Download luận văn thạc sĩ ngành kinh tế chính trị với đề tài: Phát triển làng nghề ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Luận văn: Phát triển làng nghề ở huyện Thường Tín, Hà Nội, HOT
1. BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
LÊ TUẤN TÚ
PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2014
2. BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
LÊ TUẤN TÚ
PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGUYỄN MINH KHẢI
HÀ NỘI – 2014
3. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
Bình quân BQ
Cộng hòa liên bang CHLB
Công nghiệp CN
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá CNH-HĐH
Đơn vị tính ĐVT
Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Hội đồng nhân dân HĐND
Hợp tác xã HTX
Luận án tiến sĩ LATS
Làng nghề LN
Làng nghề truyền thống LNTT
Thủ công nghiệp TCN
Trách nhiệm hữu hạn TNHH
Tiểu thủ công nghiệp TTCN
Triệu đồng tr.đ
Ủy ban nhân dân UBND
Xã hội chủ nghĩa XHCN
Sản xuất kinh doanh SXKD
2
4. MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 3
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
10
1.1. Khái niệm và vai trò của làng nghề 10
1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến
phát triển làng nghề
17
1.3. Kinh nghiệm phát triển làng nghề một số địa phương và
bài học kinh nghiệm cho Thường Tín
25
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
THƯỜNG TÍN TRONG NHỮNG NĂM QUA
34
2.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế xã hội ảnh hưởng đến sự phát
triển làng nghề ở huyện Thường Tín
34
2.2. Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt
ra về phát triển làng nghề ở huyện Thường Tín
39
Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
LÀNG NGHỀ THƯỜNG TÍN
59
3.1. Phương hướng phát triển làng nghề ở huyện Thường Tín 59
3.2. Các giải pháp cơ bản nhằm phát triển làng nghề tại
huyện Thường Tín
61
KẾT LUẬN 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84
3
5. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nông thôn Việt Nam đã tồn tại những làng nghề truyền thống có bề dày
lịch sử hàng trăm năm, và với nhiều loại sản phẩm nổi tiếng bởi tính độc đáo
và độ tinh xảo cao. Làng nghề truyền thống và sản phẩm của nó tạo nên bản
sắc riêng, do vậy việc giữ gìn, kế thừa, hiện đại hoá ngành nghề truyền thống
có ý nghĩa cả về kinh tế, xã hội và văn hoá. Trong lịch sử lâu dài, trong hiện
tại cũng như trong tương lai các làng nghề truyền thống có vai trò hết sức
quan trọng đối với đời sống kinh tế của nông thôn. Nó có ý nghĩa đặc biệt đối
với phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã hội nông thôn theo
hướng CNH- HĐH đất nước. Các làng nghề truyền thống đã thu hút được một
khối lượng lớn lao động cho xã hội, góp phần tích cực vào việc giải quyết tình
trạng thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động.
Thường Tín là huyện thuộc châu thổ sông Hồng, nằm ở phía nam thủ
đô Hà Nội từ xưa đã nổi tiếng với rất nhiều làng nghề thủ công mỹ nghệ
truyền thống như: tiện Nhị Khê, thêu Quất Động, sơn mài Duyên Thái, điêu
khắc Nhân Hiền, bông len Trát Cầu.... Từ năm 1986, chuyển sang nền kinh
tế thị trường với cơ chế phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các
làng nghề truyền thống dần dần được hồi sinh. Nhiều làng trở thành làng
nghề mới như: làng nghề mộc Vạn Điểm, bông len Trát Cầu, thêu ren
Thắng Lợi, Dũng Tiến…. Hiện nay Thường Tín có 126 làng nghề (làng cổ)
trong đó đã có 46 làng nghề đã được UBND tỉnh Hà Tây và UBND Thành
phố Hà Nội công nhận là làng nghề truyền thống. Các làng nghề đã tạo
công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho người dân vùng
nông thôn, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại
hoá của huyện.
4
6. Được may mắn phụ trách và làm việc tại Phòng Công thương trước
đây, nay là Phòng Kinh tế của huyện Thường Tín, tôi đã có nhiều năm gắn bó
với các làng nghề, cùng trăn trở nghiên cứu tìm giải pháp để đẩy mạnh ngành
nghề thủ công của huyện, nâng cao thu nhập, đời sống người thợ và ít nhiều
cũng đã đóng góp cho sự phát triển hiện nay các làng nghề của huyện. Vì thế
tôi chọn đề tài: “Phát triển làng nghề ở huyện Thường Tín, thành phố Hà
Nội” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Làng nghề là mảng đề tài không phải quá mới mẻ nên đã có nhiều
nghiên cứu liên quan tới đề tài.
a. Các công trình nghiên cứu có liên quan tới đề tài ở nước ngoài
Awgichew, “Ứng dụng khoa học và công nghệ vào phát triển các làng
nghề”, 2010.
Bài nghiên cứu của tác giả trong Hội thảo quốc tế về các chính sách
phát triển làng nghề đã đề cập tới các kinh nghiệm của Chính phủ Ethiopia
trong việc chú trọng nâng cấp, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng giúp các làng nghề
phát triển.
Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng (Trung Quốc), Dự án:
“Tìm hiểu và Thương mại hóa nghề thủ công ở tỉnh Vân Nam”, 2011.
Dự án đã đưa ra biện pháp cải thiện thu nhập của phụ nữ ở huyện miền
núi Malutang bằng cách thương mại hóa sản phẩm thêu truyền thống.
b. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam có liên quan tới đề tài
Bùi Văn Vượng, “Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam”, NXB
Thống kê, 1998.
Tác giả đã tập trung trình bày các loại hình làng nghề truyền thống như:
đúc đồng, kim hoàn, rèn, gốm, trạm khắc đá, dệt, thêu ren, giấy dó, tranh dân
gian, dệt chiếu, quạt giấy, mây tre đan, ngọc trai, làm trống. Ở đây chủ yếu
5
7. giới thiệu lịch sử, kinh tế, văn hoá, nghệ thuật, tư tưởng, kỹ thuật, các bí quyết
nghề, thủ pháp nghệ thuật, kỹ thuật của các nghệ nhân và các làng nghề thủ
công truyền thống Việt Nam.
Dương Bá Phượng, “Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá
trình CNH, HĐH”, NXB Thống kê, 2001.
Tác giả đã đề cập khá đầy đủ từ lý luận đến thực trạng của làng nghề:
từ đặc điểm, khái niệm, con đường và điều kiện hình thành làng nghề, tập
trung vào một số làng nghề ở một số tỉnh với các quan điểm, giải pháp và
phương hướng nhằm phát triển các làng nghề trong CNH, HĐH.
Tập thể tác giả Học Viện Tài Chính, đề tài khoa học “Hoàn thiện các
giải pháp kinh tế tài chính nhằm khôi phục và phát triển làng nghề ở nông
thôn vùng Đồng bằng sông Hồng”, 2004.
Đề tài tập trung làm rõ lý luận về làng nghề ở nông thôn, đánh giá thực
trạng phát triển làng nghể ở nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng và đi sâu
vào các giải pháp kinh tế, tài chính nhằm khôi phục và phát triển các làng
nghề truyền thống này.
“Nghiên cứu qui hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng CNH
nông thôn Việt Nam” của cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) - Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (2002) đã đạt được một số kết quả sau:
+ Lập bản đồ ngành nghề thủ công trên toàn quốc.
+ Đánh giá hiện trạng các mặt hàng thủ công như: cói, sơn mài, chạm
khắc đá...
+ Đánh giá hiện trạng các vấn đề nguyên liệu, điều kiện làm việc, tài
chính, vốn...
+ Đặc biệt, đưa ra vấn đề hỗ trợ của chính phủ cho sản xuất nghề thủ
công truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số. Sự hỗ trợ trên các phương
diện: hỗ trợ trực tiếp vốn, hỗ trợ gián tiếp về thực hiện thương mại bình đẳng,
năng lực quản lý kinh doanh.
6
8. GS.TS Nguyễn Trí Dĩnh, “Phát triển làng nghề ở một số tỉnh đồng
bằng sông Hồng”, 2005.
Tác giả đã phân tích vai trò của làng nghề và những nhân tố tác động
đến sự phát triển của làng nghề. Dựa trên cơ sở chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về phát triển làng nghề đề tài đã đi sâu khảo sát, đánh giá
thực trạng phát triển làng nghề ở đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đổi mới
từ 1986 đến nay. Từ đó, đề xuất hệ quan điểm và các giải pháp chủ yếu phát
triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh và tính hiệu quả của các làng nghề ở
một số tỉnh đồng bằng sông Hồng trong thời gian tới.
Liên Minh, “Một số vấn đề bảo tồn và phát triển làng nghề’ tại Hội
thảo ‘Nghề và làng nghề thủ công truyền thống: Tiềm năng và định hướng
phát triển’ được tổ chức tại Thành phố Huế (6/2009).
Ông đã đưa ra được những nhận định về việc bảo tồn và phát triển làng
nghề thủ công truyền thống nói chung ở Việt Nam và chủ trương, chính sách
hỗ trợ của Chính phủ trong lĩnh vực này. Đồng thời, ông đã đưa ra những
quan điểm; mục tiêu; định hướng bảo tồn và phát triển làng nghề theo vùng
lãnh thổ; nội dung bảo tồn và phát triển làng nghề và một số giải pháp thực
hiện bảo tồn và phát triển làng nghề. Tuy nhiên, hạn chế của bài viết chỉ nêu
khái quát tình hình mà chưa có nghiên cứu sâu về thực trạng các làng nghề.
Do đó, các giải pháp đưa ra cũng chỉ mang tính định hướng là chính mà
không có tính chiến lược cho từng địa phương cụ thể.
- Mai Thế Hởn với đề tài " Phát triển làng nghề truyền thống trong quá
trình CNH,HĐH vùng ven thủ đô", LATS trường Đại học Kinh tế quốc dân,
năm 2000.
Luận án đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về làng nghề
truyền thống, phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH, HĐH.
Đồng thời luận án cũng nghiên cứu kinh nghiệm phát triển làng nghề truyền
7
9. thống tại các quốc gia trên thế giới. Trên cơ sở này, luận án đánh giá thực
trạng phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH, HĐH vùng ven
thủ đô từ năm 1994 – 1999 và đề xuất giải pháp phát triển làng nghề truyền
thống trong thời gian từ 2000 – 2005.
- Trần Minh Yến với đề tài: “Phát triển làng nghề truyền thống ở nông
thôn Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH", LATS trường Đại học Kinh tế
quốc dân, năm 2003.
Luận án cũng đã trình bày đầy đủ những vấn đề lý luận cơ bản về phát
triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình CNH,
HĐH. Trên cơ sở đánh giá tình hình phát triển làng nghề trong giai đoạn từ
1997 – 2002 tại nông thôn Việt Nam, tác giả đã đề xuất các giải pháp phát
triển làng nghề nông thôn trong quá trình CNH, HĐH.
Nguyễn Trọng Tuấn : "Nghề truyền thống trên địa bàn Hà Nội trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế", LVTHS kinh tế, năm 2006.
Luận văn đã trình bày đầy đủ những vấn đề lý luận cơ bản về nghề
truyền thống. Trên cơ sở đánh giá tình hình phát triển nghề truyền thống trên
địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ 2000 - 2005, tác giả đã đề xuất các
giải pháp phát triển nghề truyền thống trong quá trình hội nhập kinh tế, quốc tế.
- Trần Văn Chăm: "Tiểu thủ công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh trong quá
trình CNH, HĐH", LVTHS kinh tế năm 2006.
