SlideShare a Scribd company logo
1 of 103
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ PHƯƠNG LINH
NH÷NG VÊN §Ò PH¸P Lý VÒ CHèNG B¸N PH¸ GI¸
HµNG HãA NHËP KHÈU VµO VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Vũ Phương Linh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BÁN PHÁ
GIÁ VÀ PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ........................... 5
1.1. Quan niệm về bán phá giá và chống bán phá giá........................... 5
1.1.1. Bán phá giá........................................................................................ 5
1.1.2. Chống bán phá giá ........................................................................... 16
1.2. Pháp luật chống bán phá giá......................................................... 22
1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật chống bán phá giá ..................... 22
1.2.2. Hiệp định chống bán phá giá của WTO và pháp luật chống bán
phá giá của một nước trên thế giới................................................... 26
Chương 2: PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Ở VIỆT NAM......... 38
2.1. Khái lược về sự hình thành pháp luật chống bán phá giá ở
Việt Nam ........................................................................................ 38
2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam....... 40
2.2.1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng ........................................ 40
2.2.2. Xác định hàng hóa bị bán phá giá nhập khẩu vào thị trường
Việt Nam......................................................................................... 42
2.2.3. Điều kiện và nguyên tắc áp dụng biện pháp chống bán phá giá
hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam .................................................. 49
2.2.4. Các biện pháp chống bán phá giá..................................................... 53
2.2.5. Thủ tục điều tra để áp dụng biện pháp chống bán phá giá................ 55
2.2.6. Áp dụng biện pháp chống bán phá giá ............................................. 62
2.2.7. Rà soát việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá .......................... 68
2.2.8. Khiếu nại, khởi kiện, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm
pháp luật chống bán phá giá............................................................. 69
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ ................................................................................... 72
3.1. Thực trạng bán phá giá và chống bán phá giá ở Việt Nam......... 72
3.1.1. Một số hiện tượng bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam....... 72
3.1.2. Thực trạng áp dụng pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam –
một số kết quả đạt được ................................................................... 73
3.1.3. Một số tồn tại, bất cập trong việc áp dụng pháp luật chống bán
phá ở Việt Nam................................................................................ 76
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam................................ 80
3.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá ở
Việt Nam ......................................................................................... 80
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
chống bán phá giá ở Việt Nam......................................................... 88
KẾT LUẬN................................................................................................. 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 95
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADA Hiệp định chống bán phá giá của WTO
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CPSX Chi phí sản xuất
EC Ủy ban Châu Âu
EU Liên minh Châu Âu
GATT Hiệp định chung về thuế quan thương mại
GNK Giá nhập khẩu
GTTT Giá trị thực tế
GXK Giá xuất khẩu
PLAD Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia tổ chức kinh tế quốc tế
trong bối cảnh toàn cầu hóa và quốc tế nền kinh tế hiện nay là xu thế không thể
đảo ngược lại đối với mỗi quốc gia khi phát triển kinh tế của mình. Trong quá
trình phát triển kinh tế và thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế toàn
cầu, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Thị trường rộng hàng hóa
và dịch vụ trong nước được mở rộng, hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu được
thúc đẩy mạnh mẽ hu hút được nhiều vốn đầu tư trong và ngoài nước, tác động
tích cực tới việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, phát huy lợi thế so sánh, nâng
cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng cao
và bền vững. Những thành tựu này đã tạo cơ hội cho Việt Nam tiếp tục những
bước phát triển khả quan trong tương lai. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội to
lớn đó thì quá trình hội kinh tế quốc tế, nước ta cũng phải đối mặt không ít với
những khó nghiệp phải đương đầu. Việc Việt Nam tham gia vào ASEAN,
APEC và đàm phán xin gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO đồng
nghĩa với việc có sự thay đổi sâu sắc các chính sách thương mại liên quan đến
việc mở cửa thị trường. Điều này dẫn tới hiện tượng cạnh tranh không lành
mạnh, trong đó có vấn đề bán phá giá hàng hóa đối với hàng hóa nhập khẩu
vào Việt Nam sẽ gia tăng trên thị trường, có thể gây ra những tổn thất lớn cho
các nhà sản xuất tương tự trong nước. Trước tình hình thực tế đặt ra, có thể
thấy rằng vai trò của Nhà nước là không thể thiếu trong việc đưa ra các biện
pháp chống lại việc bán phá giá nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước, tạo lập
môi trường pháp lý vững chắc cho hoạt động thương mại, tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp tham gia vào đời sống kinh tế quốc tế. Vì vậy, học
viên chọn nghiên cứu và tìm hiểu đề tài luận văn: “Những vấn đề pháp lý về
chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam”.
2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đã quá quen thuộc với
vấn đề bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá, tuy nhiên vấn đề này vẫn
còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Mặc dù đây là vấn đề còn mới mẻ nhưng cũng đã
nhanh chóng thu hút sự quan tâm nghiên cứu ở Việt Nam. các nhà kinh tế và
pháp lý nước ta đã có một số công trình tiêu biểu đề cập đến lĩnh vực này
như: Bán phá giá và biện pháp, chính sách chống bán phá giá hàng nhập khẩu
của Đoàn Văn Trường (NXB Thống Kê – 1998); Tìm hiểu pháp luật chống
bán phá giá của WTO và Hoa Kỳ của TS. Hoàng Phước Hiệp (tạp chí Luật
học, (1), 2003); Pháp luật chống bán phá giá của Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam – 2004; Tìm hiểu ảnh hưởng của pháp luật chống bán phá
giá đối với cạnh tranh của PGS.TS. Mai Hồng Quỳ và ThS. Trần Việt Dũng
(tạp chí Nhà nước và Pháp luật – (12), 2004); Tìm hiểu luật và chính sách
chống bán phá giá (anti-dumping) của Mỹ của tác giả Đỗ Tuyết Khanh đăng
trên Tạp chí Thời đại mới số 01- tháng 03/2004; Pháp luật về chống bán phá
giá trong thương mại quốc tế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn của Nguyễn
Thị Quỳnh Vân (Luận văn thạc sỹ Luật học – 2004); Pháp luật chống bán phá
giá của WTO và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam về chống bán phá
giá của Lê Như Phong (Luận văn thạc sỹ luật học – 2004); Một số vấn đề cơ
bản về pháp luật chống bán phá giá của WTO của Trần Văn Hải (Luận văn
thạc sĩ luật học - 2007); Pháp luật về chống bán phá giá thương mại quốc tế
của Nguyễn Trần Duy (Luận văn thạc sỹ luật học - 2007); Quy trình một vụ
điều tra bán phá giá của tác giả Bành Quốc Tuấn đăng trên Tạp chí Phát triển
và Hội nhập số 6 - tháng 8/2010; Pháp luật chống bán phá giá của Trung
Quốc và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam của tác giả
Hoàng Thị Phượng (Luận văn thạc sỹ luật học - 2012); Hoàn thiện pháp luật
chống bán phá giá của ThS. Kim Thị Hạnh - Trưởng phòng Công tác Đại
biểu, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh- 2013; … Các công trình trên
3
mặc dù có đóng góp to lớn vào việc nghiên cứu vấn đề bán phá giá và pháp luật
chống bán pháp giá ở nước ta, tuy nhiên, phạm vi của những nghiên cứu của
các công trình trên hoặc là còn quá hẹp, phần lớn mới chỉ dừng lại ở hình thức
các bài viết trên báo hoặc tạp chí chuyên ngành, hoặc là mới chỉ tập trung
nghiên cứu và lĩnh vực chống bán phá giá của WTO, Mỹ, EU và hàng hóa của
Việt Nam bị chống bán phá giá ở nước ngoài. Đến nay hầu như chưa có một
công trình nghiên nào cứu đầy đủ, toàn diện và công phu những khía cạnh pháp
lý cơ bản và vấn đề thực thi pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ bàn luận văn này, tác giả chỉ đề cập một số nội dung
pháp lý cơ bản, khái quát nhất của pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam.
Tuy nhiên, do pháp luật chống bán phá giá là một lĩnh vực pháp luật còn mới
mẻ, thậm chí là "xa lạ" ở Việt Nam, còn có rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
cần luận giải, vì thế, luận văn chỉ đi vào tìm hiểu tất cả các quy định chủ yếu về
chống bán phá giá trong lĩnh vực thương mại hàng hóa đối với hàng hóa được
nhập khẩu và việt Nam bị bán phá giá, mà không có tham vọng đi vào tìm hiểu
tất cả các quy định về chống bán phá giá trong lĩnh vực thương mại nói chung.
Với phạm vi nghiên cứu này thì luận văn khó có thể giải quyết thỏa đáng
được mọi khía cạnh của đề tài. Do đó, tác giả hy vọng sẽ được trở lại đề tài này
trong một công trình nghiên cứu toàn diện hơn và với một yêu cầu cao hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu: phân tích, đối
chiếu, tổng hợp, khái quát hóa, khảo sát thực tiễn và đặc biệt là phương pháp
so sánh luật học, đồng thời vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và
pháp luật và những quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới kinh tế
trong giai đoạn hội nhập hiện nay để giải quyết các vấn đề mà nhiệm vụ
nghiên cứu của đề tài đặt ra.
4
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Đề tài có mục đích và nhiệm vụ là tìm hiểu khái quát những vấn đề
lý luận cơ bản về bán phá giá, chống bán phá giá và pháp luật chống bán
phá giá, từ đó đi vào tìm hiểu những nội dung cơ bản của pháp luật chống
bán phá giá ở Việt Nam đồng thời đánh giá khái quát vấn đề thực thi pháp
luật chống bán phá giá ở nước ta trong thời gian qua và thời gian sắp tới,
qua đó luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi
lĩnh vực pháp luật này.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sỹ nghiên
cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện pháp luật chống bán phá giá
ở Việt Nam. Luận văn đã có những đóng góp sau đây:
- Phân tích, đánh giá tương đối toàn diện, đầy đủ và có hệ thống những
vấn đề lý luận cơ bản về bán phá giá, chống bán phá giá, khái niệm và vai trò
của pháp luật chống bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá của một số
nước trên thế giới.
- Xác định và luận giải được những nội dung cơ bản của pháp luật
chống bán phá giá ở Việt Nam.
- Đánh giá được thực trạng thực thi pháp luật chống bán phá giá ở Việt
Nam, từ đó đưa ra được một vài kiến nghị đối với Nhà nước và các doanh
nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi lĩnh vực pháp luật này.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn có kết cấu phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và phạm vi
nghiên cứu. Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về bán phá giá và pháp luật
chống bán phá giá.
Chương 2: Pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam.
Chương 3: Vấn đề thi hành pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam
và một vài kiến nghị.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BÁN PHÁ GIÁ
VÀ PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
1.1. Quan niệm về bán phá giá và chống bán phá giá
1.1.1. Bán phá giá
1.1.1.1. Khái niệm bán phá giá
* Dưới góc độ ngôn ngữ
Theo cách hiểu thông thường, bán phá giá là bán dưới giá thị trường.
Chẳng hạn như tại một nhà ga ai cũng bán đĩa cơm sườn với giá 5.000 đồng
bỗng nhiên có người bán với giá 3.000 đồng, thì hành động đó bị coi là bán
phá giá [16]. Theo từ điển tiếng Việt trực tuyến, phiên bản ngày 18/3/2004
của Trung tâm Từ điển học Việt Nam thì: “Bán phá giá là việc bán ồ ạt với
giá thấp hơn giá thị trường, thậm chí chịu lỗ, để tăng khả năng cạnh tranh và
chiếm đoạt thị trường” [32, tr.6]. Như vậy, giữa hai cách hiểu về bán phá giá
như trên có những nét tương đồng đó là việc bán dưới – thấp hơn giá thị
trường. Tuy nhiên, cách hiểu thứ nhất không quan tâm đến mục đích của việc
bán phá giá là gì, có nhằm mục đích chiếm đoạt thị trường hay không, vì vậy,
coi hành động đó là bán phá giá và chê trách hành động đó là chưa hẳn đã
chính xác, thậm chí là sai. Bởi lẽ, trong nền kinh tế thị trường, cứ giá nào có
người mua thì người ta có quyền bán, hơn nữa có thể hàng hóa của họ là hàng
hóa dư thừa, tồn kho, mất mốt hoặc có nhu cầu quay vòng vốn nhanh,… nên
cần phải bán dưới giá thị trường để tiêu thụ được hàng hóa. Tuy nhiên, định
nghĩa thuật ngữ bán phá giá của Từ điển tiếng Việt trực tuyến không chỉ quan
tâm đến hiện tượng bán dưới giá thị trường mà lại chú trọng đến cả mục đích
của hành động bán dưới giá thị trường đó là để tăng khả năng cạnh tranh và
chiếm đoạt thị trường. Như vậy, theo định nghĩa này, bán phá giá rõ ràng là
6
một hành vi cạnh tranh không lành mạnh và cần phải ngăn chặn, nếu muốn
duy trì sự ổn định của thị trường và môi trường kinh doanh.
Trong tiếng Anh, bán phá giá được dịch ra từ thuật ngữ “Dumping”
[18, tr.11]. Tuy nhiên thuật ngữ này có nhiều nghĩa khác nhau, chẳng hạn theo
nghĩa thông thường dumping có nghĩa là vứt bỏ thứ gì đó mà bạn không thích
(to get rid of something you do not want), còn theo nghĩa chuyên ngành
thương mại thì dumping có nghĩa là bán tống một món hàng với mức giá rất
thấp, thường là bán sang nước khác (To get rid of goods by selling them at a
very low prince, often in another country). Như vậy, theo định nghĩa huật ngữ
dumping được hiểu là bán phá giá và để xác định có hay không có hành động
bán phá giá người ta quan tâm đến mức giá bán hàng và thường là có sự so
sánh giá giữa các thị trường quốc gia khác nhau.
Trong tiếng Pháp, bán phá giá được dịch ra từ thuật ngữ “dumping
commercial” [32, tr.7]. Đây là hiện tượng thương mại khi bán hàng hóa ở thị
trường nước ngoài với mức giá thấp hơn mức hiện tại của thị trường trong
nước. Với cách hiểu này thì bán phá giá là sự phân biệt giá cả giữa thị trường
quốc gia khác nhau, theo đó nếu giá bán một món hàng X nào đó tại thị
trường trong nước cao hơn giá bán món hàng X đó tại thị trường nước ngoài
thì hành động đó bị coi là bán phá giá.
Như vậy, qua khảo cứu cách hiểu thông thường của một số ngôn ngữ
khác nhau về thuật ngữ bán phá giá, cho thấy, các cách hiểu này đều chưa phản
ánh đầy đủ, nhưng đã nói lên phần nào dấu hiệu đặc trưng của bán phá giá. Đó
là hiện tượng bán hàng thường là bán ra nước ngoài, với một mức giá rất thấp,
nhằm mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh và chiếm đoạt thị trường.
* Dưới góc độ pháp lý
Trong thương mại quốc tế, bán phá giá được hiểu là sự phân biệt giá cả
giữa các thị trường quốc gia [26, tr.10]. Với cách hiểu này thì bán phá giá có
7
thể xẩy ra các tình huống khác nhau, có thể là: người sản xuất / người xuất
khẩu bán hàng hóa của mình tại thị trường trong nước với giá thấp hơn giá
bán hàng hóa đó ở thị trường nước ngoài; hoặc người sản xuất / người xuất
khẩu bán hàng hóa của mình với mức giá khác nhau ở các thị trường nước
ngoài khác nhau. Như vậy, điểm mấu chốt của cách hiểu này là sự phân biệt
giá cả của cùng một hàng hóa ở các thị trường quốc gia khác nhau, bất luận là
cao hơn hay thấp hơn được tính ở mỗi thị trường.
Tuy nhiên, trong các tình huống có thể xẩy ra như đã phan tích ở trên,
thì thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế đã chứng minh rằng chỉ có cách
hiểu thứ hai đó là hàng hóa được bán ở thị trường trong nước với mức giá cao
hơn mức giá bán ở thị trường nước ngoài thì mới có thể gây tổn hại đối với
nước nhập khẩu, nhất là đối với các nhà sản xuất các hàng hóa tương tự ở
nước nhập khẩu. Do đó, hành động bán phá giá này mới cần phải ngăn chặn.
Với cách tiếp cận này thì bán phá giá có thể được hiểu như sau:
Bán phá giá là sự phân biệt giá cả mang tính quốc tế, trong đó giá của
một hàng hóa khi được bán tại thị trường của nước nhập khẩu với giá thấp
hơn giá trị của hàng hóa đó được bán tại thị trường của nước xuất khẩu.
Cách hiểu trên phù hợp với cách hiểu về bán phá giá của WTO. Theo
Điều 2, Hiệp định thực thi Điều VI của GATT 1994 thì: một sản phẩm bị coi
là bán phá giá (tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác
thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản
phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá
có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu
theo các điều kiện thương mại thông thường.
Theo định nghĩa trên, bán phá giá là hành động mang sản phẩm của
một nước sang bán ở một nước khác với mức GXK thấp hơn GTTT của sản
phẩm đó khi được bán ở trong nước. Thí dụ, người sản xuất vải ở Trung Quốc
8
bán vải lụa ở thị trường Trung Quốc với giá 20 USD/mét, nếu người đó xuất
khẩu vải cùng loại sang thị trường Việt Nam và bán với giá 10 USD/mét, thì
người đó đã hành dộng bán phá giá.
Như vậy, trong thương mại quốc tế, trung tâm của khái niệm bán phá
giá là có sự phân biệt về giá, khi GXK thấp hơn GTTT của sản phẩm đó ở
trong nước xuất khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế việc xác định hiện tượng bán
phá giá là một vấn đề vô cùng phức tạp.
Ở Việt Nam, thuật ngữ bán phá giá lần đầu tiên xuất hiện trong Luật
thuế nhập khẩu 1993 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1998), nhưng tại Luật
này, thuật ngữ bán phá giá chưa được định nghĩa chi tiết, phải đến pháp luyện
giá năm 2002, thuật ngữ bán phá giá mới chính thức được định nghĩa chi tiết
như sau: bán phá giá là hành vi bán hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so với
giá thông thường trên thị trường Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường, hạn chế
cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân sản xuất kinh doanh khác và lợi ích của nhà nước (Khoản 3, Điều 4).
Tuy nhiên, định nghĩa bán phá giá này chỉ đề cập đến hàng hóa, dịch vụ được
sản xuất trong nước được bán phá giá ở thị trường trong nước – phá giá nội
địa, chứ hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam bị bán phá giá thì Pháp lệnh này
không điều chỉnh. Hiện nay, vấn đề này đã chính thức được quy định tại Pháp
lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004
(PLAD), nhưng PLAD này không trực tiếp định nghĩa thế nào là bán phá giá
mà chỉ đưa ra cách xác định hàng hóa bị bán phá giá vào Việt Nam như sau:
Hàng hóa có xuất xứ từ nước hoặc vùng lãnh thổ bị coi là bán phá giá khi
nhập khẩu vào Việt Nam nếu hàng hóa đó được bán với giá thấp hơn giá
thông thường và định nghĩa về biên độ bán phá giá là: khoảng cách chênh
lệch có thể tính toán được giữa giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu vào
Việt Nam so với giá xuất khẩu hàng hóa đó vào Việt Nam.
9
Như vậy, bán phá giá theo Pháp lệnh này được hiểu là hiện tượng khi
giá xuất khẩu một hàng hóa nào đó vào Việt Nam thấp hơn giá trị thông
thường của hàng hóa đó. Nhìn chung cách hiểu này là tương đồng với cách
hiểu về bán phá giá trong thương mại quốc tế.
1.1.1.2. Bản chất của việc bán phá giá
Khái niệm bán phá giá ngày càng được hoàn thiện như đã phân tích ở
trên, tuy nhiên, vấn đề mấu chốt có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là cần phải
xác định khi nào thì hành vi bán phá giá là hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, khi nào thì hành vi đó là hành vi bình thường về mặt kinh tế cũng như
việc chống hay không chống hành vi đó sẽ gây ra những tác động như thế
nào đối với môi trường kinh doanh, lợi ích của toàn xã hội và của mỗi người
tiêu dùng. Tìm hiểu bản chất của việc bán phá giá sẽ lý giải được những vấn
đề nói trên.
* Bán phá giá là sự phân biệt giá cả mang tính quốc tế
Phân biệt giá cả mang tính quốc tể xẩy ra khi thị trường bị phân biệt là
thị trường của các nước khác nhau. Theo đó, GXK của hàng hóa thường phải
cao hơn so với giá của hàng hóa tại thị trường nội địa vì sản xuất / nhà xuất
khẩu phải chịu thêm chi phí xuất khẩu như vận chuyển đến cảng / sân bay /
nhà ga; chi phí bảo hiểm cho hàng hóa,.. Do đó, đúng ra là họ phải bán hàng
hóa tại thị trường của nước nhập khẩu cao hơn so với giá bán hàng hóa đó tại
thị trường của nước xuất khẩu. Tuy nhiên, vì theo đuổi hành vi phân biệt giá
cả mang tính quốc tế, họ đã bán hàng hóa tại thị trường của nước nhập khẩu
thấp hơn giá bán hàng hóa đó tại thị trường của nước xuất khẩu, do đó hành vi
này bị coi là bán phá giá.
Một doanh nghiệp được hưởng lợi thế thống lĩnh và độc quyền trên thị
trường nội địa có thể bán sản phẩm trong nước với mức giá rất cao. Nếu chi
phí xuất khẩu hàng hóa đó thấp hoặc là doanh nghiệp muốn thâm nhập vào
10
một thị trường mới,.. thì mức giá bán hàng hóa tại thị trường của nước nhập
khẩu do doanh nghiệp đặt ra có thể thấp hơn nhiều so với giá bán hàng hóa đó
ở thị trường trong nước. Trong trường hợp này doanh nghiệp bị coi là bán phá
giá. Bản chất của hành vi bán phá giá kể trên không phải là do doanh nghiệp
áp đặt giá thấp của nước nhập khẩu mà do doanh nghiệp đã áp đặt giá cao ở
thị trường trong nước. Do đó, nếu bán phá giá xẩy ra dưới hình thức phân biệt
giá mang tính quốc tế thì biện pháp chống bán phá giá sẽ không mang lại lợi
ích kinh tế mà trước hết là phải loại trứ mức giá cao bất hợp lý tại thị trường
nội địa. Bán phá giá hình thành do lạm dụng vị thế thống lĩnh và vị thế độc
quyền của doanh nghiệp trên thị trường nội địa chứ không phải trên thị trường
của nước nhập khẩu. Chính sức mạnh thống lĩnh và độc quyền ở thị trường
trong nước đã làm giảm lợi ích của toàn xã hội của nước xuất khẩu và ngược
lại với mức giá thấp sẽ tạo ra những tác động tích cực đến lợi ích kinh tế của
nước nhập khẩu. Bởi vậy, việc chống bán phá giá vẫn còn là một vấn đề cần
phải cân nhắc trước khi áp dụng. Cho nên, có quan điểm không ủng hộ cho
việc phá giá không làm giá ở thị trường của nước nhập khẩu thay đổi, nên
không làm ảnh hưởng đến lợi ích của nước nhập khẩu, và vì thế thì không cần
có biện pháp chống lại hành động này. Thậm chí có quan điểm cho rằng:
“nước A xuất khẩu một món hàng sang nước B mà giá bán tại nước B thì thấp
hơn giá bán tại nước A. Bán giá rẻ hơn ở nước B không phải là phá giá” [16].
Tác phẩm này dưa ra ví dụ và giải thích như sau:
Một chiếc xe ô tô làm ra ở Nhật, bán ở Nhật thì giá 40.000
USD mà chở qua Mỹ bán thì giá chỉ 20.000 USD. Nếu các bạn thấy
vô lý, thì tôi phải gióng chuông báo động các bạn coi chừng đang
rơi vào tư duy kinh tế chỉ huy, chứ không phải kinh tế thị trường…
nếu đã nói đến kinh tế thị trường, thì phải chấp nhận nguyên tắc căn
bản, đó là giá mua giá bán một món hàng chỉ tùy thuộc cung cầu mà
11
thôi. Cung cao mà cầu thấp thì giá thấp, cung thấp mà cầu cao thì
giá cao… Xét theo tinh thần kinh tế thị trường và mậu dịch tự do,
không có lý do gì để cấm một hàng không thể xuất khẩu với giá
thấp hơn giá bán trong nội địa [5].
Quan điểm thứ nhất cho rằng nếu việc bán phá giá xẩy ra với một số
lượng lớn, trong một thời gian dài thì sẽ làm giảm giá mặt hàng tương tự tại
thị trường của nước nhập khẩu. Điều này sẽ gây ra những tác động tiêu cực
đối với các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng tương tự tại thị trường nước
nhập khẩu, chủ doanh nghiệp bị giảm lợi nhuận do phải hạ giá để cạnh tranh
với mặt hàng nhập khẩu, công nhân làm việc trong doanh nghiệp có nguy cơ
bị giảm tiền công vì hàng hóa bán được với giá thấp.
Tuy nhiên, nếu giá bán của hàng hóa nhập khẩu thấp hơn giá bán của
hàng hóa nội địa tương tự thì người tiêu dùng sẽ được lợi, họ được hưởng lợi
thế về giá và được tiếp cận hàng ngoại với giá rẻ. Vì vậy, trước khi áp dụng
biện pháp chống bán phá giá cần phải cân nhắc việc áp dụng biện pháp nào sẽ
có lợi hơn đối với nền kinh tế của nước nhập khẩu. Xét dưới góc độ toàn cục,
lợi ích cuối cùng mà nước nhập khẩu cần phải bảo vệ là lợi ích của người tiêu
dùng. Và lợi ích của người tiêu dùng thì rõ ràng lớn hơn nhiều những thiệt hại
mà các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa tương tự phải gánh chịu. Do đó, nếu
muốn bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp trong nước thì việc áp dụng biện
pháp chống bán phá giá sẽ không phải là giải pháp tối ưu.
Quan điểm thứ hai cho rằng việc áp dụng các biện pháp chống bán phá
giá sẽ gây sức ép làm tăng tính cạnh tranh tại thị trường nước xuất khẩu bằng
cách xóa bỏ các hàng rào thương mại - công cụ tạo thế độc quyền cho các
doanh nghiệp xuất khẩu.
Tuy nhiên, quan điểm này cũng cần phải cân nhắc vì tăng tính cạnh
tranh tại thị trường nước xuất khẩu chưa chắc đã là điều mà nước nhập khẩu
mong muốn khi áp dụng biện pháp chống bán phá giá này.
12
Quan điểm thứ ba lại cho rằng việc bán phá giá có thể gây lãng phí
nguồn lực tại nước nhập khẩu do nươc này phải điều chỉnh giá để đạt mức giá
thấp hơn. Cho nên cần phải chống bán phá giá.
Tuy nhiên, qua điểm này chỉ đúng khi hàng nhập khẩu bị bán phá giá
trong thời gian ngắn với số lượng nhỏ, còn nếu việc bán phá giá với số lượng
lớn, trong một thời gian dài thì việc điều chỉnh nguồn lực tại nước nhập khẩu
là hoàn toàn hợp lý và không hề lãng phí.
* Bán phá giá là bán dưới hình thức chi phí làm ra món hàng đó (chi
phí sản xuất)
Trong thương mại quốc tế, bán há giá còn bao gồm cả tình huống GXK
hàng hóa thấp hơn chi phí sản xuất ra món hàng hóa đó. Bởi lẽ, đây cũng là
