Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí kinh tế với đề tài: Quản lý tài sản công tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Luận văn: Quản lý tài sản công tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THU THỦY
QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG
TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
Ngành: Quản lý Kinh tế
Mã số: 8 34 04 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ HOÀI LÊ
HÀ NỘI, 2018
2. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là do tự bản thân thực hiện có sự hỗ trợ từ giáo
viên hướng dẫn và không sao chép các công trình nghiên cứu của người khác. Các
dữ liệu thông tin thứ cấp sử dụng trong nghiên cứu này là có nguồn gốc và trích dẫn
rõ ràng.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này!
Tác giả
Hoàng Thu Thủy
3. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................1
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TẠI CÁC
BỆNH VIỆN ..........................................................................................................7
1.1 Cơ sở lý luận về quản lý tài sản công ...................................................................7
1.2 Quản lý tài sản công tại bệnh viện ......................................................................17
1.3 Nghiên cứu một số bài học kinh nghiệm để quản lý tốt tài sản công tại một số
bệnh viện, cơ sở y tế và bài học rút ra.......................................................................27
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TẠI BỆNH VIỆN
HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC .....................................................................................30
2.1. Tổng quan về Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức....................................................30
2.2. Thực trạng quản lý và sử dụng tài sản công tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức .......36
2.3. Đánh giá công tác quản lý tài sản công tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức .......58
CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TĂNG CƯỜNG
QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC......63
3.1 Định hướng phát triển và định hướng quản lý tài sản công tại Bệnh viện Việt
Đức thời gian tới .......................................................................................................63
3.2. Giải pháp nhằm tăng cường quản lý tài sản công một số giải pháp chủ yếu
nhằm tăng cường quản lý tài sản công tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức ...............65
3.3 Một số kiến nghị..................................................................................................72
KẾT LUẬN..........................................................................................................75
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................76
4. DANH MỤC VIẾT TẮT
Viết tắt Nghĩa đầy đủ
BHYT Bảo hiểm y tế
BV Bệnh viện
ĐVSNCL Đơn vị sự nghiệp công lập
KCB Khám chữa bệnh
KTV Kỹ thuật viên
NH Ngân hàng
NSNN Ngân sách nhà nước
NVYT Nhân viên y tế
SCL Sửa chữa lớn
TSCĐ Tài sản cố định
TSNN Tài sản nhà nước
TTB Trang thiết bị
TTBYT Trang thiết bị y tế
VT- TBYT Vật tư – Thiết bị y tế
5. DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tình hình thực hiện các chỉ tiêu chuyên môn của Bệnh viện Việt Đức
giai đoạn 2013 - 2017 ...........................................................................................34
Bảng 2.2: Cơ cấu tài sản cố định hữu hình của Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức giai
đoạn 2013 – 2017..................................................................................................39
Bảng 2.3. Danh mục trang thiết bị liên kết............................................................48
Bảng 2.4: Công suất sử dụng trang thiết bị Y tế tại Bệnh viện Việt Đức ..............51
Bảng 2.5: Mức độ đáp ứng nhu cầu về trang thiết bị y tế tại các khoa, đơn vị......52
Bảng 2.6: Số lượng trang thiết bị hư hỏng cần sửa chữa.......................................55
Bảng 2.7: Số lượng trang thiết bị thanh lý ............................................................58
6. DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức .............................33
Sơ đồ 2.2: Quy trình mua sắm tài sản công tại Bệnh viện Việt Đức .....................42
Biểu đồ 2.1: Tổng thu của Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức giai đoạn ....................36
2013 – 2017 ..........................................................................................................36
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu tài sản công của Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức thời điểm
31/12/2017............................................................................................................37
Biểu đồ 2.3: Số đơn vị tham gia dự thầu bình quân/gói thầu mua sắm tài sản công
..............................................................................................................................43
Biểu đồ 2.4: Tình hình vốn NSNN đầu tư cho tài sản công của Bệnh viện Việt Đức
giai đoạn 2013 – 2017...........................................................................................45
Biểu đồ 2.5: Tình hình vốn phát triển sự nghiệp của Bệnh viện đầu tư cho tài sản
công của Bệnh viện Việt Đức giai đoạn 2013 – 2017 ...........................................46
Biểu đồ 2.6: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư cho tài sản công của Bệnh viện Việt Đức
giai đoạn 2013 – 2017...........................................................................................47
Biểu đồ 2.7: Tỷ lệ hao mòn TSCĐ của Bệnh viện Việt Đức.................................57
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Về lý luận: Tài sản trong các bệnh viện công lập thường có giá trị lớn, quy
mô nhiều nên quản lý rất phức tạp. Trong quá trình hoạt động, bệnh viện dựa vào
thiết bị, dụng cụ và các tài sản khác để cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất
lượng cho bệnh nhân. Điều đó bao gồm không chỉ là thiết bị y tế được sử dụng
trong chăm sóc trực tiếp, mà còn là máy tính và các tài sản khác mà các bệnh viện
dựa vào để quản lý hồ sơ bệnh nhân, thanh toán y tế và các quá trình khác diễn ra
trong hoạt động. Tài sản, trang thiết bị y tế của các bệnh viện là một trong những
yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả, chất lượng của công tác y tế, hỗ trợ tích cực
cho người thầy thuốc trong công tác phòng bệnh và chữa bệnh. Do đó, các tài sản
luôn được bệnh viện chú trọng đầu tư.
Tuy nhiên, quản lý tài sản hiệu quả là yêu cầu đặt ra cho các bệnh viện để
đảm bảo cung cấp dịch vụ hiệu quả và giảm thiết bị bị mất và bị đánh cắp. Bởi lẽ,
quản lý tài sản tốt sẽ nâng cao chất lượng KCB, giảm được kinh phí đầu tư, nâng
cao tuổi thọ của thiết bị, hỗ trợ công tác chuyên môn, cho cán bộ y tế.
Đặc biệt, tài sản công tại các bệnh viện có nhiều đặc thù khác biệt so với tài
sản công tại các đơn vị khác. Không chỉ khác bởi đây là những tài sản gắn liền với
hoạt động khám chữa bệnh mà các khác bởi cơ chế quản lý các tài sản này. Điển
hình là nguồn hình thành tài sản công tại các bệnh viện không chỉ gồm nguồn
NSNN cấp trực tiếp mà còn hình thành từ các nguồn khác có nguồn gốc từ NSNN.
Trong quá trình quản lý, sử dụng, các bệnh viện được thu một phần viện phí để bù
đắp chi phí hình thành nên các tài sản này. Chính vì vậy, công tác quản lý tài sản
công tại các bệnh viện cũng có nhiều đặc trưng nhất định.
Về thực tiễn: Có thể thấy, công tác quản lý tài sản của các bệnh viện công
lập hiện nay còn rất nhiều hạn chế. Trước đó, Kiểm toán chuyên đề công tác đầu tư,
mua sắm, quản lý và sử dụng trang thiết bị y tế năm 2015, Kiểm toán Nhà nước đã
phát hiện ra những sự lãng phí rất lớn trong việc mua sắm thiết bị khám chữa bệnh
như một số đơn vị có thiết bị chưa hết thời gian tính hao mòn nhưng đã bị hỏng,
8. 2
không sử dụng được. Thậm chí nhiều Bệnh viện có nhiều thiết bị được đầu tư mới
nhưng chưa đưa vào sử dụng hoặc mới đưa vào sử dụng đã hỏng gây lãng phí lớn.
Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức là bệnh viện tuyến đầu của Trung ương nên
có quy mô lớn, trang thiết bị y tế tiên tiến và hiện đại do được Nhà nước chú trọng
đầu tư. Tuy nhiên, do quy mô lớn nên công tác quản lý tài sản công của Bệnh viện
tương đối phức tạp và khó khăn. Các năm qua, công tác quản lý tài sản của Viện đã
gặp phải không ít tồn tại, hạn chế. Trong năm 2017, Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức
là 1 trong 12 bệnh viện công lập bị Bộ Y tế yêu cầu phải rà soát, kiểm tra, đánh giá
thực trạng việc tổ chức quản lý, đấu thầu mua sắm và khai thác sử dụng trang thiết
bị y tế (thiết bị và hóa chất, vật tư tiêu hao y tế) tại đơn vị mình. Đồng thời, giải
trình và làm rõ trách nhiệm của các cá nhân, tập thể có liên quan, kịp thời chấn
chỉnh, xử lý sai phạm nếu có. Đặc biệt, hiện nay tài sản công gắn liền với quyền sử
dụng đất của Bệnh viện ở cơ sở 1 đang khai thác hết công suất, không đáp ứng dủ
nhu cấu sử dụng, trong khi dự án cơ sở 2 đã chậm tiến độ lên tới 3 năm.
Trước thực trạng hiện nay, Bệnh viện cần phải nhanh chóng tìm hiểu những
thuận lợi, khó khăn đồng thời đề xuất giải pháp tăng cường quản lý, nâng cao chất
lượng, hiệu quả đầu tư, sử dụng trang thiết bị y tế trong thời gian tới; và khẩn
trương chấn chỉnh, có phương án khắc phục các hạn chế trong công tác quản lý tài
sản công của mình.
Xuất phát từ các lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Quản lý tài sản công tại
Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quản lý tài sản công trong các bệnh viện công lập là vấn đề có ý nghĩa quan
trọng đối với các bệnh viện nên đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, điển
hình như:
Nguyễn Văn Điều (2015), Tăng cường quản lý tài sản công tại Bệnh viện Đa
khoa tỉnh Bắc Giang, luận văn thạc sỹ, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Luận văn
đã hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý tài sản công. Trên cơ sở đánh
giá thực trạng quản lý tài sản công tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang, đề xuất
một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý tài sản công tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh
Bắc Giang trong thời gian tới. Ngoài việc sử dụng dư liệu thứ cấp, luận văn còn
9. 3
điều tra khảo sát Ban lãnh đạo, các trưởng phó các khoa, phòng, các cán bộ công
nhân viên liên quan đến quản lý Tài sản công, các bệnh nhân và người nhà bệnh
nhân được sử dụng Tài sản công của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang.
Hoàng Đình Sơn (2015), Nâng cao hiệu quả sử dụng trang thiết bị y tế tại
Bệnh viện Bãi Cháy tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ Quản lý kinh tế, Trường Đại
học Thái Nguyên, Thái Nguyên. Trên cơ sở đánh giá thực trạng hiệu quả sử
dụng trang thiết bị y tế tại bệnh viện Bãi Cháy, luận văn đã đề xuất một số
giải pháp nâng cao hiệu qua sử dụng trang thiết bị y tế tại bệnh viện Bãi Cháy
trong thời gian tới. Tác giả kiến nghị định hướng tập trung đầu tư TTBYT để
phát triển một số chuyên khoa mũi nhọn trên cơ sở chức năng nhiệm vụ và
khả năng phát triển của bệnh viện để phát huy tối đa hiệu quả đầu tư, hiệu quả
sử dụng TTBYT, đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao của nhân
dân trong tỉnh và các vùng phụ cận.
