SlideShare a Scribd company logo
1 of 164
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
DƯƠNG THỊ PHƯỢNG
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL RAIMUND POPPER.
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ VỀ MẶT TRIẾT HỌC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - Năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
DƯƠNG THỊ PHƯỢNG
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL RAIMUND POPPER.
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ VỀ MẶT TRIẾT HỌC
Chuyên ngành : Triết học
Mã số : 92.29.001
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Nguyễn Tấn Hùng
HÀ NỘI - Năm 2019
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN....................................................................................................7
1.1. Những công trình nghiên cứu về bối cảnh lịch sử, tiền đề lý luận, cuộc đời và
sự nghiệp khoa học của Karl Popper. .....................................................................8
1.2. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến tư tưởng triết học về chính trị
- xã hội của Karl Popper .......................................................................................13
1.3. Những công trình đánh giá về những giá trị và những hạn chế về mặt triết
học trong tư tưởng chính trị - xã hội của karl popper...........................................21
1.4. Nhận xét chung về các công trình nghiên cứu, đánh giá về Karl Popper......24
Chương 2: BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER ...................................28
2.1. Bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội hình thành tư tưởng triết học về chính trị
- xã hội của Karl Popper .......................................................................................28
2.2. Những tiền đề khoa học tự nhiên cho sự hình thành tư tưởng triết học về
chính trị - xã hội của Karl Popper.........................................................................34
2.3. Những tiền đề triết học và lý luận xã hội cho sự hình thành tư tưởng triết học
về chính trị - xã hội của Karl Popper....................................................................41
2.4. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp khoa học của Karl Popper....................59
Chương 3: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER .............................................65
3.1. Quan niệm của Karl Popper về chủ nghĩa tự do xã hội.................................66
3.2. Quan niệm triết học của Karl Popper về xã hội mở ......................................70
3.3. Sự phê phán của Karl Popper đối với chủ nghĩa lịch sử như là kẻ thù của xã
hội mở ...................................................................................................................84
Chương 4: NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ HẠN CHẾ VỀ MẶT TRIẾT HỌC
TRONG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER ...........105
4.1. Những đóng góp về mặt triết học trong tư tưởng chính trị - xã hội của Karl
Popper .................................................................................................................105
4.2. Một số hạn chế về mặt triết học trong tư tưởng chính trị - xã hội của Karl
Popper .................................................................................................................127
KẾT LUẬN........................................................................................................14848
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN...........1522
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................153
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bên cạnh triết học và chính trị học Mác - Lênin, việc nghiên cứu về triết học
và tư tưởng chính trị phương Tây hiện đại trong đó có triết học Karl Popper cũng
được những người làm công tác lý luận ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây quan
tâm. Tuy nhiên, trong thời kỳ trước đổi mới, việc nghiên cứu về các trào lưu này
được tiến hành chỉ với mục đích vạch ra những sai lầm về mặt lý luận của các trào
lưu này. Nhìn chung, trong thời kỳ trước đổi mới, chủ nghĩa xã hội mô hình Liên
Xô chưa bộc lộ rõ nét những yếu kém của nó, chưa rơi vào khủng hoảng nghiêm
trọng, do vậy khuynh hướng tán dương và bảo vệ chủ nghĩa xã hội mô hình này còn
giữ vai trò chủ đạo trong giới nghiên cứu lý luận, tất cả những ý kiến phản biện đều
bị coi là ‘xét lại’, ‘phản động’, ‘thù địch’. Trong bối cảnh lịch sử đó, việc nghiên
cứu về triết học phương Tây hiện đại thường thiếu thái độ khách quan, cầu thị, kết
quả nghiên cứu thường mang tính chủ quan, không phản ánh hết được những đóng
góp có giá trị của các trào lưu này.
Công cuộc đổi mới đất nước được Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức khởi
xướng từ năm 1986 không bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà là một cuộc đổi mới
toàn diện, cả trong lĩnh vực chính trị - tư tưởng. Để đổi mới công tác lý luận, trước
hết Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ ra một trong những khiếm khuyết, bất cập của nó
là từ trước đến nay chúng ta chỉ bó hẹp việc nghiên cứu trong phạm vi chủ nghĩa Mác -
Lênin và thiếu nghiên cứu về những thành tựu lý luận của các trào lưu tư tưởng khác.
Nghị quyết của Bộ Chính trị (khóa VII), ngày 28 tháng 3 năm 1992 đã chỉ ra nguyên
nhân của tình trạng này như sau: “Trong nhiều năm qua, nội dung đào tạo đội ngũ cán bộ
lý luận hầu như chỉ bó hẹp trong các bộ môn khoa học Mác - Lênin, chưa coi trọng việc
nghiên cứu các trào lưu khác và tiếp nhận những thành tựu khoa học của thế giới. Hậu
quả là số đông cán bộ lý luận thiếu hiểu biết rộng rãi về kho tàng tri thức của loài người,
do đó khả năng phát triển bị hạn chế” [17, tr. 20-21].
Hơn hai mươi năm sau, Bộ Chính trị (khóa XI) lại ban hành một Nghị quyết
mới để thúc đẩy hơn nữa phong trào này. Đó là “Nghị quyết của Bộ chính trị ngày 9
1
tháng 10 năm 2014 về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030”.
Nghị quyết đánh giá: “Nghiên cứu những trào lưu tư tưởng, học thuyết mới, lý thuyết
mới chưa được nhiều”. Từ đó, Nghị quyết đề ra phương hướng chỉ đạo: “Đối với
những trào lưu tư tưởng, học thuyết, lý thuyết mới, tiếp tục mở rộng và đi sâu nghiên
cứu trên quan điểm khách quan, biện chứng và tiếp thu những giá trị tiến bộ” [20].
Như vậy, việc nghiên cứu tư tưởng triết học của Karl Popper là phù hợp với
chủ trương đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó sẽ có tác dụng hai mặt: một
là, góp phần phát triển chuyên ngành lịch sử triết học, nhất là triết học phương Tây
hiện đại; hai là, tiếp thu những giá trị tiến bộ trong các trào lưu triết học đó để phục
cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta. Trong tư tưởng triết học về chính trị -
xã hội của Karl Popper, ngoài những khiếm khuyết có tính cực đoan, phiến diện của
nó, còn có một số giá trị triết học có tính khoa học và tiến bộ mà chúng ta có thể
tiếp thu được để phục vụ yêu cầu đổi mới về lý luận chủ nghĩa xã hội.
Sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội và sự sụp đổ của Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa Đông Âu đặt ra câu hỏi về nguyên nhân đích thực của tình trạng
này. Liệu có những khiếm khuyết trong lý luận về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản hay đây chỉ là những sai lầm về mặt thực tiễn? Mặt khác, các trào lưu tư
tưởng chống cộng, trong đó có triết học của Karl Popper tìm cách phủ nhận hoàn
toàn triết học Mác và chủ nghĩa cộng sản, đồng nhất triết học Mác với ‘chủ nghĩa
lịch sử’, coi xã hội cộng sản là xã hội ‘đóng’, đối lập với xã hội mở. Ngoài ra, trong
lĩnh vực nghiên cứu lý luận hiện nay cũng đang tồn tại một khuynh hướng sai lầm là
quá tán dương tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper để phủ nhận hoàn toàn
chủ nghĩa Mác. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl
Popper một mặt kế thừa một số điểm hợp lý để bổ sung, phát triển triết học Mác,
mặt khác chỉ ra những sai lầm cực đoan trong tư tưởng của Karl Popper để bảo vệ
những giá trị không thể chối bỏ được của triết học Mác và những thành tựu của
cách mạng Việt Nam.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta gắn liền với chuyển đổi mô hình của chủ nghĩa
xã hội từ kế hoạch hóa tập trung (cơ bản là ‘đóng’ ở nhiều mặt) sang mô hình chủ
2
nghĩa xã hội dựa trên cơ chế thị trường (biểu hiện cơ bản của xã hội mở về kinh tế,
văn hóa, giáo dục), với việc từng bước loại bỏ cơ chế xã hội bảo thủ, khép kín và
thực hiện chủ trương mở cửa, hội nhập với thế giới bên ngoài, không chỉ trong kinh
tế mà còn trong nhiều lĩnh vực khác nữa. Chúng tôi nhận thấy rằng việc nghiên cứu
tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Karl Poppper, nhất là tư tưởng của ông về xã
hội mở” sẽ có những đóng góp nhất định cho yêu cầu này của nước ta hiện nay.
Việc nghiên cứu và giảng dạy lý luận nhất là lý luận triết học, chính trị -xã hội,
lịch sử ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có nước ta, thường được
tiến hành theo một mục đích và phương pháp giáo điều, bảo thủ, thiếu tinh thần
khoa học thực sự, tức là chỉ tìm cách chứng minh cho tính đúng đắn tuyệt đối của
chủ nghĩa Mác - Lênin và phê phán sai lầm của các quan điểm chống đối. Hiện nay,
việc đổi mới công tác nghiên cứu và giảng dạy lý luận đòi hỏi phải nghiên cứu các
trào lưu triết học với “quan điểm khách quan, biện chứng và tiếp thu những giá trị
tiến bộ” để bổ sung lý luận của chúng ta. Do vậy, việc nghiên cứu tư tưởng triết học
chính trị - xã hội của Karl Popper sẽ đáp ứng được phần nào cả hai mặt nói trên.
Trong việc nghiên cứu và giảng dạy lý luận, phương pháp tư duy phê phán hay
phản biện từ trước đến nay chưa được áp dụng một cách thực sự đầy đủ. Tình hình
này làm cho người học (học sinh, sinh viên) thiếu hứng thú trong việc học tập các
môn lý luận chính trị, xã hội, lịch sử và tạo ra một thói quen chấp nhận một chiều,
thiếu đào sâu suy nghĩ, phê phán. Do vậy, phương pháp tư duy phê phán mà Karl
Popper đặc biệt nhấn mạnh trong các tác phẩm của ông cần được nghiên cứu và vận
dụng nhằm đem lại một luồng sinh khí mới trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập và
vận dụng các môn lý luận khoa học ở nước ta hiện nay với chất lượng, hiệu quả thật sự.
Từ trước đến nay, việc nghiên cứu về triết học Karl Popper nói chung và tư
tưởng triết học về chính trị - xã hội của ông nói riêng ở Việt Nam còn khá khiêm
tốn. Những công trình nghiên cứu về Karl Popper tuy đã xuất hiện, nhưng còn rất
hạn chế. Trong thời gian gần đây tuy đã có một số công trình nghiên cứu mới về
ông, nhưng chưa có một công trình nào đi sâu về chỉ ra những điểm hợp lý và
những điểm không thỏa đáng của Karl Popper trong việc phê phán chủ nghĩa lịch sử
và đề cập một cách toàn diện về quan điểm triết học về xã hội mở của ông.
3
Tóm lại, việc nghiên cứu tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Karl Popper,
chỉ ra những đóng góp của nó sẽ góp phần đổi mới và phát triển công tác nghiên
cứu lý luận ở nước ta, trong đó có việc nghiên cứu lịch sử triết học; tìm ra những
chỗ thiếu sót trong việc hiểu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm hoàn thiện
cách tiếp cận đối với nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn, đổi mới phương pháp giảng
dạy, học tập các bộ môn Mác - Lênin, phát huy vai trò của tư duy phê phán, mở
rộng dân chủ và phát huy vai trò sáng tạo của mọi cá nhân trong xây dựng xã hội
mở và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. Đồng thời, việc vạch ra những hạn chế
cực đoan, phiến diện trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper
sẽ góp phần bảo vệ những giá trị của chủ nghĩa Mác- Lênin và đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Chính vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Tư tưởng
chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper. Những giá trị và hạn chế về mặt triết
học” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án là nghiên cứu phân tích một cách hệ thống để làm rõ
những nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl
Popper, từ đó chỉ ra những giá trị cùng những hạn chế về mặt triết học của nó để
một mặt, bổ sung, phát triển lý luận triết học về chủ nghĩa xã hội, mặt khác vạch ra
những sai trái trong các luận điệu phủ nhận triết học Mác.
Để thực hiện được mục đích nêu trên, những nhiệm vụ mà luận án phải thực
hiện là:
- Làm rõ cuộc đời, sự nghiệp lý luận khoa học, bối cảnh lịch sử và những tiền
đề lý luận cho sự hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper.
- Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội
của Karl Popper, trong đó có quan niệm của ông về chủ nghĩa tự do; sự phê phán
chủ nghĩa lịch sử; quan niệm và phương pháp của ông về xây dựng xã hội mở.
- Phân tích những giá trị trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl
Popper để bổ sung, phát triển triết học Mác, kế thừa và vận dụng trong công tác lý
luận và hoạt động thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đồng thời chỉ ra
những hạn chế phiến diện, cực đoan của nó nhằm bảo vệ tính đúng đắn của triết học
4
Mác, vạch trần những sai trái trong các luận điệu chống triết học Mác.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những nội dung tư tưởng triết học về
chính trị - xã hội của Karl Popper.
Phạm vi nghiên cứu của luận án là những tư tưởng triết học về chính trị - xã
hội của Karl Popper trong hai tác phẩm “Sự nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử” và
“Xã hội mở và những kẻ thù của nó”. Hai quyển sách này là những công trình
nghiên cứu tương đối đồ sộ của Karl Popper, trong đó tác giả đề cập đến nhiều khía
cạnh rất chi tiết của chủ nghĩa lịch sử và xã hội mở. Tuy nhiên, Luận án chỉ đi sâu
vào khía cạnh triết học, tức khía cạnh chung nhất, mang tính bản chất của các vấn
đề, những khía cạnh có vai trò thế giới quan và phương pháp luận cho toàn bộ quan
điểm chính trị - xã hội của ông..
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên nền tảng lý luận của triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về các vấn đề triết học,
chính trị - xã hội và lịch sử.
Cơ sở phương pháp luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận án còn sử dụng kết hợp một số phương pháp cụ
thể, như phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử; so sánh, đối chiếu, hệ thống hóa,
phương pháp thông diễn học hay chú giải học (phương pháp thông hiểu và diễn giải
các văn bản), phương pháp tư duy phê phán, v.v..
5. Cái mới của luận án
- Về mặt nội dung. Nhờ dựa trên nguồn tài liệu phong phú và tương đối đầy
đủ, luận án làm rõ được những khía cạnh quan trọng trong tư tưởng triết học về
chính trị - xã hội của Karl Popper, phân tích và rút ra được những giá trị và hạn chế
của nó, chỉ ra khả năng liên hệ và vận dụng chúng trong lý luận và thực tiễn.
- Về mặt phương pháp. Nhờ tiếp cận được một cách trực tiếp với những tác
phẩm gốc, khắc phục được những hạn chế về tài liệu và ngôn ngữ đã từng có trước
5
đây, luận án đưa ra một sự đánh giá khách quan cả hai mặt đóng góp và hạn chế của
Karl Popper, khắc phục được thái độ phê phán, đánh giá một chiều như trước đây.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận, luận án góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng của các
trường phái và triết gia phương Tây hiện đại, cụ thể là tư tưởng triết học về chính trị
- xã hội của Karl Popper với mục đích kế thừa những điểm hợp lý để bổ sung triết
học Mác – Lênin, đồng thời phê phán những biểu hiện cực đoan của nó để bảo vệ
tính đúng đắn của triết học Mác – Lênin. Đây là một vấn đề đang được đặt ra cấp
thiết đối với nghiên cứu lịch sử triết học phương Tây ở Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, luận án góp phần đổi mới cách tiếp cận đối với nhiều vấn đề
xã hội, lịch sử; đóng góp ý kiến tham mưu cho các cấp Đảng và Nhà nước trong
việc điều chỉnh một số quan niệm về xây dựng chủ nghĩa xã hội; thực hiện dân chủ,
phát huy tối đa mọi tiềm năng sáng tạo của cá nhân và tập thể trong xây dựng xã hội
mới ở nước ta hiện nay. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập lịch sử triết học phương Tây hiện đại nói chung và triết
học Karl Popper nói riêng ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung cơ bản
của luận án bao gồm 4 chương, 13 tiết.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2: Bối cảnh và tiền đề hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã
hộị của Karl Popper.
Chương 3: Những nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học về chính trị - xã
hội của Karl Popper.
Chương 4: Những đóng góp và hạn chế về mặt triết học trong tư tưởng chính
trị - xã hội của Karl Popper.
6
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Karl Popper là một nhà triết học nổi tiếng thế giới. Các tác phẩm của ông chủ
yếu được viết và xuất bản bằng tiếng Đức và tiếng Anh nên rất quen thuộc đối với
các nhà nghiên cứu ở các nước như Đức, Áo, Mỹ, Anh, v.v.. Ở nước ta tuy đã có
một số công trình dịch và nghiên cứu về Karl Popper nhưng vẫn còn rất hạn chế.
Trên thế giới, đã có nhiều công trình chuyên khảo về Karl Popper như “The
Philosophy of Karl Popper”(Triết học của Karl Popper) của nhà triết học Đức
Herbert Keuth được dịch ra tiếng Anh do Nxb Cambridge University Press xuất bản
năm 2005; “The Philosophy of Popper” (Triết học của Popper) của T.E. Burke do
Nxb Manchester University Press xuất bản năm 1983. Đặc biệt là công trình “The
Philosophy of Karl Popper” (Triết học của Karl Popper), do Paul A. Schilpp chủ
biên với sự đóng góp của rất nhiều nhà triết học nổi tiếng nghiên cứu, nhận xét về
Karl Popper, do The Open Court Publishing Company, Chicago, Illinois xuất bản
thành hai tập năm 1974. Chuyên khảo về tư tưởng chính trị Karl Popper có tác
phẩm “The Political Thought of Karl Popper” (Tư tưởng chính trị của Karl
Popper), do Jeremy Shearmur, một người đã từng là trợ lý của Karl Popper trong 8
năm (1971-1979) được Routledge, New York xuất bản năm 1996.
Ở nước ta, chưa có công trình nghiên cứu chuyên khảo nào về Karl Popper;
phần lớn các sách chuyên khảo về Karl Popper bằng tiếng nước ngoài chưa được
dịch ra tiếng Việt. Chúng tôi đã cố gắng sưu tầm nhưng chỉ có được trong tay hai
cuốn sách chuyên khảo đã được dịch ra tiếng Việt, như cuốn “Triết học mở và xã
hội mở”, do Đỗ Minh Hợp dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002 (dịch từ
cuốn“The Open Philosophy and the Open Society: A Reply to Dr. Karl Popper’s
Refutation of Marxism” của Maurice Cornforth, một nhà mácxít Anh, Nxb
Lawrence & Whishart, London, 1968), và cuốn “Karl Raimund Popper”của Lý
Quốc Tú (Trung Quốc), do Đặng Lâm dịch, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2005.
7
Hiện nay ở nước ta, việc nghiên cứu về Karl Popper tuy có tăng hơn nhưng
vẫn còn rất hạn chế. Hiện đã có ba trong số các tác phẩm của Karl Popper được dịch
ra tiếng Việt, trong đó chỉ có hai cuốn được xuất bản thành sách: cuốn “Sự nghèo
nàn của thuyết sử luận” (‘'Thuyết sử luận’ là từ dịch không chính xác, đúng ra là
‘chủ nghĩa lịch sử’) và cuốn “Tri thức khách quan” do Chu Đình Lan dịch, Nxb Tri
thức, Hà Nội, 2012. 'Cuốn “Xã hội mở và những kẻ thù của nó” đã được Nguyễn
Quang A dịch và công bố trên mạng internet nhưng chưa được xuất bản thành sách
in. Tuy đã được dịch nhưng việc chuyển ngữ từ tiếng Anh ra tiếng Việt chưa được
tốt lắm, cho nên người đọc gặp nhiều khó khăn với các thuật ngữ trong các sách này.
Tháng 11 năm 2012, một cuộc hội thảo quốc tế được tổ chức tại Viện Triết
học thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam có chủ đề “Triết học Áo và ý
nghĩa hiện thời của nó”, trong đó có mấy bài tham luận về triết học của Karl
Popper. Kỷ yếu Hội thảo đã được xuất bản thành sách do Phạm Văn Đức chủ biên [22].
Ở nước ta ngoài một số luận văn thạc sĩ, cho đến nay chưa có một luận án tiến
sĩ nào đã được bảo vệ về tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper.
Những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về tư tưởng chính trị - xã
hội của Karl Popper có thể phân ra thành các loại như sau:
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ, TIỀN
ĐỀ LÝ LUẬN, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP KHOA HỌC CỦA KARL POPPER
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về bối cảnh hình thành tư tưởng triết
học về chính trị - xã hội của Karl Popper
Tác phẩm “Unended Quest: An Intellectual Autobiography” (Cuộc sưu tầm
chưa kết thúc: Một Tự tiểu sử trí tuệ) [111] là một nguồn tài liệu quý (vì do chính
ông kể lại) để nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Karl Popper. Ông dành 3
mục: 1) Ký ức tuổi thơ, 2) Những ảnh hưởng đầu tiên và 3) Chiến tranh thế giới lần
thứ nhất [111, pp.2-11], để thuật lại khá đầy đủ bối cảnh xã hội ở thành phố Viên và
hoàn cảnh gia đình ông lúc bấy giờ. Đó là tình trạng đói nghèo, chính trị rối ren và
chính bối cảnh đó có nhiều thay đổi trong quan niệm của Karl Popper về triết học
chính trị - xã hội. Đồng thời Karl Popper cũng phân tích những ảnh hưởng đầu tiên
8
đến tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của ông, đó là ảnh hưởng tính cách của
người cha, của tủ sách gia đình, nhất là ảnh hưởng của người bạn thân nhất (lớn hơn
ông 20 tuổi) là Arthur Arndt một người mácxit kịch liệt chống chủ nghĩa dân tộc,
người đã giới thiệu ông quyển sách về chủ nghĩa xã hội đầu tiên “Looking
Backward”. Karl Popper lúc đó 12 tuổi rất chăm chú nghe Arndt nói về lý tưởng xã
hội chủ nghĩa, nhưng ông chỉ còn nhớ có một điều là ‘chấm dứt nghèo đói’ .
Gilles Dostaler trong phần I của tác phẩm Chủ nghĩa tự do của Hayek (Nguyễn
Đôn Phước dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2008) [8] trình bày khá chi tiết bối cảnh
lịch sử, xã hội của nước Áo đầu thế kỷ XX. Nạn đói ở thủ đô Viên của nước Áo đã
gây nên những cuộc bạo loạn. Cuộc cách mạng Bonsevich ở Nga năm 1917, sự
thành lập của Cộng hòa Áo năm 1918, cuộc nổi dậy của phong trào Spartacus năm
1919 ở Đức kích thích các phong trào cực tả ở Áo. Giành thắng lợi trong các cuộc
bầu cử năm 1919, Đảng Công nhân xã hội dân chủ Áo lên chấp chính cùng với
Đảng xã hội Kitôgiáo. Bối cảnh này để lại dấu ấn trong sự hình thành tư tưởng của
Hayek, đồng thời qua đó chúng ta có thể liên hệ để hiểu thêm về bối cảnh hình
thành tư tưởng triết học chính trị của Karl Popper và mối quan hệ về tư tưởng giữa
Hayek và Popper. Trong chương này có một phần tác giả nói về mối quan hệ giữa
Hayek và Popper. Từ chỗ đồng hành với nhau về quan điểm, hai người trở thành
bạn thân. Năm 1936, Hayek mời Popper đọc một tham luận khoa học trong một
cuộc semina do Hayek tổ chức tại Trường Kinh tế London (LSE). Bài tham luận
chính là một phần của công trình của Popper về sau được đăng trên tạp chí
Economica của trường này trong các năm 1944-1945 với tiêu đề “The Poverty of
Historicism” (Sự nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử). Cũng chính nhờ Hayek giới
thiệu mà Popper sang làm việc tại LSE từ năm 1946 và “Với sự hỗ trợ của Hayek,
Popper được bổ nhiệm giáo sư tại LSE năm 1949” [26, tr.33].
Các trang web như Wikipedia, the free Encyclopedia (Bách khoa thư mở
Wiki), Stanford Encyclopedia of Philosophy (Bách khoa thư triết học Stanford),
cũng dành một phần trong bài viết về Karl Popper để nói về thời thơ ấu, hoàn cảnh
gia đình và việc học hành, công việc xã hội đầu tiên của Popper.
9
Lý Quốc Tú trong nội dung đầu tiên của chương IV tác phẩm “Karl Raimund
Popper” [49], tác giả nói về sự mở rộng tầm mắt sang lĩnh vực triết học chính trị
của Popper, tác giả cho rằng cuộc sống và công việc của Popper ở New Zealand rất
dễ chịu, nhân dân ở đó rất khiêm nhường, niềm nở và hiếu khách, mọi người cảm
thấy bình yên. Trong khi ở châu Âu lại đang khói lửa chiến tranh; Phát xít Đức tấn
công điên cuồng ở trong nước. Và trong thời gian ở New Zealand, Popper đã hoàn
thành hai cuốn sách triết học chính trị: “Sự nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử” và
“Xã hội mở và những kẻ thù của nó”. Tác giả trình bày rất kỹ bối cảnh ra đời của
hai tác phẩm, và sự ảnh hưởng của hai tác phẩm đó đến xã hội phương Tây lúc bấy giờ.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về tiền đề lý luận cho sự hình thành tư
tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper
Gilles Dostaler trong “Chủ nghĩa tự do của Hayek”[8] nói về sự ảnh hưởng lẫn
nhau về tư tưởng giữa F. Hayek và Karl Popper. Hayek kiên trì tiến hành một cuộc
đấu tranh kép, một mặt chống lại sự can thiệp của nhà nước trong chủ nghĩa tự do
xã hội của Keynes, mặt khác chống chủ nghĩa xã hội, hai mặt được ông xem là kết
nối chặt chẽ với nhau và cuối cùng đều dẫn đến chủ nghĩa toàn trị. Công trình còn
đề cập đến bối cảnh và điều kiện gặp nhau giữa hai nhà triết học của nước Áo là
Hayek và Popper. Sau khi đọc xong các tác phẩm của Popper thì Hayek chấp nhận
ngay triết học của Popper. Ông nói: “Nhận ra điều này đã là đủ cho tôi nhưng khi
thấy Popper lập luận và biện minh một cách rõ ràng thì, một cách tự nhiên, tôi liền
chấp nhận triết học của ông vì triết học ấy đã khai triển điều tôi hằng cảm nhận. Từ
đó, tôi luôn đồng hành cùng với Popper. Cuối cùng, chúng tôi trở thành bạn rất
thân. Nói chung, trên những vấn đề triết học, tôi đồng ý với ông hơn là với bất kì ai
khác”. Như vậy công trình này cho chúng tôi thấy được Hayek là một trong những
người đi đầu và là một trong những giáo chủ của cái được gọi là “chủ nghĩa tân tự
do”. Và chính những tư tưởng này ảnh hưởng đến Popper sau này.
Lý Quốc Tú trong “Karl Raimund Popper” đã dành một phần nhỏ trong
chương II để nói về người có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành quan điểm
triết học của ông. Tác giả cho rằng nhìn theo quan điểm lâu dài, thì có lẽ đó là ảnh
10
hưởng quan trọng nhất. Đó là việc Popper tiếp xúc với lý luận của Einstein và nhận
được sự khêu gợi trong thái độ của Einstein đối với lý luận khoa học.
Vũ Mạnh Toàn trong “Triết học Bertrand Russell và ý nghĩa của nó” (Luận án
tiến sĩ triết học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011) [85], tác giả cho ta thấy
được sự biến đổi mạnh mẽ của logic học và toán học vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX. Sự biến đổi này có ảnh hưởng lớn đến ra đời chủ nghĩa thực chứng mới. Khi
