Download luận án tiến sĩ ngành văn hóa học với đề tài: Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động truyền thông VOV, cho các bạn làm luận án tham khảo
Luận án: Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động VOV
1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BÙI MẠNH HÙNG
Giao lu v¨n hãa ViÖt Nam-nhËt b¶n
Trong ho¹t ®éng truyÒn th«ng vov
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2017
2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BÙI MẠNH HÙNG
Giao lu v¨n hãa ViÖt Nam-nhËt b¶n
Trong ho¹t ®éng truyÒn th«ng vov
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
Mã số:
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS.TS. TẠ NGỌC TẤN
2. PGS.TS. NGUYỄN TOÀN THẮNG
HÀ NỘI - 2017
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, tư liệu trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo qui định; những
phát hiện đưa ra trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác
giả luận án.
Tác giả luận án
Bùi Mạnh Hùng
4. MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài 7
1.2. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 27
Chương 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM-
NHẬT BẢN QUA PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG
VOV 44
2.1. Khái lược lịch sử giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản 44
2.2. Chính sách ngoại giao văn hóa của Việt Nam và Nhật Bản 50
2.3. Khái quát về VOV 55
2.4. Hoạt động giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản với sự tham
gia của VOV 68
Chương 3: THỰC TRẠNG GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM - NHẬT
BẢN TRONG HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG VOV 80
3.1. Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản qua hoạt động
chương trình phát thanh tiếng Nhật 80
3.2. Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản qua hoạt động của
website tiếng Nhật VOV 93
3.3. Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản qua hoạt động của
Cơ quan thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam tại Nhật Bản 97
3.4. Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản qua động hợp tác
giữa VOV và NHK 100
3.5. Đánh giá chung và những vấn đề đang đặt ra 104
Chương 4: DỰ BÁO XU HƯỚNG VÀ KHUYẾN NGHỊ CÁC GIẢI
PHÁP THÚC ĐẨY GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM-
NHẬT BẢN TRONG HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG
VOV, TẦM NHÌN TỚI NĂM 2030 117
4.1. Dự báo xu hướng giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản 117
4.2. Những định hướng cơ bản của hoạt động truyền thông VOV
trong giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Nản thời gian tới 129
4.3. Giải pháp 133
5. KẾT LUẬN 145
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 149
PHỤ LỤC 157
6. DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1: Nhu cầu sử dụng Radio của người Mỹ 28
Bảng 3.1: Chương trình AM (phát trong và ngoài nước) 83
Bảng 3.2: Chương trình FM (phát trong nước) 84
Bảng 3.3: Thống kê tin liên quan tới văn hóa Nhật Bản phát tên Hệ
VOV1 (2016) 90
Bảng 3.4: Tin bài năm 2016 của Cơ quan thường trú VOV tại
Tokyo, Nhật Bản 99
Bảng 3.5: Bảng biểu chương trình tiếng Việt Đài NKH 102
Bảng 3.6: Thính giả Nhật Bản nghe các chuyên mục giới thiệu Văn
hoá Việt Nam 107
Bảng 3.7: Tổng hợp kết quả đánh giá của thính giả Nhật Bản về
chất lượng các chuyên mục giới thiệu văn hoá Việt Nam 107
7. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GNKNDC : Giai nhân kỳ ngộ diễn ca
NCS : Nghiên cứu sinh
VOV : Đài Tiếng nói Việt Nam
VOV1 : Hệ Thời sự - Chính trị - Tổng hợp
VOV2 : Hệ Văn hoá - Đời sống - Khoa giáo
VOV3 : Hệ Âm nhạc - Thông tin - Giải trí
VOV4 : Hệ Phát thanh dân tộc
VOV5 : Hệ Phát thanh đối ngoại Quốc gia
VOVTV : Hệ Phát thanh có hình
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay,
giao lưu văn hóa có vai trò quan trọng đặc biệt trong thực hiện chính sách đối
ngoại của mỗi quốc gia.
Năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định 210/QĐ-TTg
phê duyệt Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020 và tầm
nhìn 2030. Chiến lược này đã xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, các giải pháp chủ
yếu để phát triển văn hóa đối ngoại nhằm khai thông quan hệ với các nước trong
khu vực, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đã được thiết lập đi vào chiều sâu,
tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia, góp phần quảng bá hình ảnh đất
nước, văn hóa, con người Việt Nam với bạn bè thế giới.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011), Đảng ta đã khẳng định: "Kế
thừa và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân
chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri
thức, đạo đức, thể lực, thẩm mỹ ngày càng cao" [17, tr.16]. Cùng với phát
triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc, giao lưu văn hóa phải là một trong
những hoạt động cơ bản, cốt lõi để quảng bá văn hóa dân tộc và tiếp thu các
giá trị văn hóa nhân loại. Đẩy mạnh giao lưu văn hóa là tiền đề để Việt Nam
hội nhập sâu rộng, phát triển toàn diện đất nước trong bối cảnh mới.
Với nhận thức đó, Việt Nam mong muốn là bạn với tất cả các nước trên
thế giới. Đến nay chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với 192 quốc gia và vũng
lãnh thổ, trong đó, Nhật Bản là một đối tác quan trọng hàng đầu của Việt
Nam. Quan hệ Việt Nam-Nhật Bản là mối quan hệ truyền thống lâu đời, chưa
bao giờ tốt đẹp như hiện tại. Hai bên không chỉ phấn đầu đến năm 2020 đưa
kim ngạch lên 60 tỷ USD mà còn hết sức coi trọng phát triển tinh thần cho
nhân dân hai nước. Hai nước luôn coi trọng tiến hành các hoạt động giao lưu
9. 2
văn hóa, tạo sự hiểu biết, tin tưởng lẫn nhau hướng tới phát triển con người
toàn diện. Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản đã trở hành điển hình trong
hoạt động giao văn hóa nói chung của Việt Nam.
Truyền thông - trong đó báo chí, phát thanh, truyền hình… không
những là thành tố quan trọng của văn hóa, mà còn là phương tiện, con đường
đặc biệt của giao lưu văn hóa. Không chỉ dừng lại mức độ thông tin, mà nó
còn tổ chức, xúc tiến các hoạt động giao lưu văn hóa. Đài Tiếng nói Việt Nam
(Radio The voice of Viet Nam-VOV)-Cơ quan truyền thông đa phương tiện
hiện đại bậc nhất của Việt Nam, có chương trình phát thanh Tiếng Nhật sớm
nhất và duy nhất ở Việt Nam (thành lập 29/4/1963), trực tiếp là nơi giao lưu
văn hóa giữa nhân dân hai nước trong suốt gần nửa thế kỷ qua. Nhiều người
Nhật Bản biết đến Việt Nam, yêu Việt Nam qua "Tiếng nói Việt Nam". Tuy
nhiên cho đến nay, vấn đề giao lưu văn hóa giữa hai nước Việt Nam-Nhật
Bản trong hoạt động truyền thông VOV vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu
như một hệ thống chuyên biệt nhìn dưới góc độ văn hóa học.
Với những lý do trên, nghiên cứu sinh (NCS), nhận thấy việc nghiên
cứu đề tài "Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động truyền
thông VOV" là việc làm cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhằm nâng
cao hiệu quả của giao lưu văn hóa giữa hai nước, khẳng định vai trò ngày
càng gia tăng của VOV trong việc đẩy mạnh giao lưu văn hóa trong bối cảnh
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về giao lưu văn hóa, luận
án đánh giá thực trạng giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động
hoạt động truyền thông của VOV, từ đó dự báo xu hướng và khuyến nghị một
số giải pháp góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản vì mục
tiêu hòa bình, thịnh vượng của cả hai quốc gia.
10. 3
2.2. Nhiệm vụ
- Làm sáng tỏ khái niệm giao lưu văn hóa, truyền thông và vai trò của
truyền thông trong giao lưu văn hóa.
- Tổng quan về giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Nhật Bản từ quá
khứ đến hiện tại.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản
thông qua hoạt động truyền thông của VOV trong những năm qua.
- Dự báo xu hướng giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản và khuyến
nghị các giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản
trong hoạt động truyền thông của VOV.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động truyền thông của
VOV (nhấn mạnh tới phát thanh Tiếng Nhật, hoạt động của Cơ quan Thường
trú Đài VOV tại Tokyo, Nhật Bản).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Lịch sử quan hệ giao lưu giữa Việt Nam-Nhật Bản có từ
nhiều thế kỷ trước. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài, luận án tập trung vào
nghiên cứu một số hoạt động giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt
động của VOV 3 năm trở lại đây khi VOV trở thành một cơ quan truyền
thông đa phương tiện.