Trần Xuân Thắng (2016), Hoàn thiện công tác quản lý trang thiết bị y tế tại
Bệnh viện Đa khoa tỉnh ĐắkLắk, Luận văn thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Trường Đại
học Quốc tế Hồng Bàng, Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đánh giá thực trạng
quản lý trang thiết bị y tế tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh ĐắkLắk, luận văn cũng đã đề
xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý trang thiết bị y tế tại Bệnh
viện Đa khoa tỉnh ĐắkLắk trong thời gian tới.
Trương Thị Hồng Linh (2018), Hoàn thiện công tác quản lý trang thiết bị y tế
tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị, luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Kinh tế
Huế. Đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung cơ bản và các vấn đề liên quan đến
quản lý TTBYT tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị. Đề tài cung cấp cho các nhà
quản lý Bệnh viện các nội dung về cơ sở lý luận quản lý TTBYT, phân tích đánh giá
đúng thực trạng về công tác quản lý TTBYT tại Bệnh viện trong thời gian qua. Trên
cơ sở đó đưa ra các kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân còn tồn đọng
trong công tác quản lý TTBYT trong thời gian qua, từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện công tác TTBYT trong thời gian tới. Nhằm phản ánh rõ thực trạng
công tác quản lý TTBYT tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị từ hoạt động đầu tư
đến hoạt động thanh lý tài sản trong toàn bệnh viện, đồng thời xây dựng các giải
10. 4
pháp phù hợp trong quản lý TTBYT tại bệnh viện. Đề tài tiến hành điều tra khảo sát
trực tiếp cán bộ quản lý tại Bệnh viện về các vấn đề liên quan đến nội dung nghiên
cứu. Cụ thể là 3 đối tượng chính: điều dưỡng, bác sỹ, kỹ thuật viên (KTV), là những
người tham gia công tác quản lý trang thiết bị y tế trong cả bốn giai đoạn: đầu tư,
mua sắm; sử dụng; sửa chữa, bảo dưỡng và khấu hao, thanh lý tại bệnh viện.
Hội thiết bị Y tế Việt Nam (2017), Báo cáo Hội thảo thường niên “Nâng cao
năng lực quản lý trang thiết bị y tế, cập nhật thông tin khoa học- công nghệ, kỹ
thuật thiết bị y tế”, Đà Nẵng. Trong nghiên cứu đánh giá của Hội, các tác giả đã
đánh giá tình hình quản lý trang thiết bị y tế của ngành y tế hiện nay. Tuy nhiên, kết
quả nghiên cứu tập trung vào việc ứng dụng công nghệ thông tin, khoa học và công
nghệ trong quản lý thiết bị y tế.
Như vậy, mặc dù có một số đề tài nghiên cứu về quản lý tài sản công trong
các bệnh viện công lập nhưng nhìn chung chưa nhiều. Bên cạnh đó, các công trình
này chủ yếu nghiên cứu tại các bệnh viện tuyến huyện hoặc tỉnh nên quy mô nhỏ,
cơ chế quản lý tài chính có những khác biệt nhất định so với các bệnh viện tuyến
đầu. HIện tại, cũng chưa có một trong công trình nghiên cứu nào về quản lý tài sản
công tại Bệnh viện hữu nghị Việt Đức. Do vậy, công trình nghiên cứu của tác giả là
hoàn toàn cần thiết và không trùng lắp với các công trình khác đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản
về quản lý tài sản công trong các bệnh viện, đánh giá thực trạng quản lý tài sản công
tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức và đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường quản
lý tài sản công tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.
Nhiệm vụ cụ thể:
- Nghiên cứu và tổng hợp một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về
quản lý tài sản công tại các bệnh viện.
- Đánh giá thực trạng tình hình quản lý, khai thác và sử dụng tài sản công tại
Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.
- Phân tích ưu, nhược điểm, những khó khăn cũng như thuận lợi trong việc
quản lý tài sản công tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện, tăng cường quản lý tài sản công
11. 5
tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
- Lý luận và thực tiễn về quản lý tài sản công tại Bệnh viện Hữu nghị Việt
Đức (bao gồm quản lý quá trình đầu tư mua sắm, khai thác, sử dụng và sửa chữa,
vận hành, bảo trì và khấu hao tài sản công).
Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2013-2017, định hướng đến năm 2022.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Thu thập dữ liệu thứ cấp: Về thu thập thông tin, Luận văn sử dụng các
thông tin thứ cấp từ các báo cáo tài chính, quy chế quản lý tài sản, quy chế chi tiêu
nội bộ và các báo cáo khác của Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, …Các thông tin trích
dẫn trong luận văn được ghi chú nguồn trích dẫn rõ ràng và được liệt kê trong danh
mục tài liệu tham khảo.
Dữ liệu thứ cấp bên trong của luận văn được thu thập tại bàn thông qua mạng
internet, thu thập từ các cơ sở dữ liệu của Thư viện trường Học viện khoa học Xã
hội và các trường đại học khác khối kinh tế, tại Thư viện Đại học quốc gia, trang
thông tin của các cơ quan Nhà nước,…, bao gồm: các sách chuyên khảo, bài báo,
bài nghiên cứu, các luận án, luận văn,… có liên quan tới đề tài, các báo cáo của các
cơ quan Nhà nước,…
Phương pháp thu thập tài liệu khi thực hiện giúp tác giả không chỉ thu thập
các tài liệu để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài mà còn đánh giá, phân tích thực
trạng quản lý tài sản công của Bệnh viện Việt Đức.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, tài liệu
+ Phân tích nguồn tài liệu (tạp chí và báo cáo khoa học, tác phẩm khoa học,
tài liệu lưu trữ thông tin đại chúng, luận văn, luận án,…). Tác giả tiến hành phân
tích các nguồn tài liệu khác nhau và lựa chọn nguồn tài liệu có giá trị khoa học cao
để xây dựng cơ sở lý luận cho luận văn bao gồm các giáo trình của các trường đại
học khối kinh tế, sách chuyên khảo liên quan tới đề tài.
12. 6
+ Phân tích nội dung (theo cấu trúc logic của nội dung): dựa trên đề cương
chi tiết đã được xây dựng, tác giả tiến hành nghiên cứu các nội dung cụ thể, lựa
chọn các nội dung phù hợp với đề tài nghiên cứu.
Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết giúp tác giả chọn lọc các lý
luận cần thiết để xây dựng cơ sở lý luận trong chương 1 của luận văn.
- Phương pháp so sánh
So sánh bằng số tuyệt đối: là kết quả của phép trừ giữa trị số của kỳ phân tích
so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh thể hiện khối lượng, quy mô
tăng (giảm) của các hiện tượng kinh tế.
So sánh bằng số tương đối: là kết quả của phép chia giữa trị số của kỳ phân
tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh thể hiện kết cấu, mối
quan hệ tỷ lệ, tốc độ phát triển, mức độ phổ biến của các hiện tượng kinh tế.
Phương pháp so sánh được sử dụng để phân tích các số liệu, dữ liệu liên quan
nhằm đánh giá được tình hình quản lý tài sản công của Bệnh viện trong chương 2.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: hệ thống hóa những vấn đề lý luận về công tác quản lý tài
sản công tại các bệnh viện công lập.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đánh giá thực trạng công tác quản lý tài sản công của
Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức.
Chỉ ra những hạn chế, tồn tại và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công
tác quản lý tài sản công của Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức.
7. Kết cấu của luận văn
Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo sẽ có 3
nội dung chính thông qua 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý tài sản công tại các bệnh viện;
Chương 2: Thực trạng quản lý tài sản công tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức;
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý tài sản công tại Bệnh viện Hữu Nghị
Việt Đức.
13. 7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TẠI CÁC BỆNH VIỆN
1.1 Cơ sở lý luận về quản lý tài sản công
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm về tài sản công
1.1.1.1 Khái niệm
Ở Pháp, “Tài sản quốc gia được hiểu là toàn bộ tài sản và quyền hạn đối với
động sản và bất động sản thuộc về Nhà nước” (Điều 1 Bộ luật Tài sản nhà nước
năm 1998).
Ở Việt Nam, Điều 17 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Đất đai, rừng núi,
sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi vùng biển, thềm lục địa
và vùng trời, phần vốn do Nhà nước đầu tư vào xí nghiệp, công trình thuộc các
ngành, lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc
phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước đều
thuộc sở hữu toàn dân”.
Điều 200 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định tài sản thuộc hình thức sở hữu
Nhà nước như sau: "Tài sản thuộc hình thức sở hữu Nhà nước bao gồm đất đai,
rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông, hồ,
nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi từ nhiên ở vùng biển, thềm lục
địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công
trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại
giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác do pháp luật quy định".
Tiếp đó, tại các Điều 239, 240, 241, 246, 254 và 644 của Bộ luật Dân sự
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005, Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2003, Điều 17 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, Điều 35
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 đã quy định cụ thể các tài sản khác thuộc
sở hữu nhà nước do pháp luật quy định bao gồm: Các tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính, vật chứng trong vụ án hình sự bị tịch thu sung quỹ Nhà nước; vật bị
chôn dấu, chìm đắm được tìm thấy, vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ
sở hữu, vật do người khác đánh rơi, bỏ quên được xác lập quyền sở hữu của Nhà
nước theo quy định của pháp luật, di sản không người thừa kế hoặc có nhưng không
được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, tài sản do tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước biếu tặng Chính phủ hoặc tổ chức Nhà nước...
14. 8
Theo Điều 3, Luật Tài sản công ban hành năm 2017 thì “Tài sản công là tài sản
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, bao
gồm: tài sản công phục vụ hoạt động quản lý, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quốc
phòng, an ninh tại cơ quan, tổ chức, đơn vị; tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng; tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân; tài sản công
tại doanh nghiệp; tiền thuộc ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước ngoài
ngân sách, dự trữ ngoại hối nhà nước; đất đai và các loại tài nguyên khác”.
Như vậy, tài sản công là những tài sản được hình thành từ nguồn ngân sách nhà
nước, tài sản được xác lập quyền sở hữu của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2 Đặc điểm tài sản công
Tài sản công rất phong phú về số lượng chủng loại, mỗi loại tài sản có đặc điểm,
tính chất, công dụng khác nhau song chúng đều có những đặc điểm chung sau:
Thứ nhất: Tài sản công được đầu tư xây dựng, mua sắm bằng kinh phí của
ngân sách nhà nước, có nguồn từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn vốn đầu tư
khác (trừ một số tài sản đặc biệt như: đất đai, tài sản được xác lập sở hữu Nhà nước
được chuyển giao).
Bên cạnh đó là những tài sản được hình thành từ nguồn viện trợ không hoàn
lại, tài sản do dân đóng góp xây dựng và tài sản được xác lập quyền sở hữu Nhà
nước. Đối với tài sản này, ngân sách nhà nước không trực tiếp đầu tư xây dựng và
mua sắm mà chỉ giao tài sản cho các cơ quan sử dụng. Nhưng các tài sản này trước
khi giao cho các bệnh viện sử dụng, đều phải xác lập quyền sở hữu Nhà nước. Khi
các tài sản này được xác lập quyền sở hữu Nhà nước, thì giá trị của các tài sản đều
được ghi thu cho ngân sách nhà nước. Như vậy, suy cho cùng các tài sản được xác
lập quyền sở hữu Nhà nước, tài sản viện trợ không hoàn lại, tài sản do dân đóng góp
giao cho các cơ quan hành chính sử dụng vẫn có nguồn gốc hình thành từ ngân sách
Nhà nước.
