Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận án tiến sĩ ngành chính trị học với đề tài: Hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ hiện nay, cho các bạn tham khảo
Luận án: Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân
1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
VŨ TRUNG KIÊN
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
- TƯ TƯỞNG CHO CÔNG NHÂN CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI - 2019
2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
VŨ TRUNG KIÊN
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
- TƯ TƯỞNG CHO CÔNG NHÂN CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
HIỆN NAY
Ngành: Chính trị học
Chuyên ngành: Công tác tư tưởng
Mã số: 93 10 201
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS,TS. Trần Thị Anh Đào
HÀ NỘI - 2019
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, tư liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Những kết quả nghiên cứu
trong luận án là trung thực, chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận án
Vũ Trung Kiên
4. MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU --------------------------------------------------------------------------
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI, LUẬN ÁN------------------------------------------------
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ-TƯ TƯỞNG CHO CÔNG NHÂN CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP ------------------------------------------------------------------------
1.1. Khái niệm giáo dục chính trị - tư tưởng ----------------------------------------
1.2. Công nhân các khu công nghiệp và công tác giáo dục chính trị - tư tưởng
cho công nhân các khu công nghiệp---------------------------------------------------
1.3. Hiệu quả, phân loại và tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác giáo dục chính
trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp----------------------------------
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM; NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ THỰC
TRẠNG HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TƯ
TƯỞNG CHO CÔNG NHÂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở MIỀN
ĐÔNG NAM BỘ HIỆN NAY--------------------------------------------------------
2.1. Đặc điểm; những yếu tố tác động đến hiệu quả công tác giáo dục chính trị
- tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ hiện
nay-----------------------------------------------------------------------------------------
2.2. Kết quả và thực trạng hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho
công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ----------------------------
2.3. Những vấn đề đặt ra về hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng
cho công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ hiện nay------------
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO
DỤC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG CHO CÔNG NHÂN CÁC KHU CÔNG
NGHIỆP Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ-----------------------------------------------
3.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, năng lực của các chủ thể; quan tâm xây
dựng tổ chức, bộ máy, con người------------------------------------------------------
3.2. Nâng cao tính tự giác, chủ động của đối tượng; trình độ chính trị và ý
thức trách nhiệm của người công nhân-----------------------------------------------
3.3. Nắm vững đặc điểm của công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông
Nam Bộ để lựa chọn nội dung phù hợp-----------------------------------------------
3.4. Lựa chọn phương pháp, hình thức, phương tiện phù hợp---------------------
3.5. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người công nhân, xây dựng môi
trường xã hội lành mạnh----------------------------------------------------------------
3.6. Huy động và sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực-------------------------
KẾT LUẬN------------------------------------------------------------------------------
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO-------------------------------------------
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ-----------
PHỤ LỤC--------------------------------------------------------------------------
01
07
34
34
40
46
69
69
84
120
132
132
145
150
154
156
163
169
171
188
189
5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTG : Ban Tuyên giáo
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CTTT : Công tác tư tưởng
CT-XH : Chính trị - Xã hội
ĐNB : Đông Nam Bộ
GCCN : Giai cấp công nhân
GDCT-TT : Giáo dục chính trị - tư tưởng
HĐND : Hội đồng nhân dân
KCN : Khu công nghiệp
KCX : Khu chế xuất
LĐLĐ : Liên đoàn lao động
MTTQ : Mặt trận Tổ quốc
Nxb : Nhà xuất bản
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
TP : Thành phố
UBND : Ủy ban nhân dân
VH – XH : Văn hóa - Xã hội
6. DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT TÊN BIỂU ĐỒ Trang
Biểu đồ
2.1
Tự đánh giá trình độ nhận thức về chủ nghĩa C.Mác – V.I.
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, nghị quyết của
Đảng.
100
Biểu đồ
2.2
Tự đánh giá trình độ nhận thức về pháp luật. 101
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng (GDCT-TT) nói chung, công tác
GDCT-TT cho công nhân các khu công nghiệp (KCN) ở miền Đông Nam Bộ
(ĐNB) là một hoạt động quan trọng trong công tác tư tưởng (CTTT) của Đảng
nhằm truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp công nhân (GCCN). Đây là hoạt động
có tính mục đích, mang tính chủ động, tích cực của các chủ thể nhằm tác động
đến ý thức cộng đồng, ý thức cá nhân của người lao động nhằm xác lập vị trí
chủ đạo của chủ nghĩa C.Mác - V.I. Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời
sống tinh thần xã hội, góp phần nâng cao nhận thức/ kiến thức; thái độ, niềm
tin và tính tích cực chính trị - xã hội (CT-XH), hướng đội ngũ công nhân thực
hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của Đảng, chấp hành hiến pháp, pháp
luật của Nhà nước.
Từ đất nước tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo, trong đó có việc thành lập các KCN, khu chế xuất
(KCX), đã thu hút, tạo việc làm cho rất nhiều lao động. Từ đây, xuất hiện một bộ
phận công nhân mới: Công nhân trong các KCN.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định vị trí và tầm quan trọng của GCCN
đối với sự phát triển của đất nước. Cùng với việc ban hành các chủ trương, chính
sách chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của công nhân trong các KCN,
Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng luôn quan tâm đến công tác GDCT-TT cho
đội ngũ này, trong đó có công nhân các KCN ở miền ĐNB. Trong những năm
qua công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở nước ta nói chung, ở các tỉnh
miền ĐNB nói riêng đã có nhiều đổi mới và đã đạt nhiều kết quả. Các chủ thể đã
quan tâm nhiều hơn thể hiện bằng việc nội dung ngày càng phong phú, đa dạng;
phương pháp, hình thức, phương tiện được chú trọng và tăng cường; các nguồn
lực giành cho công tác GDCT-TT đã được huy động, sử dụng cơ bản đầy đủ,
hợp lý và tiết kiệm; trình độ nhận thức chính trị của công nhân các KCN trên địa
bàn đã bước đầu được cải thiện…Tuy nhiên, hiệu quả của công tác này xét trên
bình diện nhiều mặt vẫn còn những hạn chế cần nhìn nhận, đánh giá thật trung
thực, khách quan cả từ lý luận đến thực tiễn để có các giải pháp khắc phục.
8. 2
Những hạn chế, bất cập có thể kể tới là: Một bộ phận chủ thể chưa nhận thức đầy
đủ về công tác này và còn xem đó là việc của các cơ quan tuyên giáo; trình độ
học vấn, trình độ chính trị của một bộ phận công nhân các KCN còn hạn chế; nội
dung có nơi, có lúc còn dàn trải, ôm đồm, chưa xác định rõ những nội dung cốt
lõi cần chuyển tải trong khi nguồn lực, thời gian hạn hẹp; một bộ phận chủ thể
chưa được đào tạo chuyên sâu về kỹ năng; phương pháp, hình thức, phương tiện
ở nhiều nơi chậm được đổi mới; việc huy động và sử dụng hợp lý, tiết kiệm các
nguồn lực ngày càng khó khăn nhưng vẫn chưa có những giải pháp phù hợp để
sử dụng hiệu quả…Về phía người công nhân, vẫn có một bộ phận thiếu tổ chức,
còn mông lung, mơ hồ, ít quan tâm đến chính trị - tư tưởng nên dễ bị kích động,
bị các thế lực xấu lôi kéo dẫn tới các hiện tượng biểu tình, đình công trái pháp
luật, tự phát, đập phá…
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và hội nhập
quốc tế, GCCN nói chung, công nhân trong các KCN vẫn được Đảng Cộng sản
Việt Nam xác định là lực lượng quan trọng trong quá trình này. Trong bối cảnh
Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhất là Hiệp
định đối tác toàn diện tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) với những quy
định ngặt nghèo về tổ chức công đoàn và vấn đề lao động, công tác GDCT-TT
cho công nhân các KCN càng trở nên quan trọng và bức thiết.
Trong công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN, một vấn đề quan
trọng hàng đầu cần phải lưu tâm là vấn đề hiệu quả. Nếu công tác này mang lại
những hiệu quả thiết thực chính là đã mang lại kết quả thực chất, hạn chế lãng
phí và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Để công tác GDCT-TT cho công nhân
các KCN ở miền Đông Nam Bộ mang lại hiệu quả thiết thực, cần có những
nghiên cứu, bổ sung, phát triển cả lý luận và thực tiễn nhằm giải quyết những
vấn đề mà cả lý luận và thực tiễn đang đặt ra. Vì vậy, việc tìm nguyên nhân chủ
yếu, quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các
KCN ở miền ĐNB hiện nay là việc làm cần thiết.
Từ những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Hiệu quả công tác
giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp ở miền
9. 3
Đông Nam Bộ hiện nay” để triển khai thực hiện Luận án tiến sĩ Chính trị học,
chuyên ngành CTTT.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài để nâng cao hiệu quả của công tác GDCT-TT cho công
nhân các KCN ở miền ĐNB, góp phần xây dựng đội ngũ công nhân về chính trị -
tư tưởng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên
quan đến đề tài; nhận xét khái quát về kết quả đã nghiên cứu và đề ra các hướng
nghiên cứu tiếp theo.
- Luận giải làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả công tác
GDCT-TT cho công nhân các KCN.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng hiệu quả công tác GDCT-TT cho công
nhân các KCN ở miền ĐNB hiện nay.
- Xác định những vấn đề đặt ra và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB
trong những năm tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các
KCN ở miền ĐNB.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu về hiệu quả công tác GDCT-TT cho
công nhân làm việc trong các KCN; bao gồm cả công nhân làm việc trong các
KCX các tỉnh, thành ở miền ĐNB.
- Về không gian: Luận án khảo sát, lấy số liệu thực tế của 03 tỉnh, thành
có đông công nhân trong các KCN là: Thành phố (TP) Hồ Chí Minh, Đồng Nai
và Bình Dương.
- Về thời gian: Khảo sát, nghiên cứu từ năm 2014 đến năm 2018.
10. 4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên các nguyên lý lý luận của Chủ nghĩa C.Mác - V.I. Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; các nhiệm vụ, giải pháp của các địa phương ở
miền ĐNB về CTTT, hiệu quả CTTT, công tác GDCT-TT, hiệu quả công tác
GDCT-TT, công tác tuyên giáo, công tác GDCT-TT cho công nhân. Luận án dựa
trên các quan điểm của lý luận chính trị học hiện đại và kế thừa, có chọn lọc kết
quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu khoa học:
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Được sử dụng để nghiên cứu các chủ
trương, nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; báo cáo của
BTG, Công đoàn các cấp của các tỉnh, thành trên địa bàn; các công trình khoa
học trong và ngoài nước có liên quan đến Luận án.
Phương pháp lôgic và lịch sử: Sử dụng phương pháp lôgic để tìm ra mối
liên hệ bản chất, tính tất yếu, quy luật các nội dung có liên quan đến đề tài. Luận
án trình bày vấn đề theo trình tự các công trình nghiên cứu ngoài nước đến các
công trình nghiên cứu trong nước; trình bày theo trình tự thời gian để có cơ sở
tham chiếu sự hoàn thiện, bổ sung, phát triển các quan điểm, quan niệm về các
nội dung có liên quan đến đề tài qua từng giai đoạn, thời gian.
Phương pháp thống kê, so sánh và quan sát: Thống kê các số liệu có liên
quan đến công tác tuyên truyền, công tác GDCT-TT, hiệu quả công tác GDCT-
TT cho công nhân các KCN ở các tỉnh, thành miền ĐNB với nhau; so sánh đánh
giá, nhận xét của chủ thể và đối tượng; so sánh, đánh giá, nhận xét của các đối
tượng công nhân các KCN khác nhau trên địa bàn về độ tuổi, trình độ học vấn,
quê quán...để vừa đảm bảo độ tin cậy của số liệu, vừa có đánh giá chính xác
nhằm đề ra các giải pháp phù hợp các đối tượng khác nhau...
