Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận án tiến sĩ ngành luật kinh tế với đề tài: Thủ tục giải quyết vụ việc hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, cho các bạn làm luận án tham khảo
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
Luận án: Thủ tục giải quyết vụ việc hạn chế cạnh tranh, HAY
1. VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN ANH TÚ
THñ TôC GI¶I QUYÕT Vô VIÖC H¹N CHÕ C¹NH TRANH
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
2. VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN ANH TÚ
THñ TôC GI¶I QUYÕT Vô VIÖC H¹N CHÕ C¹NH TRANH
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 9. 38 01 07
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN NHƢ PHÁT
HÀ NỘI - 2019
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học độc lập của riêng tôi. Các số liệu sử dụng trong Luận án
là trung thực và từ những nguồn hợp pháp. Những kết luận
khoa học của Luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trần Anh Tú
4. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục phụ lục
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
THUYẾT NGHIÊN CỨU.........................................................................................7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu......................................................................7
1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu............................................................................19
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .....................................................................................21
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT
VỤ VIỆC HẠN CHẾ CẠNH TRANH ..................................................................22
2.1. Những vấn đề lý luận về thủ tục giải quyết vụ việc hạn chế cạnh tranh .......22
2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc hạn chế
cạnh tranh..............................................................................................................49
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .....................................................................................65
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ
VIỆC HẠN CHẾ CẠNH TRANH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY ..................................................................................................................66
3.1. Thực trạng các quy định pháp luật về chủ thể tiến hành và tham gia thủ
tục giải quyết vụ việc hạn chế cạnh tranh và thực tiễn áp dụng...........................66
3.2. Thực trạng các quy định pháp luật trong giai đoạn tiếp nhận, đánh giá
các thông tin, khiếu nại làm cơ sở pháp lý cho việc điều tra vụ việc hạn chế
cạnh tranh và thực tiễn áp dụng............................................................................81
3.3. Thực trạng các quy định pháp luật trong giai đoạn điều tra vụ việc hạn
chế cạnh tranh và thực tiễn áp dụng .....................................................................92
3.4. Thực trạng các quy định pháp luật trong giai đoạn xử lý vụ việc hạn
chế cạnh tranh và thực tiễn áp dụng ...................................................................112
5. 3.5. Thực trạng các quy định pháp luật trong giai đoạn giải quyết khiếu nại
quyết định xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh, giải quyết vụ án hành chính về
quyết định giải quyết khiếu nại và thực tiễn áp dụng........................................ 121
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .................................................................................. 126
Chƣơng 4: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC
HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................................... 127
4.1. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc hạn chế
cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay ........................................................................ 127
4.2. Các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thủ
tục giải quyết vụ việc hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay........................ 132
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 .................................................................................. 147
KẾT LUẬN CHUNG ........................................................................................... 149
DANH MỤC CÔNGTRÌNH KHOAHỌC CỦATÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN...................................................................................................................151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 152
PHỤ LỤC..............................................................................................................1PL
6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHXHCN Việt Nam Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
CP TPP Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dƣơng
Cục QLCT Cục Cạnh tranh và Bảo vệ ngƣời tiêu dùng
FTA Hiệp định tự do thƣơng mại
HCCT Hạn chế cạnh tranh
HĐCT Hội đồng cạnh tranh
PĐT Phiên điều trần
QLCT Quản lý cạnh tranh
TPP Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng
TTCT Tố tụng cạnh tranh
UBCTQG Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia
UNCTAD Ủy ban Thƣơng mại và Phát triển Liên hợp quốc
VVCT Vụ việc cạnh tranh
7. DANH MỤC PHỤ LỤC
Số hiệu Tên phụ lục Trang
Phụ lục 1 Các cơ quan cạnh tranh trực thuộc Bộ/ Ngành trên thế giới 1PL
Phụ lục 2 Các cơ quan cạnh tranh trực thuộc Chính phủ hoặc Nghị
viện trên thế giới 3PL
Phụ lục 3 Quy trình giải quyết vụ việc HCCT theo Luật Cạnh tranh (2004) 5PL
Phụ lục 4 Quy trình giải quyết vụ việc HCCT theo Luật Cạnh tranh (2018) 6PL
Phụ lục 5 Số vụ việc HCCT đƣợc điều tra, xử lý tính đến năm 2016 7PL
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Cạnh tranh là món quà quý giá mà Thƣợng đế ban cho con ngƣời để loài
ngƣời có đƣợc buổi văn minh nhƣ ngày nay [49, tr. 15-19], chính vì vậy, bất kỳ
quốc gia nào nếu đã yêu mến kinh tế thị trƣờng thì đều phải yêu mến và hết sức bảo
vệ cạnh tranh. Để hoạt động cạnh tranh diễn ra có trật tự, đúng chuẩn mực và phù
hợp với đạo đức của ngƣời kinh doanh, ngƣời ta ban hành các quy định pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh. Để bảo vệ và duy trì hoạt động cạnh tranh trong
trạng thái có lợi nhất cho nền kinh tế, doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng, kiểm soát
và kiềm tỏa các hành vi có mục đích phá hủy, ngăn cản cạnh tranh, các quốc gia chú
trọng tới việc xây dựng chính sách và pháp luật chống HCCT. Chính vì vai trò quan
trọng trong điều hành kinh tế, pháp luật chống HCCT đƣợc coi là “Hiến pháp” của
nền kinh tế [46, tr. 796]. Đồng thời, để pháp luật cạnh tranh đƣợc thực thi một cách
có hiệu quả trên thực tế, kinh nghiệm thế giới cũng đã chỉ ra rằng mỗi quốc gia cần
xây dựng cho mình một hệ thống cơ quan QLCT đủ mạnh và một quy trình tố tụng
hợp lý để điều tra, xử lý các hành vi phản cạnh tranh.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của công cụ luật cạnh tranh trong việc tạo lập
môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh, loại bỏ các hành vi phản cạnh tranh, bảo vệ thị
trƣờng, ngày 03.12.2004, Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam đã chính thức thông
qua Luật Cạnh tranh (2004) và Đạo luật này (Đạo luật đầu tiên về cạnh tranh ở Việt
Nam) bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01.07.2005. Tuy nhiên, với những hạn chế về kinh
nghiệm và thực tiễn xây dựng pháp luật cạnh tranh, các nhà làm luật tại Việt Nam đã
không thể tạo ra một đạo luật hoàn hảo nhƣ ý muốn. Tính đến năm 2017, sau 12 năm
thực thi Luật Cạnh tranh (2004), cơ quan QLCT chỉ điều tra đƣợc 08 vụ việc HCCT
và HĐCT ra phán quyết đƣợc 06 vụ việc trong tổng số 08 vụ việc đó [2, tr. 9-10].
Những số liệu thống kê của Bộ Công Thƣơng đã phản ánh rõ về sự kém hiệu quả
của Luật Cạnh tranh (2004), đặc biệt là trong việc điều tra, xử lý các vụ việc HCCT.
Có thể nói, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự kém hiệu quả của thủ tục giải quyết vụ
việc HCCT chính là sự thiếu hợp lý của quy trình tố tụng và vai trò mờ nhạt của hệ
thống cơ quan cạnh tranh - những thiết chế đóng vai trò chủ yếu trong việc giải
quyết vụ việc HCCT.
Ngày 12.06.2018, tại kỳ họp thứ 5 Quốc Hội khóa XIV, Luật Cạnh tranh
(2018) đã đƣợc chính thức thông qua để thay thế cho Luật Cạnh tranh (2004) kể từ
ngày 01.07.2019. Luật Cạnh tranh (2018) ra đời mặc dù đã có nhiều điểm mới, thay
9. 2
đổi tích cực, nhằm khắc phục những hạn chế đã gặp phải trong quá trình thực thi
Luật Cạnh tranh (2004) liên quan tới thủ tục giải quyết vụ việc HCCT, tuy nhiên,
vẫn còn khá nhiều những nội dung, vì những lý do khác nhau, nhà làm luật chƣa đề
cập tới hoặc chƣa thể có những giải pháp mang tính toàn diện và đồng bộ, chẳng
hạn nhƣ: Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành chính; việc giải quyết yêu cầu
khiếu nại, khởi kiện của doanh nghiệp, ngƣời tiêu dùng; việc giải quyết yêu cầu bồi
thƣờng thiệt hại do hành vi HCCT trái luật gây ra… Mặc dù tới thời điểm hiện nay,
Luật Cạnh tranh (2018) vẫn chƣa chính thức có hiệu lực song với những hạn chế kể
trên, vẫn có nhiều nghi ngại về khả năng cải thiện tính hiệu hiệu quả trong thực thi
của Đạo luật này so với Luật Cạnh tranh (2004).
Ở phƣơng diện nghiên cứu, tại Việt Nam, từ trƣớc và sau khi Luật Cạnh
tranh (2004) ra đời đã có rất nhiều những thảo luận khoa học, các công trình nghiên
cứu, các đề tài, luận án lựa chọn các vấn đề pháp lý có liên quan đến việc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật cạnh tranh làm đối tƣợng nghiên cứu. Tuy nhiên, đa phần
những nghiên cứu này chỉ tập trung vào những chế định “luật nội dung”, có ít các
công trình nghiên cứu về TTCT nói chung và thủ tục giải quyết các vụ việc HCCT
nói riêng. Năm 2017, Bộ Công Thƣơng sau khi đƣợc giao là đơn vị chủ trì việc xây
dựng Dự thảo Luật Cạnh tranh sửa đổi đã có một số công trình nghiên cứu, báo cáo
tổng kết nhƣ: Báo cáo tổng kết 12 năm thi hành Luật Cạnh tranh; Báo cáo kinh
nghiệm quốc tế: so sánh pháp luật cạnh tranh một số nƣớc trên thế giới - bài học
kinh nghiệm và đề xuất một số nội dung cơ bản quy định trong Dự thảo Luật Cạnh
tranh (sửa đổi) của Việt Nam; Báo cáo mô hình cơ quan QLCT - Kinh nghiệm quốc
tế và bài học cho Việt Nam… Các công trình này có đề cập tới thủ tục giải quyết vụ
việc HCCT nhƣng còn mang tính khái quát và chủ yếu là mô tả kinh nghiệm nƣớc
ngoài chứ chƣa đi vào đánh giá chi tiết về từng bƣớc, từng giai đoạn của thủ tục tố
tụng cũng nhƣ sự tham gia của các chủ thể có liên quan vào việc giải quyết vụ việc
HCCT để từ đó có những định hƣớng và giải pháp hợp lý cho việc hoàn thiện.
Xuất phát từ những phân tích kể trên, có thể thấy, trong bối cảnh ở Việt Nam
hiện nay, để hoàn thiện các quy định pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc HCCT,
nhất thiết phải có những nghiên cứu chuyên sâu về các vấn đề có tính chất lý luận
của loại thủ tục này, đánh giá lại một cách khách quan những ƣu và nhƣợc điểm của
quy trình TTCT hiện có, đồng thời tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm của các nƣớc có
lịch sử lâu đời về xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật cạnh tranh trên thế
giới, trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp khả thi, tối ƣu và triệt để cho việc hoàn
thiện các quy định pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ việc HCCT theo lộ
10. 3
trình lâu dài và kiến nghị những giải pháp trƣớc mắt cho việc xây dựng các văn bản
hƣớng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh (2018), đảm bảo nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật cạnh tranh.