Thứ hai: Sự hình thành và sử dụng tài sản công phải phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ của từng cơ quan. Đối với cơ quan quản lý nhà nước, tài sản công chỉ
đơn thuần là điều kiện vật chất, là phương tiện để cơ quan nhà nước thực hiện
chức năng quản lý kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Tài sản công của các cơ
quan này lớn nhất là trụ sở làm việc (công trường), các phương tiện giao thông vận
tải phục vụ đi lại công tác, các trang thiết bị, máy móc và phương tiện làm việc. Số
lượng tài sản công cần phải có tuỳ thuộc vào cơ cấu tổ chức bộ máy và biên chế cán
15. 9
bộ, công chức, viên chức của mỗi cơ quan, đơn vị.
Thứ ba: Vốn đầu tư xây dựng và mua sắm tài sản công không thu hồi được
trong quá trình sử dụng tài sản công. Thực tế các nước trên thế giới cho thấy khoảng
80% chi NSNN là chi chuyển giao và có rất ít khoản chi là chi thanh toán, được
hoàn trả trực tiếp. Khác với doanh nghiệp kinh doanh, tài sản công trong cơ quan
chủ yếu là những tài sản trong lĩnh vực tiêu dùng của cải vật chất, không thuộc lĩnh
vực sản xuất kinh doanh; trong quá trình sử dụng không tạo ra sản phẩm, hàng hoá,
dịch vụ để đưa ra thị trường; do đó, không chuyển giá trị bị hao mòn vào giá thành
của sản phẩm hoặc chi phí lưu thông. Vì thế, trong quá trình sử dụng, tuy tài sản bị
hao mòn nhưng không trích khấu hao được (đối với tài sản cố định), vì giá trị của
nó không được chuyển dần sang giá trị của sản phẩm vật chất, dịch vụ để hình thành
bộ phận giá trị mới cần phải thu hồi. Do không thực hiện trích khấu hao tài sản cố
định, nên nguồn vốn đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản không thu hồi được trong
quá trình sử dụng và không có nghĩa vụ tài chính với ngân sách nhà nước trong việc
sử dụng. Mức độ hao mòn của tài sản công trong quá trình sử dụng nhanh hay chậm
không ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của cơ quan nhà nước được thụ hưởng, Nhà
nước không sử dụng đòn bẩy trích khấu hao tài sản cố định để thúc đẩy các cơ quan
bảo vệ tài sản công như đối với các tổ chức kinh tế sử dụng tài sản vào sản xuất
kinh doanh. Nhà nước chỉ có thể buộc các cơ quan này quản lý và sử dụng tài sản
công tiết kiệm và hiệu quả bằng các biện pháp hành chính như quy định tiêu chuẩn,
định mức sử dụng tài sản công, cùng với biện pháp quản lý chặt chẽ các khoản chi
tiêu về duy trì, bảo dưỡng, sửa chữa tài sản công để buộc các cơ quan đơn vị sử
dụng tài sản hiệu quả hơn.
1.1.2 Các chính sách Quốc gia về tài sản công
Tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập quản lý, sử dụng là cơ sở vật chất
quan trọng để thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công cho xã hội, đồng
thời là nguồn lực to lớn góp phần bảo đảm và nâng cao tự chủ tài chính của các đơn
vị. Đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng nhằm quản lý chặt chẽ và khai thác có hiệu quả
nguồn lực từ tài sản công là giải pháp quan trọng để thực hiện thành công Nghị
quyết 19/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương.
Theo thống kê của Cơ sở dữ liệu quốc gia (CSDL) về tài sản nhà nước đến
30/9/2017, tổng nguyên giá của 4 loại tài sản lớn (nhà, đất, xe ô tô, tài sản khác có
nguyên giá từ 500 triệu đồng trở lên) tại đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL)
16. 10
(chưa bao gồm các ĐVSNCL thuộc lực lượng vũ trang nhân dân) là: 326.112 tài sản
(chiếm 64,19% tổng số lượng tài sản nhà nước khu vực hành chính sự nghiệp), với
tổng nguyên giá là 792.968,26 tỷ đồng (chiếm 72,60% tổng giá trị tài sản nhà nước
khu vực hành chính sự nghiệp); trong đó, quyền sử dụng đất là 524.410,22 tỷ đồng,
nhà là 193.871,71 tỷ đồng và tài sản khác là 74.686,33 tỷ đồng.
Trong thời gian qua, cơ chế và công tác quản lý, sử dụng tài sản công tại các
ĐVSNCL đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhà nước đã xây dựng, ban hành
tương đối đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công
và tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công, tạo hành lang pháp lý để đổi mới
công quản lý, sử dụng tài sản công tại ĐVSNCL.
Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa
phương tổ chức đánh giá tình hình triển khai Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà
nước năm 2008; Rà soát hệ thống pháp luật hiện hành có liên quan đến việc quản lý,
sử dụng tài sản công; Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, xây dựng dự thảo Luật
Quản lý, sử dụng tài sản công; Lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động của
luật, các nhà khoa học, các chuyên gia... trên cơ sở đó, báo cáo Chính phủ để trình
Quốc hội.
Ngày 21/6/2017, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Quản lý, sử dụng tài
sản công để thay thế cho Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước năm 2008. Luật
này sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Với việc ban hành Luật Quản lý, sử
dụng tài sản công, cơ chế quản lý tài sản công tại ĐVSNCL tiếp tục được đổi mới
mạnh mẽ với nhiều nội dung.
Chính sách quản lý tài sản công của Nhà nước bao gồm các nội dung cụ thể
như sau:
- Nhà nước có chính sách đầu tư, khai thác và bảo vệ tài sản công. Đối với
chính sách đầu tư, tài sản công của các đơn vị ngoài việc hình thành từ nguồn
NSNN cấp phát trực tiếp còn được hình thành từ các nguồn khác. Nhà nước tạo cơ
chế cho ĐVSNCL huy động các nguồn lực của xã hội để đầu tư cơ sở vật chất cung
cấp dịch vụ công. Theo đó, các ĐVSNCL được đầu tư xây dựng công trình sự
nghiệp theo hình thức đối tác công - tư; Được sử dụng tài sản để thanh toán cho nhà
đầu tư thực hiện dự án BT; Được sử dụng tài sản của đơn vị để thế chấp hoặc thực hiện
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự khác. Trong quá trình khai thác tài sản
công, Nhà nước đưa ra chủ trương chính sách quy định rõ việc tính hao mòn và trích
17. 11
khấu hao tài sản cố định tại ĐVSNCL. Theo đó, tài sản cố định tại ĐVSNCL được tính
hao mòn. Các tài sản cố định tại ĐVSNCL phải trích khấu hao gồm: Tài sản cố định tại
ĐVSNCL tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; Tài sản cố định tại ĐVSNCL
thuộc đối tượng phải tính đủ khấu hao tài sản cố định vào giá dịch vụ theo quy định của
pháp luật; Tài sản cố định của ĐVSNCL khác được sử dụng vào hoạt động kinh doanh,
cho thuê, liên doanh, liên kết theo quy định của pháp luật. Số tiền trích khấu hao tài sản
cố định được bổ sung quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp của ĐVSNCL để bổ sung
nguồn lực giúp các đơn vị tái tạo, tăng cường cơ sở vật chất. Các chính sách này giúp
cho các đơn vị tái sản xuất tài sản công.
- Nhà nước thực hiện hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa công tác quản lý tài
sản công nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản công; bảo đảm
nguồn nhân lực và tài chính phục vụ quản lý, sử dụng tài sản công. Đặc biệt, Nhà
nước trao quyền tự chủ mạnh hơn cho các đơn vị và thủ trưởng các ĐVSNCL (đặc
biệt là các đơn vị tự đảm bảo toàn bộ chi thường xuyên trở lên) trong việc đầu tư,
mua sắm, quyết định định mức sử dụng tài sản chuyên dùng; Sử dụng tài sản công
vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết; Xử lý tài sản công gắn với
việc công khai, minh bạch, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm. Việc mở rộng trao
quyền tự chủ cho ĐVSNCL đã góp phần nâng cao số lượng và chất lượng dịch vụ
công; Tạo điều kiện cho người dân có thêm cơ hội lựa chọn, tiếp cận các dịch vụ
công với chất lượng ngày càng cao, góp phần cải thiện thu nhập của người lao động
tại các đơn vị sự nghiệp, tuy nhiên đến nay, hoạt động này vẫn tồn tại một số khó
khăn, vướng mắc.
1.1.3 Nguyên tắc quản lý tài sản công
Quản lý tài sản công cần phải tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một là, nguyên tắc tập trung, thống nhất: Mọi tài sản công đều phải được
Nhà nước giao quyền quản lý, quyền sử dụng và các hình thức trao quyền khác cho
cơ quan, tổ chức, đơn vị và đối tượng khác theo quy định của Luật này và pháp luật
có liên quan. Do đó, các tài sản công khi quản lý phải tuân thủ các quy định pháp
luật của Nhà nước. Việc phân cấp quản lý tài sản công hiện nay tức là Nhà nước
giao quyền quản lý tài sản cho các cơ quan, ngành, địa phương theo đúng quy định
của pháp luật nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.
Hai là, nguyên tắc theo kế hoạch: quản lý tài sản công phải dựa trên kế hoạch
đã được lập ra. Điều đó có nghĩa là việc khai thác tài sản công hiện có, tạo lập tài
18. 12
sản công mới, sử dụng tài sản công,… phải theo kế hoạch đã được hoạch định
trước. Quản lý tài sản công theo kế hoạch cho phép khai thác, sử dụng tài sản công
phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia, tạo lập cân đối, hài hòa
trong khai thác các tài sản công. Tính kế hoạch cho phép các cơ quan được giao
quyền quản lý tài sản công được chủ động sử dụng, khai thác có hiệu quả.
Ba là, nguyên tắc minh bạch và trung thực: Tài sản công do Nhà nước đầu tư
phải được quản lý, khai thác, duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa, được thống kê, kế toán
đầy đủ về hiện vật và giá trị, những tài sản có nguy cơ chịu rủi ro cao do thiên tai,
hoả hoạn và nguyên nhân bất khả kháng khác được quản lý rủi ro về tài chính thông
qua bảo hiểm hoặc công cụ khác theo quy định của pháp luật.
Tài sản công là tài nguyên phải được kiểm kê, thống kê về hiện vật, ghi nhận
thông tin phù hợp với tính chất, đặc điểm của tài sản; được quản lý, bảo vệ, khai
thác theo quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, đúng pháp luật. Tài sản
công phục vụ công tác quản lý, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quốc phòng, an
ninh của cơ quan, tổ chức, đơn vị phải được sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, đúng mục
đích, công năng, đối tượng, tiêu chuẩn, định mức, chế độ theo quy định của pháp
luật. Việc khai thác nguồn lực tài chính từ tài sản công phải tuân theo cơ chế thị
trường, có hiệu quả, công khai, minh bạch, đúng pháp luật. Việc quản lý, sử dụng
tài sản công phải được thực hiện công khai, minh bạch, bảo đảm thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng.
Việc quản lý, sử dụng tài sản công được giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm
toán; mọi hành vi vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công phải được xử
lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Bốn là; Đảm bảo sử dụng đúng mục đích, tiêu chuẩn, định mức chế độ mà
nhà nước quy định.