- Về phạm vi khảo sát: Trong những năm qua, VOV tích cực tham gia
thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa hai nước thông qua các hoạt động truyền
thông trên sóng phát thanh, gần đây là cả trên sóng truyền hình, website của
VOV cùng các hoạt động khác. Trong khuôn khổ của đề tài, luận án tập trung
khảo sát thực trạng giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản trong chương trình
phát thanh tiếng Nhật, website tiếng Nhật của VOV, hoạt động của Cơ quan
thường trú VOV tại Nhật Bản và hoạt động hợp tác giữa VOV và NHK. Đây
11. 4
là những hoạt động chủ yếu phản ánh được toàn diện quá trình giao lưu văn
hóa Việt Nam - Nhật Bản trong hoạt động truyền thông VOV.
- Về nội dung khảo sát: Trong luận án này, NCS khảo sát, đánh giá
thực trạng giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản thông qua các nội dung và
hình thức hoạt động cụ thể của VOV. Đó là các chuyên mục trong các chương
trình phát thanh, là các hoạt động văn hóa nghệ thuật giới thiệu về văn hóa,
con người của hai nước... Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản mang tính hai
chiều, một mặt là giới thiệu văn hóa Việt Nam đến với người Nhật Bản, hai là
giới thiệu văn hóa Nhật Bản đến với người Việt Nam. Luận án cũng sẽ khảo
sát cả hai nội dung này.
Quá trình giao lưu văn hóa là quá trình giải quyết mối quan hệ giữa cái
"nội sinh" và cái "ngoại sinh" để tạo nên các sản phẩm, các giá trị văn hóa
mới. Mối quan hệ giữa hai nhân tố này phải thông qua kênh "trung gian" như
văn học, điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, kiến trúc hội họa, phát thanh, truyền
hình và các phương tiện truyền thông mới như internet, mạng xã hội v.v…
4. Lý thuyết nghiên cứu
Luận án sử dụng lý thuyết giao lưu văn hóa.
Thuật ngữ giao lưu văn hóa do nhà nhân học Mỹ J. W. Powell, sử dụng
từ năm 1889 khi đề cập đến sự biến đổi của lối sống và lối suy nghĩ của người
di dân khi tiếp xúc với xã hội Mỹ. Tuy nhiên, phải đợi đến những năm 1930,
nhận thức về hiện tượng gặp gỡ giữa các nền văn hóa mới có hệ thống và có
định nghĩa về mặt khái niệm.
Năm 1936, Hội đồng nghiên cứu khoa học xã hội Mỹ lập ra một ủy ban
để tổ chức nghiên cứu các sự kiện giao lưu văn hóa, trong đó có Robert
Redfield, Ralph Linton và Medville Herskovits. Trong Bản ghi nhớ nghiên
cứu về giao lưu văn hóa [1936] có nêu ra định nghĩa: Giao lưu văn hóa là toàn
thể các hiện tượng do việc tiếp xúc liên tục và trực tiếp giữa các nhóm cá thể
có văn hóa khác nhau, dẫn đến những biến đổi trong các mô thức văn hóa ban
đầu của một hoặc của hai nhóm này.
12. 5
Quá trình giao lưu văn hóa gồm có: các phương thức "chọn lọc" các
yếu tố vay mượn hoặc "phản ứng" lại sự vay mượn; các hình thức hội nhập
các yếu tố này vào mô thức văn hóa gốc; các cơ chế tâm lý tạo điều kiện dễ
dàng hay không cho việc hội nhập văn hóa; và cuối cùng là các hậu quả chủ
yếu của giao lưu văn hóa, bao gồm các phản ứng tiêu cực, đôi lúc có thể xảy
ra với các phong trào "chống lại giao lưu văn hóa ".