Phương pháp tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận: Luận án tìm hiểu
những tài liệu của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan và thực
11. 5
tiễn công tác GDCT-TT, hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN
làm cơ sở cho việc xây dựng khung lý thuyết cũng như đánh giá thực trạng và đề
ra giải pháp.
Phương pháp điều tra xã hội học: Luận án sử dụng phương pháp điều tra
bằng bảng hỏi nhằm đưa ra những chỉ số đánh giá về hiệu quả công tác GDCT-
TT theo các chỉ số từ: Tiếp cận, các chỉ số về nhận thức, kiến thức; niềm tin, thái
độ; hình thành tính tích cực xã hội. Thông tin thu thập được từ bảng hỏi được xử
lý để phục vụ cho việc lượng hóa các nhóm vấn đề liên quan đến đánh giá hiệu
quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB. Kết quả cụ thể
của việc nghiên cứu sẽ được phân tích sâu trong chương 2 của Luận án.
Luận án khảo sát: 600 phiếu với đối tượng là CN các KCN ở miền ĐNB.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án góp phần làm rõ hơn quan niệm về công nhân các KCN và công
nhân các KCN ở miền ĐNB; đặc điểm công nhân các KCN ở miền ĐNB.
- Luận án đưa ra các khái niệm: Tư tưởng, hệ tư tưởng, chính trị, GDCT-
TT, GDCT-TT cho công nhân các KCN.
- Từ tiêu chí phân loại hiệu quả và tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác
GDCT-TT nói chung, nghiên cứu sinh đã cụ thể hóa vào đối tượng là công nhân
các KCN ở miền ĐNB; bổ sung một phần các tiêu chí đánh giá cho phù hợp đối
tượng là công nhân các KCN.
- Luận án đưa ra quan niệm về hiệu quả công tác GDCT-TT; phân tích nội
hàm của quan niệm đó; nêu ra các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác GDCT-TT
cho công nhân các KCN.
- Từ việc phân tích những yếu tố tác động và chi phối đến hiệu quả công
tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB, Luận án đã phân tích thực
trạng hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB hiện
nay.
12. 6
- Luận án xác định được sáu vấn đề đặt ra và sáu nhóm giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB những năm
tiếp theo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu góp phần luận giải rõ hơn về khái niệm, các tiêu chí
đánh giá hiệu quả tác GDCT-TT trong một đối tượng cụ thể là công nhân các
KCN ở miền ĐNB.
- Với kết quả nghiên cứu đạt được, Luận án có thể cung cấp luận cứ khoa
học phục vụ cho lãnh đạo các bộ, ngành, tỉnh, thành ủy, UBND các tỉnh, thành
phố, đặc biệt là BTG Trung ương, BTG ở các địa phương ở miền ĐNB; Liên
đoàn Lao động (LĐLĐ) các cấp, công đoàn các KCN ở miền ĐNB trong việc
nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân.
- Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ BTG,
công đoàn các cấp; làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, học tập những nội
dung liên quan về CTTT, về vận động quần chúng, về vận động công nhân.
7. Cấu trúc của Luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, phụ lục và
danh mục tài liệu tham khảo, Luận án có kết cấu 03 chương, 12 tiết.
13. 7
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Các công trình nghiên cứu về công tác giáo dục chính trị - tư tưởng
1.1. Công trình nghiên cứu của nước ngoài
Ở Việt Nam đã có nhiều cuốn sách của Liên Xô có liên quan đến nội dung
này đã được dịch ra tiếng Việt như: Hoạt động tư tưởng của ĐCS Liên Xô do
X.L Xu-rơ-ni-tren-cô (chủ biên); Phương pháp luận công tác giáo dục tư tưởng
của D.A. Vôn-cô-gô-nốp”…Các công trình này dù chưa đưa ra định nghĩa về
công tác GDCT-TT nhưng đã đưa ra nhiệm vụ và phương hướng cơ bản của
công tác GDCT-TT. Cuốn sách Chủ nghĩa cộng sản khoa học từ điển do A.M.
Ru-mi-an-txép (chủ biên) (bản dịch tiếng Việt), các tác giả cũng không đưa ra
khái niệm GDCT-TT mà giải thích về giáo dục cộng sản chủ nghĩa là: “Sự hình
thành một cách có mục đích, có hệ thống và có kế hoạch những con người có
lòng trung thành với chủ nghĩa cộng sản” [8, tr.151]. Theo quan điểm này, nội
hàm của giáo dục cộng sản chủ nghĩa rất rộng, bao gồm cả GDCT-TT; giáo dục
lao động; giáo dục nghề nghiệp; giáo dục phổ thông.
Các nhà khoa học phương Tây thường chỉ sử dụng thuật ngữ tuyên truyền
chính trị để chỉ hoạt động truyền bá những nội dung liên quan đến việc giành,
giữ chính quyền của các đảng chính trị. Trên Trang nghiên cứu về tuyên truyền
của Đức Quốc xã [189], thuật ngữ tuyên truyền chính trị được dùng gần như phổ
biến để chỉ hoạt động truyền bá đường lối, chính sách của đảng cầm quyền. Hiện
trên trang này còn lưu trữ cuốn sách nhỏ về kỹ thuật tuyên truyền của Đức Quốc
xã do Paul Joseph Goebbels, Bộ trưởng Bộ Giác ngộ quần chúng và Tuyên
truyền của Đức Quốc xã viết về kỹ thuật tuyên truyền [189].
Ở Trung Quốc, trong một số công trình, các tác giả thường chỉ sử dụng
một thuật ngữ là “思想政治教育” (GDCT-TT) và cũng đôi khi sử dụng thuật
ngữ “思想教育” (giáo dục tư tưởng). Cuốn sách CTTT lý luận của Đảng Cộng
sản Trung Quốc trong thời kỳ cải cách và mở cửa (bản dịch tiếng Việt) sử dụng
cả 02 cách trình bày thuật ngữ là: GDCTTT (không có dấu gạch ngang) và giáo
dục tư tưởng [51, tr.32], tuy nhiên, thuật ngữ GDCTTT được dùng phổ biến hơn.
14. 8
Cuốn sách Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới của Cục Cán bộ,
Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ sử dụng một thuật
ngữ duy nhất là Công tác chính trị tư tưởng. Các tác giả trong cuốn sách này cho
rằng nội dung cơ bản của công tác chính trị tư tưởng là: “Lấy giáo dục niềm tin
vào lý tưởng làm cốt lõi, triển khai mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục trên các mặt lý
luận cơ bản, đường lối cơ bản, cương lĩnh cơ bản của Đảng, chủ nghĩa yêu nước”
[53, tr.226 và 270]. Tác giả Hoàng Chí Bân trong cuốn Phương pháp luận về
GDCTTT đương đại (tiếng Trung) đã nêu lên một cách có hệ thống những nội
dung, phương pháp luận trong GDCT-TT [192].
Trang Bách khoa toàn thư Trung Quốc (Baidu - Bách Độ), mục
“思想政治教育” (GDCTTT) quan niệm: “GDCT-TT là những quan niệm tư
tưởng, quan điểm chính trị, quy phạm đạo đức của một xã hội hoặc một tập thể
xã hội và nó ảnh hưởng mang tính mục đích, kế hoạch, tổ chức lên mỗi thành
viên trong xã hội đó, từ đó khiến họ hình thành nên những hoạt động thực tiễn và
phẩm chất đạo đức phù hợp với yêu cầu của xã hội [198]. Theo đó, nội dung
GDCTTT ở Trung Quốc hiện nay bao gồm giáo dục chủ nghĩa yêu nước; chủ
nghĩa tập thể; giáo dục CNXH; giáo dục lý tưởng [198]. Quan niệm này cơ bản
thống nhất với quan điểm về GDCT-TT mà các nhà khoa học Trung Quốc đưa ra
trong cuốn sách Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới.
1.2. Công trình nghiên cứu trong nước
Cuốn sách chuyên khảo Cơ sở lý luận CTTT của Đảng Cộng sản Việt
Nam, tác giả Lương Khắc Hiếu cho rằng GDCT-TT là một trong 04 nội dung cơ
bản của giáo dục tư tưởng [86, tr.175-186]. Tác giả Trần Thị Anh Đào trong hai
cuốn sách chuyên khảo CTTT và vấn đề đào tạo cán bộ làm CTTT và CTTT
trong sự nghiệp CNH, HĐH đã đề cập khá toàn diện về lý luận của CTTT nói
chung và CTTT nói riêng, trong đó có luận giải về phẩm chất và năng lực của
đội ngũ cán bộ làm CTTT. Giáo trình Nguyên lý CTTT, do tác giả Lương Khắc
Hiếu (chủ biên) quan niệm GDCT-TT có chức năng “trang bị cho nhân dân lao
động một hệ thống những kiến thức về lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội,
trên cơ sở đó hình thành ý thức giác ngộ chính trị, hình thành những quan niệm,
quan điểm đúng đắn về các vấn đề chính trị mà quan trọng nhất là hiểu rõ và
nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, trách nhiệm và nghĩa vụ
15. 9
công dân [82, tr.183]. Theo đó, mỗi lĩnh vực của xã hội đều có một tư tưởng
tương ứng và chắc chắn tương ứng với chính trị có tư tưởng chính trị. Tất tất cả
các hoạt động giáo dục tư tưởng khác nhau đều “phải trực tiếp hoặc gián tiếp xây
dựng nền tảng cho GDCT-TT và gắn bó hữu cơ với GDCT-TT” [82, tr.183-184].
Tài liệu Bồi dưỡng Bí thư Chi bộ và cấp ủy viên cơ sở (2017), BTG Trung
ương, cho rằng GDCT-TT ở cơ sở hiện nay gồm rất nhiều nội dung, trong đó có
nội dung rất quan trọng là giáo dục lý luận chính trị, bao gồm giáo dục nhận thức
về Chủ nghĩa C.Mác - V.I. Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh [14, tr.52-53]. Tác giả
Cao Xuân Trung trong luận án Tiến sĩ tâm lý học Những điều kiện tâm lý sư
phạm nâng cao hiệu quả GDCT-TT cho quân nhân ở đơn vị cơ sở đưa ra khái
niệm GDCT-TT cho quân nhân là hoạt động có mục đích, có tổ chức và bằng
phương pháp khoa học của người giáo dục “tác động vào nhận thức, tình cảm, ý
chí của quân nhân nhằm hình thành, phát triển ở họ thế giới quan, lý tưởng, niềm
tin, phẩm chất chính trị-tư tưởng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của
Đảng, quân đội trong từng giai đoạn cách mạng [177, tr.30].
Tác giả Lương Ngọc Vĩnh trong Luận án tiến sĩ Chính trị học chuyên
ngành CTTT Hiệu quả công tác GDCT-TT trong học viên các học viện quân sự
ở nước ta hiện nay quan niệm:
Công tác GDCT-TT của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận
của CTTT nhằm truyền bá Chủ nghĩa C.Mác - V.I. Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
các tri thức và giá trị chính trị của nhân loại, những truyền thống chính trị
của GCCN và dân tộc, những sự kiện chính trị trong nước và quốc tế…để
nâng cao nhận thức chính trị, hình thành niềm tin và cổ vũ tính tích cực CT-
XH của cán bộ, đảng viên và quần chúng trong quá trình xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN [182, tr.38].
Như vậy, có thể tên gọi khác nhau nhưng các nhà khoa học đều thống
nhất quan nhiệm công tác GDCT-TT nhằm truyền bá hệ tư tưởng, cương lĩnh,
đường lối, chiến lược, sách lược của chủ thể (có thể là của một giai cấp, của một
16. 10
chính đảng, của một lực lượng) trong quần chúng với mục đích giác ngộ, lôi kéo
quần chúng đi theo thế giới quan và niềm tin mà chủ thể mong muốn.