Nhà nước phải thực hiện vai trò kiểm tra, kiểm soát các quá trình hình thành,
sử dụng, khai thác và xử lý tài sản công. Nói một cách khác, người được giao trực
tiếp quản lý, sử dụng tài sản công phải thực hiện theo ý chí của nhà nước (người đại
diện chủ sở hữu tài sản công). Mặt khác, do những đặc điểm riêng có của tài sản
công là tổ chức, cá nhân được giao trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản không phải là
người có quyền sở hữu tài sản; tài sản công được phân bổ ở khắp mọi miền đất
nước, được giao cho các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân trực tiếp quản lý, sử
dụng. Do đó, nếu Nhà nước không tổ chức quản lý tài sản công theo một cơ chế,
19. 13
chính sách, chế độ thống nhất phù hợp với mô hình kinh tế mà nhà nước theo đuổi
sẽ dẫn đến việc tuỳ tiện, mạnh ai nấy làm trong việc đầu tư xây dựng, mua sắm, sửa
chữa, sử dụng, điều chuyển, thanh xử lý tài sản; nhất là sử dụng tài sản không đúng
mục đích được giao, sử dụng tài sản công vào việc riêng, sử dụng tài sản lãng phí,
kém hiệu quả, làm thất thoát tài sản, giảm nguồn lực tài sản công.
Quản lý và sử dụng tài sản công theo tiêu chuẩn định mức để công tác quản
lý thống nhất, đồng thời áp dụng tiêu chuẩn định mức sử dụng từng loại tài sản cho
từng đối tượng sử dụng, tránh hiện tượng mạnh ai người đó trang bị tuỳ tiện theo ý
muốn của mình, tuỳ thuộc vào khả năng vốn liếng (kinh phí) của đơn vị; tiêu chuẩn,
định mức sử dụng tài sản còn là thước đo đánh giá mức độ sử dụng tiết kiệm và
hiệu quả tài sản công của từng đơn vị; mặt khác, tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài
sản là cơ sở để thực hiện công tác quản lý, thực hiện sự kiểm tra, kiểm soát của Nhà
nước. Chính phủ quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng đối với những tài sản có
giá trị lớn được sử dụng phổ biến ở các cơ quan nhà nước, các đơn vị lực lượng vũ
trang nhân dân, các tổ chức khác. Trên cơ sở tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản
đối với các tài sản sử dụng phổ biến, các Bộ, ngành, địa phương quy định tiêu
chuẩn, định mức sử dụng đối với những tài sản sử dụng có tính đặc thù.
Năm là; thống nhất về cơ chế, chính sách, chế độ quản lý; đồng thời phải có
cơ chế, chính sách, chế độ quản lý, sử dụng đối với những tài sản có tính đặc thù
riêng, đối với ngành, địa phương, tổ chức sử dụng tài sản phục vụ cho các hoạt
động có tính đặc thù riêng. Thống nhất quản lý trên cơ sở để đảm bảo cơ chế, chính
sách, chế độ quản lý tài sản công phù hợp với đặc điểm tài sản công. Nội dung của
thống nhất quản lý là Chính phủ thống nhất quản lý tài sản công; Quốc hội, Chính
phủ quy định cơ chế, chính sách, chế độ quản lý tài sản áp dụng chung cho mọi tài
sản và quy định cơ chế, chính sách, chế độ quản lý cụ thể đối với những tài sản có
giá trị lớn mà hầu hết cơ quan nhà nước, các đơn vị lực lượng vũ trang, các đơn vị
công, các tổ chức khác được Nhà nước giao trực tiếp sử dụng (có thể gọi là những
tài sản chủ yếu và được sử dụng phổ biến). Trên cơ sở cơ chế, chính sách, chế độ
quản lý tài sản công do Quốc hội, Chính phủ quy định; các Bộ, ngành, địa phương
quy định cơ chế, chính sách, chế độ quản lý đối với những tài sản có tính đặc thù
riêng (có thể gọi là những tài sản có tính đặc thù) và những tài sản phục vụ cho các
hoạt động đặc thù.
20. 14
1.1.4 Mục tiêu quản lý tài sản công
Thứ nhất: Tạo lập, khai thác hiệu quả tốt nhất nguồn tài sản công của Nhà nước:
Cơ quan hành chính phải phát huy chức năng quản lý nhà nước đối với tài
sản công để buộc mọi tổ chức, cá nhân được giao quyền sử dụng tài sản công phải
bảo tồn, phát triển nguồn tài sản công và sử dụng tài sản công theo quy định của pháp
luật, đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả nhằm phục vụ sự phát triển kinh tế - xã
hội, bảo vệ được môi trường, môi sinh, hoàn thành nhiệm vụ do Nhà nước giao.
Thứ hai: Đáp ứng yêu cầu công việc của cơ quan hành chính nhà nước gắn với
yêu cầu hiện đại hoá và tái trang bị tài sản công đi liền với hiện đại hoá đất nước.
Nhà nước thực hiện quản lý tài sản công cũng chính là thực hiện quyền sở
hữu tài sản; trong đó đặc biệt là quyền định đoạt đối với tài sản công bao gồm:
quyền đầu tư xây dựng, mua sắm, điều chuyển, thanh xử lý tài sản (bao gồm cả bán
tài sản)... vì những quyền này được thực hiện không chỉ trong nội bộ các tổ chức, cá
nhân được nhà nước giao trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản; mà trong điều kiện của
nền kinh tế thị trường, những quyền này còn được thực hiện trong mối quan hệ mất
thiết với thị trường gắn với mục tiêu định hướng của nhà nước trong quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Thứ ba: Các mục tiêu khác trong quản lý tài sản công như; nâng cao hình ảnh
của quốc gia mà cụ thể là cơ quan hành chính nhà nước, tạo sự tôn nghiêm và lòng tin
đối với công dân và quốc tế, giao lưu học hỏi, tranh thủ sự giúp đỡ về mọi mặt của
quốc tế. Muốn vậy công tác quản lý tài sản công phải hiệu quả, khao học, hợp lý.
1.1.5 Chỉ tiêu đánh giá về quản lý tài sản công
* Nhóm chỉ tiêu định lượng
- Tổng vốn đầu tư cho tài sản công của mỗi đơn vị trong từng thời kỳ và mức
độ tăng trưởng vốn đầu tư cho tài sản công của đơn vị.
Tổng vốn đầu tư cho tài sản công của mỗi đơn vị trong từng thời kỳ là chỉ
tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số vốn được đơn vị đó sử dụng đầu tư cho mua sắm, cải
tạo, nâng cấp các tài sản công trong một khoảng thời gian nhất định. Quy mô vốn
đầu tư càng lớn chứng tỏ đơn vị càng chú trọng tới đầu tư tài sản công nhằm nâng
cao năng lực hoạt động cho mình.
Mức độ tăng trưởng vốn đầu tư cho tài sản công là chỉ tiêu tương đối phản
ánh tốc độ biến động của vốn đầu tư cho tài sản công qua các thời kỳ nhất định.
21. 15
Mức độ tăng
trưởng vốn đầu tư
cho tài sản công
=
Tổng vốn đầu tư
cho TSC năm nay
-
Tổng vốn đầu tư cho
TSC năm trước x 100
Tổng vốn đầu tư cho TSC năm trước
Mức độ tăng trưởng dương cho thấy tài sản công của đơn vị ngày càng được
chú trọng đầu tư mở rộng và phát triển.
Đối với tài sản công của các bệnh viện công lập đều là những tài sản tiên
tiến, hàm lượng công nghệ cao nên cần lượng vốn đầu tư rất lớn. Chính vì vậy, quy
mô vốn đầu tư cho tài sản công của các bệnh viện ở mức cao.
- Cơ cấu vốn đầu tư cho tài sản công của mỗi đơn vị trong từng thời kỳ. Tại
các đơn vị sự nghiệp thì vốn đầu tư cho tài sản công được hình thành chủ yếu từ hai
nguồn: nguồn NSNN cấp trực tiếp và nguồn kinh phí của đơn vị, ngoài ra còn có có
thể hình thành từ nguồn liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư công tư.
Cơ cấu vốn đầu tư cho tài sản công của mỗi đơn vị trong từng thời kỳ là chỉ
tiêu tương đối phản ánh thành phần và tỷ trọng của mỗi nguồn vốn huy động đầu tư
cho tài sản công của đơn vị trong một giai đoạn cụ thể.
Cơ cấu nguồn vốn
đầu tư thứ i
=
Nguồn vốn huy động thứ i
x 100
Tổng vốn đầu tư cho tài sản công
Nguồn vốn đầu tư chủ yếu tà NSNN cho thấy các đơn vị chưa mở rộng khả
năng xã hội hóa nguồn đầu tư cho tài sản công, khả năng mở rộng quy mô tài sản
công còn yếu kém.
Tuy nhiên, các bệnh viện cung cấp dịch vụ công cộng là khám chữa bệnh,
giá khám chữa bệnh được Nhà nước quản lý chặt chẽ nhằm đảm bảo tính công bằng
cho mọi người dân khi tiếp cận dịch vụ y tế nên nguồn vốn NSNN đóng vai trò
quan trọng hàng đầu cho đầu tư tài sản công của các bệnh viện.
- Số lượng tài sản công được đầu tư mới hay nâng cấp trong từng thời kỳ.
Đây là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh số lượng các tài sản mới được mua sắm, hình
thành thêm trong từng giai đoạn hoặc được nâng cấp, cải tạo…. Tuy nhiên, số lượng
tài sản công còn phụ thuộc vào giá trị của các tài sản công. Trong khi, hầu hết giá trị
của tài sản công tại các bệnh viện rất lớn nên số lượng tài sản công được đầu tư mới
hay nâng cấp thường không nhiều.
- Mức độ hao mòn tài sản công của đơn vị tại một thời điểm. Đây là chỉ tiêu
tương đối phản ánh tài sản công của đơn vị còn mới hay đã cũ, số vốn đã thu hồi
bao nhiêu % so với số vốn đầu tư bỏ ra ban đầu.
22. 16
Tỷ lệ hao mòn tài sản
công của đơn vị
=
Số hao mòn lũy kế
x 100
Tổng nguyên giá của tài sản công
Tỷ lệ hao mòn càng cao càng chứng tỏ tài sản công của các đơn vị đã cũ, ít
được quan tâm đầu tư đổi mới nên năng lực hoạt động cũng vì thế sụt giảm theo.
Máy móc, trang thiết bị của các bệnh viện thường hoạt động với cường độ
cao, công suất lớn, thậm chí vượt quá công suất lại có hàm lượng kỹ thuật cao nên
chịu tác động lớn của hao mòn vô hình. Chính vì thế, hầu hết các tài sản này được
trích khấu hao nhanh.
- Số lượng tài sản công bị hư hỏng, không thể khắc phục: là chỉ tiêu tuyệt đối
phản ánh số lượng tài sản công không còn sử dụng được do hư hỏng, hết thời gian
sử dụng. Các tài sản này cần nhanh chóng sửa chữa, khắc phục, nếu không thể khắc
phục được cần nhanh chóng thanh lý, nhượng bán để có nguồn tài chính đổi mới tài
sản công.