Những nhiệm vụ đó của khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay cũng chính là
động lực và tâm huyết để tôi lựa chọn đề tài “Thủ tục giải quyết vụ việc HCCT ở
Việt Nam hiện nay” làm hƣớng nghiên cứu cho Luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn của pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc HCCT; phân tích, đánh giá thực
trạng và thực tiễn thi hành pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc HCCT ở Việt
Nam, để từ đó đƣa ra phƣơng hƣớng và các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật về tục giải quyết vụ việc HCCT ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, đề tài có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề sau:
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của thủ tục giải quyết vụ
việc HCCT;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc HCCT
ở Việt Nam hiện nay;
- Đánh giá thực tiễn việc áp dụng các quy định pháp luật để giải quyết vụ
việc HCCT ở Việt Nam trong thời gian qua (kể từ khi Luật Cạnh tranh (2004) đƣợc
ban hành và có hiệu lực tới nay);
- Nghiên cứu so sánh các quy định pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc
HCCT ở Việt Nam hiện nay với quy định pháp luật của các quốc gia có truyền
thống và kinh nghiệm về xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật cạnh tranh trên
thế giới, để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện pháp luật về
thủ tục giải quyết vụ việc HCCT ở Việt Nam;
- Đề xuất phƣơng hƣớng và các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc HCCT ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc HCCT
ở Việt Nam hiện nay, bao gồm các nhóm vấn đề: (I) Các khái niệm có liên quan, đặc
điểm, bản chất pháp lý và các nguyên tắc của thủ tục giải quyết vụ việc HCCT; (II) Trình
tự, nội dung các giai đoạn của thủ tục giải quyết vụ việc HCCT; (III) Các chủ thể có
11. 4
thẩm quyền giải quyết vụ việc HCCT và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của họ trong
từng giai đoạn của thủ tục giải quyết vụ việc HCCT; (IV) Các tổ chức, cá nhân tham gia
vào thủ tục giải quyết vụ việc HCCT và quyền, nghĩa vụ của họ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án chỉ nghiên cứu về thủ tục giải quyết vụ việc HCCT
với tính chất là các bƣớc, các giai đoạn tố tụng đƣợc thiết lập theo trình tự với sự
tham gia của các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo thẩm quyền đƣợc pháp luật cạnh
tranh quy định nhằm giải quyết vụ việc HCCT. Do đó, Luận án sẽ không nghiên
cứu về các vấn đề sau:
+ Thủ tục xin hƣởng miễn trừ trong trƣờng hợp thỏa thuận HCCT hoặc tập
trung kinh tế;
+ Thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh không lành mạnh;
+ Thủ tục kiểm soát hành vi tập trung kinh tế và xử lý hành vi vi phạm các
quy định về tập trung kinh tế;
+ Việc xử lý bằng pháp luật hình sự đối với hành vi HCCT.
- Về thời gian: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài trong giai đoạn từ
năm 2004 (khi Luật Cạnh tranh (2004) đƣợc ban hành) cho đến nay.
- Về không gian: Ngoài Việt Nam, Luận án còn tìm hiểu, so sánh pháp luật
về thủ tục giải quyết vụ việc HCCT của một số quốc gia có kinh nghiệm trong xây
dựng và thực thi pháp luật cạnh tranh hoặc một số quốc gia có điều kiện tƣơng đồng
nhƣ Việt Nam khi chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang kinh tế thị
trƣờng nhƣ: Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Nga...
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án nghiên cứu trên cơ sở lí luận là quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc
trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và phƣơng pháp luận duy
vật biện chứng, phƣơng pháp duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của đề tài. Ngoài ra, phƣơng pháp
luận để tiếp cận nghiên cứu đề tài còn bao gồm phƣơng pháp tƣ duy kinh tế - luật,
phƣơng pháp luận về Nhà nƣớc pháp quyền và cải cách, đổi mới về Nhà nƣớc và
pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp tổng hợp và phân tích: Đƣợc sử dụng chủ yếu trong Chƣơng
3 của Luận án để tập hợp, phân nhóm và phân tích các quy định pháp luật có liên
quan đến việc giải quyết vụ việc HCCT. Ngoài ra, phƣơng pháp tổng hợp và phân
12. 5
tích cũng đƣợc sử dụng để có đƣợc kết quả tổng hợp, có đƣợc các đánh giá và hình
thành các luận cứ khoa học trình bày trong Luận án.
- Phương pháp luật học so sánh: Đƣợc sử dụng xuyên suốt trong Luận án để
so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam với quy định của pháp luật một số
nƣớc trên thế giới về việc giải quyết vụ việc HCCT, qua đó, tiếp thu những yếu tố
thích hợp nhằm hoàn thiện quy trình tố tụng, các quy định về cơ quan tiến hành tố
tụng, ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời tham gia tố tụng đối với việc giải quyết vụ việc
HCCT ở Việt Nam.
- Phương pháp trìu tượng: Đƣợc sử dụng để trên cơ sở các kết quả nghiên
cứu về lý luận và thực tiễn của Luận án, Tác giả sẽ xây dựng nên hệ thống luận
điểm, luận cứ khoa học, đƣa ra phƣơng hƣớng và hệ thống các giải pháp cụ thể
nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc HCCT ở Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu gián tiếp: Đƣợc sử dụng nhằm tổng hợp, phân
tích các tƣ liệu, nhất là tƣ liệu sơ cấp (các báo cáo của cơ quan QLCT, của HĐCT,
của điều tra viên, các quyết định giải quyết vụ việc HCCT…) làm cơ sở thực tiễn
cho việc đánh giá thực trạng việc giải quyết vụ việc HCCT ở Việt Nam.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống, đa ngành, liên ngành: Cung cấp cách tiếp
cận hệ thống, đa ngành, liên ngành khoa học xã hội và nhân văn nhƣ lịch sử, kinh
tế, luật nhằm làm rõ bản chất kinh tế - pháp lý của vụ việc HCCT và việc giải quyết
loại vụ việc này ở Việt Nam; đánh giá mức độ phù hợp hay không phù hợp, tính khả
thi của các quy định có liên quan.
5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án
Thủ tục giải quyết vụ việc HCCT là vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực
tiễn. Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về thủ tục
giải quyết vụ việc HCCT ở Việt Nam hiện nay, Luận án đóng góp một số nhận thức
mới nhƣ sau:
- Hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận riêng về thủ tục giải quyết vụ việc HCCT
bên cạnh hệ thống cơ sở lý luận chung về TTCT, bao gồm: Các khái niệm vụ việc
HCCT, thủ tục giải quyết vụ việc HCCT; các đặc trƣng pháp lý và các nguyên tắc
cơ bản của thủ tục giải quyết vụ việc HCCT; cơ sở pháp lý làm phát sinh vụ việc
HCCT; thiết chế có thẩm quyền giải quyết vụ việc HCCT; nội dung của thủ tục giải
quyết vụ việc HCCT;
- Đƣa ra những nhận xét, đánh giá về thực trạng các quy định pháp luật liên
quan tới từng giai đoạn cụ thể của thủ tục giải quyết vụ việc HCCT bao gồm: Giai
đoạn điều tra vụ việc HCCT; giai đoạn xử lý vụ việc HCCT; giai đoạn giải quyết
13. 6
khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc HCCT và vụ kiện hành chính về quyết định
giải quyết khiếu nại theo Luật Cạnh tranh (2004) và Luật Cạnh tranh (2018);
- Đề xuất định hƣớng và các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc HCCT ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật về thủ tục
giải quyết vụ việc HCCT ở Việt Nam. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của Luận án
cũng có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu cho các nhà lập pháp và thực thi pháp
luật cạnh tranh, là tài liệu tham khảo cho các cơ sở nghiên cứu và giảng dạy về
chính sách, pháp luật cạnh tranh.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận án
đƣợc kết cấu 4 chƣơng, bao gồm:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết nghiên cứu
- Chương 2: Những vấn đề lý luận về thủ tục giải quyết vụ việc hạn chế cạnh tranh
- Chương 3: Thực trạng pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc hạn chế cạnh
tranh và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam hiện nay
- Chương 4: Các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật về thủ tục giải quyết vụ việc hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay.
14. 7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu lý luận về thủ tục giải quyết vụ việc hạn chế cạnh tranh
- Tình hình nghiên cứu về khái niệm, bản chất và các đặc trƣng pháp lý,
vai trò của thủ tục giải quyết vụ việc HCCT
Các nghiên cứu về khái niệm, bản chất pháp lý và vai trò của thủ tục giải
quyết vụ việc HCCT đã đƣợc các công trình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc đề cập
ở những mức độ khác nhau. Cụ thể là:
Về khái niệm vụ việc HCCT và khái niệm thủ tục giải quyết vụ việc HCCT,
tính đến thời điểm hiện nay, mặc dù chƣa có bất kỳ công trình nghiên cứu nào đƣa
ra khái niệm cụ thể và chính xác về vụ việc HCCT và thủ tục giải quyết vụ việc
HCCT, tuy nhiên, có một số công trình nghiên cứu đã đƣa ra khái niệm về VVCT
nhƣ: Bài viết “Một số quy định về TTCT theo Luật Cạnh tranh Việt Nam” của các
tác giả Nguyễn Nhƣ Phát và Lê Anh Tuấn trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, số
213, 1/2006; Chuyên khảo “Bình luận khoa học Luật Cạnh tranh” của TS. Đinh Thị
Mỹ Loan, Nxb Chính trị Quốc gia, 2005; “Giáo trình Luật Cạnh tranh” của tác giả
Tăng Văn Nghĩa, NXB Giáo dục, 2009; Chuyên khảo “Pháp luật cạnh tranh tại
Việt Nam” của các tác giả Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc và Nguyễn Ngọc Sơn,
NXB Tƣ pháp, 2006…Về cơ bản, các công trình này đều thống nhất cho rằng:
VVCT là vụ việc có dấu hiệu vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh bị cơ quan Nhà
nƣớc có thẩm quyền điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật. TS. Đinh Thị Mỹ
Loan trong Bình luận khoa học Luật Cạnh tranh thì cho rằng: TTCT là hoạt động
của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo trình tự, thủ tục giải quyết, xử lý VVCT theo quy
định của Luật Cạnh tranh. Đặc biệt, các tác giả Nguyễn Nhƣ Phát và Lê Anh Tuấn
trong bài viết “Một số quy định về TTCT theo Luật Cạnh tranh Việt Nam” còn chỉ
ra các đặc trƣng pháp lý cơ bản của TTCT: Nếu xét về thẩm quyền vụ việc, TTCT
là tố tụng liên quan đến VVCT; xét về chủ thể tham gia tố tụng, TTCT là hoạt động
của cơ quan hành chính – tƣ pháp, là một trình tự, thủ tục hành chính đặc thù.
Về bản chất pháp lý của thủ tục giải quyết vụ việc HCCT, trong số các công
trình nghiên cứu về TTCT, một số nghiên cứu đã đƣa ra nhận định ở những mức độ
khác nhau về bản chất pháp lý của TTCT. PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa trong “Chuyên
15. 8
khảo Luật kinh tế” cho rằng TTCT là loại thủ tục tố tụng đặc biệt có tính tranh tụng
cao, có sự pha trộn giữa thủ tục tố tụng dân sự với thủ tục tố tụng hành chính và tố
tụng hình sự. Quan điểm này còn có thể tìm thấy trong một số công trình nghiên
cứu khác nhƣ “Giáo trình Luật Cạnh tranh” của tác giả Tăng Văn Nghĩa NXB Giáo
dục, 2009; Sách tham khảo “Bình luận khoa học Luật Cạnh tranh” của TS. Đinh
Thị Mỹ Loan, Nxb Chính trị Quốc gia, 2005; Bài viết “Những vấn đề lý luận cơ bản
của Luật Cạnh tranh” của các tác giả Dƣơng Đăng Huệ, Nguyễn Hữu Huyên trên
Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 9/2004. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới
chỉ có tính chất gợi mở cho những nghiên cứu tiếp theo vì chƣa có đƣợc một sự
đánh giá toàn diện về bản chất pháp lý, các đặc trƣng pháp lý của thủ tục giải quyết
vụ việc HCCT, chƣa có sự so sánh chi tiết với các thủ tục tố tụng khác nhƣ tố tụng
dân sự, hành chính, hình sự trong từng giai đoạn tố tụng cụ thể.