một hình thức phân biệt giá, vì doanh nghiệp không thể duy trì việc bán hàng
dưới chi phí sản xất ra món hàng đó nếu không bù lỗ cho phần này ằng những
phần bán hàng trên chi phí tại các thị trường khác.
Thông thường việc doanh nghiệp ban phá giá trong trường hợp này
không phải nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận mà nhằm các mục tiêu sau đây:
Độc chiếm thị trường:
Mục đích của hành vi bán phá giá này là doanh nghiệp bán hàng với giá
thấp nhằm thôn tính, độc chiếm thị trường. Sau một thời gian chịu lỗ, doanh
nghiệp sẽ loại được đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường và khi đạt được điều
này, doanh nghiệp sẽ tăng giá để thu lợi nhuận độc quyền. Trong trường hợp
này, doanh nghiệp đã hy sinh lợi nhuận ngắn hạn để tối đa hóa lợi nhuận dài
hạn. Hành vi này không chỉ gây những thiệt hại lớn cho cá doanh nghiệp sản
xuất các mặt hàng cạnh tranh của nước nhập khẩu mà thậm chí sau một thời
gian ngắn được hưởng lợi về gia thì người tiêu dùng cũng sẽ bị thiệt hại khi
doanh nghiệp đẩy giá lên cao để thu lợi nhuận độc quyền… Vì vậy, hành vi này
cần phải được ngăn chặn. Đây cũng là lý luận cổ điển của các học giả và nhà
13
lập pháp ủng hộ quan điểm áp dụng các biện pháp chống bán phá giá [22]. Tuy
nhiên, trên thực tế việc bán phá giá theo cách này khó có thể thực hiện, vì để
đạt được mục tiêu tiêu diệt đối thủ cạnh tranh đó, doanh nghiệp không những
phải loại bỏ tất cả các đối thủ cạnh tranh khác ra khỏi thị trường mà còn phải
tìm loại bỏ tất cả cách ngăn chặn sự quy trở lại của các đối thủ cạnh tranh khi
giá bị đẩy lên cao. Đây là việc làm rất khó khăn vì khi đã thôn tính được thị
trường, nước nhập khẩu có thể triệt tiêu sứ mạnh độc quyền của doanh nghiệp
bằng cách đánh thuế đối với lợi nhuận độc quyền. Thực tế cho thấy, tỷ lệ các
vụ tranh chấp thương mại liên quan đến hành vi bán phá giá nhằm loại bỏ đối
thủ cạnh tranh là rất hiếm. Tuy nhiên, lịch sử thương mại quốc tế cũng đã
chứng kiến có vụ bán phá giá theo kiểu như vậy, đó là trường hợp Nhật Bản
bán phá giá hàng tivi tại thị trường Mỹ. Vào đầu những năm 1960, sáu công
ty điện tử hàng đầu của Nhật là Hitachi, Misushita, Sanyo, Sharp, Misubishi
và Tosiba đã cạnh tranh gay gắt với nhau. Nhưng đến cuối năm 1964, các
công ty này đã thỏa thuận với nhau nhằm thống nhất nâng giá bán, quy định
sản lượng của mỗi công ty. Kết quả của việc thỏa thuận này là trong nhiều
năm, người tiêu dùng Nhật Bản phải trả 700 USD cho một chiếc tivi màu,
trong khi các công ty đó bán ở Mỹ chỉ với giá 400 USD một tivi màu cùng
loại (CPSX ra một chiếc tivi màu là 450 USD). Việc bán phá giá đó đã làm
cho các công ty sản xuất tivi của Mỹ không chịu nổi quá trình cạnh tranh và
cho đến cuối năm 1989, nhiều hãng tivi của Mỹ bị phá sản, công nghiệp sản
xuất tivi của Mỹ bị suy yếu mạnh [26, tr. 27]. Như vậy, sau một thời gian chịu
thua lỗ, các công ty của Nhật đã chiếm lĩnh được thị trường tivi tại Mỹ và khi
đạt được mục đích này, họ bắt đầu chiến lược nâng giá để thu lợi nhuận độc
quyền.
* Cạnh tranh giành thị phần
Một số doanh nghiệp xuất khẩu hàng với mức giá thấp hơn chi phí
14
biên nhằm mục tiêu chiếm được thị phần cao hơn trên thị trường của nước
nhập khẩu. Trong trường hợp này, doanh nghiệp đã bán phá giá hàng hóa.
Tuy nhiên, mục tiêu của doanh nghiệp là không định thôn tính toàn bộ thị
trường mà chỉ cố tăng thị phần của mình. Vì vậy, việc áp dụng các biện pháp
chống phá giá trong trường hợp này cũng không phải là giải pháp tối ưu. Bởi
các lý do sau đây:
- Đối với các thị trường lần đầu tiên thâm nhập, để cạnh tranh với hàng
hóa cùng loại ở trong nước, các doanh nghiệp thường sử dụng hành động này
vì hàng hóa nhập khẩu mới chưa được người tiêu dùng biết đến về mẫu mã,
bao bì, chủng loại và chất lượng,… như thế nào nên doanh nghiệp phải có các
chiêu xúc tiến thương mại như hạ giá để người tiêu dùng tiếp cận hàng hóa.
Sau một thời gian dùng thử hàng hóa, nếu người tiêu dùng chấp nhận được thì
doanh nghiệp có thể tăng giá để bù đắp phần lỗ trước đó. Hành động bán phá
giá này của doanh nghiệp sẽ tạo cơ hội cho người tiêu dùng được sử dụng
hàng hóa nhập ngoại chất lượng tốt, mẫu mã đẹp… giá lại rẻ. Cho dù sau đó,
doanh nghiệp có thể tăng giá cho đúng giá trị của hàng hóa thì cũng là quy
luật bình thường.
- Thông qua hoạt động này, doanh nghiệp có thể tiếp nhận được các
thông tin phản hồi từ phá người tiêu dùng để có kế hoạch kịp thời sửa chữa,
cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng hàng hóa và thái độ phục vụ, sao cho
đáp ứng tốt nhất nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Một khi doanh
nghiệp đáp ứng được các đòi hỏi khắt khe đó của thương trường thì chắc chắn
doanh số bán hàng của doanh nghiệp sẽ tăng mạnh trong tương lai nên hiện
tại họ sẵn sàng bán hàng với giá thấp hơn chi phí sản xuất. Trong ngắn hạn,
người tiêu dùng ở nước nhập khẩu sẽ được hưởng lợi do mua được hàng
ngoại nhưng giá lại rẻ hơn hàng nội. Trong dài hạn, khả năng này vẫn có thể
diễn ra do chi phí sản xuất vẫn luôn có xu hướng giảm vì sức ép của việc cải
15
tiến, đổi mới trang thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất đáp ứng nhu cầu cạnh
tranh. Thậm chí cac doanh nghiệp trong nước cũng được hưởng lợi từ hành
động này của các doanh nghiệp xuất khẩu vì muốn tồn tại và đứng vững trong
cuộc cạnh tranh khốc liệt đó thì họ buộc phải học hỏi các đối thủ của mình để
nâng cao năng lực cạnh tranh, còn nếu không họ sẽ bị các doanh nghiệp nước
ngài bỏ xa và có nguy cơ bị đào thải.
Thu hồi lại một phần vốn hoặc quay vòng vốn nhanh
Một số doanh nghiệp có thể xuất khẩu với mức giá thấp hơn chi phí sản
xuất nhằm mục tiêu thu hồi lại một phần vốn hặc muốn quy vòng vốn nhanh
đã bỏ vào kinh doanh. Trong trường hợp này, doanh nghiệp cũng đã bán phá
giá hàng hóa, tuy nhiên mục tiêu của doang nghiệp không phải là nhằm thôn
tính thị trường cũng như mục tiêu tăng thị phần mà đơn giản chỉ vì họ muốn
thu hồi lại một phần vốn đối với các hàng hóa dư thừa, tồn kho hoặc ế ẩm như
hàng hóa đã lỗi mốt, hết mùa,.. Các loại hàng hóa này không thể giải quyết
được theo cơ chế giá bình thường mà phải co các giải pháp thích hợp để tiêu
thụ chúng. Hoặc là, họ nhằm mục đích quay vòng vốn nhanh nên đã bán tống
bán tháo hàng hóa với giá rất thấp để thu hồi lại vốn để sản xuất mặt hàng
"ngon ăn" hơn. Việc bán phá giá hàng hóa với mục tiêu như vậy, rõ ràng
không gây thiệt hại đến lợi ích của nước nhập khẩu, biện pháp tốt nhất là hãy
tận dụng số hàng hóa ngoại bán với giá rất rẻ này.
Tóm lại, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng bán phá giá như
đã phân tích ở trên, nhưng không phải mọi trường hợp phá giá đều là hành vi
thương mại tiêu cực, đều có thể áp dụng biện pháp ngăn cản. Bởi lẽ, nếu mọi
trường hợp đều gán cho cái mác là "bán phá giá" và áp dụng các biện pháp
ngăn cản thì sẽ tạo ra sự bảo hộ không cần thiết cho các doanh nghiệp sản
xuất trong nước, làm giảm lợi ích của người tiêu dùng và toàn xã hội. Chính
vì vậy, khi có hiện tượng bán phá giá xẩy ra cần phải điều tra chính xác
16
nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đó để có cách ứng phó kịp thời và chỉ nên áp
dụng các biện pháp chống bán phá giá khi hảnh động bán phá giá là các hành
vi thương mại không công bằng, bóp méo hành động thương mại bình
thường, gây thiệt hại cho nước nhập khẩu nói chung, các doanh nghiệp trong
nước và người tiêu dùng nói riêng.
1.1.2. Chống bán phá giá
1.1.2.1. Khái niệm chống bán phá giá
Trong thương mại quốc tế mà trước hết là trong hệ thống pháp luật
chống bán phá giá của các nước trên thế giới, hiện nay chưa có một định
nghĩa trực tiếp nào là chống bán phá giá. Các quy định của GATT trước kia và
WTO hiện nay chỉ nêu ra các biện pháp mà các quốc gia thành viên có thể sử
dụng để chống lại việc xuất khẩu phá giá vào thị trường nội địa đối với những
hành vi thương mại tiêu cực, không công bằng, gây thiệt hại đến lợi ích của
nước nhập khẩu. Chống bán phá giá, trong một chừng mực nhất định, đây là
hệ quả logic suy ra từ khái niệm bán phá giá như là một sợ phân biệt đối xử
về giá cả do các nhà sản xuất / xuất khẩu riêng rẽ tiến hành [15]. Tuy nhiên,
nhận thức được nguy cơ của việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá
nhằm mục đích bảo hộ, sau đó GATT tiếp tục quy định chi tiết, chính xác
những tình huống mà theo đó các biện pháp này có thể được áp dụng. Có thể
nói nguyên tắc của GATT là các biện pháp chống bán phá giá sẽ chỉ có hiệu
lực cho tới khi và trong phạm vi cần thiết nhằm để chống lại hành động bán
phá giá gây tổn hại. Trước thực tế nhiều nước lạm dụng quyền này đã gây
thiệt hại cho các nước xuất khẩu, các quy tắc quốc tế nói chung và các quy tắc
của WTO đã luôn luôn tập trung nhiều vào các tác động cản trở thương mại
của hành động bán phá giá. Cho nên dù không ngăn cấm việc bán phá giá
nhưng GATT trước kia và WTO hiện nay cho phép nước nhập khẩu được
quyền áp dụng một số biện pháp để chống lại hành động bán phá giá. Vì vậy,
ở mức độ khái quát có thể định nghĩa khái niệm chống bán phá giá như sau:
17
Chống bán phá giá là tổng thể các biện pháp mà nước nhập khẩu được
quyền tiến hành nhằm chống lại mọi tổ chức, cá nhân có hành động bán phá
giá hàng hóa nhập khẩu vào nước của họ với mục đích duy trì một nền
thương mại công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các doanh
nghiệp sản xuất các mặt hàng cạnh tranh trong nước và người tiêu dùng.
1.1.2.2. Các biện pháp chống bán phá giá
Như đã phân tích trong mục 1.1.1.2, không phải mọi hành động bán
phá giá đều cần phải áp dụng các biện pháp chống lại mà chỉ áp dụng các biện
pháp chống bán phá giá đối với các hành vi cạnh tranh tiêu cực, không công
bằng, bóp méo hoạt động thương mại bình thường, gây ra các tổn hại đến lợi
ích của nước nhập khẩu. Vậy đó là các biện pháp nào? Theo định nghĩa về
chống bán phá giá đã xây dựng ở trên thì đó là tổng thể các biện pháp mà
nước nhập khẩu được quyền tiến hành. Hiện nay, hiệp định chống bán phá giá
của WTO, cũng như pháp luật về chống bán phá giá của Mỹ, EU, Nhật Bản
và các nước ASEAN,.. đã và đang chủ yếu sử dụng các biện pháp chống bán
phá giá sau đây:
Thứ nhất, áp dụng biện pháp tạm thời:
Biện pháp tạm thời là biện pháp do cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối
với hàng hóa bị điều tra nhập khẩu và nước nhấp khẩu trước khi có quyết định
cuối cùng về biện pháp chống bán phá giá với mục đích chủ yếu là để ngăn
chặn thiệt hại tiếp tục xẩy ra trong quá trình điều tra.
Thứ hai, cam kết về giá:
Cam kết về giá là việc nhà sản xuất, xuất khẩu cam kết sử đổi mức giá
(tăng giá lên) hoặc cam kết ngừng xuất khẩu phá giá hàng hóa. Cam kết là
một thỏa thuận tự nguyện giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu và nước nhập
khẩu. Cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu sẽ chấp nhận cam kết về
giá do các nhà xuất khẩu đưa ra nếu thấy rằng cam kết đó đủ để loại bỏ các
thiệt hại do việc bán phá giá gây ra.
18
Thứ ba, thuế chống bán phá giá:
Thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung bên cạnh thuế nhập
khẩu thông thường, do cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu ban hành
nhằm mục đích chống lại việc bán phá giá và loại bỏ những thiệt hại do hành
vi nhập khẩu bán phá giá gây ra.
Theo pháp luật của các nước, trong quá trình điều tra chống bán phá giá
bên cạnh biện pháp tạm thời, hoặc sau khi cam kết về giá không đạt được mục
đích, thì có thể áp dụng thuế chống bán phá giá. Thông thường, thuế chống
bán phá giá chỉ được áp dụng khi có các điều kiện: (i) có bán phá giá; (ii) có
tổn hại do bán phá giá gây ra; (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa hành động
bán phá giá và tổn hại thực tế.
Các biện pháp chống bán phá giá trên đây, tác giả sẽ phân tích kỹ hơn
trong chương 2 khi so sánh với quy định về áp dụng các biện pháp chống bán
phá giá theo pháp luật Việt Nam.
1.1.2.3. Ảnh hưởng của chống bán phá giá đối với tự do thương mại
Thứ nhất, đối với thương mại quốc tế:
Khi xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ thì các biện pháp chống
bán phá giá lại càng được sử dụng thường xuyên, phổ biến hơn. Một nền kinh
tế mức độ mở cửa bao nhiêu thì sự phụ thuộc của nó vào cac biện pháp chống
cạnh tranh không lành mạnh nói chung và chống bán phá giá nói riêng càng
tăng lên bấy nhiêu.
Trên phương diện toàn cầu, khi mà các hàng rào thuế quan được cắt
giảm thì các hàng rào phi thuế quan sẽ tăng lên. Trong một thể chế thương
mại đa biên tự do hơn, các nước ngày càng phải dùng nhiều hơn các biện
pháp mà họ được phép sử dụng (các biện pháp khắc phục cạnh tranh không
lành mạnh) nhằm duy trì một nền thương mại công bằng. Trong khi việc sử
dụng các biện pháp chống bán phá giá trong những năm vừa qua đã có những
19
ảnh hưởng rõ ràng tới khối lượng giao dịch thương mại, dưới hình thức là
những biện pháp tự vệ được phép sau khi chứng minh được việc bán phá giá
và tổn hại đi kèm. Tuy nhiên có một sự thật là hầu hết nền thương mại quốc tế
nói chung vẫn không bị ảnh hưởng nhiều. Ví dụ như, chính bản thân hệ thống
các biện pháp chống bán phá giá cũng làm hạn chế khả năng áp dụng chúng
bởi vì: (i) thứ nhất, các thủ tục chống bán phá giá đang được tiến hành chủ
yếu là những cuộc điều tra chiến lược giá của các nhà sản xuất riêng lẽ trên
hai thị trường hoặc nhiều hơn; (ii) thứ hai, các cơ quan thi hành luật pháp phải
tuân thủ chặt chẽ các quy định pháp lý của cả trong nước và quốc tế.
Tuy nhiên, nếu xét trong từng trường hợp cụ thể, việc chống bán phá
giá lại có thể dẫn tới rất nhiều hậu quả suy giảm cạnh tranh khác nhau trong
đó có việc đánh thuế quan lên các hàng nhập khẩu, các cam kết tăng giá, thay
thế những hạn chế hiện hành hoặc là chúng đóng vai trò như là một rào cản
mới đối với thương mại. Tác động tiêu cực này còn lớn hơn rất nhiều so với
khối lương thương mại thực sự liên quan. Thậm chí sự khởi xướng một cuộc
điều tra về chống bán phá giá có thể gây ra một tác động ngay lập tức đối với
các luồng thương mại vì nó sẽ thúc đẩy các nhà nhập khẩu tìm kiếm các
nguồn cung cấp thay thế.
Thứ hai, đối với các quốc gia đang phát triển:
Hiện nay, nhiều nước đang phát triển đã ban hành các văn bản pháp
luật về chống bán phá giá. Các nước đang phát triển coi các khoản thuế
chống bán phá giá như là một công cụ để bù đắp cho việc tự do hóa về thuế
quan và loại bỏ dần những hạn chế định lượng cũng như các biện pháp phi
thuế quan khác. Do đó, họ ngày càng hy vọng nhiều vào những lợi ích của
chống bán phá giá.
Về khía cạnh này, các nước đang phát triển đã làm theo mô hình của
các nước công nghiệp phát triển, các nước này trước kia cũng đã phải cầu
20
viện đến các biện pháp chống bán phá giá khi nhận thấy sự giảm xuống của
thuế quan và các hạn chế định lượng của nước mình. Thêm vào đó, ở những
nước đã nâng cao chế độ ngoại hối của mình thì chống bán phá giá là một
cách để giảm bớt sự cạnh tranh của nước ngoài trong những ngành kinh tế
cũng như là để giảm những khoản thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai do
những biến đổi đột ngột từ bên ngoài gây ra. Đây có thể nói là một ảnh hưởng
tích cực của việc chống bán phá giá tới các nước đang phát triển. Tuy nhiên,
có một sự thật là cùng với việc các nước đang phát triển áp dụng các biện
pháp chống bán phá giá thì hầu hết các biện pháp này lại được nhiều nước
phát triển nhằm chống lại chính các nước đan phát triển [10]. Điều này cũng
dễ hiểu vì phần lớn các sản phẩm bán với giá rẻ là từ các nước đang phát
triển. Các doanh nghiệp nhỏ, nhất là các doanh nghiệp mới tham gia thị
trường nên họ thường bắt buộc phải giữ giá ở mức thấp để có thể thâm nhập
thị trường từ các nước đang phát triển đặc biệt dễ bị các biện pháp chống bán
phá giá gây tổn hại. Điều này được giải thích bởi: (i) trước hết, là những
doanh nghiệp mới tham gia thị trường nên họ thường bắt buộc phải giữ giá ở
mức thấp để có thể thâm nhập thị trường và do đó khiến cho họ lâm vào tình
thế bị gán cái mác là phá giá. Mặc dù trên thực tế có những lý do kinh tế xác
đáng khiến cho GCK có thể thấp hơn GTTT. Tuy nhiên, cơ quan điều tra có
thẩm quyền của nước nhập khẩu không điều tra nguyên nhân của việc bán phá
giá. Họ chỉ điều tra là có hay không hành động bán phá giá. Và nếu việc bán
phá giá gây tổn hại cho ngành công nghiệp trong nước thì họ sẽ có quyền áp
dụng các biện pháp chống bán phá giá. Và nếu việc bán phá giá gây tổn hại
cho ngành công nghiệp trong nước thì họ sẽ có quyền áp dụng các biện pháp
chống bán phá giá; (ii) thứ hai, vì những doanh nghiệp ở các nước đang phát
triển ít có khả năng để đối phó lại với các trường hợp bị kiện là phá giá hoặc
là làm giảm những tác động về mặt kinh tế do các biện pháp chống bán phá
21
giá gây ra và (iii) cuối cùng, các doanh nghiệp thường phải chịu những ảnh
hưởng mạnh do quá trình điều tra. Khoản thuế thật sự đánh vào hàng nhập
khẩu được bán phá giá thông thường chỉ được xác định sau khi giai đoạn cuối
của quá trình điều tra kết thúc và điều này có thể dẫn tới sự phá sản của những
doanh nghiệp là đối tượng của các cuộc điều tra chống bán phá giá.
Tóm lại, các biện pháp chống bán phá giá thường gây ra những tác
động tiêu cực tới các nước đang phát triển nhiều hơn là các nước phát triển.
Thứ ba, đối với sản xuất, người tiêu dùng:
Bán phá giá có thể gây thiệt hại cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự
ở nước nhập khẩu. Tuy nhiên có một thực tế là người tiêu dùng hay ngành
công nghiệp sử dụng sản phẩm được bán phá giá thì dường như lại được lợi từ
hành động bán phá giá đó. Thông thường, một cuộc điều tra chống bán phá
giá bao giờ cũng liên quan đến quyền lợi của các bên: quyền lợi của ngành
sản xuất sản phẩm tương tự, quyền lợi của ngành sử dụng sản phẩm đó, quyền
lợi của người tiêu dùng và quyền lợi của người xuất khẩu. Vậy phải giải quyết
mối liên hệ giữa các quyền lợi này như thế nào.
Mục đích của các biện pháp chống bán phá giá là để ngăn chặn hiện
tượng cạnh tranh không lành mạnh. Có thể nói rằng khi một nước áp dụng
thuế chống bán phá giá lên một sản phẩm nhập khẩu nào đó thì chi phí của
ngành sản xuất trong nước sử dụng sản phẩm đó làm đầu vào sẽ tăng lên,
nhưng đây là một khoản tăng lên hợp lý vì: (i) nếu có hiện tượng bán phá giá
thì việc này sẽ gây tổn hại cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự trong nước;
(ii) nếu với hàng hóa đầu vào rẻ một cách vô lý, các doanh nghiệp có thể tiến
hành mở rộng quy mô sản xuất. Tuy nhiên, vấn đề sẽ nảy sinh ra nước xuất
khẩu ngừng việc cung cấp hàng phá giá. Các cơ sở vật chất được mở rộng trở
nên sai chức năng và biểu hiện sự phân bổ lệch lạc các nguồn lực do tín hiệu
sai từ hệ thống giá cả. Mục đích chủ yếu của các cơ quan chức năng của nước
22
nhập khẩu là bảo vệ ngành sản xuất trong nước sản xuất sản phẩm tương tự.
Có thể họ cũng lắng nghe ý kiến của những bên khác. Nhưng việc áp dụng
thuế chống bán phá giá có thể gây tác động lên khả năng cạnh tranh tương đối
của bất kỳ một ngành sản xuất nào khác nằm ngoài phạm vi của các cuộc điều
tra của họ. Xét trên khía cạnh tiêu dùng thì việc người tiêu dùng ở nước nhập
khẩu mua được hàng hóa với giá thấp có lẽ có thể coi là lợi ích duy nhất mà
hoạt động phá giá mang lại cho nước nhập khẩu. Tuy nhiên, lợi ích này lại
chính là việc dẫn đến các thiệt hại đối với các ngành sản xuất sản phẩm tương
tự ở nước nhập khẩu.
1.2. Pháp luật chống bán phá giá
1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật chống bán phá giá
Khi có hiện tượng bán phá giá xảy ra, chống hay không chống hiện
tượng đó và nếu chống thì chống đến mức độ nào, điều này hoàn toàn phụ
thuộc vào thái độ của mỗi nhà nước đối với mỗi trường hợp cụ thể. Nhận thức
rõ được tầm quan trọng của vấn đề này và đề việc chống bán phá giá được
diễn ra đúng theo quy định của pháp luật nên các quốc gia đã ban hành các
văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình áp dụng
các biện pháp chống bán phá giá. Tổng hợp các văn bản pháp luật đó tạo
thành hệ thống pháp luật chống bán phá giá. Nói cách khác, pháp luật chống
bán phá giá là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình áp dụng
các biện pháp chống bán phá giá từ việc xác định hàng hóa bị bán phá giá,
điều kiện và nguyên tắc áp dụng biện pháp chống bán phá giá, các biện pháp
chống bán phá giá cho đến các thủ tục điều tra để áp dụng biện pháp chống
bán phá giá và các quan hệ xã hội khác có liên quan đến việc áp dụng các
biện pháp chống bán phá giá.
Pháp luật chống bán phá giá là một bộ phận cấu thành của hệ thống
23
pháp luật thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc chống lại hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa cạnh trong
trong nước, bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng, góp phần chống lại
sản phẩm nhập khẩu với giá rẻ, đồng thời còn là một vũ khí tự vệ, trấn an các
nhà sản xuất trong nước.
Trước hết, pháp luật chống bán phá giá là công cụ chống lại hành vi
cạnh tranh không lành mạnh nhằm duy trì một nền thương mại công bằng
bình đẳng.
Cạnh tranh là quy luật tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Trong điều
kiện nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau để
chiếm lĩnh thị trường, khách hàng nhằm thu được lợi nhuận cao nhất, mà lợi
nhuận lại chính là mục tiêu, là động lực và là phương tiện tồn tại của họ. Mục
đích tối đa hóa lợi nhuận đã tạo ra sức ép buộc họ phải sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực của mình như vốn, nhân công, công nghệ,… Cũng chính mục
đích này đã khuyến khích, thúc đẩy họ phải nghiên cứu và áp dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật, công nghệ mới nhằm giảm thiểu được tối đa các chi phí
sản xuất và giá thành sản phẩm để có thể đưa các sản phẩm của họ ra thị
trường một cách nhanh nhất, rẻ nhất, đẹp nhất và tốt nhất cũng như đáp ứng
được đầy đủ nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Như vậy, dưới tác động
của quy luật cạnh tranh cho phép nhà sản xuất có được những nguyên liệu,
nhân công đầu vào đáp ứng đúng yêu cầu của sản xuất với giá cạnh tranh và
hợp lý; có được những trang thiết bị, công nghệ tiên tiến; người tiêu dùng
được hưởng những sản phẩm tốt nhất với giá thấp rẻ nhất qua đó nâng cao đời
sống của mình và qua đó nền sản xuất trong xã hội được phân bổ nguồn lực
một cách hiệu quả. Dưới góc độ kinh tế này, rõ ràng bán phá giá không phải
bao giờ cũng gây ra những tác động tiêu cực và cần phải ngăn cấm, nhưng
WTO lại cho phép các quốc gia ngăn cấm điều này vì cho rằng bán phá giá là
24
một hành động cạnh tranh không lành mạnh, bóp méo hoạt động thương mại
bình thường, gây tổn hại cho ngành sản xuất trong nước và xâm hại đến lợi
ích chính đáng của người tiêu dùng. Vì vậy, hầu hết các quốc gia đều ban
hành pháp luật chống bán phá giá nhằm mục đích duy trì và bảo vệ một nền
thương mại công bằng và bình đẳng.
Thứ hai, pháp luật chống bán phá giá góp phần bảo vệ ngành sản xuất
hàng hóa cạnh tranh ở trong nước.
Các sản phẩm nhập khẩu được bán phá giá có thể gây thiệt hại nghiêm
trọng, thậm chí có thể bóp chết ngành sản xuất các sản phẩm cạnh tranh ở
trong nước, do đó tiến hành việc chống bán phá giá là một biện pháp quan
trọng để bảo vệ nền sản xuất trong nước. Trước đây chỉ có rất ít quốc gia sử
dụng luật chống bán phá giá, đó là Mỹ và EU. Tuy nhiên, kể từ cuối những
năm 1980, rất nhiều nước mà đặc biệt là các nước đang phát triển ở châu á và
châu Mỹ Latinh đã tăng cường ban hành và sử dụng luật chống bán phá giá
của mình. Trước đó các nước này thường dùng thuế quan cao để bảo vệ sản
xuất trong nước, chống lại việc bán phá giá. Tuy nhiên, những cuộc đàm phán
của vòng Urugoay đã dẫn đến việc giảm mạnh các mức thuế quan, do đó một
số nước bắt đầu quay sang sử dụng luật thuế chống bán phá giá để bảo vệ sản
xuất trong nước. Hơn nữa, các nhân tố kinh tế, ví dụ như các cuộc khủng
hoảng kinh tế trong khu vực và sự cạnh tranh kinh tế mạnh mẽ đã khiến cho
các nước tăng cường áp dụng các biện pháp chống bán phá giá để bảo vệ
quyền lợi của mình.
Thứ ba, pháp luật chống bán phá giá góp phần bảo vệ lợi ích chính
đáng của người tiêu dùng.
Mục đích của việc ban hành pháp luật chống bán phá giá và áp dụng
các biện pháp chống bán phá giá không chỉ nhằm chống lại sự cạnh tranh
không lành mạnh, bảo vệ lợi ích của các ngành sản xuất hàng hóa cạnh tranh
25
trong nước mà còn nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
người tiêu dùng khi có hiện tượng bán phá giá xảy ra. Bởi lẽ, nếu mục đích
của hành động bán phá giá là nhằm thôn tính và chiếm đoạt thị trường thì
trong ngắn hạn, người tiêu dùng sẽ được lợi vì mua được hàng hóa nhập ngoại
với giá rẻ. Tuy nhiên, sau khi "nuốt chửng" các đối thủ cạnh tranh, doanh
nghiệp bán phá giá sẽ tăng giá để thu lợi nhuận độc quyền. Trong bối cảnh đó,
nếu không có pháp luật chống bán phá giá để kịp thời ngăn chặn hành động
bán phá giá đang diễn ra bằng việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá
thì người tiêu dùng sẽ là người chịu thiệt hại lớn nhất. Điều này sẽ làm giảm
lợi ích của toàn bộ xã hội của nước nhập khẩu.
Thứ tư, pháp luật chống bán phá giá còn là một vũ khí tự vệ, trấn an các
nhà sản xuất hàng hóa cạnh tranh trong nước.
Dưới góc độ pháp lý, bán phá giá bị coi là một trong những hình thức
cạnh tranh không lành mạnh. Để bảo vệ các ngành sản xuất hàng hóa cạnh
tranh trong nước, các quốc gia có quyền áp dụng các biện pháp chống lại
hành động bán phá giá nhằm tạo lập và duy trì thế cân bằng trong cạnh tranh.
Các biện pháp chống bán phá giá như vậy nhằm tài lập một sân chơi bình
đẳng trong cạnh tranh, đúng với tư duy của chủ nghĩa tự do kinh tế, nhưng rõ
ràng đây là một công cụ bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa cạnh tranh trong
nước như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp chống