2. Các công trình nghiên cứu về công tác giáo dục chính trị - tư tưởng
cho công nhân
2.1. Công trình nghiên cứu của nước ngoài
Tập thể tác giả Trung Quốc trong cuốn sách Công tác xây dựng Đảng ở
doanh nghiệp ngoài quốc doanh (bản dịch tiếng Việt) đã đề cập đến vị trí, vai trò
của công tác xây dựng Đảng trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng như
các giải pháp để đảm bảo lợi ích hài hòa giữa chủ doanh nghiệp nghiệp và người
lao động, một trong những giải pháp được đề cập đó là định hướng về chính trị
[52, tr.234].
Tác giả Lý Quần trong bài viết Tăng cường CTTT trong doanh nghiệp để
đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (tiếng Việt) cho rằng một trong
những nhiệm vụ của CTTT trong các doanh nghiệp là thông qua “nói” và “làm”
để phấn đấu “vì sự phát triển hài hòa của doanh nghiệp [51, tr.168]. Tác giả Từ
Trí trong bài viết Tìm tòi phương pháp đổi mới CTTT trong doanh nghiệp (tiếng
Việt), cho rằng CTTT của doanh nghiệp “xét đến cùng đó là công tác quần
chúng, làm tốt CTTT trong doanh nghiệp để thúc đẩy xây dựng doanh nghiệp hài
hòa [51, tr.161-168]. Tác giả Tống Quảng Phát trong bài viết Phát triển công tác
chính trị, tư tưởng tại các xí nghiệp trong bối cảnh mới hiện nay như thế nào?
(tiếng Trung) khẳng định các công ty nếu làm tốt công tác chính trị, tư tưởng thì
mới có thể phát huy tốt nhất năng lực tiềm ẩn của mỗi người, “tăng cường tinh
thần trách nhiệm của công nhân, phát huy nhiệt tình cống hiến và lòng trung
thành đối với sự ổn định và phát triển của các xí nghiệp” [196].
2.2. Công trình nghiên cứu trong nước
Tác giả Dương Xuân Ngọc trong cuốn GCCN Việt Nam trong sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước khẳng định cần “nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị,
trình độ học vấn và tay nghề, bồi dưỡng tác phong công nghiệp, thực hiện “trí
thức hóa công nhân” [133, tr.216]. Cuốn sách Công tác chính trị, tư tưởng trong
GCCN Đồng Nai - Thực trạng và giải pháp, các tác giả đã đưa ra các nhóm giải
pháp về công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN là: Tăng cường công tác
17. 11
phát triển Đảng và giáo dục pháp luật cho công nhân; thực hiện có hiệu quả quy
chế dân chủ ở cơ sở [154, tr.146-154]. Tác giả Nguyễn An Ninh trong sách Về xu
hướng công nhân ở nước ta hiện nay cho rằng để hệ giá trị của GCCN trở thành
một hệ giá trị - xã hội cần rất nhiều giải pháp, trong đó cần chú trọng định hướng
cuộc đấu tranh của những người lao động, tổ chức họ lại, giáo dục họ trong cuộc
đấu tranh cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, bảo vệ, tôn vinh những giá trị
của GCCN [135, tr.256-259]. Tác giả Văn Tạo trong cuốn sách Đổi mới tư duy
về GCCN - Kinh tế tri thức và công nhân tri thức cho rằng cần “trí thức hóa công
nhân và đào tạo ra nhiều công nhân tri thức…Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng
sử dụng nhân tài trên mặt trận lý luận xuất hiện trong GCCN và phong trào công
nhân” [153, tr.213 và 224]. Cuốn sách Đảng lãnh đạo GCCN trong giai đoạn
hiện nay của tác giả Nguyễn Văn Giang đã đề xuất nhiều nhóm giải pháp, một
trong những nhóm giải pháp đầu tiên mà tác giả đề xuất là “nâng cao chất lượng,
hiệu quả tuyên truyền, quán triệt chủ trương, quan điểm của Đảng về xây dựng
GCCN đối với cán bộ, đảng viên, tổ chức Đảng và người sử dụng lao động” [78,
tr.155]. Cuốn sách GCCN và tổ chức công đoàn Việt Nam trong những năm đầu
thế kỷ XXI, tác giả Nguyễn Viết Vượng đưa ra 09 giải pháp, trong đó có giải
pháp được xác định là “tuyên truyền, giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị của
GCCN” [183, tr.281]. Tác giả Bùi Kim Hậu trong cuốn sách Trí thức hóa công
nhân Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay coi công tác tuyên
truyền, giáo dục là biện pháp quan trọng để nâng cao tác phong công nghiệp và ý
thức chính trị cho công nhân và cho rằng các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp cần
thường xuyên mở các lớp tập huấn tuyên truyền, giáo dục để nâng cao ý thức
pháp luật cho công nhân, “tổ chức nhiều phong trào thi đua, nêu gương những
điển hình tiên tiến trong lao động” [81, tr.166]. Đề tài GDCT,TT cho công nhân
lao động trong các KCN, KCX hiện nay cho rằng GDCTTT cho công nhân các
KCN hiện nay không chỉ nhằm bồi dưỡng và nâng cao nhận thức cơ bản về
đường lối cách mạng của Đảng trên cơ sở nguyên lý của Chủ nghĩa C.Mác -
Lênin, không chỉ dừng lại ở biểu dương cái hay, phê phán cái xấu mà ở chỗ giải
quyết những vấn đề bức xúc, cấp bách trong công nhân lao động các KCN, dẫn
dắt công nhân vươn lên trong học tập, lao động, sản xuất [75].
18. 12
Nhiều bài báo, bài nghiên cứu cũng đã đi vào phân tích thực trạng cũng
như đề ra các giải pháp hữu hiệu nhằm thực hiện có hiệu quả công tác GDCTTT
cho công nhân. Trong bài viết GDCT,TT trong công nhân - Kinh nghiệm từ TP.
Hồ Chí Minh, tác giả Vũ Thị Mai Oanh đã khái quát 02 nhóm kinh nghiệm trong
công tác này từ thực tiễn TP. Hồ Chí Minh là: Kiên trì xây dựng và hoàn thiện
các tổ chức chính trị - xã hội của công nhân trong các loại hình doanh nghiệp;
tạo chuyển biến căn bản trong công tác GDCT,TT, nâng cao ý thức chính trị cho
GCCN [139, tr.44-46]. Tác giả Nguyễn An Ninh và Tô Văn Sơn trong bài viết
Vài vấn đề đặt ra từ công tác DCT,TT cho công nhân trong các KCN, KCX trên
Tạp chí Lao động và Công đoàn đã nêu lên 04 hạn chế của CTGDCT,TT cho
công nhân các KCN là: Nội dung chưa sát hợp, vừa ôm đồm, vừa thiếu sót;
phương pháp giáo dục cũ mòn, xơ cứng, chưa phù hợp với đối tượng và môi
trường của KCN; lãnh đạo buông lỏng, tổ chức thiếu phối hợp, đơn tuyến, thời
vụ; nhân lực thiếu chuyên nghiệp, thiếu điều kiện vật chất [137, tr.14-15].
Ngoài ra, về hiệu quả công tác GDCTTT nói chung, hiệu quả công tác
GDCT-TT cho công nhân các KCN nói riêng còn có nhiều báo cáo có liên quan
góp phần làm rõ thêm cho công tác này, đó là các cuốn sách, tài liệu tổng kết
năm của BTG Trung ương như: Hữu Hữu Thọ, Đào Duy Quát (chủ biên) (1999),
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả CTTT và văn hóa trong tình
hình mới, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Hà Nội. BTG Trung ương
(2008), Tiếp tục đổi mới, nâng cao tính chiến đấu, sự sắc bén, chất lượng và
hiệu quả công tác tuyên giáo, Hà Nội; BTG Trung ương (2009), Tập trung trí
tuệ, tâm huyết, phát huy sức mạnh tổng hợp, thực hiện có hiệu quả công tác
tuyên giáo... Một số bài viết như: Phạm Huy Kỳ (2009), Các loại hình tuyên
truyền và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả các loại hình tuyên truyền, Tạp chí Lý
luận Chính trị và Truyền thông, (số 10); Phạm Huy Kỳ (2012), Nâng cao tính
thuyết phục của công tác tư tưởng trong điều kiện hiện nay, Tạp chí Tuyên giáo,
(số 10). Các giáo trình, tài liệu tuyên truyền cho công nhân do Tổng LĐLĐ Việt
Nam và các tỉnh, thành vùng ĐNB phát hành; các báo cáo của các cấp ủy, chính
quyền các cấp, LĐLĐ ở các tỉnh, thành ở miền ĐNB.
19. 13
3. Các công trình nghiên cứu về hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng
3.1. Nghiên cứu về khái niệm hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng
3.1.1. Công trình nghiên cứu của nước ngoài
Trong cuốn Hoạt động tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô, các nhà
khoa học Xô Viết đã đưa ra khái niệm hiệu quả của công tác GD-TT (các nhà
khoa học Liên Xô dùng thuật ngữ này) “là tương quan của những kết quả tác
động tư tưởng đã đạt được so với mục tiêu xây dựng giác ngộ cộng sản chủ nghĩa
và phẩm hạnh cộng sản chủ nghĩa của con người” [184, tr.299]. Theo cách hiểu
này, hiệu quả công tác GDCT-TT là tương quan giữa kết quả và mục tiêu. Khi
đưa ra khái niệm này, các nhà khoa học Xô Viết đã tính tới hiệu quả cuối cùng
và hiệu quả từng giai đoạn, từng thời điểm, từng nội dung của CTTT trong
những công việc, những thời gian cụ thể. Tác giả Bưrôđanốp, trong cuốn sách
Xã hội học và công tác Đảng cho rằng “hiệu quả là sự ăn khớp một phần hay
hoàn toàn của kết quả với mục đích” [86, tr.288].
Các nhà khoa học Trung Quốc khi bàn về hiệu quả công tác GDCTTT
chưa đưa ra khái niệm cụ thể. Trong bài viết Đánh giá tính hiệu quả của công
tác GDCTTT (tiếng Trung) trên website Trường Đảng tỉnh Sơn Đông, các tác giả
Tào Tổ Minh và Trần Đình cho rằng đánh giá tính hiệu quả của công tác
GDCTTT là “thể hiện ở việc đáp ứng nhu cầu tương ứng và đạt được mục đích
tương ứng của người học (…) phán đoán kết quả của hoạt động GDCTTT với
việc phù hợp mục tiêu dự kiến và khả năng phát huy chức năng của giáo dục”
[195]. Các tác giả trên quan niệm đánh giá hiệu quả công tác GDCT-TT là so
sánh giữa kết quả với mục tiêu và mục đích. Hoạt động thì so sánh với mục tiêu,
song hiệu quả phải so sánh với mục đích. Mục đích chỉ có một, nhưng mục tiêu
có thể có nhiều và có thể thay đổi.
3.1.2. Công trình nghiên cứu trong nước
Giáo trình Nguyên lý CTTT do Lương Khắc Hiếu (chủ biên) đưa ra khái
niệm hiệu quả CTTT là: “Sự tương quan giữa kết quả đạt được do tác động tư
tưởng mang lại với mục đích của CTTT được đặt ra và với chi phí để đạt được
kết quả đó trong một điều kiện xã hội nhất định” [83, tr.280]. Tác giả đã phân
biệt sự khác nhau giữa hiệu quả và kết quả và cho rằng kết quả chưa tính đến yếu
20. 14
tố chi phí, còn hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả với mục đích và chi phí.