đề cập đến những tiền đề triết học, tác giả trình bày chủ nghĩa thực chứng qua các
thời kỳ: Chủ nghĩa thực chứng sơ kỳ đầu thế kỷ XIX với người sáng lập là Auguste
Comte. Giai đoạn thứ hai là chủ nghĩa phê phán kinh nghiệm vào những năm 70 của
thế kỷ XIX với hai đại diện là Ernst Mach và Richard Avenarius. Giai đoạn thứ ba
là chủ nghĩa thực chứng mới (chủ nghĩa thực chứng lôgic). Có thể nói đây là một
nguồn tư liệu cho chúng tôi trong việc trình bày các tiền đề tư tưởng lý luận cho sự
hình thành tư tưởng triết học về chính trị – xã hội của Karl Popper.
A.S. Bôgômôlôp, Ju.K. Menvin, I.S.Narơski với tác phẩm: “Chủ nghĩa thực
chứng mới trong triết học tư sản hiện đại ”(Nxb Matsxcơva 1978 – Tư liệu dịch của
Viện Triết học) [04]. Trong công trình này, các tác giả đã trình bày về quá trình xuất
hiện, nguồn gốc và nội dung cơ bản của chủ nghĩa thực chứng mới. Trong đó, các
tác giả đã giành một phần để giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp triết học của Karl
Popper trong nhiều lĩnh vực mà ông hoạt động. Đặc biệt các tác giả phân tích mối
quan hệ giữa Karl Popper với chủ nghĩa thực chứng nhóm Viên.
Tác giả Nguyễn Tấn Hùng trong tác phẩm “Một số trào lưu triết học và tư
tưởng chính trị phương Tây đương đại” [36] cho rằng quan điểm chính trị - xã hội
của Karl Popper là kết quả của một quá trình đối chiếu, lựa chọn có cân nhắc kỹ
lưỡng sau khi đã tiếp xúc với tất cả các trào lưu tư tưởng đang thịnh hành lúc bấy
giờ ở Áo, không chỉ về lý luận mà còn có thời gian tham gia hoạt động thực tiễn với
họ nữa. Karl Popper nghiên cứu Phân tâm học của Sigmund Freud và Alfred Adler,
có thời gian ông tình nguyện làm việc trong một bệnh viện phân tâm học nhi khoa
của Adler, nhưng cuối cùng, ông cũng phát hiện ra tính phi khoa học của học thuyết
này. Karl Popper cũng có tiếp xúc với các nhà khoa học ‘nhóm Viên’, tham dự các
11
cuộc thảo luận của nhóm dưới sự chủ trì của Moritz Schlick, với sự tham gia của
Rudolf Carnap, Otto Neurath, Viktor Kraft, Hans Hahn và Herbert Feigl,
v.v., nhưng ông cũng không trở thành hội viên chính thức của nhóm này; và do việc
Karl Popper phê phán các luận điểm cơ bản của chủ nghĩa thực chứng lôgic nên về
sau ông không còn được mời tham dự nữa. Karl Popper cũng đã tham gia các hoạt
động chính trị của đảng xã hội và đảng cộng sản ở Áo, nhưng ông đã sớm phát hiện
ra tính không tưởng (utopia) của chủ nghĩa cộng sản nên đã từ bỏ nó và đứng hẳn về
phía chủ nghĩa tự do xã hội.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp triết học và
khoa học của Karl Popper
Các từ điển và bách khoa thư như “Từ điển Bách khoa Việt Nam”; “The
Internet Encyclopedia of Philosophy” (Bách khoa thư Triết học Internet);
“Wikipedia, the free encyclopedia” (Bách khoa mở Wiki); “The Stanford
Encyclopedia of Philosophy” (Bách khoa thư Triết học Stanford); “Encyclopædia
Britanica” (Bách khoa thư Britanica), “Tân Bách khoa thư triết học” của Liên bang
Nga (Новая Философская Энциклопедия) đều dành một phần quan trọng trong
mục từ Popper để cung cấp những nét cơ bản về tiểu sử và sự nghiệp triết học và
khoa học của ông. Các tài liệu này cũng nói về nguồn gốc tính cách của Karl Popper
như là sự kế thừa truyền thống gia đình.
Trong tác phẩm “Một số trào lưu triết học và tư tưởng chính trị phương tây
đương đại”, tác giả Nguyễn Tấn Hùng trước khi đi vào phân tích tư tưởng triết học
của Karl Popper đã điểm qua về tiểu sử và sự nghiệp khoa học của ông, như hoàn
cảnh gia đình (cha, mẹ) của Karrl Popper từ lúc ông rời trường phổ thông 16 tuổi,
đến khi học đại học Viên, tốt nghiệp tiến sĩ về Tâm lý năm 1928 và sau đó làm giáo
viên ở một trường phổ thông, rồi trở thành giảng viên trường đại học và giáo sư
Trường Kinh tế London. Tuy không nhiều nhưng ta cũng hình dung được tiểu sử
của ông từ thơ ấu đến khi ông qua đời. Đặc biệt trong phần này, tác giả trình bày sự
nghiệp khoa học của Popper. Ngoài việc hoàn thành những tác phẩm quan trọng
như: “Lôgic của phát minh khoa học”, “Xã hội mở và những kẻ thù của nó”; “Sự
12
nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử”; “Phỏng định và bác bỏ: Sự tăng tiến của tri
thức khoa học”; “Hai vấn đề căn bản của lý luận nhận thức”, Popper còn tham gia
hoạt động khoa học trong một số hội nghiên cứu. Có thể nói Popper có những đóng
góp xuất sắc trên phương diện triết học khoa học. Và chính những tư liệu của tác
giả đã cho chúng ta thấy được điều này.
Bách khoa thư Triết học Stanforth đề cập đến sự kiện có ý nghĩa quyết định
đối với việc Karl Popper rời bỏ quê hương và di cư ra sinh sống ở nước ngoài, đó là
sự tiên đoán chính xác của ông về nguy cơ nước Áo bị Đức Quốc xã thôn tính và sát
nhập vào nước Đức phát xít [126].
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN TƯ
TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER
1.2.1. Những công trình liên quan đến lập trường tư tưởng tự do xã hội của
Karl Popper
Lập trường chính trị - xã hội của Karl Popper là “chủ nghĩa tự do xã hội”
(social liberalism). Chủ nghĩa tự do xã hội khác với các biến thể khác, như chủ
nghĩa tự do cổ điển (classical liberalism) và chủ nghĩa tân tự do (neo-liberalism) của
Friedrich Hayek và một số biểu hiện cực đoan của chủ nghĩa tự do đang tồn tại trên
thế giới như Đảng tự do (Liberitarian Party) ở Mỹ hiện nay. Chủ nghĩa tự do xã hội
một mặt đề cao vai trò của tự do cá nhân, nhưng mặt khác phản đối tình trạng bất
công xã hội, chủ trương giúp đỡ người nghèo khổ. Tư tưởng tự do xã hội của Karl
Popper đã có mầm mống từ lúc nhỏ trong bối cảnh xã hội Áo lúc bấy giờ và nhất là
do giáo dục và truyền thống của gia đình ông. Điều này được thể hiện trong ‘Tự tiểu
sử’, trong đó Karl Popper nói rằng người cha của ông là người theo chủ nghĩa tự do
xã hội không phải chỉ về mặt tư tưởng mà còn chủ động tổ chức những hoạt động
giúp đỡ người nghèo nữa. Ý thức về giúp đỡ người nghèo đã đưa Popper đến với
chủ nghĩa xã hội và sau đó là chủ nghĩa tự do xã hội.
Tác phẩm “Một số trào lưu triết học và tư tưởng chính trị phương Tây đương
đại” của Nguyễn Tấn Hùng cũng đã dành một phần nói về quan điểm triết học
chính trị - xã hội của Karl Popper. Sau khi rời khỏi Đảng Cộng sản Áo, Karl Popper
13
đứng hẳn về phía lập trường chủ nghĩa tự do xã hội. Tác giả điểm qua một vài đặc
trưng của chủ nghĩa tự do nói chung và ‘chủ nghĩa tự do xã hội’ nói riêng. Chủ
nghĩa tự do xã hội tuy cũng đề cao tự do cá nhân, phản đối gay gắt chế độ cai trị độc
tài, nhưng lại ủng hộ một số biện pháp can thiệp cần thiết của nhà nước để giải
quyết khủng hoảng kinh tế, đấu tranh chống bất công xã hội, tạo công ăn việc làm
và tạo phúc lợi xã hội. John Stuart Mill là một nhà triết học Anh đã góp phần quan
trọng vào việc phát triển hình thức mới này của chủ nghĩa tự do. Chính Karl Popper
đã thừa nhận người cha của mình là một người tự do chủ nghĩa thuộc trường phái
John Stuart Mill.
Bách khoa mở Wikipedia [128] có nói về tác động của sự kiện năm 1919 (cuộc
biểu tình do Đảng Cộng sản Áo tổ chức) đến sự thay đổi lập trường chính trị của
Karrl Popper. Từ chủ nghĩa cộng sản, Karl Popper chuyển sang lập trường chủ
nghĩa tự do xã hội.
Đặc biệt trong Bách khoa thư triết học Internet (Internet Encyclopedia of
Philosophy), mục từ “Karl Popper: Political Philosophy” (Karl Popper: Triết học
chính trị), tác giả William Gorton (Đại học Alma, Michigan) đã phân tích và trích
dẫn rất cụ thể về lập trường tự do xã hội của Karl Popper. Tác giả viết rằng Karl
Popper đã cảnh báo những nguy hại của chủ nghĩa tư bản không được kiểm soát,
thậm chí Popper còn tuyên bố rằng “Sự bất công và vô nhân đạo của ‘hệ thống tư
bản không được kiềm chế’ đã được Mác mô tả thì không có gì phải bàn cãi cả”.
Karl Popper yêu cầu “Chúng ta cần phải xây dựng những thiết chế xã hội được tăng
cường bằng quyền lực nhà nước nhằm bảo vệ người yếu về kinh tế chống lại kẻ
mạnh về kinh tế”. Cũng theo nhận xét của William Gorton, “Có lẽ những chính sách
của Popper nếu được đem ra thực hiện sẽ tạo ra một xã hội giống như chế độ dân
chủ xã hội ở Bắc Âu, với những chương trình phúc lợi quãng đại hơn và sự điều
chỉnh nền công nghiệp tốt hơn là ở nước Mỹ với chế độ tư bản laissez-faire (để ai
muốn làm gì thì làm) và phúc lợi xã hội không đáng kể” [125].
Một số bách khoa thư khác, như: ‘Stanford Encyclopedia of Philosophy’ cũng
có đề cập đến tư tưởng tự do xã hội của Karl Popper.
14
1.2.2. Những công trình liên quan đến quan niệm về xã hội mở của Karl Popper
Bách khoa mở Wikipedia trong mục từ ‘Open society’ khẳng định rằng khái
niệm ‘xã hội mở’ được đưa ra lần đầu tiên bởi nhà triết học Pháp Henri Bergson và
được Karl Popper phát triển trong hai tập sách của mình.
Herbert Keuth dành phần II. Triết học xã hội (Social Philosophy) trong ba
phần của nội dung cuốn sách “The Philosophy of Karl Popper” để phân tích tư
tưởng triết học chính trị - xã hội của Karl Popper trong đó có vấn đề xã hội mở và
chủ nghĩa lịch sử. Tác giả trình bày tư tưởng của Karl Popper trong sự liên hệ với
các nhà triết học từ Platon, Aristotle đến Hêghen, Mác [101, pp.193-248].
Các từ điển và bách khoa thư ở Liên Xô trước đây tuy có đề cập dến quan
niệm về xã hội mở của Karl Popper nhưng lại quy lập trường của ông về sự biện hộ
cho tự do tư sản. Còn Tân bách khoa thư triết học Nga [119] tuy có trình bày cụ thể
quan niệm về xã hội mở của Karl Popper nhưng không có bình luận, phê phán. Nhà
triết học Nga T.I. Oizerman (Т.И. Оизерман) trong một số bài viết và nhất là trong
tác phẩm “Chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa không tưởng” (Марксизм и утопизм) có
nhiều chỗ đề cập đến tư tưởng về xã hội mở của Popper. Theo Oizerman, Karl
Popper không hoàn toàn bác bỏ mà còn đề cao những đóng góp nhất định của Mác
trong lý luận về giai cấp, trong sự phê phán của Mác đối với những bất công của
chủ nghĩa tư bản [Xem: 118].
Người phê phán quan điểm xã hội mở của Karl Popper mạnh mẽ nhất là nhà
mácxít Anh Maurice Cornforth với tác phẩm “The Open Philosophy and The Open
Society: A Reply to Dr. Karl Popper’s Refutations of Marxism” (Lawrence &
Whishart, London, 1968), được Đỗ Minh Hợp dịch từ tiếng Nga với tiêu đề “Triết
học mở và xã hội mở” [06]. Trong lời giới thiệu cuốn sách, nhà triết học Nga I.S.
Narxki viết: Cuốn sách này “dường như là kết quả hội ngộ của hai số phận trực tiếp
đối lập với nhau: ‘nhà lý luận, kẻ chống cộng số một’ Karl Popper và nhà triết học,
nhà mácxít nổi tiếng người Anh – M. Cornforth”. M. Cornforth viết tác phẩm này
với mục đích bảo vệ triết học Mác bằng hình thức trả lời những vấn đề mà các nhà
phê phán chủ nghĩa Mác đặt ra, và trong những người phê phán đó ông chọn Karl
15
Popper. Vì quyển sách ra đời vào năm 1968, trong khi mô hình chủ nghĩa xã hội kế
hoạch hóa tập trung đang thịnh hành, chưa gặp khủng hoảng, cho nên có nhiều điều
mà M. Cornforth bảo vệ cho đến nay đã lỗi thời, nhưng phải nói rằng đây là nguồn
tư liệu quý giá để chúng tôi tham khảo.
Trong lời tựa, M. Cornforth nói: “Tôi muốn nhấn mạnh rằng, tôi không có ý
định phê phán hay bác bỏ những gì ngài Popper đã nói về khoa học hay về xã hội.
Ngược lại, tôi tiếp nhận nhiều điều và nhất trí với nhiều điều. Cuốn sách này không
phải là sự luận chiến với ngài Popper, mà là câu trả lời cho cuộc luận chiến chống
lại chủ nghĩa Mác của ông” [06, tr.35]. Trong phần III của cuốn sách của M.
Cornforth có hai chương đáng lưu ý. Chương III nói về xã hội mở trong đó ông trả
lời những vấn đề về quan hệ giữa xã hội mở và xã hội đóng và con đường tiến tới xã
hội mở. Theo M. Cornforth, Karl Popper không đưa ra điều gì mới cả. Ông nói:
“Nhưng nếu có ai muốn tìm trong đó những tri thức về cách thức tiến lên xã hội mở
và những điều cần tránh, những hiểu biết ấu trĩ, những cái ngẫu nhiên mà chúng đã
làm cho cá nhân phải đau khổ trước kia, thì người đó sẽ không thấy gì ngoài những
lời nói ba hoa chung chung về trách nhiệm cá nhân” [06, tr.620]. Trong chương VI
của tác phẩm, M. Cornforth trả lời cho Popper về kẻ thù của xã hội mở. Theo ông,
chủ nghĩa cộng sản mới thực sự là xã hội mở, còn chủ nghĩa tư bản là xã hội đóng.
Tiến tới xã hội mở chính là xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Vì
vậy, kẻ thù của xã hội mở chính là chủ nghĩa chống cộng. Cách tiếp cận của M.
Cornforth là đại diện cho những khuynh hướng tư tưởng bảo thủ thời kỳ trước đổi
mới thể hiện trong hầu hết những tác phẩm được viết trong thời kỳ này về triết học
phương Tây hiện đại, trong đó có triết học Karl Popper.
Lý Quốc Tú, trong chương IV tác phẩm “Karl Raimund Popper” [49], đề cập
đến quan niệm về xã hội mở trong tác phẩm “Xã hội mở và những kẻ thù của nó”
của Karl Popper. Tác giả cho rằng trọng điểm của Popper là đả phá các quan điểm
chính diện của Platon, Aristotle, Hêghen và Mác, còn quan niệm của ông về xã hội
mở thì đề cập rất ít trong tác phẩm. Những nội dung mà ông công kích cùng với các
nội dung mà ông tán dương và tích cực khởi xướng, hình thành các bộ phận hợp
16
thành không thể chia cắt của tư tưởng triết học chính trị của ông. Tác giả khái quát
hết sức cơ bản quan niệm của Popper về xã hội mở và xã hội đóng. Có thể nói, đây
là nguồn tư liệu để chúng tôi đi vào nghiên cứu quan niệm của Popper về xã hội mở.
Lưu Phóng Đồng trong “Triết học phương Tây hiện đại”, tập IV [48], tuy dành
phần chủ yếu để phân tích tư tưởng triết học về khoa học của Karl Popper, nhưng
cũng có một đoạn ngắn nói về tư tưởng triết học chính trị của Karl Popper. Theo
Lưu Phóng Đồng, Karl Popper phản đối quyết định luận lịch sử. Ông cho rằng sự
phát triển của lịch sử xã hội không có tính quy luật, mọi người cũng không thể dự
định trước cho tương lai của xã hội. Theo ông, ‘Chủ nghĩa Utopia’ có liên hệ tự
nhiên với quyết định luận lịch sử; chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là một
loại công trình xã hội kiểu Utopia. Vì thế, ông đề xướng ‘công nghệ xã hội từng
bước’, tức là tiến hành cải tạo từng bước, thiết thực, khả thi đối với xã hội, và lấy đó
để phản đối lý luận cách mạng xã hội của chủ nghĩa Mác, ông nói, chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản của chủ nghĩa Mác là ‘xã hội đóng’, xã hội mà ông cố gắng
thực hiện lại là ‘xã hội mở’ [48, tr.240].
Sách “Một số trào lưu triết học và tư tưởng chính trị phương Tây đương đại”
của Nguyễn Tấn Hùng phân tích và trích dẫn nhiều đoạn quan trọng trong tác phẩm
của Popper “Xã hội mở và những kẻ thù của nó”. Kẻ thù của xã hội mở theo Popper
chính là những xã hội đóng được xây dựng theo mô hình của các lý thuyết xã hội
không tưởng (được Popper gọi là chủ nghĩa lịch sử). Tác giả khái quát những đặc
trưng cơ bản của xã hội mở được Karl Popper nêu ra trong tác phẩm của mình bằng
cách đối lập nó với những hình thức xã hội đóng. Một là, xã hội mở là xã hội do
mọi người sáng tạo một cách tự do, không phụ thuộc vào tính tất yếu và quy luật
lịch sử và tác giả đã đưa ra những nhận định và phê phán của mình về quan điểm đó
của Popper. Hai là, Popper cho rằng xã hội mở được xây dựng theo một “công nghệ
xã hội” nhất định được ông gọi là ‘kiến thiết xã hội từng phần’ đối lập với phương
pháp kiến thiết ‘toàn phần’ hay ‘không tưởng’. Karl Popper còn so sánh hiệu quả
của phương pháp cải biến xã hội toàn phần và xã hội từng phần, rồi từ đó chỉ ra tính
ưu thế của phương pháp cải tạo xã hội từng phần so với phương pháp cải tạo toàn
17
phần. Tác giả đưa ra nhiều trích dẫn để làm rõ sự khác biệt giữa kiến thiết toàn phần
và kiến thiết từng phần như thế nào Tuy chỉ mới khái quát một cách tổng thể quan
niệm của Popper về xã hội mở và những kẻ thù của nó nhưng chúng ta có thể hình
dung một bức tranh tổng thể quan niệm của Popper về xã hội mở để giúp chúng tôi
có những cơ sở và luận cứ khoa học để tiếp thu, kế thừa trong luận án của mình.
Tác giả Lương Đình Hải đề cập đến quan điểm về xã hội mở của Karl Popper
trong bài “Karl Popper - Xã hội mở và những kẻ thù của nó” [24]. Mở đầu bài viết,
tác giả giới thiệu sơ lược về cuộc đời, sự nghiệp khoa học của Popper. Điều đặc biệt
trong bài viết này chính là tác giả chỉ cho người đọc thấy được rằng mặc dù, trong
tổng thể và trong dòng chủ đạo của tư tưởng Karl Popper là phê phán, bác bỏ, phủ
nhận chủ nghĩa Mác, nhưng không phải không có những chỗ, những lúc ông ca
ngợi, đánh giá cao triết học Mác. Do vậy, việc nghiên cứu các quan điểm của
Popper, có thể giúp chúng ta hiểu sâu thêm nhiều luận điểm của triết học Mác và
toàn bộ chủ nghĩa Mác nói chung. Và theo tác giả, việc nghiên cứu tư tưởng Popper
sẽ giúp cho chúng ta có một tinh thần phê phán, giúp chúng ta hình thành nên trong
tư duy của mình cách nhìn hai mặt. Điều này giúp chúng ta hiểu sâu hơn các nguyên
lý của triết học Mác, đồng thời hiểu sâu thêm cả những tư tưởng hợp lý và những tư
tưởng phi lý của Popper. Tác giả còn chỉ ra một số luận điểm của Mác mà Popper
phê phán, và tác giả đưa ra nhận xét của mình cho những luận điểm đó. Tác giả còn
trình bày quan niệm của Popper về xã hội mở, xã hội đóng. Quan niệm về xã hội
mở sau này được học trò của ông George Soros (1930) phát triển trên cả bình diện
lý luận lẫn thực tiễn. Có thể nói, đây là một bài viết hết sức sâu sắc của tác giả, thể
hiện được chính kiến của mình khi đánh giá Popper. Đây là nguồn tư liệu quý giá để
chúng tôi tham khảo khi phân tích quan điểm của Popper về xã hội mở và những kẻ
thù của nó.
George Soros trong tác phẩm “Xã hội mở: Cải cách chủ nghĩa tư bản toàn
cầu” (Open Society: Refoming Global Capitalism) [76]. Soros là môn đệ của
Popper, ông chủ trương xây một xã hội mở trên phạm vi toàn cầu, theo đường
hướng của vị sư phụ nổi danh Karl Popper, mà ông có dịp được thụ giáo trong thời
18
gian theo học tại trường Kinh tế Luân đôn hồi cuối thập niên 1940 qua đầu thập
niên 1950. Soros cho rằng người ta nói nhiều về hội nhập kinh tế trong nền kinh tế
toàn cầu. Cơ chế thị trường đã thành công xuất sắc trong giải phóng tài năng kinh
doanh và tạo ra của cải. Nếu chỉ dựa vào cơ chế thị trường và nhấn mạnh thái quá
đến các giá trị thị trường, chủ nghĩa tư bản không thể đảm bảo tự do, dân chủ, và
pháp trị; có thể, và nó đã dẫn đến những thảm họa như hai cuộc Chiến tranh thế
giới, các cuộc khủng hoảng tài chính. Vì sao chúng xảy ra? Làm sao có thể tránh
được những thảm họa như vậy, hay chí ít làm nhẹ bớt tác động tai họa của chúng?
Trong nội dung phần I, tác giả đề cập đến khái niệm “Xã hội mở”, khái niệm này
được Henri Bergson dùng đầu tiên năm 1932, và Karl Popper phát triển và làm cho
khái niệm được biết đến rộng rãi. Soros chịu ảnh hưởng mạnh bởi Karl Popper. Cho
nên thông qua việc tìm hiểu quan điểm của ông về các nguyên tắc chỉ đạo cho một
xã hội mở toàn cầu, chúng ta sẽ phần nào hiểu được quan niệm về xã hội mở của
Popper. Đây là một cuốn sách về triết học thực tiễn, nó có ích cho các học giả, các
nhà hoạch định chính sách, và tất cả những ai quan tâm đến những vấn đề chính trị
và kinh tế thế giới, và dĩ nhiên có ý nghĩa đối với bản thân nghiên cứu sinh trong
quá trình làm luận án.
1.2.3. Những công trình đề cập đến sự phê phán chủ nghĩa lịch sử của Karl
Popper
Bách khoa thư mở Wikipedia trong mục từ ‘Historicism’ khái quát quá trình
tiến hóa của khái niệm này qua một số nhà triết học như Karl W. F. Schlegel,
Michel de Montaigne, G. B. Vico, Georg Hegel, Franz Boas và sau đó phân tích
những đặc trưng của khái niệm này ở Karl Popper.
Trong bài tham luận Hội thảo về “Triết học Áo và ý nghĩa hiện thời của nó”,
tác giả Nguyễn Tấn Hùng phân tích lập luận 5 điểm nhằm bác bỏ khả năng nhận
thức quy luật xã hội được Karl Popper nêu ra trong Lời nói đầu tác phẩm “Sự nghèo
nàn của chủ nghĩa lịch sử” . Tác giả cũng chỉ ra mặt hợp lý và mặt sai lầm của Karl
Popper về vấn đề này [Xem 22, tr. 187-199].
Trong tác phẩm “Một số trào lưu triết học và tư tưởng chính trị phương Tây
19
đương đại”, tác giả giải thích kỹ hơn về khái niệm ‘chủ nghĩa lịch sử’ như sau:
+ Chủ nghĩa lịch sử là một cách tiếp cận xã hội, nó cho rằng xã hội vận động
theo quy luật có thể nhận thức được.
+ Chủ nghĩa lịch sử cho rằng trên cơ sở nhận thức được xu hướng, quy luật
khách quan, con người có thể ’dự báo’ được tiến trình của xã hội tương lai.
+ Chủ nghĩa lịch sử cho rằng con người có thể cải biến toàn bộ xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới theo những quy luật đã được nhận thức và những mô hình lý tưởng
đã được xác định dựa trên những dự báo về tương lai lâu dài của xã hội [Xem 36,
tr.97-98].
Tác giả Lý Quốc Tú trong tác phẩm “Karl Raimund Popper” dành một phần
rất lớn trình bày quan điểm của Karl Popper về phê phán chủ nghĩa lịch sử, về công
nghệ xã hội từng phần. Tác giả cho rằng, chủ nghĩa lịch sử là trọng điểm phê phán
của Popper. Tác giả trình bày những phê phán của Popper đối với chủ nghĩa lịch sử
ở cả hai trường phái: chủ nghĩa phản tự nhiên và chủ nghĩa tự nhiên mở rộng, có sự
phân tích và cuối cùng tác giả đưa ra những đánh giá của mình đối với sự phê phán
đó. Popper cho rằng, chủ nghĩa lịch sử là lý luận và phương pháp nghiên cứu sự
phát triển xã hội không chỉ có hại cho nghiên cứu khoa học xã hội, mà còn có hại
cho thực tiễn xã hội. Popper nêu lên ‘công nghệ xã hội từng phần’ để đối lập với
‘công nghệ xã hội không tưởng (Utopia)’. Và tác giả đi vào phân tích những quan
niệm trên của Popper. Cuối cùng tác giả đưa ra những nhận định của mình đối với
quan niệm trên của Popper, có thể nói đây là nguồn tư liệu quý để giúp chúng tôi
nghiên cứu và đưa vào trong luận án của mình. [Xem: 49]
Tác giả Nguyễn Minh Hoàn: “Tư tưởng triết học chính trị của Karl Raimund
Popper trong Sự nghèo nàn của thuyết sử luận nhìn từ phương pháp luận mácxít”.
[27]. Đây cũng là bài viết của tác giả tham gia hội thảo quốc tế “Triết học Áo và ý
nghĩa hiện thời của nó”. Trong bài viết này, tác giả đi vào phân tích những quan
điểm triết học chính trị chủ yếu của Popper, với phương pháp luận của mình,
Popper đánh giá về chủ nghĩa lịch sử, nhất là quan điểm lịch sử của triết học Mác.
Tác giả còn đi vào trình bày quan điểm của Popper khi ông phân chia chủ nghĩa lịch
20
sử thành ‘chủ nghĩa phản tự nhiên’ và ‘chủ nghĩa duy tự nhiên’ và tiến hành phê
phán nó. Có thể nói, tuy bài viết ngắn nhưng tác giả đã khái quát cơ bản tư tưởng
triết học chính trị của Popper và đưa ra những nhận xét quý báu góp phần làm rõ
hơn tư tưởng của Popper khi phê phán chủ nghĩa lịch sử.
1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ
NHỮNG HẠN CHẾ VỀ MẶT TRIẾT HỌC TRONG TƯ TƯỞNG CHÍNH
TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER
1.3.1. Những công trình đánh giá những giá trị về mặt triết học trong tư
tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper
Tác giả Lương Đình Hải trong “Karl Popper - xã hội mở và những kẻ thù của
nó” [24], cho rằng việc nghiên cứu các quan điểm của Popper, có thể giúp chúng ta
hiểu sâu thêm nhiều luận điểm của triết học Mác và toàn bộ chủ nghĩa Mác nói
chung, đồng thời hiểu rõ hơn cả những quan điểm của các nhà mácxít đương đại.
Đương nhiên, không thể đồng ý với Popper trên rất nhiều điểm về lịch sử loài
người, về xã hội, về lập trường và cách lập luận của ông, nhưng việc đọc ông giúp
chúng ta hình thành nên trong tư duy của mình cách nhìn hai mặt, suy tư bằng hai
con mắt, hai lỗ tai và bằng tư duy hai chiều, có phê phán, với tất cả những gì mà
chúng ta đã học. Việc đó, một mặt, làm cho chúng ta hiểu sâu hơn các nguyên lý
của chủ nghĩa Mác; mặt khác, hiểu sâu thêm cả những tư tưởng hợp lý và những tư
tưởng phi lý của Popper. Như vậy, có thể xem đây là một đóng góp của Popper
trong việc nghiên cứu triết học nói chung và chủ nghĩa Mác nói riêng.
Khi đi vào phân tích quan niệm của Popper về lịch sử xã hội, tác giả cho rằng
Popper đã chống lại cả một cách nhìn, một loại tư duy siêu hình trong xem xét, mô
tả, giảng dạy và viết lịch sử đang tồn tại thực tế ở nhiều nước, nhiều nơi và nhiều
thời đoạn khác nhau. Không nên bóp méo, xuyên tạc lịch sử theo lợi ích cục bộ, tập
đoàn để viết và nhìn nhận lịch sử theo kiểu khuếch đại mặt này mà xem nhẹ, làm
mờ nhạt các mặt khác làm cho lịch sử mất ý nghĩa chân chính của nó. Quan niệm
của Popper là phải nhìn lịch sử trong sự đa dạng, phong phú, chân thực, đầy đủ như
nó vốn có trong thực tế. Không thể đồng ý với Popper ở nhiều điểm trong quan
21
niệm của ông về lịch sử nói chung, nhưng không thể không đồng ý với ông ở điểm này.
Tác giả cũng cho rằng tư tưởng xã hội mở của Popper là một trong những nội
dung then chốt trong triết học xã hội và chính trị của ông. Sau khi phân tích quan
niệm của Popper về xã hội mở và sự khác nhau giữa xã hội mở và xã hội đóng.
Những quan niệm về xã hội mở của Popper mấy chục năm qua đã có ảnh hưởng rất
lớn đến triết học chính trị, đến việc phê phán chủ nghĩa quyền uy trong tư tưởng
chính trị - xã hội phương Tây. Theo tác giả, tuy không thể hoàn toàn đồng ý với
Popper, nhưng những tư tưởng của ông về đề cao sự tự do lý trí, lý tính của con
người, phủ bác mọi sự cấm kỵ phi lý trí, được thần thánh hóa hay thần bí hóa, ủng
hộ tiến bộ của nhân loại dẫn đến xã hội mở cho đến nay và chắc chắn cho đến cả
mai sau vẫn luôn còn giá trị.
Với những phân tích có dẫn chứng, tác giả đã cho ta thấy được sự đóng góp
của Popper cho khoa học; triết học và khoa học lịch sử trong tác phẩm “Sự nghèo
nàn của chủ nghĩa lịch sử”. Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu, tác giả chỉ trình
bày những đóng góp về mặt triết học trong tác phẩm, sẽ còn nhiều những đóng góp
của Popper cho lịch sử tư tưởng nhân loại mà chúng tôi cần phải rõ hơn nữa.
1.3.2. Những công trình đánh giá về những hạn chế về mặt triết học trong
tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper
Maurice Cornforth trong tác phẩm “Triết học mở và xã hội mở”, có thể nói đây
là một tác phẩm mà Cornforth phê phán Popper một cách kịch liệt bằng cách bác bỏ
các luận điểm của ông nhằm bảo vệ triết học Mác.
+ Popper cho rằng, triết học Mác là triết học ‘đóng’ tức là ‘giáo điều, cực
đoan’, không có khả năng hoàn thiện và phát triển, còn chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản là sự hiện thực hóa thực tiễn của chúng ta là ‘xã hội đóng’.
Cornforth phê phán quan điểm này của Popper và cho rằng chính triết học mácxít
mới có tính chất “mở” theo đúng nghĩa. Nó là một học thuyết sáng tạo, luôn phát
triển, mở để tiếp thu những thành tựu mới của thực tiễn xã hội và khoa học. Tác giả
cho rằng chính chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là một chế độ xã hội “mở”