Tóm lại, giao lưu văn hóa là một hiện tượng động, một quá trình đang
xảy ra hoặc đang thực hiện. Trong các biến đổi văn hóa của quá trình giao lưu
văn hóa, có thể rút ra quy luật chung là các yếu tố không mang tính biểu trưng
(kỹ thuật và vật chất) của một nền văn hóa biến chuyển dễ dàng hơn các yếu
tố biểu trưng (tôn giáo, ý thức hệ, v.v...).
Trong luận án này, việc sử dụng lý thuyết giao lưu văn hóa cho phép
nhìn nhận sự gặp gỡ, trao đổi giữa hai nền văn hóa Việt Nam-Nhật Bản như là
một biểu hiện của quy luật giao lưu văn hóa. Quan hệ giao lưu văn hóa này
được đặt trong mối quan hệ với tổng thể xã hội, dưới tác động của phương
tiện truyền thông (cụ thể ở đây là qua hoạt động của VOV). Đây là quá trình
giao lưu bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, bổ sung và làm phong phú cho nhau.
Quá trình giao lưu này là quá trình đối thoại, chia sẻ các giá trị văn hóa thông
qua kênh truyền dẫn quan trọng là Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV). Lý thuyết
giao lưu văn hóa được vận dụng vào để nghiên cứu giao lưu văn hóa Việt
Nam - Nhật Bản thông qua hoạt động truyền thông VOV là nghiên cứu sự
trao truyền, chia sẻ giá trị văn hóa giữa Việt Nam và Nhật Bản thông qua bốn
hoạt động của Đài VOV là: (1) Chương trình phát thanh tiếng Nhật của VOV;
(2) Hoạt động của website tiếng Nhật của VOV; (3) Hoạt động của Cơ quan
thường trú tại Nhật Bản; (4) Hoạt động hợp tác giữa VOV và NHK. Từ đó,
luận án có thể đưa ra khuyến nghị cần thiết để đẩy mạnh giao lưu văn hóa
Việt - Nhật trong thời gian tới.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Đề tài làm rõ những vấn đề lý luận về giao lưu văn hóa thông qua các
13. 6
phương tiện truyền thông đại chúng, nhận diện rõ ưu thế và vai trò của các
phương tiện truyền thông trong thúc đẩy giao lưu văn hóa thời kỳ toàn cầu
hóa và sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật số.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, tác động, vai trò của VOV đối với hoạt
động giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản, luận án đề xuất một số định
hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các chương trình truyền thông
của VOV và của Đài Việt ngữ-NHK Nhật Bản trong quan hệ giao lưu văn hóa
Nhật-Việt và Việt-Nhật. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần tăng cường
quan hệ hai nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và góp phần mở rộng hội
nhập quốc tế của Việt Nam.
- Luận án có thể làm dùng làm tài liệu tham khảo cho những học viên,
sinh viên… chuyên ngành văn hóa học, xã hội học, truyền thông, cán bộ, biên
tập viên, phát thanh viên, kỹ thuật viên của ngành phát thanh và truyền hình
Việt Nam và Nhật Bản quan tâm, nghiên cứu, tìm hiểu về hoạt động giao lưu
văn hóa Việt Nam-Nhật Bản, lịch sử VOV, vai trò của VOV trong hoạt động
tăng cường hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
luận án chia thành 4 chương, 14 tiết.
14. 7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về giao lưu văn hóa Việt Nam-
Nhật Bản
Ở cấp độ giao lưu văn hóa,có rất nhiều cuốn sách, đề tài luận án Tiến sĩ,
công trình nghiên cứu… bằng cả tiếng Việt và tiếng nước ngoài đề cập.
Ở Việt Nam với những tác phẩm của các tác giả Trần Quốc Vượng, Trần
Ngọc Thêm, Phạm Duy Đức, Lê Quý Đức, Hoàng Chí Bảo, Phan Ngọc… đã
đưa ra nhiều định nghĩa giao lưu văn hóa từ các cách tiếp cận khác nhau.
Ở góc độ giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản, có rất nhiều tác phẩm của
các tác giả như Phan Ngọc, Phan Hải Linh, Nguyễn Tiến Lực, Vũ Thị Phụng…
nghiên cứu, đề cập tới từng góc độ. Trong phạm vi luận án, nghiên cứu sinh chỉ
tổng hợp một số tác phẩm mới nhất của cả nhà nghiên cứu, chính trị gia Việt
Nam và Nhật Bản nghiên cứu sâu về giao lưu văn hóa giữa hai nước.