Trong cuốn sách chuyên khảo Cơ sở lý luận CTTT của Đảng Cộng sản Việt
Nam, tác giả Lương Khắc Hiếu đã bổ sung khái niệm trên, song về cơ bản vẫn
giữ nguyên nội hàm khái niệm [86, tr.290]. Thống nhất với quan điểm này, tác
giả Trần Thị Anh Đào trong cuốn CTTT trong sự nghiệp CNH, HĐH cho rằng
“Hiệu quả CTTT là sự tương quan giữa kết quả mà CTTT đạt được so với mục
đích của CTTT được xác định từ trước trong một điều kiện xã hội nhất định và
với một chi phí nhất định” [60, tr.38]. Tác giả cho rằng hiệu quả tỷ lệ nghịch với
mục đích và chi phí nhưng nếu chi phí bằng không hoặc xác định mục đích quá
thấp cũng không thể đạt được hiệu quả như mong muốn.
Một số bài viết của các tác giả trong nước cũng đã đưa ra khái niệm hiệu
quả GDCTTT. Tác giả Lương Ngọc Vĩnh trong bài viết Bàn về tiêu chí hiệu quả
của GDCT-TT cho học viên các nhà trường quân đội đã đưa ra khái niệm: “Hiệu
quả GDCT-TT cho học viên là sự tương quan giữa kết quả đạt được với mục
đích đặt ra và việc sử dụng hợp lý các nguồn lực trong những điều kiện cụ thể”
[181]. Tác giả Nguyễn Văn Dưỡng quan niệm: “Hiệu quả CTTT là kết quả thu
được so với mục đích của CTTT đặt ra với việc sử dụng tối ưu mọi khả năng
hoạt động của CTTT trong một điều kiện lịch sử xác định” [58, tr.08]. Tác giả
Lương Ngọc Vĩnh trong Luận án tiến sỹ Chính trị học chuyên ngành CTTT đã
đưa ra khái niệm hiệu quả công tác GDCT-TT là: “Sự tương quan giữa kết quả
lĩnh hội tri thức chính trị, hình thành niềm tin chính trị và tính tích cực CT-XH ở
đối tượng sau tác động giáo dục của chủ thể với mục đích đã xác định và sử
dụng hợp lý các nguồn lực để đạt kết quả đó trong những điều kiện cụ thể” [182,
tr.52]. Như vậy, theo tác giả này, hiệu quả công tác GDCT-TT chính là kết quả
đạt được, nhưng là kết quả được “đo” ở cấp độ cao tức sự hiểu biết, tính tích cực
CT-XH của đối tượng so với lúc ban đầu - khi chủ thể chưa tác động - và có so
sánh về sử dụng hợp lý các nguồn lực.
Từ các công trình nghiên cứu nêu trên cho thấy, mặc dù các quan niệm
đưa ra có thể có những điểm chưa thống nhất, nhưng đều có điểm chung khi
quan niệm hiệu quả là tương quan hoặc so sánh giữa kết quả với mục đích đề ra
và chi phí để đạt mục đích ấy trong những điều kiện nhất định. Trong số các
công trình này, có những công trình chỉ đề cập và so sánh giữa kết quả và chi
21. 15
phí, cũng có công trình so sánh kết quả và mục đích. Ngoài ra, các công trình
nghiên cứu nêu trên đều đưa ra cách phân loại cũng như các yếu tố tác động ảnh
hưởng đến hiệu quả CTTT, hiệu quả công tác GDCT-TT.
3.2. Nghiên cứu về đánh giá hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, hiệu quả luôn được đặt lên hàng đầu,
có lẽ vì vậy mà vấn đề hiệu quả luôn được xem xét rất kỹ. Tất nhiên, hiệu quả
trong lĩnh vực kinh tế không hẳn chỉ là những kết quả đạt được sau khi trừ đi chi
phí. Chẳng hạn, với các cơ sở sản xuất kinh doanh cụ thể thì thường đánh giá
theo tiêu chí này; tuy vậy, trên một bình diện lớn hơn, chẳng hạn trên bình diện
xã hội, hiệu quả kinh tế không hẳn là kết quả sau khi trừ chi phí mà còn có
những hiệu quả khác đi kèm. Một công ty sẽ đánh giá hiệu quả chủ yếu là lợi
nhuận thu được sau khi trừ đi chi phí; thế nhưng, với cấp ủy, chính quyền địa
phương nơi công ty hoạt động sẽ thu được những hiệu quả khác như tạo công ăn
việc làm cho người dân địa phương, thúc đẩy kinh doanh buôn bán, các dịch vụ
khác đi kèm…Đó chính là hiệu quả ngoài dự định nhưng hiệu quả này có ý
nghĩa rất quan trọng.
Trong kinh tế học, hiệu quả kinh tế được biểu hiện qua phạm trù hiệu quả
kinh doanh, công thức tính thường là H=K/C. Theo đó, H là hiệu quả kinh tế của
một hiện tượng (quá trình kinh tế) nào đó; K là kết quả thu được từ quá trình
kinh tế và C là chi phí toàn bộ để đạt kết quả đó; bao gồm các chi phí về nguồn
lực, nhân lực, thời gian…Như vậy có thể thấy, hiệu quả kinh tế phản ánh chất
lượng hoạt động kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được với chi
phí bỏ ra để đạt kết quả đó [79, tr.408]. Quan điểm này đã đánh giá tốt nhất trình
độ sử dụng các nguồn lực ở mọi điều kiện của hoạt động của doanh nghiệp và
không bị phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến động của các hoạt động kinh tế.
3.2.1. Công trình nghiên cứu của nước ngoài
Đối với giới kinh tế trên thế giới thì hiệu quả Pareto (Effective pareto)
hay nguyên tắc Pareto (Pareto Prinpicle) hay còn gọi là nguyên lý 80/20 thông
dụng đến nỗi Josef Steindl, một nhà kinh tế của Áo đã khẳng định rằng “nó
lừng lững tồn tại trong lĩnh vực kinh tế như một tảng đá bất trị” [150, tr.11].
Hiệu quả Pareto hay còn gọi là tối ưu Pareto là một trong những lý thuyết được
22. 16
xem là trung tâm của kinh tế học và ngày nay nó đã được ứng dụng rộng rãi
trong nhiều ngành khoa học khác, trong đó có cả khoa học xã hội, nhất là trong
lĩnh vực giáo dục.
Các doanh nghiệp đương nhiên quan tâm hiệu quả kinh tế nhưng không
chỉ là sự so sánh giữa chi phí đầu vào và kết quả thu được ở đầu ra mà là việc
thực hiện đồng bộ nhiều chính sách xã hội khác của doanh nghiệp. Nội dung này
đã được RiChard Koch trong cuốn sách Nguyên lý 80/20 khẳng định: “Các
doanh nghiệp phải có tinh thần doanh nghiệp xã hội” [150, tr.396] và cho rằng
khi áp dụng nguyên lý 80/20 trong giáo dục cần “xác định một số ít đòn bẩy thực
sự quan trọng có thể đưa đến những kết quả phi thường, phân quyền và cạnh
tranh” [150, tr.396]. Tác giả cho rằng có một vài lý do ít ỏi thực sự quan trọng có
thể lý giải cho hiệu quả hoạt động giáo dục ưu việt; đó là các phương pháp hay
cách tiếp cận có thể mang lại kết quả phi thường khi khẳng định: “Luôn có một
số nhỏ những phương pháp, những người thực hiện, những nguyên nhân và
những cách tiếp cận, tạo ra được những kết quả cao hơn nhiều” [150, tr.399].
Lee Thomas trong sách 1% sẽ thay đổi tất cả cho rằng “chúng ta cần có sự lựa
chọn rõ ràng: Tập trung tối đa sức lực và thời gian vào những thời gian có thể
mang lại thành công” [101, tr.204]. Brian Tracy thì cho rằng để có hiệu quả
trong công việc cần phải thực hiện 20 nguyên tắc thiết thực, bao gồm: Xác định
mục tiêu; lập kế hoạch làm việc; vận dụng quy tắc 80/20; tiên liệu kết quả cuối
cùng; xử lý hiệu quả những công việc có giá trị thấp; xác định mức độ ưu tiên;
tập trung vào các lĩnh vực trọng yếu...[25, tr.15-114].
Như vậy, theo tác giả nêu trên, để nâng cao hiệu quả giáo dục nói chung
cần phải xác định được những nội dung quan trọng cần thực hiện, xác định
phương pháp, những người thực hiện và cách thức tiến hành. Đó chính là cách
xác định mục đích là gì để xác định mục tiêu, lựa chọn nội dung, phương pháp,
hình thức, phương tiện phù hợp.
Lênin đã bàn nhiều đến hiệu quả trong GDCT-TT. Theo V.I. Lênin Lênin,
để GDCT-TT có hiệu quả cần những chủ thể có đủ phẩm chất, năng lực: “Trong
bất cứ một trường học nào, điều quan trọng nhất là phương hướng chính trị và tư
tưởng của bài giảng. Cái gì quyết định phương hướng đó? Hoàn toàn và chỉ là
thành phần của các giảng viên thôi” [105, tr.248]. Như vậy, theo luận điểm này
23. 17
của Lênin, chủ thể công tác GDCT-TT đóng vai trò quan trọng trong việc nâng
cao hiệu quả. V.I. Lênin cũng khẳng định, một trong những tiêu chí để đánh giá
hiệu quả công tác GDCT-TT là những chủ thể phải am hiểu tâm lý, mong muốn,
nhu cầu của đối tượng, gần gũi đối tượng và khẳng định việc am hiểu tâm lý đối
tượng sẽ mang lại hiệu quả thiết thực: “Biết xác định một cách chắc chắn bất cứ
trong vấn đề nào, trong lúc nào, tâm trạng của quần chúng, những nhu cầu,
nguyện vọng, những ý nghĩ thật sự của họ (…) bằng cách quan tâm thỏa mãn
những nhu cầu của họ [103, tr. 426]. Và, “Đối với quần chúng, phải học cách
gần gũi họ một cách đặc biệt kiên nhẫn và thận trọng, để có thể hiểu được những
đặc điểm những nét tâm lý riêng biệt của mỗi tầng lớp, mỗi nghề nghiệp…của
quần chúng đó” [103, tr. 233].
Bàn về hiệu quả hiện nay, nhất là hiệu quả theo quan niệm của phương
Đông, nhà triết học nổi tiếng người Pháp là Francois Jullien trong cuốn sách Bàn
về tính hiệu quả cho rằng thực tại được xem xét như là quá trình. Trong hoạt
động của con người (có hiệu quả hay không?), điều quan trọng là ở mỗi thời
điểm của quá trình thực tại phải nhận cho ra xu thế của tình hình ở thời điểm đó
và phải theo dõi diễn biến của xu thế trong quá trình phát triển của thực tại. Tác
giả cho rằng tính hiệu quả của hoạt động con người là ở sự biết nương
theo và lợi dụng xu thế của tình hình và ở sự tác động tới tình hình, tạo ra
sự biến hóa của tình hình, sự diễn biến của xu thế, tạo lập những điều kiện cho
sự phát triển dẫn tới mong muốn. Theo tác giả, để có hiệu quả cần tác động đúng
thời điểm để hạn chế công sức và cho rằng giống như việc giáo dục con người,
xây dựng tính cách và chí hướng phải từ lúc nhỏ sẽ dễ dàng hơn là đến tuổi khôn
lớn, tính cách đã hình thành và kết luận tác động đúng thời điểm sẽ tạo ra hiệu
quả, đạt hiệu quả [77, tr.216-218]. Như vậy khi bàn về việc làm thế nào để nâng
cao tính hiệu quả, Francois Jullien không hề quan tâm đến vấn đề chi phí mà chủ
yếu quan tâm đến việc xác định mục tiêu và xác định thời điểm để tác động “vì
thao tác ở quãng thượng lưu, ở giai đoạn mà tất cả đương còn mềm dẻo, chưa có
cái gì biểu lộ sự chống đối” [77, tr.220]. Tác giả cho rằng chú trọng đến sự lựa
chọn: Tác động ở thời điểm nào, tới khâu nào của quá trình để đạt hiệu quả. Tư
tưởng Trung Hoa quan tâm đến sự tác động ở thượng lưu của quá trình thực tại
vì ở thời điểm này, khâu này của quá trình, thực tại chưa bị khô cứng và vì vậy
24. 18
khi tác động sẽ không tốn nhiều công sức. Ở hạ lưu của quá trình, mọi cái đã
định hình, đã cứng nhắc nên tác động ở thời điểm này sẽ tốn nhiều công sức [77,
tr.18-19]. Cùng quan điểm với Francois Jullien, một học giả người Pháp gốc Hoa
là André Chieng trong cuốn sách Bàn về thực tiễn của Trung Hoa cùng với
Francois Jullien, khi bàn về tính hiệu quả đã cơ bản nhất trí với Francois Jullien
và cũng cho rằng muốn có hiệu quả cần tác động đúng thời điểm, kịp thời [2,
tr.205].