theo nghĩa tính dân chủ đích thực và khả năng của nó luôn được hoàn thiện và tiến
22
bộ vô hạn. Để chứng minh tất cả điều đó, Cornforth đặt ra nhiệm vụ phải bác bỏ các
luận điểm của Popper trên chính cơ sở của chúng.
+ Cornforth cho rằng Popper đã vi phạm các yêu cầu của logic học khi lẫn lộn
các thuộc tính của mâu thuẫn biện chứng với các thuộc tính mâu thuẫn logic hình
thức, lẫn lộn tính tất yếu lôgic với tính tất yếu hiện thực….
+ Cornforth bác bỏ quan điểm của Popper cho rằng chủ nghĩa duy vật biện
chứng mang các đặc điểm của triết học tư biện, về sự ngụy biện của Popper đối với
phép biện chứng, về việc dường như các quy luật của nó cho phép tiên đoán tất cả
mọi thứ, tức là không một điều gì xác định cả. Cornforth giải thích rõ ràng các
nguyên lý và các quy luật chung của triết học không bao giờ tiên đoán một cái gì cụ
thể cả. Tác giả cho rằng phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật là cơ sở logic cho
tiên đoán khoa học, và với tư cách mối liên hệ qua lại giữa các phạm trù triết học,
các quy luật của chúng.
+ Cornforth đã chỉ ra việc đả phá của Popper về lý luận của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, buộc tội nó về ‘chủ nghĩa duy lịch sử’ và ‘chủ nghĩa duy bản chất’, ‘chủ
nghĩa toàn tiến’ và ‘chủ nghĩa không tưởng’ đầy tội lỗi sinh ra từ đó. Popper phủ
định cả sự phát triển khách quan lẫn các xu hướng xác định vốn có ở nó, nên mọi
tiên đoán xã hội đối với ông hóa ra là những ‘phỏng đoán’ sai khoa học, tiên tri
không tưởng. Cornforth đã giải thích nhằm chống lại quan điểm này của Popper.
Ông cho rằng không tồn tại các quy luật vô điều kiện, được thực hiện một cách tiền
định và không phụ thuộc vào hoạt động của con người.
Trong “Một số trào lưu triết học và tư tưởng chính trị phương Tây đương đại”,
Tác giả Nguyễn Tấn Hùng chỉ ra một số thiếu sót của Karl Popper như sau:
Một là, trong triết học về khoa học của mình, Karl Popper rơi vào cách tiếp
cận siêu hình, cực đoan khi đứng về phía này, phủ nhận hoàn toàn phía kia. Ví dụ,
khi đứng về phía chủ nghĩa duy lý, ông phủ nhận hoàn toàn vai trò của kinh nghiệm
cảm tính, của quan sát trong việc hình thành một giả thuyết khoa học.
Hai là, Popper không biết kết hợp giữa cách tiếp cận từng phần với cách tiếp
cận toàn phần trong nhận thức và thực tiễn. Hai cách tiếp cận này hỗ trợ lẫn nhau.
23
Ba là, Popper quá nhấn mạnh tính tương đối đi đến phủ nhận hoàn toàn tính
tuyệt đối của chân lý.
Bốn là, Popper phủ nhận tư tưởng biện chứng, một thành tựu lớn của tư duy
nhân loại. Và cuối cùng đứng trên lập trường của chủ nghĩa tự do, Popper đề cao vai
trò của yếu tố chủ quan đi đến phủ nhận hoàn toàn tính tất yếu và quy luật khách
quan, nhất là tính tất yếu lịch sử và quy luật xã hội, phủ nhận quyết định luận [Xem
36, tr.112-113].
Với những đánh giá này, tác giả đã gợi mở cho chúng tôi một số ý tưởng quan
trọng trong quá trình thực hiện đề tài của mình.
Jeremy Shearmur, một người đã từng là trợ lý của Karl Popper trong 8 năm
(1971-1979) trong tác phẩm “The Political Thought of Karl Popper” (Tư tưởng
chính trị của Karl Popper) [114], có một số nhận xét về những hạn chế trong tư
tưởng chính trị - xã hội của Kark Popper. Theo tác giả, tư tưởng của Popper về già
(older Popper) có điểm khác với Popper hồi còn trẻ hơn (younger Popper) nhất là
trong lĩnh vực triết học. “Popper chưa bao giờ là một nhà triết học thực chứng chủ
nghĩa, nhưng cách tiếp cận của ông ở tuổi về già thì có ít yếu tố thực chứng hơn
trong tác phẩm The Open Society (Xã hội mở)”.
Một số công trình nghiên cứu ở Liên Xô trước đây và ở nước Nga hiện nay
cũng có đề cập và nhận xét về Karl Popper, nhưng không nhiều. Từ điển bách khoa
triết học chỉ trích việc Karl Popper phê phán triết học Mác, phủ nhận quy luật khách
quan và phê phán chủ nghĩa lịch sử là “để bảo vệ tư tưởng cải cách tư sản” [116,
c.514-515]. Bách khoa thư triết học (tập 4) cũng phê phán quan điểm của Popper về
xã hội mở là “sự biện hộ cho nền dân chủ tư sản” [117, Том 4, c.319]: Tân Bách
khoa thư triết học Nga mới xuất bản sau ngày Liên Xô sụp đổ, tuy có trình bày
tương đối cụ thể về tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper, nhưng không đưa ra
nhận xét, bình luận nào cả [119, Том 3, c.288].
1.4. NHẬN XÉT CHUNG VỀ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU,
ĐÁNH GIÁ VỀ KARL POPPER
Nhìn chung các công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Karl
Popper, và nhất là nhờ có tác phẩm “Tự tiểu sử” của ông, đã cung cấp cho chúng ta
một bức tranh tương đối rõ ràng và đầy đủ về những bước ngoặt trong sự chuyển
24
biến tư tưởng của ông từ một sinh viên xã hội chủ nghĩa, một người cộng sản sang
lập trường chủ nghĩa tự do xã hội và phê phán chủ nghĩa Mác. Đây là điều kiện
thuận lợi giúp luận án tập hợp, lựa chọn những sự kiện quan trọng nhất và đưa ra
những nhận xét, đánh giá về các sự kiện đó.
Tuy nhiên những đánh giá về mặt ưu và mặt khuyết điểm trong lập trường
chính trị, trong quan niệm về xã hội mở, trong sự phê phán chủ nghĩa lịch sử của
Karl Popper thì mỗi tác giả chỉ nêu ra được một vài điểm chưa có hệ thống; nhất là
chưa đưa ra những lập luận sâu sắc, có cơ sở lôgic để chứng minh cho tính đúng
đắn, hợp lý hay phê phán, vạch ra lý do sai lầm trong những điểm đó.
Những phê phán của các nhà nghiên cứu ở các nước xã hội chủ nghĩa thì chủ
yếu là để bác bỏ quan điểm của Karl Popper, nhưng không cố gắng tìm ra những
chỗ hợp lý để tiếp nhận và bổ sung cho triết học Mác nói chung và chủ nghĩa duy
vật lịch sử nói riêng.
Tình hình trên đặt ra cho nhiệm vụ luận án của chúng tôi là phải tiếp tục
nghiên cứu đi sâu hơn nữa vào việc phân tích các quan điểm triết học về chính trị -
xã hội của Karl Popper, đáp ứng được yêu cầu hai mặt: một là nghiên cứu tiếp thu
những điểm hợp lý trong triết học về chính trị – xã hội của Karl Popper để bổ sung
cho triết học Mác, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta hiện nay;
đồng thời vạch ra những hạn chế phiến diện, cực đoan trong tư tưởng của ông để chỉ
ra rằng những đóng góp của ông chỉ có giá trị từng mặt. Tư tưởng triết học chính trị
- xã hội của ông chỉ có thể bổ sung cho triết học Mác, sửa chữa một số sai sót nào
đó trong việc hiểu và vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa cộng sản của
Mác, nhưng nó hoàn toàn không thể bác bỏ hay thay thế được triết học Mác như
quan niệm thường có từ trước đến nay của một số nhà nghiên cứu ở phương Tây.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Các công trình nghiên cứu của Karl Popper về tư tưởng chính trị và xã hội
trước hết phải kể đến các sách dịch và giới thiệu các tác phẩm của ông, tuy nhiên
mới chỉ có 3 trong số hơn 6 cuốn đã được dịch. Do đó, việc nghiên cứu của chúng
tôi phải dựa vào các tài liệu bằng tiếng Anh là chính. Ở nước ta cho tới nay chưa có
25
một sách chuyên khảo nào về triết học Karl Popper nói chung cũng như về tư tưởng
triết học về chính trị - xã hội của ông, cho nên chúng tôi phải dựa vào một số sách
và tài liệu nước ngoài. Các bài viết về tư tưởng triết học, trong đó có tư tưởng chính
trị - xã hội của Karl Popper ở Việt Nam hiện nay tuy có tăng so với trước đây
nhưng vẫn còn khá khiêm tốn. Trong thời gian gần đây đã có một số luận văn thạc
sĩ triết học nghiên cứu một số khía cạnh trong tư tưởng triết học về khoa học và triết
học về xã hội của Karl Popper, nhưng chưa có một luận án tiến sĩ triết học nào đã
bảo vệ thành công về đề tài này. Do vậy luận án của chúng tôi không kế thừa được
những công trình luận án đi trước.
Cuốn ‘Tự tiểu sử’ là tài liệu quan trọng và quý giá để nghiên cứu về bối cảnh
lịch sử hình thành tư tưởng chính trị – xã hội, cuộc đời và sự nghiệp khoa học, cùng
với những suy tư, trăn trở về mặt triết học của Karl Popper từ thời thơ ấu cho đến
tuổi trưởng thành, vì đây là những sự thật do chính ông kể lại. Qua tác phẩm, chúng
ta có thể khẳng định rằng Karl Popper đã có những suy tư triết học từ khi còn nhỏ
tuổi. Ngoài ra còn có nhiều tài liệu khác đề cập một cách khá phong phú về bối cảnh
lịch sử hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper, nhất là
những tài liệu trên mạng internet, những bách khoa thư, như tình trạng xã hội của
nước Áo đầu thế kỷ XX, nạn đói ở thủ đô Viên đã gây nên những cuộc bạo loạn
thành phố Viên và chính bối cảnh đó tác động đến hoàn cảnh gia đình Karl Popper
cũng như tư tưởng ông lúc bấy giờ. Những tiền đề lý luận cho sự hình thành tư
tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper cũng được nhiều tài liệu đề cập đến, đây là
điều kiện thuận lợi để chúng tôi chọn lọc đưa vào luận án của mình.
Các công trình đề cập đến tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl
Popper có nhiều, nhưng chủ yếu bằng tiếng Anh, bao gồm trước hết là các tác phẩm
chuyên khảo về triết học và tư tưởng chính trị của Popper, sau đó là các bài viết
trong các bách khoa thư và các bài được công bố trên mạng internet. Ở nước ta, các
công trình nghiên cứu có liên quan đến tư tưởng chính trị – xã hội của Karl Popper
tuy còn ít nhưng cũng là nguồn tài liệu quan trọng giúp chúng tôi hoàn thành luận
án của mình, trước hết phải kể đến Kỷ yếu Hội thảo về triết học Áo được tổ chức tại
26
Viện Triết học, về sau được xuất bản thành sách in với tiêu đề: “Triết học Áo và ý
nghĩa hiện thời của nó” trong đó có một số bài viết về Karl Popper và về tư tưởng
chính trị – xã hội của ông được xem xét dưới góc độ triết học. Ngoài ra còn phải kể
đến các tác phẩm viết về lịch sử triết học phương Tây hiện đại, trong đó có một
phần đề cập đến tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper.
Đánh giá những đóng góp trong tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Karl
Popper có một số công trình, nhất là cuốn “The Philosophy of Karl Popper” (Triết
học của Karl Popper), do Paul A. Schilpp chủ biên, với sự đóng góp của nhiều nhà
triết học nổi tiếng nghiên cứu, nhận xét về Karl Popper. Chỉ ra những hạn chế của
Karl Popper có tác phẩm “Triết học mở và xã hội mở” của M. Cornforth. Nhìn
chung các công trình nghiên cứu về khía cạnh này tuy không nhiều nhưng các tác
giả cũng đã gợi mở cho chúng tôi một số ý tưởng quan trọng trong quá trình thực
hiện luận án.
Tóm lại, tài liệu nghiên cứu về tư tưởng triết học chính trị – xã hội của Karl
Popper tuy còn khá khiêm tốn, nhưng với sự cố gắng và nỗ lực khai thác của bản
thân, chúng tôi đã kế thừa và phát triển được những nội dung cần thiết để thực hiện
luận án của mình.
27
CHƯƠNG 2
BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER
Tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper được hình thành trong
bối cảnh lịch sử về kinh tế, chính trị, xã hội của nước Áo lúc bấy giờ, trong cuộc
đấu tranh về lý luận chống lại một số trào lưu triết học và chính trị đương thời, kế
thừa một số thành tựu trong khoa học tự nhiên. Tuy nhiên, trong cùng hoàn cảnh
lịch sử đó của nước Áo và nước Đức lại nảy sinh và phát triển nhiều khuynh hướng
tư tưởng chính trị - xã hội khác nhau, thậm chí đối lập với Karl Popper, bởi vì tất cả
những điều kiện và tiền đề nói trên đều phải thông qua lăng kính chủ quan của cá
nhân mới biểu hiện thành quan điểm của nhà triết học. Lăng kính cá nhân này đến
lượt nó lại được quy định bởi khả năng tư duy của cá nhân nhà triết học, những
phẩm chất tư tưởng và đạo đức được kế thừa từ truyền thống gia đình. Trong
chương này, chúng tôi sẽ trình bày và phân tích tất cả những yếu tố nói trên có ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã
hội của Karl Popper.
2.1. BỐI CẢNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân ở bất cứ hình thức nào cũng đều bị quy định
bởi những điều kiện lịch sử xã hội nhất định; đồng thời ít nhiều có kế thừa tư tưởng
của quá khứ và chịu sự tác động của một số tư tưởng đương thời. Do đó, để hiểu và
đánh giá đúng tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper, trước hết
chúng ta cần xem xét những điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội của nó.
- Bối cảnh kinh tế cho sự hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã
hội của Karl Popper
Karl Popper sinh năm 1902 và mất năm 1994. Ông sinh ra và lớn lên trong
thời kỳ có nhiều biến động về kinh tế, đó là cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ hay
còn gọi là Đại suy thoái là thời kỳ suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra từ năm 1929
28
đến hết các năm 1930 và lấn sang đầu thập kỷ 1940, bắt đầu sau sự sụp đổ của thị
trường chứng khoán Phố Wall vào ngày 29 tháng 10 năm 1929 (còn được biết đến
như là ‘ngày thứ Ba đen tối’). Nó bắt đầu ở Mỹ và nhanh chóng lan rộng ra toàn
Châu Âu và mọi nơi trên thế giới, phá hủy cả các nước phát triển. Thương mại quốc
tế suy sụp rõ rệt, từ thu nhập cá nhân, thuế, lợi tức đều bị ảnh hưởng và suy thoái.
Từ thành thị đến nông thôn đều phải đối mặt với nạn đói kém và thất nghiệp do mất
mùa, do giảm sút về việc làm và thu nhập của người lao động. Các lĩnh vực khai mỏ
và khai thác gỗ bị ảnh hưởng lớn nhất. Đại suy thoái kết thúc vào các thời gian khác
nhau tùy theo từng nước. Nó bị coi là đêm trước của Chiến tranh thế giới thứ hai.
Nguyên nhân chính của khủng hoảng chủ yếu là do sự tăng lên quá nhanh của quá
trình sản xuất trong một thời gian dài, nhưng nhu cầu thị trường lại không tăng làm
cho hàng hóa ngày càng giảm khả năng tiêu thụ và dần trở nên thừa dẫn đến suy
thoái trong sản xuất.
Ở Đức và Áo, cuộc khủng hoảng này không chỉ tàn phá nặng nề về kinh tế mà
còn gây ra nhiều hậu quả lớn về chính trị và xã hội. Cuộc khủng hoảng 1929 –
1933, đã làm cho số công nhân thất nghiệp tăng lên hàng triệu người, hàng triệu
người mất nhà cửa, hàng triệu dân bị mất ruộng đất và sống trong cảnh thiếu thốn,
nghèo đói. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản. Đại đa số nhân dân sống rất
nghèo khổ, cuộc sống của họ phải chịu đủ mọi sức ép, buồn thảm và chán ghét. Nạn
đói gây nên những cuộc bạo loạn ở Viên.
Karl Popper mô tả tình hình đó như sau: “Những người hiện đang sống ở các
nước dân chủ phương Tây rất ít biết về sự nghèo khổ hồi đầu thế kỷ này là như thế
nào. Lúc ấy, đàn ông, đàn bà, trẻ em đều sống rất nghèo khổ, đói rách, đều không có
hy vọng gì” [111, p.4].
Chính điều kiện kinh tế này đã đưa người thiếu niên Karl Popper đến với lập
trường chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, nhưng đến tuổi trưởng thành ông mới
nhận ra rằng con đường này không có tính khả thi và chuyển sang lập trường khác.
- Bối cảnh chính trị và xã hội cho sự hình thành tư tưởng triết học về
chính trị - xã hội của Karl Popper
Trong những năm đầu thế kỷ XX, dù có nền kinh tế hết sức lạc hậu và mâu
thuẫn dân tộc gay gắt nhưng Đế quốc Áo - Hung lại muốn bành trướng lãnh thổ,
29
nhất là khu vực Balkan. Năm 1882, Đế quốc Áo - Hung gia nhập Liên minh Trung
tâm cùng Đế quốc Đức và Ý. Tham vọng của Đế quốc Áo - Hung trong Chiến tranh
thế giới thứ nhất là làm chủ khu vực Balkan và giữ lại vai trò cường quốc của mình
ở châu Âu. Chính sách bành trướng Balkan của Đế quốc Áo - Hung vấp phải sự
cạnh tranh mạnh mẽ của Đế quốc Nga, do đó Áo - Hung thực hiện liên minh quân
sự với Đế quốc Đức để chống lại Nga.
Ngày 28 tháng 7 năm 1914, Đế quốc Áo - Hung tuyên chiến với Serbia, lý do
là khi liên minh với Đế quốc Đức, Đế quốc Áo - Hung đã đi thôn tính Bosnia và
Herzegovina, làm cho sự đối địch giữa Áo - Hung với Serbia ngày càng gay gắt.
Ngày 28 tháng 6 năm 1914, khi thái tử Franz Ferdinan tham gia buổi diễn tập của
quân đội Áo - Hung tại Sarajevo thì bị một số thành viên của tổ chức Bàn tay đen
thực hiện kế hoạch ám sát. Mặc dù nhiều lần Serbia gửi tối hậu thư đến đại sứ Áo -
Hung muốn hòa giải cuộc xung đột nhưng Áo - Hung vẫn không chấp thuận và
tuyên bố cắt đứt quan hệ ngoại giao với Serbia và tuyên bố chiến tranh Serbia. Sự
kiện này đã châm ngòi cho cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và Đế quốc Áo -
Hung chính thức tham gia vào chiến tranh.
Với sự lạc hậu về kinh tế cùng với sự thất bại liên tiếp ở chiến trường, nhiều
cuộc biểu tình của nhân dân lao động diễn ra. Tình trạng này để lại hậu quả rất tồi
tệ. Thành phố Viên rất hỗn loạn, không chỉ có sự xáo trộn về chính trị mà nạn thất
nghiệp, lạm phát, đói kém và các tệ nạn xã hội tràn lan. Nhân dân ở Viên sống rất
nghèo khổ, cuộc sống con người chịu đựng mọi sức ép, buồn thảm và chán ghét.
Qua “Tự tiểu sử” của mình, Karl Popper thuật lại rằng ở Viên lúc bấy giờ tình trạng
đói nghèo là phổ biến. Ông nói: “Việc trông thấy cảnh nghèo đói xơ xác (abject
poverty) ở Viên là một trong những vấn đề chính đã làm tôi xúc động ngay từ khi
còn là một đứa trẻ – đến nỗi nó hầu như mãi mãi nằm sâu trong đầu óc của tôi …
đàn ông, đàn bà, trẻ con sống trong cảnh đói, rét và tuyệt vọng. Là trẻ con như
chúng tôi không thể làm gì hơn là xin một vài đồng xu để cho người nghèo” [111, p.4].
Ngày 3 tháng 11 năm 1918 sự ra đời của Đảng Cộng sản Áo diễn ra trong bối
cảnh Quốc tế II bị phá sản do sự lũng đoạn của chủ nghĩa cơ hội xét lại và trong bối
30
cảnh các lực lượng cánh tả của các đảng xã hội - dân chủ dưới sự lãnh đạo của V.I.
Lênin với nòng cốt là Đảng Bônsêvích Nga đang xúc tiến chuẩn bị thành lập Quốc
tế Cộng sản (Quốc tế III). Bởi vậy, ngay khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Áo đã phải
tiến hành nhiều cuộc đấu tranh nhằm chống các tư tưởng cải lương, cơ hội xét lại,
xây dựng một chính đảng mácxít - lêninít chân chính. Năm 1924, phái cánh tả
chiếm ưu thế về chính trị, đây là giai đoạn cao trào của thời kỳ Viên đỏ (1918 -
1933). Karl Popper đã tham gia hoạt động tích cực trong các phong trào xã hội chủ
nghĩa. Trong thời gian này, Karl Popper đã tham gia Hội sinh viên xã hội chủ nghĩa.
Ông thường xuyên tham dự đầy đủ các cuộc họp của Hội và các cuộc mít-tinh do
Hội tổ chức, ông đã tin theo những người xã hội chủ nghĩa và trong những tháng
đầu năm 1919, Karl Popper đã tự coi mình là một người cộng sản thật sự.
Tuy nhiên, điều này không diễn ra lâu hơn khi Karl Popper chuyển sang lập
trường ngược lại. Từ sau khi chứng kiến sự chết chóc trong các cuộc xung đột đầy
bạo lực giữa những người cộng sản và cảnh sát Viên, ông đã rời bỏ Đảng Cộng sản
Áo và trở thành một trong những người phê phán chủ nghĩa Mác.
Tình hình khủng hoảng kinh tế và nghèo đói của nhân dân là nguyên nhân làm
trỗi dậy xu hướng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa ở nhiều nước trên thế
giới trong đó có Đức và Áo. Ngoài các đảng xã hội chủ nghĩa và cộng sản theo lập
trường của Mác và Lênin, còn có các đảng công nhân theo lập trường dân tộc chủ
nghĩa, trong đó có Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa dân tộc Đức
(Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei, gọi tắt là NSDAP) do Hitler đứng
đầu, thường được dịch sang tiếng Việt là Đảng Quốc xã Đức (Quốc xã =
Nationalsozialistische, có nghĩa là xã hội chủ nghĩa dân tộc). Tuy gọi mình đảng
công nhân nhưng Hitler lại giải tán công đoàn. Tuy gọi là đảng xã hội chủ nghĩa
nhưng thực ra Hitler chủ trương chống Liên Xô. Chủ nghĩa xã hội dân tộc không chỉ
chống lại chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, mà còn chống lại chủ nghĩa xã hội quốc
tế. Cho nên vì thế các nhà nghiên cứu phương Tây đều không coi tư tưởng chính trị
của Hitler là thuộc về chủ nghĩa xã hội.
Từ sau Cách mạng tháng Mười Nga đến đầu thập kỷ 30 thì khuynh hướng
31
cộng sản chủ nghĩa thắng thế ở Áo (thời kỳ Viên đỏ). Tuy nhiên, sau đó khuynh
hướng xã hội chủ nghĩa dân tộc lại nổi lên chiếm vai trò chủ đạo. Adolf Hitler, thủ
lĩnh của Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa dân tộc Đức năm 1933 được bầu làm
Thủ tướng nước Đức. Trong vài năm trước Thế chiến II, Đức Quốc xã đã đem lại
một số thay đổi theo hướng tích cực, như phục hồi kinh tế, giảm bớt thất nghiệp
(Sản lượng và thu nhập quốc nội tăng gấp đôi trong thời gian 1932 – 1937). Số
người thất nghiệp từ 6 triệu (năm 1932) bốn năm sau giảm còn không đến 1 triệu.
Lực lượng quân đội Đức tăng lên một cách nhanh chóng, có thể đánh chiếm Ba Lan
và nhiều nước khác chỉ trong một thời gian ngắn, huy động hơn 3,2 triệu quân tiến
vào Liên Xô. Vì thế Đảng NSDAP được đại đa số nhân dân ủng hộ. Họ tin rằng
Hitler là người sẽ làm thay đổi tình hình nước Đức và thế giới, sẽ làm cho dân tộc
Đức trở thành một dân tộc vĩ đại trên thế giới. Trong giới quan chức ở Đức tuy có
nhiều người đã nhận ra bộ mặt thật của Hitler nhưng tất cả mọi âm mưu lật đổ, đảo
chính đều bị thất bại.
Đức quốc xã thực chất là một hình thức của chủ nghĩa phát xít (Fascism), một
thứ chủ nghĩa toàn trị (chế độ độc tài) và chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Chủ nghĩa
phát xít xuất hiện từ đầu thế kỷ XX ở Ý trong Thế chiến I và sau đó lan ra nhiều
nước khác ở châu Âu, trong đó có Đức. Đảng Phát xít cách mạng Ý được thành lập
năm 1915 và hai năm sau đổi tên thành Đảng Dân tộc Phát xít (Partito Nationale
Fascista). Chủ nghĩa phát xít coi chiến tranh là phương thức hữu hiệu nhất để làm
thay đổi thế giới. Do vậy nó cần có một chính phủ đủ mạnh để huy động mọi công
dân phục vụ cho chiến trường. Với mục đích đó, Đức quốc xã tiến hành nắm toàn
bộ công nghiệp để tập trung sản xuất vũ khí và thương nghiệp để phục vụ chiến
tranh. Đảng Quốc xã Đức nắm trong tay mọi quyền lực, hợp thức hóa mình thành
một đảng chính trị duy nhất ở Đức.
Đức Quốc xã tuy lấy tên ‘xã hội chủ nghĩa’ với mục đích vay mượn một số
yếu tố của chủ nghĩa xã hội để phục vụ chế độ phát xít của mình, nhưng nó không
phải là chủ nghĩa xã hội mácxít. Chủ nghĩa phát xít được giới nghiên cứu phương
Tây xếp vào khuynh hướng chính trị cực hữu (far-right), nó chống lại cả ba khuynh
32
hướng chính trị đương thời: chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa bảo
thủ. Sau khi lên cầm quyền, Hitler tìm cách thâu tóm mọi quyền lực để có thể rảnh
tay thực hiện mọi ý đồ ảo tưởng của mình, như giải tán tổ chức tiểu bang và đổi
thành tỉnh mà người đứng đầu các tỉnh và thành phố do Hitler hoặc Bộ nội vụ bổ
nhiệm. Hitler giải tán Công đoàn Đức để trực tiếp nắm toàn bộ lực lượng công
nhân. Hitler xóa bỏ quyền lập pháp của Nghị viện, kể cả quyền phê chuẩn hiệp ước
với nước ngoài, xóa bỏ những quyền tự do căn bản của công dân đã được hiến pháp
thừa nhận. Trong mấy năm cầm quyền, Hitler đã tiến hành hàng loạt các cuộc thanh
trừng, cách chức, treo cổ những người chống đối, có âm mưu lật đổ hoặc ám sát y.
Hitler thực hiện chính sách dân tộc cực đoan, gạt bỏ cộng đồng Do Thái, vì thế đã
có gần 6 triệu người Do Thái bị sát hại.
Tóm lại, Đức Quốc xã do Hitler cầm đầu là một thứ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi,
cực đoan, sùng bái cá nhân và coi thường nhân dân, một chế độ cai trị độc tài phản
dân chủ, phản tự do và tàn bạo hiếm thấy trong lịch sử nhân loại.
Ở nước Áo, ngoài Đảng xã hội và cộng sản theo hệ tư tưởng Mác - Lênin, còn
có Đảng Công nhân Đức ở Áo, năm 1923 đổi tên thành Đảng Công nhân xã hội chủ
nghĩa dân tộc Đức ở Áo, một đảng theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa dân tộc,
thực chất là chủ nghĩa phátxít. Vì Áo và Đức là cùng một dân tộc, nói cùng một thứ
tiếng (tiếng Đức); trước đây Áo đã từng nằm trong Liên bang Đức về sau tách ra
thành một nhà nước độc lập, nên chủ trương thống nhất dân tộc Đức, sát nhập Áo
vào Đức của Hitler (một người Đức sinh ra ở Áo) được nhiều người dân Áo đồng
tình. Từ năm 1930 đa số các đảng viên của đảng Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa
dân tộc Đức ở Áo đều ủng hộ Hitler. Ngày 12 tháng 3 năm 1938, Hitler dẫn một đội
quân vượt biên giới sang lật đổ chính phủ Áo và sát nhập nước Áo vào nước Đức.
Với nhãn quan chính trị sắc sảo, Karl Popper ngay từ đầu đã nhận ra bộ mặt
thật của Đức Quốc xã. Người bạn của Popper là Hayek, một đại biểu xuất sắc của
chủ nghĩa tự do mới, đã phát hiện và giúp cho Popper thấy rõ bản chất của Đức
Quốc xã là chủ nghĩa phát xít. Là một nhà triết học theo khuynh hướng tự do chủ
nghĩa, Karl Popper ngay từ đầu đã nhận ra được bản chất độc tài, phản tự do, dân
33
chủ của chế độ phát xít của Hitler và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi của Đảng Công
nhân xã hội chủ nghĩa dân tộc Đức ở Áo, cho nên trước sự trỗi dậy của Đảng này ở
Áo, và nguy cơ nước Áo bị sát nhập vào nước Đức, Karl Popper cảm thấy không
thể tiếp tục sống ở quê hương của mình và ông quyết định rời khỏi Áo cùng với vợ.
Ông để lại họ hàng và nhiều người sau này bị Đức quốc xã sát hại.
Năm 1937, Karl Popper đến New Zealand và giảng dạy triết học như một
giảng viên cao cấp tại Đại học Canterbury. Sau Thế chiến II, gia đình Popper
chuyển đến London nước Anh và giảng dạy ở đó. Trong giai đoạn từ năm 1937 đến
năm 1957, Karl Popper tập trung nghiên cứu nhiều lĩnh vực khoa học, xuất bản một
số công trình có giá trị. Đây cũng chính là giai đoạn mà Karl Popper nghiên cứu phê
phán chủ nghĩa lịch sử. Tác phẩm “The Poverty of Historicism” (Sự nghèo nàn của
chủ nghĩa lịch sử) cũng như là “The Open Society and Its Enemies” (Xã hội mở và
những kẻ thù của nó) đã ra đời trong thời gian này. Những tác phẩm này phản ánh
rất rõ nét tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Popper.
2.2. NHỮNG TIỀN ĐỀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN CHO SỰ HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER
Tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Popper hình thành gắn liền với
những thành tựu khoa học nổi bật của thế giới vào đầu thế kỷ XX, trong đó có
thuyết bất định trong vật lý lượng tử của Heisenberg, thuyết tiến hóa của Darwin.
Tuy nhiên, ảnh hưởng lớn nhất về mặt phương pháp luận đến tư tưởng của Karl
Popper là học thuyết và phương pháp khoa học của Albert Einstein.
2.2.1. Ảnh hưởng của thuyết bất định đối với tư tưởng tự do chủ nghĩa và
triết học về xã hội mở của Karl Popper
Nguyên lý bất định (Uncertainty Principle, nếu được dịch sát nghĩa là nguyên
lý không biết chắc) được nhà vật lý lý thuyết người Đức Werner Heisenberg (1901-
1976) công bố năm 1927. Theo nguyên lý này, chúng ta không thể xác định được
một cách chính xác cả vị trí lẫn vận tốc (hay xung lượng) của một hạt electron vào
cùng một thời điểm. Nếu ta biết một đại lượng càng chính xác thì ta biết đại lượng
kia càng kém chính xác, bởi vì, các hạt vi mô vừa có tính chất sóng, vừa có tính
34
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