Về vai trò của thủ tục giải quyết vụ việc HCCT và sự cần thiết phải thiết
lập được một quy trình tố tụng hiệu quả để đảm bảo thực thi pháp luật cạnh
tranh, nội dung này đƣợc rất nhiều các công trình nghiên cứu khác nhau cùng đề
cập tới, trong đó tiêu biểu nhƣ: Chuyên khảo “Cạnh tranh và xây dựng pháp luật
cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay” của các tác giả Nguyễn Nhƣ Phát, Trần Đình Hảo
(đồng chủ biên), Nxb Công an Nhân dân, 2001; Sách tham khảo “Tiến tới xây dựng
pháp luật cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam” của các tác giả Nguyễn Nhƣ Phát, Bùi Nguyên Khánh, Nxb Công an Nhân
dân, 2001; Bài viết “Ngày xuân mơ tới xã hội cạnh tranh” của tác giả Phạm Duy
Nghĩa đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5/2003; Bài viết “Những vấn đề lý
luận cơ bản của Luật Cạnh tranh” của các tác giả Dƣơng Đăng Huệ, Nguyễn Hữu
Huyên đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 9/2004; Bài viết “Điều tra, xử lý
VVCT” của tác giả Nguyễn Hữu Huyên đăng trên Tạp chí Luật học số 6/2006; Sách
tham khảo “Luật Cạnh tranh của Pháp và EU” của tác giả Nguyễn Hữu Huyên,
NXB Tƣ pháp, 2004; Sách tham khảo “Các vấn đề pháp lý và thể chế về cạnh tranh
và kiểm soát độc quyền kinh doanh” của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ƣơng (CIEM), Nxb Giao thông Vận tải, 2002; Chuyên khảo “Pháp luật cạnh tranh
tại Việt Nam” của các tác giả Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc và Nguyễn Ngọc
Sơn, NXB Tƣ pháp, 2006; Office of fair trading (OFT), Competition law guideline,
2004, UK; Xuezheng Wang, Competition Law and Policy in China, OECD Document,
2001; Dahuan Tong, Administrative Monopoly is Corruption; Christopher L.Sagers,
Antitrust – Examples & Explanations, Wolters Kluwer, 2011… Các công trình này
đều chi ra tầm quan trọng và sự cần thiết phải xây dựng đƣợc một cơ chế pháp lý
16. 9
minh bạch, nhanh chóng và hiệu quả để đảm bảo thực thi pháp luật cạnh tranh, đặc
biệt là ở các quốc gia chuyển đổi nhƣ Trung Quốc hay Việt Nam.
- Tình hình nghiên cứu lý luận về các chủ thể thực hiện và tham gia vào
thủ tục giải quyết vụ việc HCCT
Hiện tại, không có công trình nghiên cứu trong nƣớc nào nghiên cứu chuyên sâu
về các chủ thể thực hiện và tham gia thủ tục giải quyết vụ việc HCCT, tuy nhiên có khá
nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới các chủ thể tiến hành và tham gia TTCT hoặc
các chủ thể tham gia giải quyết VVCT. Về nội dung này, tác giả Đinh Thị Mỹ Loan
trong cuốn “Bình luận khoa học Luật Cạnh tranh” và tác giả Tăng Văn Nghĩa trong
“Giáo trình Luật Cạnh tranh” đều thống nhất cho rằng, ở Việt Nam hiện nay, cơ quan
tiến hành TTCT gồm có: Cục QLCT và HĐCT, ngƣời tiến hành TTCT gồm có: Thành
viên HĐCT; Thủ trƣởng cơ quan QLCT; Điều tra viên và Thƣ ký PĐT, ngƣời tham gia
TTCT gồm có: Bên khiếu nại; bên bị điều tra; luật sƣ; ngƣời làm chứng; ngƣời giám
định; ngƣời phiên dịch; ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Trong số các chủ thể thực hiện và tham gia vào thủ tục giải quyết vụ việc
cạnh tranh, có rất nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc dành sự quan
tâm đặc biệt tới loại chủ thể là cơ quan tiến hành TTCT. Các công trình nghiên cứu
này chủ yếu tập trung phân tích, đánh giá về bản chất pháp lý của cơ quan QLCT,
cách thức tổ chức và thẩm quyền hoạt động của loại cơ quan này. Có thể liệt kê ra
rất nhiều các công trình nghiên cứu về vấn đề này nhƣ: Bài viết “Về pháp luật cạnh
tranh và kiểm soát độc quyền” của tác giả Phạm Duy Nghĩa đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 5/2001; “Chuyên khảo Luật kinh tế” của tác giả Phạm Duy
Nghĩa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004; Bài viết “Những thách thức pháp lý
đặt ra đối với việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan QLCT ở nước ta hiện
nay” của tác giả Bùi Nguyên Khánh đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 9,
năm 2004; Bài viết “HĐCT trong pháp luật Cộng hoà Pháp và đề xuất một mô hình
thích hợp cho Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hữu Huyên trên Tạp chí Thông tin
Khoa học Pháp lý, Viện KHPL - Bộ Tƣ pháp số tháng 5/2004; Bài viết “Các cơ
quan có thẩm quyền áp dụng Luật Cạnh tranh” của các tác giả Dƣơng Đăng Huệ,
Nguyễn Hữu Huyên trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 9/2006; Bài viết “Mô
hình cơ quan QLCT của Việt Nam” của các tác giả Dƣơng Đăng Huệ, Nguyễn Hữu
Huyên trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1/2004; Bài viết “Cơ quan QLCT ở Việt
Nam – Những bất cập và phương hướng hoàn thiện” của tác giả Trƣơng Hồng
Quang trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 6, 3/2011; Luận án Tiến sỹ luật học
“Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt
17. 10
Nam” của tác giả Đặng Vũ Huân, Đại học Luật Hà Nội, 2002; Kỷ yếu tọa đàm
“Bản chất pháp lí và các yêu cầu cơ bản đối với cơ quan QLCT - Bài học cho Việt
Nam” của Cục QLCT - Bộ Công Thƣơng, Tọa đàm thƣờng kỳ tháng 5.2009; Sách
chuyên khảo “Chính sách và thực tiễn pháp luật cạnh tranh của Cộng hòa Pháp”,
tập 1, của tác giả Dominique Brault do Nhà pháp luật Việt Pháp dịch trong khuôn
khổ dự án hợp tác Việt – Pháp “Hỗ trợ Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế”, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Chuyên khảo “Ảnh hưởng của truyền thống pháp
luật Pháp tới pháp luật Việt Nam” do GS.TS. Arnaud De Raulin - GS.TS. Jean - Paul
Pastorel - PGS.TS. Trịnh Quốc Toản - PGS.TS. Nguyễn Hoàng Anh đồng chủ biên,
Nxb ĐHQGHN, 2016; Office of fair trading (OFT), Competition law guideline, 2004,
UK; C. Douglas Floyd, Antitrust Liability for the Anticompetitive Effects of
Government Action Induced by Fraud, 69 Antitrust L.J. 403 (2001); Christopher
L.Sagers, Antitrust – Examples & Explanations, Wolters Kluwer, 2011… và đặc biệt
là Báo cáo mô hình cơ quan QLCT - Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam,
trong hồ sơ Dự án Luật Cạnh tranh (sửa đổi) năm 2017 của Bộ Công Thƣơng.
Các nghiên cứu kể trên đã chỉ ra rằng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới,
hiếm có một thiết chế nào gây nhiều tranh cãi về bản chất pháp lý nhƣ cơ quan quản
lý Nhà nƣớc về cạnh tranh. Ngƣời ta có nhiều mối nghi ngại về tính hợp hiến trong
tổ chức và hoạt động cũng nhƣ thẩm quyền của cơ quan này, từ đó, dẫn tới không
thống nhất quan điểm về vị trí của nó trong tổ chức bộ máy Nhà nƣớc. Một vài ý
kiến cho rằng thẩm quyền tài phán đối với các VVCT phải đƣợc trao cho một Toà
án chuyên biệt. Thủ tục xét xử mang tính tranh tụng với sự tham gia của các đƣơng
sự, luật sƣ và cơ quan công tố. Một số ý kiến khác lại cho rằng cơ quan cạnh tranh
là một thiết chế có chức năng quản lý, điều tiết hoạt động cạnh tranh, vì vậy, nhất
thiết phải là cơ quan hành chính đƣợc tổ chức dƣới hình thức một Cục thuộc Bộ hay
một Tổng cục trực thuộc Chính phủ. Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức và hoạt động của
phần lớn các cơ quan cạnh tranh trên thế giới hiện nay lại cho thấy: Loại cơ quan
này mang bản chất pháp lý là một thiết chế “lƣỡng tính”, nửa hành chính – nửa tƣ
pháp. Cơ quan cạnh tranh tuy đƣợc đặt trong bộ máy hành chính nhƣng việc đƣa ra
phán quyết lại hoàn toàn độc lập.
- Tình hình nghiên cứu lý luận về trình tự và các giai đoạn của thủ tục
giải quyết vụ việc HCCT
Nghiên cứu về trình tự và các giai đoạn của thủ tục giải quyết VVCT tại Việt
Nam (trong đó bao gồm cả vụ việc HCCT) có một số công trình nghiên cứu nhƣ:
Bài viết “Một số quy định về TTCT theo Luật Cạnh tranh Việt Nam” của các tác giả
18. 11
Nguyễn Nhƣ Phát, Lê Anh Tuấn trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, số 213,
1/2006; “Giáo trình Luật Cạnh tranh”, Chủ biên PGS.TS. Tăng Văn Nghĩa, NXB
Giáo dục, 2009; Sách chuyên khảo “Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam” của các tác
giả Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc và Nguyễn Ngọc Sơn, NXB Tƣ pháp, 2006.
Về cơ bản, các công trình này đều thống nhất cho rằng thủ tục giải quyết vụ việc
HCCT hiện nay ở Việt Nam bao gồm các giai đoạn: Tiếp nhận thông tin hoặc đơn
khiếu nại về vụ việc; điều tra vụ việc; mở PĐT để giải quyết vụ việc; giải quyết
khiếu nại đối với Quyết định xử lý vụ việc HCCT (nếu có); giải quyết vụ kiện hành
chính đối với Quyết định giải quyết khiếu nại của HĐCT (nếu có).
Các công trình nghiên cứu về trình tự và các giai đoạn của thủ tục giải quyết
VVCT tại các nƣớc trên thế giới có thể kể tới: “Luật Cạnh tranh của Cộng hòa
Pháp và EU”, của tác giả Nguyễn Hữu Huyên, NXB Tƣ pháp năm 2004; “Chính
sách và thực tiễn pháp luật cạnh tranh của Cộng Hòa Pháp”, Tập 1 của tác giả
Dominique Brault, Nhà pháp luật Việt Pháp dịch trong khuôn khổ dự án hợp tác Việt –
Pháp “Hỗ trợ Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2005; “Luật chống độc quyền Nhật Bản và kinh nghiệm thực thi” của Cục QLCT - Bộ
Công Thƣơng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007; “Antitrust – Examples &
Explanations”, Christopher L.Sagers, Wolters Kluwer, 2011; “Competition law
guideline”, Office of fair trading (OFT), UK, 2004; “Antitrust law and Economics”,
Ernest Gellhorn, William E.Kovacic, Stephen Calkings, Thomson West, 2004;
“International antitrust law and policy” Competition Law Institute, Fordham
University, 2008;… và đặc biệt là: “Báo cáo kinh nghiệm quốc tế: So sánh pháp luật
cạnh tranh một số nước trên thế giới - bài học kinh nghiệm và đề xuất một số nội
dung cơ bản quy định trong Dự thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi) của Việt Nam” năm
2017 của Bộ Công Thƣơng. Các công trình nghiên cứu này cho rằng thủ tục giải
quyết VVCT của các quốc gia trên thế giới có nhiều điểm khác nhau, song về cơ
bản loại thủ tục này bao gồm các giai đoạn: Tiếp nhận thông tin hoặc thụ lý khiếu nại
(hoặc khởi kiện) về vụ việc; điều tra vụ việc; xử lý vụ việc; giải quyết khiếu nại hoặc
yêu cầu khởi kiện tại Tòa án. Ông Kazuhiro Muruyama - Chuyên viên Phòng nghiên
cứu kinh tế, Cục các vấn đề kinh tế, Ủy ban Thƣơng mại lành mạnh Nhật Bản trong
Khóa đào tạo về kỹ năng nghiên cứu thị trƣờng độc quyền do Cục QLCT Việt Nam
và Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản tổ chức cho rằng: “Thủ tục giải quyết vụ việc
độc quyền tại Nhật Bản bao gồm bốn giai đoạn: Phát hiện hoặc tiếp nhận thông tin
về hành vi vi phạm; điều tra xác minh vụ việc; tổ chức PĐT; giải quyết đơn kiện
nhằm bác bỏ kết luận tại Tòa án cấp cao Tokyo theo thủ tục tư pháp” [24].