- Công suất khai thác, sử dụng tài sản công: là chỉ tiêu tương đối phản ánh
mức độ khai thác, đưa tài sản công vào sử dụng. Nếu công suất đạt mức càng gần
100% tho thấy các tài sản công được khai thác tối đa cho hoạt động của các tổ chức
hành chính sự nghiệp. Tài sản công không bị lãng phí, hiệu quả hoạt động được
nâng cao.
Nếu công suất khai thác ở mức thấp, chứng tỏ tài sản công ít được đưa vào
vận hành, sử dụng gây ra hiện tượng lãng phí.
Nếu công suất khai thác quá cao, trên 100% thì cho thấy tài sản công đang
hoạt động trên công suất, dẫn tới việc tài sản nhanh chóng bị hư hỏng, quy mô tài
sản công không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của đơn vị.
- Mức độ hiệu quả kinh tế, xã hội khi vận hành, sử dụng tài sản công như
nguồn thu, khả năng cung ứng dịch vụ công,… phụ thuộc vào từng loại tài sản.
Đối với tài sản công của các bệnh viện, mức độ hiệu quả kinh tế, xã hội
thường được đo lường bởi số thu viện phí hay số lượt người khám chữa bệnh,…
* Nhóm tiêu chí định tính
Nhóm chỉ tiêu định tính có thể sử dụng để đánh giá quản lý tài sản công như:
Mức độ chấp hành quy định pháp lý của Nhà nước và quy định quản lý của
đơn vị. Việc đầu tư, mua sắm, vận hành, sử dụng, thanh lý tài sản công của các đơn
vị sự nghiệp công lập phải tuân thủ những quy định chặt chẽ của pháp luật. Khi
đánh giá quản lý tài sản công của bệnh viện, có thể đánh giá mức độ chấp hành quy
23. 17
định pháp lý của Nhà nước trong các đơn vị hành chính sự nghiệp xem có thực hiện
đúng quy trình hay không? Có đảm bảo đúng yêu cầu quản lý nhà nước về tài sản
công hay không?….
Ý thức của các cán bộ, nhân viên trong quản lý tài sản công: Ý thức cán bộ,
nhân viên trong quản lý tài sản công được thể hiện thông qua tinh thành trách nhiệm
trong việc gìn giữ, bảo quản tài sản công để tối ưu hóa hiệu quả khai thác và sử
dụng tài sản công.
1.2 Quản lý tài sản công tại bệnh viện
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của quản lý tài sản công tại Bệnh viện
1.2.1.1 Khái niệm
Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt
được những mục tiêu nhất định trong điều kiện biến động của môi trường (Phan
Huy Đường, 2017). Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động quản lý nhằm
dẫn dắt đối tượng quản lý đi đến mục tiêu. Chủ thể có thể là một người, một bộ máy
quản lý gồm nhiều người, một thiết bị. Đối tượng quản lý tiếp nhận các tác động
của chủ thể quản lý. Như vậy, quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của
chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu
quả nhất các tiềm năng, cơ hội của tổ chức để đạt được những mục tiêu đã đặt ra
trong điều kiện biến động của môi trường.
Tổ chức quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra các
nguồn lực và hoạt động của tổ chức nhằm đạt được mục đích của tổ chức với hiệu lực
và hiệu quả cao trong điều kiện môi trường luôn biến động. (Phan Huy Đường, 2017).
Từ sự phân tích ở trên, có thể cho rằng quản lý tài sản công trong bệnh viện
là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của các chủ thể quản lý bệnh viện đối với
tài sản công của bệnh viện đó để có thể sử dụng, khai thác tài sản công một các
hiệu quả nhất nhằm đạt được mục tiêu hoạt động của bệnh viện.
1.2.1.2 Đặc điểm quản lý tài sản công trong bệnh viện
Quản lý tài sản công trong bệnh viện có những đặc điểm cơ bản khác biệt so
với tài sản công của các đơn vị hành chính sự nghiệp khác như sau:
Một là, đối tượng quản lý là tài sản công trong các bệnh viện. Các tài sản
công của bệnh viện có đặc điểm đa dạng, phong phú và mang tính kỹ thuật chuyên
môn cao, có giá trị lớn và liên quan tới công tác chăm sóc sức khỏe của con người
thậm chí là tính mạng của người bệnh. Chính vì vậy, việc quản lý tài sản công trong
24. 18
các bệnh viện cần đảm bảo các quy trình nghiêm ngặt và chặt chẽ, bao gồm cả quy
trình quản lý tài sản và quy trình quản lý chuyên môn.
Hai là, công tác quản lý tài sản công trong các bệnh viện gắn với công tác
nghiên cứu khoa học, ứng dụng khoa học vào sử dụng các trang thiết bị y tế. Bệnh
viện cần đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật chuyên ngành để khai thác sử dụng, bảo
dưỡng, sửa chữa và kiểm chuẩn trang thiết bị y tế. Tăng cường công tác đào tạo
chuyên khoa và kỹ năng khai thác sử dụng cho đội ngũ cán bộ chuyên môn, song
song với công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu cho sử dụng, bảo
dưỡng và sửa chữa thiết bị. Do các tài sản công trong bệnh viện có tính ứng dụng
khoa học, công nghệ cao nên cũng chịu tác động mạnh mẽ của hao mòn vô hình.
Điều này dẫn tới việc quản lý khấu hao tài sản công cũng khó khăn hơn vì phải tính
toán tới những ảnh hưởng bất lợi của hao mòn vô hình.
1.2.2 Khung pháp lý về quản lý tài sản công trong bệnh viện
Quản lý tài sản công trong bệnh viện hiện nay chịu tác động của các văn bản
quy phạm pháp luật sau:
- Luật quản lý tài sản nhà nước ngày 03 tháng 6 năm 2008;
- Nghị định số 52/2009/NĐ-CP ngày 03 tháng 6 năm 2009 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài
sản nhà nước;
- Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ
quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy,
biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập;
- Quyết định số 213/2006/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2006 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành quy chế quản lý công sở các cơ quan hành chính nhà nước;
- Quyết định số 32/2008/QĐ-BTC ngày 29 tháng 5 năm 2008 của Bộ trưởng
Bộ Tài chính về việc ban hành Chế độ quản lý, tính hao mòn tài sản cố định trong
các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và các tổ chức có sử dụng ngân
sách nhà nước;
- Thông tư số 245/2009/TT-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2009 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 52/2009/NĐ-CP ngày
03 tháng 6 năm 2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước;
- Thông tư số 89/2010/TT-BTC ngày 16 tháng 6 năm 2010 của Bộ Tài chính
25. 19
hướng dẫn chế độ báo cáo công khai quản lý, sử dụng tài sản nhà nước tại cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức được giao quản lý, sử dụng tài sản nhà nước;
- Ngày 21/6/2017, Quốc hội đã thông qua Luật Quản lý, sử dụng tài sản công
thay thế cho Luật Quản lý, sử dụng TSNN năm 2008, với các điểm mới sau:
Thứ nhất, mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật: Luật quản lý, sử dụng
TSNN năm 2008 chỉ điều chỉnh chế độ quản lý, sử dụng TSNN khu vực hành chính
sự nghiệp, chưa bao quát hết các loại tài sản công cần quản lý, dẫn tới chưa nắm
được tổng thể nguồn lực từ tài sản công để có kế hoạch, biện pháp quản lý, khai
thác phù hợp, thì Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 đã điều chỉnh tới tất
cả các loại tài sản công được quy định tại Điều 53 Hiến pháp năm 2013, bao gồm:
Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời,
tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản
công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Thứ hai, ngoài việc xác định vai trò của tài sản công là để phục vụ cho công
tác quản lý của nhà nước và cung cấp các dịch vụ công cho xã hội, thì Luật Quản lý,
sử dụng tài sản công năm 2017 coi tài sản công là nguồn lực quan trọng để phát
triển kinh tế - xã hội. Theo đó quy định các hình thức, phương thức khai thác nguồn
lực tài chính từ tài sản công bao gồm: Giao quyền sử dụng tài sản; cấp quyền khai
thác tài sản; cho thuê, chuyển nhượng quyền khai thác, quyền sử dụng tài sản; góp
vốn, liên doanh, liên kết; sử dụng tài sản để thanh toán các nghĩa vụ của Nhà nước;
bán, thanh lý tài sản; các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, bổ sung quy định về giám sát của cộng đồng đối với việc quản lý, sử
dụng tài sản công để bảo đảm việc sử dụng, khai thác tài sản đúng mục đích, tiết
kiệm, hiệu quả, công khai, minh bạch, nâng cao trách nhiệm giải trình.
Thứ tư, bổ sung quy định về việc xử lý vi phạm pháp luật về tài sản công và
trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra vi phạm.
Thứ năm, giao thẩm quyền ban hành tiêu chuẩn, định mức đối với xe ô tô
công, trụ sở làm việc cho Chính phủ (hiện nay thẩm quyền của Thủ tướng Chính
phủ); bổ sung các quy định để đảm bảo việc ban hành tiêu chuẩn, định mức được
chặt chẽ, công khai, minh bạch. Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm tuân thủ, giám
sát, kiểm tra việc tuân thủ tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công trong toàn bộ
quy trình đầu tư xây dựng, mua sắm, sử dụng, khai thác, xử lý tài sản công để khắc
phục những hạn chế trong quá trình thực hiện thời gian vừa qua.
26. 20
Thứ sáu, bổ sung một số hình thức mới trong đầu tư xây dựng, mua sắm, sử
dụng, xử lý tài sản công bao gồm: Mua sắm tập trung; đầu tư xây dựng trụ sở làm
việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp theo hình thức PPP, khoán kinh phí sử dụng tài sản
công; huy động vốn để đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản tại ĐVSNCL; ghi giảm tài
sản do nguyên nhân bất khả kháng; thuê quản lý vận hành tài sản công.
Thứ bảy, điều chỉnh chế độ quản lý, sử dụng tài sản là bất động sản đã giao
cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp từ cơ chế áp dụng như cơ quan nhà nước theo Luật hiện hành sang cơ chế
cho phép tổ chức được khai thác như ĐVSNCL tự chủ, nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý, sử dụng tài sản.
Thứ tám, đối với tài sản kết cấu hạ tầng: Tất cả các tài sản kết cấu hạ tầng
đều phải được giao cho đối tượng quản lý để xác định chủ thể chịu trách nhiệm
trước Nhà nước trong quản lý đối với loại tài sản này; mọi tài sản kết cấu hạ tầng
phải được bảo trì theo quy định, nhằm duy trì tình trạng kỹ thuật và an toàn khi sử
dụng. Quy định các phương thức khai thác tài sản kết cấu hạ tầng; chế độ quản lý,
sử dụng đối với tài sản kết cấu hạ tầng được đầu tư theo hình thức PPP về các nội
dung: Bàn giao tài sản kết cấu hạ tầng để thực hiện dự án PPP, chế độ báo cáo,
chuyển giao tài sản kết cấu hạ tầng theo hợp đồng PPP cho Nhà nước.
Thứ chín, quy định một số nội dung quản lý đối với tài sản công do Nhà
nước giao cho DN quản lý, không tính thành phần vốn nhà nước tại DN để rõ
quyền, trách nhiệm của các cơ quan liên quan, tránh sử dụng lãng phí, thất thoát tài
sản, cũng như có cơ chế để quản lý, sử dụng, phát triển nhóm tài sản này.