More Related Content

Similar to Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

Giao_trinh_Triet_hoc_Mac_Le_nin_6.2021_Khong_chuyen_LLCT_Nxb_CTQG.docx
Giao_trinh_Triet_hoc_Mac_Le_nin_6.2021_Khong_chuyen_LLCT_Nxb_CTQG.docxGiao_trinh_Triet_hoc_Mac_Le_nin_6.2021_Khong_chuyen_LLCT_Nxb_CTQG.docx
Giao_trinh_Triet_hoc_Mac_Le_nin_6.2021_Khong_chuyen_LLCT_Nxb_CTQG.docxNgcHuyn676269
 
GIAO TRINH THM-L.pdf
GIAO TRINH THM-L.pdfGIAO TRINH THM-L.pdf
GIAO TRINH THM-L.pdfngThch4
 
Tài liệu học tập chủ nghĩa xã hội khoa học (8).doc.pdf
Tài liệu học tập chủ nghĩa xã hội khoa học (8).doc.pdfTài liệu học tập chủ nghĩa xã hội khoa học (8).doc.pdf
Tài liệu học tập chủ nghĩa xã hội khoa học (8).doc.pdfVnPhcNg2
 
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.docLuận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.docsividocz
 
Giao trinh CNXHKH 20219.pdf
Giao trinh CNXHKH 20219.pdfGiao trinh CNXHKH 20219.pdf
Giao trinh CNXHKH 20219.pdfxunmaiphmth1
 
Tư tưởng triết học khoa học của Thomas Samuel Kuhn trong tác phẩm “Cấu Trúc C...
Tư tưởng triết học khoa học của Thomas Samuel Kuhn trong tác phẩm “Cấu Trúc C...Tư tưởng triết học khoa học của Thomas Samuel Kuhn trong tác phẩm “Cấu Trúc C...
Tư tưởng triết học khoa học của Thomas Samuel Kuhn trong tác phẩm “Cấu Trúc C...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận Văn Tư tưởng triết học của Karl Popper trong tác phẩm sự nghèo nàn của c...
Luận Văn Tư tưởng triết học của Karl Popper trong tác phẩm sự nghèo nàn của c...Luận Văn Tư tưởng triết học của Karl Popper trong tác phẩm sự nghèo nàn của c...
Luận Văn Tư tưởng triết học của Karl Popper trong tác phẩm sự nghèo nàn của c...sividocz
 
Lịch Sử Và Lý Thuyết Xã Hội Học.pdf
Lịch Sử Và Lý Thuyết Xã Hội Học.pdfLịch Sử Và Lý Thuyết Xã Hội Học.pdf
Lịch Sử Và Lý Thuyết Xã Hội Học.pdfNuioKila
 
Bài giảng chính trị - hệ trung cấp
Bài giảng chính trị - hệ trung cấpBài giảng chính trị - hệ trung cấp
Bài giảng chính trị - hệ trung cấptiểu minh
 
NHẬP MÔN NGUYÊN LÝ CƠ BẢN MÁC LÊ NIN
NHẬP MÔN NGUYÊN LÝ CƠ BẢN MÁC LÊ NINNHẬP MÔN NGUYÊN LÝ CƠ BẢN MÁC LÊ NIN
NHẬP MÔN NGUYÊN LÝ CƠ BẢN MÁC LÊ NINTín Nguyễn-Trương
 
TRIET_Decuongchitiet_K2021.doc
TRIET_Decuongchitiet_K2021.docTRIET_Decuongchitiet_K2021.doc
TRIET_Decuongchitiet_K2021.docHuyDng48
 
Đại cương về Xã hội học.pdf
Đại cương về Xã hội học.pdfĐại cương về Xã hội học.pdf
Đại cương về Xã hội học.pdfXunXun35
 
GIÁO TRÌNH XÃ HỘI HỌC GIỚI
GIÁO TRÌNH XÃ HỘI HỌC GIỚI GIÁO TRÌNH XÃ HỘI HỌC GIỚI
GIÁO TRÌNH XÃ HỘI HỌC GIỚI nataliej4
 

Similar to Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620 (20)

Giao_trinh_Triet_hoc_Mac_Le_nin_6.2021_Khong_chuyen_LLCT_Nxb_CTQG.docx
Giao_trinh_Triet_hoc_Mac_Le_nin_6.2021_Khong_chuyen_LLCT_Nxb_CTQG.docxGiao_trinh_Triet_hoc_Mac_Le_nin_6.2021_Khong_chuyen_LLCT_Nxb_CTQG.docx
Giao_trinh_Triet_hoc_Mac_Le_nin_6.2021_Khong_chuyen_LLCT_Nxb_CTQG.docx
 
GIAO TRINH THM-L.pdf
GIAO TRINH THM-L.pdfGIAO TRINH THM-L.pdf
GIAO TRINH THM-L.pdf
 
Tài liệu học tập chủ nghĩa xã hội khoa học (8).doc.pdf
Tài liệu học tập chủ nghĩa xã hội khoa học (8).doc.pdfTài liệu học tập chủ nghĩa xã hội khoa học (8).doc.pdf
Tài liệu học tập chủ nghĩa xã hội khoa học (8).doc.pdf
 
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.docLuận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
 
Giao trinh CNXHKH 20219.pdf
Giao trinh CNXHKH 20219.pdfGiao trinh CNXHKH 20219.pdf
Giao trinh CNXHKH 20219.pdf
 
Tiểu Luận Về Mối Quan Hệ Giữa Triết Học Và Khoa Học Tự Nhiên.doc
Tiểu Luận Về Mối Quan Hệ Giữa Triết Học Và Khoa Học Tự Nhiên.docTiểu Luận Về Mối Quan Hệ Giữa Triết Học Và Khoa Học Tự Nhiên.doc
Tiểu Luận Về Mối Quan Hệ Giữa Triết Học Và Khoa Học Tự Nhiên.doc
 
Tư tưởng triết học khoa học của Thomas Samuel Kuhn trong tác phẩm “Cấu Trúc C...
Tư tưởng triết học khoa học của Thomas Samuel Kuhn trong tác phẩm “Cấu Trúc C...Tư tưởng triết học khoa học của Thomas Samuel Kuhn trong tác phẩm “Cấu Trúc C...
Tư tưởng triết học khoa học của Thomas Samuel Kuhn trong tác phẩm “Cấu Trúc C...
 