19. 12
Có thể nói, các công trình nghiên cứu kể trên đều đã chỉ ra trình tự và các
giai đoạn tố tụng của thủ tục giải quyết VVCT nói chung và thủ tục giải quyết vụ
việc HCCT nói riêng. Tuy nhiên, các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc chỉ ra các
giai đoạn tố tụng chứ chƣa hề có những đánh giá chuyên sâu về nội dung của các
giai đoạn tố tụng đó.
1.1.2. Các nghiên cứu thực trạng pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc
hạn chế cạnh tranh và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam hiện nay
- Tình hình nghiên cứu thực trạng pháp luật về thủ tục giải quyết vụ
việc HCCT ở Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu về địa vị pháp lý và thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ
thống cơ quan cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay gồm có các công trình tiêu biểu
như: Cục QLCT - Bộ Công Thƣơng, Kỷ yếu tọa đàm “Bản chất pháp lý và các yêu
cầu cơ bản đối với cơ quan QLCT - Bài học cho Việt Nam”, tháng 5.2009; Cục
QLCT và Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), “Báo cáo rà soát Luật Cạnh
tranh Việt Nam”, trong khuôn khổ của Dự án “Nâng cao năng lực thực thi Luật và
chính sách cạnh tranh” giữa Cục QLCT và Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản;
Dƣơng Đăng Huệ, Nguyễn Hữu Huyên, “Mô hình cơ quan QLCT của Việt Nam”,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1/2004; Dƣơng Đăng Huệ, Nguyễn Hữu Huyên,
“Các cơ quan có thẩm quyền áp dụng Luật Cạnh tranh”, Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật số 9/2006; Trƣơng Hồng Quang, “Cơ quan QLCT ở Việt Nam – Những bất cập
và phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 6, 3/2011 và đặc
biệt là một tập hợp các công trình nghiên cứu của Bộ Công Thƣơng trong quá trình
soạn thảo Luật Cạnh tranh (2018) với vai trò là cơ quan chủ trì soạn thảo, bao gồm:
Báo cáo tổng kết 12 năm thi hành Luật Cạnh tranh, 2017; Báo cáo kinh nghiệm quốc
tế: So sánh pháp luật cạnh tranh một số nước trên thế giới - bài học kinh nghiệm và
đề xuất một số nội dung cơ bản quy định trong Dự thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi)
của Việt Nam, 2017; Báo cáo mô hình cơ quan QLCT - Kinh nghiệm quốc tế và bài
học cho Việt Nam, 2017; Báo cáo đánh giá tác động của Dự án Luật Cạnh tranh (sửa
đổi), 2017; Tờ trình Chính phủ về Dự án Luật Cạnh tranh (sửa đổi), 2017.
Về địa vị pháp lý của cơ quan cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, các nghiên
cứu kể trên đã chỉ ra một số nghi ngại về tính độc lập của Cục QLCT và HĐCT khi
tiến hành giải quyết các vụ việc HCCT. Trong điều kiện nƣớc ta hiện nay, các
doanh nghiệp Nhà nƣớc đang giữ hầu hết các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, do
đó, đối tƣợng điều tra của Cơ quan QLCT có thể sẽ là các Tổng công ty Nhà nƣớc,
các Tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nƣớc. Nếu không có một vị thế đủ mạnh thì Cơ
20. 13
quan QLCT sẽ không thể thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình. Ngoài ra, việc đặt
Cơ quan QLCT trực thuộc Bộ Công Thƣơng sẽ khó đảm bảo đƣợc tính độc lập cho
cơ quan này trong hoạt động điều tra về các VVCT.
Về tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan cạnh tranh, các công trình
nghiên cứu kể trên cho thấy mô hình cơ quan cạnh tranh của Việt Nam theo Luật
Cạnh tranh (2004) hiện nay bao gồm hai cơ quan là Cục QLCT và HĐCT, trong đó:
Cục QLCT đảm nhận vai trò phát hiện, điều tra, thu thập, tìm kiếm các chứng cứ có
liên quan đến VVCT và lập báo cáo điều tra; còn HĐCT đảm nhận chức năng xử lý
(thông qua Hội đồng xử lý VVCT) và giải quyết các khiếu nại về quyết định xử lý
vụ việc. HĐCT tranh có thể bao gồm từ 11 đến 15 thành viên (hiện nay đang là 11
thành viên) đại diện của các cơ quan nhƣ Bộ Công Thƣơng, Bộ Tƣ Pháp, Bộ Tài
chính, Bộ Kế hoạch Đầu tƣ, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Xây dựng... do Thủ tƣớng
bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trƣởng Bộ Công Thƣơng. Tuy nhiên, theo cơ chế
hoạt động hiện nay, thành viên của HĐCT hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm nên
thời gian dành cho việc nghiên cứu vụ việc không nhiều. Bên cạnh đó, các thành
viên HĐCT do không tham gia điều tra VVCT từ thời điểm ban đầu nên việc ra
quyết định xử lý gặp nhiều khó khăn, ảnh hƣởng đến tính hiệu quả của thủ tục giải
quyết vụ việc HCCT.
Nghiên cứu các quy định pháp luật về việc khiếu nại VVCT, trong “Giáo
trình luật kinh tế”, NXB Công an Nhân dân, 2011 và “Chuyên khảo Luật kinh tế”,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004 của PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa và “Báo cáo rà
soát Luật Cạnh tranh Việt Nam” trong khuôn khổ của Dự án “Nâng cao năng lực
thực thi Luật và Chính sách cạnh tranh” giữa Cục QLCT và Cơ quan Hợp tác quốc
tế Nhật Bản đã cho rằng mặc dù Điều 58 Luật Cạnh tranh (2004) có quy định: “Tổ
chức, cá nhân cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm do hành
vi vi phạm của Luật Cạnh tranh có quyền khiếu nại đến cơ quan cạnh tranh”, tuy
nhiên, trách nhiệm của ngƣời khiếu nại là phải cung cấp cho cơ quan cạnh tranh
chứng cứ về hành vi vi phạm và phải chịu trách nhiệm về tính trung thực của chứng
cứ đã cung cấp. Hồ sơ khiếu nại của tổ chức, cá nhân gửi đến cơ quan cạnh tranh
đƣợc yêu cầu và liệt kê cụ thể tại Điều 45 Nghị định 116/NĐ-CP. Quy định về thủ
tục khiếu nại với những đòi hỏi về chứng cứ chứng minh nhƣ trên nhằm nhằm ngăn
chặn các khiếu nại vô căn cứ, giảm sức ép về công việc cho cơ quan cạnh tranh.
Tuy nhiên, chính những yêu cầu và trách nhiệm này lại gây ra những khó khăn và
gánh nặng cho bên khiếu nại khi hành vi có dấu hiệu vi phạm Luật Cạnh tranh là có
thật, nhƣng không thể thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh cho hành vi vi phạm.
21. 14
Những trở ngại này dẫn đến việc bên khiếu nại dễ dàng bỏ qua hành vi vi phạm do
những rƣờm rà trong thủ tục khiếu nại.
Nghiên cứu các quy định pháp luật về quy trình điều tra, xử lý vụ việc
HCCT, trong “Báo cáo rà soát Luật Cạnh tranh Việt Nam” của Cục QLCT và Cơ
quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản, “Báo cáo tổng kết 12 năm thi hành Luật Cạnh
tranh” và “Tờ trình Chính phủ về Dự án Luật Cạnh tranh (sửa đổi)” của Bộ Công
Thƣơng đã cho rằng:
+ Về thời hạn điều tra, những VVCT thƣờng mang tính chất phức tạp, đặc biệt
vụ việc HCCT, không chỉ đòi hỏi những phân tích về quy định của pháp luật, mà còn
dựa trên các phân tích kinh tế. Bằng chứng, thông tin trong một vụ việc không chỉ thu
thập tại một thời điểm mà còn cả một quá trình, từ trƣớc và sau khi diễn ra hành vi vi
phạm của doanh nghiệp. Ngoài 30 ngày điều tra sơ bộ, 150 ngày (kể cả thời gian gia
hạn) đối với vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và 300 ngày (kể cả 2 lần gia hạn)
đối với vụ việc HCCT là khoảng thời gian quá ngắn để cơ quan cạnh tranh có thể thu
thập tất cả các thông tin cần thiết, và đƣa ra kết luận chính xác.
+ Về thời hạn ra quyết định xử lý vụ việc HCCT, trong vòng 30 ngày kể từ
ngày nhận đƣợc hồ sơ VVCT, Hội đồng xử lý vụ việc phải ra một trong các quyết
định mở PĐT, hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hoặc đình chỉ giải quyết VVCT.
Trên thực tế, vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trƣờng, vị trí độc quyền là những
vụ việc rất phức tạp, hồ sơ vụ việc có thể lên đến hàng nghìn bút lục. Trong khi đó,
các thành viên Hội đồng xử lý thƣờng là những cán bộ kiêm nhiệm, không chuyên
trách, vì vậy, khoảng thời hạn 30 ngày để đƣa ra quyết định xử lý vụ việc là không
hợp lý. Đối với một vụ việc đƣợc thu thập thông tin và chứng cứ trong khoảng thời
gian gần một năm, trong vòng 30 ngày, các thành viên của Hội đồng xử lý VVCT
khó có thể hiểu đƣợc một cách rõ ràng mọi thông tin vụ việc, điều này ảnh hƣởng
đến tính chính xác của quyết định xử lý vụ việc.
Nghiên cứu về việc giải quyết yêu cầu khởi kiện của tổ chức, cá nhân đối với
Quyết định giải quyết khiếu nại của HĐCT, “Báo cáo tổng kết 12 năm thi hành Luật
Cạnh tranh” của Bộ Công Thƣơng đã cho rằng trong thực tế VVCT thƣờng có sự liên
quan của hai hay nhiều doanh nghiệp. HĐCT sau khi đã ra quyết định xử lý, các doanh
nghiệp dù là bị đơn hay nguyên đơn cũng đều có quyển khởi kiện khiếu nại về quyết
định của HĐCT tới các Tòa án cấp Tỉnh và Thành phố trực thuộc Trung ƣơng. Vì vậy,
khả năng có thể xảy ra là HĐCT sẽ phải theo đuổi vụ kiện với danh nghĩa là bị đơn ở
rất nhiều nơi khi mà các doanh nghiệp khiếu nại khởi kiện tại các địa phƣơng khác
nhau. Điều này là bất hợp lý và gây khó khăn cho hoạt động của HĐCT.
22. 15
- Tình hình nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về thủ tục giải quyết
vụ việc HCCT ở Việt Nam hiện nay
Bộ Công Thƣơng thông qua “Báo cáo tổng kết 12 năm thi hành Luật Cạnh
tranh” đã chỉ ra rằng việc giải quyết vụ việc HCCT nói riêng và VVCT nói chung ở
Việt Nam hiện nay rất kém hiệu quả. Theo tính toán của Bộ Công Thƣơng thì sau
12 năm thi hành Luật Cạnh tranh (2004), Cơ quan QLCT mới chỉ điều tra đƣợc 08
vụ việc HCCT và trong số đó chỉ 06 vụ việc đƣợc HĐCT ra quyết định xử lý. Đồng
thời, thời gian giải quyết vụ việc thƣờng rất dài, trung bình khoảng 03 năm/vụ.