Luận văn đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về tiểu thủ công
nghiệp, phát triển làng tiểu thủ công nghiệp. Trên cơ sở này, luận văn đánh
giá thực trạng phát triển tiểu thủ công nghiệp trên địa bản tỉnh Bắc Ninh trong
quá trình CNH, HĐH và đề xuất giải pháp phát triển tiểu thủ công nghiệp
trong thời gian tới.
Ngoài ra, trong nước và trên thế giới còn có nhiều bài báo khoa học,
báo cáo nghiên cứu về làng nghề và phát triển làng nghề.
8
10. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề “Phát triển làng
nghề ở huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội” dưới góc độ khoa học kinh tế
chính trị như một công trình nghiên cứu chuyên ngành..
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn phát triển làng nghề ở huyện Thường
Tín, từ đó đưa ra những phương hướng, giải pháp chủ yếu để phát triển làng
nghề ở huyện Thường Tín trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về làng nghề và phát triển làng nghề
- Đánh giá thực trạng phát triển các làng nghề ở huyện Thường Tín, chỉ
ra nguyên nhân của những tồn tại hạn chế.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp góp phần phát triển các làng nghề
trên địa bàn huyện Thường Tín thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển làng nghề trên địa bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu làng nghề về phát triển làng nghề trong phạm vi
huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội, thời gian từ năm 2008 cho tới nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp chuyên ngành của ngành kinh tế chính
trị, gồm: Phương pháp trừu tượng học, phương pháp thống kê, phân tích, điều
9
11. tra xã hội học, phương pháp hệ thống hóa, mô hình hóa và đồ thị, phương
pháp chuyên gia,….
6. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn hệ thống hóa được các vấn đề lý luận cơ
bản về làng nghề nói chung và làng nghề huyện Thường Tín nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn: Thông qua việc đánh giá phân tích thực trạng phát
triển làng nghề tại huyện Thường Tín, Hà Nội, luận văn đề xuất các giải pháp
giúp các nhà quản lý tại huyện trong thời gian tới.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và mục lục, luận văn
gồm 3 chương
10
12. Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ Ở HUYỆN
THƯỜNG TÍN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Khái niệm và vai trò của làng nghề
1.1.1. Khái niệm làng nghề
Làng xã Việt Nam phát triển từ rất lâu đời và gắn chặt với nông nghiệp
và kinh tế nông thôn. Thông thường các làng xã ban đầu sống chủ yếu dựa
vào trồng trọt và chăn nuôi có quy mô nhỏ. Tuy nhiên, do nhu cầu phát triển
của xã hội, một số nghề phụ trong các gia đình đã phát triển và dần dần hình
thành làng nghề. Ngày nay, ở nhiều địa phương bên cạnh làng nghề truyền
thống (LNTT) còn có những làng nghề (LN) mới.
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về LN cũng như các quy định
khác nhau về tiêu chuẩn để công nhận LN giữa các địa phương trong nước.
Khái quát chung lại thì LN được hiểu là những làng ở nông thôn có một hay
một số nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và tỷ trọng
thu nhập so với nghề nông.
Trong quá trình phát triển của kinh tế thị trường, ngày nay LN không bị
bó hẹp trong phạm vi một làng mà chúng lan toả ra thành nhiều làng, xã, vùng
cùng sản xuất các ngành nghề thủ công. Mặt khác ngành nghề ở các LN cũng
được mở rộng và phát triển cả về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các hoạt
động dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống con người với các loại hình sản
xuất kinh doanh (SXKD) chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ. Các thành phần kinh
tế không còn phổ biến là các hộ gia đình mà đã đa dạng các thành phần, các tổ
chức kinh tế như các tổ hợp, hợp tác xã, các loại hình doanh nghiệp tư nhân,
các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn...
Có nhiều ý kiến đưa ra về khái niệm làng nghề. Có nhà nghiên cứu cho
rằng "Làng nghề là một thiết chế kinh tế - xã hội ở nông thôn, được cấu thành
11
13. bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất định
trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính,
giữa họ có mối liên kết về kinh tế, xã hội và văn hóa". Có nhà nghiêu cứu
định nghĩa "Làng nghề truyền thống là làng nghề cổ truyền làm nghề thủ
công. Ở đấy không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công.
Người thợ thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời làm nghề nông. Nhưng
yêu cầu chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất
hàng truyền thống ngay tại làng quê của mình” [54, tr.1].
Xét về mặt định tính, làng nghề ở nông thôn nước ta được hình thành
và phát triển do yêu cầu của phân công lao động và chuyên môn hoá nhằm
đáp ứng nhu cầu phát triển và chịu sự tác động mạnh của nông nghiệp và
nông thôn Việt Nam với những đặc trưng của nền văn hóa lúa nước và nền
kinh tế hiện vật, sản xuất nhỏ tự cấp tự túc.
Xét về mặt định lượng, làng nghề là những làng ở đó có số người
chuyên làm nghề thủ công nghiệp và sống chủ yếu bằng nguồn thu nhập từ
nghề đó chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng dân số của làng. Tiêu chí để xem xét
một cách cụ thể đối với một làng nghề điển hình là:
Thứ nhất, số hộ chuyên làm một hoặc nhiều nghề thủ công chiếm từ
40- 50%.
Thứ hai, thu nhập từ nghề thủ công chiếm trên 50% tổng giá trị sản
lượng của làng .
Tuy nhiên những tiêu chí trên không phải là tuyệt đối mà chỉ có ý nghĩa
tương đối về mặt định lượng. Bởi vì ở mỗi làng nghề bao giờ cũng có sự khác
nhau về quy mô sản xuất, quy trình công nghệ, tính chất sản phẩm và số
người tham gia vào trong quá trình sản xuất. Do vậy sự phát triển của các làng
nghề thường khác nhau và có những biến động khác nhau trong từng thời kỳ.
Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật và công nghệ cùng với sự phân công
lao động đã phát triển ở mức độ cao hơn thì khái niệm làng nghề cũng được
12
14. mở rộng hơn, nó không chỉ bó hẹp ở những làng chỉ có các hộ chuyên làm
nghề thủ công. Điều này có thể hiểu dưới hai góc độ: Thứ nhất là, công
nghệ sản xuất không hoàn toàn là công nghệ thủ công như trước đây, mà ở
nhiều làng nghề đã áp dụng công nghệ cơ khí và bán cơ khí. Thứ hai là,
trong các làng nghề khi sản xuất phát triển ở mức độ cao hơn thì sẽ làm nảy
sinh sự phát triển của nhiều nghề khác nhằm phục vụ cho nó. Do vậy, xuất
hiện nhiều người chuyên làm dịch vụ cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản
phẩm cho các hộ và cơ sở sản xuất chuyên làm nghề thủ công, từ đó hình
thành và phát triển những làng nghề với mô hình kết hợp nhiều nghề.
Chẳng hạn như ở Ninh Hiệp xuất hiện thêm nhiều nghề mới ngoài những
nghề truyền thống và dần dần hình thành nên một mô hình kết hợp nông-
công- thương - dịch vụ.
Tóm lại, khái niệm làng nghề cần được hiểu là một cụm dân cư sinh
sống trong một làng (thôn, tương đương thôn) thuộc các xã, phường, thị
trấn, có hoạt động sản xuất kinh doanh các ngành nghề ở từng hộ gia đình
hoặc các cơ sở trong làng , sử dụng các nguồn lực trong và ngoài địa
phương sản xuất và kinh doanh một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau,
phát triển tới mức trở thành nguồn sống chính hoặc thu nhập chủ yếu của
một bộ phận người dân trong làng (những làng ở nông thôn có các ngành
nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, lao động và tỷ trọng thu nhập
so với nghề nông).
LN mới được hình thành trên cơ sở phát triển lan toả của nghề truyền
thống, việc truyền nghề, nhận cấy nghề mới sang các làng xã khác. Cùng với
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước và phát triển
kinh tế thị trường đã hình thành các LN hiện đại, SXKD đa dạng, kỹ thuật
công nghệ hiện đại. Đó chính là những LN mới ra đời trong quá trình CNH -
HĐH nông nghiệp, nông thôn.
13
15. Nghề truyền thống
Truyền thống là thuật ngữ dùng để chỉ các giá trị, yếu tố, quan niệm
của một cộng đồng người hay của xã hội lưu giữ trong một thời gian dài từ
thế hệ này qua thế hệ khác. Truyền thống thể hiện tính kế thừa là chủ yếu, tuy
nhiên cũng có sự phát triển theo lịch sử. Truyền thống được biểu hiện ở hình
thức như truyền thống học tập, lễ hội truyền thống, truyền thống dòng họ,
nghề truyền thống.
Với vị trí là nền công nghiệp thôn xã, từ xa xưa các nghề truyền thống
ở Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất hàng hoá phục vụ
sản xuất và đời sống của nhân dân. Qua gần ba mươi năm đổi mới, nền kinh
tế Việt Nam chuyển dần sang cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng, các nghề truyền thống vùng này đã có nhiều biến động. Nhiều nghề
mới, mặt hàng mới, làng nghề mới hình thành góp phần to lớn về kinh tế – xã
hội ở nông thôn và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, đồng thời vẫn mang nặng
tính chất nông nghiệp, nông thôn với những yếu tố tích cực và hạn chế. Hiện
nay, khái niệm về nghề truyền thống, làng nghề truyền thống còn có những ý
kiến khác nhau. Có người coi nghề truyền thống là nghề cổ truyền, có người
căn cứ vào thời gian tồn tại, số hộ theo nghề và thu nhập từ nghề so với tổng
thu nhập trong làng xã nhưng cũng có người lại quan niệm ngành nghề truyền
thống là ngành nghề nông thôn đã được tồn tại trong một số năm nhất định…
Theo thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn thì: “Nghề truyền thống là nghề đã được hình
thành từ lâu đời, tạo ra những sản phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu
truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có nguy cơ bị mai một, thất truyền”
[6, tr.2].
Theo định nghĩa này thì một nghề được xếp vào các nghề thủ công truyền
thống cần hội đủ các yếu tố sau:
14
16. Một là, đã hình thành và phát triển lâu đời
Hai là, sản xuất tập trung, tạo thành các làng nghề
Ba là, có nhiều thế hệ nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề
Bốn là, kỹ thuật và công nghệ khá ổn định
Năm là, sử dụng nguyên liệu trong nước
Sáu là, sản phẩm tiêu biểu và độc đáo của Việt Nam, có giá trị và chất
lượng cao, vừa là hàng hoá, vừa là sản phẩm văn hoá của dân tộc, mang bản sắc
văn hoá Việt Nam, với những giá trị văn hoá phi vật thể rất cao.
Làng nghề truyền thống
Khái niệm làng nghề truyền thống được khái quát dựa trên hai khái
niệm nghề truyền thống và làng nghề được trình bày ở trên.
Như vậy làng nghề truyền thống là làng nghề có lịch sử hình thành
và phát triển lâu đời, sản phẩm có tính truyền thống, có uy tín trên thị
trường, có giá trị kinh tế và văn hoá cao.
Nói cách khác, làng nghề truyền thống là những thôn làng có một hay
nhiều nghề thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất
kinh doanh và đem lại nguồn thu nhập chiếm phần chủ yếu trong năm; những
nghề thủ công đó được truyền từ đời này sang đời khác, thường là qua nhiều
thế hệ; cùng với thử thách của thời gian, các làng nghề thủ công này đã trở
thành nghề nổi trội, một nghề cổ truyền tinh xảo, với những tầng lớp thợ thủ
công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp chuyên tâm sản xuất, có quy trình
công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng nghề đó; sản phẩm làm ra có tính
mỹ nghệ và đã trở thành hàng hoá trên thị trường.
1.1.2. Vai trò của làng nghề
Làng nghề có ý nghĩa và tác dụng nhiều mặt trong việc giải quyết việc
làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống của cư dân nông thôn, trong việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần quan trọng phát triển kinh tế, ổn định xã
hội, đồng thời có ý nghĩa to lớn về bảo tồn các giá trị văn hóa của dân tộc.