Quan Điểm Tự Do Trong Triết Học Hiện Sinh Giá Tr Ị Và H Ạn Chế.doc
Quan Điểm Tự Do Trong Triết Học Hiện Sinh Giá Tr Ị Và H Ạn Chế.docQuan Điểm Tự Do Trong Triết Học Hiện Sinh Giá Tr Ị Và H Ạn Chế.doc
Quan Điểm Tự Do Trong Triết Học Hiện Sinh Giá Tr Ị Và H Ạn Chế.doc
 
Quan điểm tự do trong triết học hiện sinh Giá trị và hạn chế.doc
Quan điểm tự do trong triết học hiện sinh Giá trị và hạn chế.docQuan điểm tự do trong triết học hiện sinh Giá trị và hạn chế.doc
Quan điểm tự do trong triết học hiện sinh Giá trị và hạn chế.doc
 
Luận văn: Tư tưởng triết học khoa học của Thomas Samuel Kuhn
Luận văn: Tư tưởng triết học khoa học của Thomas Samuel KuhnLuận văn: Tư tưởng triết học khoa học của Thomas Samuel Kuhn
Luận văn: Tư tưởng triết học khoa học của Thomas Samuel Kuhn
 
Luận Văn Tư tưởng triết học của Karl Popper trong tác phẩm sự nghèo nàn của c...
Luận Văn Tư tưởng triết học của Karl Popper trong tác phẩm sự nghèo nàn của c...Luận Văn Tư tưởng triết học của Karl Popper trong tác phẩm sự nghèo nàn của c...
Luận Văn Tư tưởng triết học của Karl Popper trong tác phẩm sự nghèo nàn của c...
 
Luận án: Biện pháp tu từ trong diễn văn của một số nhà lãnh đạo
Luận án: Biện pháp tu từ trong diễn văn của một số nhà lãnh đạoLuận án: Biện pháp tu từ trong diễn văn của một số nhà lãnh đạo
Luận án: Biện pháp tu từ trong diễn văn của một số nhà lãnh đạo
 
Quan niệm của Immanuel Kant về tự do
Quan niệm của Immanuel Kant về tự doQuan niệm của Immanuel Kant về tự do
Quan niệm của Immanuel Kant về tự do
 
Lịch Sử Và Lý Thuyết Xã Hội Học.pdf
Lịch Sử Và Lý Thuyết Xã Hội Học.pdfLịch Sử Và Lý Thuyết Xã Hội Học.pdf
Lịch Sử Và Lý Thuyết Xã Hội Học.pdf
 
Bài giảng chính trị - hệ trung cấp
Bài giảng chính trị - hệ trung cấpBài giảng chính trị - hệ trung cấp
Bài giảng chính trị - hệ trung cấp
 
NHẬP MÔN NGUYÊN LÝ CƠ BẢN MÁC LÊ NIN
NHẬP MÔN NGUYÊN LÝ CƠ BẢN MÁC LÊ NINNHẬP MÔN NGUYÊN LÝ CƠ BẢN MÁC LÊ NIN
NHẬP MÔN NGUYÊN LÝ CƠ BẢN MÁC LÊ NIN
 
TRIET_Decuongchitiet_K2021.doc
TRIET_Decuongchitiet_K2021.docTRIET_Decuongchitiet_K2021.doc
TRIET_Decuongchitiet_K2021.doc
 
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt NamLuận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
 
Đại cương về Xã hội học.pdf
Đại cương về Xã hội học.pdfĐại cương về Xã hội học.pdf
Đại cương về Xã hội học.pdf
 
GIÁO TRÌNH XÃ HỘI HỌC GIỚI
GIÁO TRÌNH XÃ HỘI HỌC GIỚI GIÁO TRÌNH XÃ HỘI HỌC GIỚI
GIÁO TRÌNH XÃ HỘI HỌC GIỚI
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 