1.1.3. Các nghiên cứu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay
Đây là nội dung có ít các công trình nghiên cứu đề cập tới, hoặc nếu có đề
cập tới thì chỉ mang tính riêng lẻ cho một số khía cạnh cụ thể nào đó của thủ tục giải
quyết vụ việc HCCT. Qua nghiên cứu các công trình có tính tiêu biểu, tác giả Luận
án tập hợp đƣợc một số kiến nghị chủ yếu sau:
Về yêu cầu phải tách biệt giữa thủ tục giải quyết VVCT không lành mạnh
và thủ tục giải quyết vụ việc HCCT, PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa qua “Chuyên khảo
Luật kinh tế” cho rằng để xây dựng đƣợc một quy trình tố tụng hiệu quả trong giải
quyết vụ việc HCCT, về phƣơng diện lý luận, nhất thiết chúng ta phải làm rõ đƣợc
các đặc trƣng pháp lý cơ bản của loại vụ việc này. Pháp luật điều chỉnh hành vi
cạnh tranh không lành mạnh (hay còn đƣợc gọi là hành vi thƣơng mại không lành
mạnh) là mảng pháp luật thiên về khía cạnh luật tƣ, do đó, thủ tục giải quyết loại vụ
việc này phải đƣợc thiết lập theo nguyên tắc của luật tƣ, có nghĩa là: chỉ có sự tham
gia của Tòa án khi có đơn yêu cầu của bên bị thiệt hại, đồng thời, nghĩa vụ chứng
minh thuộc về ngƣời đƣa ra tố quyền (theo nguyên tắc của tố tụng dân sự: Ngƣời
nào đƣa ra yêu cầu, ngƣời đó có nghĩa vụ chứng minh), còn đối với mảng pháp luật
chống HCCT, do đặc thù của loại hành vi HCCT không xâm hại một cách trực tiếp
đến một đối tƣợng cụ thể nào mà thƣờng gây tổn hại cho nền kinh tế nói chung và
cho ngƣời tiêu dùng nên thủ tục tố tụng để xử lý loại vụ việc này về cơ bản là thủ
tục của luật công. Vụ việc HCCT có thể đƣợc khởi xƣớng bởi tố quyền của bất kì
chủ thể nào hoặc sự chủ động nhập cuộc của cơ quan QLCT với vai trò nhƣ “Cơ
quan công tố”. Nghĩa vụ thu thập và xác minh chứng cứ thuộc về cơ quan điều tra.
Ngay trong số các hành vi HCCT cũng bao hàm những nhóm hành vi có tính chất
không giống nhau và việc thiết kế thủ tục giải quyết vụ việc HCCT cũng cần lƣu ý
đặc biệt đến những sự khác biệt này. Luật Cạnh tranh (2004) chƣa phân tách rõ
nghĩa vụ chứng minh trong các loại tranh tụng khác nhau trƣớc cơ quan cạnh tranh,
mà chỉ quy định chung về quyền điều tra của cơ quan này [46, tr. 830].
23. 16
Liên quan đến quy định về quyền khiếu nại vụ việc HCCT, “Báo cáo rà
soát Luật Cạnh tranh Việt Nam” trong khuôn khổ của Dự án “Nâng cao năng lực
thực thi Luật và Chính sách cạnh tranh” giữa Cục QLCT và Cơ quan Hợp tác quốc
tế Nhật Bản cho rằng: Đối với việc cá nhân, tổ chức thực hiện quyền khiếu nại về
hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh cần phải có sự điều chỉnh, tạo điều kiện thuận
lợi cho bên khiếu nại tố cáo, thông báo hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật tới cơ
quan cạnh tranh. Thay vì thủ tục khiếu nại với nghĩa vụ chứng minh thuộc bên khiếu
nại, cơ quan cạnh tranh cần phải có cơ chế tiếp nhận tất cả các thông tin về các vấn đề
của thị trƣờng để từ đó ra quyết định can thiệp trong trƣờng hợp cần thiết. Điều này
sẽ dẫn tới một số thay đổi cơ bản về thủ tục khiếu nại và thụ lý đơn khiếu nại. Tất cả
các tổ chức, cá nhân đều có quyền khiếu nại về các hành vi vi phạm pháp luật cạnh
tranh thay vì chỉ ngƣời chịu thiệt hại bởi hành vi vi phạm mới có quyền khiếu nại nhƣ
hiện nay. Ngƣời khiếu nại có thể cung cấp thông tin, chứng cứ về khiếu nại của mình,
tuy nhiên, đây không nên là một nghĩa vụ bắt buộc. Cơ quan cạnh tranh cần có thẩm
quyền đánh giá các khiếu nại và lựa chọn các vụ việc để điều tra và xử lý. Nghĩa vụ
chứng minh trong mọi trƣờng hợp thuộc cơ quan cạnh tranh.
Về thời hạn điều tra, thời hạn ra quyết định xử lý vụ việc HCCT, “Báo cáo
tổng kết 12 năm thi hành Luật Cạnh tranh” và “Tờ trình Chính phủ về Dự án Luật
Cạnh tranh (sửa đổi)” của Bộ Công Thƣơng cho rằng việc quy định về thời hạn
điều tra và xử lý VVCT nhằm đảm bảo tiến độ giải quyết vụ việc, đồng thời, nâng
cao trách nhiệm cho các cơ quan điều tra và xử lý trong giải quyết VVCT. Tuy
nhiên, mặt trái của việc quy định thời hạn đó là không có nhiều thời gian để điều tra
viên và thành viên HĐCT phân tích vụ việc một cách chính xác, toàn diện. Vì vậy,
Việt Nam cần học tập theo các quốc gia có kinh nghiệm thực thi pháp luật cạnh
tranh nhƣ Nhật Bản, Hoa Kỳ hay Châu Âu, theo đó thời hạn điều tra của các VVCT,
đặc biệt là liên quan đến hành vi HCCT thƣờng không quy định hay ràng buộc. Tại
các quốc gia này, có những VVCT mà việc điều tra kéo dài hơn 2 năm, thậm chí là
5 năm, phụ thuộc vào tính chất phức tạp của vụ việc.
Về vấn đề khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại của HĐCT, “Báo cáo
tổng kết 12 năm thi hành Luật Cạnh tranh”, “Báo cáo kinh nghiệm quốc tế: so sánh
pháp luật cạnh tranh một số nước trên thế giới - bài học kinh nghiệm và đề xuất
một số nội dung cơ bản quy định trong Dự thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi) của Việt
Nam” của Bộ Công Thƣơng cho rằng: Theo quy định của Luật Cạnh tranh (2004)
hiện nay, nếu tổ chức, cá nhân nộp đơn khởi kiện ra Tòa án cấp Tỉnh nào (nơi cƣ
trú, nơi làm việc hoặc trụ sở của bên khởi kiện) thì HĐCT phải theo kiện tại Tỉnh
24. 17
đó. Quy định nhƣ vậy gây khó khăn rất lớn cho cơ quan cạnh tranh trong bối cảnh
nguồn lực có hạn mà thời gian tố tụng lại dài. Chính vì vậy, việc giải quyết vụ kiện
hành chính về Quyết định giải quyết khiếu nại của HĐCT cần có quy định tập trung
tại các đầu mối, các trung tâm đầu não về kinh tế, chính trị đặt tại các địa phƣơng một
cách hợp lý, vừa phục vụ việc thụ lý vụ án phù hợp với nguyện vọng của các bên
đƣơng sự, vừa tạo điều kiện cho cơ quan quản lý nhà nƣớc về cạnh tranh thuận lợi
trong việc theo kiện cũng nhƣ làm giảm tình trạng khiếu kiện tràn lan có thể xảy ra.
1.1.4. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề mà Luận án kế thừa
Trên cơ sở khảo sát các nghiên cứu trong và ngoài nƣớc về thủ tục giải quyết
vụ việc HCCT, Luận án rút ra những đánh giá chính yếu sau đây:
- Một là: Tại Việt Nam hiện nay, ngoài một số nghiên cứu, đánh giá riêng rẽ
có tính chất gợi mở cho những nghiên cứu tiếp theo liên quan đến từng nội dung cụ
thể của thủ tục giải quyết vụ việc HCCT, chƣa có một công trình nào nghiên cứu
một cách toàn diện, có hệ thống và chuyên sâu về thủ tục giải quyết vụ việc HCCT.
Sự mới mẻ trong nhận thức về TTCT nói chung cũng nhƣ thủ tục giải quyết vụ việc
HCCT nói riêng cộng với thực tiễn và kinh nghiệm ít ỏi trong việc xử lý các vụ việc
HCCT trong 12 năm thực thi Luật Cạnh tranh (2004) ở Việt Nam đã khiến cho các
nghiên cứu về thủ tục giải quyết vụ việc HCCT chƣa thật sự sôi nổi nhƣ nhiều lĩnh
vực nghiên cứu truyền thống khác.
- Hai là: Trên bình diện thế giới, mặc dù đã có rất nhiều các công trình nghiên
cứu về mô hình TTCT nói chung cũng nhƣ thủ tục giải quyết vụ việc HCCT nói riêng
của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh là một lĩnh vực đặc thù, mô hình
TTCT lại càng đặc thù hơn vì nó phụ thuộc vào cách thức tổ chức bộ máy quyền lực
Nhà nƣớc nói chung và hệ thống thiết chế thực thi chính sách và pháp luật cạnh tranh
nói riêng, phụ thuộc vào truyền thống tố tụng và các nền tảng kinh tế, xã hội, pháp lý
của mỗi quốc gia. Do đó, các công trình nghiên cứu này chỉ có giá trị tham khảo để
chọn lọc ra các yếu tố thích hợp, có giá trị trong việc xây dựng một mô hình tố tụng
hiệu quả cho việc giải quyết các vụ việc HCCT ở Việt Nam.
Những kết quả nghiên cứu đã đạt được sẽ được kế thừa trong Luận án
+ Kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu hiện nay đều xác định
rõ tầm quan trọng của thủ tục TTCT nói chung cũng nhƣ thủ tục giải quyết vụ việc
HCCT nói riêng. Tất cả các nghiên cứu của các tác giả khác nhau về giải quyết vụ
việc HCCT đều thống nhất cho rằng việc xây dựng một quy trình tố tụng minh
bạch, công bằng, khách quan và hợp lý là điều kiện bắt buộc cho việc sử lý có hiệu
quả các vụ việc HCCT ở Việt Nam hiện nay.
25. 18
+ Để xây dựng đƣợc một quy trình tố tụng hiệu quả trong việc giải quyết vụ
việc HCCT, nhất thiết phải có sự phân biệt giữa thủ tục giải quyết vụ việc HCCT
với thủ tục giải quyết VVCT không lành mạnh. Theo đó, các quy định về tố quyền
và việc đảm bảo thực hiện tố quyền, mở thủ tục điều tra, nghĩa vụ chứng minh và
cung cấp chứng cứ phải có sự phân biệt rõ đối với hai loại VVCT vốn có tính chất
khác nhau này.
+ Các nghiên cứu trong và ngoài nƣớc đều cho thấy dù ở các quốc gia khác
nhau, việc thiết lập mô hình TTCT và thiết chế thực thi pháp luật cạnh tranh khác
nhau, song thủ tục TTCT nói chung và thủ tục giải quyết vụ việc HCCT nói riêng
đều có đặc điểm là loại thủ tục tố tụng có tính chất đặc thù, có sự pha trộn giữa tố
tụng hành chính, dân sự và hình sự, đồng thời có tính tranh tụng cao. Phán quyết
của cơ quan cạnh tranh có thể bị xem xét lại bởi Toà án.
+ Cơ quan QLCT ở các quốc gia khác nhau đƣợc tổ chức rất khác nhau theo
các mô hình thuộc Nghị viện, Chính phủ hay một Bộ nào đó, song, đều có tính chất
“lƣỡng tính”, có sự pha trộn giữa cơ quan hành chính và cơ quan tƣ pháp, đều phải
đƣợc tổ chức một cách độc lập với thẩm quyền đủ mạnh để thực thi các chính sách
và pháp luật cạnh tranh một cách hiệu quả.