15
17. Thứ nhất, là giải quyết việc làm và giảm tình trạng thiếu việc làm,
nâng cao điều kiện sống ở nông thôn
Trước hết là giải quyết việc làm cho đội ngũ lao động trong làng nghề.
Trên thực tế, làm nông nghiệp luôn là một nghề vất vả, nhiều khó khăn gian
khổ trong khi nguồn thu nhập lại thấp và bấp bênh do đặc trưng của nghề làm
nông nghiệp là phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, thời tiết, khí hậu. Bên cạnh
đó, ngành nông nghiệp còn có đặc trưng là mang tính thời vụ cao, vì thế có
những khi người nông dân làm việc mệt nhọc từ sáng đến tối quần quật cho
kịp mùa vụ, nhất là vào vụ mùa hè thu, ngoài thu hoạch ra còn có vụ gieo
cấy…nhưng lại có những khi nông nhàn, hầu như không có nhiều việc làm.
Chính vì vậy, việc phát triển làng nghề sẽ góp phần giải quyết được thời gian
nông nhàn đó cho đội ngũ lao động.
Ngoài ra, hiện nay một số địa phương diện tích đất nông nghiệp ngày
càng bị thu hẹp, các làng quê phải tìm kiếm nghề mới để có thể qua đó tăng
thêm thu nhập cho bản thân và gia đình. Do đó, các làng nghề mới được hình
thành và phát triển, người dân ở đó tập trung vào sản xuất kinh doanh các sản
phẩm từ làng nghề để cải thiện đời sống.
Thứ hai, là góp phần giảm khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và
nông thôn
Vấn đề giảm bớt chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn
luôn được xã hội quan tâm. Thông qua việc xem xét mức thu nhập bình quân
đầu người từ làng nghề có thể so sánh với mức thu nhập ở thành thị, từ đó có
thể đánh giá được khoảng cách thu nhập giữa thành thị và khu vực nông thôn.
Do hầu hết làng nghề ở Việt Nam đều nằm ở nông thôn, mặt khác ở nông
thôn nếu làm ở làng nghề thì thông thường sẽ có nguồn thu nhập bình quân
cao hơn so với sản xuất nông nghiệp thuần túy. Chính vì vậy mà thông qua
phát triển làng nghề cũng có thể góp phần xóa đói giảm nghèo, làm giảm
khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn, cùng với đó làng nghề
16
18. phát triển sẽ góp phần làm giảm dòng lao động di cư tự do từ nông thôn ra
các đô thị đây là một vấn đề mang tính quy luật của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường.
Thứ ba, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng là quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nước ta từ nông nghiệp là chủ yếu chuyển sang cơ cấu mới: tỷ
trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng tăng lên dần, nhất là tỷ trọng của
khu vực dịch vụ tăng nhanh, tỷ trọng của nông nghiệp giảm dần. Trong nội bộ
kinh tế nông thôn cũng vậy, tỷ trọng của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ sẽ tăng lên, tỷ trọng của nông nghiệp sẽ giảm xuống. Phát triển ngành
nghề nông thôn, làng nghề chính là con đường chủ yếu để chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn theo hướng đó, chuyển từ lao động nông nghiệp năng
suất thấp, thu nhập thấp sang lao động ngành nghề có năng suất và chất lượng
cao với thu nhập cao hơn. Mục tiêu nâng cao đời sống của cư dân nông thôn
một cách toàn diện cả về kinh tế và văn hóa cũng chỉ có thể đạt được nếu
trong nông thôn, có cơ cấu hợp lý của nông thôn mới, có nông nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ vận động và phát triển tốt với hệ thống làng nghề tiếp nối
truyền thống văn hóa làng nghề với chuỗi đô thị nhỏ văn minh, lành mạnh.
Thứ tư, là góp phần giữ gìn phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa của
địa phương
Phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa của địa phương là yếu tố quan
trọng. Ngoài việc ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh nó còn ảnh
hưởng đến tiêu dùng và đời sống của dân cư ở nông thôn. Do đó nhân tố này
vừa tác động tích cực lại vừa tác động tiêu cực đến sự phát triển làng nghề.
Về mặt tích cực, yếu tố truyền thống sẽ có tác dụng góp phần bảo tồn
những nét đặc trưng văn hóa riêng có của làng nghề, của dân tộc, làm cho sản
phẩm của làng nghề có tính độc đáo và giá trị cao hơn. Đó là đối với các làng
nghề truyền thống, bởi vì ở những làng nghề này bao giờ cũng có những
người thợ có trình độ tay nghề cao, có trình độ kinh nghiệm sản xuất, có tâm
17
19. huyết với nghề, và họ cũng chính là người gánh trách nhiệm duy trì, phát triển
những bí quyết riêng của làng nghề, và cứ thế, các bí quyết riêng đó sẽ được
truyền từ đời này qua đời khác, qua các thế hệ. Họ chính là cơ sở cho sự tồn
tại, phát triển bền vững làng nghề trước mọi biến cố và duy trì những nét độc
đáo truyền thống của làng nghề.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường thì ngoài việc truyền kinh
nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác cũng cần phải biết áp dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, đó là những công nghệ hiện đại. Khi đó lại cần phải có đội
ngũ những người năng động, sáng tạo để có thể đưa hoạt động sản xuất kinh
doanh phát triển mạnh mẽ được. Trong điều kiện đó, một số yếu tố truyền
thống, phong tục tập quán lại cản trở sự phát triển của làng nghề theo hướng
hiện đại. Bên cạnh đó, còn có những quy định, quy tắc khắt khe, hạn chế
trong nghề, tục lệ làng quê đã trở thành rào cản đến việc mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh của các làng nghề.
Chính vì vậy, sự phát triển bền vững của làng nghề góp phần quan
trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển
làng nghề
1.2.1. Quan niệm về phát triển và phát triển làng nghề
Phát triển
Phát triển là khái niệm dùng để khái quát những vận động theo chiều
hướng tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn.
Trong kinh tế, phát triển bao hàm nghĩa rộng hơn, bao gồm nhiều khía
cạch khác nhau. Sư tăng trưởng cộng thêm các thay đổi cơ bản trong cơ cấu
kinh tế, sự tăng lên của sản phẩm quốc dân do ngành công nghiệp tạo ra, sự
đô thị hoá, sự tham gia của một quốc gia trong quá trình tạo ra các thay đổi
18
20. nói trên là một nội dung của sự phát triển. Phát triển là nâng cao phúc lợi của
nhân dân, nâng cao các tiêu chuẩn sống, cải thiện giáo dục, sức khoẻ và đảm
bảo sự bình đẳng cũng như quyền công dân. Phát triển còn được định nghĩa là
sự tăng trưởng bền vững về các tiêu chuẩn sống bao gồm tiêu dùng, vật chất,
giáo dục, sức khoẻ và bảo vệ môi trường.
Phát triển làng nghề
Phát triển làng nghề là việc bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế ổn định, có
hiệu quả cao trong các làng nghề, gắn liền với việc khai thác hợp lý, bảo vệ và
nâng cao chất lượng môi trường sống cũng như đảm bảo những đòi hỏi về ổn
định, nâng cao đời sống, trật tự an toàn xã hội ở địa bàn có làng nghề.
1.2.2. Nội dung phát triển làng nghề
Nội dung cơ bản của phát triển làng nghề là sự tăng lên về số lượng
làng nghề về quy mô làng nghề, đa dạng sản phẩm làng nghề, chất lượng phát
triển của làng nghề.
- Phát triển làng nghề theo hướng mở rộng về quy mô, số lượng các cơ
sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề
Phát triển làng nghề trước hết là sự gia tăng về số lượng, quy mô làng
nghề, số người tham gia vào sản xuất, chế biến sản phẩm của nghề truyền
thống và nghề mới phát triển và đảm bảo được hiệu quả sản xuất, chế biến.
Sự tăng lên về số lượng làng nghề, quy mô của người tham gia vào
sản xuất, chế biến các sản phẩm thuộc nghề truyền thống có nghĩa là số
lượng ngày được tăng lên cả về số lượng, quy mô sản xuất của các hộ trong
làng nghề. Trong đó những nghề cũ được khôi phục, củng cố, phát triển
nghề mới được hình thành và phát triển cả về số lượng và chất lượng, từ đó
giá trị sản lượng sản phẩm làng nghề không ngừng được nâng lên, sự phát
triển của một làng nghề phải đảm bảo hiệu quả cả về mặt kinh tế - xã hội –
môi trường.
19
21. Để đánh giá sự phát triển của làng nghề về lượng có thể đánh giá thông
qua mức độ tăng số lượng làng nghề, mức độ tăng về số hộ sản xuất trong các
làng nghề, quy mô lao động các làng nghề. Ngoài ra, còn được đánh giá thông
qua chỉ tiêu. Phát triển về mặt số lượng cũng chính là sự tăng lên không
ngừng qua các năm về số lượng sản phẩm của mỗi làng nghề. Có như vậy mới
thể hiện được rằng số lượng sản phẩm từ làng nghề vẫn đang được duy trì và
phát triển.
- Phát triển làng nghề theo hướng nâng cao chất lượng sản xuất, đổi
mới quy trình công nghệ
Phát triển làng nghề phải đáp ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm sản
xuất ra, sản phẩm mà thị trường trong nước và nước ngoài thích ứng về mẫu
mã, quy cách, giá cả, đặc biệt là sản phẩm làng nghề truyền thống phát triển
phải được kết hợp sản xuất công nghệ tiên tiến, kết hợp với công nghệ cổ
truyền, kỹ năng kỹ xảo đặc trưng của sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong phát
triển làng nghề luôn luôn được gắn liền với nhau trong làng nghề như một mắt
xích hoàn hảo, sản xuất làng nghề phát triển luôn gắn liền với dịch vụ phát triển
như dịch vụ vật tư nguyên nhiên vật liệu, dịch vụ tiêu dùng dân sinh…
Nội dung cụ thể về sự phát triển về chất lượng của làng nghề như sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Yếu tố con người đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất. Việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực sẽ làm tăng năng suất lao động tăng năng
suất lao động và thu nhập cho người lao động ở địa phương. Đồng thời nâng
cao chất lượng người lao động sẽ làm tăng chất lượng sản phẩm đầu ra. Chất
lượng sản phẩm là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển bền
vững của làng nghề nhất là trong giai đoạn nền kinh tế khủng hoảng, suy thoái
trên thế giới như hiện nay. Sản phẩm từ làng nghề hầu hết đều là những sản
phẩm thủ công, tiểu thủ công nghiệp, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ…đều
20
22. cần phải đảm bảo chất lượng cao nếu không sẽ khó thu hút được khách hàng.
Nhất là các sản phẩm thủ công mỹ nghệ thì vấn đề chất lượng sản phẩm cũng
cần phải ngày càng được nâng cao, có như vậy mới đảm bảo được sự phát
triển bền vững cho làng nghề.
Để phát triển chất lượng nguồn nhân lực, Huyện cần có công tác tổ
chức đào tạo cho người lao động, hướng dẫn người lao động sử dụng máy
móc, thiết bị và các kỹ năng cần thiết để có thể thực hiện công việc.
Thứ hai, ứng dụng khoa học công nghệ vào quy trình sản xuất
Quá trình CNH-HĐH là quá trình phát triển đất nước trong đó có sự
ứng dụng khoa hoc công nghệ, cơ giới hóa trong sản xuất để đạt được hiệu
quả sản xuất cao hơn, theo đó, để nâng cao chất lượng sản xuất, nhằm phát
triển làng nghề về mặt chất lượng thì các cơ sở sản xuất cần áp dụng công
nghệ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất.