bán phá giá thì lại dường như đi ngược lại với tự do hóa thương mại vì các
biện pháp chống bán phá giá cũng là một loại van an toàn cho chính sách tự
do mậu dịch. Càng mở rộng cửa cho bên ngoài vào bao nhiêu thì càng phải
nằm chắc cái vòi khóa để đóng van (đóng cửa) ngay lại được nếu cần bấy
nhiêu. Càng chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế bao nhiêu thì càng phải có
những thứ vũ khí tự vệ để phòng thủ và trước mắt là để trấn an các ngành sản
xuất hàng hóa cạnh tranh bấy nhiêu, Cái vòi khóa để đóng van và vũ khí tự vệ
để phòng thủ và trấn an đó chính là pháp luật chống bán phá giá.
26
Với vai trò rất quan trọng như đã phân tích ở trên, cho đến tháng 10
năm 2002, trên thế giới đã có 85 quốc gia ban hành văn bản pháp luật chống
bán phá giá dưới cấp độ khác nhau như luật, pháp lệnh, nghị định hoặc thông
tư liên tịch [33, tr.8, 9]. Tuy nhiên, do bị chi phối bởi các điều kiện về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội cũng như quan điểm và kỹ thuật lập pháp nên có
quốc gia ban hành các quy phạm pháp luật chống bán phá giá trong một văn
bản pháp luật riêng nhưng cũng có quốc gia ban hành các quy phạm về chống
bán pháp giá vào trong Luật cạnh tranh hoặc Luật thuế hoặc Luật hải quan.
Điều đó cho thấy rằng pháp luật chống bán phá giá là một bộ phận rất quan
trọng của hệ thống pháp luật thương mại, có liên quan mật thiết tới lĩnh vực
pháp luật cạnh tranh, pháp luật thuế.
Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả chưa có điều kiện đi sâu vào
phân tích và tìm hiểu các điều kiện chi phối cũng như quan điểm, kỹ thuật lập
pháp trong việc xây dựng pháp luật chống bán phá giá của các quốc gia đó mà
tiếp đến tác giả chỉ đi vào tìm hiểu một số nội dung cơ bản của Hiệp định
chống bán phá giá WTO và pháp luật chống bán phá giá của một nước trên
thế giới để làm cơ sở cho việc so sánh, đối chiếu với các nội dung cơ bản của
pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam.
1.2.2. Hiệp định chống bán phá giá của WTO và pháp luật chống
bán phá giá của một nước trên thế giới
1.2.2.1. Hiệp định chống bán phá giá của WTO
Nhận thức được tầm quan trọng của việc chống bán phá giá, năm 1995,
WTO đã ban hành Hiệp định thực thi Điều VI của GATT 1994 về chống bán
phá giá (thường gọi là hiệp định chống bán phá giá của WTO – Anti-dumping
Agreement – (ADA)). ADA gồm 3 phần, được chia thành 18 điều, với 4
nhóm vấn đề chính sau [34]:
- Các quy định về nội dung, bao gồm các điều khoản chi tiết về cách
27
thức, tiêu chí xác định việc bán phá giá, thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa
việc bán phá giá và thiệt hại;
- Các quy định về thủ tục, bao gồm các điều khoản liên quan đến điều
tra, áp đặt thuế chống bán phá giá như thời hạn điều tra, nội dung đơn kiện,
thông báo, quyền tố tụng của các bên liên quan, trình tự áp dụng các biện
pháp tạm thời, quyền khiếu nại,…;
- Các quy định về thẩm quyền của Ủy ban về thực tiễn chống bán phá
giá (Committee on Anti-dumping Practices), bao gồm các quy định về thành
viên, chức năng và hoạt động của Ủy ban trong quá trình điều hành các biện
pháp chống bán phá giá thực hiện tại quốc gia thành viên;
- Các quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia liên
quan đến biện pháp chống bán phá giá, bao gồm các quy tắc áp dụng cho việc
giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia thành viên WTO liên quan đến biện
pháp chống bán phá giá của một quốc gia thành viên.
Quá trình nghiên cứu các quy định trên của ADA, cho thấy, dường
như định nghĩa về bán phá giá của ADA không chú ý nhiều tới khía cạnh
kinh tế mà chủ yếu nhấn mạnh dến khía cạnh pháp lý của nó, có thể nói định
nghĩa về bán phá giá của ADA là một định nghĩa mang tính pháp lý để các
quốc gia có thể dựa vào đó để chống lại một hiện tượng cạnh tranh không
lành mạnh trong kinh tế đang phổ biến hiện nay là bán phá giá, đồng thời
ngăn ngừa sự lạm dụng biện pháp này như là một trở ngại phi thuế mới trong
thương mại quốc tế.
Có thể nói một ưu điểm của ADA so với các quy định trước đây của
GATT là đưa ra được các quy tắc cụ thẻ hơn để tính toán mức phá giá, nêu rõ
các thủ tục chi tiết, cụ thể cần phải tiến hành để thực hiện các cuộc điều tra.
Đồng thời nó có các tiêu chuẩn cụ thể để các Ủy ban giải quyết tranh chấp có
thể áp dụng trong các vụ tranh chấp về chống bán phá giá.
28
Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm trên thì những quy định của ADA cũng
còn có một số điểm hạn chế như sau: (i) Trước hết, một số quy định còn chưa
rõ ràng, chưa đầy đủ, là nguồn gốc cho những sư tranh chấp sau này, ví dụ
như vấn đề so sánh giữa sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm tiêu thụ trong nước,
quy định về sản phẩm tương tự; (ii) Các nước không phải là thành viên của
WTO không có quyền lực trực tiếp khai thác những cái được của những quy
định còn thiếu rõ ràng và chưa đầy đủ đó; (iii) Trình tự tiến hành điều tra quá
phức tạp, gây nhiều tốn kém nguồn lực cả cho cơ quan điều tra và đối tượng
bị điều tra, bị áp dụng các biện pháp này chống bán phá giá, nói chung đe dọa
quyền lợi của các nước có trình độ phát triển tương đối thấp và (iv) ADA còn
chưa rõ ràng trong việc quy định về những vụ việc liên quan đến các đối tác
có liên hệ, trước hết là các công ty xuyên quốc gia.
Mặc dù còn có một số hạn chế như trên, nhưng các quy định của ADA
chính là cơ sở pháp lý quan trọng để các nước thành viên của WTO tuân thủ
khi thực thi và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá để kiểm soát điều tra
và áp dụng thuế chống bán phá giá tại nước mình, đồng thời để kịp thời cung
cấp các thông tin cần thiết cho các nước thành viên. Kể từ khi ADA ra đời
đến thời điểm cuối năm 2003, trên thé giới đã có 2.419 cuộc điều tra về chống
bán phá giá, trong đó năm 1995 là 157 vụ, năm 1996 là 224 vụ. năm 1997 là
243 vụ, năm 1998; là 256 vụ, năm 1999 là 355 vụ, năm 2000 là 294 vụ, năm
2001 là 366 vụ, năm 2002 là 311 vụ, năm 2003 là 210 vụ [18, tr.55].
1.2.2.2. Pháp luật chống bán phá giá của một nước trên thế giới
* Pháp luật chống bán phá giá của Mỹ
Pháp luật chống bán phá giá của Mỹ đã có lịch sử phát triển hàng trăm
năm, việc chống bán phá giá đã được đề cập ngay từ trước năm 1890 và chống
bán phá giá được luật hóa trong luật về thuế năm 1913 ở một điều khoản về
đánh thuế chống bán phá giá đối với các hàng hóa nhập khẩu phá giá và đạo
29
luật chống bán phá giá đầu tiên của Mỹ được ban hành vào năm 1916. Hiện
nay, các vấn đề về chống bán phá giá được quy định trong các văn bản sau:
Luật chống bán phá giá 1916; Luật thuế quan 1930; Các phần 1671 – 1677n,
Mục 19 Bộ luật Hoa Kỳ; Các phần 315.101 – 702 Mục 19 Bộ luật Quy định
Hoa Kỳ; Các phần 207.1-120 Mục 19 Bộ luật Quy định Hoa Kỳ [19].
Đây là một hệ thống luật chặt chẽ, đầy đủ, đồng thời Mỹ cũng thường
xuyên sửa đổi quy định của mình cho phù hợp với những quy định của quốc
tế. Vì thế, những quy định về chống bán phá giá của Mỹ đã trở thành cơ sở để
nhiều nước tham khảo xây dựng luật chống bán phá giá của mình. Mặc dù các
quy định của WTO về vấn đề này là tương đối chi tiết và các nước vẫn có khá
nhiều tự do trong việc áp dụng luật chống bán phá giá của mình nhưng hầu
hết các nước đi theo những quy trình thủ tục giống như Mỹ. Do có đạo luật
chống bán phá giá đầy đủ nên khi tiến hành các cuộc điều tra chống bán phá
giá; Mỹ thường dựa và luật của nước mình. Mỹ là nước có nhiều cuộc điều tra
chống bán phá giá nhất trên thế giới, từ năm 1995 đến cuối năm 2003, Mỹ đã
tiến hành 329 vụ điều tra chống bán phá giá, trong đó có 205 vụ dẫn tới việc
đánh thuế chống bán phá giá [15]. Mười nước đầu bảng trong các vụ kiện bán
phá giá từ năm 1980 – 2000 là Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, CHLB
Đức, Đài Loan, Brazil, Italia, Canada, Pháp, Vương quốc Anh [12, tr.28]. Sau
khi cơ quan điều tra của Mỹ đưa ra quyết định về các biện pháp chống bán
phá giá, nếu các nhà xuất khẩu nước ngoài (bị đơn) không đồng tình với quyết
định đó thì họ có thể kiện ra WTO.
Thông thường, quy trình điều tra chống bán phá giá tại Mỹ được tiến
hành theo các bước sau [19]:
Bước 1: Được bắt đầu khi một hay nhiều nhà sản xuất, một hiệp hội
thương mại, hoặc một tổ chức công đoàn của Mỹ đại diện cho ngành sản xuất
trong nước nộp đơn khiếu nại cho DOC và ITC. Đơn khiếu nại phải dẫn ra
30
rằng đang tồn tại việc bán sản phẩm với giá thấp hơn giá trị "hợp lý" (fair
value), và việc bán này gây ra tổn hại cho ngành kinh tế trong nước. Mặc dù
DOC cũng có thể tự mình mở một cuộc điều tra mà không có yêu cầu của
ngành sản xuất trong nước, nhưng việc này rất hiếm khi xảy ra.
Bước 2: Trong vòng 20 ngày sau khi nộp đơn khiếu nại, DOC phải
quyết định liệu có bắt đầu tiến hành điều tra hay không dựa trên sự đầy đủ của
đơn người khiếu nại có đủ điều kiện để đại diện cho ngành kinh tế của Mỹ
hay không. Giống như yêu cầu của WTO và EC, sản lượng của người khiếu
nại phải chiếm ít nhất 25% tổng sản lượng của ngành kinh tế đó và chiếm ít
nhất 50% sản lượng của những thành viên trong ngành công nghiệp đó, những
người đã bày tỏ ý kiến hoặc ủng hộ, hoặc phản đối khiếu nại.
Bước 3: Quá trình điều tra sơ bộ
- Thứ nhất, ITC tiến hành điều tra sơ bộ về thiệt hại nếu: (i) kết luận sơ
bộ khẳng định (kết luận khẳng định) có thiệt hại cho ngành công nghiệp trong
nước hoặc đe dọa tổn hại vật chất do hàng nhập khẩu gây ra (họ thường kiểm
tra tổng tác động lên ngành công nghiệp trong nước của hàng nhập khẩu từ tất
cả các nguồn); quá trình điều tra tiếp tục; còn nếu; (ii) kết luận sơ bộ là không
có thiệt hại hoặc lượng hàng hóa nhập khẩu có liên quan là không đáng kể
(kết luận phủ định); chấm dứt điều tra (kết luận sơ bộ của ITC phải được đưa
ra trước khi DOC có kết luận sơ bộ).
- Thứ hai, DOC tiến hành điều tra sơ bộ về bán phá giá nêu: (i) Kết
luận sơ bộ khẳng định có việc bán phá giá (kết luận khẳng định); DOC sẽ ban
hành quyết định áp dụng biện pháp tạm thời; nếu còn; (ii) kết luận sơ bộ là
không có việc bán phá giá (kết luận phủ định); quá trình điều tra vẫn được
tiếp tục nhưng DOC không được áp dụng biện pháp tạm thời.
Bước 4: Quá trình điều tra
- Thứ nhất, DOC điều tra lần cuối cùng về việc bán phá giá (kết luận
của DOC phải đưa ra trước khi ITC đưa ra kết luận cuối cùng);
31
- Thứ hai, ITC điều tra lần cuối cùng về thiệt hại;
- Nếu DOC hoặc ITC có kết luận không đồng ý với bên khởi kiện thì
chấm dứt điều tra. Còn nếu cả DOC và ITC có kết luận khẳng định thì DOC
ra quyết định chính thức áp dụng biện pháp chống bán phá giá.
Bước 5: Các thủ tục rà soát lại
- Rà soát hành chính: do DOC tiến hành theo yêu cầu của một hoặc các
bên có liên quan. Kết quả rà soát sẽ ấn định mức thuế chính thức theo năm
(cho chủ thể có yêu cầu hoặc tất cả các nhà xuất khẩu có liên quan, tùy từng
trường hợp).
- Rà soát do thay đổi hoàn cảnh: do DOC và ITC tiến hành. Kết quả rà
soát này, Doc có thể ra quyết định giữ nguyên, rút lại một phàn hoặc toàn bộ
quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá chính thức.
- Rà soát hoàng hôn (sunset review): năm năm sau khi quết định áp
dụng biện pháp chống bán phá giá được ban hành, DOC và ITC sẽ phải tiến
hành rà soát lại để xem xét việc có hủy bỏ hay không hủy bỏ biên pháp chống
bán phá giá. Kết quả nếu một trong hai cơ quan là DOC và ITC có kết luận
phủ định thì biện pháp chống bán phá giá được hủy bỏ; còn nếu một trong hai
cơ quan trên có kết luận khẳng định thì biện pháp chống bán phá giá tiếp tục
được gia hạn hiệu lực thêm năm năm nữa.
- Ngược lại, khi các nhà xuất khẩu Mỹ bị cơ quan điều tra của nước
nhập khẩu buộc tội là bán phá giá thì Mỹ thường dựa vào những quy định của
WTO để khiếu nại lại những buộc tội đó (thường thì Mỹ thắng trong những
vụ việc như vậy). Thực tế này cho thấy áp dụng luật chống bán phá giá và bảo
vệ quyền lợi của doanh nghiệp xuất khẩu của mình có tầm quan trọng như
nhau và có quan hệ tương hỗ.
* Pháp luật chống bán phá giá EU
Giống như Mỹ, EU có một hệ thống luật chống bán phá giá rất đầy đủ,
32
những quy định này được đưa ra từ năm 1968. Quy định số 459/68/CEE là
quy định ban đầu của EU về chống bán phá giá và chống lại trợ cấp cho hàng
hóa của các nước không phải là thành viên của cộng đồng kinh tế Châu Âu
(EEC), và quy định này đã được sửa đổi nhiều lần nhằm điều chỉnh cho phù
hợp với kết quả các cuộc đàm phán trong khuôn khổ GATT/WTO.
Hiện nay, quy định về điều tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá
giá do EU tiến hành đối với các sản phẩm nhập khẩu từ một hoặc các nước
thứ ba (không phải là thành viên của Liên minh) vào Liên minh này được tập
trung quy định của Hội đồng EU số 384/96 ngày 22/12/1995 (có hiệu lực vào
ngày 06/03/1996) về bảo vệ chống lại hàng nhập khẩu bị bán phá giá từ các
nước không phải là thành viên EU. Quy định này sau đó lại được sửa đổi, bổ
sung bởi các văn bản sau: Quy định của EC số 2331/96 ngày 02/12/1996; Quy
định của EC số 905/98 ngày 27/04/1998; Quy định của EC số 2238/2000
ngày 09/10/2000; Quy định của EC số 1972/2002 ngày 05/11/2002; Quy định
của EU số 461/2004 ngày 08/03/2004 [36].
Về cơ quan chức năng: ở cấp quản lý, các cuộc điều tra chống bán phá
giá có sự tham gia của ba cơ quan khác là Ủy ban châu Âu, Hội đồng châu Âu
và Ủy ban tư vấn. Bên cạnh đó còn có các cơ quan có thẩm quyền của các
quốc gia thành viên. Mỗi cơ quan này có những chức năng riêng. Chẳng hạn
như Ủy ban châu Âu có nhiệm vụ và quyền hạn sau: (i) chịu trách nhiệm
chính trong việc tổ chức điều tra chống bán phá giá (cả việc điều tra bán phá
giá và điều tra thiệt hại); (ii) có thẩm quyền ban hành một số quyết định
(quyết định nhận đơn kiện và bắt đầu điều tra, quyết định chấm dứt vụ
việc,..); (iii) đưa ra các đề xuất áp đặt thuế chống bán phá giá chính thức, tạm
thời. Hội đồng châu Âu thì: (i) có quyền ban hành một số quyết định trong vụ
điều tra chống bán phá giá (quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá chính
thức); (ii) có thể có quyết định khác với những quyết định của Ủy ban châu
33
Âu và quyết định của Hội đồng là quyết định cuối cùng. Ủy ban tư vấn thì có
chức năng đưa ra ý kiến tham ván (khi được yêu cầu hoặc khi pháp luật quy
định việc tham vấn bắt buộc). Ý kiến này không có giá trị bắt buộc nhưng cơ
quan có thẩm quyền ra quyết định nhưng cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định liên quan phải tính đến ý kiến của Ủy ban này trước khi ban hành quyết
định. Trong trường hợp có ý kiến khác với ý kiến của Ủy ban châu Âu về
cùng một vấn đề thì Hội đồng châu Âu là cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định cuối cùng về vấn đề đó. Còn các cơ quan có thẩm quyền của các quốc
gia thành viên thì có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban châu Âu trong hoạt
động điều tra của cơ quan này và thức thi các quyết định áp đặt thuế chống
bán phá giá (chính thức hoặc tạm thời).
Trong quá trong điều tra chống bán phá giá, EU cũng dựa vào những
quy định của mình và nhìn chung những quy định này tuân thủ chặt chẽ
những quy định của WTO hơn là những quy định của Mỹ.
* Pháp luật chống bán phá giá của Nhật Bản
Nhật Bản là nước châu Á duy nhất đã ban hành luật chống bán phá giá
của mình trước chiến tranh thế giới thứ II. Năm 1920, Nhật Bản đưa điều
khoản về chống bán phá giá vào luật thuế quan, tuy nhiên điều khoản này quy
định rất sơ sài và trong một thời gian dài không được sử dụng. Cho đến khi
Nhật Bản chuẩn bị ra nhập GATT thì quy định về chống bán phá giá mới trở
nên hoàn thiện hơn. Để chuẩn bị cho việc gia nhập GATT, năm 1951 và 1954
Nhật Bản đã điều chỉnh quy định của mình để bao hàm điều VI về chống bán
phá giá của GATT. Sau khi gia nhập GATT vào 9/1995, Nhật Bản đã điều
chỉnh luật chống bán phá giá của mình cho phù hợp với những sự phát triển
của hiệp định chống bán phá giá của GATT. Tuy nhiên, phải đến đầu những
năm 1990 những quy định về chống bán phá giá của Nhật Bản mới được bắt
đầu áp dụng do những lý do kinh tế khác nhau. Hiện nay, luật chống bá phá
34
giá của Nhật Bản được quy định trong 4 nguồn: Điều 8 của Luật thuế xuất
nhập khẩu: gồm 37 đoạn; Nghị định của nội các: nhằm thực thi luật, bao gồm
20 điều khoản; Các văn bản hướng dẫn: nhằm làm rõ thủ tục chống bán phá
giá; Các điều khoản ADA [10].
Pháp luật chống bán phá giá của Nhật Bản được biểu hiện ở một số nội
dung chính sau:
Thứ nhật, là điều kiện để có thể áp dụng thuế chống bán phá giá. Theo
quy định, có 4 điều kiện để cần phải được thỏa mãn: (i) phải tồn tại việc bán
phá giá; (ii) phải chứng minh được tổn hại; (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi bán phá giá và tổn hại; (iv) có nhu cầu bảo hộ ngành công nghiệp
trong nước.
Thứ hai, thuế chống bán phá giá: khi tất cả các điều kiện cho việc áp
dụng các biện pháp chống bán phá giá được thỏa mãn, Chính phủ có thể áp
dụng một khoản thuế chống bán phá giá với mức thuế bằng hoặc thấp hơn
biên độ phá giá. Theo đó, sẽ có trường hợp ngay cả khi nếu việc áp dụng thuế
chống bán phá giá bằng với biên độ phá giá cũng không đủ để loại bỏ mức
chênh lệch về giá (nói cách khác, không đủ để loại bỏ tổn hại gây ra cho
ngành sản xuất trong nước) thì cũng không thể áp dụng thuế vượt quá biện độ
phá giá. Trái lại, nếu thiệt hại có thể được loại bỏ bằng việc áp dụng mức thuế
thấp hơn biện độ phá giá thì chính phủ có thể áp dụng một mức thuế đủ để
loại bỏ tổn hại này. Tuy nhiên, luật pháp Nhật Bản không quy định phương
pháp để xác định mức thuế “thấp hơn” này.
Thứ ba, sản phẩm là đối tượng bị áp dụng thuế chống bán phá giá: theo
quy định của luật pháp Nhật Bản, thuế chống bán phá giá được áp dụng đối
với sản phẩm bán phá giá được sản xuất bởi những nhà cung cấp cụ thể và
xuất xứ từ những nước được chỉ rõ trong cuộc điều tra.
Thứ tư, các quy định về thủ tục: theo Điều 8.4 của Luật thuế xuất nhập
35
khẩu, bất kỳ một bên nào có quyền lợi liên quan đến một ngành kinh tế ở
Nhật Bản đều có thể đưa ra kiến nghị bằng việc nộp các giấy tờ cần thiết cho
cơ quan điều tra. Một bên khiếu nại được định nghĩa là một bên có quyền lợi
“đối với một ngành kinh tế ở Nhật Bản”. Cũng giống như quy định của WTO,
các nhà sản xuất nội địa được coi là “ngành kinh tế” ở Nhật Bản ngay cả khi
họ có sản xuất sản phẩm tương tự được sản xuất ở trong nước. Tuy nhiên,
những người sản xuất sau đây sẽ không được nằm trong danh sách thuộc
“ngành kinh tế” ở Nhật Bản nếu nga cả khi họ có sản xuất sản phẩm tương tự:
(i) những nhà sản xuất có liên quan đến bất kì nhà cung cấp hay nhập khẩu
nào đang bị tố cáo là bán phá giá; (ii) những nhà sản xuất đồng thời là người
nhập khẩu sản phẩm đó.
Thứ năm, các thủ tục sau khi áp dụng các biện pháp chống bán phá giá:
Trong Điều 8 của Luật thuế xuất nhập khẩu của Nhật Bản có quy định về các
thủ tục sau khi áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Đó là việc xem xét
lại khi tình hình thay đổi, hay là việc rà soát vào cuối thời kỳ áp dụng các biện
pháp chống bán phá giá xem có cần tiếp tục áp dụng các biện pháp chống bán
phá giá hay việc hoàn thuế.
Với những nội dung trên, chúng ta có thể thấy luật chống bán phá giá
của Nhật Bản có cả những ưu điểm và nhược điểm. Về ưu điểm, luật chống
bán phá giá của Nhật Bản không chứa những sự khác biệt đáng kể cho ADA.
Bên cạnh đó, cơ quan điều tra cố gắng tránh việc sử dụng một số biện pháp
gây tranh cãi mà Mỹ và EU sử dụng, đặc biệt liên quan đến việc tính toán
biên độ phá giá (phương pháp theo từng giao dịch), vấn đề xác định tổn hại
(tính tổng cộng nhằm tìm ra biện độ phá giá), việc lựa chọn và đối với các
nền kinh tế đang chuyển đổi. Tuy nhiên, vẫn có những nhược điểm, hệ thống
rà soát của Nhật Bản không hoàn toàn tuân thủ theo hiệp định chống bán phá
giá của WTO.
36
* Pháp luật chống bán phá giá của một số nước ASEAN
Cho đến năm 1999 có 5 nước ASEAN đã ban hành luật chống bán phá
giá của mình là: Indonesia, Malaysia, Philippin, Thái Lan và Singapore, tất cả
các nước này đều đã là thành viên của WTO. Trong đó chỉ có Thái Lan là đã
ban hành luật chống bán phá giá của mình sau khi hiệp định WTO có hiệu lực
(Quốc hội Thái Lan thông qua đạo luật về thuế đối kháng và thuế chống bán
phá giá vào năm 1999), còn các nước khác ban hành luật chống bán phá giá
trước khi hiệp định thành lập WTO có hiệu lực nhưng các nước này đã điều
chỉnh luật chống bán phá giá của mình cho phù hợp với hiệp định chống bán
phá giá của WTO [10].
Qua tìm hiểu pháp luật chống bán phá giá của các nước ASEAn, có thể
thấy pháp luật chống bán phá giá của các quốc gia này có một số đặc điểm
chung sau đây:
Hầu hết các nước ASEAN đã dựa vào các quy tắc quốc tế, mà cụ thể là
các quy định của WTO về chống bán phá giá làm nền tảng để xây dựng nên
pháp luật chống bán phá giá của nước mình. Tuy nhiên có một đặc điểm nổi
bật, phổ biến và gây nhiều tranh cãi của hệ thống pháp luật chống bán phá giá
của các nước ASEAN là việc quy định không đầy đủ của việc rà soát các biện
pháp chống bán phá giá. Câu hỏi liệu các biện pháp chống bán phá giá có thể
bị khiếu nại lên các tòa án có thẩm quyền của các nước này hay không và nếu
có thì với điều kiện vẫn còn là một câu hỏi ngỏ.
Luật chống bán phá giá của các nước ASEAN cũng chứa đựng một vài
điểm khác biệt so với quy định của WTO về định nghĩa thế nào là sản phẩm
tương tự (Malaysia và Indonesia), quy tắc 5% (Malaysia), định nghĩa về nền
kinh tế phi thị trường (Malaysia), GATTE tính toán (của Philippin), việc áp
dụng hồi tố thuế chống bán phá giá (Malaysia và Indonesia)…
Tóm lại, qua việc tìm hiểu pháp luật chống bán phá giá của một số
37
nước nêu trên, cho thấy pháp luật chống bán phá giá ở hầu hết các nước này
đều tuân thủ theo những quy định của WTO, chỉ khác nhau những vấn đề mà
WTO chưa quy định, không quy định rõ hoặc cho phép các chính phủ được
quyền quyết định. Có thể khẳng định rằng những quy định về chống bán phá
giá của WTO là cốt lõi, nền tảng để các quốc gia ban hành, sửa đổi cũng như
áp dụng các quy định về chống bán phá giá của mình.
38
Chương 2
PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Ở VIỆT NAM
2.1. Khái lược về sự hình thành pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu đối với mọi quốc gia trong đó có
Việt Nam. Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã
được hội đồng quốc tế biết đến là một đất nước kiên trì thực hiện đường lối
đổi mới và đạt nhiều thành tựu quan trọng trong lĩnh vực kinh tế. Trong Báo
cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IX của Đảng, Đảng ta đã khẳng định chủ
trương: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tình thần phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo vệ độc lập tự chủ
và định hướng xã hội chủ nghĩa” [1]. Thực hiện chủ trường này, cho đến nay
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có những thành tựu nổi
bật. Cụ thể là: Việt Nam đã có quan hệ thương mại với trên 160 quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó đã ký hiệp định thương mại với 61 quốc
gia, trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN đồng thời nộp đơn xin gia nhập
WTO vào năm 1995. Tiếp đó, Việt Nam đã tham gia diễn đàn hợp tác Á-Âu
(ASEM) vào năm 1996, tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái
Bình Dương (APEC) năm 1998, bên cạnh đó nước ta không chỉ bình thường
hóa quan hệ thương mại với Hoa Kỳ mà còn ký hiệp định thương mại song
phương với hợp chủng quốc Hoa Kỳ (BTA) vào ngày 13-7-2000 (có hiệu lực
vào ngày 10-12-2001) [33, tr.14].
Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế chính là cơ hội để mở rộng thị
trường quốc tế và khu vực nhưng cũng là thách thức lớn cho các nhà sản xuất
hàng hóa trong nước do phải cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu từ nước
ngoài, đặc biệt là khi xuất hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trong
đó có hành vi bán phá giá. Trong điều kiện hàng rào phi thuế quan đang được
39
loại bỏ dần, chúng ta cần có các biện pháp chống bán phá giá, đó là một cơ
chế mới phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm bảo vệ quyền lợi ích chính đáng
của các nhà sản xuất trong nước cũng như quyền và lợi ích của người tiêu
dùng khi có những có sự xâm hại do hành vi bán phá giá gây ra. Tuy nhiên,
để chống lạm dụng việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chúng ta
cần phải tuân thủ các nguyên tắc, điều kiện, trình tự, thủ tục chung được cộng
đồng quốc tế thừa nhận, đặc biệt là phải phù hợp với quy định của WTO. Vì
vậy, trong những năm gần đây, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp
luật để điều chỉnh vấn đề chống bán phá giá nhằm đáp ứng được những đòi
hỏi trong thực tiễn hoạt động thương mại đồng thời thể hiện được tính chủ
động trong tiến trình hội nhập, đó là những văn bản pháp lý hết sức cần thiết
cho việc phát triển kinh tế xã hội, thể hiện được tính chủ động của Việt Nam
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời cũng tạo nên hành lang
pháp lý tương đối toàn diện về chống bán phá giá ở Việt Nam:
- Quyết định số 46/2001/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
1/1/2001 về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2001 – 2005 cũng
đã quy định xây dựng một số nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá;
- Pháp lệnh của ủy ban thường vụ Quốc hội số 40/2002/PL – UBTVQH
10 ngày 10/05/2002 về giá;
- Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 20/2004/PL –
UBTVQH 11 ngày 29/04/2004 về việc chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu
vào Việt Nam.
- Luật số 45/2005/QH 11 ngày 14 tháng 6 năm 2005: luật Thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu có quy định (tại điều 11) về việc cho phép áp dụng các
biện pháp về thuế để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt
đối xử trong nhập khẩu hàng hóa.
Những văn bản trên được áp dụng không chỉ đối với những hàng hóa bị
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY

More Related Content

What's hot

Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)nataliej4
 

What's hot (20)

Luận văn: Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAYLuận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nước
Luận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nướcLuận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nước
Luận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nước
 
Luận văn: Pháp luật về bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty
Luận văn: Pháp luật về bảo lãnh phát hành chứng khoán của công tyLuận văn: Pháp luật về bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty
Luận văn: Pháp luật về bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty
 
Đề tài: Hàng rào phi thuế quan theo quy định của pháp luật, HAY
Đề tài: Hàng rào phi thuế quan theo quy định của pháp luật, HAYĐề tài: Hàng rào phi thuế quan theo quy định của pháp luật, HAY
Đề tài: Hàng rào phi thuế quan theo quy định của pháp luật, HAY
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá trong WTO
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá trong WTOLuận văn: Giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá trong WTO
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá trong WTO
 
Luận văn: Pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệpLuận văn: Pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đLuận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
 
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
 
Luận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóaLuận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa
 
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với chỉ dẫn địa lý, HOT
Luận văn: Bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với chỉ dẫn địa lý, HOTLuận văn: Bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với chỉ dẫn địa lý, HOT
Luận văn: Bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với chỉ dẫn địa lý, HOT
 
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoàiThẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
 
Luận văn: Pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Luận văn: Pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOTLuận văn: Pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Luận văn: Pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
 
Luận văn: Ưu đãi đầu tư đối với đầu tư nước ngoài theo pháp luật
Luận văn: Ưu đãi đầu tư đối với đầu tư nước ngoài theo pháp luậtLuận văn: Ưu đãi đầu tư đối với đầu tư nước ngoài theo pháp luật
Luận văn: Ưu đãi đầu tư đối với đầu tư nước ngoài theo pháp luật
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biểnLuận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển
 
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAYLuận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
 
Pháp luật về chống bán phá giá hàng hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
Pháp luật về chống bán phá giá hàng hóa giữa Việt Nam và Hoa KỳPháp luật về chống bán phá giá hàng hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
Pháp luật về chống bán phá giá hàng hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
 
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đLuận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
 

Similar to Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY

[123doc] - phap-luat-ve-thi-hanh-phan-quyet-cua-trong-tai-thuong-mai-viet-nam...
[123doc] - phap-luat-ve-thi-hanh-phan-quyet-cua-trong-tai-thuong-mai-viet-nam...[123doc] - phap-luat-ve-thi-hanh-phan-quyet-cua-trong-tai-thuong-mai-viet-nam...
[123doc] - phap-luat-ve-thi-hanh-phan-quyet-cua-trong-tai-thuong-mai-viet-nam...huynhminhquan
 
Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp pháp lý ngăn...
Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp pháp lý ngăn...Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp pháp lý ngăn...
Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp pháp lý ngăn...Man_Ebook
 
Các biện pháp phòng vệ thương mại theo Hiệp định thương mại tự do.pdf
Các biện pháp phòng vệ thương mại theo Hiệp định thương mại tự do.pdfCác biện pháp phòng vệ thương mại theo Hiệp định thương mại tự do.pdf
Các biện pháp phòng vệ thương mại theo Hiệp định thương mại tự do.pdfMan_Ebook
 
Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật cạnh tranh ...
Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật cạnh tranh ...Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật cạnh tranh ...
Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật cạnh tranh ...Thư viện Tài liệu mẫu
 

Similar to Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY (20)

Luận văn: Pháp luật về Bán hàng đa cấp tại Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về Bán hàng đa cấp tại Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về Bán hàng đa cấp tại Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về Bán hàng đa cấp tại Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam, HOTĐề tài: Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giá
Luận văn: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giáLuận văn: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giá
Luận văn: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giá
 
Luận văn: Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh, HOT
Luận văn: Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh, HOTLuận văn: Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh, HOT
Luận văn: Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh, HOT
 
[123doc] - phap-luat-ve-thi-hanh-phan-quyet-cua-trong-tai-thuong-mai-viet-nam...
[123doc] - phap-luat-ve-thi-hanh-phan-quyet-cua-trong-tai-thuong-mai-viet-nam...[123doc] - phap-luat-ve-thi-hanh-phan-quyet-cua-trong-tai-thuong-mai-viet-nam...
[123doc] - phap-luat-ve-thi-hanh-phan-quyet-cua-trong-tai-thuong-mai-viet-nam...
 
Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp pháp lý ngăn...
Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp pháp lý ngăn...Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp pháp lý ngăn...
Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp pháp lý ngăn...
 
Đề tài: Pháp luật hình sự trong giải quyết tranh chấp thương mại
Đề tài: Pháp luật hình sự trong giải quyết tranh chấp thương mạiĐề tài: Pháp luật hình sự trong giải quyết tranh chấp thương mại
Đề tài: Pháp luật hình sự trong giải quyết tranh chấp thương mại
 
Các biện pháp phòng vệ thương mại theo Hiệp định thương mại tự do.pdf
Các biện pháp phòng vệ thương mại theo Hiệp định thương mại tự do.pdfCác biện pháp phòng vệ thương mại theo Hiệp định thương mại tự do.pdf
Các biện pháp phòng vệ thương mại theo Hiệp định thương mại tự do.pdf
 
Pháp luật về xúc tiến thương mại của doanh nghiệp sang Hoa Kỳ, 9d
Pháp luật về xúc tiến thương mại của doanh nghiệp sang Hoa Kỳ, 9dPháp luật về xúc tiến thương mại của doanh nghiệp sang Hoa Kỳ, 9d
Pháp luật về xúc tiến thương mại của doanh nghiệp sang Hoa Kỳ, 9d
 
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT QUỐC TẾ, MỚI NHẤT, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT QUỐC TẾ, MỚI NHẤT, 9 ĐIỂMBÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT QUỐC TẾ, MỚI NHẤT, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT QUỐC TẾ, MỚI NHẤT, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo pháp luật cạnh tranh, HOT
Luận văn: Chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo pháp luật cạnh tranh, HOTLuận văn: Chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo pháp luật cạnh tranh, HOT
Luận văn: Chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo pháp luật cạnh tranh, HOT
 
Chống Bán Phá Giá Theo Hiệp Định Thương Mại Của Tổ Chức Quốc Tế Wto.
Chống Bán Phá Giá Theo Hiệp Định Thương Mại Của Tổ Chức Quốc Tế Wto.Chống Bán Phá Giá Theo Hiệp Định Thương Mại Của Tổ Chức Quốc Tế Wto.
Chống Bán Phá Giá Theo Hiệp Định Thương Mại Của Tổ Chức Quốc Tế Wto.
 
Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnhPháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
 
Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnhPháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
 
Luận văn: Pháp luật về xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp, 9 ĐIỂM
Luận văn: Pháp luật về xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp, 9 ĐIỂMLuận văn: Pháp luật về xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp, 9 ĐIỂM
Luận văn: Pháp luật về xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp, 9 ĐIỂM
 
Đề tài: Biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu ở nước ta
Đề tài: Biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu ở nước taĐề tài: Biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu ở nước ta
Đề tài: Biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu ở nước ta
 
Đề tài: Các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu, HOT
Đề tài: Các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu, HOTĐề tài: Các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu, HOT
Đề tài: Các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn, HAY
Luận văn: Pháp luật về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn, HAYLuận văn: Pháp luật về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn, HAY
Luận văn: Pháp luật về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn, HAY
 
Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật cạnh tranh ...
Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật cạnh tranh ...Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật cạnh tranh ...
Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật cạnh tranh ...
 
Luận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đ
Luận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đLuận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đ
Luận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đ
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (19)

Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 

Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ PHƯƠNG LINH NH÷NG VÊN §Ò PH¸P Lý VÒ CHèNG B¸N PH¸ GI¸ HµNG HãA NHËP KHÈU VµO VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Phương Linh
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ........................... 5 1.1. Quan niệm về bán phá giá và chống bán phá giá........................... 5 1.1.1. Bán phá giá........................................................................................ 5 1.1.2. Chống bán phá giá ........................................................................... 16 1.2. Pháp luật chống bán phá giá......................................................... 22 1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật chống bán phá giá ..................... 22 1.2.2. Hiệp định chống bán phá giá của WTO và pháp luật chống bán phá giá của một nước trên thế giới................................................... 26 Chương 2: PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Ở VIỆT NAM......... 38 2.1. Khái lược về sự hình thành pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam ........................................................................................ 38 2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam....... 40 2.2.1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng ........................................ 40 2.2.2. Xác định hàng hóa bị bán phá giá nhập khẩu vào thị trường Việt Nam......................................................................................... 42 2.2.3. Điều kiện và nguyên tắc áp dụng biện pháp chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam .................................................. 49 2.2.4. Các biện pháp chống bán phá giá..................................................... 53
  • 4. 2.2.5. Thủ tục điều tra để áp dụng biện pháp chống bán phá giá................ 55 2.2.6. Áp dụng biện pháp chống bán phá giá ............................................. 62 2.2.7. Rà soát việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá .......................... 68 2.2.8. Khiếu nại, khởi kiện, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật chống bán phá giá............................................................. 69 Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................................................................................... 72 3.1. Thực trạng bán phá giá và chống bán phá giá ở Việt Nam......... 72 3.1.1. Một số hiện tượng bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam....... 72 3.1.2. Thực trạng áp dụng pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam – một số kết quả đạt được ................................................................... 73 3.1.3. Một số tồn tại, bất cập trong việc áp dụng pháp luật chống bán phá ở Việt Nam................................................................................ 76 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam................................ 80 3.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam ......................................................................................... 80 3.2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam......................................................... 88 KẾT LUẬN................................................................................................. 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 95
  • 5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ADA Hiệp định chống bán phá giá của WTO ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á CPSX Chi phí sản xuất EC Ủy ban Châu Âu EU Liên minh Châu Âu GATT Hiệp định chung về thuế quan thương mại GNK Giá nhập khẩu GTTT Giá trị thực tế GXK Giá xuất khẩu PLAD Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004 WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia tổ chức kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và quốc tế nền kinh tế hiện nay là xu thế không thể đảo ngược lại đối với mỗi quốc gia khi phát triển kinh tế của mình. Trong quá trình phát triển kinh tế và thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Thị trường rộng hàng hóa và dịch vụ trong nước được mở rộng, hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu được thúc đẩy mạnh mẽ hu hút được nhiều vốn đầu tư trong và ngoài nước, tác động tích cực tới việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững. Những thành tựu này đã tạo cơ hội cho Việt Nam tiếp tục những bước phát triển khả quan trong tương lai. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội to lớn đó thì quá trình hội kinh tế quốc tế, nước ta cũng phải đối mặt không ít với những khó nghiệp phải đương đầu. Việc Việt Nam tham gia vào ASEAN, APEC và đàm phán xin gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO đồng nghĩa với việc có sự thay đổi sâu sắc các chính sách thương mại liên quan đến việc mở cửa thị trường. Điều này dẫn tới hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, trong đó có vấn đề bán phá giá hàng hóa đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam sẽ gia tăng trên thị trường, có thể gây ra những tổn thất lớn cho các nhà sản xuất tương tự trong nước. Trước tình hình thực tế đặt ra, có thể thấy rằng vai trò của Nhà nước là không thể thiếu trong việc đưa ra các biện pháp chống lại việc bán phá giá nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước, tạo lập môi trường pháp lý vững chắc cho hoạt động thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia vào đời sống kinh tế quốc tế. Vì vậy, học viên chọn nghiên cứu và tìm hiểu đề tài luận văn: “Những vấn đề pháp lý về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam”.
  • 7. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đã quá quen thuộc với vấn đề bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá, tuy nhiên vấn đề này vẫn còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Mặc dù đây là vấn đề còn mới mẻ nhưng cũng đã nhanh chóng thu hút sự quan tâm nghiên cứu ở Việt Nam. các nhà kinh tế và pháp lý nước ta đã có một số công trình tiêu biểu đề cập đến lĩnh vực này như: Bán phá giá và biện pháp, chính sách chống bán phá giá hàng nhập khẩu của Đoàn Văn Trường (NXB Thống Kê – 1998); Tìm hiểu pháp luật chống bán phá giá của WTO và Hoa Kỳ của TS. Hoàng Phước Hiệp (tạp chí Luật học, (1), 2003); Pháp luật chống bán phá giá của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – 2004; Tìm hiểu ảnh hưởng của pháp luật chống bán phá giá đối với cạnh tranh của PGS.TS. Mai Hồng Quỳ và ThS. Trần Việt Dũng (tạp chí Nhà nước và Pháp luật – (12), 2004); Tìm hiểu luật và chính sách chống bán phá giá (anti-dumping) của Mỹ của tác giả Đỗ Tuyết Khanh đăng trên Tạp chí Thời đại mới số 01- tháng 03/2004; Pháp luật về chống bán phá giá trong thương mại quốc tế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn của Nguyễn Thị Quỳnh Vân (Luận văn thạc sỹ Luật học – 2004); Pháp luật chống bán phá giá của WTO và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam về chống bán phá giá của Lê Như Phong (Luận văn thạc sỹ luật học – 2004); Một số vấn đề cơ bản về pháp luật chống bán phá giá của WTO của Trần Văn Hải (Luận văn thạc sĩ luật học - 2007); Pháp luật về chống bán phá giá thương mại quốc tế của Nguyễn Trần Duy (Luận văn thạc sỹ luật học - 2007); Quy trình một vụ điều tra bán phá giá của tác giả Bành Quốc Tuấn đăng trên Tạp chí Phát triển và Hội nhập số 6 - tháng 8/2010; Pháp luật chống bán phá giá của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam của tác giả Hoàng Thị Phượng (Luận văn thạc sỹ luật học - 2012); Hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá của ThS. Kim Thị Hạnh - Trưởng phòng Công tác Đại biểu, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh- 2013; … Các công trình trên
  • 8. 3 mặc dù có đóng góp to lớn vào việc nghiên cứu vấn đề bán phá giá và pháp luật chống bán pháp giá ở nước ta, tuy nhiên, phạm vi của những nghiên cứu của các công trình trên hoặc là còn quá hẹp, phần lớn mới chỉ dừng lại ở hình thức các bài viết trên báo hoặc tạp chí chuyên ngành, hoặc là mới chỉ tập trung nghiên cứu và lĩnh vực chống bán phá giá của WTO, Mỹ, EU và hàng hóa của Việt Nam bị chống bán phá giá ở nước ngoài. Đến nay hầu như chưa có một công trình nghiên nào cứu đầy đủ, toàn diện và công phu những khía cạnh pháp lý cơ bản và vấn đề thực thi pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Trong khuôn khổ bàn luận văn này, tác giả chỉ đề cập một số nội dung pháp lý cơ bản, khái quát nhất của pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam. Tuy nhiên, do pháp luật chống bán phá giá là một lĩnh vực pháp luật còn mới mẻ, thậm chí là "xa lạ" ở Việt Nam, còn có rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần luận giải, vì thế, luận văn chỉ đi vào tìm hiểu tất cả các quy định chủ yếu về chống bán phá giá trong lĩnh vực thương mại hàng hóa đối với hàng hóa được nhập khẩu và việt Nam bị bán phá giá, mà không có tham vọng đi vào tìm hiểu tất cả các quy định về chống bán phá giá trong lĩnh vực thương mại nói chung. Với phạm vi nghiên cứu này thì luận văn khó có thể giải quyết thỏa đáng được mọi khía cạnh của đề tài. Do đó, tác giả hy vọng sẽ được trở lại đề tài này trong một công trình nghiên cứu toàn diện hơn và với một yêu cầu cao hơn. 4. Phương pháp nghiên cứu đề tài Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu: phân tích, đối chiếu, tổng hợp, khái quát hóa, khảo sát thực tiễn và đặc biệt là phương pháp so sánh luật học, đồng thời vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật và những quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới kinh tế trong giai đoạn hội nhập hiện nay để giải quyết các vấn đề mà nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đặt ra.
  • 9. 4 5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Đề tài có mục đích và nhiệm vụ là tìm hiểu khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về bán phá giá, chống bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá, từ đó đi vào tìm hiểu những nội dung cơ bản của pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam đồng thời đánh giá khái quát vấn đề thực thi pháp luật chống bán phá giá ở nước ta trong thời gian qua và thời gian sắp tới, qua đó luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi lĩnh vực pháp luật này. 6. Những đóng góp mới của luận văn Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sỹ nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam. Luận văn đã có những đóng góp sau đây: - Phân tích, đánh giá tương đối toàn diện, đầy đủ và có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về bán phá giá, chống bán phá giá, khái niệm và vai trò của pháp luật chống bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá của một số nước trên thế giới. - Xác định và luận giải được những nội dung cơ bản của pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam. - Đánh giá được thực trạng thực thi pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam, từ đó đưa ra được một vài kiến nghị đối với Nhà nước và các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi lĩnh vực pháp luật này. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn có kết cấu phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu. Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá. Chương 2: Pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam. Chương 3: Vấn đề thi hành pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam và một vài kiến nghị.
  • 10. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ 1.1. Quan niệm về bán phá giá và chống bán phá giá 1.1.1. Bán phá giá 1.1.1.1. Khái niệm bán phá giá * Dưới góc độ ngôn ngữ Theo cách hiểu thông thường, bán phá giá là bán dưới giá thị trường. Chẳng hạn như tại một nhà ga ai cũng bán đĩa cơm sườn với giá 5.000 đồng bỗng nhiên có người bán với giá 3.000 đồng, thì hành động đó bị coi là bán phá giá [16]. Theo từ điển tiếng Việt trực tuyến, phiên bản ngày 18/3/2004 của Trung tâm Từ điển học Việt Nam thì: “Bán phá giá là việc bán ồ ạt với giá thấp hơn giá thị trường, thậm chí chịu lỗ, để tăng khả năng cạnh tranh và chiếm đoạt thị trường” [32, tr.6]. Như vậy, giữa hai cách hiểu về bán phá giá như trên có những nét tương đồng đó là việc bán dưới – thấp hơn giá thị trường. Tuy nhiên, cách hiểu thứ nhất không quan tâm đến mục đích của việc bán phá giá là gì, có nhằm mục đích chiếm đoạt thị trường hay không, vì vậy, coi hành động đó là bán phá giá và chê trách hành động đó là chưa hẳn đã chính xác, thậm chí là sai. Bởi lẽ, trong nền kinh tế thị trường, cứ giá nào có người mua thì người ta có quyền bán, hơn nữa có thể hàng hóa của họ là hàng hóa dư thừa, tồn kho, mất mốt hoặc có nhu cầu quay vòng vốn nhanh,… nên cần phải bán dưới giá thị trường để tiêu thụ được hàng hóa. Tuy nhiên, định nghĩa thuật ngữ bán phá giá của Từ điển tiếng Việt trực tuyến không chỉ quan tâm đến hiện tượng bán dưới giá thị trường mà lại chú trọng đến cả mục đích của hành động bán dưới giá thị trường đó là để tăng khả năng cạnh tranh và chiếm đoạt thị trường. Như vậy, theo định nghĩa này, bán phá giá rõ ràng là
  • 11. 6 một hành vi cạnh tranh không lành mạnh và cần phải ngăn chặn, nếu muốn duy trì sự ổn định của thị trường và môi trường kinh doanh. Trong tiếng Anh, bán phá giá được dịch ra từ thuật ngữ “Dumping” [18, tr.11]. Tuy nhiên thuật ngữ này có nhiều nghĩa khác nhau, chẳng hạn theo nghĩa thông thường dumping có nghĩa là vứt bỏ thứ gì đó mà bạn không thích (to get rid of something you do not want), còn theo nghĩa chuyên ngành thương mại thì dumping có nghĩa là bán tống một món hàng với mức giá rất thấp, thường là bán sang nước khác (To get rid of goods by selling them at a very low prince, often in another country). Như vậy, theo định nghĩa huật ngữ dumping được hiểu là bán phá giá và để xác định có hay không có hành động bán phá giá người ta quan tâm đến mức giá bán hàng và thường là có sự so sánh giá giữa các thị trường quốc gia khác nhau. Trong tiếng Pháp, bán phá giá được dịch ra từ thuật ngữ “dumping commercial” [32, tr.7]. Đây là hiện tượng thương mại khi bán hàng hóa ở thị trường nước ngoài với mức giá thấp hơn mức hiện tại của thị trường trong nước. Với cách hiểu này thì bán phá giá là sự phân biệt giá cả giữa thị trường quốc gia khác nhau, theo đó nếu giá bán một món hàng X nào đó tại thị trường trong nước cao hơn giá bán món hàng X đó tại thị trường nước ngoài thì hành động đó bị coi là bán phá giá. Như vậy, qua khảo cứu cách hiểu thông thường của một số ngôn ngữ khác nhau về thuật ngữ bán phá giá, cho thấy, các cách hiểu này đều chưa phản ánh đầy đủ, nhưng đã nói lên phần nào dấu hiệu đặc trưng của bán phá giá. Đó là hiện tượng bán hàng thường là bán ra nước ngoài, với một mức giá rất thấp, nhằm mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh và chiếm đoạt thị trường. * Dưới góc độ pháp lý Trong thương mại quốc tế, bán phá giá được hiểu là sự phân biệt giá cả giữa các thị trường quốc gia [26, tr.10]. Với cách hiểu này thì bán phá giá có
  • 12. 7 thể xẩy ra các tình huống khác nhau, có thể là: người sản xuất / người xuất khẩu bán hàng hóa của mình tại thị trường trong nước với giá thấp hơn giá bán hàng hóa đó ở thị trường nước ngoài; hoặc người sản xuất / người xuất khẩu bán hàng hóa của mình với mức giá khác nhau ở các thị trường nước ngoài khác nhau. Như vậy, điểm mấu chốt của cách hiểu này là sự phân biệt giá cả của cùng một hàng hóa ở các thị trường quốc gia khác nhau, bất luận là cao hơn hay thấp hơn được tính ở mỗi thị trường. Tuy nhiên, trong các tình huống có thể xẩy ra như đã phan tích ở trên, thì thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế đã chứng minh rằng chỉ có cách hiểu thứ hai đó là hàng hóa được bán ở thị trường trong nước với mức giá cao hơn mức giá bán ở thị trường nước ngoài thì mới có thể gây tổn hại đối với nước nhập khẩu, nhất là đối với các nhà sản xuất các hàng hóa tương tự ở nước nhập khẩu. Do đó, hành động bán phá giá này mới cần phải ngăn chặn. Với cách tiếp cận này thì bán phá giá có thể được hiểu như sau: Bán phá giá là sự phân biệt giá cả mang tính quốc tế, trong đó giá của một hàng hóa khi được bán tại thị trường của nước nhập khẩu với giá thấp hơn giá trị của hàng hóa đó được bán tại thị trường của nước xuất khẩu. Cách hiểu trên phù hợp với cách hiểu về bán phá giá của WTO. Theo Điều 2, Hiệp định thực thi Điều VI của GATT 1994 thì: một sản phẩm bị coi là bán phá giá (tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường. Theo định nghĩa trên, bán phá giá là hành động mang sản phẩm của một nước sang bán ở một nước khác với mức GXK thấp hơn GTTT của sản phẩm đó khi được bán ở trong nước. Thí dụ, người sản xuất vải ở Trung Quốc
  • 13. 8 bán vải lụa ở thị trường Trung Quốc với giá 20 USD/mét, nếu người đó xuất khẩu vải cùng loại sang thị trường Việt Nam và bán với giá 10 USD/mét, thì người đó đã hành dộng bán phá giá. Như vậy, trong thương mại quốc tế, trung tâm của khái niệm bán phá giá là có sự phân biệt về giá, khi GXK thấp hơn GTTT của sản phẩm đó ở trong nước xuất khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế việc xác định hiện tượng bán phá giá là một vấn đề vô cùng phức tạp. Ở Việt Nam, thuật ngữ bán phá giá lần đầu tiên xuất hiện trong Luật thuế nhập khẩu 1993 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1998), nhưng tại Luật này, thuật ngữ bán phá giá chưa được định nghĩa chi tiết, phải đến pháp luyện giá năm 2002, thuật ngữ bán phá giá mới chính thức được định nghĩa chi tiết như sau: bán phá giá là hành vi bán hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên thị trường Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh khác và lợi ích của nhà nước (Khoản 3, Điều 4). Tuy nhiên, định nghĩa bán phá giá này chỉ đề cập đến hàng hóa, dịch vụ được sản xuất trong nước được bán phá giá ở thị trường trong nước – phá giá nội địa, chứ hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam bị bán phá giá thì Pháp lệnh này không điều chỉnh. Hiện nay, vấn đề này đã chính thức được quy định tại Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004 (PLAD), nhưng PLAD này không trực tiếp định nghĩa thế nào là bán phá giá mà chỉ đưa ra cách xác định hàng hóa bị bán phá giá vào Việt Nam như sau: Hàng hóa có xuất xứ từ nước hoặc vùng lãnh thổ bị coi là bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam nếu hàng hóa đó được bán với giá thấp hơn giá thông thường và định nghĩa về biên độ bán phá giá là: khoảng cách chênh lệch có thể tính toán được giữa giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam so với giá xuất khẩu hàng hóa đó vào Việt Nam.
  • 14. 9 Như vậy, bán phá giá theo Pháp lệnh này được hiểu là hiện tượng khi giá xuất khẩu một hàng hóa nào đó vào Việt Nam thấp hơn giá trị thông thường của hàng hóa đó. Nhìn chung cách hiểu này là tương đồng với cách hiểu về bán phá giá trong thương mại quốc tế. 1.1.1.2. Bản chất của việc bán phá giá Khái niệm bán phá giá ngày càng được hoàn thiện như đã phân tích ở trên, tuy nhiên, vấn đề mấu chốt có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là cần phải xác định khi nào thì hành vi bán phá giá là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, khi nào thì hành vi đó là hành vi bình thường về mặt kinh tế cũng như việc chống hay không chống hành vi đó sẽ gây ra những tác động như thế nào đối với môi trường kinh doanh, lợi ích của toàn xã hội và của mỗi người tiêu dùng. Tìm hiểu bản chất của việc bán phá giá sẽ lý giải được những vấn đề nói trên. * Bán phá giá là sự phân biệt giá cả mang tính quốc tế Phân biệt giá cả mang tính quốc tể xẩy ra khi thị trường bị phân biệt là thị trường của các nước khác nhau. Theo đó, GXK của hàng hóa thường phải cao hơn so với giá của hàng hóa tại thị trường nội địa vì sản xuất / nhà xuất khẩu phải chịu thêm chi phí xuất khẩu như vận chuyển đến cảng / sân bay / nhà ga; chi phí bảo hiểm cho hàng hóa,.. Do đó, đúng ra là họ phải bán hàng hóa tại thị trường của nước nhập khẩu cao hơn so với giá bán hàng hóa đó tại thị trường của nước xuất khẩu. Tuy nhiên, vì theo đuổi hành vi phân biệt giá cả mang tính quốc tế, họ đã bán hàng hóa tại thị trường của nước nhập khẩu thấp hơn giá bán hàng hóa đó tại thị trường của nước xuất khẩu, do đó hành vi này bị coi là bán phá giá. Một doanh nghiệp được hưởng lợi thế thống lĩnh và độc quyền trên thị trường nội địa có thể bán sản phẩm trong nước với mức giá rất cao. Nếu chi phí xuất khẩu hàng hóa đó thấp hoặc là doanh nghiệp muốn thâm nhập vào
  • 15. 10 một thị trường mới,.. thì mức giá bán hàng hóa tại thị trường của nước nhập khẩu do doanh nghiệp đặt ra có thể thấp hơn nhiều so với giá bán hàng hóa đó ở thị trường trong nước. Trong trường hợp này doanh nghiệp bị coi là bán phá giá. Bản chất của hành vi bán phá giá kể trên không phải là do doanh nghiệp áp đặt giá thấp của nước nhập khẩu mà do doanh nghiệp đã áp đặt giá cao ở thị trường trong nước. Do đó, nếu bán phá giá xẩy ra dưới hình thức phân biệt giá mang tính quốc tế thì biện pháp chống bán phá giá sẽ không mang lại lợi ích kinh tế mà trước hết là phải loại trứ mức giá cao bất hợp lý tại thị trường nội địa. Bán phá giá hình thành do lạm dụng vị thế thống lĩnh và vị thế độc quyền của doanh nghiệp trên thị trường nội địa chứ không phải trên thị trường của nước nhập khẩu. Chính sức mạnh thống lĩnh và độc quyền ở thị trường trong nước đã làm giảm lợi ích của toàn xã hội của nước xuất khẩu và ngược lại với mức giá thấp sẽ tạo ra những tác động tích cực đến lợi ích kinh tế của nước nhập khẩu. Bởi vậy, việc chống bán phá giá vẫn còn là một vấn đề cần phải cân nhắc trước khi áp dụng. Cho nên, có quan điểm không ủng hộ cho việc phá giá không làm giá ở thị trường của nước nhập khẩu thay đổi, nên không làm ảnh hưởng đến lợi ích của nước nhập khẩu, và vì thế thì không cần có biện pháp chống lại hành động này. Thậm chí có quan điểm cho rằng: “nước A xuất khẩu một món hàng sang nước B mà giá bán tại nước B thì thấp hơn giá bán tại nước A. Bán giá rẻ hơn ở nước B không phải là phá giá” [16]. Tác phẩm này dưa ra ví dụ và giải thích như sau: Một chiếc xe ô tô làm ra ở Nhật, bán ở Nhật thì giá 40.000 USD mà chở qua Mỹ bán thì giá chỉ 20.000 USD. Nếu các bạn thấy vô lý, thì tôi phải gióng chuông báo động các bạn coi chừng đang rơi vào tư duy kinh tế chỉ huy, chứ không phải kinh tế thị trường… nếu đã nói đến kinh tế thị trường, thì phải chấp nhận nguyên tắc căn bản, đó là giá mua giá bán một món hàng chỉ tùy thuộc cung cầu mà
  • 16. 11 thôi. Cung cao mà cầu thấp thì giá thấp, cung thấp mà cầu cao thì giá cao… Xét theo tinh thần kinh tế thị trường và mậu dịch tự do, không có lý do gì để cấm một hàng không thể xuất khẩu với giá thấp hơn giá bán trong nội địa [5]. Quan điểm thứ nhất cho rằng nếu việc bán phá giá xẩy ra với một số lượng lớn, trong một thời gian dài thì sẽ làm giảm giá mặt hàng tương tự tại thị trường của nước nhập khẩu. Điều này sẽ gây ra những tác động tiêu cực đối với các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng tương tự tại thị trường nước nhập khẩu, chủ doanh nghiệp bị giảm lợi nhuận do phải hạ giá để cạnh tranh với mặt hàng nhập khẩu, công nhân làm việc trong doanh nghiệp có nguy cơ bị giảm tiền công vì hàng hóa bán được với giá thấp. Tuy nhiên, nếu giá bán của hàng hóa nhập khẩu thấp hơn giá bán của hàng hóa nội địa tương tự thì người tiêu dùng sẽ được lợi, họ được hưởng lợi thế về giá và được tiếp cận hàng ngoại với giá rẻ. Vì vậy, trước khi áp dụng biện pháp chống bán phá giá cần phải cân nhắc việc áp dụng biện pháp nào sẽ có lợi hơn đối với nền kinh tế của nước nhập khẩu. Xét dưới góc độ toàn cục, lợi ích cuối cùng mà nước nhập khẩu cần phải bảo vệ là lợi ích của người tiêu dùng. Và lợi ích của người tiêu dùng thì rõ ràng lớn hơn nhiều những thiệt hại mà các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa tương tự phải gánh chịu. Do đó, nếu muốn bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp trong nước thì việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá sẽ không phải là giải pháp tối ưu. Quan điểm thứ hai cho rằng việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá sẽ gây sức ép làm tăng tính cạnh tranh tại thị trường nước xuất khẩu bằng cách xóa bỏ các hàng rào thương mại - công cụ tạo thế độc quyền cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên, quan điểm này cũng cần phải cân nhắc vì tăng tính cạnh tranh tại thị trường nước xuất khẩu chưa chắc đã là điều mà nước nhập khẩu mong muốn khi áp dụng biện pháp chống bán phá giá này.
  • 17. 12 Quan điểm thứ ba lại cho rằng việc bán phá giá có thể gây lãng phí nguồn lực tại nước nhập khẩu do nươc này phải điều chỉnh giá để đạt mức giá thấp hơn. Cho nên cần phải chống bán phá giá. Tuy nhiên, qua điểm này chỉ đúng khi hàng nhập khẩu bị bán phá giá trong thời gian ngắn với số lượng nhỏ, còn nếu việc bán phá giá với số lượng lớn, trong một thời gian dài thì việc điều chỉnh nguồn lực tại nước nhập khẩu là hoàn toàn hợp lý và không hề lãng phí. * Bán phá giá là bán dưới hình thức chi phí làm ra món hàng đó (chi phí sản xuất) Trong thương mại quốc tế, bán há giá còn bao gồm cả tình huống GXK hàng hóa thấp hơn chi phí sản xuất ra món hàng hóa đó. Bởi lẽ, đây cũng là một hình thức phân biệt giá, vì doanh nghiệp không thể duy trì việc bán hàng dưới chi phí sản xất ra món hàng đó nếu không bù lỗ cho phần này ằng những phần bán hàng trên chi phí tại các thị trường khác. Thông thường việc doanh nghiệp ban phá giá trong trường hợp này không phải nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận mà nhằm các mục tiêu sau đây: Độc chiếm thị trường: Mục đích của hành vi bán phá giá này là doanh nghiệp bán hàng với giá thấp nhằm thôn tính, độc chiếm thị trường. Sau một thời gian chịu lỗ, doanh nghiệp sẽ loại được đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường và khi đạt được điều này, doanh nghiệp sẽ tăng giá để thu lợi nhuận độc quyền. Trong trường hợp này, doanh nghiệp đã hy sinh lợi nhuận ngắn hạn để tối đa hóa lợi nhuận dài hạn. Hành vi này không chỉ gây những thiệt hại lớn cho cá doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng cạnh tranh của nước nhập khẩu mà thậm chí sau một thời gian ngắn được hưởng lợi về gia thì người tiêu dùng cũng sẽ bị thiệt hại khi doanh nghiệp đẩy giá lên cao để thu lợi nhuận độc quyền… Vì vậy, hành vi này cần phải được ngăn chặn. Đây cũng là lý luận cổ điển của các học giả và nhà