+ Về cơ bản, các nghiên cứu đều chỉ ra rằng thủ tục giải quyết vụ việc HCCT
thƣờng bao gồm các giai đoạn chính nhƣ: Tiếp nhận khiếu nại và thông tin về vụ
việc; điều tra; xử lý; và xem xét lại các quyết định xử lý. Hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều trao thẩm quyền điều tra và xử lí vụ việc HCCT cho một cơ quan để
đảm bảo tính thống nhất, liên tục của thủ tục tố tụng còn chức năng xem xét lại
quyết định xử lý vụ việc thƣờng đƣợc trao cho Tòa án cấp cao.
1.1.5. Những vấn đề mà Luận án tiếp tục triển khai nghiên cứu
- Về hệ thống khái niệm liên quan đến thủ tục giải quyết vụ việc HCCT, mặc dù
có một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc có đƣa ra một số khái niệm nhƣng
thƣờng có tính chất bao quát về TTCT nói chung nhƣ: Khái niệm VVCT; khái niệm
TTCT; cơ quan tiến hành TTCT; ngƣời tiến hành TTCT; ngƣời tham gia TTCT… chứ
chƣa có công trình nào đƣa ra một hệ thống các khái niệm riêng cho thủ tục giải quyết vụ
việc HCCT nhƣ: Khái niệm vụ việc HCCT; khái niệm thủ tục giải quyết vụ việc HCCT;
khái niệm cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời tham gia tố tụng đối
với vụ việc HCCT... Luận án sẽ tiếp tục làm rõ các khái niệm này.
- Kế thừa các kết quả nghiên cứu lý luận về TTCT, Luận án sẽ tập trung làm
rõ bản chất pháp lý và các đặc trƣng cơ bản của thủ tục giải quyết vụ việc HCCT,
các nội dung của thủ tục giải quyết vụ việc HCCT.
26. 19
- Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc
HCCT ở Việt Nam hiện nay và thực tiễn thi hành các quy định này trên các khía cạnh:
Cơ sở pháp lý làm phát sinh vụ việc HCCT; các chủ thể tiến hành và tham gia vào thủ
tục giải quyết vụ việc HCCT, đặc biệt là mối quan hệ giữa Cơ quan QLCT với HĐCT;
các giai đoạn, quy trình của thủ tục giải quyết vụ việc HCCT... Việc đánh giá đƣợc
thực hiện không chỉ đối với các quy định của Luật Cạnh tranh (2004) và các văn bản
hƣớng dẫn thi hành mà còn dựa trên các quy định của Luật Cạnh tranh (2018).
- Nghiên cứu so sánh với pháp luật nƣớc ngoài, thông lệ quốc tế, đối chiếu
với mô hình lý thuyết để từ đó đề xuất những định hƣớng và giải pháp hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc HCCT ở Việt
Nam hiện nay.
1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu
1.2.1. Lý thuyết nghiên cứu
Luận án đƣợc thực hiện trên nền tảng mối quan hệ giữa “pháp luật nội dung”
và “pháp luật hình thức”. Theo đó, hiệu quả của thủ tục giải quyết vụ việc HCCT
đƣợc đánh giá trên cơ sở khả năng đƣa các quy định “nội dung” của pháp luật chống
HCCT vào thực tiễn cuộc sống nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
lĩnh vực này phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Luận án cũng đƣợc thực hiện trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với điều
kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam, những luận cứ khoa học, các học thuyết
pháp lý đã đƣợc khẳng định cả về lý luận và thực tiễn trên thế giới nhƣ: Lý thuyết
cạnh tranh của trƣờng phái cổ điển (lý thuyết về cạnh tranh của Adam Smith, của
Jonh Stuart Mill…); lý thuyết cạnh tranh của trƣờng phái tân cổ điển (lý thuyết của Keynes);
lý thuyết cạnh tranh tự do; lý thuyết Chiến lƣợc cạnh tranh của Michael E. Porter; lý thuyết
về mối quan hệ kinh tế - luật trong lĩnh vực cạnh tranh…
Trong quá trình phân tích, đánh giá pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc
hạn chế cạnh tranh, Luận án cũng đƣợc thực hiện trên cơ sở vận dụng các lý
thuyết về chính sách ngành; lý thuyết về thị trƣờng liên quan (đặc biệt xác định thị
trƣờng liên quan trong nền kinh tế số); lý thuyết về thủ tục hành chính và giải
quyết vụ án hành chính.
1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án đƣợc triển khai với các câu hỏi nghiên cứu tập trung vào các khía
cạnh: Lý luận, thực tiễn pháp lý và các đề xuất kiến nghị liên quan tới pháp luật về
thủ tục giải quyết vụ việc HCCT ở Việt Nam hiện nay. Một số câu hỏi nghiên cứu
cụ thể đã đƣợc đặt ra trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài, bao gồm:
27. 20
- Vụ việc HCCT là gì? Loại vụ việc này có gì giống và khác trong mối tƣơng
quan với VVCT nói chung, vụ việc vi phạm quy định về tập trung kinh tế và vụ việc
cạnh tranh không lành mạnh? Vụ việc HCCT phát sinh khi nào?
- Thủ tục giải quyết vụ việc HCCT là gì? Bản chất, các đặc trƣng pháp lý và
các nguyên tắc cơ bản của thủ tục giải quyết vụ việc HCCT?
- Pháp luật các nƣớc có kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực thi pháp luật
cạnh tranh trên thế giới thƣờng quy định thủ tục giải quyết vụ việc HCCT bao gồm
những giai đoạn, quy trình, thủ tục nào? Với sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân nào vào các giai đoạn, quy trình, thủ tục đó nhằm giải quyết vụ việc HCCT?
- Thực trạng các quy định pháp luật Việt Nam hiện nay về thủ tục giải quyết
vụ việc HCCT? Tính hợp lý và hiệu quả trong quá trình áp dụng các quy định đó?
- Để nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật về thủ tục giải quyết
vụ việc HCCT ở Việt Nam hiện nay cần hoàn thiện pháp luật theo định hƣớng nhƣ
thế nào? Và các giải pháp cụ thể?
1.2.3. Giả thuyết nghiên cứu
Để thực hiện Luận án, tác giả đặt ra các giả thuyết nghiên cứu cơ bản sau:
- Ở Việt Nam hiện nay, chƣa có cách hiểu thống nhất về vụ việc HCCT và
thủ tục giải quyết vụ việc HCCT. Khái niệm vụ việc HCCT bị đánh đồng với khái
niệm vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và vụ việc vi phạm quy định về tập trung
kinh tế trong khái niệm VVCT.
- Nội dung cơ bản của thủ tục giải quyết vụ việc HCCT là việc các cơ quan,
tổ chức, cá nhân theo thẩm quyền tiến hành các hoạt động theo trình tự, thủ tục mà
pháp luật quy định để giải quyết vụ việc HCCT. Thủ tục giải quyết vụ việc HCCT
có thể bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau.
- Các quy định pháp luật về thủ tục thủ tục giải quyết vụ việc HCCT ở Việt
Nam hiện nay còn nhiều hạn chế, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của thực tiễn.
- Các quy định về thủ tục giải quyết vụ việc HCCT của Luật Cạnh tranh
(2018) thay thế cho Luật Cạnh tranh (2004) có nhiều thay đổi tiến bộ song vẫn chƣa
thực sự hoàn hảo. Pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc HCCT ở Việt Nam hiện
nay vẫn cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện.
28. 21
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Tại Việt Nam hiện nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu về chính sách và
pháp luật cạnh tranh, tuy nhiên, chƣa có một công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ
thống và chuyên sâu về thủ tục giải quyết vụ việc HCCT, đặc biệt là nghiên cứu về
thủ tục giải quyết vụ việc HCCT theo Luật Cạnh tranh (2018). Một số nghiên cứu,
đánh giá về TTCT nói chung của các tác giả sẽ có ý nghĩa gợi mở, làm cơ sở cho tác
giả trong việc nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục giải quyết vụ việc HCCT.
Trên bình diện thế giới, mặc dù đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về
mô hình TTCT nói chung cũng nhƣ thủ tục giải quyết vụ việc HCCT nói riêng của
nhiều quốc gia. Tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh là một lĩnh vực đặc thù, mô hình
TTCT lại càng đặc thù hơn vì nó phụ thuộc vào cách thức tổ chức bộ máy quyền lực
Nhà nƣớc nói chung và hệ thống thiết chế thực thi chính sách và pháp luật cạnh
tranh nói riêng, phụ thuộc vào truyền thống tố tụng và các nền tảng kinh tế, xã hội,
pháp lý của mỗi quốc gia. Do đó, các công trình nghiên cứu này chỉ có giá trị tham
khảo để chọn lọc ra các yếu tố thích hợp, có giá trị trong việc xây dựng một mô
hình tố tụng hiệu quả cho việc giải quyết các vụ việc HCCT ở Việt Nam.
Qua đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc về
thủ tục giải quyết vụ việc HCCT, tác giả Luận án nhận thấy có nhiều nội dung sẽ
đƣợc kế thừa trong Luận án, đó là:
- Tất cả các công trình nghiên cứu đều thống nhất cho rằng việc xây dựng
một quy trình tố tụng minh bạch, công bằng, khách quan và hiệu quả là điều kiện
bắt buộc cho việc xử lý các vụ việc HCCT.
- Về cơ bản, thủ tục giải quyết VVCT trong đó có vụ việc HCCT của các nƣớc
trên thế giới thƣờng bao gồm các giai đoạn chính nhƣ: Tiếp nhận thông tin và khiếu nại
về vụ việc; điều tra vụ việc; xử lý vụ việc; và xem xét lại các quyết định xử lý.
- Khi thiết kế mô hình cơ quan cạnh tranh - loại chủ thể chủ yếu của thủ tục
giải quyết vụ việc HCCT, pháp luật các quốc gia đều phải đảm bảo sự độc lập và
thẩm quyền đủ mạnh trong tổ chức và hoạt động của loại cơ quan này. Các cơ quan
cạnh tranh hiện nay trên thế giới đều đƣợc tổ chức với bản chất pháp lý là một thiết
chế “lƣỡng tính”, bán hành chính - bán tƣ pháp.
- Để xây dựng đƣợc một quy trình tố tụng hiệu quả trong việc giải quyết vụ việc
HCCT, nhất thiết phải có sự phân biệt giữa thủ tục giải quyết vụ việc HCCT với thủ tục
giải quyết vụ việc cạnh tranh không lành mạnh. Theo đó, các quy định pháp luật về
quyền khiếu nại, nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ, thời hiệu khiếu nại và
điều tra... phải có sự phân biệt rõ giữa hai loại vụ việc vốn có tính chất khác nhau này.
29. 22
Chƣơng 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT
VỤ VIỆC HẠN CHẾ CẠNH TRANH
2.1. Những vấn đề lý luận về thủ tục giải quyết vụ việc hạn chế cạnh tranh
2.1.1. Bản chất kinh tế - pháp lý và nhu cầu xử lý các hành vi hạn chế
cạnh tranh
Từ tự do cạnh tranh tới độc quyền và lũng đoạn thị trƣờng là con đƣờng rất
ngắn của doanh nghiệp. Tại Hoa Kỳ, ban đầu “các hành vi lũng đoạn thị trường gây
hậu quả xấu đến tình hình kinh tế - xã hội được coi là một dạng của cạnh tranh không
lành mạnh” [82, tr. 49]. Tuy nhiên, sau đó, ngƣời ta nhận ra rằng bản chất và những
biểu hiện của hành vi HCCT là rất khác so với hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Biểu hiện của hành vi HCCT là luôn hƣớng tới việc hình thành sức mạnh thị
trƣờng hoặc lạm dụng sức mạnh thị trƣờng làm cho tình trạng cạnh tranh trên thị
trƣờng bị bóp méo. Hành vi HCCT trên thị trƣờng thƣờng thể hiện dƣới các dạng thức:
Thỏa thuận HCCT; lạm dụng quyền lực thị trƣờng (với vị trí thống lĩnh thị trƣờng hoặc
độc quyền) và tập trung kinh tế. Tác động của hành vi HCCT là gây ra sự biến dạng
của môi trƣờng cạnh tranh, làm thay đổi cấu trúc thị trƣờng, làm cản trở cạnh tranh trên
thị trƣờng, gây thiệt hại cho toàn bộ nền kinh tế và ngƣời tiêu dùng [27, tr. 23].
