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm
(nếu có); xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền xử lý vi
phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
Các văn bản pháp luật cơ bản quy định về thanh tra thuế nhập khẩu là
Luật Quản lý thuế năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012); Luật Hải quan năm
2014; Luật thanh tra năm 2010; Nghị định số 86/2011/NĐ-CP quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra; Quyết định số 694/QĐ-
TCHQ về việc ban hành quy trình thanh tra thuế trong lĩnh vực hải quan.
Thứ hai, về các quy định liên quan đến kiểm tra thuế nhập khẩu.
Khác với hoạt động thanh tra thuế nhập khẩu, vốn do các cơ quan
chuyên trách về thanh tra tiến hành theo quy định của pháp luật về thanh tra,
hoạt động kiểm tra thuế nhập khẩu (hay còn gọi là kiểm tra Hải quan) chỉ do
một cơ quan chuyên môn là Hải quan tiến hành theo quy định của pháp luật
thuế và pháp luật Hải quan. Theo Điều 4 Luật Hải quan 2014, có thể hiểu
34. 28
kiểm tra Hải quan là việc xem xét, xác định tính hợp pháp, chính xác, phù hợp
giữa hồ sơ Hải quan, các chứng từ liên quan và hàng hóa thực tế do cơ quan
Hải quan thực hiện.
Khi tiếp nhận hồ sơ hải quan, bước đầu tiên cơ quan Hải quan kiểm tra
hồ sơ hải quan và việc kiểm tra chỉ được thực hiện từ sau khi đối tượng đăng
ký tờ khai hải quan. Nội dung kiểm tra là tính đầy đủ của bộ hồ sơ hải quan,
các chứng từ liên quan, tính hợp pháp của các chứng từ, sự phù hợp của nội
dung khai hải quan và chứng từ thuộc hồ sơ hải quan; kiểm tra việc đăng ký
hồ sơ hải quan có theo đúng quy định của pháp luật hay không.
Sau khi kiểm tra hồ sơ hải quan, cơ quan Hải quan tiến hành kiểm tra
hàng hóa trên thực tế (kiểm hóa) để đảm bảo rằng việc khai thuế là khách quan,
trung thực, chính xác, đúng pháp luật. Cơ quan Hải quan căn cứ vào quá trình
chấp hành pháp luật của chủ hàng, chính sách quản lý hàng hoá nhập khẩu của
Nhà nước, tính chất, chủng loại, nguồn gốc hàng hoá nhập khẩu, hồ sơ hải quan
và các thông tin khác có liên quan đến hàng hoá nhập khẩu để tiến hành kiểm
tra Hải quan theo nguyên tắc quản lý rủi ro và quy trình thực hiện được hướng
dẫn cụ thể tại Thông tư số 38/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính: Quy định về
Thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Như vậy, quá trình
kiểm tra hàng hóa trên thực tế dựa trên kỹ thuật quản lý rủi ro. Đây là cơ chế
quản lý hiện đại đã phổ biến ở nhiều nước phát triển trên thế giới.
Quản lý rủi ro là việc dự đoán về những khả năng và mức độ hậu quả
của sự việc có thể xảy ra, qua đó áp dụng những biện pháp để làm giảm độ
không an toàn và thay đổi cách xem xét, hành động đối với sự việc đó. Trong
lĩnh vực Hải quan, quản lý rủi ro là một hoạt động nghiệp vụ Hải quan, theo
đó cơ quan Hải quan dựa trên việc thu thập, phân tích, đánh giá thông tin về
các đối tượng thực hiện hoạt động nhập khẩu hàng hóa…; về lịch sử tuân thủ
35. 29
pháp luật của họ để phân loại các đối tượng trên theo những nhóm khác nhau
như: nhóm người nộp thuế tuân thủ tốt; nhóm người nộp thuế tuân thủ nhưng
đôi khi vẫn vi phạm; nhóm người nộp thuế chống đối không muốn tuân thủ;
nhóm người nộp thuế cố tình không tuân thủ, trốn thuế. Tiếp theo, cơ quan
Hải quan sẽ xác định thứ tự ưu tiên các biện pháp xử lý, sắp xếp nguồn lực
hợp lý để tập trung quản lý có hiệu quả đối với các lĩnh vực, đối tượng có
nguy cơ không tuân thủ pháp luật [31, tr. 7 - 8].