Thứ mười, quy định việc tổ chức xử lý tài sản phục vụ hoạt động của các dự
án sử dụng vốn nhà nước và tài sản được xác lập quyền sở hữu thuộc về nhà nước
được thực theo nguyên tắc tập trung để bảo đảm việc xử lý kịp thời, chuyên nghiệp,
hiệu quả. Quy định các nguyên tắc chung nhất trong quản lý, sử dụng đất đai, tài
nguyên; cụ thể hóa các hình thức, phương thức khai thác nguồn lực tài chính từ đất
đai, tài nguyên (với vị trí là một loại tài sản công quan trọng). Quy định việc hình
thành hệ thống thông tin về tài sản công và Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản công,
trong đó có hệ thống giao dịch điện tử về tài sản công để thực hiện các giao dịch về
tài sản công trực tuyến...
27. 21
1.2.3 Nội dung quản lý tài sản công tại bệnh viện
1.2.3.1 Quản lý quá trình hình thành tài sản công
Công tác quản lý tài sản công đều nhằm hướng tới tính hiệu quả, hiệu quả được
xem xét ở mỗi khâu, mỗi công đoạn và từng công việc được giao. Quản lý tài sản công
được thực hiện theo những tiêu chí nhất định nhằm quản lý chặt chẽ hiệu quả theo
đúng chính sách chế độ, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch và đảm bảo tiết kiệm.
Quá trình các đơn vị sẽ quyết định chủ trương đầu tư mua sắm. Đối với tài
sản công việc quyết định chủ trương đầu tư mua sắm tài sản phải căn cứ vào định mức,
tiêu chuẩn sử dụng tài sản, chế độ quản lý tài sản, nắm vững khả năng và nhu cầu cần
đầu tư, xây dựng, mua sắm tài sản của từng đơn vị; xác định nhu cầu vốn cho đầu tư
mua sắm tài sản được ghi vào dự toán ngân sách hàng năm. Sau khi có chủ trương đầu
tư, mua sắm tài sản, việc thực hiện đầu tư, mua sắm tài sản phải được thực hiện theo
quy định về đầu tư và xây dựng, quy định về mua sắm tài sản công.
Với lý thuyết sự lựa chọn tối ưu trong kinh tế và sự cạnh tranh sử dụng
nguồn lực của xã hội buộc các cơ quan chức năng quản lý tài sản công dần hướng
tới mô hình tối ưu trong quản lý tài sản là khái niệm doanh thu-chi phí và hiệu quả,
dù rằng tài sản công không có doanh thu bằng tiền như tài sản của doanh nghiệp,
nhưng lợi ích đem lại, sự phục vụ cho công tác quản lý sẽ là cơ sở lượng hoá lợi ích.
Mô hình đi thuê tài sản công, hay mua sắm mới từ bên ngoài chỉ thực sự hiệu quả
khi xem xét trên phương diện lợi ích chi phí này. Ví dụ đi thuê: Với các ràng buộc
về ngân sách, mức độ công việc cần xử lý, giá đi thuê...và kết hợp với cơ chế chính
sách hợp lý của nhà nước quyết định một diện tích, vị trí cách thức sắp xếp công
việc hiệu quả nhất. Còn đối với xây mới, khi nào có sự tham gia trực tiếp của các
đơn vị xây dựng, gián tiếp của thị trường bất động sản, như dịch vụ thuê văn phòng
công sở, cùng với yêu cầu xây dựng luận chứng kỹ thuật với các chỉ tiêu có tính kỹ
thuật NPV, BCR... đây là một sự lựa chọn định lượng có tính tối ưu, vì không ai
hiểu rõ lợi ích mà cơ quan đó đem lại bằng chính các hoạt động mà cơ quan đó đang
làm, đang cung cấp... Như vậy quản lý quá trình hình thành tài sản công là khâu mở
đầu, quan trọng nhất quyết định cho các khâu tiếp theo. Tài sản công nếu được hình
thành có cơ sở khoa học và thiết thực sẽ được quản lý và khai thác sau này hiệu quả.
Đồng thời thông qua quá trình hình thành tài sản sẽ đánh giá được tính cấp thiết,
thực trạng quản lý và ngân sách của mỗi cơ quan quản lý tài sản công sau này.
Quản lý khâu lập kế hoạch mua sắm là nội dung đầu tiên của quản lý đầu tư
28. 22
tài sản công, theo đó phải xác định được các căn cứ lập kế hoạch mua sắm tài sản
công, các thủ tục và phương pháp lập kế hoạch mua sắm và lên kế hoạch mua sắm
tài sản công hàng năm cho Bệnh viện. Đây là cơ sở quan trọng để thực hiện đầu tư
theo kế hoạch của các Bệnh viện, các cơ sở y tế.
Tiêu chí đánh giá quản lý quá trình hình thành tài sản công tại các bệnh viện
được đánh giá dựa trên:
- Mức độ tuân thủ các bước trong quy trình quyết định hình thành tài sản
công của đơn vị: Đây là tiêu chí định tính phản ánh sự tuân thủ các nội dung trong
quy trình quyết định hình thành tài sản công như đơn vị có lập kế hoạch đầu tư tài
sản công không? Căn cứ lập kế hoạch đầu tư tài sản công có đầy đủ không?
1.2.3.2 Đầu tư tài sản công
Đầu tư mua sắm tài sản công là hoạt động đặc biệt quan trọng nhằm bảo đảm
nhu cầu sử dụng tài sản công ở các Bệnh viện. Những năm gần đây, việc tăng
cường đầu tư mua sắm tài sản công đã quan tâm và tạo nhiều điều kiện về kinh phí.
Quản lý mua sắm theo nguồn vốn hình thành: Quản lý đầu tư tài sản công
đòi hỏi cần nắm rõ nguồn vốn đầu tư, số lượng tài sản công cần mua sắm tương ứng
với từng loại nguồn vốn khác nhau. Các nguồn vốn đầu tư cho việc mua sắm tài sản
công rất đa dạng: từ liên doanh, từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước, nguồn quỹ phát
triển các hoạt động sự nghiệp của Bệnh viện và đề án xã hội hoá y tế...
Quản lý nguồn nhập tài sản công y tế: Xác định chính xác nguồn nhập tài sản
công y tế sẽ giúp quá trình quản lý nắm rõ hơn nguồn gốc, số lượng và chất lượng
các tài sản công được đưa vào sử dụng tại Bệnh viện. Đây là khâu quan trọng và
không thể thiếu trong công tác quản lý tài sản công.
Quản lý tài sản công y tế theo mục đích sử dụng: Căn cứ vào mục đích sử
dụng tài sản công, các khoa, phòng ban chức năng trong các cơ sở y tế, bệnh viện sẽ
lên kế hoạch mua sắm tài sản công cho đơn vị mình. Từ đó, giúp công tác quản lý
tài sản công có hiệu quả hơn nhờ vào việc xác định đúng mục đích sử dụng trong
khám chữa bệnh với điều kiện nguồn tài chính hạn hẹp.
Sau khi có chủ trương đầu tư mua sắm, việc thực hiện đầu tư, mua sắm tài
sản công của các bệnh viện phải được thực hiện theo quy định về đầu tư và xây
dựng, mua sắm tài sản công. Cơ sở để quyết định trong giai đoạn này mang tính
định tính, quy phạm pháp luật để quyết định cho quá trình hình thành hay đầu tư,
mua sắm tài sản công của các bệnh viện.
29. 23
Như vậy, quản lý quá trình đầu tư, mua sắm tài sản công của các bệnh viện là
khâu mở đầu, quan trọng nhất quyết định các khâu tiếp theo. Tài sản công của các
bệnh viện nếu được hình thành có cơ sở khoa học, thiết thực sẽ được quản lý và
khai thác sau này có hiệu quả. Đồng thời, thông qua quá trình đầu tư, mua sắm tài
sản công của các bệnh viện sẽ đánh giá được tính cấp thiết, thực trạng quản lý ngân
sách của đơn vị.
Chỉ tiêu và tiêu chí đánh giá quản lý đầu tư, mua sắm tài sản công tại các
bệnh viện bao gồm:
- Tổng mức vốn đầu tư cho mua sắm tài sản công của các đơn vị.
- Cơ cấu nguồn vốn đầu tư cho mua sắm tài sản công của các đơn vị trong
từng giai đoạn cụ thể.
- Số lượng tài sản công được mua sắm, hình thành mới trong từng thời kỳ.
- Mức độ tuân thủ quy trình mua sắm tài sản công: trong quá trình đầu tư tài
sản công tại các bệnh viện, cần tuân thủ đúng quy trình các bước đầu tư nhằm đảm
bảo tính khách quan và minh bạch trong quá trình đầu tư.
1.2.3.3 Quản lý trong khâu sử dụng, vận hành tài sản công
Tài sản công tại các bệnh viện bao gồm các loại máy móc, thiết bị đặc thù.
Tuy nhiên, cũng như các loại máy móc thiết bị khác, quá trình sử dụng và vận hành
các tài sản công tại các bệnh viện sẽ dần xuất hiện những vấn đề kỹ thuật, những
điểm yếu kém. Do đó, công tác quản lý tài sản công tại các bệnh viện cũng cần quan
tâm đặc biệt đến việc quản lý sử dụng. Quá trình sử dụng tài sản công tại các bệnh
viện chứng minh cho những luận chứng kỹ thuật được đưa ra trong giai đoạn đầu
tư, mua sắm. Đây là quá trình diễn ra hết sức phức tạp, bởi vì thời gian sử dụng tùy
thuộc đặc điểm, tính chất, độ bền của mỗi loại tài sản công tại các bệnh viện. Quá
trình này đều được thực hiện bởi các tổ chức, cá nhân được đơn vị giao trực tiếp
quản lý, sử dụng tài sản công tại các bệnh viện. Thời gian của quá trình khai thác,
sử dụng tài sản công tại các bệnh viện được tính từ ngày nhận hay bàn giao tài sản
công tại các bệnh viện đến khi nó không còn sử dụng được phải thanh lý.
Quản lý việc sử dụng tài sản công tại các bệnh viện phải theo công năng,
mục đích nhất định. Những tài sản công tại các bệnh viện cần thiết phải có điều kiện
quản lý theo tiêu chuẩn, định mức sử dụng thì phải xây dựng tiêu chuẩn, định mức
sử dụng và thực hiện quản lý theo tiêu chuẩn, định mức sử dụng đó. Đồng thời, tất
cả tài sản công tại các bệnh viện phải có chế độ quản lý, sử dụng, trong đó chú ý
30. 24
đến việc đăng kí sử dụng TTBYT, xây dựng quy chế quản lý từng loại tài sản công
tại các bệnh viện. Đặt ra định mức sử dụng là nghiệp vụ hết sức khoa học và phức
tạp quyết định hiệu quả cho quản lý, khai thác. Định mức cũng là một trong những
cơ sở khởi nguồn cho công tác mua sắm.
Tiếp đến trong công tác quản lý là việc điều chuyển từ bộ phận này sang bộ
phận khác, tức là điều chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu hoặc có tài sản công tại các
bệnh viện đối với bộ phận này thì không còn sử dụng được nhưng đối với bộ phận
khác vẫn có thể sử dụng được.