Trên thị trƣờng cạnh tranh luôn tồn tại những doanh nghiệp lớn, nhỏ với sức
mạnh thị trƣờng và năng lực cạnh tranh khác nhau, nhƣng các doanh nghiệp lớn
luôn có xu hƣớng gây tác động HCCT trên thị trƣờng, bởi sức ép cạnh tranh dù
mang lại những giá trị lớn lao cho nhân loại nhƣng lại là sức ép đáng sợ nhất với
giới thƣơng nhân [46, tr. 779]. Trong một thị trƣờng cạnh tranh gắt gao, doanh
nghiệp phải chia sẻ thị phần và các nguồn lực sản xuất cho các doanh nghiệp khác,
đồng thời để có thể tồn tại đƣợc, doanh nghiệp sẽ phải mất nhiều chi phí cho việc
nâng cao năng lực cạnh tranh và điều này làm giảm lợi nhuận của họ. Do đó, giảm
sức ép cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh - thƣơng mại bằng cách hạn chế cạnh
tranh của doanh nghiệp khác là cách thức thƣờng thấy từ các doanh nghiệp lớn, có
quyền lực thị trƣờng. Thậm chí, trong trƣờng hợp không có đủ quyền lực thị trƣờng
để tự mình HCCT của doanh nghiệp khác, họ có thể loại bỏ sức ép cạnh tranh bằng
cách thỏa thuận với chính đối thủ cạnh tranh nhằm triệt tiêu sức ép cạnh tranh từ
bên trong nhóm doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, đồng thời ngăn cản các doanh
nghiệp tiềm năng nhập cuộc, tẩy chay, loại bỏ các đối thủ cạnh tranh khác trên thị
trƣờng. Khi đã có quyền lực thị trƣờng trong tay, doanh nghiệp sẽ tìm cách tối đa
30. 23
hóa lợi nhuận để bù đắp chi phí đã mất bằng cách tăng giá sản phẩm, bóc lột bạn
hàng và ngƣời tiêu dùng. Có thể nói rằng, xét về bản chất, các hành vi HCCT trƣớc
tiên mang bản chất kinh tế, bởi lẽ:
- Thứ nhất: Chủ thể thực hiện các hành vi HCCT theo nghĩa nguyên thủy là
thƣơng nhân hoặc các hiệp hội thƣơng nhân (doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp).
Các cơ quan công quyền, cơ quan quản lý Nhà nƣớc đôi khi cũng thực hiện những
hành vi gây HCCT thông qua việc sử dụng quyền lực Nhà nƣớc nhằm tạo ra những
đặc lợi cho doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp này nhƣng lại gây bất lợi trong cạnh
tranh cho những doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, việc điều tiết hành vi của nhóm chủ
thể này rất đặc thù và cần tới những công cụ đặc thù nhƣ “cơ chế bảo hiến” hay Tòa
hành chính [78, tr. 8].
- Thứ hai: Các hành vi HCCT đƣợc thực hiện trong hoạt động kinh doanh -
thƣơng mại trên nền tảng quyền tự do ý chí và tự do hợp đồng đƣợc pháp luật thừa
nhận trong nền kinh tế thị trƣờng (ví dụ nhƣ hành vi thỏa thuận giữa các doanh
nghiệp, ấn định giá bán của hàng hóa, dịch vụ, hạn chế sản xuất, phân phối hàng
hóa, ấn định các điều kiện mua bán hàng hóa trong những hợp đồng, giao dịch với
đối tác, khách hàng...).
- Thứ ba: Mục đích của các doanh nghiệp (hay nhóm doanh nghiệp) khi thực
hiện các hành vi HCCT là nhằm hƣớng đến tối đa hóa lợi nhuận từ việc giảm sức ép
cạnh tranh và lạm dụng quyền lực thị trƣờng để bóc lột bạn hàng và ngƣời tiêu dùng.
Khi phân tích sâu về những tác động mà hành vi HCCT có thể gây ra trên thị
trƣờng, cho thị trƣờng và các thành tố tham gia thị trƣờng, chúng ta có thể nhận định
rằng loại hành vi này nguy hiểm hơn nhiều so với những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh [30, tr. 67 - 68]. Nếu nhƣ hành vi cạnh tranh không lành mạnh đa phần chỉ xâm
hại tới quyền và lợi ích của một doanh nghiệp hay đối thủ cạnh tranh cụ thể nào đó, thì
hành vi HCCT thông qua việc cản trở, bóp méo cạnh tranh trên thị trƣờng, có thể làm
tổn hại tới cấu trúc thị trƣờng, tới mô hình phân phối nguồn lực kinh tế - xã hội, mô
hình phân phối lợi ích, không chỉ gây tổn hại cho ngƣời tiêu dùng, doanh nghiệp mà
còn gây thiệt hại cho toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hành vi cạnh
tranh không lành mạnh và hành vi HCCT cũng chỉ có tính chất tƣơng đối vì trên thực tế
có những hành vi vừa là hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhƣng cũng đồng thời là
hành vi HCCT (ví dụ nhƣ hành vi bán phá giá, phân biệt đối xử...) [46, tr. 787].
Sự biến dạng của thị trƣờng do những hành vi HCCT gây ra buộc Nhà nƣớc
phải vào cuộc để khôi phục lại trật tự thị trƣờng cho phù hợp với những nguyên tắc
vốn có của nó. Sự can thiệp của Nhà nƣớc bằng việc điều tiết cạnh tranh tạo ra
31. 24
chính sách cạnh tranh. Chính sách cạnh tranh đƣợc hiểu là: “Bao gồm tất cả các
biện pháp của Nhà nước nhằm duy trì cạnh tranh, một mặt chủ động tạo ra các tiền
đề cho cạnh tranh, mở cửa thị trường, loại bỏ các barrier cản trở xâm nhập thị
trường, mặt khác thực thi các biện pháp chống lại các chiến lược HCCT của các
doanh nghiệp” [75, tr. 58]. Chính sách cạnh tranh của Nhà nƣớc sẽ “thông qua pháp
luật cạnh tranh để đảm bảo loại trừ những hành vi phản cạnh tranh trong việc đua
tranh giành lợi nhuận trên thị trường. Từ đó, bảo vệ quyền tự do kinh doanh của
các thành viên thị trường, bảo vệ môi trường cạnh tranh, bảo vệ sự lành mạnh của
quan hệ thị trường” [81, tr. 31-35].
Cơ sở lý luận của việc điều chỉnh bằng chính sách và pháp luật cạnh tranh
đối với hành vi HCCT trên thị trƣờng chính là sự hạn chế quyền tự do thái quá của
thiểu số doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền tự do cạnh tranh của đa số các doanh
nghiệp khác, bảo vệ cấu trúc thị trƣờng và ngƣời tiêu dùng. PGS. TS. Phạm Duy
Nghĩa khi đánh giá về vấn đề này trong cuốn “Chuyên khảo luật kinh tế” đã cho
rằng: “Hành vi tự định đoạt của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, quyền
tự do khế ước của doanh nhân bị hạn chế để bảo vệ cạnh tranh, bởi sự tự do vô giới
hạn thường dẫn đến tự hủy diệt. Như vậy, có thể hiểu luật kiểm soát độc quyền là sự
can thiệp một cách đáng kể của cơ quan công lực vào tự do định đoạt tài sản và tự
do khế ước của doanh nhân vì mục đích bảo vệ cạnh tranh” [46, tr. 806-807].
Nói cách khác, bản chất của chính sách, pháp luật chống HCCT là sử dụng
quyền lực công để can thiệp vào quyền tự do ý chí, tự do kinh doanh của thƣơng
nhân, giới hạn các quyền đó trong chừng mực không làm tổn hại đến môi trƣờng
cạnh tranh nói chung, cũng nhƣ các thành tố tham gia thị trƣờng khác [58, tr. 45-48].
Thậm chí, theo cách giải thích của Ủy ban Thƣơng mại công bằng Nhật Bản, các
hành vi HCCT cần bị xử lý vì nó trái với lợi ích công cộng, xâm phạm “lợi ích công”
mà “lợi ích công” ở đây đƣợc hiểu là các “quyền tự do cạnh tranh” đƣợc Nhà nƣớc
bảo vệ [20, tr. 215]. Pháp luật chống HCCT điều chỉnh trở lại quyền tự do khế ƣớc, tự
do kinh doanh thông qua việc xác định những hành vi mà các chủ thể kinh doanh
không đƣợc phép làm (những hành vi bị cấm). Cũng cần lƣu ý rằng, không phải tất cả
các hành vi HCCT đều bị cấm, tùy thuộc vào chính sách cạnh tranh của mỗi quốc gia
tại từng thời điểm và tính chất, mức độ gây hại của hành vi mà pháp luật cạnh tranh
sẽ quy định cụ thể những hành vi nào (trong những điều kiện cụ thể) sẽ bị cấm.
Nhƣ vậy, hành vi HCCT không chỉ mang “bản chất kinh tế” mà còn mang
“bản chất pháp lý”. Các hành vi HCCT trái pháp luật cần phải bị loại bỏ, “phải bị cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền điều tra, xử lý bằng chế tài nghiêm khắc” [27, tr. 34].
32. 25
Phản ứng lại với những tác hại của hành vi HCCT, chính sách cạnh tranh của
các nƣớc trên thế giới sử dụng pháp luật cạnh tranh để xử lý các hành vi HCCT trái
pháp luật nhằm hƣớng tới mục đích là khôi phục lại cạnh tranh trên thị trƣờng, khôi
phục lại những lợi ích của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại, đồng thời, ngăn chặn khả
năng tái diễn của các hành vi đó trên thị trƣờng. Cụ thể là:
+ Ở cấp độ “vi mô”, hành vi HCCT trái pháp luật gây thiệt hại cho các doanh
nghiệp và ngƣời tiêu dùng, do đó, với chức năng bảo vệ các thực thể tham gia thị
trƣờng, pháp luật cạnh tranh có nhiệm vụ trƣớc tiên là buộc chấm dứt các hành vi
xâm phạm, buộc bồi thƣờng thiệt hại cho các nạn nhân, sửa chữa, khắc phục những
tác động xấu của hành vi HCCT (chẳng hạn nhƣ: Buộc chỉnh sửa lại các điều khoản
bất hợp lý trong hợp đồng, các điều kiện thƣơng mại có tính phân biệt đối xử...).
+ Ở cấp độ “vĩ mô”, hành vi HCCT trái pháp luật gây cản trở và phá hủy
cạnh tranh trên thị trƣờng, với chức năng bảo vệ thị trƣờng, pháp luật cạnh tranh sẽ
tìm cách tác động đến hành vi thông qua những biện pháp nhƣ: buộc chấm dứt hành
vi vi phạm, phạt vi phạm, khắc phục hậu quả, khôi phục lại trạng thái ban đầu của
thị trƣờng cạnh tranh nhƣ trƣớc khi bị biến dạng bởi hành vi vi phạm.
Đối với các doanh nghiệp có quyền lực thị trƣờng, các hiệp hội có khả năng
thực hiện các hành vi HCCT trên thị trƣờng, việc điều tra, xử lý và áp dụng các chế
tài đủ mạnh, đủ nghiêm khắc sẽ buộc các chủ thể này cảm thấy “e ngại” khi có ý
định thực hiện những hành vi tƣơng tự, bởi họ biết rằng cái “giá” phải trả khi bị
phát hiện, xử lý sẽ lớn hơn nhiều những gì họ có thể nhận đƣợc và đây cũng chính
là mục tiêu của chính sách, pháp luật cạnh tranh nhằm phòng ngừa, ngăn chặn
những những hành vi HCCT thuộc diện bị cấm trong tƣơng lai.