Luận án: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG THỊ PHƯỢNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL RAIMUND POPPER. NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ VỀ MẶT TRIẾT HỌC LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - Năm 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG THỊ PHƯỢNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL RAIMUND POPPER. NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ VỀ MẶT TRIẾT HỌC Chuyên ngành : Triết học Mã số : 92.29.001 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. Nguyễn Tấn Hùng HÀ NỘI - Năm 2019
  • 3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN....................................................................................................7 1.1. Những công trình nghiên cứu về bối cảnh lịch sử, tiền đề lý luận, cuộc đời và sự nghiệp khoa học của Karl Popper. .....................................................................8 1.2. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper .......................................................................................13 1.3. Những công trình đánh giá về những giá trị và những hạn chế về mặt triết học trong tư tưởng chính trị - xã hội của karl popper...........................................21 1.4. Nhận xét chung về các công trình nghiên cứu, đánh giá về Karl Popper......24 Chương 2: BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER ...................................28 2.1. Bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper .......................................................................................28 2.2. Những tiền đề khoa học tự nhiên cho sự hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper.........................................................................34 2.3. Những tiền đề triết học và lý luận xã hội cho sự hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper....................................................................41 2.4. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp khoa học của Karl Popper....................59 Chương 3: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER .............................................65 3.1. Quan niệm của Karl Popper về chủ nghĩa tự do xã hội.................................66 3.2. Quan niệm triết học của Karl Popper về xã hội mở ......................................70 3.3. Sự phê phán của Karl Popper đối với chủ nghĩa lịch sử như là kẻ thù của xã hội mở ...................................................................................................................84 Chương 4: NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ HẠN CHẾ VỀ MẶT TRIẾT HỌC TRONG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER ...........105 4.1. Những đóng góp về mặt triết học trong tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper .................................................................................................................105 4.2. Một số hạn chế về mặt triết học trong tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper .................................................................................................................127 KẾT LUẬN........................................................................................................14848 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN...........1522 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................153
  • 4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Bên cạnh triết học và chính trị học Mác - Lênin, việc nghiên cứu về triết học và tư tưởng chính trị phương Tây hiện đại trong đó có triết học Karl Popper cũng được những người làm công tác lý luận ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây quan tâm. Tuy nhiên, trong thời kỳ trước đổi mới, việc nghiên cứu về các trào lưu này được tiến hành chỉ với mục đích vạch ra những sai lầm về mặt lý luận của các trào lưu này. Nhìn chung, trong thời kỳ trước đổi mới, chủ nghĩa xã hội mô hình Liên Xô chưa bộc lộ rõ nét những yếu kém của nó, chưa rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, do vậy khuynh hướng tán dương và bảo vệ chủ nghĩa xã hội mô hình này còn giữ vai trò chủ đạo trong giới nghiên cứu lý luận, tất cả những ý kiến phản biện đều bị coi là ‘xét lại’, ‘phản động’, ‘thù địch’. Trong bối cảnh lịch sử đó, việc nghiên cứu về triết học phương Tây hiện đại thường thiếu thái độ khách quan, cầu thị, kết quả nghiên cứu thường mang tính chủ quan, không phản ánh hết được những đóng góp có giá trị của các trào lưu này. Công cuộc đổi mới đất nước được Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức khởi xướng từ năm 1986 không bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà là một cuộc đổi mới toàn diện, cả trong lĩnh vực chính trị - tư tưởng. Để đổi mới công tác lý luận, trước hết Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ ra một trong những khiếm khuyết, bất cập của nó là từ trước đến nay chúng ta chỉ bó hẹp việc nghiên cứu trong phạm vi chủ nghĩa Mác - Lênin và thiếu nghiên cứu về những thành tựu lý luận của các trào lưu tư tưởng khác. Nghị quyết của Bộ Chính trị (khóa VII), ngày 28 tháng 3 năm 1992 đã chỉ ra nguyên nhân của tình trạng này như sau: “Trong nhiều năm qua, nội dung đào tạo đội ngũ cán bộ lý luận hầu như chỉ bó hẹp trong các bộ môn khoa học Mác - Lênin, chưa coi trọng việc nghiên cứu các trào lưu khác và tiếp nhận những thành tựu khoa học của thế giới. Hậu quả là số đông cán bộ lý luận thiếu hiểu biết rộng rãi về kho tàng tri thức của loài người, do đó khả năng phát triển bị hạn chế” [17, tr. 20-21]. Hơn hai mươi năm sau, Bộ Chính trị (khóa XI) lại ban hành một Nghị quyết mới để thúc đẩy hơn nữa phong trào này. Đó là “Nghị quyết của Bộ chính trị ngày 9 1
  • 5. tháng 10 năm 2014 về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030”. Nghị quyết đánh giá: “Nghiên cứu những trào lưu tư tưởng, học thuyết mới, lý thuyết mới chưa được nhiều”. Từ đó, Nghị quyết đề ra phương hướng chỉ đạo: “Đối với những trào lưu tư tưởng, học thuyết, lý thuyết mới, tiếp tục mở rộng và đi sâu nghiên cứu trên quan điểm khách quan, biện chứng và tiếp thu những giá trị tiến bộ” [20]. Như vậy, việc nghiên cứu tư tưởng triết học của Karl Popper là phù hợp với chủ trương đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó sẽ có tác dụng hai mặt: một là, góp phần phát triển chuyên ngành lịch sử triết học, nhất là triết học phương Tây hiện đại; hai là, tiếp thu những giá trị tiến bộ trong các trào lưu triết học đó để phục cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta. Trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper, ngoài những khiếm khuyết có tính cực đoan, phiến diện của nó, còn có một số giá trị triết học có tính khoa học và tiến bộ mà chúng ta có thể tiếp thu được để phục vụ yêu cầu đổi mới về lý luận chủ nghĩa xã hội. Sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội và sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đặt ra câu hỏi về nguyên nhân đích thực của tình trạng này. Liệu có những khiếm khuyết trong lý luận về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản hay đây chỉ là những sai lầm về mặt thực tiễn? Mặt khác, các trào lưu tư tưởng chống cộng, trong đó có triết học của Karl Popper tìm cách phủ nhận hoàn toàn triết học Mác và chủ nghĩa cộng sản, đồng nhất triết học Mác với ‘chủ nghĩa lịch sử’, coi xã hội cộng sản là xã hội ‘đóng’, đối lập với xã hội mở. Ngoài ra, trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận hiện nay cũng đang tồn tại một khuynh hướng sai lầm là quá tán dương tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper để phủ nhận hoàn toàn chủ nghĩa Mác. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper một mặt kế thừa một số điểm hợp lý để bổ sung, phát triển triết học Mác, mặt khác chỉ ra những sai lầm cực đoan trong tư tưởng của Karl Popper để bảo vệ những giá trị không thể chối bỏ được của triết học Mác và những thành tựu của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới ở nước ta gắn liền với chuyển đổi mô hình của chủ nghĩa xã hội từ kế hoạch hóa tập trung (cơ bản là ‘đóng’ ở nhiều mặt) sang mô hình chủ 2
  • 6. nghĩa xã hội dựa trên cơ chế thị trường (biểu hiện cơ bản của xã hội mở về kinh tế, văn hóa, giáo dục), với việc từng bước loại bỏ cơ chế xã hội bảo thủ, khép kín và thực hiện chủ trương mở cửa, hội nhập với thế giới bên ngoài, không chỉ trong kinh tế mà còn trong nhiều lĩnh vực khác nữa. Chúng tôi nhận thấy rằng việc nghiên cứu tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Karl Poppper, nhất là tư tưởng của ông về xã hội mở” sẽ có những đóng góp nhất định cho yêu cầu này của nước ta hiện nay. Việc nghiên cứu và giảng dạy lý luận nhất là lý luận triết học, chính trị -xã hội, lịch sử ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có nước ta, thường được tiến hành theo một mục đích và phương pháp giáo điều, bảo thủ, thiếu tinh thần khoa học thực sự, tức là chỉ tìm cách chứng minh cho tính đúng đắn tuyệt đối của chủ nghĩa Mác - Lênin và phê phán sai lầm của các quan điểm chống đối. Hiện nay, việc đổi mới công tác nghiên cứu và giảng dạy lý luận đòi hỏi phải nghiên cứu các trào lưu triết học với “quan điểm khách quan, biện chứng và tiếp thu những giá trị tiến bộ” để bổ sung lý luận của chúng ta. Do vậy, việc nghiên cứu tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Karl Popper sẽ đáp ứng được phần nào cả hai mặt nói trên. Trong việc nghiên cứu và giảng dạy lý luận, phương pháp tư duy phê phán hay phản biện từ trước đến nay chưa được áp dụng một cách thực sự đầy đủ. Tình hình này làm cho người học (học sinh, sinh viên) thiếu hứng thú trong việc học tập các môn lý luận chính trị, xã hội, lịch sử và tạo ra một thói quen chấp nhận một chiều, thiếu đào sâu suy nghĩ, phê phán. Do vậy, phương pháp tư duy phê phán mà Karl Popper đặc biệt nhấn mạnh trong các tác phẩm của ông cần được nghiên cứu và vận dụng nhằm đem lại một luồng sinh khí mới trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập và vận dụng các môn lý luận khoa học ở nước ta hiện nay với chất lượng, hiệu quả thật sự. Từ trước đến nay, việc nghiên cứu về triết học Karl Popper nói chung và tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của ông nói riêng ở Việt Nam còn khá khiêm tốn. Những công trình nghiên cứu về Karl Popper tuy đã xuất hiện, nhưng còn rất hạn chế. Trong thời gian gần đây tuy đã có một số công trình nghiên cứu mới về ông, nhưng chưa có một công trình nào đi sâu về chỉ ra những điểm hợp lý và những điểm không thỏa đáng của Karl Popper trong việc phê phán chủ nghĩa lịch sử và đề cập một cách toàn diện về quan điểm triết học về xã hội mở của ông. 3
  • 7. Tóm lại, việc nghiên cứu tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Karl Popper, chỉ ra những đóng góp của nó sẽ góp phần đổi mới và phát triển công tác nghiên cứu lý luận ở nước ta, trong đó có việc nghiên cứu lịch sử triết học; tìm ra những chỗ thiếu sót trong việc hiểu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm hoàn thiện cách tiếp cận đối với nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn, đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập các bộ môn Mác - Lênin, phát huy vai trò của tư duy phê phán, mở rộng dân chủ và phát huy vai trò sáng tạo của mọi cá nhân trong xây dựng xã hội mở và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. Đồng thời, việc vạch ra những hạn chế cực đoan, phiến diện trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper sẽ góp phần bảo vệ những giá trị của chủ nghĩa Mác- Lênin và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper. Những giá trị và hạn chế về mặt triết học” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Mục đích của luận án là nghiên cứu phân tích một cách hệ thống để làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper, từ đó chỉ ra những giá trị cùng những hạn chế về mặt triết học của nó để một mặt, bổ sung, phát triển lý luận triết học về chủ nghĩa xã hội, mặt khác vạch ra những sai trái trong các luận điệu phủ nhận triết học Mác. Để thực hiện được mục đích nêu trên, những nhiệm vụ mà luận án phải thực hiện là: - Làm rõ cuộc đời, sự nghiệp lý luận khoa học, bối cảnh lịch sử và những tiền đề lý luận cho sự hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper. - Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper, trong đó có quan niệm của ông về chủ nghĩa tự do; sự phê phán chủ nghĩa lịch sử; quan niệm và phương pháp của ông về xây dựng xã hội mở. - Phân tích những giá trị trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper để bổ sung, phát triển triết học Mác, kế thừa và vận dụng trong công tác lý luận và hoạt động thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đồng thời chỉ ra những hạn chế phiến diện, cực đoan của nó nhằm bảo vệ tính đúng đắn của triết học 4
  • 8. Mác, vạch trần những sai trái trong các luận điệu chống triết học Mác. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những nội dung tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper. Phạm vi nghiên cứu của luận án là những tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper trong hai tác phẩm “Sự nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử” và “Xã hội mở và những kẻ thù của nó”. Hai quyển sách này là những công trình nghiên cứu tương đối đồ sộ của Karl Popper, trong đó tác giả đề cập đến nhiều khía cạnh rất chi tiết của chủ nghĩa lịch sử và xã hội mở. Tuy nhiên, Luận án chỉ đi sâu vào khía cạnh triết học, tức khía cạnh chung nhất, mang tính bản chất của các vấn đề, những khía cạnh có vai trò thế giới quan và phương pháp luận cho toàn bộ quan điểm chính trị - xã hội của ông.. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận án dựa trên nền tảng lý luận của triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về các vấn đề triết học, chính trị - xã hội và lịch sử. Cơ sở phương pháp luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận án còn sử dụng kết hợp một số phương pháp cụ thể, như phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử; so sánh, đối chiếu, hệ thống hóa, phương pháp thông diễn học hay chú giải học (phương pháp thông hiểu và diễn giải các văn bản), phương pháp tư duy phê phán, v.v.. 5. Cái mới của luận án - Về mặt nội dung. Nhờ dựa trên nguồn tài liệu phong phú và tương đối đầy đủ, luận án làm rõ được những khía cạnh quan trọng trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper, phân tích và rút ra được những giá trị và hạn chế của nó, chỉ ra khả năng liên hệ và vận dụng chúng trong lý luận và thực tiễn. - Về mặt phương pháp. Nhờ tiếp cận được một cách trực tiếp với những tác phẩm gốc, khắc phục được những hạn chế về tài liệu và ngôn ngữ đã từng có trước 5
  • 9. đây, luận án đưa ra một sự đánh giá khách quan cả hai mặt đóng góp và hạn chế của Karl Popper, khắc phục được thái độ phê phán, đánh giá một chiều như trước đây. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Về mặt lý luận, luận án góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng của các trường phái và triết gia phương Tây hiện đại, cụ thể là tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper với mục đích kế thừa những điểm hợp lý để bổ sung triết học Mác – Lênin, đồng thời phê phán những biểu hiện cực đoan của nó để bảo vệ tính đúng đắn của triết học Mác – Lênin. Đây là một vấn đề đang được đặt ra cấp thiết đối với nghiên cứu lịch sử triết học phương Tây ở Việt Nam. Về mặt thực tiễn, luận án góp phần đổi mới cách tiếp cận đối với nhiều vấn đề xã hội, lịch sử; đóng góp ý kiến tham mưu cho các cấp Đảng và Nhà nước trong việc điều chỉnh một số quan niệm về xây dựng chủ nghĩa xã hội; thực hiện dân chủ, phát huy tối đa mọi tiềm năng sáng tạo của cá nhân và tập thể trong xây dựng xã hội mới ở nước ta hiện nay. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập lịch sử triết học phương Tây hiện đại nói chung và triết học Karl Popper nói riêng ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung cơ bản của luận án bao gồm 4 chương, 13 tiết. Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án. Chương 2: Bối cảnh và tiền đề hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hộị của Karl Popper. Chương 3: Những nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper. Chương 4: Những đóng góp và hạn chế về mặt triết học trong tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper. 6
  • 10. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Karl Popper là một nhà triết học nổi tiếng thế giới. Các tác phẩm của ông chủ yếu được viết và xuất bản bằng tiếng Đức và tiếng Anh nên rất quen thuộc đối với các nhà nghiên cứu ở các nước như Đức, Áo, Mỹ, Anh, v.v.. Ở nước ta tuy đã có một số công trình dịch và nghiên cứu về Karl Popper nhưng vẫn còn rất hạn chế. Trên thế giới, đã có nhiều công trình chuyên khảo về Karl Popper như “The Philosophy of Karl Popper”(Triết học của Karl Popper) của nhà triết học Đức Herbert Keuth được dịch ra tiếng Anh do Nxb Cambridge University Press xuất bản năm 2005; “The Philosophy of Popper” (Triết học của Popper) của T.E. Burke do Nxb Manchester University Press xuất bản năm 1983. Đặc biệt là công trình “The Philosophy of Karl Popper” (Triết học của Karl Popper), do Paul A. Schilpp chủ biên với sự đóng góp của rất nhiều nhà triết học nổi tiếng nghiên cứu, nhận xét về Karl Popper, do The Open Court Publishing Company, Chicago, Illinois xuất bản thành hai tập năm 1974. Chuyên khảo về tư tưởng chính trị Karl Popper có tác phẩm “The Political Thought of Karl Popper” (Tư tưởng chính trị của Karl Popper), do Jeremy Shearmur, một người đã từng là trợ lý của Karl Popper trong 8 năm (1971-1979) được Routledge, New York xuất bản năm 1996. Ở nước ta, chưa có công trình nghiên cứu chuyên khảo nào về Karl Popper; phần lớn các sách chuyên khảo về Karl Popper bằng tiếng nước ngoài chưa được dịch ra tiếng Việt. Chúng tôi đã cố gắng sưu tầm nhưng chỉ có được trong tay hai cuốn sách chuyên khảo đã được dịch ra tiếng Việt, như cuốn “Triết học mở và xã hội mở”, do Đỗ Minh Hợp dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002 (dịch từ cuốn“The Open Philosophy and the Open Society: A Reply to Dr. Karl Popper’s Refutation of Marxism” của Maurice Cornforth, một nhà mácxít Anh, Nxb Lawrence & Whishart, London, 1968), và cuốn “Karl Raimund Popper”của Lý Quốc Tú (Trung Quốc), do Đặng Lâm dịch, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2005. 7
  • 11. Hiện nay ở nước ta, việc nghiên cứu về Karl Popper tuy có tăng hơn nhưng vẫn còn rất hạn chế. Hiện đã có ba trong số các tác phẩm của Karl Popper được dịch ra tiếng Việt, trong đó chỉ có hai cuốn được xuất bản thành sách: cuốn “Sự nghèo nàn của thuyết sử luận” (‘'Thuyết sử luận’ là từ dịch không chính xác, đúng ra là ‘chủ nghĩa lịch sử’) và cuốn “Tri thức khách quan” do Chu Đình Lan dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2012. 'Cuốn “Xã hội mở và những kẻ thù của nó” đã được Nguyễn Quang A dịch và công bố trên mạng internet nhưng chưa được xuất bản thành sách in. Tuy đã được dịch nhưng việc chuyển ngữ từ tiếng Anh ra tiếng Việt chưa được tốt lắm, cho nên người đọc gặp nhiều khó khăn với các thuật ngữ trong các sách này. Tháng 11 năm 2012, một cuộc hội thảo quốc tế được tổ chức tại Viện Triết học thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam có chủ đề “Triết học Áo và ý nghĩa hiện thời của nó”, trong đó có mấy bài tham luận về triết học của Karl Popper. Kỷ yếu Hội thảo đã được xuất bản thành sách do Phạm Văn Đức chủ biên [22]. Ở nước ta ngoài một số luận văn thạc sĩ, cho đến nay chưa có một luận án tiến sĩ nào đã được bảo vệ về tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper. Những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper có thể phân ra thành các loại như sau: 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ, TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP KHOA HỌC CỦA KARL POPPER 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về bối cảnh hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper Tác phẩm “Unended Quest: An Intellectual Autobiography” (Cuộc sưu tầm chưa kết thúc: Một Tự tiểu sử trí tuệ) [111] là một nguồn tài liệu quý (vì do chính ông kể lại) để nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Karl Popper. Ông dành 3 mục: 1) Ký ức tuổi thơ, 2) Những ảnh hưởng đầu tiên và 3) Chiến tranh thế giới lần thứ nhất [111, pp.2-11], để thuật lại khá đầy đủ bối cảnh xã hội ở thành phố Viên và hoàn cảnh gia đình ông lúc bấy giờ. Đó là tình trạng đói nghèo, chính trị rối ren và chính bối cảnh đó có nhiều thay đổi trong quan niệm của Karl Popper về triết học chính trị - xã hội. Đồng thời Karl Popper cũng phân tích những ảnh hưởng đầu tiên 8
  • 12. đến tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của ông, đó là ảnh hưởng tính cách của người cha, của tủ sách gia đình, nhất là ảnh hưởng của người bạn thân nhất (lớn hơn ông 20 tuổi) là Arthur Arndt một người mácxit kịch liệt chống chủ nghĩa dân tộc, người đã giới thiệu ông quyển sách về chủ nghĩa xã hội đầu tiên “Looking Backward”. Karl Popper lúc đó 12 tuổi rất chăm chú nghe Arndt nói về lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nhưng ông chỉ còn nhớ có một điều là ‘chấm dứt nghèo đói’ . Gilles Dostaler trong phần I của tác phẩm Chủ nghĩa tự do của Hayek (Nguyễn Đôn Phước dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2008) [8] trình bày khá chi tiết bối cảnh lịch sử, xã hội của nước Áo đầu thế kỷ XX. Nạn đói ở thủ đô Viên của nước Áo đã gây nên những cuộc bạo loạn. Cuộc cách mạng Bonsevich ở Nga năm 1917, sự thành lập của Cộng hòa Áo năm 1918, cuộc nổi dậy của phong trào Spartacus năm 1919 ở Đức kích thích các phong trào cực tả ở Áo. Giành thắng lợi trong các cuộc bầu cử năm 1919, Đảng Công nhân xã hội dân chủ Áo lên chấp chính cùng với Đảng xã hội Kitôgiáo. Bối cảnh này để lại dấu ấn trong sự hình thành tư tưởng của Hayek, đồng thời qua đó chúng ta có thể liên hệ để hiểu thêm về bối cảnh hình thành tư tưởng triết học chính trị của Karl Popper và mối quan hệ về tư tưởng giữa Hayek và Popper. Trong chương này có một phần tác giả nói về mối quan hệ giữa Hayek và Popper. Từ chỗ đồng hành với nhau về quan điểm, hai người trở thành bạn thân. Năm 1936, Hayek mời Popper đọc một tham luận khoa học trong một cuộc semina do Hayek tổ chức tại Trường Kinh tế London (LSE). Bài tham luận chính là một phần của công trình của Popper về sau được đăng trên tạp chí Economica của trường này trong các năm 1944-1945 với tiêu đề “The Poverty of Historicism” (Sự nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử). Cũng chính nhờ Hayek giới thiệu mà Popper sang làm việc tại LSE từ năm 1946 và “Với sự hỗ trợ của Hayek, Popper được bổ nhiệm giáo sư tại LSE năm 1949” [26, tr.33]. Các trang web như Wikipedia, the free Encyclopedia (Bách khoa thư mở Wiki), Stanford Encyclopedia of Philosophy (Bách khoa thư triết học Stanford), cũng dành một phần trong bài viết về Karl Popper để nói về thời thơ ấu, hoàn cảnh gia đình và việc học hành, công việc xã hội đầu tiên của Popper. 9
  • 13. Lý Quốc Tú trong nội dung đầu tiên của chương IV tác phẩm “Karl Raimund Popper” [49], tác giả nói về sự mở rộng tầm mắt sang lĩnh vực triết học chính trị của Popper, tác giả cho rằng cuộc sống và công việc của Popper ở New Zealand rất dễ chịu, nhân dân ở đó rất khiêm nhường, niềm nở và hiếu khách, mọi người cảm thấy bình yên. Trong khi ở châu Âu lại đang khói lửa chiến tranh; Phát xít Đức tấn công điên cuồng ở trong nước. Và trong thời gian ở New Zealand, Popper đã hoàn thành hai cuốn sách triết học chính trị: “Sự nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử” và “Xã hội mở và những kẻ thù của nó”. Tác giả trình bày rất kỹ bối cảnh ra đời của hai tác phẩm, và sự ảnh hưởng của hai tác phẩm đó đến xã hội phương Tây lúc bấy giờ. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về tiền đề lý luận cho sự hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper Gilles Dostaler trong “Chủ nghĩa tự do của Hayek”[8] nói về sự ảnh hưởng lẫn nhau về tư tưởng giữa F. Hayek và Karl Popper. Hayek kiên trì tiến hành một cuộc đấu tranh kép, một mặt chống lại sự can thiệp của nhà nước trong chủ nghĩa tự do xã hội của Keynes, mặt khác chống chủ nghĩa xã hội, hai mặt được ông xem là kết nối chặt chẽ với nhau và cuối cùng đều dẫn đến chủ nghĩa toàn trị. Công trình còn đề cập đến bối cảnh và điều kiện gặp nhau giữa hai nhà triết học của nước Áo là Hayek và Popper. Sau khi đọc xong các tác phẩm của Popper thì Hayek chấp nhận ngay triết học của Popper. Ông nói: “Nhận ra điều này đã là đủ cho tôi nhưng khi thấy Popper lập luận và biện minh một cách rõ ràng thì, một cách tự nhiên, tôi liền chấp nhận triết học của ông vì triết học ấy đã khai triển điều tôi hằng cảm nhận. Từ đó, tôi luôn đồng hành cùng với Popper. Cuối cùng, chúng tôi trở thành bạn rất thân. Nói chung, trên những vấn đề triết học, tôi đồng ý với ông hơn là với bất kì ai khác”. Như vậy công trình này cho chúng tôi thấy được Hayek là một trong những người đi đầu và là một trong những giáo chủ của cái được gọi là “chủ nghĩa tân tự do”. Và chính những tư tưởng này ảnh hưởng đến Popper sau này. Lý Quốc Tú trong “Karl Raimund Popper” đã dành một phần nhỏ trong chương II để nói về người có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành quan điểm triết học của ông. Tác giả cho rằng nhìn theo quan điểm lâu dài, thì có lẽ đó là ảnh 10