Tác giả Tào Tổ Minh và Trần Đình trong bài viết Đánh giá tính hiệu quả
của công tác GDCTTT (tiếng Trung) đăng trên website Trường Đảng tỉnh Sơn
Đông, Trung Quốc cho rằng để đánh giá hiệu quả công tác này phải hiểu rõ nội
hàm của tính hiệu quả trong GDCTTT: “Đánh giá hiệu quả công tác GDCTTT là
sự đánh giá, phán đoán kết quả của hoạt động GDCTTT với việc phù hợp mục
tiêu dự kiến và khả năng phát huy chức năng của GDCTTT” [195]. Theo các tác
giả, để đánh giá hiệu quả công tác GDCTTT phải dựa trên 03 căn cứ là xây dựng
mục tiêu giáo dục, đánh giá mức độ văn minh tinh thần của người dân và xác
định chính xác vai trò của GDCTTT nhằm đạt đến mục tiêu đã đề ra [195]. Để
đánh giá chính xác hiệu quả công tác GDCTTT cần chú ý 03 vấn đề. Thứ nhất,
phải xây dựng mục tiêu GDCTTT phù hợp bởi theo các tác giả, mục tiêu dự kiến
có tầm quan trọng đáng kể đến hiệu quả công tác GDCTTT. Theo đó, hiệu quả
GDCTTT chính là khả năng đạt được mục tiêu đề ra ban đầu, hiệu quả như nhau,
khi so sánh với mục tiêu dự kiến khác nhau sẽ có kết quả đánh giá tính hiệu quả
khác nhau. Do đó, việc xây dựng mục tiêu quyết định đến hiệu quả GDCTTT.
Thông thường, khi xây dựng mục tiêu càng thấp, càng dễ thực hiện, thì hiệu quả
đạt được càng cao; ngược lại khi xây dựng mục tiêu càng cao, khó đạt được thì
khả năng đạt được hiệu quả càng thấp. Vì vậy, khi đánh giá tính hiệu quả của
GDCTTT trước tiên cần xem xét kỹ vấn đề xây dựng mục tiêu. Thứ hai là đánh
giá hiệu quả GDCT-TT phải so sánh mức độ văn minh tinh thần của đối tượng
(mức độ đạo đức, tư tưởng) trước và sau các quá trình giáo dục xem có đạt các
mục tiêu dự kiến hay không. Thứ ba, xác định chính xác vai trò của GDCTTT
nhằm đạt đến mục tiêu đã đề ra. Để đánh giá hiệu quả GDCTTT, nếu chỉ lập
mục tiêu hợp lý và phán đoán chính xác mức độ văn minh tinh thần của người
dân thì chưa đủ, mà còn cần phải nắm bắt chính xác vai trò của GDCTTT nhằm
25. 19
đạt đến mục tiêu đã đề ra và sự thay đổi nhận thức của đối tượng. Các tác giả
cũng lưu ý rằng vai trò của GDCTTT nhằm đạt đến mục tiêu đã đề ra không phải
không thể thay đổi, trong môi trường hoàn cảnh khác nhau thì vai trò là khác
nhau và do đó nếu chúng ta lấy tiêu chuẩn đánh giá trước đây để đánh giá vai trò
của GDCTTT nhằm đạt đến mục tiêu đã đề ra trong thời điểm hiện tại thì có thể
không chính xác (điều kiện xã hội nhất định) và cho rằng, khi đánh giá hiệu quả
công tác GDCTTT cần lưu ý các vấn đề sau: “Thứ nhất, mục tiêu dự kiến có hợp
lý không? Thứ hai, kết quả thực tế sau GD đạt được như thế nào? Thứ ba, vai trò
của GDCTTT có thay đổi không?” [195]. Một số nhà khoa học Trung Quốc còn
đi vào nghiên cứu và phân tích việc đánh giá số liệu GDCTTT và đề xuất những
giải pháp nhằm đánh giá chính xác số liệu. Tác giả Vương Sa trong bài viết
Đánh giá số liệu GDCTTT (tiếng Trung) đăng trên trang Xây dựng đảng của
Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng việc đánh giá GDCTTT là phương pháp
quan trọng để phát huy hiệu quả thực tiễn trong việc kiểm nghiệm GDCTTT.
Theo đó, đánh giá GDCTTT bao gồm đánh giá về chủ thể giáo dục, bối cảnh
giáo dục (chính sách, chế độ…), phương pháp giáo dục và trạng thái tư tưởng
của đối tượng. Thông qua các phương pháp phân tích số liệu và tính toán, chúng
ta sẽ tạo ra một hệ thống đánh giá số liệu GDCTTT; giám sát và đánh giá khách
quan tính hiệu quả của GDCTTT; thúc đẩy công tác GDCTTT kết hợp với công
nghệ thông tin, tăng cường sự phát triển toàn diện của con người, bồi dưỡng
những thế hệ thanh niên XHCN có sự phát triển toàn diện cả về đức trí thể mỹ để
xây dựng thành công CNXH mang đặc sắc Trung Quốc [197].
Tác giả Tống Quảng Phát trong bài viết Phát triển công tác chính trị tư
tưởng tại các xí nghiệp trong bối cảnh mới hiện nay như thế nào? (tiếng Trung)
cho rằng muốn làm tốt công tác chính trị tư tưởng tại các xí nghiệp cần: Nhận
thức đầy đủ vai trò quan trọng của công tác chính trị tư tưởng; kết hợp công tác
chính trị tư tưởng với tình hình thực tiễn cụ thể; đổi mới phương pháp trong
công tác chính trị tư tưởng; không ngừng nâng cao công tác chính trị tư tưởng,
nhất là nâng cao chất lượng của chủ thể [196].
3.2.2. Công trình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, hiệu quả trong các lĩnh vực nói chung, hiệu quả sản xuất
kinh doanh luôn là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp. Các doanh
26. 20
nghiệp luôn quan tâm đến việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực
vật chất chủ yếu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Quyết định số
224/2006/QĐ-TTg ngày 06-10-2006 của Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra 05 tiêu
chí đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước [163]. Quyết
định số 09/2013/QĐ-TTg ngày 24-01-2013 của Thủ tướng Chính phủ “Ban hành
quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân ở cơ sở” đã đưa ra 08 tiêu
chí, trong đó tiêu chí về phổ biến, giáo dục pháp luật [164]. Trong tiêu chí đánh
giá hiệu quả tuyên truyền, giáo dục pháp luật, Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg
không xem xét so sánh giữa chi phí đầu vào và kết quả đầu ra mà chủ yếu đánh
giá, xem xét trên bình diện xã hội. Trong lĩnh vực hành chính công, tiêu chí đánh
giá hiệu quả đã được quan tâm gần đây khi đưa vào đánh giá chỉ số hiệu quả
quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) bao gồm 06 chỉ số lĩnh vực nội
dung, 22 chỉ số nội dung thành phần và hơn 90 chỉ tiêu thành phần về hiệu quả
quản trị và hành chính công của toàn bộ 63 tỉnh/thành phố. Ngoài ra, có một số
công trình khoa học đi sâu nghiên cứu, đánh giá hiệu quả trên các lĩnh vực khác
nhau, tiêu biểu là: Phạm Tú Tài và Nguyễn Vĩnh Thanh, (2016), Sử dụng hiệu
quả quả các nguồn lực vật chất chủ yếu trong quá trình chuyển đổi mô hình tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật; Nguyễn Văn Cương
(chủ biên) (2016), Về bộ chỉ số đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ
quan hành chính Nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia…Hồ Chí Minh trong bài viết
Người tuyên truyền và cách tuyên truyền cho rằng: “Tuyên truyền là đem một
việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm” [125, tr.162]. Theo Hồ Chí
Minh, nếu không đạt được mục đích này thì tuyên truyền thất bại và muốn thành
công, phải biết cách tuyên truyền. Để tuyên truyền thành công phải “hiểu rõ nội
dung tuyên truyền; biết cách nói đơn giản, rõ ràng, thiết thực” [125, tr.162-163].
Có nhiều nhà nghiên cứu trong nước quan tâm đến tiêu chí đánh giá hiệu
quả CTTT, CTGDCT-TT. Tác giả Đào Duy Tùng trong cuốn sách Một số vấn đề
về CTTT đã phân tích cụ thể hơn tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả CTTT. Theo tác
giả, tiêu chí quan trọng đầu tiên là CTTT phải góp phần tích cực vào việc xác
định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hai là, thực hiện nhiệm vụ
quán triệt, truyền bá, phổ biến kinh nghiệm và đấu tranh chống các quan điểm
sai trái, thù địch, biểu dương điển hình tốt. Tác giả cho rằng cần phải xem xét
27. 21
CTTT đã góp phần vào thực hiện nhiệm vụ chính trị như thế nào, kết quả tác
động của nó đến đâu? Ba là, CTTT phải góp phần xây dựng thượng tầng kiến
trúc về hình thức mới được biểu hiện ở mức độ thống trị, chi phối của HTT
mácxít, của không khí tâm lý lành mạnh trong xã hội. Bốn là, xuất phát từ mục
tiêu xây dựng con người mới để xác định hiệu quả CTTT [169, tr.503-505]. Tác
giả cho rằng đánh giá hiệu quả CTTT không chỉ căn cứ vào những tiêu chuẩn
chung mà cần có các tiêu chuẩn riêng vì hiệu quả CTTT là một vấn đề còn nhiều
ý kiến khác nhau và được nhiều người quan tâm nhất và đưa ra những tiêu chí để
đánh giá hiệu quả CTTT của từng “binh chủng” trên mặt trận tư tưởng.
Tác giả Hồ Văn Chiểu trong cuốn Hồ Chí Minh với CTTT đưa ra 03 tiêu
chuẩn để đánh giá hiệu quả CTTT bao gồm: Hiệu quả trước mắt, hiệu quả trực
tiếp và hiệu quả lâu dài. Tác giả cho rằng, hiệu quả trước mắt thể hiện trong hiệu
quả kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị hoặc trong các hoạt động trước mắt, để
đánh giá hiệu quả này phải dùng các chỉ tiêu về kinh tế, xã hội, văn hóa, ý thức
làm thước đo hoặc phải điều tra dư luận xã hội. Hiệu quả trực tiếp là hiệu quả
được đo bằng sự tác động của một biện pháp, một hoạt động tác động tư tưởng.