Để thực hiện đƣợc những mục đích kể trên, pháp luật cạnh tranh sử dụng đến
những loại chế tài nhƣ: buộc bồi thƣờng, khắc phục hậu quả, hình phạt và các biện
pháp có tính chất phòng ngừa khác. Ở khía cạnh này, việc xử lý vi phạm pháp luật
về cạnh tranh nói chung và các hành vi HCCT nói riêng về cơ bản có nhiều điểm
tƣơng đồng song không hoàn toàn giống nhƣ hình thức xử lý vi phạm hành chính.
Bởi lẽ, các hành vi HCCT trái pháp luật có khả năng gây tác động lớn đến môi
trƣờng cạnh tranh, ảnh hƣởng đến sự phát triển kinh tế, lợi ích ngƣời tiêu dùng, do
đó, việc xử lý phải tƣơng xứng với mức độ tác động, gây thiệt hại của hành vi, đồng
thời còn phải hƣớng tới việc khôi phục lại trạng thái trƣớc đây của thị trƣờng và bồi
hoàn tổn thất cho tổ chức, cá nhân bị thiệt hại. Tại nhiều quốc gia, các hành vi
HCCT, đặc biệt là các thỏa thuận HCCT thuộc diện vi phạm mặc nhiên, còn có thể
vi phạm pháp luật hình sự và chủ thể thực hiện các hành vi này phải chịu trách
33. 26
nhiệm hình sự (trách nhiệm hình sự pháp nhân đối với doanh nghiệp và trách nhiệm
hình sự cá nhân đối với những ngƣời quản lý, điều hành hay chủ sở hữu doanh
nghiệp). Nhƣ vậy, trách nhiệm pháp lý đặt ra đối với các chủ thể thực hiện hành vi
HCCT trái pháp luật không chỉ là các chế tài hành chính, dân sự mà còn có thể là
các chế tài hình sự mà họ phải gánh chịu [30, tr. 104-105].
Tựu chung lại, việc xử lý các hành vi HCCT trái pháp luật là nhằm buộc các
chủ thể vi phạm phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý về mặt hành chính, hình sự, dân
sự theo quy định của pháp luật cạnh tranh. Đồng thời, việc điều tra, xử lý kịp thời,
nghiêm minh các hành vi HCCT trái pháp luật sẽ đảm bảo duy trì trật tự cạnh tranh
trong trạng thái có lợi cho nền kinh tế, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho mọi
tổ chức, cá nhân tham gia trên thị trƣờng, và đây là yêu cầu bắt buộc đối với mọi
quốc gia hay vùng lãnh thổ có tồn tại kinh tế thị trƣờng và cạnh tranh.
2.1.2. Lược sử sự hình thành các quy định pháp luật về chống hạn chế
cạnh tranh
Trong lịch sử loài ngƣời, pháp luật về chống HCCT ra đời muộn hơn khá
nhiều so với pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh. Trong nền kinh tế thị
trƣờng tự do của thế kỷ 17 - 18, ở Hoa Kỳ và các nƣớc tƣ bản Phƣơng Tây, ngƣời ta
tôn thờ lý thuyết bàn tay vô hình của Adam Smith trong việc điều tiết và hiệu chỉnh
thị trƣờng, đồng thời cho rằng Nhà nƣớc chẳng phải làm gì khi các doanh nghiệp
đang ra sức cạnh tranh với nhau. “Chỉ đến khi sự tích tụ tư bản tăng lên, hình thành
các tập đoàn tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền ra đời, với chức năng
điều tiết kinh tế, các Nhà nước tư bản xét thấy cần phải xây dựng những luật lệ để
hạn chế và kiểm soát sự lũng đoạn của độc quyền” [30, tr. 115]. Tại Hoa kỳ, sự gia
tăng nhanh chóng quyền lực thị trƣờng của các tập đoàn tƣ bản độc quyền ở cuối
thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, cùng với đó là những biểu hiện lạm dụng quyền lực thị
trƣờng của chính các tập đoàn này đã làm biến dạng thị trƣờng cạnh tranh, gây hại
cho nền kinh tế và ngƣời tiêu dùng. Đây chính là nguyên nhân hối thúc Nhà nƣớc
Hoa Kỳ phải có những chính sách và các quy định pháp luật nhằm kiểm soát và loại
bỏ các hành vi lạm dụng quyền lực thị trƣờng, ngăn cản, phá hủy cạnh tranh, và
cũng chính từ đây, các quy định pháp luật về chống HCCT hay chống độc quyền ra
đời và lan rộng tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Nhƣ vậy, chính nhu cầu bảo vệ thị trƣờng, bảo vệ cạnh tranh đã thúc đẩy
pháp luật chống HCCT ra đời ở các quốc gia, cũng nhƣ thúc đẩy quá trình sửa đổi,
bổ sung, hoàn thiện các quy định này để phù hợp với thực tiễn. Các đạo luật chủ
yếu của pháp luật chống HCCT mặc dù tồn tại với nhiều tên gọi khác nhau: Luật
34. 27
Cạnh tranh (Competition Law); Luật Chống HCCT, Luật Chống độc quyền (Anti
monopoly Act); Luật Thƣơng mại lành mạnh (Fair Trade Law)… nhƣng tất cả đều
có chung một mục đích là tạo lập một môi trƣờng cạnh tranh bình đằng giữa các chủ
thể, duy trì cạnh tranh trên thị trƣờng, bảo vệ cấu trúc thị trƣờng và các thành tố
tham gia thị trƣờng.
Pháp luật chống HCCT ra đời sớm nhất ở Hoa Kỳ vào năm 1890 với một
Đạo luật đƣợc ban hành có tên gọi là Luật Chống độc quyền (Sherman Anti - Trust
Act) [114]. Ngay khi ra đời, Đạo luật Sherman đã trở thành công cụ để điều chỉnh
các thỏa thuận gây hạn chế thƣơng mại và cấm việc sử dụng các biện pháp phản cạnh
tranh hoặc lạm dụng vị trí độc quyền nhằm giành đƣợc vị thế độc quyền. Đạo luật
Sherman có thể đƣợc thực thi nhƣ Luật Dân sự hoặc nhƣ Luật Hình sự. Các hành vi
nhƣ ấn định giá tạm thời hay thông đồng để thắng thầu sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình
sự. Tại Hoa Kỳ, sau 24 năm kể từ khi Đạo luật Sherman ra đời, vào năm 1914, hai đạo
luật Liên bang nữa đã đƣợc thông qua là Đạo luật Clayton [114] và Đạo luật về Ủy
ban Thƣơng mại Liên bang Hoa Kỳ (Federal Trade Comission Act) [115]. Hiện
nay, hầu hết các bang của Mỹ đã thông qua Luật của bang mình, tuy nhiên, tất cả
đều dựa trên nội dung nền tảng từ Đạo luật Sherman và Đạo luật về Ủy ban
Thƣơng mại Liên bang.
Tại Đức, sau một thời gian dài thả nổi, thậm chí xem các thỏa thuận phân bổ,
hạn chế thị trƣờng nhƣ một công cụ tập trung sức mạnh dân tộc (trƣớc khi chiến tranh
thế giới thứ hai kết thúc) đã ban hành Luật chống HCCT vào năm 1958 [46, tr. 724].
Tính đến nay, Luật đã đƣợc sửa đổi, bổ sung 7 lần và lần sửa đổi cuối cùng có hiệu
lực vào tháng 07/2008 [77, tr. 25].
Luật Cạnh tranh kinh tế (Economic Competition Act) của Hà Lan ra đời vào
năm 1956. Sau đó, vào năm 1997, Hà Lan đã ban hành Luật Cạnh tranh mới thay
thế cho Luật 1956. Qua nhiều lần sửa đổi, hiện tại, Hà Lan đang áp dụng Luật Cạnh
tranh đƣợc sửa đổi vào năm 2004 [116].
Luật Thƣơng mại lành mạnh đƣợc ra đời ở Vƣơng quốc Anh vào năm 1973.
Sau hơn 20 năm thi hành, ngày 09/11/1998, Vƣơng quốc Anh đã ban hành Luật
Cạnh tranh để sửa đổi Luật Thƣơng mại lành mạnh 1973 với việc quy định thêm
các điều khoản cấm hành vi phản cạnh tranh [116].
Tại Italia, để bảo đảm quyền tự do kinh doanh và làm cho pháp luật của Italia
phù hợp với luật lệ của Cộng đồng Châu Âu, Quốc gia này đã ban hành Luật Cạnh
tranh và thƣơng mại công bằng năm 1990 và Luật Chống độc quyền quốc gia vào
năm 2004 [116].
35. 28
Ở Châu Á, sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, hầu hết các nƣớc ở
Đông Bắc Á và Đông Nam Á đã ban hành Luật Cạnh tranh trƣớc yêu cầu chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trƣờng. Tại Hàn Quốc, Ủy ban Công bằng Thƣơng mại Hàn
Quốc đã ban hành Luật Công bằng thƣơng mại và kiểm soát độc quyền năm 1980
và sửa đổi, bổ sung vào các năm 1986, 1990, 1992, 1994, 1996, 1998, 1999. Tại Đài
Loan, Luật Thƣơng mại lành mạnh đƣợc ban hành năm 1991, sau nhiều lần sửa đổi,
hiện nay là Luật Thƣơng mại lành mạnh năm 1999, trong đó, có điều chỉnh cả các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi HCCT.
Tại các nƣớc Đông Nam Á, Philippin là nƣớc có Luật Cạnh tranh sớm nhất,
Luật Độc quyền và liên kết của Philippin đƣợc ban hành năm 1925, sau này, các
quy định liên quan đến Luật Độc quyền và liên kết đƣợc chuyển thành điều luật
trong Luật Hình sự năm 1957. Thái Lan ban hành Luật Chống độc quyền và kiểm
soát giá cả năm 1979, đến năm 1999, Luật này đƣợc thay thế bằng Luật Cạnh tranh
thƣơng mại. Tại Indonesia, Luật Cấm độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh
đƣợc Ủy ban Giám sát Cạnh tranh Kinh doanh ban hành năm 1999. Tại Singapore,
Luật Cạnh tranh đƣợc ban hành vào năm 2004 [3, tr. 94].
Tại một số quốc gia chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị
trƣờng nhƣ Trung Quốc, Mông Cổ hay Việt Nam, thời gian đầu sau chuyển đổi cơ chế
quản lý kinh tế, do đặc tính thị trƣờng bị bao phủ bởi độc quyền Nhà nƣớc hay độc
quyền doanh nghiệp Nhà nƣớc, có nhiều lý do để các quốc gia này chƣa mặn mà với
pháp luật chống HCCT. Tuy nhiên, một thời gian sau đó, cùng với chính sách mở cửa
và tự do hóa thị trƣờng, khi độc quyền Nhà nƣớc bị xóa bỏ ở nhiều lĩnh vực của đời
sống kinh tế và quyền lực doanh nghiệp Nhà nƣớc nhƣờng chỗ cho quyền lực của
doanh nghiệp tƣ nhân, nhu cầu về một công cụ hiệu quả để kiểm soát và điều tiết hoạt
động cạnh tranh trên thị trƣờng đã buộc các quốc gia này phải xây dựng các đạo luật về
cạnh tranh trong đó có các quy định về chống HCCT [53, tr 16 - 17]. Tại Trung Quốc,
năm 1998, Cơ quan quản lý Thƣơng mại và Công nghiệp Quốc gia đã ban hành
Luật Giá cả, sau đó, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội đã thông qua Luật Chống độc
quyền vào ngày 30/8/2007, Luật chính thức có hiệu lực vào ngày 01/8/2008. Tại
Việt Nam, Luật Cạnh tranh đƣợc ban hành lần đầu năm 2004 và Luật Cạnh tranh
sửa đổi đƣợc ban hành năm 2018.
Nhƣ vậy, dù đƣợc ra đời sớm hay muộn hơn trong lịch sử, pháp luật chống
HCCT cũng đã trở thành công cụ đắc lực của mỗi quốc gia để bảo vệ cạnh tranh,
bảo vệ thị trƣờng, bảo vệ các tác nhân kinh tế và ngƣời tiêu dùng trƣớc sự xâm hại
của các hành vi HCCT.