Quản lý quá trình sử dụng là cơ sở quan trọng nhằm điều chỉnh và sửa chữa
kịp thời mỗi khi bị hư hỏng. Do đó, công tác quản lý quá trình sử dụng tài sản công
tại các bệnh viện có ý nghĩa hết sức lớn trong công tác quản lý tài sản công tại các
bệnh viện nói chung. Đây là hoạt động nhằm khai thác tối đa tiềm năng của hệ
thống tài sản công tại các bệnh viện.
Chỉ tiêu và tiêu chí đánh giá quản lý sử dụng tài sản công bao gồm:
- Công suất khai thác, sử dụng các tài sản công hiện tại của đơn vị.
- Mức độ đáp ứng của số lượng tài sản công hiện tại so với nhu cầu sử dụng
thực tế của từng đơn vị.
- Số lượng và tỷ lệ % tài sản công không được sử dụng, vận hành vào hoạt
động của đơn vị trong từng thời kỳ.
- Hiệu quả sử dụng tài sản công của đơn vị được biểu hiện thông qua các chỉ
tiêu cụ thể như nguồn thu, số lượt khám chữa bệnh và điều trị cho người bệnh,….
- Mức độ tuân thủ các quy định về quản lý và sử dụng tài sản công trong các
bệnh viện.
1.2.3.4 Quản lý trong khâu sửa chữa, bảo trì tài sản
Quá trình khai thác, sử dụng tài sản công quyết định hiệu quả của tài sản
công, chứng minh cho những luận chứng kỹ thuật được đưa ra trong giai đoạn hình
thành tài sản. Đây là quá trình diễn ra hết sức phức tạp, bởi vì thời gian khai thác, sử
dụng tuỳ thuộc đặc điểm tính chất, độ bền của mỗi loại tài sản. Thời gian của quá
trình khai thác, sử dụng tài sản được tính từ ngày nhận tài sản hay bàn giao tài sản
đến khi tài sản không còn sử dụng được phải thanh lý.
Quản lý tài sản công cần quan tâm đến khâu sửa chữa tài sản công nhằm bảo đảm
sử dụng tối ưu hiệu năng của các tài sản đã đầu tư. Theo Quy chế quản lý và sử dụng tài
sản Bệnh viện ngày 01/2/2013 quy trình sửa chữa trang thiết bị gồm các bước sau:
31. 25
+ Bước 1: Lập yêu cầu sửa chữa;
+ Bước 2: Tiếp nhận yêu cầu sửa chữa và kiểm tra;
+ Bước 3: Tổ chức sửa chữa;
+ Bước 4: Nghiệm thu, ghi sổ theo dõi sửa chữa và thu hồi trang thiết bị hư hỏng;
+ Bước 5: Thanh toán.
Công tác kiểm tra, đánh giá chức năng quản lý tái sản công có các tiêu chí
cần bám theo như:
+ Tiêu chí 1: Xây dựng quy định và theo dõi việc thực hiện những quy định
về việc sử dụng tài sản công;
+ Tiêu chí 2:Theo dõi, kiểm tra kế hoạch mua sắm, bảo quản và bảo dưỡng
các tài sản công;
+ Tiêu chí 3: Kiểm tra định kỳ, thường xuyên hồ sơ, việc bảo quản, bảo trì
tài sản công;
+ Tiêu chí 4: Tổng kết, đánh giá hiệu quả việc sử dụng tài sản công.
Trong công tác quản lý khâu sửa chữa thiết bị y tế, việc kiểm tra, đánh giá
chức năng quản lý TTBYT là những hoạt động quan trọng, giúp nâng cao hiệu
quả công tác quản lý TTBYT.
Chỉ tiêu và tiêu chí đánh giá quản lý trong khâu sửa chữa, bảo trì tài sản công
tại các bệnh viện bao gồm:
- Mức độ chấp hành đầy đủ và nghiêm túc các bước trong quy trình sửa
chữa, nâng cấp,… tài sản công của bệnh viện.
- Quy mô nguồn vốn và tăng trưởng nguồn vốn cho sửa chữa, bào trì, nâng
cấp,… các tài sản công của bệnh viện trong từng thời kỳ nhất định.
- Số lượng và tỷ lệ tài sản công được bảo trì, bảo dưỡng, nâng cấp,… trong
từng thời kỳ.
- Mức độ thường xuyên của việc nâng cấp, sửa chữa, bảo trì,… các tài sản
công của bệnh viện.
1.2.3.5 Quản lý trong khấu hao mòn và thanh lý tài sản
Sau quá trình khai thác sử dụng tại cơ quan nhà nước, xét thấy tài sản công không
cần thiết hay không thể phục vụ cho công việc của cơ quan hành chính nhà nước, cơ
quan quản lý chuyên môn sẽ tiến hành thủ tục kết thúc quá trình sử dụng. Việc kết thúc
sử dụng đối với tài sản công phải tuân thủ những quy trình và thủ tục cần thiết:
Tài sản công, trừ một số tài sản có thời gian sử dụng vĩnh viễn hoặc có thời
32. 26
gian sử dụng dài hàng trăm năm trở lên, số còn lại đều là tài sản có thời hạn sử dụng
nhất định. Tuy nhiên, có tài sản kết thúc sử dụng trên phương diện tài sản công
nhưng nó vẫn còn giá trị sử dụng, vẫn được xã hội cần sử dụng ví dụ: như đất đai,
bất động sản, phương tiện vận tải và một số loại máy móc, trang thiết bị làm việc,
phục vụ nghiên cứu khoa học; có tài sản còn có giá trị thu hồi.... Do đó, một tài sản
công khi kết thúc quá trình sử dụng phải được quản lý chặt chẽ để tránh lãng phí,
thất thoát tài sản. Khi kết thúc sử dụng tài sản phải thực hiện đánh giá hiện trạng tài
sản cả về vật chất và giá trị tài sản; thực hiện kiểm kê, xác định giá trị hiện tại của
tài sản; lập phương án xử lý khác nhau. Vấn đề định giá để bán thanh lý tài sản
chính là yếu tố nhạy cảm quyết định hiệu quả của quá trình này.
Đối với tài sản công nếu chia ra làm động sản và bất động sản, phương pháp
nhà nước thường sử dụng là bán thanh lý hay điều chuyển. Đối với bán thanh lý có
thể đưa ra đấu giá công khai hay chỉ định giá bán và đối tượng nếu là đối tượng
chính sách, mức giá bán khởi điểm để đấu giá hay ấn định thường dựa trên thị
trường và tham chiếu biểu giá chung nhưng thấp hơn một tỷ lê % nhất định. Còn
phương pháp điều chuyển đòi hỏi công tác quản lý tổng thể, xác định lại giá trị và
đăng ký lại sở hữu hay sử dụng. Nhìn chung tài sản công có giá trị sử dụng dài hạn
tại các nước thường được điều chuyển để đảm bảo hợp lý và tiết kiệm. Quy chế,
nguyên tắc điều chuyển cũng được phân cấp và quản lý riêng cho từng nhóm tài sản
theo đặc điểm và tiêu thức nhất định.
Các chỉ tiêu và tiêu chí đánh giá quản lý khấu hao và thanh lý tài sản công
của bệnh viện bao gồm:
- Mức khấu hao và tỷ lệ hao mòn tài sản cố định của bệnh viện tại các thời
điểm nhất định.
- Giá trị thu thanh lý tài sản công tại các bệnh viện.
- Mức độ phù hợp của việc áp dụng phương pháp khấu hao và tỷ lệ khấu hao
tài sản cố định của bệnh viện.
- Mức độ tuân thủ quy trình thanh lý tài sản công của bệnh viện.
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý tài sản công tại bệnh viện
1.2.4.1 Nhân tố bên ngoài
- Đường lối, chủ chương, chính sách xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội
của Đảng, Nhà nước và Chính phủ: Mỗi đơn vị y tế dù muốn hay không đều phải
thực hiện theo đúng đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng và phát triển kinh
33. 27
tế - xã hội của Đảng, Nhà nước và Chính phủ. Chỉ có làm theo cách này thì phương
hướng tổ chức quản lý tài sản tại đơn vị mới đúng đắn. Tổ chức quản lý tài sản
trong đơn vị y tế được duy trì, phát triển hay mở rộng phụ thuộc rất lớn vào đường
lối chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng, Nhà nước và chính phủ.
- Tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ, thiết bị máy móc: Tiến bộ khoa học,
kỹ thuật có ảnh hưởng lớn đến tổ chức quản lý dịch vụ Khám chữa bệnh trong các
cơ sở y tế, tạo tiền đề vật chất, kỹ thuật cho dịch vụ Khám chữa bệnh tại các bệnh
viện cho hợp lý. Nhờ có tiến bộ khoa học, kỹ thuật mà ngày càng có nhiều công
nghệ mới, thiết bị máy móc mới.
1.2.4.2 Nhân tố bên trong
- Chủng loại tài sản y tế được trang bị sử dụng: Tài sản công sử dụng rất
phong phú, đa dạng về chủng loại và chúng còn được gọi là đối tượng lao động.
Giữa tài sản công và tổ chức quản lý dịch vụ khám chữa bệnh tại bệnh viện có mối
quan hệ hữu cơ với nhau. Chủng loại tài sản đơn giản hay phức tạp có ảnh hưởng
đến tổ chức quản lý dịch vụ khám chữa bệnh tại Bệnh viện. Ngược lại, tổ chức dịch
vụ khám chữa bệnh tại Bệnh viện ở trình độ cao hay thấp đều đòi hỏi việc sử dụng
tài sản công phải đáp ứng được yêu cầu.
- Trình độ chuyên môn kỹ thuật của cán bộ sử dụng tài sản công Bệnh viện:
Đội ngũ y bác sĩ, cán bộ ngành y tế nói chung và cán bộ ngành y tế trong các bệnh
viện có vai trò quan trọng đối với công tác quản lý tài sản công. Tài sản công là một
trong 3 yếu tố quan trọng nhất trong ngành y tế, đồng thời đây cũng là đối tượng
đặc thù, là công cụ, dụng cụ có liên quan trực tiếp đến chăm sóc sức khoẻ con
người với hàm lượng khoa học cao. Bởi vậy, trong quá trình vận hành sử dụng, bảo
trì, bảo quản và sửa chữa tài sản công đòi hỏi đội ngũ nhân lực phải có trình độ sử
dụng và bảo quản nhất định.
1.3 Nghiên cứu một số bài học kinh nghiệm để quản lý tốt tài sản công
tại một số bệnh viện, cơ sở y tế và bài học rút ra
1.31 Kinh nghiệm quản lý tài sản công của Bệnh viện Đa khoa Hà Đông
Bệnh viện Đa khoa Hà Đông là bệnh viện thuộc tuyến tỉnh nằm tại Quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội.
Thứ nhất, quản lý đầu tư tài sản công: Giai đoạn 2011 - 2016, Bệnh viện
đã được đầu tư 111 thiết bị y tế với tổng kinh phí hơn 79,245 tỷ đồng. Trong đó,
nguồn ngân sách nhà nước cấp gần 42 tỷ đồng, nguồn kinh phí dự án cấp là 30,188
34. 28
tỷ đồng và nguồn kinh phí xã hội hóa là hơn 7 tỷ đồng. Các máy móc, thiết bị được
đầu tư sau khi tiếp nhận đã được đưa ngay vào sử dụng và hoạt động tốt. Bệnh viện
cũng ban hành quy chế quản lý và sử dụng tài sản nhà nước, trong đó bao gồm quy
chế quản lý TTBYT. Đồng thời, bố trí kinh phí sửa chữa, duy tu, bảo dưỡng đảm
bảo đầy đủ thiết bị phục vụ bệnh nhân.