Như vậy, phương pháp quản lý rủi ro thực chất là một phương pháp kỹ
thuật mang tính logic, hệ thống, hiện đại, hiệu quả, là một công cụ hữu hiệu
áp dụng vừa đảm bảo thủ tục Hải quan được thực hiện nhanh chóng, vừa đảm
bảo yêu cầu phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm. Luật Hải
quan; Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật quản lý thuế là khung pháp
lý cơ bản, quan trọng cho việc áp dụng cơ chế quản lý rủi ro trong quản lý
thuế nhập khẩu nói riêng và quản lý thuế nói chung.
Sau khi đã làm xong thủ tục Hải quan, hàng hóa, phương tiện vận tải
của doanh nghiệp nhập khẩu được thông quan. Tuy nhiên, sau khi được
thông quan doanh nghiệp nhập khẩu vẫn có thể bị kiểm tra Hải quan. Việc
kiểm tra Hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu sau thông quan được gọi là
kiểm tra sau thông quan. Kiểm tra sau thông quan có ý nghĩa to lớn không
chỉ góp phần cải cách thủ tục Hải quan đơn giản hóa, nhanh chóng mà còn là
khâu quan trọng trong cơ chế quản lý rủi ro, đảm bảo cho việc phát hiện và
ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật thuế nhập khẩu trong trường hợp
bỏ lọt hành vi vi phạm trước đó; đồng thời góp phần nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của người nộp thuế. Kiểm tra sau thông quan được thực hiện
đối với hàng hoá nhập khẩu đã được thông quan trong các trường hợp sau:
khi phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật Hải quan hoặc xác định có khả
năng vi phạm pháp luật Hải quan dựa trên kết quả phân tích thông tin của cơ
36. 30
quan Hải quan hoặc theo kế hoạch để đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật
Hải quan của người khai Hải quan.
Quy trình kiểm tra sau thông quan hiện hành được quy định chi tiết tại
Quyết định số 1410/QĐ-TCHQ năm 2015, kiểm tra sau thông quan được tiến
hành tại trụ sở cơ quan Hải quan hoặc tại trụ sở đơn vị được kiểm tra và đều
được thực hiện từ bước kiểm tra hồ sơ, tài liệu, cơ sở thông tin cho đến kiểm
tra hàng hóa thực tế. Thời hạn cơ quan Hải quan có thể tiến hành kiểm tra sau
thông quan là 5 năm kể từ ngày đăng ký tờ khai Hải quan. Ngoài ra, luật còn
quy định nhằm khuyến khích sự tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp đó là
ngoài thời hạn kiểm tra sau thông quan, doanh nghiệp đã có sai phạm tự rà
soát và thực hiện khai bổ sung, nộp đủ tiền thuế theo quy định. Trường hợp
phát hiện có sai sót, doanh nghiệp tự giác thông báo cho cơ quan Hải quan, tự
nguyện khắc phục hậu quả trong thời hạn theo quy định của pháp luật được
miễn xử phạt.
Việc kiểm tra hàng hóa trên thực tế được tiến hành bởi cán bộ Hải quan
chuyên trách, có thể được tiến hành theo một trong hai cách: kiểm soi hoặc
kiểm thủ công. Cơ quan Hải quan căn cứ vào kết quả phân tích hình ảnh từ
kiểm tra bằng máy soi để quyết định có thông quan hay không. Nếu thấy nghi
ngờ, cơ quan Hải quan có thể tiếp tục chuyển sang kiểm thủ công. Công tác
kiểm tra yêu cầu cần phải đảm bảo đúng tên hàng hóa, mã số hàng hóa, số
lượng, trọng lượng, chất lượng, xuất xứ hàng hóa nhập khẩu,...