Việc đưa máy móc thiết bị vào sản xuất sẽ giúp cho nâng cao chất
lượng sản phẩm, số lượng sản phẩm làm ra được nhiều hơn, tiết kiệm thời
gian hơn, đồng thời có sự đồng đều về kích lượng, chất lượng các sản phẩm
đầu ra, gọn nhẹ được nhiều khâu trong quy trình sản xuất.
Thứ ba, là tăng tính ổn định của thị trường đầu vào:
Nguồn nguyên liệu; nguồn lao động tại làng nghề có ổn định về mặt số
lượng và đảm bảo về mặt chất lượng (lành nghề, sáng tạo, khéo léo,…) hay
không; quy mô nguồn vốn có đủ lớn để phát triển sản xuất không. Sự ổn định
lâu dài của các yếu tố này quyết định tới năng lực sản xuất của các doanh
nghiệp tại làng nghề, từ đó có thể thấy được khả năng phát triển sản xuất về
lâu dài của các làng nghề.
Thứ tư, là mở rộng thị trường đầu ra của sản phẩm
Thị trường đầu ra của sản phẩm phản ánh sản phẩm có giá trị sử dụng
và có chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường. Mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh
khi tham gia vào thị trường thì đều mong muốn có một chỗ đứng nhất định,
21
23. đóng góp một thị phần nhất định trên thị trường cho dù quy mô của nó nhỏ
hay lớn. Nếu nhanh chóng theo kịp với những sự thay đổi nhu cầu của thị
trường thì mỗi làng nghề sẽ có sự phát triển mạnh mẽ hơn. Điển hình như các
làng nghề sản xuất đồ gỗ gia đình, vật liệu xây dựng, gốm sứ, đá mỹ nghệ…
thì sẽ chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tốt này. Ngược lại, nếu các làng nghề
không thích ứng được với sự thay đổi về nhu cầu thị trường mà vẫn cứ cố
bám lấy kiểu làm ăn cũ thì sản xuất tất yếu sẽ bị giảm sút, có khi lại không thể
duy trì được sự tồn tại của nghề. Ví dụ như các nghề thuộc về đan lát: đan
nón, đan mành cọ, đan quạt, đan rổ rá…
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay thì các làng nghề
phải tự tìm kiếm thị trường đầu ra cho sản phẩm của mình. Có mở rộng được
thị trường tiêu thụ sản phẩm thì các làng nghề mới có thể mở rộng quy mô sản
xuất và duy trì sản xuất trong lâu dài được.
Như vậy, ta có thể thấy được rằng, để có thể tồn tại và phát triển thì
mỗi làng nghề phải tự xây dựng cho mình thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra
ổn định, có khả năng thì phải không ngừng tìm kiếm thị trường trong nước lẫn
thị trường nước ngoài
Thứ năm, cơ cấu làng nghề
Phát triển làng nghề theo hướng tăng trưởng quy mô, tuy nhiên cần ưu
tiên phát triển mạnh các nghề có giá trị sản xuất và lợi nhuận cao như các
nghề sơn mài, xương sừng, mây giang đan… các sản phẩm này không chỉ
được ưa chuộng trong nước mà còn có giá trị xuất khẩu cao. Phát triển làng
nghề theo hướng tăng tỷ trọng các ngành cho giá trị cao sẽ góp phần tăng thu
nhập cho người dân, cải thiện kinh tế trên địa bàn
1.2.3. Các nhân tố tác động đến làng nghề
Một là, điều kiện tự nhiên
Những nhân tố tự nhiên ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề là vị
trí địa lý, và điều kiện tự nhiên như khí hậu, nhiệt độ, độ ẩm... Nhân tố vị trí
22
24. địa lý có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của làng nghề. Nếu một làng
nghề có địa thê nằm gần nơi có nguồn nguyên liệu, gần nơi tiêu thụ sản phẩm
hay có những yếu tố thuận lợi tự nhiên về thông thương thì đó là những đặc
điểm thuận lợi quan trọng cần khai thác.
Nếu vị trí địa lý có ý nghĩa quan trọng đến sự phát triển lâu dài của các
làng nghề thì điều kiện tự nhiên của mỗi vùng cũng là một nhân tố ảnh hưởng
trực tiếp đến sự phát triển của làng nghề. Khí hậu, thời tiết tại mỗi nơi tạo ra
những nguồn nguyên liệu đặc trưng cho các làng nghề. Ví dụ như đối với làng
lụa vạn phóc có khí hậu thuận lợi cho phát triển trồng dâu nuôi tằm, làng nghề
Bát Tràng có đất đai phù hợp với sản xuất gốm sứ...
Tóm lại, nhóm nhân tố tự nhiên là nhóm nhân tố đầu tiên quan trọng
ảnh hưởng đến không chỉ sự hình thành mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển
lâu dài của các làng nghề.
Hai là, chính sách của Nhà nước về phát triển làng nghề
Một nhân tố có ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển của làng nghề là
các chính sách của Nhà nước. Chính sách của Nhà nước là tổng thể các biện
pháp tác động vào nông nghiệp- nông thôn nhằm thực hiện những mục tiêu
nhất định phát triển kinh tế nông nghiệp- nông thôn. Thực tế cho thấy, nhờ có
các chính sách khuyến khích phát triển của Đảng và Nhà nước ta mà một số
lớn các làng nghề được bảo tồn và khôi phục. Các chính sách có vai trò quan
trọng, tác động trực tiếp đến sản xuất làng nghề tạo điều kiện cho sự phát
triển sản xuất hàng hoá, phát triển sức mạnh của các thành phần kinh tế, góp
phần xây dựng nông thôn mới, cải thiện mức sống chung của người dân nông
thôn. Sự tác động của chính sách đảm bảo cho sự thành công và phát triển của
các làng nghề, phát huy những yếu tố tích cực và khuyến khích sự nỗ lực
phấn đấu của người dân làng nghề. Những chính sách đúng đắn, kịp thời sẽ là
động cơ quan trọng tạo động lực cho phát triển làng nghề, ngành nghề nông
thôn và từ đó góp phần phát triển khu vực nông thôn.
23
25. Ba là, nhu cầu thị trường
Ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề còn là nhu cầu của thị
trường về các loại sản phẩm của làng nghề. Có cầu thì mới có cung, nếu thị
trường còn có nhu cầu về các loại sản phẩm của làng nghề thì làng nghề mới
có thể có đất sống. Các làng nghề sản xuất thực phẩm bún, bánh,... là đặc sản
quê hương tồn tại được cũng vì những lý do đó. Sản phẩm làm ra hàng ngày
cung cấp cho người tiêu dùng trong khu vực và trở thành những món quà đặc
sắc cho những người ở vùng khác. Cũng như vậy với những làng nghề sản
xuất hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm làm ra là sự kết tinh của những tài
hoa, là văn hoá phẩm độc đáo, nhất là đối với người nước ngoài. Với các làng
nghề mới, thị trường khu vực có nhu cầu về sản phẩm của họ vì tính tiện
dụng, thuận lợi trong mua bán, vận chuyển và giá cả hợp lý. Nếu các làng
nghề này không đảm bảo đáp ứng được những yêu cầu trên thì thị trường dễ
dàng chuyển qua các loại sản phẩm tương tự khác có thể thay thế. Như vậy thị
trường là một nhân tố tác động từ phía ngoài nhưng không kém phần quan
trọng với sự phát triển của kinh tế làng nghề.
Bốn là, cơ sở hạ tầng
Vốn và cơ sở hạ tầng là yếu tố quyết định để phát huy các tiềm năng
khác về lao động, ngành nghề các nguồn lực khác. Đây là yếu tố quan trọng,
là cơ sở để giải quyết các yếu tố đầu vào khác. Vốn bao gồm vốn đầu tư và
vốn sản xuất, trong đó vốn đầu tư, trong đó vai trò quan trọng thuộc về vốn
sản xuất. Có vốn nghĩa là có khả năng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của đơn
vị sản xuất, có thể tiến hành nhập nguyên liệu, thuê lao động và giao dịch tiêu
thụ sản phẩm. Tất cả các khâu của sản xuất, tiêu thụ đều cần thiết sự có mặt
của vốn. Không chỉ quan trọng đôi với sản xuất đơn thuần mà quy mô vốn
đầu tư còn trực tiếp ảnh hưởng đến quy mô sản xuất, khả năng mở rộng quy
mô sản xuất và từ đó, có tác động đến hiệu quả kinh doanh. Như vậy, vốn có
24
26. vai trò quan trọng đối với mọi quá trình sản xuất kinh doanh nói chung và đối
với làng nghề nói riêng.
Ngành nông nghiệp Việt Nam vốn có nhược điểm là sản xuất nhỏ,
manh mún, chủ yếu sản xuất thuần nông nên cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc
hậu, kết cấu hạ tầng thấp kém. Sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị ở
nước ta là khá lớn. Những yếu kém trong cơ sở hạ tầng gây nên những ảnh
hưởng lớn tới sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất của làng nghề nói
riêng. Để cải thiện tình trạng này, cần thiết phải có sự đầu tư cho sản xuất và
đầu tư cho cơ sở hạ tầng, giao thông, điện nước... để tạo điều kiện thuận lợi
cho sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm.
Năm là, nhân lực lao động trong làng nghề
Lao động sản xuất của làng nghề là tổng thể sức lao động tham gia vào
sản xuất của các làng nghề, nó bao hàm cả về số lượng và chất lượng của
người lao động. Về số lượng, lao động làng nghề không chỉ gồm những người
trong độ tuổi lao động mà còn bao gồm cả người già và trẻ em tham gia vào
hoạt động sản xuất. Những nghề là nghề truyền thống thì người già, người
ngoài độ tuổi lao động lại có thể là nguồn nhân lực quý giá bởi chính những
kinh nghiệm và thời gian làm nghề của họ. Những nghệ nhân, thợ giỏi là
người có tuổi đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển các
làng nghề truyền thống. Đây là một đặc điểm đáng lưu ý trong việc khai thác
và sử dụng nguồn nhân lực ở làng nghề so với các ngành khác và thậm chí so
với cả ngành nông lâm nói chung. Ngoài ra, lao động làng nghề còn có tính
thời vụ. Điều này xuất phát từ việc sản xuất làng nghề ban đầu là nghề phụ
thêm. Cho đến nay, quan niệm này vẫn còn tồn tại và nó có ảnh hưởng nhất
định đến sự phát triển độc lập của làng nghề. Về chất lượng, kỹ thuật sản xuất
là một nhân tố có tác động trực tiếp đến sản phẩm và do đó ảnh hưởng tới sự
tồn tại và phát triển của làng nghề. Hiện nay, kỹ thuật sản xuất nói chung của
25
27. người nông dân còn chưa cao, chủ yếu sản xuất thủ công với năng suất và
chất lượng sản phẩm thấp dẫn đến khó khăn trong tiêu thụ và đe doạ sự tồn tại
của làng nghề. Do đó, nâng cao trình độ cho lao động làng nghề là việc làm
hết sức cần thiết để phát triển kinh tế làng nghề.
1.3. Kinh nghiệm phát triển làng nghề một số địa phương và bài
học rút ra cho huyện Thường Tín
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển làng nghề của một số địa phương
* Kinh nghiệm phát triển làng nghề của tỉnh Quảng Bình
Nhằm thúc đẩy nghề và làng nghề phát triển, tỉnh Quảng Bình đã tiến
hành quy hoạch cụ thể xây dựng các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu làng
nghề tiểu thủ công nghiệp, chú trọng đầu tư những ngành nghề có lợi thế về
nguyên liệu tại chỗ, trong đó, ưu tiên, khuyến khích phát triển mạnh những cơ
sở chế biến các sản phẩm có nguyên liệu từ nông-lâm-thuỷ sản, sản xuất mỹ
nghệ, hàng lưu niệm phục vụ du lịch và xuất khẩu.