Tác giả cho rằng đây là hiệu quả cụ thể và trực tiếp trên cả hai mặt tuyên truyền,
giáo dục và cổ vũ hành động. Hiệu quả lâu dài được đánh giá bằng những đóng
góp về mặt lý luận, bằng xác lập hệ thống giá trị XHCN, hiệu quả này có thể bộc
lộ ngay hoặc trong quá trình phát triển của thực tiễn. Cũng có loại hiệu quả ở
dạng tiềm tàng mà chỉ trong những tình huống nhất định mới bộc lộ [180, tr.34-
35]. Cùng quan điểm này, tác giả Đào Duy Quát trong cuốn Quản lý hoạt động
tư tưởng - văn hóa cho rằng có 03 tiêu chí để đánh giá hiệu quả CTTT là hiệu
quả lâu dài, hiệu quả trước mắt và hiệu quả trực tiếp [145, tr.16-17]. Trong cuốn
sách Về CTTT của Đảng Cộng sản Việt Nam, tác giả Đào Duy Quát cho rằng
không thể dễ dàng đánh giá được hiệu quả CTTT, muốn đánh giá cơ bản đầy đủ
và chính xác hiệu quả CTTT phải đi sâu tìm hiểu đánh giá một cách rõ ràng hiệu
quả hoạt động tư tưởng trên từng mặt, trong từng thời gian như đánh giá hiệu
quả một đợt sinh hoạt chính trị, một đợt tuyên truyền. Tác giả cũng cho rằng nếu
đánh giá các hoạt động này cần phải hạch toán rằng đã chi bao nhiêu tiền của,
thời gian, vật chất, nguồn nhân lực…cho một cuộc sinh hoạt chính trị và chúng
ta đã thu lại được gì? Hiệu quả của đợt sinh hoạt chính trị đó thấp hay cao? Như
28. 22
vậy, theo tác giả, muốn đánh giá hiệu quả một đợt sinh hoạt chính trị cần so sánh
kết quả với chi phí bỏ ra, nhưng chi phí này không chỉ là chi phí về mặt tiền bạc
mà còn là chi phí về thời gian, về vật chất, về nguồn lực [144, tr.18]. Theo đó,
đánh giá hiệu quả CTTT là vấn đề rất khó, nhưng không phải vì vậy mà chúng ta
buông xuôi để tình trạng kéo dài một số hoạt động tư tưởng rất hình thức, gây
lãng phí lớn; để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trên lĩnh vực tư tưởng
phải bắt đầu từ việc đánh giá đúng hiệu quả của các hoạt động của CTTT để từ
đó mới có cơ sở xác định phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu
quả. Tác giả cho rằng, đánh giá hiệu quả CTTT trong một thời kỳ, trong đó có
công tác tuyên truyền, giáo dục, phải trả lời được câu hỏi đó là: “Công tác giáo
dục, truyền bá hệ tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối, chính sách đã tạo nên sự
thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng ra sao? Sự đồng thuận của xã hội
đối với đường lối, chính sách như thế nào? Lòng tin của nhân dân đối với
CNXH, đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ra sao?” [144, tr.20]. Để
đánh giá hiệu quả công tác tuyên truyền, theo tác giả cần phải đánh giá được
“hiệu quả GDCT nhằm tăng cường sự kiên định đối với mục tiêu lý tưởng
CNXH, kiên định Chủ nghĩa C.Mác - V.I. Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên
định sự lãnh đạo của Đảng” [144, tr.22]. Về hiệu quả của công tác tuyên truyền,
tác giả Đào Duy Quát đưa ra quan điểm:
Ở những chuẩn mực phẩm chất đạo đức, nhân cách, lối sống con
người mới XHCN (lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường, tinh thần xả thân
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tinh thần đoàn kết cộng đồng, gắn kết cá nhân
với gia đình, với làng, với nước, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, với
lương tâm nghề nghiệp; tinh thần ham học hỏi cầu tiến bộ, làm chủ khoa
học công nghệ hiện đại; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý,
lối sống giản dị, trong sáng…) được bồi dưỡng và phát triển trong các giai
cấp, tầng lớp xã hội như thế nào. Hiệu quả công tác tuyên truyền còn được
đánh giá bằng hiệu quả xây dựng Đảng mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức
ra sao?” [144, tr.22-23].
Trong cuốn sách Nguyên lý CTTT tập 2, các tác giả đã đưa ra các tiêu
chuẩn đánh giá hiệu quả CTTT bao gồm 02 nhóm tiêu chí là tiêu chuẩn tinh thần
và tiêu chuẩn thực tiễn. Hai nhóm tiêu chuẩn này lại được đánh giá ở bình diện
29. 23
xã hội và bình diện cụ thể, tức đánh giá thông qua một hoạt động, một nội dung,
một nhiệm vụ. Ở bình diện xã hội, tiêu chuẩn tinh thần trong công tác tuyên
truyền, giáo dục là mức độ truyền bá, mức độ xâm nhập, chiếm lĩnh (chi phối,
thống trị) của Chủ nghĩa C.Mác - V.I. Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
chính sách, pháp luật trong đời sống tinh thần cá nhân và xã hội. Tiêu chuẩn thực
tiễn trong đánh giá hiệu quả CTTT mà cụ thể là hiệu quả trên lĩnh vực tuyên
truyền thể hiện ở tính tích cực trong lao động - sản xuất, tính tích cực CT-XH,
tính tích cực tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ở bình diện cá
nhân, tiêu chuẩn tinh thần là nhận thức và niềm tin, tiêu chuẩn thực tiễn là tính
tích cực hành động của con người. Các tác giả cho rằng đánh giá hiệu quả CTTT
phải căn cứ trên 02 quan điểm là quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ
thể. Theo đó, khi đánh giá hiệu quả CTTT phải xuất phát từ nhiều căn cứ, phải
dựa vào nhiều tiêu chuẩn tinh thần và thực tiễn, tiêu chuẩn về chất lượng và số
lượng. Đối với quan điểm lịch sử - cụ thể cần xem xét, đánh giá trong điều kiện
không gian và thời gian xác định, phải tính đến sự khác nhau của các nhóm xã
hội riêng biệt với tư cách là những đối tượng tác động tư tưởng khác nhau cũng
như phải căn cứ vào các phương pháp định lượng như: Phỏng vấn (câu hỏi
đóng), bảng hỏi (câu hỏi đóng), điều tra, thống kê…và các phương pháp định
tính như: Phỏng vấn (câu hỏi mở), bảng hỏi (câu hỏi mở), thảo luận nhóm, quan
sát, phân tích nội dung…Nếu căn cứ vào các tiêu chí này, tức đánh giá hiệu quả
CTTT luôn nằm ở đối tượng và chỉ có thể đánh giá ở đối tượng. Tác giả Trần Thị
Anh Đào trong cuốn sách CTTT trong sự nghiệp CNH, HĐH cho rằng cơ sở
đánh giá hiệu quả là ở sự thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của đối tượng
sau khi được tác động tư tưởng [60, tr.39]. Tác giả Lương Ngọc Vĩnh cho rằng
tiêu chí để đánh giá hiệu quả công tác GDCT-TT là: Nhóm tiêu chí về kết quả
bao gồm kiến thức chính trị, niềm tin chính trị và tính tích cực CT-XH của học
viên; nhóm tiêu chí về sử dụng nguồn lực bao gồm sử dụng nguồn nhân lực, sử
dụng thời gian, kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất, xây dựng, phát huy tác
dụng của môi trường giáo dục. Theo tác giả, tiêu chí để đánh giá hiệu quả công
tác GDCT-TT trong học viên bao gồm nhiều tiêu chí, trong đó có tiêu chí về sử
dụng nguồn lực một cách hợp lý [182, tr.55-66].
30. 24
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết cũng đã đưa ra tiêu chí đánh giá hiệu quả
CTTT, công tác GDCTTT. Tác giả Lương Khắc Hiếu trong bài viết Tiêu chí
đánh giá hiệu quả của việc phê phán, phản các các quan điểm sai trái đã đưa ra
các tiêu chí để đánh giá hiệu quả nguồn lực trong công tác này bao gồm: Tiêu
chí về sử dụng nguồn lực, tiêu chí về sử dụng kinh phí, cơ sở vật chất, phương
tiện và tiêu chí về thời gian [85, tr.19-23]. Tác giả cho rằng tiêu chí về sử dụng
nguồn lực sẽ hiệu quả khi cơ quan sử dụng nguồn nhân lực biết phân bổ hợp lý
lực lượng cho từng hoạt động và cho từng giai đoạn; tiêu chí về sử dụng kinh phí
cơ sở vật chất, phương tiện hiệu quả là khi chủ thể phân bổ hợp lý kinh phí, cơ
sở vật chất, phương tiện, tài liệu đầy đủ, kịp thời nhưng phải tiết kiệm chi phí;
tiêu chí về hiệu quả trong sử dụng thời gian là khi các hoạt động được tiến hành
kịp thời [85, tr.22-23]. Trong bài viết Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả CTTT, Tạp
chí Xã hội học (số 3), năm 1983, tác giả Đào Duy Tùng đã đưa ra 04 tiêu chí
đánh giá hiệu quả CTTT gồm: Góp phần quan trọng vào việc hình thành đường
lối chính trị, hình thành các chính sách của Đảng và Nhà nước; CTTT phải phục
vụ nhiệm vụ chính trị; trên góc độ mục tiêu của CTTT, thông qua sự thúc đẩy
việc thực hiện nhiệm vụ chính trị trong từng thời gian, CTTT góp phần quan
trọng vào việc xây dựng thượng tầng kiến trúc về mặt hình thái ý thức mới trong
chế độ XHCN; từ mục tiêu xây dựng con người mới để xác định hiệu quả CTTT
[168, tr.25]. Theo tác giả, mức độ hoàn thành những nhiệm vụ cơ bản theo 04
tiêu chí trên của CTTT chính là những tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả CTTT
một cách toàn diện. Để đánh giá hiệu quả CTTT trong việc phục vụ một nhiệm
vụ chính trị, tác giả Đào Duy Tùng đã đưa ra 05 tiêu chí cụ thể bao gồm: Nhận
thức chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân; nhiệt tình cách mạng được
nâng cao hơn trước; những tri thức chuyên môn, nghiệp vụ có liên quan đến
công việc và kinh nghiệm công tác đã được bồi dưỡng đến mức độ nào; hành
động cụ thể của mỗi người trong công việc chuyên môn và trong các công tác xã
hội; sự thống nhất giữa lời nói và việc làm, giữa nhận thức và hành động; cuối
cùng là mức độ, chất lượng hoàn thành nhiệm vụ [168, tr.25]. Tác giả cho rằng
hiệu quả CTTT có 02 loại, đó là hiệu quả trong phạm vi toàn xã hội và hiệu quả
CTTT trong việc thực hiện một nhiệm vụ chính trị. Để đánh giá hiệu quả CTTT
phải căn cứ vào các tiêu chí như những phong trào hành động cách mạng rộng
lớn của quần chúng thực hiện đường lối chính sách của Đảng thể hiện ở sự nhất
31. 25
trí biểu hiện ở số lượng, mức độ tán thành, ủng hộ, tự giác trong lao động, sản
xuất, công tác, trong thực hiện nhiệm vụ chính trị…
Tác giả Vũ Ngọc Am trong bài viết Hiệu quả và tiêu chí đánh giá hiệu
quả công tác giáo dục lý luận chính trị cho rằng muốn đánh giá hiệu quả công
tác giáo dục lý luận chính trị cần có sự thống nhất về quan điểm đánh giá hiệu
quả. Theo tác giả trước hết phải căn cứ vào mục tiêu, chức năng nhiệm vụ của
công tác giáo dục lý luận chính trị một cách toàn diện từ việc xác định nội dung
các chương trình giáo dục đến việc tổ chức thực hiện truyền tải nội dung và
chương trình với hình thức và phương pháp phong phú, sinh động; cuối cùng là
sự thể hiện hiệu quả công tác GDCTTT qua phong trào cách mạng của quần
chúng và kết quả trong việc thực hiện nhiệm vụ. Tác giả cũng phân chia hiệu quả
thành hiệu quả trực tiếp, hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài và cho rằng khi
đánh giá hiệu quả cần căn cứ vào hình thức, phương pháp thực hiện sao cho tiết
kiệm kiệm chi phí [5, tr.50-53].
3.3. Nghiên cứu về những biện pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo
dục chính trị - tư tưởng nói chung và cho công nhân các khu công nghiệp
nói riêng
Cho đến nay, chưa có công trình nào ở trong và ngoài nước nghiên cứu
trực tiếp về các đặc điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho
công nhân. Tuy nhiên, có nhiều công trình nghiên cứu về các giải pháp nâng cao
chất lượng, hiệu quả CTTT, công tác GDCTTT nói chung.