  • 14. hưởng quan trọng nhất. Đó là việc Popper tiếp xúc với lý luận của Einstein và nhận được sự khêu gợi trong thái độ của Einstein đối với lý luận khoa học. Vũ Mạnh Toàn trong “Triết học Bertrand Russell và ý nghĩa của nó” (Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011) [85], tác giả cho ta thấy được sự biến đổi mạnh mẽ của logic học và toán học vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Sự biến đổi này có ảnh hưởng lớn đến ra đời chủ nghĩa thực chứng mới. Khi đề cập đến những tiền đề triết học, tác giả trình bày chủ nghĩa thực chứng qua các thời kỳ: Chủ nghĩa thực chứng sơ kỳ đầu thế kỷ XIX với người sáng lập là Auguste Comte. Giai đoạn thứ hai là chủ nghĩa phê phán kinh nghiệm vào những năm 70 của thế kỷ XIX với hai đại diện là Ernst Mach và Richard Avenarius. Giai đoạn thứ ba là chủ nghĩa thực chứng mới (chủ nghĩa thực chứng lôgic). Có thể nói đây là một nguồn tư liệu cho chúng tôi trong việc trình bày các tiền đề tư tưởng lý luận cho sự hình thành tư tưởng triết học về chính trị – xã hội của Karl Popper. A.S. Bôgômôlôp, Ju.K. Menvin, I.S.Narơski với tác phẩm: “Chủ nghĩa thực chứng mới trong triết học tư sản hiện đại ”(Nxb Matsxcơva 1978 – Tư liệu dịch của Viện Triết học) [04]. Trong công trình này, các tác giả đã trình bày về quá trình xuất hiện, nguồn gốc và nội dung cơ bản của chủ nghĩa thực chứng mới. Trong đó, các tác giả đã giành một phần để giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp triết học của Karl Popper trong nhiều lĩnh vực mà ông hoạt động. Đặc biệt các tác giả phân tích mối quan hệ giữa Karl Popper với chủ nghĩa thực chứng nhóm Viên. Tác giả Nguyễn Tấn Hùng trong tác phẩm “Một số trào lưu triết học và tư tưởng chính trị phương Tây đương đại” [36] cho rằng quan điểm chính trị - xã hội của Karl Popper là kết quả của một quá trình đối chiếu, lựa chọn có cân nhắc kỹ lưỡng sau khi đã tiếp xúc với tất cả các trào lưu tư tưởng đang thịnh hành lúc bấy giờ ở Áo, không chỉ về lý luận mà còn có thời gian tham gia hoạt động thực tiễn với họ nữa. Karl Popper nghiên cứu Phân tâm học của Sigmund Freud và Alfred Adler, có thời gian ông tình nguyện làm việc trong một bệnh viện phân tâm học nhi khoa của Adler, nhưng cuối cùng, ông cũng phát hiện ra tính phi khoa học của học thuyết này. Karl Popper cũng có tiếp xúc với các nhà khoa học ‘nhóm Viên’, tham dự các 11
  • 15. cuộc thảo luận của nhóm dưới sự chủ trì của Moritz Schlick, với sự tham gia của Rudolf Carnap, Otto Neurath, Viktor Kraft, Hans Hahn và Herbert Feigl, v.v., nhưng ông cũng không trở thành hội viên chính thức của nhóm này; và do việc Karl Popper phê phán các luận điểm cơ bản của chủ nghĩa thực chứng lôgic nên về sau ông không còn được mời tham dự nữa. Karl Popper cũng đã tham gia các hoạt động chính trị của đảng xã hội và đảng cộng sản ở Áo, nhưng ông đã sớm phát hiện ra tính không tưởng (utopia) của chủ nghĩa cộng sản nên đã từ bỏ nó và đứng hẳn về phía chủ nghĩa tự do xã hội. 1.1.3. Những công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp triết học và khoa học của Karl Popper Các từ điển và bách khoa thư như “Từ điển Bách khoa Việt Nam”; “The Internet Encyclopedia of Philosophy” (Bách khoa thư Triết học Internet); “Wikipedia, the free encyclopedia” (Bách khoa mở Wiki); “The Stanford Encyclopedia of Philosophy” (Bách khoa thư Triết học Stanford); “Encyclopædia Britanica” (Bách khoa thư Britanica), “Tân Bách khoa thư triết học” của Liên bang Nga (Новая Философская Энциклопедия) đều dành một phần quan trọng trong mục từ Popper để cung cấp những nét cơ bản về tiểu sử và sự nghiệp triết học và khoa học của ông. Các tài liệu này cũng nói về nguồn gốc tính cách của Karl Popper như là sự kế thừa truyền thống gia đình. Trong tác phẩm “Một số trào lưu triết học và tư tưởng chính trị phương tây đương đại”, tác giả Nguyễn Tấn Hùng trước khi đi vào phân tích tư tưởng triết học của Karl Popper đã điểm qua về tiểu sử và sự nghiệp khoa học của ông, như hoàn cảnh gia đình (cha, mẹ) của Karrl Popper từ lúc ông rời trường phổ thông 16 tuổi, đến khi học đại học Viên, tốt nghiệp tiến sĩ về Tâm lý năm 1928 và sau đó làm giáo viên ở một trường phổ thông, rồi trở thành giảng viên trường đại học và giáo sư Trường Kinh tế London. Tuy không nhiều nhưng ta cũng hình dung được tiểu sử của ông từ thơ ấu đến khi ông qua đời. Đặc biệt trong phần này, tác giả trình bày sự nghiệp khoa học của Popper. Ngoài việc hoàn thành những tác phẩm quan trọng như: “Lôgic của phát minh khoa học”, “Xã hội mở và những kẻ thù của nó”; “Sự 12
  • 16. nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử”; “Phỏng định và bác bỏ: Sự tăng tiến của tri thức khoa học”; “Hai vấn đề căn bản của lý luận nhận thức”, Popper còn tham gia hoạt động khoa học trong một số hội nghiên cứu. Có thể nói Popper có những đóng góp xuất sắc trên phương diện triết học khoa học. Và chính những tư liệu của tác giả đã cho chúng ta thấy được điều này. Bách khoa thư Triết học Stanforth đề cập đến sự kiện có ý nghĩa quyết định đối với việc Karl Popper rời bỏ quê hương và di cư ra sinh sống ở nước ngoài, đó là sự tiên đoán chính xác của ông về nguy cơ nước Áo bị Đức Quốc xã thôn tính và sát nhập vào nước Đức phát xít [126]. 1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER 1.2.1. Những công trình liên quan đến lập trường tư tưởng tự do xã hội của Karl Popper Lập trường chính trị - xã hội của Karl Popper là “chủ nghĩa tự do xã hội” (social liberalism). Chủ nghĩa tự do xã hội khác với các biến thể khác, như chủ nghĩa tự do cổ điển (classical liberalism) và chủ nghĩa tân tự do (neo-liberalism) của Friedrich Hayek và một số biểu hiện cực đoan của chủ nghĩa tự do đang tồn tại trên thế giới như Đảng tự do (Liberitarian Party) ở Mỹ hiện nay. Chủ nghĩa tự do xã hội một mặt đề cao vai trò của tự do cá nhân, nhưng mặt khác phản đối tình trạng bất công xã hội, chủ trương giúp đỡ người nghèo khổ. Tư tưởng tự do xã hội của Karl Popper đã có mầm mống từ lúc nhỏ trong bối cảnh xã hội Áo lúc bấy giờ và nhất là do giáo dục và truyền thống của gia đình ông. Điều này được thể hiện trong ‘Tự tiểu sử’, trong đó Karl Popper nói rằng người cha của ông là người theo chủ nghĩa tự do xã hội không phải chỉ về mặt tư tưởng mà còn chủ động tổ chức những hoạt động giúp đỡ người nghèo nữa. Ý thức về giúp đỡ người nghèo đã đưa Popper đến với chủ nghĩa xã hội và sau đó là chủ nghĩa tự do xã hội. Tác phẩm “Một số trào lưu triết học và tư tưởng chính trị phương Tây đương đại” của Nguyễn Tấn Hùng cũng đã dành một phần nói về quan điểm triết học chính trị - xã hội của Karl Popper. Sau khi rời khỏi Đảng Cộng sản Áo, Karl Popper 13
  • 17. đứng hẳn về phía lập trường chủ nghĩa tự do xã hội. Tác giả điểm qua một vài đặc trưng của chủ nghĩa tự do nói chung và ‘chủ nghĩa tự do xã hội’ nói riêng. Chủ nghĩa tự do xã hội tuy cũng đề cao tự do cá nhân, phản đối gay gắt chế độ cai trị độc tài, nhưng lại ủng hộ một số biện pháp can thiệp cần thiết của nhà nước để giải quyết khủng hoảng kinh tế, đấu tranh chống bất công xã hội, tạo công ăn việc làm và tạo phúc lợi xã hội. John Stuart Mill là một nhà triết học Anh đã góp phần quan trọng vào việc phát triển hình thức mới này của chủ nghĩa tự do. Chính Karl Popper đã thừa nhận người cha của mình là một người tự do chủ nghĩa thuộc trường phái John Stuart Mill. Bách khoa mở Wikipedia [128] có nói về tác động của sự kiện năm 1919 (cuộc biểu tình do Đảng Cộng sản Áo tổ chức) đến sự thay đổi lập trường chính trị của Karrl Popper. Từ chủ nghĩa cộng sản, Karl Popper chuyển sang lập trường chủ nghĩa tự do xã hội. Đặc biệt trong Bách khoa thư triết học Internet (Internet Encyclopedia of Philosophy), mục từ “Karl Popper: Political Philosophy” (Karl Popper: Triết học chính trị), tác giả William Gorton (Đại học Alma, Michigan) đã phân tích và trích dẫn rất cụ thể về lập trường tự do xã hội của Karl Popper. Tác giả viết rằng Karl Popper đã cảnh báo những nguy hại của chủ nghĩa tư bản không được kiểm soát, thậm chí Popper còn tuyên bố rằng “Sự bất công và vô nhân đạo của ‘hệ thống tư bản không được kiềm chế’ đã được Mác mô tả thì không có gì phải bàn cãi cả”. Karl Popper yêu cầu “Chúng ta cần phải xây dựng những thiết chế xã hội được tăng cường bằng quyền lực nhà nước nhằm bảo vệ người yếu về kinh tế chống lại kẻ mạnh về kinh tế”. Cũng theo nhận xét của William Gorton, “Có lẽ những chính sách của Popper nếu được đem ra thực hiện sẽ tạo ra một xã hội giống như chế độ dân chủ xã hội ở Bắc Âu, với những chương trình phúc lợi quãng đại hơn và sự điều chỉnh nền công nghiệp tốt hơn là ở nước Mỹ với chế độ tư bản laissez-faire (để ai muốn làm gì thì làm) và phúc lợi xã hội không đáng kể” [125]. Một số bách khoa thư khác, như: ‘Stanford Encyclopedia of Philosophy’ cũng có đề cập đến tư tưởng tự do xã hội của Karl Popper. 14
  • 18. 1.2.2. Những công trình liên quan đến quan niệm về xã hội mở của Karl Popper Bách khoa mở Wikipedia trong mục từ ‘Open society’ khẳng định rằng khái niệm ‘xã hội mở’ được đưa ra lần đầu tiên bởi nhà triết học Pháp Henri Bergson và được Karl Popper phát triển trong hai tập sách của mình. Herbert Keuth dành phần II. Triết học xã hội (Social Philosophy) trong ba phần của nội dung cuốn sách “The Philosophy of Karl Popper” để phân tích tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Karl Popper trong đó có vấn đề xã hội mở và chủ nghĩa lịch sử. Tác giả trình bày tư tưởng của Karl Popper trong sự liên hệ với các nhà triết học từ Platon, Aristotle đến Hêghen, Mác [101, pp.193-248]. Các từ điển và bách khoa thư ở Liên Xô trước đây tuy có đề cập dến quan niệm về xã hội mở của Karl Popper nhưng lại quy lập trường của ông về sự biện hộ cho tự do tư sản. Còn Tân bách khoa thư triết học Nga [119] tuy có trình bày cụ thể quan niệm về xã hội mở của Karl Popper nhưng không có bình luận, phê phán. Nhà triết học Nga T.I. Oizerman (Т.И. Оизерман) trong một số bài viết và nhất là trong tác phẩm “Chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa không tưởng” (Марксизм и утопизм) có nhiều chỗ đề cập đến tư tưởng về xã hội mở của Popper. Theo Oizerman, Karl Popper không hoàn toàn bác bỏ mà còn đề cao những đóng góp nhất định của Mác trong lý luận về giai cấp, trong sự phê phán của Mác đối với những bất công của chủ nghĩa tư bản [Xem: 118]. Người phê phán quan điểm xã hội mở của Karl Popper mạnh mẽ nhất là nhà mácxít Anh Maurice Cornforth với tác phẩm “The Open Philosophy and The Open Society: A Reply to Dr. Karl Popper’s Refutations of Marxism” (Lawrence & Whishart, London, 1968), được Đỗ Minh Hợp dịch từ tiếng Nga với tiêu đề “Triết học mở và xã hội mở” [06]. Trong lời giới thiệu cuốn sách, nhà triết học Nga I.S. Narxki viết: Cuốn sách này “dường như là kết quả hội ngộ của hai số phận trực tiếp đối lập với nhau: ‘nhà lý luận, kẻ chống cộng số một’ Karl Popper và nhà triết học, nhà mácxít nổi tiếng người Anh – M. Cornforth”. M. Cornforth viết tác phẩm này với mục đích bảo vệ triết học Mác bằng hình thức trả lời những vấn đề mà các nhà phê phán chủ nghĩa Mác đặt ra, và trong những người phê phán đó ông chọn Karl 15
  • 19. Popper. Vì quyển sách ra đời vào năm 1968, trong khi mô hình chủ nghĩa xã hội kế hoạch hóa tập trung đang thịnh hành, chưa gặp khủng hoảng, cho nên có nhiều điều mà M. Cornforth bảo vệ cho đến nay đã lỗi thời, nhưng phải nói rằng đây là nguồn tư liệu quý giá để chúng tôi tham khảo. Trong lời tựa, M. Cornforth nói: “Tôi muốn nhấn mạnh rằng, tôi không có ý định phê phán hay bác bỏ những gì ngài Popper đã nói về khoa học hay về xã hội. Ngược lại, tôi tiếp nhận nhiều điều và nhất trí với nhiều điều. Cuốn sách này không phải là sự luận chiến với ngài Popper, mà là câu trả lời cho cuộc luận chiến chống lại chủ nghĩa Mác của ông” [06, tr.35]. Trong phần III của cuốn sách của M. Cornforth có hai chương đáng lưu ý. Chương III nói về xã hội mở trong đó ông trả lời những vấn đề về quan hệ giữa xã hội mở và xã hội đóng và con đường tiến tới xã hội mở. Theo M. Cornforth, Karl Popper không đưa ra điều gì mới cả. Ông nói: “Nhưng nếu có ai muốn tìm trong đó những tri thức về cách thức tiến lên xã hội mở và những điều cần tránh, những hiểu biết ấu trĩ, những cái ngẫu nhiên mà chúng đã làm cho cá nhân phải đau khổ trước kia, thì người đó sẽ không thấy gì ngoài những lời nói ba hoa chung chung về trách nhiệm cá nhân” [06, tr.620]. Trong chương VI của tác phẩm, M. Cornforth trả lời cho Popper về kẻ thù của xã hội mở. Theo ông, chủ nghĩa cộng sản mới thực sự là xã hội mở, còn chủ nghĩa tư bản là xã hội đóng. Tiến tới xã hội mở chính là xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, kẻ thù của xã hội mở chính là chủ nghĩa chống cộng. Cách tiếp cận của M. Cornforth là đại diện cho những khuynh hướng tư tưởng bảo thủ thời kỳ trước đổi mới thể hiện trong hầu hết những tác phẩm được viết trong thời kỳ này về triết học phương Tây hiện đại, trong đó có triết học Karl Popper. Lý Quốc Tú, trong chương IV tác phẩm “Karl Raimund Popper” [49], đề cập đến quan niệm về xã hội mở trong tác phẩm “Xã hội mở và những kẻ thù của nó” của Karl Popper. Tác giả cho rằng trọng điểm của Popper là đả phá các quan điểm chính diện của Platon, Aristotle, Hêghen và Mác, còn quan niệm của ông về xã hội mở thì đề cập rất ít trong tác phẩm. Những nội dung mà ông công kích cùng với các nội dung mà ông tán dương và tích cực khởi xướng, hình thành các bộ phận hợp 16
  • 20. thành không thể chia cắt của tư tưởng triết học chính trị của ông. Tác giả khái quát hết sức cơ bản quan niệm của Popper về xã hội mở và xã hội đóng. Có thể nói, đây là nguồn tư liệu để chúng tôi đi vào nghiên cứu quan niệm của Popper về xã hội mở. Lưu Phóng Đồng trong “Triết học phương Tây hiện đại”, tập IV [48], tuy dành phần chủ yếu để phân tích tư tưởng triết học về khoa học của Karl Popper, nhưng cũng có một đoạn ngắn nói về tư tưởng triết học chính trị của Karl Popper. Theo Lưu Phóng Đồng, Karl Popper phản đối quyết định luận lịch sử. Ông cho rằng sự phát triển của lịch sử xã hội không có tính quy luật, mọi người cũng không thể dự định trước cho tương lai của xã hội. Theo ông, ‘Chủ nghĩa Utopia’ có liên hệ tự nhiên với quyết định luận lịch sử; chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là một loại công trình xã hội kiểu Utopia. Vì thế, ông đề xướng ‘công nghệ xã hội từng bước’, tức là tiến hành cải tạo từng bước, thiết thực, khả thi đối với xã hội, và lấy đó để phản đối lý luận cách mạng xã hội của chủ nghĩa Mác, ông nói, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của chủ nghĩa Mác là ‘xã hội đóng’, xã hội mà ông cố gắng thực hiện lại là ‘xã hội mở’ [48, tr.240]. Sách “Một số trào lưu triết học và tư tưởng chính trị phương Tây đương đại” của Nguyễn Tấn Hùng phân tích và trích dẫn nhiều đoạn quan trọng trong tác phẩm của Popper “Xã hội mở và những kẻ thù của nó”. Kẻ thù của xã hội mở theo Popper chính là những xã hội đóng được xây dựng theo mô hình của các lý thuyết xã hội không tưởng (được Popper gọi là chủ nghĩa lịch sử). Tác giả khái quát những đặc trưng cơ bản của xã hội mở được Karl Popper nêu ra trong tác phẩm của mình bằng cách đối lập nó với những hình thức xã hội đóng. Một là, xã hội mở là xã hội do mọi người sáng tạo một cách tự do, không phụ thuộc vào tính tất yếu và quy luật lịch sử và tác giả đã đưa ra những nhận định và phê phán của mình về quan điểm đó của Popper. Hai là, Popper cho rằng xã hội mở được xây dựng theo một “công nghệ xã hội” nhất định được ông gọi là ‘kiến thiết xã hội từng phần’ đối lập với phương pháp kiến thiết ‘toàn phần’ hay ‘không tưởng’. Karl Popper còn so sánh hiệu quả của phương pháp cải biến xã hội toàn phần và xã hội từng phần, rồi từ đó chỉ ra tính ưu thế của phương pháp cải tạo xã hội từng phần so với phương pháp cải tạo toàn 17
  • 21. phần. Tác giả đưa ra nhiều trích dẫn để làm rõ sự khác biệt giữa kiến thiết toàn phần và kiến thiết từng phần như thế nào Tuy chỉ mới khái quát một cách tổng thể quan niệm của Popper về xã hội mở và những kẻ thù của nó nhưng chúng ta có thể hình dung một bức tranh tổng thể quan niệm của Popper về xã hội mở để giúp chúng tôi có những cơ sở và luận cứ khoa học để tiếp thu, kế thừa trong luận án của mình. Tác giả Lương Đình Hải đề cập đến quan điểm về xã hội mở của Karl Popper trong bài “Karl Popper - Xã hội mở và những kẻ thù của nó” [24]. Mở đầu bài viết, tác giả giới thiệu sơ lược về cuộc đời, sự nghiệp khoa học của Popper. Điều đặc biệt trong bài viết này chính là tác giả chỉ cho người đọc thấy được rằng mặc dù, trong tổng thể và trong dòng chủ đạo của tư tưởng Karl Popper là phê phán, bác bỏ, phủ nhận chủ nghĩa Mác, nhưng không phải không có những chỗ, những lúc ông ca ngợi, đánh giá cao triết học Mác. Do vậy, việc nghiên cứu các quan điểm của Popper, có thể giúp chúng ta hiểu sâu thêm nhiều luận điểm của triết học Mác và toàn bộ chủ nghĩa Mác nói chung. Và theo tác giả, việc nghiên cứu tư tưởng Popper sẽ giúp cho chúng ta có một tinh thần phê phán, giúp chúng ta hình thành nên trong tư duy của mình cách nhìn hai mặt. Điều này giúp chúng ta hiểu sâu hơn các nguyên lý của triết học Mác, đồng thời hiểu sâu thêm cả những tư tưởng hợp lý và những tư tưởng phi lý của Popper. Tác giả còn chỉ ra một số luận điểm của Mác mà Popper phê phán, và tác giả đưa ra nhận xét của mình cho những luận điểm đó. Tác giả còn trình bày quan niệm của Popper về xã hội mở, xã hội đóng. Quan niệm về xã hội mở sau này được học trò của ông George Soros (1930) phát triển trên cả bình diện lý luận lẫn thực tiễn. Có thể nói, đây là một bài viết hết sức sâu sắc của tác giả, thể hiện được chính kiến của mình khi đánh giá Popper. Đây là nguồn tư liệu quý giá để chúng tôi tham khảo khi phân tích quan điểm của Popper về xã hội mở và những kẻ thù của nó. George Soros trong tác phẩm “Xã hội mở: Cải cách chủ nghĩa tư bản toàn cầu” (Open Society: Refoming Global Capitalism) [76]. Soros là môn đệ của Popper, ông chủ trương xây một xã hội mở trên phạm vi toàn cầu, theo đường hướng của vị sư phụ nổi danh Karl Popper, mà ông có dịp được thụ giáo trong thời 18
  • 22. gian theo học tại trường Kinh tế Luân đôn hồi cuối thập niên 1940 qua đầu thập niên 1950. Soros cho rằng người ta nói nhiều về hội nhập kinh tế trong nền kinh tế toàn cầu. Cơ chế thị trường đã thành công xuất sắc trong giải phóng tài năng kinh doanh và tạo ra của cải. Nếu chỉ dựa vào cơ chế thị trường và nhấn mạnh thái quá đến các giá trị thị trường, chủ nghĩa tư bản không thể đảm bảo tự do, dân chủ, và pháp trị; có thể, và nó đã dẫn đến những thảm họa như hai cuộc Chiến tranh thế giới, các cuộc khủng hoảng tài chính. Vì sao chúng xảy ra? Làm sao có thể tránh được những thảm họa như vậy, hay chí ít làm nhẹ bớt tác động tai họa của chúng? Trong nội dung phần I, tác giả đề cập đến khái niệm “Xã hội mở”, khái niệm này được Henri Bergson dùng đầu tiên năm 1932, và Karl Popper phát triển và làm cho khái niệm được biết đến rộng rãi. Soros chịu ảnh hưởng mạnh bởi Karl Popper. Cho nên thông qua việc tìm hiểu quan điểm của ông về các nguyên tắc chỉ đạo cho một xã hội mở toàn cầu, chúng ta sẽ phần nào hiểu được quan niệm về xã hội mở của Popper. Đây là một cuốn sách về triết học thực tiễn, nó có ích cho các học giả, các nhà hoạch định chính sách, và tất cả những ai quan tâm đến những vấn đề chính trị và kinh tế thế giới, và dĩ nhiên có ý nghĩa đối với bản thân nghiên cứu sinh trong quá trình làm luận án. 1.2.3. Những công trình đề cập đến sự phê phán chủ nghĩa lịch sử của Karl Popper Bách khoa thư mở Wikipedia trong mục từ ‘Historicism’ khái quát quá trình tiến hóa của khái niệm này qua một số nhà triết học như Karl W. F. Schlegel, Michel de Montaigne, G. B. Vico, Georg Hegel, Franz Boas và sau đó phân tích những đặc trưng của khái niệm này ở Karl Popper. Trong bài tham luận Hội thảo về “Triết học Áo và ý nghĩa hiện thời của nó”, tác giả Nguyễn Tấn Hùng phân tích lập luận 5 điểm nhằm bác bỏ khả năng nhận thức quy luật xã hội được Karl Popper nêu ra trong Lời nói đầu tác phẩm “Sự nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử” . Tác giả cũng chỉ ra mặt hợp lý và mặt sai lầm của Karl Popper về vấn đề này [Xem 22, tr. 187-199]. Trong tác phẩm “Một số trào lưu triết học và tư tưởng chính trị phương Tây 19
  • 23. đương đại”, tác giả giải thích kỹ hơn về khái niệm ‘chủ nghĩa lịch sử’ như sau: + Chủ nghĩa lịch sử là một cách tiếp cận xã hội, nó cho rằng xã hội vận động theo quy luật có thể nhận thức được. + Chủ nghĩa lịch sử cho rằng trên cơ sở nhận thức được xu hướng, quy luật khách quan, con người có thể ’dự báo’ được tiến trình của xã hội tương lai. + Chủ nghĩa lịch sử cho rằng con người có thể cải biến toàn bộ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới theo những quy luật đã được nhận thức và những mô hình lý tưởng đã được xác định dựa trên những dự báo về tương lai lâu dài của xã hội [Xem 36, tr.97-98]. Tác giả Lý Quốc Tú trong tác phẩm “Karl Raimund Popper” dành một phần rất lớn trình bày quan điểm của Karl Popper về phê phán chủ nghĩa lịch sử, về công nghệ xã hội từng phần. Tác giả cho rằng, chủ nghĩa lịch sử là trọng điểm phê phán của Popper. Tác giả trình bày những phê phán của Popper đối với chủ nghĩa lịch sử ở cả hai trường phái: chủ nghĩa phản tự nhiên và chủ nghĩa tự nhiên mở rộng, có sự phân tích và cuối cùng tác giả đưa ra những đánh giá của mình đối với sự phê phán đó. Popper cho rằng, chủ nghĩa lịch sử là lý luận và phương pháp nghiên cứu sự phát triển xã hội không chỉ có hại cho nghiên cứu khoa học xã hội, mà còn có hại cho thực tiễn xã hội. Popper nêu lên ‘công nghệ xã hội từng phần’ để đối lập với ‘công nghệ xã hội không tưởng (Utopia)’. Và tác giả đi vào phân tích những quan niệm trên của Popper. Cuối cùng tác giả đưa ra những nhận định của mình đối với quan niệm trên của Popper, có thể nói đây là nguồn tư liệu quý để giúp chúng tôi nghiên cứu và đưa vào trong luận án của mình. [Xem: 49] Tác giả Nguyễn Minh Hoàn: “Tư tưởng triết học chính trị của Karl Raimund Popper trong Sự nghèo nàn của thuyết sử luận nhìn từ phương pháp luận mácxít”. [27]. Đây cũng là bài viết của tác giả tham gia hội thảo quốc tế “Triết học Áo và ý nghĩa hiện thời của nó”. Trong bài viết này, tác giả đi vào phân tích những quan điểm triết học chính trị chủ yếu của Popper, với phương pháp luận của mình, Popper đánh giá về chủ nghĩa lịch sử, nhất là quan điểm lịch sử của triết học Mác. Tác giả còn đi vào trình bày quan điểm của Popper khi ông phân chia chủ nghĩa lịch 20
  • 24. sử thành ‘chủ nghĩa phản tự nhiên’ và ‘chủ nghĩa duy tự nhiên’ và tiến hành phê phán nó. Có thể nói, tuy bài viết ngắn nhưng tác giả đã khái quát cơ bản tư tưởng triết học chính trị của Popper và đưa ra những nhận xét quý báu góp phần làm rõ hơn tư tưởng của Popper khi phê phán chủ nghĩa lịch sử. 1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ NHỮNG HẠN CHẾ VỀ MẶT TRIẾT HỌC TRONG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER 1.3.1. Những công trình đánh giá những giá trị về mặt triết học trong tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper Tác giả Lương Đình Hải trong “Karl Popper - xã hội mở và những kẻ thù của nó” [24], cho rằng việc nghiên cứu các quan điểm của Popper, có thể giúp chúng ta hiểu sâu thêm nhiều luận điểm của triết học Mác và toàn bộ chủ nghĩa Mác nói chung, đồng thời hiểu rõ hơn cả những quan điểm của các nhà mácxít đương đại. Đương nhiên, không thể đồng ý với Popper trên rất nhiều điểm về lịch sử loài người, về xã hội, về lập trường và cách lập luận của ông, nhưng việc đọc ông giúp chúng ta hình thành nên trong tư duy của mình cách nhìn hai mặt, suy tư bằng hai con mắt, hai lỗ tai và bằng tư duy hai chiều, có phê phán, với tất cả những gì mà chúng ta đã học. Việc đó, một mặt, làm cho chúng ta hiểu sâu hơn các nguyên lý của chủ nghĩa Mác; mặt khác, hiểu sâu thêm cả những tư tưởng hợp lý và những tư tưởng phi lý của Popper. Như vậy, có thể xem đây là một đóng góp của Popper trong việc nghiên cứu triết học nói chung và chủ nghĩa Mác nói riêng. Khi đi vào phân tích quan niệm của Popper về lịch sử xã hội, tác giả cho rằng Popper đã chống lại cả một cách nhìn, một loại tư duy siêu hình trong xem xét, mô tả, giảng dạy và viết lịch sử đang tồn tại thực tế ở nhiều nước, nhiều nơi và nhiều thời đoạn khác nhau. Không nên bóp méo, xuyên tạc lịch sử theo lợi ích cục bộ, tập đoàn để viết và nhìn nhận lịch sử theo kiểu khuếch đại mặt này mà xem nhẹ, làm mờ nhạt các mặt khác làm cho lịch sử mất ý nghĩa chân chính của nó. Quan niệm của Popper là phải nhìn lịch sử trong sự đa dạng, phong phú, chân thực, đầy đủ như nó vốn có trong thực tế. Không thể đồng ý với Popper ở nhiều điểm trong quan 21
  • 25. niệm của ông về lịch sử nói chung, nhưng không thể không đồng ý với ông ở điểm này. Tác giả cũng cho rằng tư tưởng xã hội mở của Popper là một trong những nội dung then chốt trong triết học xã hội và chính trị của ông. Sau khi phân tích quan niệm của Popper về xã hội mở và sự khác nhau giữa xã hội mở và xã hội đóng. Những quan niệm về xã hội mở của Popper mấy chục năm qua đã có ảnh hưởng rất lớn đến triết học chính trị, đến việc phê phán chủ nghĩa quyền uy trong tư tưởng chính trị - xã hội phương Tây. Theo tác giả, tuy không thể hoàn toàn đồng ý với Popper, nhưng những tư tưởng của ông về đề cao sự tự do lý trí, lý tính của con người, phủ bác mọi sự cấm kỵ phi lý trí, được thần thánh hóa hay thần bí hóa, ủng hộ tiến bộ của nhân loại dẫn đến xã hội mở cho đến nay và chắc chắn cho đến cả mai sau vẫn luôn còn giá trị. Với những phân tích có dẫn chứng, tác giả đã cho ta thấy được sự đóng góp của Popper cho khoa học; triết học và khoa học lịch sử trong tác phẩm “Sự nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử”. Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu, tác giả chỉ trình bày những đóng góp về mặt triết học trong tác phẩm, sẽ còn nhiều những đóng góp của Popper cho lịch sử tư tưởng nhân loại mà chúng tôi cần phải rõ hơn nữa. 1.3.2. Những công trình đánh giá về những hạn chế về mặt triết học trong tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper Maurice Cornforth trong tác phẩm “Triết học mở và xã hội mở”, có thể nói đây là một tác phẩm mà Cornforth phê phán Popper một cách kịch liệt bằng cách bác bỏ các luận điểm của ông nhằm bảo vệ triết học Mác. + Popper cho rằng, triết học Mác là triết học ‘đóng’ tức là ‘giáo điều, cực đoan’, không có khả năng hoàn thiện và phát triển, còn chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là sự hiện thực hóa thực tiễn của chúng ta là ‘xã hội đóng’. Cornforth phê phán quan điểm này của Popper và cho rằng chính triết học mácxít mới có tính chất “mở” theo đúng nghĩa. Nó là một học thuyết sáng tạo, luôn phát triển, mở để tiếp thu những thành tựu mới của thực tiễn xã hội và khoa học. Tác giả cho rằng chính chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là một chế độ xã hội “mở” theo nghĩa tính dân chủ đích thực và khả năng của nó luôn được hoàn thiện và tiến 22