Nhà nghiên cứu Vĩnh Sính với tác phẩm Việt Nam và Nhật Bản giao
lưu văn hóa (in lần đầu năm 2001) là cuốn sách đã tổng kết khá đầy đủ về mối
quan hệ hai nước.
Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hóa được chia làm ba phần: phần 1
gồm những tiểu luận về giao lưu giữa Việt Nam và Nhật Bản; phần 2 gồm hai
công trình dịch thuật và khảo cứu của Vĩnh Sính: 1) An Nam cung dịch kỷ
sự của di thần nhà Minh Chu Thuấn Thủy, đến Đại Việt (cụ thể là Đàng Trong)
vào thế kỷ XVII và 2) Lối lên miền Oku của thi hào Nhật Bản Matsuo Basho
(Tùng Vĩ Ba Tiêu; 1644-1694) - người có công định hình thơ haiku; phần 3 là
Phụ lục nguyên bản chữ Hán tập An Nam cung dịch kỷ sự, Di cảo của Bùi
Mộng Hùng đọc bản dịch Lối lên miền Oku của Vĩnh Sính và hình ảnh.
15. 8
Ở một số nội dung tiểu luận, tác giả nêu bật lên những điểm tương
đồng và dị biệt trong cách nhìn, cũng như trong mối quan hệ giữa Việt Nam
và Nhật Bản đối với Trung Quốc. Trong trật tự thế giới Đông Á truyền thống
Trung Quốc là trung tâm, là Thiên triều, coi các nước nằm trên ngoại vi của
mình là "man di''. Đối với Trung Quốc, văn hóa Trung Hoa - với trọng điểm
là Nho giáo và chữ Hán - là tiêu chuẩn duy nhất để đo lường trình độ văn
minh của các nước lân bang. Nhìn chung, cái nhìn của Trung Quốc đối với
Việt Nam và Nhật Bản về cơ bản không có nhiều khác biệt. Tuy nhiên, thái
độ của Việt Nam và Nhật Bản đối với Trung Quốc có những khác biệt lớn: 1)
Thái độ của Việt Nam đối với Trung Quốc: Đề kháng xâm lăng quân sự và
chấp nhận khuôn mẫu văn hóa. Nằm sát với Trung Quốc, lịch sử dựng nước
và giữ nước qua nhiều đời tóm gọn trong hai phương án: Triệt để chống trả
mọi xâm lăng quân sự, nhưng đồng thời chấp nhận và tiếp thu các khuôn mẫu
văn hóa của Trung Quốc. Chấp nhận "bất tốn Trung Quốc, bất dị Trung
Quốc" (không thua Trung Quốc, không khác Trung Quốc) chứ không chịu bị
Trung Quốc cai trị. Việt Nam chấp nhận và đứng trong khuôn khổ của văn
hóa Trung Hoa. 2) Nhật Bản ở ngoài trật tự thế giới Trung Hoa với thái độ
kính nể hoặc phủ nhận văn hóa Trung Hoa. Tiếp thu văn hóa là một lẽ nhưng
ý thức dân tộc của người Nhật giúp họ có hướng đi riêng, Nhật Bản không
chịu áp lực quân sự của Trung Quốc nên cũng không bị ràng buộc bởi thể chế
triều cống với Trung Quốc.
Trong hành trình dân tộc đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh là hai sĩ phu đi hàng đầu vận động giành độc lập trong 25 năm đầu thế
kỷ. Hai nhân vật kiệt hiệt của Việt Nam tưởng rất gần mà lại rất xa. Bên cạnh
việc nhìn lại vị trí của Phan Bội Châu và Phân Châu Trinh, tác giả Vĩnh Sính
cũng nêu ra những khác biệt quan trọng trong quan niệm độc lập quốc gia ở
Việt Nam và Nhật Bản qua hai trường hợp Phan Bội Châu và Fukuzawa
Yukichi: "cả hai người đã đi tiên phong trong việc thức tỉnh dân chúng về vấn
16. 9
đề độc lập quốc gia trước hiểm hoạ Tây xâm, và mỗi người đã để lại một dấu
ấn sâu đậm trong lịch sử cận đại của đất nước mình".