Ngoài ra, cơ quan Hải quan còn có thể tiến hành thủ tục giám định đối
với một số mặt hàng nhập khẩu để làm cơ sở xác định nghĩa vụ nộp thuế nếu
xét thấy cần thiết. Việc giám định được thực hiện bởi cơ quan, tổ chức giám
định chuyên nghiệp theo sự chỉ định của cơ quan Hải quan dựa trên danh mục
các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám định, kiểm tra chất lượng hàng hóa
nhập khẩu được Bộ khoa học công nghệ phối hợp với Bộ Thương mại, Bộ Tài
chính quy định cụ thể.
37. 31
Thứ ba, về giám sát hải quan.
Theo quy định tại Điều 4 Luật Hải quan 2014, có thể hiểu giám sát hải
quan là việc cơ quan Hải quan áp dụng các biện pháp nghiệp vụ theo quy định
để bảo đảm sự nguyên trạng của hàng hóa, phương tiện vận tải đang thuộc đối
tượng quản lý Hải quan. Giám sát hải quan được áp dụng đối với các đối
tượng nhập khẩu sau: Hàng hóa từ khi nhập khẩu, phương tiện vận tải từ khi
nhập cảnh tới địa bàn hoạt động hải quan đến khi được thông quan; hàng hóa,
phương tiện vận tải từ khi quá cảnh tới địa bàn hoạt động hải quan đến khi ra
khỏi lãnh thổ Việt Nam; kho bãi lưu giữ hàng hóa nhập khẩu đang trong thời
gian kiểm soát của Hải quan.
Giám sát hải quan đối với hàng hóa, phương tiện vận tải được thực hiện
bằng các phương thức sau đây:
- Giám sát trực tiếp do công chức hải quan thực hiện. Không áp dụng
phương thức giám sát trực tiếp đối với hàng hoá được lưu giữ, vận chuyển ở
ngoài phạm vi, địa bàn hoạt động của cơ quan Hải quan, trừ trường hợp cần
thiết do Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan quy định. Quy định này nhằm
nâng cao tính khách quan trong việc giám sát, hạn chế các hành vi tham ô, cấu
kết với tội phạm của một số cán bộ hải quan, đồng thời tiết kiệm nhiều nhân
lực và công sức do công tác giám sát ở ngoài phạm vi, địa bàn hoạt động của
cơ quan Hải quan nhiều vất vả và khó khăn.
- Giám sát gián tiếp thông qua các biện pháp như niêm phong Hải
quan hoặc bằng phương tiện kỹ thuật khác. Niêm phong Hải quan có thể
thực hiện bằng giấy niêm phong Hải quan, bằng dây hoặc bằng khoá chuyên
dụng Hải quan. Đối với hàng hóa nhập khẩu thì việc niêm phong phải được
thực hiện trong các trường hợp sau: Hàng hoá nhập khẩu chuyển cửa khẩu;
hàng hoá nhập khẩu chuyển cảng được dỡ xuống cửa khẩu nhập và xếp lên
phương tiện vận tải khác để vận chuyển đến cảng đích. Giám sát Hải quan
38. 32
còn có thể thực hiện bằng phương tiện kỹ thuật khác như camera theo hướng
dẫn tại Quyết định số 1570/QĐ-TCHQ quy định về việc giám sát Hải quan
bằng hệ thống camera tại khu vực cửa khẩu, cảng biển. Hiện nay, hoạt động
mua bán hàng hóa giữa các nước, các khu vực trên thế giới phát triển ngày
càng mạnh mẽ. Do đó, nếu chỉ thực hiện việc giám sát Hải quan trực tiếp
bằng cán bộ Hải quan là không đủ đáp ứng yêu cầu thực tế và không đảm
bảo hiệu quả, nhanh chóng, tiện lợi trong thủ tục Hải quan. Vì vậy các biện
pháp giám sát gián tiếp thay thế một phần cho cán bộ Hải quan thi hành
công vụ, đồng thời sự phối hợp giữa các biện pháp đảm bảo sự hiệu quả,
nhanh chóng, tiết kiệm nhân lực, kinh tế.
1.3.2.3. Quy định về xử lý vi phạm pháp luật thuế nhập khẩu
Vi phạm pháp luật về thuế nhập khẩu là hành vi làm trái các quy định
của pháp luật thuế nhập khẩu và các văn bản pháp luật liên quan, do tổ chức,
cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, gây thiệt hại đến trật tự công cộng
và phải chịu trách nhiệm pháp lí về hành vi đó của mình.
Xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thuế nhập khẩu là hoạt động
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối
với các hành vi vi phạm pháp luật về thuế nhập khẩu.
Các văn bản pháp luật quan trọng và cơ bản quy định về vi phạm pháp
luật và xử lý vi phạm về thuế nhập khẩu, bao gồm: Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu năm 2005; Luật quản lý thuế năm 2006; Luật Hải quan năm 2014;
Nghị định số 129/2013/NĐ-CP; Thông tư số 166/2013/TT-BTC; Nghị định số
127/2013/NĐ-CP; Thông tư số 190/2013/TT-BTC…
Các văn bản này đã quy định khá đầy đủ, chi tiết các nguyên tắc cơ
bản, nội dung, trình tự, thủ tục về vi phạm pháp luật và xử lí vi phạm pháp
luật thuế nhập khẩu, đảm bảo đáp ứng tình hình, diễn biến phức tạp trong quá
trình đất nước ta đang đẩy mạnh giao lưu, hội nhập kinh tế quốc tế.
39. 33
Xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thuế nhập khẩu được thực hiện
dưới hai hình thức: Xử lý vi phạm hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự.
Xử lý vi phạm hành chính về thuế nhập khẩu.
Những vi phạm hành chính chủ yếu trong lĩnh vực thuế nhập khẩu bao
gồm: Vi phạm các quy định của pháp luật về thủ tục Hải quan; vi phạm các
quy định của pháp luật về kiểm tra, giám sát, kiểm soát Hải quan; vi phạm các
quy định của pháp luật về thuế đối với hàng hóa nhập khẩu; vi phạm các quy
định pháp luật khác có liên quan đến hàng hóa nhập khẩu, phương tiện vận tải
nhập cảnh. Trong từng nhóm vi phạm nêu trên, pháp luật lại quy định cụ thể
từng hành vi vi phạm và chế tài xử phạt tương ứng nhằm đảm bảo việc xử
phạt được thực hiện, tuân thủ đầy đủ nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính
nói chung và đặc thù trong lĩnh vực Hải quan, thuế nhập khẩu nói riêng.
Theo quy định tại Điều 21 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có
5 hình thức xử phạt. Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị định số 127/2013/NĐ-
CP ngày 15/10/2013, trong lĩnh vực Hải quan, cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền chỉ áp dụng 03 hình thức xử phạt hành chính, đó là: Cảnh cáo; phạt
tiền; tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi
phạm hành chính.
Theo quy định trên thì hình thức xử phạt “cảnh cáo”, “phạt tiền” chỉ
được quy định và áp dụng là hình thức xử phạt chính; hình thức xử phạt “Tịch
thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành
chính” được quy định là hình thức xử phạt bổ sung.
Bên cạnh việc phạt tiền đối với các hành vi vi phạm nghĩa vụ thuế nhập
khẩu, các đối tượng vi phạm còn bị truy thu số tiền thuế thiếu, số tiền thuế
trốn, số tiền thuế gian lận, số tiền thuế chậm nộp vào ngân sách nhà nước
trong thời hạn 5 năm về trước, kể từ ngày kiểm tra phát hiện có sự gian lận,
trốn thuế. Theo Điều 4 Thông tư 166/2013/TT-BTC về thời hạn truy thu thuế,
40. 34
kể cả trong trường hợp quá thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về thuế thì
người nộp thuế tuy không bị xử phạt nhưng vẫn phải nộp đủ số tiền thuế
thiếu, số tiền thuế trốn, số tiền thuế gian lận, tiền chậm nộp tiền thuế vào ngân
sách nhà nước trong thời hạn 10 năm trở về trước, kể từ ngày phát hiện hành
vi vi phạm. Trong trường hợp, người nộp thuế không đăng ký thuế thì phải
nộp đủ số tiền thuế thiếu, số tiền thuế trốn, số tiền thuế gian lận, tiền chậm
nộp tiền thuế cho toàn bộ thời gian trở về trước, kể từ ngày phát hiện hành vi
vi phạm. Ngày phát hiện hành vi vi phạm hành chính về thuế là ngày lập biên
bản vi phạm hành chính về thuế.