Tỉnh đã hình thành các vùng sản xuất nguyên liệu tập trung bao gồm
10.000 ha cao su, 15.000 ha nhựa thông, 5000 ha cây công nghiệp ngắn ngày,
1000 ha dâu tằm.v.v.. Bên cạnh đó, tỉnh đã ban hành các chính sách hỗ trợ
một phần kinh phí cho các cơ sở sản xuất tham gia các hội chợ, triển lãm giới
thiệu sản phẩm, hình thành trung tâm xúc tiến thương mại du lịch để hướng
dẫn, giúp đỡ và cung cấp thông tin về giá cả, thị truờng tiêu thụ sản phẩm cho
các làng nghề. Hỗ trợ một phần kinh phí cho các các làng nghề trong tỉnh đầu
tư chiều sâu đổi mới công nghệ thiết bị, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
tiên tiến vào sản xuất theo phương châm kết hợp công nghệ tiên tiến, hiện đại
với kinh nghiệm truyền thống để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và
hiệu quả của sức cạnh tranh trên thị trường.
Ngoài việc tăng cường bồi dưỡng kiến thức về kỹ thuật, quản lý cho
các chủ làng nghề, các trường quản lý, trường dạy nghề của tỉnh đổi mới
26
28. phương thức dạy và học, nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho người lao
động. Ngoài việc tổ chức các làng nghề đi tham quan, học tập, hàng năm, tỉnh
và các huyện, thành phố trong tỉnh có kế hoạch mời các chuyên gia giỏi, các
nghệ nhân có kinh nghiệm truyền nghề ở các tỉnh bạn về dạy nghề và truyền
nghề cho lao động tại địa phương.
* Kinh nghiệm của tỉnh Thừa Thiên - Huế
Với định hướng phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn,
Thừa Thiên- Huế đang phấn đấu thực hiện mục tiêu đề ra: đón ba triệu khách
vào năm 2015, trong đó có gần 50% khách quốc tế. Để đạt mục tiêu trên, vấn
đề đặt ra là đẩy mạnh liên doanh, liên kết, tích cực thu hút các nguồn vốn
trong nước và ngoài nước để triển khai lồng ghép các tour, tuyến du lịch gây
ấn tượng. Mấy năm gần đây, tỉnh quan tâm đến tour du lịch làng nghề, xem
đây là loại hình du lịch văn hóa tổng hợp đưa du khách tham quan, thẩm nhận
các giá trị văn hóa và mua sắm những hàng hóa đặc trưng của các làng nghề
truyền thống.
Toàn tỉnh hiện có 88 làng nghề, trong đó có 69 làng nghề thủ công
truyền thống có thể xây dựng và phát triển thành các tour du lịch làng nghề
với nét đặc trưng riêng như làng gốm Phước Tích, làng thêu Thuận Lộc, làng
nón Phú Cam, đúc đồng Phường Đúc, điêu khắc Mỹ Xuyên, đan lát Bao La…
Vào những năm lẻ, Thừa Thiên Huế có festival nghề truyền thống là
dịp phô diễn, quảng bá sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đây cũng là điểm
nhấn để hình thành tour du lịch làng nghề, rất nhiều du khách đã về các
làng nón để được tận mắt chứng kiến và tham gia vào các công đoạn của
nghề làm nón. Du khách đã thật sự bất ngờ, thích thú khi được người thợ
nón lưu tên, ảnh của họ vào chiếc nón bài thơ mang về làm vật kỷ niệm của
chuyến du lịch về vùng đất Cố đô Huế. Qua các kỳ festival, tour du lịch
“Hương xưa làng cổ” đã làm sống lại một làng nghề gốm cổ của làng quê
27
29. Phước Tích nằm bên dòng sông Ô Lâu hiền hòa thơ mộng. Làng nghề
Phước Tích còn là một ngôi làng cổ độc đáo, cả làng sống nhờ nghề gốm.
Bao nhiêu năm khó khăn do nghề gốm trên đường mai một, nay tuyến du
lịch “Hương xưa làng cổ” đang mở ra cơ hội mới phục hồi làng nghề
Phước Tích.
* Kinh nghiệm phát triển làng nghề của tỉnh Bắc Ninh
Hiện nay, toàn tỉnh Bắc Ninh có 62 làng nghề, chủ yếu trong các lĩnh
vực như đồ gỗ mỹ nghệ xuất khẩu, sản xuất giấy, gốm, sắt, thép tái chế, đúc
đồng...; trong đó có 31 làng nghề truyền thống và 31 làng nghề mới, chiếm
khoảng 10% tổng số làng nghề truyền thống của cả nước. Các làng nghề tập
trung chủ yếu ở 3 huyện Từ Sơn, Yên Phong và Gia Bình (3 huyện này có 42
làng nghề, chiếm gần 68% số làng nghề của tỉnh). Nhiều làng nghề của Bắc
Ninh như: gỗ Đồng Kỵ, gốm Phù Lãng, đúc đồng Đại Bái, tranh Đông Hồ...
có từ lâu đời và nổi tiếng cả trong và ngoài nước.
Các làng nghề đã góp phần rất lớn trong việc giải quyết công ăn việc
làm cho nhân dân trong tỉnh (trên 72.000 lao động thường xuyên và trên
10.000 lao động thời vụ). Tại các làng nghề, số người giàu và khá giàu ngày
càng tăng, 100% số hộ đều có ti-vi, xe máy, mức thu nhập ở các làng nghề
cao gấp từ 3-4,5 lần so với các làng thuần nông, nhờ vậy góp phần giảm tỷ lệ
đói nghèo của tỉnh. Đây còn là nơi cung cấp nguồn hàng xuất khẩu quan trọng
của tỉnh với kim ngạch từ 1.200 tỷ đến 1.500 tỷ đồng/ năm.
Để đạt được kết quả nêu trên, bên cạnh việc thực hiện các giải pháp về
mở rộng và phát triển đồng bộ thị trường làng nghề, nâng cao chất lượng hàng
hoá của làng nghề; đào tạo nguồn nhân lực; đa dạng hoá các hình thức tổ chức
sản xuất kinh doanh... , tỉnh Bắc Ninh đã coi việc quy hoạch tạo mặt bằng cho
sản xuất ở các làng nghề là một khâu đột phá quan trọng trong phát triển làng
nghề. Hình thành các khu, cụm công nghiệp làng nghề, thực chất là chuyển
một phần diện tích đất canh tác nông nghiệp của chính làng nghề sang đất
28
30. chuyên dùng cho sản xuất CN - TTCN và tạo điều kiện cho các hộ sản xuất
trong các làng nghề (đặc biệt là các làng nghề có nguy cơ gây ô nhiễm môi
trường) di dời ra các khu sản xuất tập trung, tách sản xuất ra khỏi khu dân cư.
Đối với hoạt động sản xuất những chi tiết nhỏ lẻ, không ảnh hưởng đến
môi trường, sức khoẻ của cộng đồng thì vẫn được sản xuất, kinh doanh ở từng
hộ gia đình nhằm đảm bảo phù hợp với điều kiện và tập quán lao động của
người dân trong làng nghề. Để các khu, cụm công nghiệp làng nghề được
hình thành và hoạt động có hiệu quả, Bắc Ninh đã thành lập ra ban quản lý
các khu công nghiệp làng nghề. Ban quản lý các khu công nghiệp làng nghề
có nhiệm vụ giúp các cấp, các ngành, trước hết là Uỷ ban nhân dân cấp xã,
huyện thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước đối với các khu công nghiệp
làng nghề. Ban quản lý này là một đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp
nhân, được sử dụng con dấu và mở tài khoản theo quy định hiện hành của
Nhà nước. Ban quản lý các khu công nghiệp làng nghề là cơ quan trực tiếp
quản lý các khu công nghiệp làng nghề, đồng thời là đầu mối phối hợp với
các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân huyện, thị xã, các tổ chức kinh
tế - xã hội và Uỷ ban nhân dân các xã có khu công nghiệp làng nghề để giải
quyết những vấn đề phát sinh trong việc quản lý Nhà nước đối với các khu
công nghiệp làng nghề.
Ban quản lý các khu công nghiệp làng nghề chịu sự lãnh đạo trực tiếp
của Uỷ ban nhân dân huyện, thị xã dưới sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ
của các ngành chức năng thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh. Cơ quan này là đầu
mối triển khai, thực hiện các văn bản qui phạm pháp luật có liên quan, trực
tiếp xây dựng điều lệ quản lý các khu công nghiệp làng nghề, trực tiếp triển
khai qui hoạch chi tiết, được Uỷ ban nhân dân huyện uỷ quyền quản lý trước,
trong và sau khi đầu tư đối với các khu công nghiệp làng nghề.
29
31. Bên cạnh đó, để giải quyết vấn đề khó khăn về vốn cho sản xuất kinh
doanh của các làng nghề, Bắc Ninh đã chú trọng đến hệ thống ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, với sự phân bố xuống tận các xã,
phường. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bắc Ninh thực
hiện chủ trương tất cả các dự án khả thi của các hộ sản xuất đều được Ngân
hàng cho vay 70% giá trị mua sắm tài sản cố định bằng nguồn vốn vay trung
hạn và hỗ trợ cho vay từ 30-50% vốn lưu động. Nhiều làng nghề được Ngân
hàng cho vay đã nhanh chóng nâng cao được năng lực sản xuất, kinh doanh,
có doanh thu hàng trăm tỷ đồng/năm, như làng mộc mỹ nghệ Đồng Kỵ, sắt
Đa Hội…
* Phát triển làng nghề của tỉnh Quảng Nam
Quảng Nam hiện có 61 làng nghề, đa dạng về quy mô và loại nghề
truyền thống. Những làng nghề này sau khi khôi phục hoạt động khá tốt còn
trở thành những điểm đến hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước.
Làng rau Trà Quế (thôn Trà Quế, xã Cẩm Hà, thành phố Hội An) là
một trường hợp điển hình. Cũng những công việc hàng ngày như cuốc đất,
vun luống, bón phân, gieo hạt, trồng rau… nhưng ngoài thu hoạch sản phẩm,
nhà vườn ở đây còn có nguồn thu đáng kể từ du lịch. Từ năm 2003, khi tour
"Một ngày làm cư dân phố cổ" ra đời, nhiều du khách, đặc biệt là du khách
nước ngoài, đã đến thăm Trà Quế và trực tiếp tham gia việc trồng rau với các
nhà vườn. Sau gần 5 năm đưa vào khai thác, đến nay đã có hàng ngàn du
khách trong và ngoài nước đến thăm làng rau Trà Quế và tỏ ra rất thích thú
với điểm đến du lịch này.
Tại làng gốm Thanh Hà, nằm bên bờ sông Thu Bồn, thuộc xã Cẩm Hà,
cách phố cổ Hội An khoảng 2km về hướng Tây, người dân nơi đây đã mở ra
các dịch vụ như hướng dẫn du khách cách làm gốm từ khâu nhào đất sét, nắn
hình thù đến cách nung sao cho có màu bóng đẹp không bị cháy, bị chai .v.v.
30
32. Du khách đến đây, ngoài việc tha hồ lựa chọn các sản phẩm lưu niệm
bằng gốm độc đáo, còn được tận mắt chứng kiến những thao tác điêu luyện từ
những bàn tay tài hoa của các nghệ nhân làng nghề này.