Ngoài ra, ở phần 1, tác giả cũng đưa ra những ý kiến đóng góp vào việc
tìm hiểu và đánh giá Nguyễn Trường Tộ (tư tưởng, học ở đâu? thế đứng của
Nguyễn Trường Tộ, vai trò của Tân thư đối với việc mở rộng kiến thức của
NTT, NTT có gặp Y Đằng Bác Văn (Ito Hirobumi)?...); Nguồn gốc và ý
nghĩa tác phẩm Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (GNKNDC) của Phan Châu Trinh
(GNKNDC là tác phẩm diễn ca (dịch thơ) từ bản dịch Hán văn Giai nhân kỳ
ngộ của Lương Khải Siêu, bản gốc Giai nhân kỳ ngộ do tác giả Nhật Bản
Tokai Sanshi trước tác, việc Lương Khải Siêu cắt bỏ và sửa chữa khi dịch ra
Hán văn, việc Phan Châu Trinh lựa chọn dừng dịch ở đầu quyển 9/16, Phan
Châu Trinh dịch GNKNDC giai đoạn nào?…); Mối quan hệ giữa Phan Bội
Châu và Asaba Sakirato - một ân nhân người Nhật của cụ Phan; Đóng góp
vào việc tìm hiểu thêm về Phạm Hồng Thái và tiếng bom Sa Diện; Tư liệu về
việc sang Nhật của Lê Quốc Vọng (Lê Thiết Hùng) những năm 1931-1933;
Văn hóa và con người Việt Nam dưới cặp mắt của Shiba Ryotaro (1923-
1996); Vài ý kiến về vấn đề cận đại hóa ở Việt Nam và kinh nghiệm của Nhật
Bản qua quá trình Minh Trị duy tân; về nền mậu dịch Nhật-Việt với những
luân lý kinh doanh, vấn đề giáo dục… vẫn còn rất thời sự.
Qua phần 1 cuốn sách, tác giả đã kỳ công vẽ lại bức tranh với bối cảnh
chính là những tương quan thú vị và có ý nghĩa giữa hai nước Việt Nam và
Nhật Bản trước thời cận đại; mối quan hệ cổ truyền của Việt Nam và Nhật
Bản với Trung Quốc trong trật tự thế giới Đông Á cũ và sự đảo lộn giữa thế
kỷ XIX khi làn sóng Tây xâm đánh vào bờ các nước ven Thái Bình Dương.
Trong các tài liệu viết về Việt Nam thế kỷ XVII, ngoài khối lượng lớn
tài liệu phương Tây mà nổi bật là hai tác giả C. Borri (Xứ Đàng Trong năm
1621) và A. de Rhodes (Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài) thì không thể
không nhắc đến 2 tập tài liệu do người Trung Quốc ghi chép: Hải ngoại kỷ
17. 10
sự (Thích Đại Sán) và An Nam cung dịch kỷ sự (Chu Thuấn Thủy). An Nam
cung dịch kỷ sự có thể nói là một sử liệu độc đáo cung cấp cho chúng ta nhiều
thông tin bổ ích về tình hình ở đất Thuận-Quảng nói riêng cũng như Đàng
Trong nói chung vào thế kỷ XVII.
Qua bản dịch và phần chú thích công phu An Nam cung dịch kỷ sự của
dịch giả Vĩnh Sính, một lần nữa những điểm tương đồng và dị biệt trong cách
nhìn, cũng như trong mối quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản đối với (Nho
học) Trung Quốc được khắc họa. Từ đó thấy được đặc trưng văn hóa của mỗi
nước trong quá trình giao lưu.
Với tác phẩm "大使が見た世界一親日な国・ベトナムの素顔" tạm
dịch là: "Vẻ đẹp tự nhiên của Việt Nam-đất nước thân thiết với Nhật Bản qua
con mắt Đại sứ" xuất bản năm 2015 tại Nhật Bản của Nguyên Đại sứ Nhật
Bản tại Việt Nam Mitsuo Sakaba đã toát lên một cách khái quát Việt Nam,
mối quan hệ đặc biệt thân thiết giữa Việt Nam và Nhật Bản qua cảm nhận của
ông trong suốt thời gian làm việc tại Việt Nam. Cuốn sách bao gồm 6 chương
và 1 chương kết luận giới thiệu cặn kẽ văn hóa, đặc điểm của những khu vực
Bắc bộ, Nam bộ, Tây Nguyên, Tây Nam bộ… với những đánh giá về thẩm
mỹ văn hóa, sự hấp dẫn của ngôn ngữ… thể hiện sự hiểu biết sâu sắc văn hóa
Việt Nam dưới lăng kính của một người nước ngoài. Đặc biệt mối quan hệ đối
tác chiến lược sâu rộng giữa Việt Nam-Nhật Bản được ông đánh giá là kiểu
mẫu của các mối quan hệ trong cộng động quốc tế.