3.3.1. Công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Một số công trình của phương Tây nghiên cứu về giải pháp nâng cao hiệu
quả tuyên truyền chính trị như:
Ở phương Tây, G. Stark trong bài viết “Modern Political Propaganda”
(tiếng Anh, tạm dịch: Tuyên truyền chính trị hiện đại cho rằng “truyền ở các
thành phố phải sử dụng các hình thức khác với tuyên truyền ở nông thôn. Lý do
chính là phong cách sống hoàn toàn khác nhau của cư dân thành phố lớn. Họ có
tính chính trị phức tạp hơn và có thái độ hoàn toàn khác nhau đối với mọi thứ”
[190]. Tác giả cũng cho rằng có bốn phương pháp tuyên truyền là: “Tuyên
32. 26
truyền bằng văn bản, tuyên truyền qua lời nói, tuyên truyền thông qua các cuộc
tuần hành quần chúng, tuyên truyền thông qua các cuộc tụ họp văn hóa” [190].
Bài viết “Effective in Two Ways” (tiếng Anh), tạm dịch: Hai cách để
tuyên truyền hiệu quả trên trang của The University of North Carolina at
Charlotte cho rằng để tuyên truyền hiệu quả cần tạo ra một loại ngô ngữ của
quần chúng, để làm được điều này; “tuyên truyền phải thực hiện bằng những từ
đơn giản và những thông điệp đơn giản mà đối tượng dễ tiếp nhận…Tuyên
truyền chỉ thật sự có hiệu quả khi làm thay đổi nhận thức, thái độ của đối tượng
[188]. Tác giả Brianna Valdes trong bài viết “How Effective is Propaganda?”
(tạm dịch: Tuyên truyền như thế nào để mang lại hiệu quả) trên trang Trường
trung học cao cấp của hạt Coral Gables (một thành phố ở hạt Miami - Dade, Mỹ)
cho rằng để tuyên truyền hiệu quả cần sử dụng các hình ảnh nhằm thúc đẩy một
quan điểm cụ thể. Tác giả đã đưa ra các hình ảnh tuyên truyền tiêu biểu về hình
ảnh cậu bé tị nạn người Syria được vớt lên trên bờ biển ở Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc
chạy loạn khỏi nội chiến; hình ảnh “Napalm Girl” (cô bé napaln) trong chiến
tranh Việt Nam…và khẳng định rằng chính những hình ảnh người Mỹ đánh bom
napalm ở Việt Nam như thế này được truyền đi đã “làm cho công dân Mỹ tức
giận về chiến tranh và thúc đẩy nhiều cuộc phản kháng chống chiến tranh” [187].
Ở Trung Quốc, một số nhà nghiên cứu đã quan tâm đến cách thức làm thế
nào để nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT. Tác giả Hoàng Chí Bân trong
cuốn Phương pháp luận về giáo dục chính trị tư tưởng đương đại (tiếng Trung),
(2012), Nxb Công nghiệp Hợp Phì cho rằng để nâng cao hiệu quả công tác
GDCTTT cần phải biết lựa chọn và áp dụng các phương pháp phù hợp và để
phương pháp có hiệu quả cần phải có những nhận thức đúng đắn và điều kiện
phù hợp về phương pháp GDCTTT. Nhận thức đúng đắn về phương pháp
GDCTTT chính là nắm được bản chất, đặc điểm, điều kiện áp dụng và trình tự
thực hiện các phương pháp GDCTTT thông qua việc học tập, nghiên cứu, từ đó
phát huy tốt vai trò của GDCTTT. Nắm bắt và sử dụng tốt các phương pháp
GDCTTT có thể thúc đẩy công tác GDCTTT đạt đến “Thâm (sâu sắc)”, “Thấu
(thấu hiểu)”, “Hoạt (linh hoạt)” [192, tr.17]. Theo tác giả, trong CTGDCTTT
hiện nay có rất nhiều phương pháp khác nhau các phương pháp này không nhất
thiết là cố định mà quan trọng là chủ thể biết tìm phương pháp phù hợp “cần
33. 27
được vận dụng một cách linh hoạt tùy theo thời điểm, người học và nội dung”
[192, tr.17]. Tác giả Ngưu Tiểu Hiệp, Học viện hành Chính Luật Pháp, Đại học
Sư Phạm Cát Lâm trong bài viết Xây dựng diễn đàn GDCTTT hiệu quả, thiết
thực (tiếng Trung) đăng trên Nhật Báo Liêu Ninh ngày 24-01-2017 cho rằng để
nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT hiện nay cần “tăng cường dùng công nghệ
thông tin, truyền thông để tăng cường tính hiệu quả” [193]. Theo tác giả, trong
bối cảnh phát triển của khoa học truyền thông hiện nay, GDCTTT cũng cần có
những phương thức mới để thích ứng với đặc điểm tâm lý và yêu cầu của đối
tượng. Theo đó, cần áp dụng công nghệ thông tin để có thể ứng dụng và phát huy
tác dụng ở mọi lúc, mọi nơi nhằm nắm bắt được phương hướng suy nghĩ và yêu
cầu tri thức của đối tượng một cách kịp thời và điều này sẽ rất có lợi cho công
tác GDCT-TT trong việc kịp thời điều chỉnh phương pháp [193]. Tác giả Tôn Kế
Lương trong bài viết Nâng cao hiệu quả công tác GDCTTT cơ sở (tiếng Trung)
đăng trên Báo Quân giải phóng Trung Quốc ngày 09-01-2002 cho rằng để nâng
cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho quân nhân cần nâng cao trình độ văn hóa
cho đối tượng; đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục; điều chỉnh và thiết kế
nội dung giảng dạy một cách khoa học theo tình huống mới, vấn đề mới xuất
hiện, nhằm nắm bắt kịp thời quan điểm tư tưởng, xu hướng giá trị; gắn giáo dục
bằng phương pháp thuyết phục và gắn với giáo dục pháp luật và kỷ luật. Tác giả
cho rằng để nâng cao hiệu quả cần xem xét trình độ văn hóa và khả năng lĩnh hội
của đối tượng; không được tùy tiện tăng thêm nội dung giảng dạy “vượt quá khả
năng nhận thức của một bộ phận quân nhân; đồng thời cần coi trình độ văn hóa
là một trong những điểm cơ bản cần lưu ý [194]. Tác giả Tào Tổ Minh và Trần
Đình cho rằng để công tác GDCTTT có hiệu quả cần xác định mục tiêu
GDCTTT căn cứ vào nhu cầu của xã hội và nhu cầu của đối tượng; không nên
quá lý tưởng hóa, tránh xây dựng mục tiêu quá cao: “Để thực hiện mục tiêu giáo
dục cụ thể, phải xét đến nhu cầu nội tại của bản thân và sự phát triển cá nhân,
tuân thủ quy luật GDCTTT và quy luật phát triển tâm sinh lý của người học
[195]. Các tác giả cũng cho rằng cần phải đánh giá đúng thực chất, không nên
quá lý tưởng về xã hội để so sánh hôm nay với trước kia mà phải căn cứ vào điều
kiện xã hội nhất định. Muốn cải tạo hoặc thay đổi tư tưởng, đạo đức của một
người, cần phải có sự phối hợp giữa các yếu tố như giáo dục, môi trường xã hội,
và tính tự chủ của cá nhân, có như vậy mới có thể đạt được mục tiêu giáo dục đề
34. 28
ra. Ở mỗi thời đại khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, thì vai trò của từng yếu tố
đối với việc hình thành tư tưởng của mỗi người sẽ khác nhau và vì vậy vai trò
của GDCTTT thay đổi tùy theo vai trò của kiến trúc thượng tầng chính trị [195].
Như vậy, hầu hết các tác giả Trung Quốc nêu trên đều thống nhấtquan
niệm cho rằng để nâng cao hiệu quả CTTT nói chung, hiệu quả công tác GDCT-
TT nói riêng cần đổi mới hình thức, phương pháp tiến hành; xác định mục tiêu
một cách sát hợp; tác động để thay đổi môi trường xã hội, môi trường sống của
đối tượng; nội dung phải phải xuất phát từ nhu cầu xã hội, từ tình hình thực tế và
từ nhu cầu của đối tượng và phải chú trọng nâng cao trình độ của đối tượng tiếp
nhận; ứng dụng các tiến bộ của công nghệ thông tin…(các nhà khoa học Trung
Quốc chưa bàn về chi phí trong CTTT và hiệu quả CTTT).
3.3.2. Công trình nghiên cứu trong nước
Tác giả Đào Duy Quát trong cuốn sách Quản lý hoạt động Tư tưởng - Văn
hóa cho rằng nguyên tắc tính hiệu quả là một trong những nguyên tắc căn bản,
quan trọng của CTTT; nguyên tắc này đòi hỏi người quản lý luôn có quan điểm
hiệu quả đúng đắn “biết phân tích hiệu quả trong từng tình huống khác nhau…từ
đó mà ra các quyết định tối ưu nhằm tạo được các thành quả có lợi nhất cho nhu
cầu phát triển của hệ thống” [145, tr.16]. Tác giả Lương Khắc Hiếu trong sách
Giáo trình lý thuyết truyền thông cho rằng yêu cầu của một thông điệp truyền
thông thay đổi hành vi hiệu quả bao gồm 07 tiêu chí: Rõ ràng và cụ thể; chính
xác; liên quan đến nhu cầu, lợi ích của đối tượng; phù hợp với nhóm đối tượng;
phù hợp với các quy tắc và giá trị xã hội; phù hợp với chính sách pháp luật của
Đảng và Nhà nước; phải định hướng và cổ vũ hành động [84, tr.98-100]. Trong
cuốn sách Cơ sở lý luận CTTT của Đảng Cộng sản Việt Nam, tác giả Lương
Khắc Hiếu khẳng định, để nâng cao hiệu quả CTTT cần thực hiện tốt 06 giải
pháp, bao gồm: Thiết lập những điều kiện khách quan thuận lợi cho việc tiến
hành CTTT và cho sự hình thành ý thức XHCN; nghiên cứu nắm vững đặc điểm
đối tượng và xác định mục đích, nội dung, lựa chọn phương pháp, hình thức,
phương tiện phù hợp với đặc điểm đó; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và
quản lý của Nhà nước đối với CTTT; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư
tưởng; tăng cường phối hợp trong CTTT và sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn
lực, khai thác triệt để công năng, tác dụng của các phương tiện vốn có của CTTT
35. 29
[86, tr.316-329]. Tác giả Hà Thị Bình Hòa (chủ biên) trong cuốn sách Giáo trình
Tâm lý học tuyên truyền cho rằng trong hoạt động tuyên truyền luôn tồn tại mối
quan hệ chủ thể và đối tượng tuyên truyền, đó là mối quan hệ giữa chủ thể tác
động và chủ thể tiếp nhận. Các tác giả cho rằng hiệu quả tuyên truyền không chỉ
phụ thuộc vào nội dung, hình thức, phương pháp, phương tiện mà còn phụ thuộc
vào hàng loạt các yếu tố tâm lý trong quá trình thực hiện tuyên truyền. Để tuyên
truyền có hiệu quả, “cùng với sự chuẩn bị về nội dung, hình thức, phương pháp
hoạt động, người tuyên truyền cần chú ý khai thác, vận dụng các hiện tượng, quy
luật tâm lý trong tuyên truyền” [88, tr.11]. Tác giả Hoàng Quốc Bảo trong bài
viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao hiệu quả tuyên truyền, (2014), Tạp chí
Lý luận Chính trị và Truyền thông (số 5) cho rằng để nâng cao hiệu quả tuyên
truyền cần “nghiên cứu phân loại và nắm chắc đặc điểm của đối tượng tuyên
truyền; tuyên truyền phải phù hợp với trình độ nhận thức của đối tượng; chuẩn bị
nội dung công phu, chu đáo; học cách tuyên truyền của quần chúng nhân dân”
[22, tr.3-6].