  • 18. 13 lập pháp ủng hộ quan điểm áp dụng các biện pháp chống bán phá giá [22]. Tuy nhiên, trên thực tế việc bán phá giá theo cách này khó có thể thực hiện, vì để đạt được mục tiêu tiêu diệt đối thủ cạnh tranh đó, doanh nghiệp không những phải loại bỏ tất cả các đối thủ cạnh tranh khác ra khỏi thị trường mà còn phải tìm loại bỏ tất cả cách ngăn chặn sự quy trở lại của các đối thủ cạnh tranh khi giá bị đẩy lên cao. Đây là việc làm rất khó khăn vì khi đã thôn tính được thị trường, nước nhập khẩu có thể triệt tiêu sứ mạnh độc quyền của doanh nghiệp bằng cách đánh thuế đối với lợi nhuận độc quyền. Thực tế cho thấy, tỷ lệ các vụ tranh chấp thương mại liên quan đến hành vi bán phá giá nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh là rất hiếm. Tuy nhiên, lịch sử thương mại quốc tế cũng đã chứng kiến có vụ bán phá giá theo kiểu như vậy, đó là trường hợp Nhật Bản bán phá giá hàng tivi tại thị trường Mỹ. Vào đầu những năm 1960, sáu công ty điện tử hàng đầu của Nhật là Hitachi, Misushita, Sanyo, Sharp, Misubishi và Tosiba đã cạnh tranh gay gắt với nhau. Nhưng đến cuối năm 1964, các công ty này đã thỏa thuận với nhau nhằm thống nhất nâng giá bán, quy định sản lượng của mỗi công ty. Kết quả của việc thỏa thuận này là trong nhiều năm, người tiêu dùng Nhật Bản phải trả 700 USD cho một chiếc tivi màu, trong khi các công ty đó bán ở Mỹ chỉ với giá 400 USD một tivi màu cùng loại (CPSX ra một chiếc tivi màu là 450 USD). Việc bán phá giá đó đã làm cho các công ty sản xuất tivi của Mỹ không chịu nổi quá trình cạnh tranh và cho đến cuối năm 1989, nhiều hãng tivi của Mỹ bị phá sản, công nghiệp sản xuất tivi của Mỹ bị suy yếu mạnh [26, tr. 27]. Như vậy, sau một thời gian chịu thua lỗ, các công ty của Nhật đã chiếm lĩnh được thị trường tivi tại Mỹ và khi đạt được mục đích này, họ bắt đầu chiến lược nâng giá để thu lợi nhuận độc quyền. * Cạnh tranh giành thị phần Một số doanh nghiệp xuất khẩu hàng với mức giá thấp hơn chi phí
  • 19. 14 biên nhằm mục tiêu chiếm được thị phần cao hơn trên thị trường của nước nhập khẩu. Trong trường hợp này, doanh nghiệp đã bán phá giá hàng hóa. Tuy nhiên, mục tiêu của doanh nghiệp là không định thôn tính toàn bộ thị trường mà chỉ cố tăng thị phần của mình. Vì vậy, việc áp dụng các biện pháp chống phá giá trong trường hợp này cũng không phải là giải pháp tối ưu. Bởi các lý do sau đây: - Đối với các thị trường lần đầu tiên thâm nhập, để cạnh tranh với hàng hóa cùng loại ở trong nước, các doanh nghiệp thường sử dụng hành động này vì hàng hóa nhập khẩu mới chưa được người tiêu dùng biết đến về mẫu mã, bao bì, chủng loại và chất lượng,… như thế nào nên doanh nghiệp phải có các chiêu xúc tiến thương mại như hạ giá để người tiêu dùng tiếp cận hàng hóa. Sau một thời gian dùng thử hàng hóa, nếu người tiêu dùng chấp nhận được thì doanh nghiệp có thể tăng giá để bù đắp phần lỗ trước đó. Hành động bán phá giá này của doanh nghiệp sẽ tạo cơ hội cho người tiêu dùng được sử dụng hàng hóa nhập ngoại chất lượng tốt, mẫu mã đẹp… giá lại rẻ. Cho dù sau đó, doanh nghiệp có thể tăng giá cho đúng giá trị của hàng hóa thì cũng là quy luật bình thường. - Thông qua hoạt động này, doanh nghiệp có thể tiếp nhận được các thông tin phản hồi từ phá người tiêu dùng để có kế hoạch kịp thời sửa chữa, cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng hàng hóa và thái độ phục vụ, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Một khi doanh nghiệp đáp ứng được các đòi hỏi khắt khe đó của thương trường thì chắc chắn doanh số bán hàng của doanh nghiệp sẽ tăng mạnh trong tương lai nên hiện tại họ sẵn sàng bán hàng với giá thấp hơn chi phí sản xuất. Trong ngắn hạn, người tiêu dùng ở nước nhập khẩu sẽ được hưởng lợi do mua được hàng ngoại nhưng giá lại rẻ hơn hàng nội. Trong dài hạn, khả năng này vẫn có thể diễn ra do chi phí sản xuất vẫn luôn có xu hướng giảm vì sức ép của việc cải
  • 20. 15 tiến, đổi mới trang thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất đáp ứng nhu cầu cạnh tranh. Thậm chí cac doanh nghiệp trong nước cũng được hưởng lợi từ hành động này của các doanh nghiệp xuất khẩu vì muốn tồn tại và đứng vững trong cuộc cạnh tranh khốc liệt đó thì họ buộc phải học hỏi các đối thủ của mình để nâng cao năng lực cạnh tranh, còn nếu không họ sẽ bị các doanh nghiệp nước ngài bỏ xa và có nguy cơ bị đào thải. Thu hồi lại một phần vốn hoặc quay vòng vốn nhanh Một số doanh nghiệp có thể xuất khẩu với mức giá thấp hơn chi phí sản xuất nhằm mục tiêu thu hồi lại một phần vốn hặc muốn quy vòng vốn nhanh đã bỏ vào kinh doanh. Trong trường hợp này, doanh nghiệp cũng đã bán phá giá hàng hóa, tuy nhiên mục tiêu của doang nghiệp không phải là nhằm thôn tính thị trường cũng như mục tiêu tăng thị phần mà đơn giản chỉ vì họ muốn thu hồi lại một phần vốn đối với các hàng hóa dư thừa, tồn kho hoặc ế ẩm như hàng hóa đã lỗi mốt, hết mùa,.. Các loại hàng hóa này không thể giải quyết được theo cơ chế giá bình thường mà phải co các giải pháp thích hợp để tiêu thụ chúng. Hoặc là, họ nhằm mục đích quay vòng vốn nhanh nên đã bán tống bán tháo hàng hóa với giá rất thấp để thu hồi lại vốn để sản xuất mặt hàng "ngon ăn" hơn. Việc bán phá giá hàng hóa với mục tiêu như vậy, rõ ràng không gây thiệt hại đến lợi ích của nước nhập khẩu, biện pháp tốt nhất là hãy tận dụng số hàng hóa ngoại bán với giá rất rẻ này. Tóm lại, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng bán phá giá như đã phân tích ở trên, nhưng không phải mọi trường hợp phá giá đều là hành vi thương mại tiêu cực, đều có thể áp dụng biện pháp ngăn cản. Bởi lẽ, nếu mọi trường hợp đều gán cho cái mác là "bán phá giá" và áp dụng các biện pháp ngăn cản thì sẽ tạo ra sự bảo hộ không cần thiết cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước, làm giảm lợi ích của người tiêu dùng và toàn xã hội. Chính vì vậy, khi có hiện tượng bán phá giá xẩy ra cần phải điều tra chính xác
  • 21. 16 nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đó để có cách ứng phó kịp thời và chỉ nên áp dụng các biện pháp chống bán phá giá khi hảnh động bán phá giá là các hành vi thương mại không công bằng, bóp méo hành động thương mại bình thường, gây thiệt hại cho nước nhập khẩu nói chung, các doanh nghiệp trong nước và người tiêu dùng nói riêng. 1.1.2. Chống bán phá giá 1.1.2.1. Khái niệm chống bán phá giá Trong thương mại quốc tế mà trước hết là trong hệ thống pháp luật chống bán phá giá của các nước trên thế giới, hiện nay chưa có một định nghĩa trực tiếp nào là chống bán phá giá. Các quy định của GATT trước kia và WTO hiện nay chỉ nêu ra các biện pháp mà các quốc gia thành viên có thể sử dụng để chống lại việc xuất khẩu phá giá vào thị trường nội địa đối với những hành vi thương mại tiêu cực, không công bằng, gây thiệt hại đến lợi ích của nước nhập khẩu. Chống bán phá giá, trong một chừng mực nhất định, đây là hệ quả logic suy ra từ khái niệm bán phá giá như là một sợ phân biệt đối xử về giá cả do các nhà sản xuất / xuất khẩu riêng rẽ tiến hành [15]. Tuy nhiên, nhận thức được nguy cơ của việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá nhằm mục đích bảo hộ, sau đó GATT tiếp tục quy định chi tiết, chính xác những tình huống mà theo đó các biện pháp này có thể được áp dụng. Có thể nói nguyên tắc của GATT là các biện pháp chống bán phá giá sẽ chỉ có hiệu lực cho tới khi và trong phạm vi cần thiết nhằm để chống lại hành động bán phá giá gây tổn hại. Trước thực tế nhiều nước lạm dụng quyền này đã gây thiệt hại cho các nước xuất khẩu, các quy tắc quốc tế nói chung và các quy tắc của WTO đã luôn luôn tập trung nhiều vào các tác động cản trở thương mại của hành động bán phá giá. Cho nên dù không ngăn cấm việc bán phá giá nhưng GATT trước kia và WTO hiện nay cho phép nước nhập khẩu được quyền áp dụng một số biện pháp để chống lại hành động bán phá giá. Vì vậy, ở mức độ khái quát có thể định nghĩa khái niệm chống bán phá giá như sau:
  • 22. 17 Chống bán phá giá là tổng thể các biện pháp mà nước nhập khẩu được quyền tiến hành nhằm chống lại mọi tổ chức, cá nhân có hành động bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào nước của họ với mục đích duy trì một nền thương mại công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng cạnh tranh trong nước và người tiêu dùng. 1.1.2.2. Các biện pháp chống bán phá giá Như đã phân tích trong mục 1.1.1.2, không phải mọi hành động bán phá giá đều cần phải áp dụng các biện pháp chống lại mà chỉ áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với các hành vi cạnh tranh tiêu cực, không công bằng, bóp méo hoạt động thương mại bình thường, gây ra các tổn hại đến lợi ích của nước nhập khẩu. Vậy đó là các biện pháp nào? Theo định nghĩa về chống bán phá giá đã xây dựng ở trên thì đó là tổng thể các biện pháp mà nước nhập khẩu được quyền tiến hành. Hiện nay, hiệp định chống bán phá giá của WTO, cũng như pháp luật về chống bán phá giá của Mỹ, EU, Nhật Bản và các nước ASEAN,.. đã và đang chủ yếu sử dụng các biện pháp chống bán phá giá sau đây: Thứ nhất, áp dụng biện pháp tạm thời: Biện pháp tạm thời là biện pháp do cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với hàng hóa bị điều tra nhập khẩu và nước nhấp khẩu trước khi có quyết định cuối cùng về biện pháp chống bán phá giá với mục đích chủ yếu là để ngăn chặn thiệt hại tiếp tục xẩy ra trong quá trình điều tra. Thứ hai, cam kết về giá: Cam kết về giá là việc nhà sản xuất, xuất khẩu cam kết sử đổi mức giá (tăng giá lên) hoặc cam kết ngừng xuất khẩu phá giá hàng hóa. Cam kết là một thỏa thuận tự nguyện giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu và nước nhập khẩu. Cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu sẽ chấp nhận cam kết về giá do các nhà xuất khẩu đưa ra nếu thấy rằng cam kết đó đủ để loại bỏ các thiệt hại do việc bán phá giá gây ra.
  • 23. 18 Thứ ba, thuế chống bán phá giá: Thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung bên cạnh thuế nhập khẩu thông thường, do cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu ban hành nhằm mục đích chống lại việc bán phá giá và loại bỏ những thiệt hại do hành vi nhập khẩu bán phá giá gây ra. Theo pháp luật của các nước, trong quá trình điều tra chống bán phá giá bên cạnh biện pháp tạm thời, hoặc sau khi cam kết về giá không đạt được mục đích, thì có thể áp dụng thuế chống bán phá giá. Thông thường, thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng khi có các điều kiện: (i) có bán phá giá; (ii) có tổn hại do bán phá giá gây ra; (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa hành động bán phá giá và tổn hại thực tế. Các biện pháp chống bán phá giá trên đây, tác giả sẽ phân tích kỹ hơn trong chương 2 khi so sánh với quy định về áp dụng các biện pháp chống bán phá giá theo pháp luật Việt Nam. 1.1.2.3. Ảnh hưởng của chống bán phá giá đối với tự do thương mại Thứ nhất, đối với thương mại quốc tế: Khi xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ thì các biện pháp chống bán phá giá lại càng được sử dụng thường xuyên, phổ biến hơn. Một nền kinh tế mức độ mở cửa bao nhiêu thì sự phụ thuộc của nó vào cac biện pháp chống cạnh tranh không lành mạnh nói chung và chống bán phá giá nói riêng càng tăng lên bấy nhiêu. Trên phương diện toàn cầu, khi mà các hàng rào thuế quan được cắt giảm thì các hàng rào phi thuế quan sẽ tăng lên. Trong một thể chế thương mại đa biên tự do hơn, các nước ngày càng phải dùng nhiều hơn các biện pháp mà họ được phép sử dụng (các biện pháp khắc phục cạnh tranh không lành mạnh) nhằm duy trì một nền thương mại công bằng. Trong khi việc sử dụng các biện pháp chống bán phá giá trong những năm vừa qua đã có những
  • 24. 19 ảnh hưởng rõ ràng tới khối lượng giao dịch thương mại, dưới hình thức là những biện pháp tự vệ được phép sau khi chứng minh được việc bán phá giá và tổn hại đi kèm. Tuy nhiên có một sự thật là hầu hết nền thương mại quốc tế nói chung vẫn không bị ảnh hưởng nhiều. Ví dụ như, chính bản thân hệ thống các biện pháp chống bán phá giá cũng làm hạn chế khả năng áp dụng chúng bởi vì: (i) thứ nhất, các thủ tục chống bán phá giá đang được tiến hành chủ yếu là những cuộc điều tra chiến lược giá của các nhà sản xuất riêng lẽ trên hai thị trường hoặc nhiều hơn; (ii) thứ hai, các cơ quan thi hành luật pháp phải tuân thủ chặt chẽ các quy định pháp lý của cả trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, nếu xét trong từng trường hợp cụ thể, việc chống bán phá giá lại có thể dẫn tới rất nhiều hậu quả suy giảm cạnh tranh khác nhau trong đó có việc đánh thuế quan lên các hàng nhập khẩu, các cam kết tăng giá, thay thế những hạn chế hiện hành hoặc là chúng đóng vai trò như là một rào cản mới đối với thương mại. Tác động tiêu cực này còn lớn hơn rất nhiều so với khối lương thương mại thực sự liên quan. Thậm chí sự khởi xướng một cuộc điều tra về chống bán phá giá có thể gây ra một tác động ngay lập tức đối với các luồng thương mại vì nó sẽ thúc đẩy các nhà nhập khẩu tìm kiếm các nguồn cung cấp thay thế. Thứ hai, đối với các quốc gia đang phát triển: Hiện nay, nhiều nước đang phát triển đã ban hành các văn bản pháp luật về chống bán phá giá. Các nước đang phát triển coi các khoản thuế chống bán phá giá như là một công cụ để bù đắp cho việc tự do hóa về thuế quan và loại bỏ dần những hạn chế định lượng cũng như các biện pháp phi thuế quan khác. Do đó, họ ngày càng hy vọng nhiều vào những lợi ích của chống bán phá giá. Về khía cạnh này, các nước đang phát triển đã làm theo mô hình của các nước công nghiệp phát triển, các nước này trước kia cũng đã phải cầu
  • 25. 20 viện đến các biện pháp chống bán phá giá khi nhận thấy sự giảm xuống của thuế quan và các hạn chế định lượng của nước mình. Thêm vào đó, ở những nước đã nâng cao chế độ ngoại hối của mình thì chống bán phá giá là một cách để giảm bớt sự cạnh tranh của nước ngoài trong những ngành kinh tế cũng như là để giảm những khoản thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai do những biến đổi đột ngột từ bên ngoài gây ra. Đây có thể nói là một ảnh hưởng tích cực của việc chống bán phá giá tới các nước đang phát triển. Tuy nhiên, có một sự thật là cùng với việc các nước đang phát triển áp dụng các biện pháp chống bán phá giá thì hầu hết các biện pháp này lại được nhiều nước phát triển nhằm chống lại chính các nước đan phát triển [10]. Điều này cũng dễ hiểu vì phần lớn các sản phẩm bán với giá rẻ là từ các nước đang phát triển. Các doanh nghiệp nhỏ, nhất là các doanh nghiệp mới tham gia thị trường nên họ thường bắt buộc phải giữ giá ở mức thấp để có thể thâm nhập thị trường từ các nước đang phát triển đặc biệt dễ bị các biện pháp chống bán phá giá gây tổn hại. Điều này được giải thích bởi: (i) trước hết, là những doanh nghiệp mới tham gia thị trường nên họ thường bắt buộc phải giữ giá ở mức thấp để có thể thâm nhập thị trường và do đó khiến cho họ lâm vào tình thế bị gán cái mác là phá giá. Mặc dù trên thực tế có những lý do kinh tế xác đáng khiến cho GCK có thể thấp hơn GTTT. Tuy nhiên, cơ quan điều tra có thẩm quyền của nước nhập khẩu không điều tra nguyên nhân của việc bán phá giá. Họ chỉ điều tra là có hay không hành động bán phá giá. Và nếu việc bán phá giá gây tổn hại cho ngành công nghiệp trong nước thì họ sẽ có quyền áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Và nếu việc bán phá giá gây tổn hại cho ngành công nghiệp trong nước thì họ sẽ có quyền áp dụng các biện pháp chống bán phá giá; (ii) thứ hai, vì những doanh nghiệp ở các nước đang phát triển ít có khả năng để đối phó lại với các trường hợp bị kiện là phá giá hoặc là làm giảm những tác động về mặt kinh tế do các biện pháp chống bán phá
  • 26. 21 giá gây ra và (iii) cuối cùng, các doanh nghiệp thường phải chịu những ảnh hưởng mạnh do quá trình điều tra. Khoản thuế thật sự đánh vào hàng nhập khẩu được bán phá giá thông thường chỉ được xác định sau khi giai đoạn cuối của quá trình điều tra kết thúc và điều này có thể dẫn tới sự phá sản của những doanh nghiệp là đối tượng của các cuộc điều tra chống bán phá giá. Tóm lại, các biện pháp chống bán phá giá thường gây ra những tác động tiêu cực tới các nước đang phát triển nhiều hơn là các nước phát triển. Thứ ba, đối với sản xuất, người tiêu dùng: Bán phá giá có thể gây thiệt hại cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu. Tuy nhiên có một thực tế là người tiêu dùng hay ngành công nghiệp sử dụng sản phẩm được bán phá giá thì dường như lại được lợi từ hành động bán phá giá đó. Thông thường, một cuộc điều tra chống bán phá giá bao giờ cũng liên quan đến quyền lợi của các bên: quyền lợi của ngành sản xuất sản phẩm tương tự, quyền lợi của ngành sử dụng sản phẩm đó, quyền lợi của người tiêu dùng và quyền lợi của người xuất khẩu. Vậy phải giải quyết mối liên hệ giữa các quyền lợi này như thế nào. Mục đích của các biện pháp chống bán phá giá là để ngăn chặn hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh. Có thể nói rằng khi một nước áp dụng thuế chống bán phá giá lên một sản phẩm nhập khẩu nào đó thì chi phí của ngành sản xuất trong nước sử dụng sản phẩm đó làm đầu vào sẽ tăng lên, nhưng đây là một khoản tăng lên hợp lý vì: (i) nếu có hiện tượng bán phá giá thì việc này sẽ gây tổn hại cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự trong nước; (ii) nếu với hàng hóa đầu vào rẻ một cách vô lý, các doanh nghiệp có thể tiến hành mở rộng quy mô sản xuất. Tuy nhiên, vấn đề sẽ nảy sinh ra nước xuất khẩu ngừng việc cung cấp hàng phá giá. Các cơ sở vật chất được mở rộng trở nên sai chức năng và biểu hiện sự phân bổ lệch lạc các nguồn lực do tín hiệu sai từ hệ thống giá cả. Mục đích chủ yếu của các cơ quan chức năng của nước
  • 27. 22 nhập khẩu là bảo vệ ngành sản xuất trong nước sản xuất sản phẩm tương tự. Có thể họ cũng lắng nghe ý kiến của những bên khác. Nhưng việc áp dụng thuế chống bán phá giá có thể gây tác động lên khả năng cạnh tranh tương đối của bất kỳ một ngành sản xuất nào khác nằm ngoài phạm vi của các cuộc điều tra của họ. Xét trên khía cạnh tiêu dùng thì việc người tiêu dùng ở nước nhập khẩu mua được hàng hóa với giá thấp có lẽ có thể coi là lợi ích duy nhất mà hoạt động phá giá mang lại cho nước nhập khẩu. Tuy nhiên, lợi ích này lại chính là việc dẫn đến các thiệt hại đối với các ngành sản xuất sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu. 1.2. Pháp luật chống bán phá giá 1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật chống bán phá giá Khi có hiện tượng bán phá giá xảy ra, chống hay không chống hiện tượng đó và nếu chống thì chống đến mức độ nào, điều này hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ của mỗi nhà nước đối với mỗi trường hợp cụ thể. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của vấn đề này và đề việc chống bán phá giá được diễn ra đúng theo quy định của pháp luật nên các quốc gia đã ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Tổng hợp các văn bản pháp luật đó tạo thành hệ thống pháp luật chống bán phá giá. Nói cách khác, pháp luật chống bán phá giá là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình áp dụng các biện pháp chống bán phá giá từ việc xác định hàng hóa bị bán phá giá, điều kiện và nguyên tắc áp dụng biện pháp chống bán phá giá, các biện pháp chống bán phá giá cho đến các thủ tục điều tra để áp dụng biện pháp chống bán phá giá và các quan hệ xã hội khác có liên quan đến việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Pháp luật chống bán phá giá là một bộ phận cấu thành của hệ thống
  • 28. 23 pháp luật thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa cạnh trong trong nước, bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng, góp phần chống lại sản phẩm nhập khẩu với giá rẻ, đồng thời còn là một vũ khí tự vệ, trấn an các nhà sản xuất trong nước. Trước hết, pháp luật chống bán phá giá là công cụ chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhằm duy trì một nền thương mại công bằng bình đẳng. Cạnh tranh là quy luật tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau để chiếm lĩnh thị trường, khách hàng nhằm thu được lợi nhuận cao nhất, mà lợi nhuận lại chính là mục tiêu, là động lực và là phương tiện tồn tại của họ. Mục đích tối đa hóa lợi nhuận đã tạo ra sức ép buộc họ phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mình như vốn, nhân công, công nghệ,… Cũng chính mục đích này đã khuyến khích, thúc đẩy họ phải nghiên cứu và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới nhằm giảm thiểu được tối đa các chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm để có thể đưa các sản phẩm của họ ra thị trường một cách nhanh nhất, rẻ nhất, đẹp nhất và tốt nhất cũng như đáp ứng được đầy đủ nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Như vậy, dưới tác động của quy luật cạnh tranh cho phép nhà sản xuất có được những nguyên liệu, nhân công đầu vào đáp ứng đúng yêu cầu của sản xuất với giá cạnh tranh và hợp lý; có được những trang thiết bị, công nghệ tiên tiến; người tiêu dùng được hưởng những sản phẩm tốt nhất với giá thấp rẻ nhất qua đó nâng cao đời sống của mình và qua đó nền sản xuất trong xã hội được phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả. Dưới góc độ kinh tế này, rõ ràng bán phá giá không phải bao giờ cũng gây ra những tác động tiêu cực và cần phải ngăn cấm, nhưng WTO lại cho phép các quốc gia ngăn cấm điều này vì cho rằng bán phá giá là
  • 29. 24 một hành động cạnh tranh không lành mạnh, bóp méo hoạt động thương mại bình thường, gây tổn hại cho ngành sản xuất trong nước và xâm hại đến lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Vì vậy, hầu hết các quốc gia đều ban hành pháp luật chống bán phá giá nhằm mục đích duy trì và bảo vệ một nền thương mại công bằng và bình đẳng. Thứ hai, pháp luật chống bán phá giá góp phần bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa cạnh tranh ở trong nước. Các sản phẩm nhập khẩu được bán phá giá có thể gây thiệt hại nghiêm trọng, thậm chí có thể bóp chết ngành sản xuất các sản phẩm cạnh tranh ở trong nước, do đó tiến hành việc chống bán phá giá là một biện pháp quan trọng để bảo vệ nền sản xuất trong nước. Trước đây chỉ có rất ít quốc gia sử dụng luật chống bán phá giá, đó là Mỹ và EU. Tuy nhiên, kể từ cuối những năm 1980, rất nhiều nước mà đặc biệt là các nước đang phát triển ở châu á và châu Mỹ Latinh đã tăng cường ban hành và sử dụng luật chống bán phá giá của mình. Trước đó các nước này thường dùng thuế quan cao để bảo vệ sản xuất trong nước, chống lại việc bán phá giá. Tuy nhiên, những cuộc đàm phán của vòng Urugoay đã dẫn đến việc giảm mạnh các mức thuế quan, do đó một số nước bắt đầu quay sang sử dụng luật thuế chống bán phá giá để bảo vệ sản xuất trong nước. Hơn nữa, các nhân tố kinh tế, ví dụ như các cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực và sự cạnh tranh kinh tế mạnh mẽ đã khiến cho các nước tăng cường áp dụng các biện pháp chống bán phá giá để bảo vệ quyền lợi của mình. Thứ ba, pháp luật chống bán phá giá góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Mục đích của việc ban hành pháp luật chống bán phá giá và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá không chỉ nhằm chống lại sự cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ lợi ích của các ngành sản xuất hàng hóa cạnh tranh
  • 30. 25 trong nước mà còn nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng khi có hiện tượng bán phá giá xảy ra. Bởi lẽ, nếu mục đích của hành động bán phá giá là nhằm thôn tính và chiếm đoạt thị trường thì trong ngắn hạn, người tiêu dùng sẽ được lợi vì mua được hàng hóa nhập ngoại với giá rẻ. Tuy nhiên, sau khi "nuốt chửng" các đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp bán phá giá sẽ tăng giá để thu lợi nhuận độc quyền. Trong bối cảnh đó, nếu không có pháp luật chống bán phá giá để kịp thời ngăn chặn hành động bán phá giá đang diễn ra bằng việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá thì người tiêu dùng sẽ là người chịu thiệt hại lớn nhất. Điều này sẽ làm giảm lợi ích của toàn bộ xã hội của nước nhập khẩu. Thứ tư, pháp luật chống bán phá giá còn là một vũ khí tự vệ, trấn an các nhà sản xuất hàng hóa cạnh tranh trong nước. Dưới góc độ pháp lý, bán phá giá bị coi là một trong những hình thức cạnh tranh không lành mạnh. Để bảo vệ các ngành sản xuất hàng hóa cạnh tranh trong nước, các quốc gia có quyền áp dụng các biện pháp chống lại hành động bán phá giá nhằm tạo lập và duy trì thế cân bằng trong cạnh tranh. Các biện pháp chống bán phá giá như vậy nhằm tài lập một sân chơi bình đẳng trong cạnh tranh, đúng với tư duy của chủ nghĩa tự do kinh tế, nhưng rõ ràng đây là một công cụ bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa cạnh tranh trong nước như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá thì lại dường như đi ngược lại với tự do hóa thương mại vì các biện pháp chống bán phá giá cũng là một loại van an toàn cho chính sách tự do mậu dịch. Càng mở rộng cửa cho bên ngoài vào bao nhiêu thì càng phải nằm chắc cái vòi khóa để đóng van (đóng cửa) ngay lại được nếu cần bấy nhiêu. Càng chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế bao nhiêu thì càng phải có những thứ vũ khí tự vệ để phòng thủ và trước mắt là để trấn an các ngành sản xuất hàng hóa cạnh tranh bấy nhiêu, Cái vòi khóa để đóng van và vũ khí tự vệ để phòng thủ và trấn an đó chính là pháp luật chống bán phá giá.