Đương kim Chủ tịch Đảng cộng sản Nhật Bản-Ông Kazuo Shii cũng đã
dày công thu thập tư liệu để viết lên cuốn sách "ベトナム 友好と連携の旅"
tạm dịch là: "Việt Nam-chuyến công du của tình hữu nghị và hợp tác" xuất
bản năm 2007 tại Nhật Bản đã tổng hợp, đánh giá mối quan hệ giữa Đảng
Cộng sản Nhật Bản và Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua, đặc
biệt nhất là từ khi ông Shii là Chủ tịch của Đảng này. Dựa trên việc đánh giá
mối quan hệ thân thiết giữa hai Đảng, tác giả đã đưa ra những luận điểm cho
18. 11
rằng quan hệ nào thì quan hệ nhưng cũng xuất phát từ lợi ích của nhân dân.
Quan hệ hai đảng bền vững sẽ đóng góp việc tăng cường hiểu biết giữa nhân
dân hai nước, đóng góp vào sự phát triển chung của mỗi nước.
Trong thời gian tới, đặc biệt 2017 sẽ có những công trình nghiên cứu sâu
hơn về giao lưu văn hóa giữa hai nước. Ví dụ như Tiến sĩ Ngô Hương Lan
(Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam) đang học sau tiến sĩ tại Nhật Bản,
thông qua việc nghiên cứu về Lễ hội Nhật Bản, đồng thời có sự so sánh với văn
hóa lễ hội Việt Nam, chắc chắn sẽ có những đóng góp vào việc bảo tồn và
quảng bá lễ hội Việt Nam.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan tới truyền thông và
truyền thông trong lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản
Liên quan đến truyền thông mà cụ thể là truyền thông VOV, nghiên
cứu sinh xin thống kê một số cuốn sách mới được xuất bản năm 2016 bằng
tiếng Nhật có những góc nhìn mới về truyền thông trong hoàn cảnh mạng xã
hội đang lấn lướt truyền thông truyền thống và chính thống.
Trong cuốn Xã hội hóa tương lai (tiếng Nhật là miraikasuru Shyakai,
tiếng Anh là The industries of the future của Alec Ross, Nhà xuất bản KK.
HarperCollins Japan, 2016 đã đề cập tới "nguyên liệu" của thời đại thông tin
hóa đó là dữ liệu, còn nguyên liệu của thời đại canh tác nông nghiệp đó là đất
đai, nguyên liệu của công nghiệp hóa là sắt.
Điện báo, điện thoại, radio, truyền hình, máy tính là những sản phẩm
kỹ thuật của các loại hình truyền thông lần lượt được ra phát minh ra và
cho thấy những dữ liệu truyền thông đến giữa thế kỷ 20 tăng rất mạnh. Đến
năm 1996 khi kỹ thuật số đưa vào sử dụng, thì năng lực bảo quản dữ liệu
trở thành công cụ vượt trội so với loại hình báo giấy trước đó. Các dữ liệu
thông tin được số hóa, đặc biệt cho báo nói. Báo nói có ưu thế là các dữ
liệu trong quá khứ sẽ được cất giữ cẩn thận, đồng thời những dữ liệu hiện
tại và tương lai được sắp xếp theo trình tự, chủ đề…rõ ràng hơn, giúp việc
bảo quản tốt hơn.
19. 12
Tác giả Norihiko Sasaki, trong cuốn sách "五年後、メディアは遂げ
るか?", tạm dịch: 5 năm sau, Truyền thông có đạt được mục tiêu của mình ?
xuất bản năm 2013, đã đưa ra 7 đại biến của truyền thông trong thế kỷ mới.