  • 26. bộ vô hạn. Để chứng minh tất cả điều đó, Cornforth đặt ra nhiệm vụ phải bác bỏ các luận điểm của Popper trên chính cơ sở của chúng. + Cornforth cho rằng Popper đã vi phạm các yêu cầu của logic học khi lẫn lộn các thuộc tính của mâu thuẫn biện chứng với các thuộc tính mâu thuẫn logic hình thức, lẫn lộn tính tất yếu lôgic với tính tất yếu hiện thực…. + Cornforth bác bỏ quan điểm của Popper cho rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng mang các đặc điểm của triết học tư biện, về sự ngụy biện của Popper đối với phép biện chứng, về việc dường như các quy luật của nó cho phép tiên đoán tất cả mọi thứ, tức là không một điều gì xác định cả. Cornforth giải thích rõ ràng các nguyên lý và các quy luật chung của triết học không bao giờ tiên đoán một cái gì cụ thể cả. Tác giả cho rằng phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật là cơ sở logic cho tiên đoán khoa học, và với tư cách mối liên hệ qua lại giữa các phạm trù triết học, các quy luật của chúng. + Cornforth đã chỉ ra việc đả phá của Popper về lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, buộc tội nó về ‘chủ nghĩa duy lịch sử’ và ‘chủ nghĩa duy bản chất’, ‘chủ nghĩa toàn tiến’ và ‘chủ nghĩa không tưởng’ đầy tội lỗi sinh ra từ đó. Popper phủ định cả sự phát triển khách quan lẫn các xu hướng xác định vốn có ở nó, nên mọi tiên đoán xã hội đối với ông hóa ra là những ‘phỏng đoán’ sai khoa học, tiên tri không tưởng. Cornforth đã giải thích nhằm chống lại quan điểm này của Popper. Ông cho rằng không tồn tại các quy luật vô điều kiện, được thực hiện một cách tiền định và không phụ thuộc vào hoạt động của con người. Trong “Một số trào lưu triết học và tư tưởng chính trị phương Tây đương đại”, Tác giả Nguyễn Tấn Hùng chỉ ra một số thiếu sót của Karl Popper như sau: Một là, trong triết học về khoa học của mình, Karl Popper rơi vào cách tiếp cận siêu hình, cực đoan khi đứng về phía này, phủ nhận hoàn toàn phía kia. Ví dụ, khi đứng về phía chủ nghĩa duy lý, ông phủ nhận hoàn toàn vai trò của kinh nghiệm cảm tính, của quan sát trong việc hình thành một giả thuyết khoa học. Hai là, Popper không biết kết hợp giữa cách tiếp cận từng phần với cách tiếp cận toàn phần trong nhận thức và thực tiễn. Hai cách tiếp cận này hỗ trợ lẫn nhau. 23
  • 27. Ba là, Popper quá nhấn mạnh tính tương đối đi đến phủ nhận hoàn toàn tính tuyệt đối của chân lý. Bốn là, Popper phủ nhận tư tưởng biện chứng, một thành tựu lớn của tư duy nhân loại. Và cuối cùng đứng trên lập trường của chủ nghĩa tự do, Popper đề cao vai trò của yếu tố chủ quan đi đến phủ nhận hoàn toàn tính tất yếu và quy luật khách quan, nhất là tính tất yếu lịch sử và quy luật xã hội, phủ nhận quyết định luận [Xem 36, tr.112-113]. Với những đánh giá này, tác giả đã gợi mở cho chúng tôi một số ý tưởng quan trọng trong quá trình thực hiện đề tài của mình. Jeremy Shearmur, một người đã từng là trợ lý của Karl Popper trong 8 năm (1971-1979) trong tác phẩm “The Political Thought of Karl Popper” (Tư tưởng chính trị của Karl Popper) [114], có một số nhận xét về những hạn chế trong tư tưởng chính trị - xã hội của Kark Popper. Theo tác giả, tư tưởng của Popper về già (older Popper) có điểm khác với Popper hồi còn trẻ hơn (younger Popper) nhất là trong lĩnh vực triết học. “Popper chưa bao giờ là một nhà triết học thực chứng chủ nghĩa, nhưng cách tiếp cận của ông ở tuổi về già thì có ít yếu tố thực chứng hơn trong tác phẩm The Open Society (Xã hội mở)”. Một số công trình nghiên cứu ở Liên Xô trước đây và ở nước Nga hiện nay cũng có đề cập và nhận xét về Karl Popper, nhưng không nhiều. Từ điển bách khoa triết học chỉ trích việc Karl Popper phê phán triết học Mác, phủ nhận quy luật khách quan và phê phán chủ nghĩa lịch sử là “để bảo vệ tư tưởng cải cách tư sản” [116, c.514-515]. Bách khoa thư triết học (tập 4) cũng phê phán quan điểm của Popper về xã hội mở là “sự biện hộ cho nền dân chủ tư sản” [117, Том 4, c.319]: Tân Bách khoa thư triết học Nga mới xuất bản sau ngày Liên Xô sụp đổ, tuy có trình bày tương đối cụ thể về tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper, nhưng không đưa ra nhận xét, bình luận nào cả [119, Том 3, c.288]. 1.4. NHẬN XÉT CHUNG VỀ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ VỀ KARL POPPER Nhìn chung các công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Karl Popper, và nhất là nhờ có tác phẩm “Tự tiểu sử” của ông, đã cung cấp cho chúng ta một bức tranh tương đối rõ ràng và đầy đủ về những bước ngoặt trong sự chuyển 24
  • 28. biến tư tưởng của ông từ một sinh viên xã hội chủ nghĩa, một người cộng sản sang lập trường chủ nghĩa tự do xã hội và phê phán chủ nghĩa Mác. Đây là điều kiện thuận lợi giúp luận án tập hợp, lựa chọn những sự kiện quan trọng nhất và đưa ra những nhận xét, đánh giá về các sự kiện đó. Tuy nhiên những đánh giá về mặt ưu và mặt khuyết điểm trong lập trường chính trị, trong quan niệm về xã hội mở, trong sự phê phán chủ nghĩa lịch sử của Karl Popper thì mỗi tác giả chỉ nêu ra được một vài điểm chưa có hệ thống; nhất là chưa đưa ra những lập luận sâu sắc, có cơ sở lôgic để chứng minh cho tính đúng đắn, hợp lý hay phê phán, vạch ra lý do sai lầm trong những điểm đó. Những phê phán của các nhà nghiên cứu ở các nước xã hội chủ nghĩa thì chủ yếu là để bác bỏ quan điểm của Karl Popper, nhưng không cố gắng tìm ra những chỗ hợp lý để tiếp nhận và bổ sung cho triết học Mác nói chung và chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng. Tình hình trên đặt ra cho nhiệm vụ luận án của chúng tôi là phải tiếp tục nghiên cứu đi sâu hơn nữa vào việc phân tích các quan điểm triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper, đáp ứng được yêu cầu hai mặt: một là nghiên cứu tiếp thu những điểm hợp lý trong triết học về chính trị – xã hội của Karl Popper để bổ sung cho triết học Mác, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta hiện nay; đồng thời vạch ra những hạn chế phiến diện, cực đoan trong tư tưởng của ông để chỉ ra rằng những đóng góp của ông chỉ có giá trị từng mặt. Tư tưởng triết học chính trị - xã hội của ông chỉ có thể bổ sung cho triết học Mác, sửa chữa một số sai sót nào đó trong việc hiểu và vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa cộng sản của Mác, nhưng nó hoàn toàn không thể bác bỏ hay thay thế được triết học Mác như quan niệm thường có từ trước đến nay của một số nhà nghiên cứu ở phương Tây. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 Các công trình nghiên cứu của Karl Popper về tư tưởng chính trị và xã hội trước hết phải kể đến các sách dịch và giới thiệu các tác phẩm của ông, tuy nhiên mới chỉ có 3 trong số hơn 6 cuốn đã được dịch. Do đó, việc nghiên cứu của chúng tôi phải dựa vào các tài liệu bằng tiếng Anh là chính. Ở nước ta cho tới nay chưa có 25
  • 29. một sách chuyên khảo nào về triết học Karl Popper nói chung cũng như về tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của ông, cho nên chúng tôi phải dựa vào một số sách và tài liệu nước ngoài. Các bài viết về tư tưởng triết học, trong đó có tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper ở Việt Nam hiện nay tuy có tăng so với trước đây nhưng vẫn còn khá khiêm tốn. Trong thời gian gần đây đã có một số luận văn thạc sĩ triết học nghiên cứu một số khía cạnh trong tư tưởng triết học về khoa học và triết học về xã hội của Karl Popper, nhưng chưa có một luận án tiến sĩ triết học nào đã bảo vệ thành công về đề tài này. Do vậy luận án của chúng tôi không kế thừa được những công trình luận án đi trước. Cuốn ‘Tự tiểu sử’ là tài liệu quan trọng và quý giá để nghiên cứu về bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng chính trị – xã hội, cuộc đời và sự nghiệp khoa học, cùng với những suy tư, trăn trở về mặt triết học của Karl Popper từ thời thơ ấu cho đến tuổi trưởng thành, vì đây là những sự thật do chính ông kể lại. Qua tác phẩm, chúng ta có thể khẳng định rằng Karl Popper đã có những suy tư triết học từ khi còn nhỏ tuổi. Ngoài ra còn có nhiều tài liệu khác đề cập một cách khá phong phú về bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper, nhất là những tài liệu trên mạng internet, những bách khoa thư, như tình trạng xã hội của nước Áo đầu thế kỷ XX, nạn đói ở thủ đô Viên đã gây nên những cuộc bạo loạn thành phố Viên và chính bối cảnh đó tác động đến hoàn cảnh gia đình Karl Popper cũng như tư tưởng ông lúc bấy giờ. Những tiền đề lý luận cho sự hình thành tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper cũng được nhiều tài liệu đề cập đến, đây là điều kiện thuận lợi để chúng tôi chọn lọc đưa vào luận án của mình. Các công trình đề cập đến tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper có nhiều, nhưng chủ yếu bằng tiếng Anh, bao gồm trước hết là các tác phẩm chuyên khảo về triết học và tư tưởng chính trị của Popper, sau đó là các bài viết trong các bách khoa thư và các bài được công bố trên mạng internet. Ở nước ta, các công trình nghiên cứu có liên quan đến tư tưởng chính trị – xã hội của Karl Popper tuy còn ít nhưng cũng là nguồn tài liệu quan trọng giúp chúng tôi hoàn thành luận án của mình, trước hết phải kể đến Kỷ yếu Hội thảo về triết học Áo được tổ chức tại 26
  • 30. Viện Triết học, về sau được xuất bản thành sách in với tiêu đề: “Triết học Áo và ý nghĩa hiện thời của nó” trong đó có một số bài viết về Karl Popper và về tư tưởng chính trị – xã hội của ông được xem xét dưới góc độ triết học. Ngoài ra còn phải kể đến các tác phẩm viết về lịch sử triết học phương Tây hiện đại, trong đó có một phần đề cập đến tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper. Đánh giá những đóng góp trong tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Karl Popper có một số công trình, nhất là cuốn “The Philosophy of Karl Popper” (Triết học của Karl Popper), do Paul A. Schilpp chủ biên, với sự đóng góp của nhiều nhà triết học nổi tiếng nghiên cứu, nhận xét về Karl Popper. Chỉ ra những hạn chế của Karl Popper có tác phẩm “Triết học mở và xã hội mở” của M. Cornforth. Nhìn chung các công trình nghiên cứu về khía cạnh này tuy không nhiều nhưng các tác giả cũng đã gợi mở cho chúng tôi một số ý tưởng quan trọng trong quá trình thực hiện luận án. Tóm lại, tài liệu nghiên cứu về tư tưởng triết học chính trị – xã hội của Karl Popper tuy còn khá khiêm tốn, nhưng với sự cố gắng và nỗ lực khai thác của bản thân, chúng tôi đã kế thừa và phát triển được những nội dung cần thiết để thực hiện luận án của mình. 27
  • 31. CHƯƠNG 2 BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER Tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper được hình thành trong bối cảnh lịch sử về kinh tế, chính trị, xã hội của nước Áo lúc bấy giờ, trong cuộc đấu tranh về lý luận chống lại một số trào lưu triết học và chính trị đương thời, kế thừa một số thành tựu trong khoa học tự nhiên. Tuy nhiên, trong cùng hoàn cảnh lịch sử đó của nước Áo và nước Đức lại nảy sinh và phát triển nhiều khuynh hướng tư tưởng chính trị - xã hội khác nhau, thậm chí đối lập với Karl Popper, bởi vì tất cả những điều kiện và tiền đề nói trên đều phải thông qua lăng kính chủ quan của cá nhân mới biểu hiện thành quan điểm của nhà triết học. Lăng kính cá nhân này đến lượt nó lại được quy định bởi khả năng tư duy của cá nhân nhà triết học, những phẩm chất tư tưởng và đạo đức được kế thừa từ truyền thống gia đình. Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày và phân tích tất cả những yếu tố nói trên có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper. 2.1. BỐI CẢNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER Ý thức xã hội và ý thức cá nhân ở bất cứ hình thức nào cũng đều bị quy định bởi những điều kiện lịch sử xã hội nhất định; đồng thời ít nhiều có kế thừa tư tưởng của quá khứ và chịu sự tác động của một số tư tưởng đương thời. Do đó, để hiểu và đánh giá đúng tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper, trước hết chúng ta cần xem xét những điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội của nó. - Bối cảnh kinh tế cho sự hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper Karl Popper sinh năm 1902 và mất năm 1994. Ông sinh ra và lớn lên trong thời kỳ có nhiều biến động về kinh tế, đó là cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ hay còn gọi là Đại suy thoái là thời kỳ suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra từ năm 1929 28
  • 32. đến hết các năm 1930 và lấn sang đầu thập kỷ 1940, bắt đầu sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Phố Wall vào ngày 29 tháng 10 năm 1929 (còn được biết đến như là ‘ngày thứ Ba đen tối’). Nó bắt đầu ở Mỹ và nhanh chóng lan rộng ra toàn Châu Âu và mọi nơi trên thế giới, phá hủy cả các nước phát triển. Thương mại quốc tế suy sụp rõ rệt, từ thu nhập cá nhân, thuế, lợi tức đều bị ảnh hưởng và suy thoái. Từ thành thị đến nông thôn đều phải đối mặt với nạn đói kém và thất nghiệp do mất mùa, do giảm sút về việc làm và thu nhập của người lao động. Các lĩnh vực khai mỏ và khai thác gỗ bị ảnh hưởng lớn nhất. Đại suy thoái kết thúc vào các thời gian khác nhau tùy theo từng nước. Nó bị coi là đêm trước của Chiến tranh thế giới thứ hai. Nguyên nhân chính của khủng hoảng chủ yếu là do sự tăng lên quá nhanh của quá trình sản xuất trong một thời gian dài, nhưng nhu cầu thị trường lại không tăng làm cho hàng hóa ngày càng giảm khả năng tiêu thụ và dần trở nên thừa dẫn đến suy thoái trong sản xuất. Ở Đức và Áo, cuộc khủng hoảng này không chỉ tàn phá nặng nề về kinh tế mà còn gây ra nhiều hậu quả lớn về chính trị và xã hội. Cuộc khủng hoảng 1929 – 1933, đã làm cho số công nhân thất nghiệp tăng lên hàng triệu người, hàng triệu người mất nhà cửa, hàng triệu dân bị mất ruộng đất và sống trong cảnh thiếu thốn, nghèo đói. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản. Đại đa số nhân dân sống rất nghèo khổ, cuộc sống của họ phải chịu đủ mọi sức ép, buồn thảm và chán ghét. Nạn đói gây nên những cuộc bạo loạn ở Viên. Karl Popper mô tả tình hình đó như sau: “Những người hiện đang sống ở các nước dân chủ phương Tây rất ít biết về sự nghèo khổ hồi đầu thế kỷ này là như thế nào. Lúc ấy, đàn ông, đàn bà, trẻ em đều sống rất nghèo khổ, đói rách, đều không có hy vọng gì” [111, p.4]. Chính điều kiện kinh tế này đã đưa người thiếu niên Karl Popper đến với lập trường chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, nhưng đến tuổi trưởng thành ông mới nhận ra rằng con đường này không có tính khả thi và chuyển sang lập trường khác. - Bối cảnh chính trị và xã hội cho sự hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper Trong những năm đầu thế kỷ XX, dù có nền kinh tế hết sức lạc hậu và mâu thuẫn dân tộc gay gắt nhưng Đế quốc Áo - Hung lại muốn bành trướng lãnh thổ, 29
  • 33. nhất là khu vực Balkan. Năm 1882, Đế quốc Áo - Hung gia nhập Liên minh Trung tâm cùng Đế quốc Đức và Ý. Tham vọng của Đế quốc Áo - Hung trong Chiến tranh thế giới thứ nhất là làm chủ khu vực Balkan và giữ lại vai trò cường quốc của mình ở châu Âu. Chính sách bành trướng Balkan của Đế quốc Áo - Hung vấp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ của Đế quốc Nga, do đó Áo - Hung thực hiện liên minh quân sự với Đế quốc Đức để chống lại Nga. Ngày 28 tháng 7 năm 1914, Đế quốc Áo - Hung tuyên chiến với Serbia, lý do là khi liên minh với Đế quốc Đức, Đế quốc Áo - Hung đã đi thôn tính Bosnia và Herzegovina, làm cho sự đối địch giữa Áo - Hung với Serbia ngày càng gay gắt. Ngày 28 tháng 6 năm 1914, khi thái tử Franz Ferdinan tham gia buổi diễn tập của quân đội Áo - Hung tại Sarajevo thì bị một số thành viên của tổ chức Bàn tay đen thực hiện kế hoạch ám sát. Mặc dù nhiều lần Serbia gửi tối hậu thư đến đại sứ Áo - Hung muốn hòa giải cuộc xung đột nhưng Áo - Hung vẫn không chấp thuận và tuyên bố cắt đứt quan hệ ngoại giao với Serbia và tuyên bố chiến tranh Serbia. Sự kiện này đã châm ngòi cho cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và Đế quốc Áo - Hung chính thức tham gia vào chiến tranh. Với sự lạc hậu về kinh tế cùng với sự thất bại liên tiếp ở chiến trường, nhiều cuộc biểu tình của nhân dân lao động diễn ra. Tình trạng này để lại hậu quả rất tồi tệ. Thành phố Viên rất hỗn loạn, không chỉ có sự xáo trộn về chính trị mà nạn thất nghiệp, lạm phát, đói kém và các tệ nạn xã hội tràn lan. Nhân dân ở Viên sống rất nghèo khổ, cuộc sống con người chịu đựng mọi sức ép, buồn thảm và chán ghét. Qua “Tự tiểu sử” của mình, Karl Popper thuật lại rằng ở Viên lúc bấy giờ tình trạng đói nghèo là phổ biến. Ông nói: “Việc trông thấy cảnh nghèo đói xơ xác (abject poverty) ở Viên là một trong những vấn đề chính đã làm tôi xúc động ngay từ khi còn là một đứa trẻ – đến nỗi nó hầu như mãi mãi nằm sâu trong đầu óc của tôi … đàn ông, đàn bà, trẻ con sống trong cảnh đói, rét và tuyệt vọng. Là trẻ con như chúng tôi không thể làm gì hơn là xin một vài đồng xu để cho người nghèo” [111, p.4]. Ngày 3 tháng 11 năm 1918 sự ra đời của Đảng Cộng sản Áo diễn ra trong bối cảnh Quốc tế II bị phá sản do sự lũng đoạn của chủ nghĩa cơ hội xét lại và trong bối 30
  • 34. cảnh các lực lượng cánh tả của các đảng xã hội - dân chủ dưới sự lãnh đạo của V.I. Lênin với nòng cốt là Đảng Bônsêvích Nga đang xúc tiến chuẩn bị thành lập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III). Bởi vậy, ngay khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Áo đã phải tiến hành nhiều cuộc đấu tranh nhằm chống các tư tưởng cải lương, cơ hội xét lại, xây dựng một chính đảng mácxít - lêninít chân chính. Năm 1924, phái cánh tả chiếm ưu thế về chính trị, đây là giai đoạn cao trào của thời kỳ Viên đỏ (1918 - 1933). Karl Popper đã tham gia hoạt động tích cực trong các phong trào xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian này, Karl Popper đã tham gia Hội sinh viên xã hội chủ nghĩa. Ông thường xuyên tham dự đầy đủ các cuộc họp của Hội và các cuộc mít-tinh do Hội tổ chức, ông đã tin theo những người xã hội chủ nghĩa và trong những tháng đầu năm 1919, Karl Popper đã tự coi mình là một người cộng sản thật sự. Tuy nhiên, điều này không diễn ra lâu hơn khi Karl Popper chuyển sang lập trường ngược lại. Từ sau khi chứng kiến sự chết chóc trong các cuộc xung đột đầy bạo lực giữa những người cộng sản và cảnh sát Viên, ông đã rời bỏ Đảng Cộng sản Áo và trở thành một trong những người phê phán chủ nghĩa Mác. Tình hình khủng hoảng kinh tế và nghèo đói của nhân dân là nguyên nhân làm trỗi dậy xu hướng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Đức và Áo. Ngoài các đảng xã hội chủ nghĩa và cộng sản theo lập trường của Mác và Lênin, còn có các đảng công nhân theo lập trường dân tộc chủ nghĩa, trong đó có Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa dân tộc Đức (Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei, gọi tắt là NSDAP) do Hitler đứng đầu, thường được dịch sang tiếng Việt là Đảng Quốc xã Đức (Quốc xã = Nationalsozialistische, có nghĩa là xã hội chủ nghĩa dân tộc). Tuy gọi mình đảng công nhân nhưng Hitler lại giải tán công đoàn. Tuy gọi là đảng xã hội chủ nghĩa nhưng thực ra Hitler chủ trương chống Liên Xô. Chủ nghĩa xã hội dân tộc không chỉ chống lại chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, mà còn chống lại chủ nghĩa xã hội quốc tế. Cho nên vì thế các nhà nghiên cứu phương Tây đều không coi tư tưởng chính trị của Hitler là thuộc về chủ nghĩa xã hội. Từ sau Cách mạng tháng Mười Nga đến đầu thập kỷ 30 thì khuynh hướng 31
  • 35. cộng sản chủ nghĩa thắng thế ở Áo (thời kỳ Viên đỏ). Tuy nhiên, sau đó khuynh hướng xã hội chủ nghĩa dân tộc lại nổi lên chiếm vai trò chủ đạo. Adolf Hitler, thủ lĩnh của Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa dân tộc Đức năm 1933 được bầu làm Thủ tướng nước Đức. Trong vài năm trước Thế chiến II, Đức Quốc xã đã đem lại một số thay đổi theo hướng tích cực, như phục hồi kinh tế, giảm bớt thất nghiệp (Sản lượng và thu nhập quốc nội tăng gấp đôi trong thời gian 1932 – 1937). Số người thất nghiệp từ 6 triệu (năm 1932) bốn năm sau giảm còn không đến 1 triệu. Lực lượng quân đội Đức tăng lên một cách nhanh chóng, có thể đánh chiếm Ba Lan và nhiều nước khác chỉ trong một thời gian ngắn, huy động hơn 3,2 triệu quân tiến vào Liên Xô. Vì thế Đảng NSDAP được đại đa số nhân dân ủng hộ. Họ tin rằng Hitler là người sẽ làm thay đổi tình hình nước Đức và thế giới, sẽ làm cho dân tộc Đức trở thành một dân tộc vĩ đại trên thế giới. Trong giới quan chức ở Đức tuy có nhiều người đã nhận ra bộ mặt thật của Hitler nhưng tất cả mọi âm mưu lật đổ, đảo chính đều bị thất bại. Đức quốc xã thực chất là một hình thức của chủ nghĩa phát xít (Fascism), một thứ chủ nghĩa toàn trị (chế độ độc tài) và chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Chủ nghĩa phát xít xuất hiện từ đầu thế kỷ XX ở Ý trong Thế chiến I và sau đó lan ra nhiều nước khác ở châu Âu, trong đó có Đức. Đảng Phát xít cách mạng Ý được thành lập năm 1915 và hai năm sau đổi tên thành Đảng Dân tộc Phát xít (Partito Nationale Fascista). Chủ nghĩa phát xít coi chiến tranh là phương thức hữu hiệu nhất để làm thay đổi thế giới. Do vậy nó cần có một chính phủ đủ mạnh để huy động mọi công dân phục vụ cho chiến trường. Với mục đích đó, Đức quốc xã tiến hành nắm toàn bộ công nghiệp để tập trung sản xuất vũ khí và thương nghiệp để phục vụ chiến tranh. Đảng Quốc xã Đức nắm trong tay mọi quyền lực, hợp thức hóa mình thành một đảng chính trị duy nhất ở Đức. Đức Quốc xã tuy lấy tên ‘xã hội chủ nghĩa’ với mục đích vay mượn một số yếu tố của chủ nghĩa xã hội để phục vụ chế độ phát xít của mình, nhưng nó không phải là chủ nghĩa xã hội mácxít. Chủ nghĩa phát xít được giới nghiên cứu phương Tây xếp vào khuynh hướng chính trị cực hữu (far-right), nó chống lại cả ba khuynh 32
  • 36. hướng chính trị đương thời: chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa bảo thủ. Sau khi lên cầm quyền, Hitler tìm cách thâu tóm mọi quyền lực để có thể rảnh tay thực hiện mọi ý đồ ảo tưởng của mình, như giải tán tổ chức tiểu bang và đổi thành tỉnh mà người đứng đầu các tỉnh và thành phố do Hitler hoặc Bộ nội vụ bổ nhiệm. Hitler giải tán Công đoàn Đức để trực tiếp nắm toàn bộ lực lượng công nhân. Hitler xóa bỏ quyền lập pháp của Nghị viện, kể cả quyền phê chuẩn hiệp ước với nước ngoài, xóa bỏ những quyền tự do căn bản của công dân đã được hiến pháp thừa nhận. Trong mấy năm cầm quyền, Hitler đã tiến hành hàng loạt các cuộc thanh trừng, cách chức, treo cổ những người chống đối, có âm mưu lật đổ hoặc ám sát y. Hitler thực hiện chính sách dân tộc cực đoan, gạt bỏ cộng đồng Do Thái, vì thế đã có gần 6 triệu người Do Thái bị sát hại. Tóm lại, Đức Quốc xã do Hitler cầm đầu là một thứ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan, sùng bái cá nhân và coi thường nhân dân, một chế độ cai trị độc tài phản dân chủ, phản tự do và tàn bạo hiếm thấy trong lịch sử nhân loại. Ở nước Áo, ngoài Đảng xã hội và cộng sản theo hệ tư tưởng Mác - Lênin, còn có Đảng Công nhân Đức ở Áo, năm 1923 đổi tên thành Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa dân tộc Đức ở Áo, một đảng theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa dân tộc, thực chất là chủ nghĩa phátxít. Vì Áo và Đức là cùng một dân tộc, nói cùng một thứ tiếng (tiếng Đức); trước đây Áo đã từng nằm trong Liên bang Đức về sau tách ra thành một nhà nước độc lập, nên chủ trương thống nhất dân tộc Đức, sát nhập Áo vào Đức của Hitler (một người Đức sinh ra ở Áo) được nhiều người dân Áo đồng tình. Từ năm 1930 đa số các đảng viên của đảng Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa dân tộc Đức ở Áo đều ủng hộ Hitler. Ngày 12 tháng 3 năm 1938, Hitler dẫn một đội quân vượt biên giới sang lật đổ chính phủ Áo và sát nhập nước Áo vào nước Đức. Với nhãn quan chính trị sắc sảo, Karl Popper ngay từ đầu đã nhận ra bộ mặt thật của Đức Quốc xã. Người bạn của Popper là Hayek, một đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa tự do mới, đã phát hiện và giúp cho Popper thấy rõ bản chất của Đức Quốc xã là chủ nghĩa phát xít. Là một nhà triết học theo khuynh hướng tự do chủ nghĩa, Karl Popper ngay từ đầu đã nhận ra được bản chất độc tài, phản tự do, dân 33
  • 37. chủ của chế độ phát xít của Hitler và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi của Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa dân tộc Đức ở Áo, cho nên trước sự trỗi dậy của Đảng này ở Áo, và nguy cơ nước Áo bị sát nhập vào nước Đức, Karl Popper cảm thấy không thể tiếp tục sống ở quê hương của mình và ông quyết định rời khỏi Áo cùng với vợ. Ông để lại họ hàng và nhiều người sau này bị Đức quốc xã sát hại. Năm 1937, Karl Popper đến New Zealand và giảng dạy triết học như một giảng viên cao cấp tại Đại học Canterbury. Sau Thế chiến II, gia đình Popper chuyển đến London nước Anh và giảng dạy ở đó. Trong giai đoạn từ năm 1937 đến năm 1957, Karl Popper tập trung nghiên cứu nhiều lĩnh vực khoa học, xuất bản một số công trình có giá trị. Đây cũng chính là giai đoạn mà Karl Popper nghiên cứu phê phán chủ nghĩa lịch sử. Tác phẩm “The Poverty of Historicism” (Sự nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử) cũng như là “The Open Society and Its Enemies” (Xã hội mở và những kẻ thù của nó) đã ra đời trong thời gian này. Những tác phẩm này phản ánh rất rõ nét tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Popper. 2.2. NHỮNG TIỀN ĐỀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN CHO SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER Tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Popper hình thành gắn liền với những thành tựu khoa học nổi bật của thế giới vào đầu thế kỷ XX, trong đó có thuyết bất định trong vật lý lượng tử của Heisenberg, thuyết tiến hóa của Darwin. Tuy nhiên, ảnh hưởng lớn nhất về mặt phương pháp luận đến tư tưởng của Karl Popper là học thuyết và phương pháp khoa học của Albert Einstein. 2.2.1. Ảnh hưởng của thuyết bất định đối với tư tưởng tự do chủ nghĩa và triết học về xã hội mở của Karl Popper Nguyên lý bất định (Uncertainty Principle, nếu được dịch sát nghĩa là nguyên lý không biết chắc) được nhà vật lý lý thuyết người Đức Werner Heisenberg (1901- 1976) công bố năm 1927. Theo nguyên lý này, chúng ta không thể xác định được một cách chính xác cả vị trí lẫn vận tốc (hay xung lượng) của một hạt electron vào cùng một thời điểm. Nếu ta biết một đại lượng càng chính xác thì ta biết đại lượng kia càng kém chính xác, bởi vì, các hạt vi mô vừa có tính chất sóng, vừa có tính 34