Thứ hai, đối với việc thanh lý tài sản TTBYT, năm 2016, bệnh viện đã tiến
hành kiểm kê thiết bị tại các khoa phòng và lập danh mục trang thiết bị hư hỏng,
không có khả năng sửa chữa, khắc phục. Ngoài ra, Bệnh viện cũng đã kiểm định và
đánh giá lại trang thiết bị trình các cấp để làm thủ tục thanh lý theo quy định.
Mặc dù hoạt động còn nhiều khó khăn nhưng những năm qua, Bệnh viện đã
rất coi trọng công tác quản lý tài sản công. Tuy nhiên, nguồn kinh phí đầu tư cho
TTBYT chưa nhiều, cán bộ kỹ thuật chuyên sâu còn ít cũng là trở ngại cho bệnh
viện trong quá trình khai thác tài sản công phục vụ công tác khám chữa bệnh.
1.3.2 Kinh nghiệm từ Bệnh viện Bạch Mai
Trong thời kỳ hội nhập phát triển, với vai trò là Bệnh viện đa khoa hàng đầu
ở Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai đã và đang tập trung đầu tư trang thiết bị máy
móc ngày một hiện đại nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, phục vụ nhân
dân ngày một tốt hơn. Chính vì vậy, công tác quản lý, bảo dưỡng và sử dụng máy
móc, thiết bị y tế một cách an toàn, hiệu quả luôn là một vấn đề được Bệnh viện đặc
biệt quan tâm.
Thứ nhất, về công tác quản lý đầu tư tài sản công: Là một trong những đơn
vị đầu tiên được Bộ Y tế giao tự chủ tài chính, Bệnh viện Bạch Mai đã mở rộng các
khoa, phòng khám chữa bệnh theo yêu cầu, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao
về làm việc; kêu gọi doanh nghiệp đầu tư máy móc, trang thiết bị hiện đại và điều
trị cho người bệnh.
Xã hội hóa y tế xuất phát từ chủ trương của Đảng, Chính phủ, Quốc hội, đặc
biệt Chính phủ ban hành nghị định 43 năm 2006 về quyền tự chủ của đơn vị thực
hiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy và tài chính và đơn vị được phép xã hội hoá các hoạt
động y tế, trong đó có mảng về trang thiết bị y tế. Đối với bệnh viện Bạch Mai,
nguồn kinh phí hàng năm do nhà nước cấp nhỏ, hạn chế, không đáp ứng được nhu
cầu KCB của nhân dân, đặc biệt là nhu cầu kỹ thuật cao phục vụ người bệnh nên
Bệnh viện chủ trương xã hội hóa. Hình thức doanh nghiệp đầu tư số máy, bệnh viện
cung cấp nơi đặt máy, nhân lực và đặc biệt là dùng uy tín của bệnh viện. Còn nguồn
35. 29
nữa là bệnh viện tự mua máy.
Trong quá trình mua sắm tài sản công, quy trình lựa chọn các trang thiết bị tương
đối chặt chẽ. Các trang thiết bị đều thông qua hội đồng khoa học đáp ứng các tiêu chí:
Thứ nhất: Bệnh viện lựa chọn máy phải có nhu cầu cao cho người bệnh.
Thứ hai: Những thiết bị phải tiên tiến, mới nhất và những máy đó bệnh viện
phải có đủ năng lực sử dụng, đây là về con người.
Bệnh viện luôn đảm bảo chất lượng của dịch vụ đó, chất lượng gồm có máy móc,
thiết bị, chất lượng nhân sự sử dụng máy, đảm bảo an toàn về môi trường mới lựa chọn.
Thứ hai, trong quá trình sử dụng, Bệnh viện còn quản lý chặt chẽ các khoản
thu chi hằng ngày để tránh tình trạng các trang thiết bị y tế bị lạm dụng. Tuỳ theo
từng loại máy, bệnh viện chủ yếu có mặt bằng, cung cấp điện nước, nhân sự, cung
cấp toàn bộ chi phí vật tư tiêu hao, các chi phí này bệnh viện chi có hạch toán chi
tiết và trả về bệnh viện. Bệnh viện chỉ lấy phần gọi là uy tín của Bệnh viện.
1.3.3 Những bài học kinh nghiệm cho việc quản lý tài sản công tại Bệnh
viện Hữu Nghị Việt Đức
Thông qua nghiên cứu công tác quản lý tài sản công tại một số bệnh viện
công lập trong nước, luận văn rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Bệnh viện Hữu
Nghị Việt Đức như sau:
Thứ nhất, về kinh phí thực hiện việc mua sắm, bảo trì, bảo dưỡng, nâng cấp tài
sản công trong bệnh viện: cần tăng cường thực hiện các hình thức xã hội hóa nhằm
giảm sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước.
Thứ hai, cần tăng cường đầu tư song song về nguồn nhân lực chất lượng cao:
Bệnh viện nếu đầu tư một nguồn kinh phí rất lớn để trang bị các thiết bị công nghệ
cao thì cũng cần thiết phải đảm bảo nguồn nhân lực kỹ thuật cao để đảm trách công
tác kiểm chuẩn, bảo dưỡng và sửa chữa TTB nói chung nhằm nâng cao hiệu suất sử
dụng tài sản. Tăng cường, tập trung vào hướng đào tạo liên tục và tại chỗ.
Thứ ba, giám sát chặt chẽ quá trình đầu tư, mua sắm, sử dụng các tài sản
công trong Bệnh viện. Thông qua công tác này mới có thể tránh được lãng phí,
tham nhũng, lợi dụng tài sản công của bệnh viện để trục lợi.
Thứ tư, thực hiện bảo dưỡng, kiểm kê tài sản công định kỳ nhằm đảm bảo
chất lượng sử dụng tài sản công của bệnh viện ở mức tốt nhất có thể.
36. 30
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG
TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
2.1. Tổng quan về Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức
2.1.1. Lịch sử hình thành Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức được thành lập năm 1906, lúc đó với tên gọi là
Nhà thương Bảo hộ. Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức tiền thân là nhà thương Phủ
Doãn là cái nôi của ngành ngoại khoa Việt Nam. Từ một cơ sở y tế có quy mô 400
giường bệnh với các trang, thiết bị hạn chế, hiện nay, bệnh viện là một tổ hợp y tế
chuyên sâu chất lượng với nhiều trang, thiết bị hiện đại và đội ngũ cán bộ có trình
độ chuyên môn cao. Bệnh viện luôn hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ: khám, chữa
bệnh, phát triển kỹ thuật cao, đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học, chỉ đạo tuyến,
hợp tác quốc tế...
Theo quá trình thời gian, bệnh viện mang các tên gọi khác nhau qua từng giai
đoạn lịch sử của đất nước: Bệnh viện Yersin (1943), Bệnh viện Phủ Doãn (1954),
Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam – Cộng hoà Dân chủ Đức (1958 – 1990) và Bệnh
viện Hữu nghị Việt Đức (từ năm 1991 đến nay).
Theo chỉ tiêu Bộ Y tế giao năm 2015 bệnh viện có 1300 giường bệnh kế
hoạch (Theo Quyết định số 119/QĐ-BYT ngày 15/01/2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế).
Tính đến 30/6/2016, bệnh viện có 1906 công chức, viên chức, hợp đồng lao động và
cán bộ nhà trường (chưa kể gần 300 nhân viên bảo vệ, nhân viên vệ sinh môi trường
được bệnh viện ký hợp đồng với các công ty bên ngoài thường xuyên làm việc tại
bệnh viện). Trong đó có 06 Giáo sư-Tiến sĩ, 27 Phó Giáo sư-Tiến sĩ; 37 Tiến sĩ, 06
Bác sĩ CKII, 184 Thạc sĩ-Bác sĩ nội trú, 05 Bác sĩ CKI, 41 bác sĩ đa khoa, 573 cán
bộ khác có trình độ từ cao đẳng trở lên.
Năm 2015, bệnh viện được xếp hạng Bệnh viện đặc biệt theo Quyết định số
1446/QĐ-BNV ngày 21/9/2015 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Với vinh dự này, Bệnh
viện Hữu nghị Việt Đức là bệnh viện chuyên khoa hạng đặc biệt đầu tiên của cả
nước. Cũng trong năm này, bệnh viện được Bộ Y tế giao quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về tài chính theo Quyết định số 1424/QĐ-BYT ngày 17/4/2015 của Bộ
trưởng Bộ Y tế.
Tập thể và cá nhân của Bệnh viện đã nhận được nhiều danh hiệu cao quý do
37. 31
Đảng và Nhà nước trao tặng:
+ Danh hiệu tập thể
02 Huân chương Lao động hạng Nhất (1986, 2016);
Huân chương Hồ chí Minh (2010); Anh hùng LLVT nhân dân (2004);
02 Huân chương Lao động hạng nhất (2005,2006);
Huân chương Kháng chiến hạng Nhất (1973);
HC Độc lập hạng Nhì (1996); HC Độc lập hạng Nhất (2001).
+ Thành tích các cá nhân đạt được:
28 cá nhân được nhận Huân chương lao động; 56 cá nhân được nhận Bằng
khen của chính phủ; 05 cá nhân đạt được danh hiệu chiến sỹ thi đua toàn quốc, 104
cá nhân đạt được danh hiệu chiến sỹ thi đua cấp bộ; 19 cá nhân được phong tặng
Thầy thuốc nhân dân; 61 cá nhân được phong tặng Thầy thuốc ưu tú.
2.1.2. Chức năng nhiệm vụ của Bệnh viện
Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức là bệnh viện chuyên khoa hạng đặc biệt về
Ngoại khoa được Bộ Y tế giao thực hiện 9 nhiệm vụ chính (Theo Quyết định số
5518/QĐ-BYT ngày 25/12/2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành Quy chế tổ chức
và hoạt động của Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức):
1.Khám bệnh, chữa bệnh.
2. Nghiên cứu khoa học.
3. Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực y tế.
4.Chỉ đạo tuyến.
5.Hợp tác quốc tế.
6.Phòng, chống dịch bệnh, thiên tai, thảm họa.
7.Quản lý chất lượng bệnh viện.
8.Quản lý bệnh viện.
9.Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của Bộ Y tế.
2.1.3. Tổ chức bộ máy
Hiện nay, cơ cấu tổ chức của bệnh viện bao gồm 3 khối chính: Khối hành
chính, hậu cần: gồm 01 Ban Giám đốc bệnh viện, 01 Trung tâm Đào tạo và Chỉ đạo
tuyến, 11 khoa/phòng chức năng. Khối lâm sàng: gồm 01 Viện Chấn thương chỉnh
hình, 07 Trung tâm và 20 khoa/phòng lâm sàng. Khối cận lâm sàng: gồm 08 khoa,
01 Trung tâm Truyền máu và 01 Nhà thuốc.
Giám đốc bệnh viện: là cấp quản lý có quyền lực cao nhất trong bệnh viện,