Trong trường hợp đối tượng bị xử phạt hành chính mà không thực hiện
đúng việc nộp thuế nhập khẩu, nộp phạt theo quyết định xử lý về thuế thì bị
cưỡng chế bằng các biện pháp sau đây: Trích tiền trên tài khoản của người
nộp thuế ở ngân hàng theo quy định của pháp luật; khấu trừ một phần tiền
lương hoặc thu nhập; dừng làm thủ tục Hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu;
thông báo hóa đơn không còn giá trị sử dụng; kê biên tài sản, bán đấu giá tài
sản kê biên theo quy định của pháp luật; thu tiền, tài sản khác của đối tượng
bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính do tổ chức, cá nhân khác đang
nắm giữ; thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp, giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề.
Xử lý hình sự về thuế nhập khẩu.
Cùng với hoạt động xử lý vi phạm hành chính, cơ quan Hải quan và cơ
quan Nhà nước hữu quan tổ chức, phối hợp xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật về thuế nhập khẩu có dấu hiệu tội phạm theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự. Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định khi xem xét vụ vi
phạm để quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nếu xét thấy hành vi vi
phạm có dấu hiệu tội phạm, thì người có thẩm quyền xử phạt phải chuyển
ngay hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Trong quá trình
41. 35
thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nếu hành vi vi phạm được
phát hiện có dấu hiệu tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự thì người đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết
định tạm đình chỉ thi hành quyết định đó và trong thời hạn 03 ngày, kể từ
ngày tạm đình chỉ phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự; trường hợp đã thi hành xong quyết định xử phạt thì người đã ra
quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm cho cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự. Trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng hình sự
có quyết định khởi tố vụ án thì người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính phải huỷ bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính và chuyển toàn bộ
tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và tài liệu về việc thi hành quyết
định xử phạt cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.
1.3.2.4. Quy định về ấn định thuế nhập khẩu
Ấn định thuế là việc cơ quan thuế xác định số thuế phải nộp và yêu cầu
người nộp thuế chấp hành nộp thuế theo quyết định ấn định thuế của cơ quan
thuế trong trường hợp người nộp thuế không kê khai hoặc kê khai thuế không
đầy đủ, trung thực.
Việc ấn định thuế phải bảo đảm khách quan, công bằng và tuân thủ
đúng quy định của pháp luật về thuế. Cơ quan quản lý thuế ấn định số thuế
phải nộp hoặc ấn định từng yếu tố liên quan đến việc xác định số thuế phải
nộp. Yếu tố ấn định có thể là doanh thu, chi phí, giá tính thuế hoặc có thể là
một phần trong chi phí để xác định chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu
thuế. Nguyên tắc này mang tính công bằng hơn đối với người nộp thuế, tránh
được việc ấn định toàn bộ số thuế phải nộp trong khi người nộp thuế có thể vô
tình hoặc cố ý kê khai sai một hoặc một số yếu tố, đồng thời cũng giảm tải bớt
khối lượng công việc cho cơ quan thu quản lý thuế, nâng cao hiệu quả công
việc, nhanh chóng, tiện lợi trong thủ tục hành chính [52, tr. 20].
42. 36
Người nộp thuế phải nộp số thuế ấn định theo thông báo của cơ quan
quản lý thuế. Trường hợp không đồng ý với số thuế do cơ quan quản lý thuế ấn
định thì người nộp thuế vẫn phải nộp số thuế đó, đồng thời có quyền yêu cầu
cơ quan quản lý thuế giải thích hoặc khiếu nại, khởi kiện về việc ấn định thuế.