Bên cạnh đó, tỉnh đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá về du
lịch làng nghề như tổ chức thành công các Hội chợ triển lãm hàng thủ công
mỹ nghệ truyền thống của tỉnh mỗi năm một lần, tổ chức tham gia các hội chợ
triển lãm, hội chợ du lịch trong nước và ngoài nước. Giới thiệu thông tin chi
tiết về các sản phẩm làng nghề trên các tạp chí, các phương tiện thông tin đại
chúng, các sách báo, ấn phẩm mà khách du lịch thường quan tâm theo dõi.
Ðẩy mạnh việc trưng bày, giới thiệu sản phẩm ở các thành phố, đô thị lớn là
nơi tập trung nhiều du khách. Các cửa hàng trưng bày này có thể kết hợp giới
thiệu về những truyền tích, giai thoại về các vị tổ sư, những người thợ cùng
với kinh nghiệm kết tinh trí tuệ nét đẹp văn hóa của những làng nghề. Liên
kết xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với các công ty du lịch của tỉnh và các địa
phương khác để xây dựng sản phẩm, thường xuyên cập nhật thông tin và có
nguồn khách ổn định.
1.3.2 Bài học rút ra cho Huyện Thường Tín trong phát triển làng nghề
Thứ nhất; quy hoạch cụ thể các khu, các cụm công nghiệp
Việc quy hoạch cụ thể các cụm công nghiệp giúp cho việc quản lý sản
xuất công nghiệp, thủ công nghiệp được dễ dàng hơn, đồng thời có bộ phận
quản lý chuyên trách, đảm bảo chất thải, phế liệu được xử lý để đảm bảo an
toàn vệ sinh môi trường, lại có lợi thế về quy mô, uy tín cho việc liên kết với
thị trường đầu ra hơn là so với các đơn vị kinh doanh nhỏ lẻ. Đồng thời, khi
quy hoạch cụ thể các khu công nghiệp, việc ứng dụng khoa học công nghệ
được đồng bộ và dễ dàng hơn, nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh
Thứ hai, chú trọng đổi mới đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn, kỹ thuật
cho nguồn nhân lực ở nông thôn
Việc đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực ở nông thôn có vai trò quan
trọng đối với sự nghiệp phát triển của LN. Vì thế các địa phương đều chú ý
31
33. đầu tư cho giáo dục và đào tạo tay nghề cho người lao động để họ tiếp thu
được kỹ thuật tiên tiến, bởi vì, việc hình thành một đội ngũ lao động có tay
nghề cao là rất quan trọng. Nếu thiếu yếu tố này thì việc tiếp thu khoa học
công nghệ sẽ không thành công như mong đợi. Nhìn chung, các địa phương
đều triệt để sử dụng nhiều hình thức đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao
động như: Bồi dưỡng tại chỗ, bồi dưỡng tập trung, bồi dưỡng ngắn hạn, theo
phương châm thiếu gì huấn luyện lấy. Xúc tiến thành lập các trung tâm, các
viện nghiên cứu để đào tạo nhân lực một cách có hệ thống bài bản đáp ứng
nhu cầu của các cơ sở sản xuất hoặc địa phương. Hầu hết các địa phương nói
trên đều rất chú trọng kinh nghiệm thực tiễn, mời những nhà kinh doanh,
những nhà quản lý có kinh nghiệm trong việc CNH nông thôn để báo cáo một
số chuyên đề, hoặc mang sản phẩm đi triển lãm, trao đổi. Họ rất chú ý hình
thức tiến hành hoạt động công nghiệp cộng đồng (gia đình, làng xóm, hương
trấn, phường hội) để phổ biến kỹ thuật.
Thứ ba, hỗ trợ vốn và điều kiện sản xuất cho các cơ sở sản xuất
Trong quá trình SXKD của LN, vài thập kỷ gần đây các địa phương rất
quan tâm và có nhiều chủ trương chính sách phát triển ngành nghề thủ công
truyền thống và các ngành nghề mới ở nông thôn. Trong đó, sự hỗ trợ về tài
chính, tín dụng đóng vai trò hết sức quan trọng (thông qua các dự án cấp vốn,
bù lãi suất cho ngân hàng hoặc bù giá đầu ra cho người sản xuất). Nhờ có sự
hỗ trợ này mà các LN lựa chọn kỹ thuật gắn với lựa chọn hướng sản xuất.
Chính quyền tạo điều kiện cho ngành nghề thủ công truyền thống đổi mới
công nghệ, mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, nâng cao sức
cạnh tranh trên thị trường.
Thực tế, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại nhiều thành tựu
về kinh tế, văn hoá, xã hội… Thị trường của các làng nghề truyền thống đã
không ngừng mở rộng trong nước và xuất khẩu, các sản phẩm đặc biệt là sản
32
34. phẩm thủ công mỹ nghệ đã từng bước khẳng định chỗ đứng của mình trở
thành một trong những mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của nước ta. Tuy nhiên,
nhiều khó khăn, thách thức đang đặt ra cho sự phát triển làng nghề; cạnh tranh
gay gắt trên thị trường trong nước và quốc tế, hệ thống chính sách của nước ta
chưa đồng bộ, còn nhiều bất cập. Vì vậy, ở tầm vĩ mô Nhà nước cần phải tiếp
tục quá trình đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật cho phù hợp với thông
lệ quốc tế, tạo môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp của làng nghề phát
triển, chủ động hội nhập với thị trường quốc tế.
Thứ tư, kết hợp giữa công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp với thương mại,
du lịch, tổ chức các hội chợ triển lãm
Việc kết hợp giữa ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp với ngành
du lịch vừa tạo thị trường đầu ra cho sản phẩm của làng nghề, vừa tạo sự
phong phú cho ngành du lịch. Đặc biệt khi huyện Thường Tín có nhiều làng
nghề lâu năm đa dạng phong phú, ngoài việc sản xuất, khi du khách đến thăm
làng nghề có thể hướng dẫn và tạo điều kiện cho du khách tự tay làm sản
phẩm của mình, điều này tạo sự lôi cuốn, thích thú cho du khách. Dần dần, sự
phát triển làng nghề không đơn thuần là sản xuất kinh doanh mà còn là một
trong những yếu tố trong xu hướng du lịch sinh thái hiện nay. Theo đó, các cơ
sở phối hợp cùng các ban ngành tổ chức hội chợ triển lãm các sản phẩm tinh
tế của làng nghề để giới thiệu sản phẩm đến du khách, cũng như giới thiệu về
các làng nghề của Huyện.
33
35. *
* *
Phát triển các làng nghề và ngành nghề nông thôn nhằm tạo việc làm,
tăng thu nhập ở nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo, góp phần thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và cũng là thực hiện mục tiêu “ly nông
bất ly hương” đang diễn ra mạnh mẽ tại các vùng nông thôn. Thực tế cho thấy
“Làng nghề” là một tập hợp từ thể hiện một không gian vùng quê nông thôn,
ở đó có những hộ thuộc một số dòng tộc nhất định sinh sống. Ngoài sản xuất
nông nghiệp, họ còn có một số nghề sản xuất phi nông nghiệp. Trong các làng
nghề này tồn tại đan xen nhiều mối quan hệ kinh tế, xã hội phong phú và phức
tạp. Làng nghề là những làng ở nông thôn có những nghề phi nông nghiệp
chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và thu nhập so với nghề nông. Việc phát triển
làng nghề có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội tại mỗi địa
phương. Tuy nhiên, phát triển làng nghề phải đảm bảo phát triển cả về mặt
lượng và về mặt chất, đảm bảo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với bảo
vệ môi trường sinh thái.
34
36. Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN
TRONG NHỮNG NĂM QUA
2.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới sự phát triển
của làng nghề ở huyện Thường Tín
2.1.1. Đặc điểm về địa lý
Thường Tín là một huyện nằm ở phía nam của Thủ đô Hà Nội thuộc vùng
châu thổ sông Hồng, có diện tích 127 km2
cách trung tâm Hà Nội 18 km.
Địa giới hành chính: Phía đông giáp các xã Mễ Sở , Thắng Lợi huyện
Văn Giang và giáp các xã Tân Châu, Tứ Dân, Hàm Tử, Dạ Trạch, Bình Minh,
huyện Khoái Châu của tỉnh Hưng Yên với ngăn cách tự nhiên là sông Hồng.
Phía nam giáp huyện Phú Xuyên. Phía tây giáp huyện Thanh Oai, ngăn cách
bởi sông Nhuệ. Phía bắc giáp huyện Thanh Trì.
Về đất đai đa phần diện tích đất đai là Đông Bằng được bồi đắp bởi hai
2 dòng sông chính là sông Hồng và sông Nhuệ.Diện tích của huyện là 127,59
km2, đa phần diện tích đất đai là đồng bằng mãu mỡ được bồi đắp bởi hai 2
dòng sông chính là sông Hồng và sông Nhuệ. Đất đai bằng phẳng, màu mỡ,
tầng lớp canh tác dày, thành phần cơ giới thịt nhẹ đến thịt trung bình; chủ
động tưới tiêu bằng động lực, thuận lợi cho thâm canh tăng vụ, ngoài sản xuất
lúa còn trồng rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày và sản xuất được nhiều vụ
trong năm.Tài nguyên đất đai này tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành
nông nghiệp trồng trọt, thích hợp với trông cây lúa nước và các loại rau màu,
cây ăn quả.
Thường Tín nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, với khí hậu ôn hòa, ít
chịu ảnh hưởng của thiên tai; có 4 mùa rõ rệt. Giờ nắng trung bình hàng năm
là 1.600 - 1.700 giờ; lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.300 - 1.700mm; độ
ẩm không khí trung bình là 85 - 87%. Nhiệt độ trung bình hàng năm là
35
37. 23,30C. Nhìn chung, khí hậu của Huyện thuận lợi cho sự phát triển hệ sinh
thái động, thực vật cũng như các hoạt động sản xuất nông nghiệp bao gồm
cây lương thực, thực phẩm và cây ăn quả. Đây là điều kiện thuận lợi cho phát
triển một nền nông nghiệp [41, tr.1].
Hệ thống sông ngòi, kênh, mương của Huyện cũng tạo điều kiện nhằm
phát triển ngành nuôi trông thủy sản khá mạnh trong các năm qua.Tuy nhiên,
nước phân bố không đều, lượng dòng chảy về mùa hạ lớn (70 - 80%). Tình
trạng thiếu nước trong mùa khô gây không ít khó khăn cho sản xuất nông
nghiệp và giao thông đường thủy, phải đầu tư lớn để nạo vét, khơi dòng. Chất
lượng nguồn nước mặt đang có biểu hiện nhiễm bẩn do tác động của đô thị
hóa. Trong chất thải đều có chứa sắt, một số kim loại nặng khác và các chất
gây bẩn cần được xử lý triệt để. Nguồn nước phong phú tạo điều kiện thuận
lợi, đáp ứng yêu cầu cho phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững của
tỉnh. Song cũng đặt ra nhiều vấn đề phải xử lý trong sản xuất về nguồn nước,
về an toàn thực phẩm.
2.1.2. Đặc điểm về kinh tế- xã hội
- Về kinh tế:
Thực hiện các chủ trương, giải pháp trong lãnh đạo, chỉ đạo của huyện
về lĩnh vực phát triển kinh tế, đồng thời tích cực triển khai đồng bộ, kịp thời
những chính sách kích cầu của Thành phố. Sau 5 năm thực hiện nghị quyết
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XXI, kinh tế của huyện duy trì được
tốc độ tăng trưởng khá và toàn diện. Bình quân 5 năm (2006-2010), tổng sản
phẩm quốc nội (GRDP) tăng 13,6%/năm, cao hơn bình quân 5 năm trước
1,3%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, đúng hướng: Công nghiệp - Dịch
vụ - Nông nghiệp. Năm 2010, ước tỷ trọng công nghiệp - xây dựng đạt
50,15%, tăng 0,15% so với mục tiêu Đại hội; thương mại - dịch vụ đạt
32,25%, tăng 0,25% so với mục tiêu Đại hội; nông nghiệp 17,6%, vượt 0,4%
so mục tiêu Đại hội [56, tr.2].