Đề tài khoa học của BTG Tổng LĐLĐ Việt Nam đã đưa ra 05 nhiệm vụ
và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, trong đó các giải pháp thứ ba, thứ tư và
thứ năm, đó là: Kiện toàn bộ máy tổ chức; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
làm công tác GDCT-TT; đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp, phương tiện
GDCT-TT cho công nhân các KCN [75]. Ngoài ra, về nâng cao hiệu quả CTTT,
hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân còn có nhiều bài viết có liên quan
như: Tác giả Lê Thanh Hà (2014), “Các cấp công đoàn đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, giáo dục công nhân, người lao động, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị
quyết số 20-NQ/TW của Đảng”, Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 04-3-2014;
Hoàng Thị Vân Anh (2016), “Một số bất cập về công tác GDCT-TT cho công
nhân lao động hiện nay”, Cổng thông tin điện tử của Công đoàn Việt Nam ngày
18-10-2016; Nguyễn Thị Thu Hoài (2015), “Nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền, GDCT-TT cho công nhân lao động”, Tạp chí Tuyên giáo điện tử ngày
01-02-2015…Các bài viết này đều đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả CTTT, công tác GDCT-TT cho công nhân. Tuy nhiên, đa phần
các giải pháp của các bài viết này nêu ra đều tương đối giống nhau và chưa đi
36. 30
sâu vào xem xét vấn đề hiệu quả trong công tác GDCT-TT cho công nhân các
KCN.
4. Nhận định khái quát về kết quả đạt được và những vấn đề cần
nghiên cứu
4.1. Những kết quả đạt được
Các công trình khoa học nghiên cứu về hiệu quả CTTT, hiệu quả công tác
GDCT-TT không chỉ đã được các tác giả trong nước mà cả nước ngoài (Trung
Quốc, Liên Xô…) quan tâm nghiên cứu. Điểm chung và thành tựu nổi bật của
các công trình này đã đạt được sự thống nhất cơ bản sau:
- Khẳng định vị trí, vai trò hết sức quan trọng của CTTT trong đó có công
tác GDCT-TT nhằm truyền bá kiến thức chính trị, hình thành niềm tin và cổ vũ
tính tích cực CT-XH của đối tượng với mục đích làm cho hệ tư tưởng của GCCN
trở thành hệ tư tưởng thống trị của xã hội.
- Cơ bản thống nhất với nhau ở quan điểm hiệu quả CTTT hoặc công tác
GDCT-TT được xem xét trong mối tương quan giữa kết quả với mục đích và chi
phí. Tuy nhiên, cũng có những quan điểm cho rằng cho rằng hiệu quả CTTT là sự
so sánh giữa mục tiêu và chi phí như của một số nhà khoa học Liên Xô [184,
tr.299] và Trung Quốc [195].
- Nhiều công trình nghiên cứu đã đưa ra các tiêu chí hoặc tiêu chuẩn để
đánh giá hiệu quả CTTT và hiệu quả công tác GDCT-TT.
4.2. Những vấn đề đặt ra
- Có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều nhà khoa học có lúc còn đồng
nhất hiệu quả CTTT với hiệu quả công tác GDCT-TT, trong khi đó, CTTT bao
gồm 03 bộ phận cấu thành là công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác
cổ động. Công tác GDCT-TT chỉ là một trong 03 bộ phận cấu thành của CTTT.
Vì vậy, khi xem xét, đánh giá hiệu quả công tác GDCT-TT, các tiêu chí và các
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT chắc chắn có những điểm khác
về tiêu chí, giải pháp nâng cao hiệu quả CTTT.
- Cho đến nay, ngoài hai cuốn sách của tác giả Lương Khắc Hiếu là giáo
trình Nguyên lý CTTT (2 tập), Cơ sở lý luận CTTT của Đảng Cộng sản Việt Nam
37. 31
và Luận án Tiến sĩ của Lương Ngọc Vĩnh, chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách có hệ thống, chuyên sâu về hiệu quả công tác GDCT-TT, chưa có bất
kỳ công trình nào nghiên cứu về hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân nói
chung, công nhân các KCN, trong đó có công nhân các KCN vùng ĐNB nói
riêng.
- Ngoài tác giả Lương Khắc Hiếu, Lương Ngọc Vĩnh, các tác giả khác
như đã nêu trên cơ bản thống nhất hiệu quả CTTT hoặc hiệu quả công tác
TGDCTTT là sự tương quan giữa kết quả với mục đích và chi phí nhưng lại mới
chỉ dừng lại ở mức đánh giá tương quan giữa mục đích và chi phí về kinh phí mà
chưa tính tới chi phí về nguồn lực.
- Đa số các tác giả nước ngoài nêu trên, mà cụ thể là Liên Xô và Trung
Quốc không xem xét hiệu quả là sự tương quan giữa kết quả và chi phí. Các tác
giả trong nước như Đào Duy Quát, Đào Duy Tùng, Vũ Ngọc Am…cũng không
đánh giá hiệu quả dựa trên chi phí.
- Trong số các nhà khoa học ở Việt Nam cũng có sự khác nhau khi đưa ra
tiêu chí đánh giá hiệu quả CTTT, hiệu quả công tác GDCT-TT. Một số tác giả
như Lương Khắc Hiếu, Lương Ngọc Vĩnh cho rằng đánh giá hiệu quả CTTT
luôn nằm ở đối tượng và chỉ có thể đánh giá ở đối tượng.
Tác giả Vũ Ngọc Am lại cho rằng đánh giá hiệu quả CTTT phải bao hàm
cả việc đánh giá các yếu tố của CTTT như nội dung, hình thức, phương pháp,
phương tiện. Các nhà khoa học Trung Quốc trong các công trình nêu trên cũng
có quan niệm gần tương đồng với tác giả Vũ Ngọc Am, nhưng chưa đề cập đến
kinh phí.
4.3 Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, kế thừa các công trình đi trước có liên quan đến đề
tài về hiệu quả CTTT nói chung, hiệu quả công tác GDCT-TT nói riêng, tác giả
Luận án thấy cần tiếp tục nghiên cứu những vấn đề chính sau đây:
- Nghiên cứu, kế thừa và bổ sung khái niệm hiệu quả công tác GDCT-TT
nói chung, hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân, trong đó có công nhân
các KCN ở miền ĐNB nói riêng.
38. 32
- Kế thừa, bổ sung và vận dụng tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác
GDCT-TT trong một đối tượng cụ thể là công nhân các KCN ở miền ĐNB.
- Dự báo những yếu tố tác động đến hiệu quả công tác GDCT-TT cho
công nhân các KCN ở miền ĐNB, nhất là trong bối cảnh CNH, HĐH đất nước,
hội nhập quốc tế sâu rộng và cuộc cách mạng lần thứ tư; khảo sát, nghiên cứu
thực tiễn nhằm làm rõ thực trạng hiệu quả công tác GDCT-TT trong công nhân
các KCN ở miền ĐNB.
- Xác định những vấn đề đặt ra, đề xuất những giải pháp mới nhằm nâng
cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB.
Từ những vấn đề đã được nghiên cứu, những vấn đề còn có những cách
hiểu khác nhau cần tiếp tục nghiên cứu đã được chỉ ra, nghiên cứu sinh nhận
thấy đề tài Luận án phù hợp mã ngành, mang tính cấp thiết và có những điểm
mới.
Tiểu kết tổng quan
Hiệu quả CTTT nói chung, hiệu quả công tác GDCT-TT nói riêng là nội
dung được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm. Mặc dù đã có
nhiều nghiên cứu nhưng đây vẫn là lĩnh vực chưa có sự thống nhất giữa các nhà
khoa học về khái niệm, tiêu chí và ở nhiều công trình vẫn đồng nhất hiệu quả
CTTT với hiệu quả công tác GDCT-TT, mặc dù để đánh giá hiệu quả hai hình
thái này cần có những tiêu chí khác nhau.
Các công trình đã công bố của các nhà khoa học trong và ngoài nước đã tập
trung giải quyết các vấn đề sau: Khái niệm, loại hình; tiêu chí đánh giá hiệu quả
CTTT, hiệu quả công tác GDCT-TT...Hiện nay, công nhân trong các KCN ở miền
ĐNB có số lượng lên tới hàng triệu người nhưng chưa có một công trình nào
nghiên cứu, điều tra, khảo sát cụ thể để đưa ra bộ tiêu chí và đánh giá thực trạng
hiệu quả công tác GDCT-TT trong đội ngũ này. Luận án sẽ đi sâu nghiên cứu vấn
đề này cũng như nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng, tác động, những vấn đề đặt
ra và những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho
công nhân các KCN ở miền ĐNB.
Tổng quan của Luận án đã hệ thống hóa, luận giải và xem xét các quan
niệm của các nhà khoa học cả trong và ngoài nước; tìm hiểu các công trình nghiên
39. 33
cứu liên quan đến hiệu quả CTTT, hiệu quả công tác GDCT-TT cũng như các nội
dung liên quan đến CTTT, GDCT-TT; chuyên đề đã đánh giá những kết quả của
các công trình và những nội dung cần làm rõ mà các công trình nghiên cứu chưa
đề cập hoặc đề cập chưa toàn diện đề từ đó nêu lên những vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu đã nêu trên.
40. 34
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG CHO CÔNG NHÂN
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. Khái niệm giáo dục chính trị - tư tưởng
1.1.1. Các khái niệm có liên quan đến công tác giáo dục chính trị - tư
tưởng
Khái niệm tư tưởng: Từ điển Hán Việt từ nguyên của Bửu Kế giải thích tư
tưởng “思想” là: “lo lắng, suy nghĩ, nghĩ đến” [96, tr.1888]. Hán Việt từ điển
của Đào Duy Anh giải thích tư tưởng là, “hiện tượng về ý thức, do kinh nghiệm
và tư lự mà phát sinh ra” [7, tr.332]. Từ điển tiếng Việt giải thích tư tưởng là “Sự
suy nghĩ. Quan điểm và ý nghĩ chung của con người đối với thế giới tự nhiên và
xã hội” [186, tr.1.757].
Theo Từ điển Việt - Anh, cụm từ tư tưởng có 2 nghĩa là: thought và
ideology [97, tr.645]. Như vậy, tư tưởng được hiểu bao gồm cả tư tưởng
(thought) và hệ tư tưởng (ideology). Trong tiếng Nga, tư tưởng cũng có 2 nghĩa
là tư tưởng (мысль) và hệ tư tưởng hay còn được dịch là ý thức hệ. Vì vậy, tiếng
Nga dịch giáo dục tư tưởng là “идеологическое образование”, tức là đồng nhất
giữa giáo dục tư tưởng và giáo dục hệ tư tưởng (ý thức hệ). Trong tiếng Hoa,
cách hiểu về tư tưởng và hệ tư tưởng là đồng nhất và được viết là “思想”.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa C.Mác - V.I. Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, tư tưởng thuộc phạm trù ý thức xã hội. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã
hội và do tồn tại xã hội quyết quyết định. Ý thức xã hội bao gồm hai dạng là Ý
thức xã hội thông thường và ý thức lý luận. Ý thức lý luận là những tư tưởng,
quan điểm được hệ thống hóa, được khái quát hóa thành các học thuyết xã hội và
được trình bày dưới dạng các học thuyết, khái niệm, phạm trù, quy luật, đó là hệ
tư tưởng. Duy thức học của Phật giáo cho rằng: “Ý thức phản ánh tồn tại khách
quan, chứ không phải là cái gì huyền bí…ý thức là động cơ lớn nhất làm phát
sinh hành động thân thể và ngôn ngữ” [3, tr.27]. Quan điểm của Phật giáo cho