Theo quy định tại Điều 39 Luật quản lý thuế năm 2006, cơ quan quản
lý thuế nhập khẩu (cơ quan Hải quan) được ấn định thuế nhập khẩu trong các
trường hợp sau đây:
- Người khai thuế dựa vào các tài liệu không hợp pháp để khai báo căn
cứ tính thuế, tính và kê khai số thuế phải nộp; không kê khai hoặc kê khai
không đầy đủ, chính xác các căn cứ tính thuế làm cơ sở cho việc tính thuế;
- Người khai thuế từ chối hoặc trì hoãn, kéo dài quá thời hạn quy định
việc cung cấp các tài liệu liên quan cho cơ quan Hải quan để xác định chính
xác số thuế phải nộp;
- Cơ quan Hải quan có đủ bằng chứng về việc khai báo trị giá không
đúng với trị giá giao dịch thực tế;
- Người khai thuế không tự tính được số thuế phải nộp.
Như vậy, về nguyên tắc, người nộp thuế phải tự xác định số thuế phải
nộp, kê khai và nộp số thuế kê khai vào ngân sách Nhà nước theo đúng thời
hạn. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan hoặc do ý thức của người nộp thuế
nên thực tế còn có trường hợp người nộp thuế cố tình chậm hoặc không kê khai
thuế, kê khai sai; do đó quy định pháp luật về ấn định thuế có ý nghĩa vô cùng
quan trọng, là cơ sở pháp lý để cơ quan thuế thực hiện quyền ấn định thuế
nhằm chống tình trạng gian lận, trốn thuế, tránh thất thu thuế của Nhà nước.
Để ấn định số thuế nhập khẩu phải nộp đối với người nộp thuế, cơ quan
Hải quan phải căn cứ vào các yếu tố như: thực tế hàng hóa nhập khẩu, căn cứ
tính thuế, phương pháp tính thuế nhập khẩu theo quy định pháp luật, tài liệu
và các thông tin khác có liên quan để ấn định số thuế phải nộp. Trong đó, các
43. 37
yếu tố như số lượng hàng hóa, giá tính thuế, thuế suất là những yếu tố cơ bản,
quan trọng nhất mà cơ quan Hải quan thường phải xác định do các thủ đoạn
gian lận về số lượng hàng hóa, giá tính thuế, thuế suất nhằm trốn thuế nhập
khẩu xảy ra khá phổ biến.
Về số lượng hàng hóa nhập khẩu: Số lượng hàng hóa nhập khẩu làm
căn cứ tính thuế là số lượng từng mặt hàng thực tế nhập khẩu. Số lượng hàng
hóa được xác định theo đơn vị trọng lượng như gam (g), kilogram (kg), tấn;
đơn vị thể tích như: lít (l), mét khối (m3
); đơn vị đếm như: cái, chiếc, bộ… tùy
thuộc vào từng nhóm hàng hóa khác nhau.
Về giá tính thuế nhập khẩu: “Giá tính thuế đối với hàng hóa nhập
khẩu là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên theo hợp đồng,
phù hợp với cam kết quốc tế” [35, Điều 9]. Quy định cụ thể về giá tính thuế
được tại Nghị định 87/2010/NĐ-CP, Thông tư số 205/2010/TT-BTC và
Thông tư số 29/2014/TT-BTC. Giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập
đầu tiên được xác định bằng cách áp dụng tuần tự sáu phương pháp xác định
trị giá tính thuế và dừng ngay ở phương pháp xác định được trị giá tính thuế.
Các phương pháp xác định trị giá tính thuế là:
- Phương pháp trị giá giao dịch là giá mà người mua thực tế đã thanh
toán hay sẽ phải thanh toán cho người bán để mua hàng hoá nhập khẩu, sau
khi đã được điều chỉnh theo quy định pháp luật.
- Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt: Nếu
không xác định được trị giá tính thuế theo phương pháp trị giá giao dịch thì trị
giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu được xác định theo phương pháp trị giá
giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt.
- Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu tương tự: Nếu
không xác định được trị giá tính thuế theo phương pháp trị giá giao dịch và
phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt thì trị giá
44. 38
tính thuế của hàng hoá nhập khẩu được xác định theo phương pháp trị giá
giao dịch của hàng hoá nhập khẩu tương tự, với điều kiện hàng hoá nhập khẩu
tương tự đã được cơ quan Hải quan chấp nhận xác định trị giá tính thuế theo
phương pháp trị giá giao dịch và có cùng các điều kiện mua bán, điều kiện về
thời gian xuất khẩu với hàng hoá nhập khẩu đang xác định trị giá tính thuế.