36
38. Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 ước đạt 13,5 triệu
đồng/người/năm, vượt 4,8 triệu đồng so với mục tiêu Đại hội.
Sản xuất Công nghiệp - TTCN có bước phát triển khá. Năm 2010, giá
trị sản xuất CN-TTCN ước đạt 1.740 tỷ đồng, tăng 3,38 lần so với năm 2005.
Tốc độ tăng bình quân 27,7%/năm, vượt 0,7% so với mục tiêu Đại hội.
Sản xuất, kinh doanh của các làng nghề ổn định và phát triển. Toàn
huyện có 126 làng có nghề, trong đó 44 làng được công nhận là làng nghề;
công tác khuyến công thường xuyên được quan tâm và thực hiện có hiệu quả;
các cụm, điểm công nghiệp làng nghề phát triển. Trong 5 năm đã thu hút 109
doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn huyện, 364 hộ sản xuất kinh doanh tại các
cụm, điểm công nghiệp với tổng nguồn vốn đăng ký 5.552 tỷ đồng, trong đó
số vốn thực hiện 4.719 tỷ đồng. Thực hiện quy hoạch chi tiết 2 khu công
nghiệp (Phụng Hiệp, Bắc Thường Tín) và một cụm công nghiệp (Hà Hồi-
Quất Động); hoàn thành xây dựng hạ tầng và giao đất tại 6 cụm công nghiệp
(Liên Phương, Quất Động, Hà Bình Phương, Duyên Thái, Quất Động mở
rộng, Gas Lưu Xá); 4 điểm công nghiệp ở 4 xã (Vạn Điểm, Duyên Thái, Ninh
Sở, Tiền Phong) [56, tr.3].
Giá trị sản xuất ngành xây dựng năm 2010 ước đạt 1.291,93 tỷ đồng,
tăng bình quân 25,2%/năm.
Trong 5 năm, toàn huyện đã triển khai xây dựng 602 công trình (giao
thông, thuỷ lợi, trường học, y tế, trụ sở làm việc của UBND xã, thị trấn, các
công trình văn hoá, hạ tầng về điện…) với tổng kinh phí 812 tỷ đồng từ ngân
sách các cấp. Cải tạo, nâng cấp 152 km đường liên xã, trục xã, nội bộ thôn,
xóm; tạo điều kiện xây dựng 3 cơ sở dạy nghề: Cao đẳng Bách khoa, Trường
đào tạo lái xe Thái Việt, dạy nghề Ileco, triển khai dự án xây dựng trường
trung cấp nghề kỹ thuật và công nghệ. Các công trình xây dựng được tập
trung chỉ đạo, đảm bảo chất lượng, phát huy tác dụng.
37
39. Hoạt động thương mại - dịch vụ có nhiều chuyển biến tích cực. Giá trị
thu được năm 2010 ước thực hiện 1.164,62 tỷ đồng, tăng 2,5 lần so với năm
2005, tốc độ tăng bình quân đạt 20,25%/năm, vượt chỉ tiêu Đại hội 1,75%
[56, tr.3].
Tiến hành quy hoạch hệ thống chợ trên địa bàn huyện. Triển khai xây
dựng chợ đầu mối gia cầm Hà Vỹ (Lê Lợi), chợ Mới (Hồng Vân), chợ xã
Liên Phương, chợ Tía (Tô Hiệu), chợ Đỗ Xá (Vạn Điểm). Tích cực tổ chức và
tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại như: Hội chợ, triển lãm, quảng bá
hàng hoá... Công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động thương mại, dịch
vụ có tiến bộ; công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường được thực hiện thường
xuyên, có hiệu quả, góp phần tích cực vào việc đấu tranh chống buôn lậu và
gian lận thương mại. Thực hiện nghiêm chủ trương bàn giao trạm và lưới điện
hạ áp cho ngành Điện quản lý và bán điện trực tiếp đến hộ dân tại 18 xã.
- Về dân số:
Dân số của Huyện hiện nay 240.000 người, đa phần là người Kinh. Mật
độ dân số ở mức trung bình 1.677 người/km². Điều kiện về dân số vừa tạo cơ
hội có nguồn nhân lực dồi dào cho phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
vừa tạo thách thức do sức ép về thất nghiệp, về trình độ lao động đòi hỏi ngày
càng cao [7, tr.1].
- Về y tế:
Màng lưới y tế trên địa bàn thường xuyên được quan tâm đầu tư về mọi
mặt, nhất là ở cơ sở. 100% trạm y tế xã có bác sỹ, được nâng cấp xây mới,
100% thôn có nhân viên y tế. Chương trình Y tế quốc gia hàng năm thực hiện
vượt chỉ tiêu. Chương trình tiêm chủng mở rộng đạt trên 99%; tỷ lệ trẻ dưới 5
tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 18,5% năm 2005 xuống còn 14,1% năm 2010.
Chủ động phòng chống hiệu quả các dịch bệnh, không để dịch bệnh lớn xảy
ra [7, tr.1].
38
40. Công tác quản lý nhà nước về y tế được tăng cường. Trạm y tế xã,
Trung tâm y tế, Bệnh viện Đa khoa huyện thường xuyên được đầu tư nâng
cấp cơ sở vật chất, bổ sung trang thiết bị hiện đại. Chất lượng khám, chữa
bệnh cho nhân dân được nâng cao. Khai thác, phát huy tốt vai trò, tác dụng
của y học cổ truyền.
Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình: tổ chức tốt hoạt động truyền
thông về dân số, gia đình và trẻ em. Thường xuyên chỉ đạo sát sao để nâng
cao chất lượng dân số và kế hoạch hóa gia đình.
- Về giáo dục
Sự nghiệp giáo dục- đào tạo của huyện thường xuyên được các cấp ủy,
chính quyền coi trọng và quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Ngành Giáo dục tích
cực ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới công tác quản lý giáo dục, giữ
vững chất lượng giáo dục toàn diện, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục
đại trà và chú trọng giáo dục mũi nhọn. Duy trì phổ cập tiểu học đúng độ tuổi
và phổ cập THCS. Hoàn thành chuyển đổi trường mầm non từ bán công sang
công lập tự chủ. 100% trường THCS, trường tiểu học được xây dựng kiên cố,
cao tầng. Toàn huyện đã triển khai xây dựng 240 phòng học xuống cấp,
phòng học tạm; đến hết năm 2010, kiên cố hoá 399 phòng với kinh phí 147 tỷ
đồng. Đến nay, toàn huyện có 27 trường đạt "Chuẩn quốc gia", 7 trường đạt
"Trường học thân thiện", 21/29 xã, thị trấn xây dựng được trường mầm non
trung tâm; công tác xã hội hóa giáo dục, hoạt động của Hội đồng giáo dục,
Hội khuyến học từ huyện đến cơ sở có hiệu quả. Đội ngũ cán bộ, giáo viên
trong ngành luôn đảm bảo về số lượng và chất lượng, được chú trọng bồi
dưỡng thường xuyên về trình độ chuyên môn và năng lực quản lý giáo dục.
Đến nay, 100% giáo viên tiểu học, THCS đạt chuẩn, trong đó 82% đạt trên
chuẩn; 91,2% giáo viên mầm non đạt chuẩn, trong đó có 31% đạt trên chuẩn.
Hàng năm, tỷ lệ học sinh giỏi ở các cấp học tăng; tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp
Tiểu học, THCS hàng năm đạt trên 98%, THPT đạt 80%; 100% học sinh lớp
39
41. 9 và học sinh THPT được hướng nghiệp, học nghề. Từ năm 2006 đến năm
2009 có 3.461 học sinh thi đỗ các trường cao đẳng, đại học [7, tr.3].
- Về giao thông
Thường Tín có hệ thống đường giao thông thuận lợi với hai tuyến
đường bộ chạy dọc huyện là quốc lộ 1A dài 17,2 km và đường cao tốc Pháp
Vân - Cầu Giẽ dài 17 km đến cầu Vạn Điểm đoạn giao cắt với đường 429 (73
cũ); chạy ngang huyện là tuyến đường tỉnh lộ 427 (đường 71 cũ) từ dốc Vân
La (Hồng Vân) qua cầu vượt Khê Hồi đến Thị trấn Thường Tín sang phía tây
huyện và tỉnh lộ 429 (73 cũ) từ Thị trấn Phú Minh (Phú Xuyên) qua gầm cầu
vượt Vạn Điểm đến Ngã 3 Đỗ Xá giao với quốc lộ 1A cũ; tiếp theo là đoạn
đường 429 từ ngã ba Tía chạy vào Đồng Quan. Trên Huyện có tuyến đường
sắt Bắc Nam chạy qua với 3 nhà ga là ga Thường Tín, ga Tía và ga Đỗ Xá.
Đường thủy có sông Hồng, với cảng Hồng Vân, cảng Vạn Điểm. Qua sông đi
Tứ Dân, Khoái Châu, Phố Nối và Thành phố Hưng Yên [7, tr.2].
2.2. Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân hạn chế và những vấn đề đặt
ra về phát triển làng nghề ở huyện Thường Tín
2.2.1. Những thành tựu đạt được trong phát triển làng nghề ở huyện
Thường Tín
* Về số lượng làng nghề:
Nằm ở cửa ngõ phía nam Thủ đô, huyện Thường Tín là địa phương có
truyền thống lịch sử, văn hóa đặc sắc, vốn được mệnh danh là “đất trăm nghề”
với 126 làng nghề thủ công rải rác khắp huyện, nổi tiếng với nhiều sản phẩm,
cụ thể như: Tiện gỗ ở Nhị Khê, Sơn mài xã Duyên Thái, Thêu ở Quất Động
Làm bánh dày ở Dũng Tiến, Mây tre đan ở Quán Gánh, Vàng mã ở Văn Bình,
Điêu khắc gỗ đá ở xã Hiền Giang…
Ngoài ra những làng nghề phát triển gắn bó tại Huyện hàng trăm năm
nay cũng xuất hiện một số nghề thủ công mới phát triển mạnh trong mấy chục
năm trở lại đây như xương sừng ở xã Hòa Bình, làm bông len ở Tiên Phong,
mộc cao cấp ở Vạn Điểm, nghề trồng cây cảnh ở Hồng Vân, Vân Tảo…
40
42. Trong đó có 43 làng được công nhận làng nghề cấp thành phố như các
làng thêu ở Thắng Lợi, Quất Động, làng sơn mài Hạ Thái (xã Duyên Thái),
làng tiện Nhị Khê, làng mây tre đan Ninh Sở (xã Ninh Sở), làng đá Nhân
Hiền (xã Hiền Giang)...Các làng nghề đều có tuổi đời hàng trăm năm và được
truyền qua nhiều đời. Đến thời điểm tháng 10 năm 2013 toàn huyện có 46
làng nghề được công nhận là “Làng nghề” chiếm 36,5% tổng số làng nghề
của toàn huyện. Trong số 46 làng được công nhận thì có 36 làng nghề là
truyền thống còn 10 làng nghề là làng nghề mới [24, tr.2].
Số nghệ nhân được UBND Thành phố công nhận đến nay là 13 nghệ
nhân Hà Nội.
Hiện nay trên địa bàn có 02 Hiệp hội là Sơn mài Thành phố, thêu
Thành phố, 05 Hội trong đó 01 cấp huyện Hội thêu Thường Tín, 04 hội cấp
xã là thêu ren xã Lê Lợi, thêu thôn Đông Cứu xã Dũng Tiến, gỗ xã Vạn Điểm,
sơn mài xã Duyên Thái.