  • 31. 26 Với vai trò rất quan trọng như đã phân tích ở trên, cho đến tháng 10 năm 2002, trên thế giới đã có 85 quốc gia ban hành văn bản pháp luật chống bán phá giá dưới cấp độ khác nhau như luật, pháp lệnh, nghị định hoặc thông tư liên tịch [33, tr.8, 9]. Tuy nhiên, do bị chi phối bởi các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cũng như quan điểm và kỹ thuật lập pháp nên có quốc gia ban hành các quy phạm pháp luật chống bán phá giá trong một văn bản pháp luật riêng nhưng cũng có quốc gia ban hành các quy phạm về chống bán pháp giá vào trong Luật cạnh tranh hoặc Luật thuế hoặc Luật hải quan. Điều đó cho thấy rằng pháp luật chống bán phá giá là một bộ phận rất quan trọng của hệ thống pháp luật thương mại, có liên quan mật thiết tới lĩnh vực pháp luật cạnh tranh, pháp luật thuế. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả chưa có điều kiện đi sâu vào phân tích và tìm hiểu các điều kiện chi phối cũng như quan điểm, kỹ thuật lập pháp trong việc xây dựng pháp luật chống bán phá giá của các quốc gia đó mà tiếp đến tác giả chỉ đi vào tìm hiểu một số nội dung cơ bản của Hiệp định chống bán phá giá WTO và pháp luật chống bán phá giá của một nước trên thế giới để làm cơ sở cho việc so sánh, đối chiếu với các nội dung cơ bản của pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam. 1.2.2. Hiệp định chống bán phá giá của WTO và pháp luật chống bán phá giá của một nước trên thế giới 1.2.2.1. Hiệp định chống bán phá giá của WTO Nhận thức được tầm quan trọng của việc chống bán phá giá, năm 1995, WTO đã ban hành Hiệp định thực thi Điều VI của GATT 1994 về chống bán phá giá (thường gọi là hiệp định chống bán phá giá của WTO – Anti-dumping Agreement – (ADA)). ADA gồm 3 phần, được chia thành 18 điều, với 4 nhóm vấn đề chính sau [34]: - Các quy định về nội dung, bao gồm các điều khoản chi tiết về cách
  • 32. 27 thức, tiêu chí xác định việc bán phá giá, thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá và thiệt hại; - Các quy định về thủ tục, bao gồm các điều khoản liên quan đến điều tra, áp đặt thuế chống bán phá giá như thời hạn điều tra, nội dung đơn kiện, thông báo, quyền tố tụng của các bên liên quan, trình tự áp dụng các biện pháp tạm thời, quyền khiếu nại,…; - Các quy định về thẩm quyền của Ủy ban về thực tiễn chống bán phá giá (Committee on Anti-dumping Practices), bao gồm các quy định về thành viên, chức năng và hoạt động của Ủy ban trong quá trình điều hành các biện pháp chống bán phá giá thực hiện tại quốc gia thành viên; - Các quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia liên quan đến biện pháp chống bán phá giá, bao gồm các quy tắc áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia thành viên WTO liên quan đến biện pháp chống bán phá giá của một quốc gia thành viên. Quá trình nghiên cứu các quy định trên của ADA, cho thấy, dường như định nghĩa về bán phá giá của ADA không chú ý nhiều tới khía cạnh kinh tế mà chủ yếu nhấn mạnh dến khía cạnh pháp lý của nó, có thể nói định nghĩa về bán phá giá của ADA là một định nghĩa mang tính pháp lý để các quốc gia có thể dựa vào đó để chống lại một hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh trong kinh tế đang phổ biến hiện nay là bán phá giá, đồng thời ngăn ngừa sự lạm dụng biện pháp này như là một trở ngại phi thuế mới trong thương mại quốc tế. Có thể nói một ưu điểm của ADA so với các quy định trước đây của GATT là đưa ra được các quy tắc cụ thẻ hơn để tính toán mức phá giá, nêu rõ các thủ tục chi tiết, cụ thể cần phải tiến hành để thực hiện các cuộc điều tra. Đồng thời nó có các tiêu chuẩn cụ thể để các Ủy ban giải quyết tranh chấp có thể áp dụng trong các vụ tranh chấp về chống bán phá giá.
  • 33. 28 Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm trên thì những quy định của ADA cũng còn có một số điểm hạn chế như sau: (i) Trước hết, một số quy định còn chưa rõ ràng, chưa đầy đủ, là nguồn gốc cho những sư tranh chấp sau này, ví dụ như vấn đề so sánh giữa sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm tiêu thụ trong nước, quy định về sản phẩm tương tự; (ii) Các nước không phải là thành viên của WTO không có quyền lực trực tiếp khai thác những cái được của những quy định còn thiếu rõ ràng và chưa đầy đủ đó; (iii) Trình tự tiến hành điều tra quá phức tạp, gây nhiều tốn kém nguồn lực cả cho cơ quan điều tra và đối tượng bị điều tra, bị áp dụng các biện pháp này chống bán phá giá, nói chung đe dọa quyền lợi của các nước có trình độ phát triển tương đối thấp và (iv) ADA còn chưa rõ ràng trong việc quy định về những vụ việc liên quan đến các đối tác có liên hệ, trước hết là các công ty xuyên quốc gia. Mặc dù còn có một số hạn chế như trên, nhưng các quy định của ADA chính là cơ sở pháp lý quan trọng để các nước thành viên của WTO tuân thủ khi thực thi và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá để kiểm soát điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá tại nước mình, đồng thời để kịp thời cung cấp các thông tin cần thiết cho các nước thành viên. Kể từ khi ADA ra đời đến thời điểm cuối năm 2003, trên thé giới đã có 2.419 cuộc điều tra về chống bán phá giá, trong đó năm 1995 là 157 vụ, năm 1996 là 224 vụ. năm 1997 là 243 vụ, năm 1998; là 256 vụ, năm 1999 là 355 vụ, năm 2000 là 294 vụ, năm 2001 là 366 vụ, năm 2002 là 311 vụ, năm 2003 là 210 vụ [18, tr.55]. 1.2.2.2. Pháp luật chống bán phá giá của một nước trên thế giới * Pháp luật chống bán phá giá của Mỹ Pháp luật chống bán phá giá của Mỹ đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm, việc chống bán phá giá đã được đề cập ngay từ trước năm 1890 và chống bán phá giá được luật hóa trong luật về thuế năm 1913 ở một điều khoản về đánh thuế chống bán phá giá đối với các hàng hóa nhập khẩu phá giá và đạo
  • 34. 29 luật chống bán phá giá đầu tiên của Mỹ được ban hành vào năm 1916. Hiện nay, các vấn đề về chống bán phá giá được quy định trong các văn bản sau: Luật chống bán phá giá 1916; Luật thuế quan 1930; Các phần 1671 – 1677n, Mục 19 Bộ luật Hoa Kỳ; Các phần 315.101 – 702 Mục 19 Bộ luật Quy định Hoa Kỳ; Các phần 207.1-120 Mục 19 Bộ luật Quy định Hoa Kỳ [19]. Đây là một hệ thống luật chặt chẽ, đầy đủ, đồng thời Mỹ cũng thường xuyên sửa đổi quy định của mình cho phù hợp với những quy định của quốc tế. Vì thế, những quy định về chống bán phá giá của Mỹ đã trở thành cơ sở để nhiều nước tham khảo xây dựng luật chống bán phá giá của mình. Mặc dù các quy định của WTO về vấn đề này là tương đối chi tiết và các nước vẫn có khá nhiều tự do trong việc áp dụng luật chống bán phá giá của mình nhưng hầu hết các nước đi theo những quy trình thủ tục giống như Mỹ. Do có đạo luật chống bán phá giá đầy đủ nên khi tiến hành các cuộc điều tra chống bán phá giá; Mỹ thường dựa và luật của nước mình. Mỹ là nước có nhiều cuộc điều tra chống bán phá giá nhất trên thế giới, từ năm 1995 đến cuối năm 2003, Mỹ đã tiến hành 329 vụ điều tra chống bán phá giá, trong đó có 205 vụ dẫn tới việc đánh thuế chống bán phá giá [15]. Mười nước đầu bảng trong các vụ kiện bán phá giá từ năm 1980 – 2000 là Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, CHLB Đức, Đài Loan, Brazil, Italia, Canada, Pháp, Vương quốc Anh [12, tr.28]. Sau khi cơ quan điều tra của Mỹ đưa ra quyết định về các biện pháp chống bán phá giá, nếu các nhà xuất khẩu nước ngoài (bị đơn) không đồng tình với quyết định đó thì họ có thể kiện ra WTO. Thông thường, quy trình điều tra chống bán phá giá tại Mỹ được tiến hành theo các bước sau [19]: Bước 1: Được bắt đầu khi một hay nhiều nhà sản xuất, một hiệp hội thương mại, hoặc một tổ chức công đoàn của Mỹ đại diện cho ngành sản xuất trong nước nộp đơn khiếu nại cho DOC và ITC. Đơn khiếu nại phải dẫn ra
  • 35. 30 rằng đang tồn tại việc bán sản phẩm với giá thấp hơn giá trị "hợp lý" (fair value), và việc bán này gây ra tổn hại cho ngành kinh tế trong nước. Mặc dù DOC cũng có thể tự mình mở một cuộc điều tra mà không có yêu cầu của ngành sản xuất trong nước, nhưng việc này rất hiếm khi xảy ra. Bước 2: Trong vòng 20 ngày sau khi nộp đơn khiếu nại, DOC phải quyết định liệu có bắt đầu tiến hành điều tra hay không dựa trên sự đầy đủ của đơn người khiếu nại có đủ điều kiện để đại diện cho ngành kinh tế của Mỹ hay không. Giống như yêu cầu của WTO và EC, sản lượng của người khiếu nại phải chiếm ít nhất 25% tổng sản lượng của ngành kinh tế đó và chiếm ít nhất 50% sản lượng của những thành viên trong ngành công nghiệp đó, những người đã bày tỏ ý kiến hoặc ủng hộ, hoặc phản đối khiếu nại. Bước 3: Quá trình điều tra sơ bộ - Thứ nhất, ITC tiến hành điều tra sơ bộ về thiệt hại nếu: (i) kết luận sơ bộ khẳng định (kết luận khẳng định) có thiệt hại cho ngành công nghiệp trong nước hoặc đe dọa tổn hại vật chất do hàng nhập khẩu gây ra (họ thường kiểm tra tổng tác động lên ngành công nghiệp trong nước của hàng nhập khẩu từ tất cả các nguồn); quá trình điều tra tiếp tục; còn nếu; (ii) kết luận sơ bộ là không có thiệt hại hoặc lượng hàng hóa nhập khẩu có liên quan là không đáng kể (kết luận phủ định); chấm dứt điều tra (kết luận sơ bộ của ITC phải được đưa ra trước khi DOC có kết luận sơ bộ). - Thứ hai, DOC tiến hành điều tra sơ bộ về bán phá giá nêu: (i) Kết luận sơ bộ khẳng định có việc bán phá giá (kết luận khẳng định); DOC sẽ ban hành quyết định áp dụng biện pháp tạm thời; nếu còn; (ii) kết luận sơ bộ là không có việc bán phá giá (kết luận phủ định); quá trình điều tra vẫn được tiếp tục nhưng DOC không được áp dụng biện pháp tạm thời. Bước 4: Quá trình điều tra - Thứ nhất, DOC điều tra lần cuối cùng về việc bán phá giá (kết luận của DOC phải đưa ra trước khi ITC đưa ra kết luận cuối cùng);
  • 36. 31 - Thứ hai, ITC điều tra lần cuối cùng về thiệt hại; - Nếu DOC hoặc ITC có kết luận không đồng ý với bên khởi kiện thì chấm dứt điều tra. Còn nếu cả DOC và ITC có kết luận khẳng định thì DOC ra quyết định chính thức áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Bước 5: Các thủ tục rà soát lại - Rà soát hành chính: do DOC tiến hành theo yêu cầu của một hoặc các bên có liên quan. Kết quả rà soát sẽ ấn định mức thuế chính thức theo năm (cho chủ thể có yêu cầu hoặc tất cả các nhà xuất khẩu có liên quan, tùy từng trường hợp). - Rà soát do thay đổi hoàn cảnh: do DOC và ITC tiến hành. Kết quả rà soát này, Doc có thể ra quyết định giữ nguyên, rút lại một phàn hoặc toàn bộ quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá chính thức. - Rà soát hoàng hôn (sunset review): năm năm sau khi quết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá được ban hành, DOC và ITC sẽ phải tiến hành rà soát lại để xem xét việc có hủy bỏ hay không hủy bỏ biên pháp chống bán phá giá. Kết quả nếu một trong hai cơ quan là DOC và ITC có kết luận phủ định thì biện pháp chống bán phá giá được hủy bỏ; còn nếu một trong hai cơ quan trên có kết luận khẳng định thì biện pháp chống bán phá giá tiếp tục được gia hạn hiệu lực thêm năm năm nữa. - Ngược lại, khi các nhà xuất khẩu Mỹ bị cơ quan điều tra của nước nhập khẩu buộc tội là bán phá giá thì Mỹ thường dựa vào những quy định của WTO để khiếu nại lại những buộc tội đó (thường thì Mỹ thắng trong những vụ việc như vậy). Thực tế này cho thấy áp dụng luật chống bán phá giá và bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp xuất khẩu của mình có tầm quan trọng như nhau và có quan hệ tương hỗ. * Pháp luật chống bán phá giá EU Giống như Mỹ, EU có một hệ thống luật chống bán phá giá rất đầy đủ,
  • 37. 32 những quy định này được đưa ra từ năm 1968. Quy định số 459/68/CEE là quy định ban đầu của EU về chống bán phá giá và chống lại trợ cấp cho hàng hóa của các nước không phải là thành viên của cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC), và quy định này đã được sửa đổi nhiều lần nhằm điều chỉnh cho phù hợp với kết quả các cuộc đàm phán trong khuôn khổ GATT/WTO. Hiện nay, quy định về điều tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá do EU tiến hành đối với các sản phẩm nhập khẩu từ một hoặc các nước thứ ba (không phải là thành viên của Liên minh) vào Liên minh này được tập trung quy định của Hội đồng EU số 384/96 ngày 22/12/1995 (có hiệu lực vào ngày 06/03/1996) về bảo vệ chống lại hàng nhập khẩu bị bán phá giá từ các nước không phải là thành viên EU. Quy định này sau đó lại được sửa đổi, bổ sung bởi các văn bản sau: Quy định của EC số 2331/96 ngày 02/12/1996; Quy định của EC số 905/98 ngày 27/04/1998; Quy định của EC số 2238/2000 ngày 09/10/2000; Quy định của EC số 1972/2002 ngày 05/11/2002; Quy định của EU số 461/2004 ngày 08/03/2004 [36]. Về cơ quan chức năng: ở cấp quản lý, các cuộc điều tra chống bán phá giá có sự tham gia của ba cơ quan khác là Ủy ban châu Âu, Hội đồng châu Âu và Ủy ban tư vấn. Bên cạnh đó còn có các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia thành viên. Mỗi cơ quan này có những chức năng riêng. Chẳng hạn như Ủy ban châu Âu có nhiệm vụ và quyền hạn sau: (i) chịu trách nhiệm chính trong việc tổ chức điều tra chống bán phá giá (cả việc điều tra bán phá giá và điều tra thiệt hại); (ii) có thẩm quyền ban hành một số quyết định (quyết định nhận đơn kiện và bắt đầu điều tra, quyết định chấm dứt vụ việc,..); (iii) đưa ra các đề xuất áp đặt thuế chống bán phá giá chính thức, tạm thời. Hội đồng châu Âu thì: (i) có quyền ban hành một số quyết định trong vụ điều tra chống bán phá giá (quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá chính thức); (ii) có thể có quyết định khác với những quyết định của Ủy ban châu
  • 38. 33 Âu và quyết định của Hội đồng là quyết định cuối cùng. Ủy ban tư vấn thì có chức năng đưa ra ý kiến tham ván (khi được yêu cầu hoặc khi pháp luật quy định việc tham vấn bắt buộc). Ý kiến này không có giá trị bắt buộc nhưng cơ quan có thẩm quyền ra quyết định nhưng cơ quan có thẩm quyền ra quyết định liên quan phải tính đến ý kiến của Ủy ban này trước khi ban hành quyết định. Trong trường hợp có ý kiến khác với ý kiến của Ủy ban châu Âu về cùng một vấn đề thì Hội đồng châu Âu là cơ quan có thẩm quyền ra quyết định cuối cùng về vấn đề đó. Còn các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia thành viên thì có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban châu Âu trong hoạt động điều tra của cơ quan này và thức thi các quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá (chính thức hoặc tạm thời). Trong quá trong điều tra chống bán phá giá, EU cũng dựa vào những quy định của mình và nhìn chung những quy định này tuân thủ chặt chẽ những quy định của WTO hơn là những quy định của Mỹ. * Pháp luật chống bán phá giá của Nhật Bản Nhật Bản là nước châu Á duy nhất đã ban hành luật chống bán phá giá của mình trước chiến tranh thế giới thứ II. Năm 1920, Nhật Bản đưa điều khoản về chống bán phá giá vào luật thuế quan, tuy nhiên điều khoản này quy định rất sơ sài và trong một thời gian dài không được sử dụng. Cho đến khi Nhật Bản chuẩn bị ra nhập GATT thì quy định về chống bán phá giá mới trở nên hoàn thiện hơn. Để chuẩn bị cho việc gia nhập GATT, năm 1951 và 1954 Nhật Bản đã điều chỉnh quy định của mình để bao hàm điều VI về chống bán phá giá của GATT. Sau khi gia nhập GATT vào 9/1995, Nhật Bản đã điều chỉnh luật chống bán phá giá của mình cho phù hợp với những sự phát triển của hiệp định chống bán phá giá của GATT. Tuy nhiên, phải đến đầu những năm 1990 những quy định về chống bán phá giá của Nhật Bản mới được bắt đầu áp dụng do những lý do kinh tế khác nhau. Hiện nay, luật chống bá phá
  • 39. 34 giá của Nhật Bản được quy định trong 4 nguồn: Điều 8 của Luật thuế xuất nhập khẩu: gồm 37 đoạn; Nghị định của nội các: nhằm thực thi luật, bao gồm 20 điều khoản; Các văn bản hướng dẫn: nhằm làm rõ thủ tục chống bán phá giá; Các điều khoản ADA [10]. Pháp luật chống bán phá giá của Nhật Bản được biểu hiện ở một số nội dung chính sau: Thứ nhật, là điều kiện để có thể áp dụng thuế chống bán phá giá. Theo quy định, có 4 điều kiện để cần phải được thỏa mãn: (i) phải tồn tại việc bán phá giá; (ii) phải chứng minh được tổn hại; (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi bán phá giá và tổn hại; (iv) có nhu cầu bảo hộ ngành công nghiệp trong nước. Thứ hai, thuế chống bán phá giá: khi tất cả các điều kiện cho việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá được thỏa mãn, Chính phủ có thể áp dụng một khoản thuế chống bán phá giá với mức thuế bằng hoặc thấp hơn biên độ phá giá. Theo đó, sẽ có trường hợp ngay cả khi nếu việc áp dụng thuế chống bán phá giá bằng với biên độ phá giá cũng không đủ để loại bỏ mức chênh lệch về giá (nói cách khác, không đủ để loại bỏ tổn hại gây ra cho ngành sản xuất trong nước) thì cũng không thể áp dụng thuế vượt quá biện độ phá giá. Trái lại, nếu thiệt hại có thể được loại bỏ bằng việc áp dụng mức thuế thấp hơn biện độ phá giá thì chính phủ có thể áp dụng một mức thuế đủ để loại bỏ tổn hại này. Tuy nhiên, luật pháp Nhật Bản không quy định phương pháp để xác định mức thuế “thấp hơn” này. Thứ ba, sản phẩm là đối tượng bị áp dụng thuế chống bán phá giá: theo quy định của luật pháp Nhật Bản, thuế chống bán phá giá được áp dụng đối với sản phẩm bán phá giá được sản xuất bởi những nhà cung cấp cụ thể và xuất xứ từ những nước được chỉ rõ trong cuộc điều tra. Thứ tư, các quy định về thủ tục: theo Điều 8.4 của Luật thuế xuất nhập
  • 40. 35 khẩu, bất kỳ một bên nào có quyền lợi liên quan đến một ngành kinh tế ở Nhật Bản đều có thể đưa ra kiến nghị bằng việc nộp các giấy tờ cần thiết cho cơ quan điều tra. Một bên khiếu nại được định nghĩa là một bên có quyền lợi “đối với một ngành kinh tế ở Nhật Bản”. Cũng giống như quy định của WTO, các nhà sản xuất nội địa được coi là “ngành kinh tế” ở Nhật Bản ngay cả khi họ có sản xuất sản phẩm tương tự được sản xuất ở trong nước. Tuy nhiên, những người sản xuất sau đây sẽ không được nằm trong danh sách thuộc “ngành kinh tế” ở Nhật Bản nếu nga cả khi họ có sản xuất sản phẩm tương tự: (i) những nhà sản xuất có liên quan đến bất kì nhà cung cấp hay nhập khẩu nào đang bị tố cáo là bán phá giá; (ii) những nhà sản xuất đồng thời là người nhập khẩu sản phẩm đó. Thứ năm, các thủ tục sau khi áp dụng các biện pháp chống bán phá giá: Trong Điều 8 của Luật thuế xuất nhập khẩu của Nhật Bản có quy định về các thủ tục sau khi áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Đó là việc xem xét lại khi tình hình thay đổi, hay là việc rà soát vào cuối thời kỳ áp dụng các biện pháp chống bán phá giá xem có cần tiếp tục áp dụng các biện pháp chống bán phá giá hay việc hoàn thuế. Với những nội dung trên, chúng ta có thể thấy luật chống bán phá giá của Nhật Bản có cả những ưu điểm và nhược điểm. Về ưu điểm, luật chống bán phá giá của Nhật Bản không chứa những sự khác biệt đáng kể cho ADA. Bên cạnh đó, cơ quan điều tra cố gắng tránh việc sử dụng một số biện pháp gây tranh cãi mà Mỹ và EU sử dụng, đặc biệt liên quan đến việc tính toán biên độ phá giá (phương pháp theo từng giao dịch), vấn đề xác định tổn hại (tính tổng cộng nhằm tìm ra biện độ phá giá), việc lựa chọn và đối với các nền kinh tế đang chuyển đổi. Tuy nhiên, vẫn có những nhược điểm, hệ thống rà soát của Nhật Bản không hoàn toàn tuân thủ theo hiệp định chống bán phá giá của WTO.
  • 41. 36 * Pháp luật chống bán phá giá của một số nước ASEAN Cho đến năm 1999 có 5 nước ASEAN đã ban hành luật chống bán phá giá của mình là: Indonesia, Malaysia, Philippin, Thái Lan và Singapore, tất cả các nước này đều đã là thành viên của WTO. Trong đó chỉ có Thái Lan là đã ban hành luật chống bán phá giá của mình sau khi hiệp định WTO có hiệu lực (Quốc hội Thái Lan thông qua đạo luật về thuế đối kháng và thuế chống bán phá giá vào năm 1999), còn các nước khác ban hành luật chống bán phá giá trước khi hiệp định thành lập WTO có hiệu lực nhưng các nước này đã điều chỉnh luật chống bán phá giá của mình cho phù hợp với hiệp định chống bán phá giá của WTO [10]. Qua tìm hiểu pháp luật chống bán phá giá của các nước ASEAn, có thể thấy pháp luật chống bán phá giá của các quốc gia này có một số đặc điểm chung sau đây: Hầu hết các nước ASEAN đã dựa vào các quy tắc quốc tế, mà cụ thể là các quy định của WTO về chống bán phá giá làm nền tảng để xây dựng nên pháp luật chống bán phá giá của nước mình. Tuy nhiên có một đặc điểm nổi bật, phổ biến và gây nhiều tranh cãi của hệ thống pháp luật chống bán phá giá của các nước ASEAN là việc quy định không đầy đủ của việc rà soát các biện pháp chống bán phá giá. Câu hỏi liệu các biện pháp chống bán phá giá có thể bị khiếu nại lên các tòa án có thẩm quyền của các nước này hay không và nếu có thì với điều kiện vẫn còn là một câu hỏi ngỏ. Luật chống bán phá giá của các nước ASEAN cũng chứa đựng một vài điểm khác biệt so với quy định của WTO về định nghĩa thế nào là sản phẩm tương tự (Malaysia và Indonesia), quy tắc 5% (Malaysia), định nghĩa về nền kinh tế phi thị trường (Malaysia), GATTE tính toán (của Philippin), việc áp dụng hồi tố thuế chống bán phá giá (Malaysia và Indonesia)… Tóm lại, qua việc tìm hiểu pháp luật chống bán phá giá của một số
  • 42. 37 nước nêu trên, cho thấy pháp luật chống bán phá giá ở hầu hết các nước này đều tuân thủ theo những quy định của WTO, chỉ khác nhau những vấn đề mà WTO chưa quy định, không quy định rõ hoặc cho phép các chính phủ được quyền quyết định. Có thể khẳng định rằng những quy định về chống bán phá giá của WTO là cốt lõi, nền tảng để các quốc gia ban hành, sửa đổi cũng như áp dụng các quy định về chống bán phá giá của mình.
  • 43. 38 Chương 2 PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Ở VIỆT NAM 2.1. Khái lược về sự hình thành pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam Hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu đối với mọi quốc gia trong đó có Việt Nam. Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã được hội đồng quốc tế biết đến là một đất nước kiên trì thực hiện đường lối đổi mới và đạt nhiều thành tựu quan trọng trong lĩnh vực kinh tế. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IX của Đảng, Đảng ta đã khẳng định chủ trương: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tình thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo vệ độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa” [1]. Thực hiện chủ trường này, cho đến nay quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có những thành tựu nổi bật. Cụ thể là: Việt Nam đã có quan hệ thương mại với trên 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó đã ký hiệp định thương mại với 61 quốc gia, trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN đồng thời nộp đơn xin gia nhập WTO vào năm 1995. Tiếp đó, Việt Nam đã tham gia diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM) vào năm 1996, tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) năm 1998, bên cạnh đó nước ta không chỉ bình thường hóa quan hệ thương mại với Hoa Kỳ mà còn ký hiệp định thương mại song phương với hợp chủng quốc Hoa Kỳ (BTA) vào ngày 13-7-2000 (có hiệu lực vào ngày 10-12-2001) [33, tr.14]. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế chính là cơ hội để mở rộng thị trường quốc tế và khu vực nhưng cũng là thách thức lớn cho các nhà sản xuất hàng hóa trong nước do phải cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài, đặc biệt là khi xuất hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trong đó có hành vi bán phá giá. Trong điều kiện hàng rào phi thuế quan đang được
  • 44. 39 loại bỏ dần, chúng ta cần có các biện pháp chống bán phá giá, đó là một cơ chế mới phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của các nhà sản xuất trong nước cũng như quyền và lợi ích của người tiêu dùng khi có những có sự xâm hại do hành vi bán phá giá gây ra. Tuy nhiên, để chống lạm dụng việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chúng ta cần phải tuân thủ các nguyên tắc, điều kiện, trình tự, thủ tục chung được cộng đồng quốc tế thừa nhận, đặc biệt là phải phù hợp với quy định của WTO. Vì vậy, trong những năm gần đây, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh vấn đề chống bán phá giá nhằm đáp ứng được những đòi hỏi trong thực tiễn hoạt động thương mại đồng thời thể hiện được tính chủ động trong tiến trình hội nhập, đó là những văn bản pháp lý hết sức cần thiết cho việc phát triển kinh tế xã hội, thể hiện được tính chủ động của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời cũng tạo nên hành lang pháp lý tương đối toàn diện về chống bán phá giá ở Việt Nam: - Quyết định số 46/2001/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 1/1/2001 về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2001 – 2005 cũng đã quy định xây dựng một số nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá; - Pháp lệnh của ủy ban thường vụ Quốc hội số 40/2002/PL – UBTVQH 10 ngày 10/05/2002 về giá; - Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 20/2004/PL – UBTVQH 11 ngày 29/04/2004 về việc chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. - Luật số 45/2005/QH 11 ngày 14 tháng 6 năm 2005: luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có quy định (tại điều 11) về việc cho phép áp dụng các biện pháp về thuế để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa. Những văn bản trên được áp dụng không chỉ đối với những hàng hóa bị