- Phương pháp trị giá khấu trừ: được xác định bằng đơn giá bán hàng
hoá nhập khẩu, hàng hoá nhập khẩu giống hệt hoặc hàng hoá nhập khẩu
tương tự trên thị trường nội địa Việt Nam và trừ các chi phí hợp lý, lợi
nhuận thu được sau khi bán hàng nhập khẩu.
- Phương pháp trị giá tính toán: trị giá tính toán của hàng hoá nhập
khẩu bao gồm các khoản sau: Chi phí trực tiếp để sản xuất ra hàng hoá nhập
khẩu (Giá thành hoặc trị giá của nguyên vật liệu, chi phí của quá trình sản
xuất hoặc quá trình gia công khác được sử dụng vào sản xuất hàng nhập
khẩu); Chi phí chung và lợi nhuận phát sinh trong hoạt động bán hàng hoá
cùng phẩm cấp hoặc cùng chủng loại với hàng hoá nhập khẩu đang xác định
trị giá, được sản xuất ở nước xuất khẩu để bán hàng đến Việt Nam; Các chi
phí vận tải, bảo hiểm và các chi phí có liên quan đến việc vận tải hàng hoá
nhập khẩu theo quy định quy pháp luật.
- Phương pháp suy luận: được xác định bằng cách áp dụng tuần tự và linh
hoạt các phương pháp xác định trị giá tính thuế trên và dừng ngay tại phương
pháp xác định được trị giá tính thuế.
Nhìn chung, quy định pháp luật về giá tính thuế và các phương pháp
xác định trị giá tính thuế đã khá cụ thể, thống nhất, tạo điều kiện cho việc xác
định trị giá tính thuế chính xác, hiệu quả, góp một phần quan trọng trong việc
ngăn chặn tình trạng gian lận về giá tính thuế nhập khẩu.
Về thuế suất: Thuế suất thuế nhập khẩu là thuế suất đối với hàng
hoá nhập khẩu được quy định cụ thể cho từng mặt hàng. Đây là một căn cứ cơ
45. 39
bản và quan trọng để tính thuế nhập khẩu. Nhà nước quy định cụ thể biểu thuế
suất thuế nhập khẩu. Các biểu thuế suất thuế nhập khẩu được phân loại theo
danh mục và có mã số hàng hóa cụ thể. Do đó, cơ quan Hải quan cần xác định
đúng tên hàng, chủng loại và mã số hàng hóa thì sẽ áp được thuế suất của mặt
hàng đó. Các mức thuế suất cụ thể do Chính phủ quy định phù hợp với khung
thuế suất do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành. Dựa trên tiêu chí quan hệ
thương mại giữa các quốc gia thì thuế suất đối với hàng hóa nhập khẩu gồm
thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường:
- Thuế suất ưu đãi áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ
nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong
quan hệ thương mại với Việt Nam;
- Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất
xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế
nhập khẩu với Việt Nam;
- Thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất
xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện đối xử tối huệ
quốc và không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam.
Trên thực tế, nhiều đối tượng nhập khẩu có hành vi gian lận về chứng
nhận xuất xứ hàng hóa để được hưởng mức thuế suất nhập khẩu thấp. Theo
Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 của Việt Nam, xuất xứ hàng hoá được
định nghĩa như sau: “Là nước hoặc vùng lãnh thổ nơi sản xuất ra toàn bộ
hàng hoá hoặc nơi thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng đối với
hàng hoá trong trường hợp có nhiều nước hoặc vùng lãnh thổ tham gia vào
quá trình sản xuất ra hàng hoá đó”. Từ khi Việt Nam trở thành thành viên
của WTO, Việt Nam đã cam kết thực hiện các quy định của WTO bao gồm cả
Hiệp định Quy tắc xuất xứ, các Quy tắc xuất xứ của ASEAN và với một số
nước châu Á. Đây là cơ sở quan trọng để Việt Nam xây dựng hệ thống pháp