Quy mô hoạt động của các làng nghề lớn hay nhỏ được thể hiện thông
qua các con số thống kê về số lượng các doanh nghiệp và hộ gia đình sản xuất
ngành nghề trong làng nghề.
Theo thống kê, tính đến đầu năm 2013, trong 46 làng nghề được công
nhận thì tổng số hộ sản xuất là 12.431 hộ và 93 doanh nghiệp tư nhân sản xuất
trong lĩnh vực nghề truyền thống, trong khi năm 2010 chỉ có 76 doanh nghiệp tư
nhân và 11.324 cơ sở sản xuất; năm 2012 có 83 doanh nghiệp tư nhân và 11.752
cơ sở sản xuất. Như vậy,qua các năm quy mô của các làng nghề không ngừng
được mở rộng, thể hiện sự phát triển theo chiều rộng của các làng nghề [24,tr2].
*Về chất lượng sản xuất
Thứ nhất, chất lượng nguồn nhân lực
Làng nghề ở huyện Thường Tín hình thành và phát triển từ lâu đời vì
thế có một đội ngũ lao động là các nghệ nhân có trình độ tay nghề cao cũng
khá lớn. Huyện cũng đã chú trọng tới việc phát huy sức mạnh của các nghệ
nhân này thông qua hình thức công nhận và phong tặng danh hiệu nghệ nhân
41
43. cho các nghệ nhân này. Số nghệ nhân được UBND Thành phố công nhận đến
nay là 13 nghệ nhân Hà Nội. Hiện nay trên địa bàn có 02 Hiệp hội là Sơn mài
Thành phố, Thêu Thành phố, 05 Hội trong đó 01 cấp huyện Hội thêu Thường
Tín, 04 hội cấp xã là thêu ren xã Lê Lợi, thêu thôn Đông Cứu xã Dũng Tiến,
gỗ xã Vạn Điểm, sơn mài xã Duyên Thái.
Thứ hai, ứng dụng khoa học công nghệ vào quy trình sản xuất
Hiện nay tại huyện Thường Tín, đối với các làng nghề sản xuất đồ
mộc, sơn mài.., trước đây chỉ sử dụng các công cụ đơn giản có thể tự chế,
nhưng ngày nay do yêu cầu về năng suất lao động và mẫu mã sản phẩm cao
nên bắt đầu có sự đầu tư mua sắm các loại máy móc hiện đại hơn, chủ yếu
thay thế các công việc nặng nhọc như xẻ, bào, tiện, đánh bóng,…nhu cầu
về vốn cũng không lớn lắm nên rất nhiều cơ sở sản xuất đã thực hiện được.
Tuy nhiên nhiều công đoạn vẫn phải thực hiện một cách thủ công, do vậy
chưa thể thay thế hoàn toàn bằng máy móc.
Bên cạnh đó, huyện đã quy hoạch các cơ sở sản xuất làng nghề vào các
cụm, các điểm công nghiệp như khu công nghiệp Hà Bình Phương, khu công
nghiệp Phụng Hiệp, cụm công nghiệp Quất Động, cụm công nghiệp Duyên
Thái , cụm công nghiệp Liên Phương, cụm công nghiệp làng nghề: Vạn Điểm
(mộc), cụm công nghiệp làng nghề Duyên Thái (sơn mài); Cụm công nghiệp
làng nghề mây tre đan (Ninh Sở), cụm công nghiệp làng nghề Tiền Phong
(bông len), cụm công nghiệp làng nghề mộc Văn Tự … Vì được quy hoạch
tập trung nên mặt bằng sản xuất nhìn chung là rộng rãi, nhà xưởng xây dựng
khang trang, từ đó quy mô hoạt động cũng lớn hơn, và có sự đầu tư, ứng dụng
công nghệ kỹ thuật,máy móc thiết bị tại các nhà xưởng.
Thứ ba, yếu tố đầu vào:
Yếu tố đầu vào quan trọng nhất là vốn cho các cơ sở hoạt động sản xuất
kinh doanh. Vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề trên
địa bàn Huyện được huy động chủ yếu từ 3 nguồn chính:
42
44. Một là,vốn tự có: đây là nguồn vốn chủ yếu, chiếm khoảng 70 – 80 %
tổng số vốn đầu tư của các làng nghề.
Hai là, nguồn vốn hỗ trợ từ các chương trình của Nhà nước. Nguồn vốn
này đến với các làng nghề dưới nhiều hình thức như: hàng năm tỉnh hỗ trợ
kinh phí cho xây dựng cơ bản, nhất là hệ thống cơ sở hạ tầng; ngoài ra các
làng nghề còn được hỗ trợ về vốn thông qua các chương trình như chương
trình quốc gia về giải quyết việc làm, hỗ trợ khuyến khích phát triển ngành
nghề nông thôn và làng nghề,… Hiện nay tại Huyện cũng có các nguồn vốn
được phân bổ từ ngân sách nhà nước để hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất kinh
doanh muốn vay vốn.
Ba là, nguồn vốn vay. Nguồn vốn này đang trở thành một nguồn vốn
quan trọng với sự phát triển các làng nghề; vốn tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn
lưu động cho các hộ, các cơ sở sản xuất kinh doanh phục vụ cho việc mua
sắm nguyên vật liệu, trả lương cho công nhân và tổ chức tiêu thụ sản phẩm.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn hiện giữ vai trò chủ đạo trong
việc cung cấp tín dụng thương mại cho các làng nghề.
Thứ tư, là mở rộng thị trường đầu ra của sản phẩm
Sản phẩm của làng nghề ở huyện Thường Tín được bán tự do trên thị
trường trong nước và nước ngoài với tư cách là hàng hoá. Thường Tín có sự
đa dạng về các làng nghề cũng như số lượng nghề vì vậy sản phẩm của làng
nghề ở Thường Tín được tiêu thụ ở cả 3 khu vực: tại thị trường địa phương,
thị trường trong cả nước và thị trường quốc tế. Tiêu dùng tại địa phương và
trong nước chủ yếu là nhóm hàng: đồ gỗ, sản phẩm thủ công mỹ nghệ ...ngoài
ra sản phẩm thêu và mây tre đan là xuất khẩu ra một số nước trên thế giới như
Nhật Bản, Mỹ, Đài Loan, Đức, Italia…
Giai đoạn 2011 – 2013 là giai đoạn khó khăn chung của nền kinh tế,
chính vì vậy có những ảnh hưởng không tốt đến giá trị sản lượng và tiêu
43
45. thụ đầu ra đối với các làng nghề. Thị trường là vấn đề sống còn quyết định
sự thành bại của các làng nghề. Tuy nhiên, trong bối cảnh khó khăn như
vậy, làng nghề huyện Thường Tín vẫn duy trì và đạt được những thành tựu
nhất định:
Trong nền kinh tế có sự suy thoái, thị trường thu hẹp do nhu cầu tiêu
thụ giảm, nhưng 6 tháng đầu 2013, toàn huyện đạt giá trị xuất khẩu ước đạt
239,5 tỷ đồng, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước, là kết quả ít nơi có
được…Qua biểu đồ ta cũng thấy trong giai đoạn 2011- 2013, giá trị sản phẩm
làng nghề không có biến động mạnh, duy trì ở mức ổn định, có thể nói đây là
phương án an toàn và sự tự điều chỉnh quy mô và sản lượng của các hộ kinh
doanh và các doanh nghiệp trên địa bàn, tránh rủi ro thua lỗ, không tiêu thụ
được sản phẩm [56, tr.4].
Biểu đồ 2.1. Giá trị sản phẩm và giá trị xuất khẩu của làng nghề
huyện Thường Tín trong 3 năm 2011 – 2013
ĐVT: trđ
(Báo cáo kinh tế, xã hội huyện Thường Tín giai đoạn 2011 – 2013)
44
46. Biểu đồ 2.2: Tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm làng nghề của huyện
ĐVT: %
(Báo cáo kinh tế, xã hội huyện Thường Tín giai đoạn 2011 – 2013)
Tỷ trọng xuất khẩu tăng qua các năm do một số sản phẩm xuất khẩu như
thêu, mây tre đan hướng sang được thị trường mới, đặc biệt là khối Brich và thị
trường Đức. Thị trường Đức có nhu cầu nhập khẩu các loại nông sản, hàng thủ
công, thủ công mỹ nghệ... rất lớn. Mỗi năm, CHLB Đức phải chi hàng trăm
triệu USD để nhập khẩu các loại nông sản và hàng tiêu dùng, nếu doanh nghiệp
Việt Nam tận dụng được lợi thế nguồn nguyên liệu sẵn có giá nhân công rẻ...
và hợp tác, liên kết chặt chẽ trong việc duy trì ổn định chất lượng sản phẩm thì
hoàn toàn có khả năng xuất khẩu hàng hóa vào thị trường CHLB Đức.
Để xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Đức, doanh nghiệp Việt Nam
phải tìm được một lối đi riêng, hàng Việt Nam cạnh tranh bằng hàng hóa sản
xuất đại trà, giá rẻ với hàng Trung Quốc hay các loại sản phẩm được sản xuất
trên dây chuyền công nghệ chất lượng cao của Hàn Quốc, Nhật Bản... mà
phải tạo được văn hóa Việt vào từng sản phẩm, với nguồn nguyên liệu thiên
nhiên sẵn có và bàn tay tài hoa của người thợ Việt Nam, các doanh nghiệp
Việt Nam hoàn toàn có thể đưa hàng thủ công, thủ công mỹ nghệ vào thị
trường Đức.
45
47. Ngoài ra với thị trường Nhật Bản, mặc dù kinh tế khó khăn, sức mua
giảm sút đáng kể nhưng các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong đó có
các mặt hàng thủ công vẫn chiếm được lòng tin của người tiêu dùng Nhật
Bản, đồng thời cũng khuyến nghị các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và
huyện Thường Tín nói riêng cần nắm bắt được những xu thế trong kinh doanh
của người Nhật Bản để đưa ra chiến lược xuất khẩu phù hợp.
Một trong những phương thức để hàng thủ công Việt Nam nắm giữ
được thị trường Nhật Bản là: Xử lý mau lẹ các yêu cầu của khách hàng, đảm
bảo thời gian giao hàng, chất lượng sản phẩm, có dịch vụ chăm sóc sau bán
hàng, làm rõ nguồn cung cấp nguyên vật liệu, không sử dụng lao động trẻ em,
hiểu được người sản xuất.
Nhìn chung, để các cơ sở sản xuất và các doanh nghiệp kinh doanh sản
phẩm làng nghề muốn mở rộng được thị trường tiêu thụ, thì cần tăng cường
khâu thiết kế sản phẩm nhưng không nên chỉ đơn thuần chạy theo thiết kế mà
phải đảm bảo cả tính năng sử dụng của sản phẩm. Ngoài ra, cần chú trọng đến
việc tạo ra sản phẩm độc đáo mang tính đặc trưng văn hóa dân tộc mà vẫn
phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người dân, không chỉ là trong nước mà còn
đối với khách hàng nước ngoài.
Thứ năm, về cơ cấu làng nghề
Căn cứ vào sản phẩm của các làng nghề, theo thống kê năm 2013 của
Huyện, ngành sơn mài chiếm tỷ trọng lớn nhất là 28%, tiếp đến là ngành thêu
với tỷ trọng là 26%. Ngoài ra là sản phẩm mây tre đan và xương sừng. Đây là
những làng nghề sản xuất ra các sản phẩm đặc trưng, có tính tinh tế cao, mang
nhiều giá trị thẩm mỹ, được ưa chuộng nhiều, đồng thời đây là những sản
phẩm mang giá trị kinh tế cao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa
phương. Theo thống kê, các khách hàng trong và ngoài nước được nhiều
khách hàng ưa chuộng như thêu tay xã Thắng Lợi, Quất Động, Dũng Tiến,
46