Trong đó đưa ra dự đoán báo giấy lại trở về vị trí được quan tâm nhất, sau đó
tới truyền thông sử dụng kỹ thuật số (gồm cả radio). Nhưng điều quan trọng
để duy trì hoạt động truyền thông đó là nội dung truyền thông. Nội dung
truyền thông sẽ có sự tham gia của nhà báo, độc giả và doanh nghiệp. Theo
đó, xã hội sẽ không tách rời các cá nhân, và các cá nhân không thể tách rời xã
hội. Như vậy, truyền thông sẽ tham gia vào thúc đẩy xã hội, thúc đẩy phát
triển kinh tế.
Những công trình nghiên cứu riêng biệt về truyền thông rất nhiều. Tuy
nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài là truyền thông (cụ thể là loại hình
báo nói) trong giao lưu văn hóa (cụ thể là giao lưu văn hóa Việt-Nhật) cũng
chưa có những bài viết, chuyên đề, sách… đề cập tới. Có thể nói đây là công
trình đầu tiên đề cập tới vai trò của báo nói đối với sự phát triển giao lưu văn
hóa Việt Nam-Nhật Bản. Điều này là một thử thách lớn đối với nghiên cứu
sinh. Song cũng là động lực để nghiên cứu sinh có tư duy độc lập, sáng tạo về
một vấn đề nghiên cứu mới.
Với lý do đó, tác giả luận án ngoài việc nghiên cứu tài liệu riêng biệt
liên quan tới truyền thông, giao lưu văn hóa, lịch sử quan hệ Việt-Nhật đã
nghiên cứu một số cuốn sách xuất bản năm 2011-2013 có tính gợi mở.
Ngay từ những thập niên 70 của thế kỷ XX, vai trò của văn hóa và
truyền thông đối với hoạt động ngoại giao đã được nhiều nước quan tâm
nghiên cứu. Giáo sư Joseph. Nye, nguyên Hiệu trưởng trường John F.
Kennedy thuộc Đại học Harvard - Mỹ, đã đưa ra thuật ngữ "sức mạnh mềm".
Theo ông, "sức mạnh mềm" bắt nguồn từ sự hấp dẫn về văn hóa, từ tư tưởng
chính trị đến chính sách ngoại giao đến mức lôi cuốn nước khác đi theo mình.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa đi kèm với sự bùng nổ thông tin hiện nay, nhiều
20. 13
nhà phân tích hàng đầu về quan hệ quốc tế cho rằng "sức mạnh mềm" đang tỏ
ra chiếm ưu thế hơn so với "sức mạnh cứng".
Một cách tiếp cận tương đối đầy đủ và hệ thống về lĩnh vực văn hóa
truyền thông trước hết được thể hiện trong nhiều công trình nghiên cứu của
các học giả nước ngoài, nhất là trong giai đoạn những thập kỷ cuối của thế kỷ
20. Trong số những tác giả đáng chú ý, trước hết nghiên cứu sinh muốn nhắc
đến Raymond Williams (1921-1988), là một nhà văn, nhà nghiên cứu phê
bình về chính trị, văn hóa và truyền thông đại chúng người xứ Wales.
Cáccông trình của ông đặt nền móng cho nhiều lĩnh vực nghiên cứu liên quan
đến các vấn đề văn hóa và chính trị.
Công trình nghiên cứu mang tên Văn hóa và xã hội, xuất bản lần đầu
tiên năm 1958 và sau đó được dịch và xuất bản tại các nước Italy, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Cộng hòa Liên bang Ðức ngay lập tức làm cho tác
giả trở nên nổi tiếng. Tác giả trở thành một học giả có ảnh hưởng lớn trong
lĩnh vực nghiên cứu chính trị, văn hóa xã hội và truyền thông ở Tây Âu từ nửa
sau của thế kỷ 20. Năm 1974, Raymond Williams tiếp tục cho xuất bản cuốn
sách Truyền hình: Công nghệ và hình thức văn hóa, nghiên cứu chuyên sâu
về lĩnh vực truyền hình, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò và ý nghĩa
của sự phát triển công nghệ cũng như ảnh hưởng của truyền hình đối với nền
tảng văn hóa của đời sống xã hội hiện đại.
Trong số những học giả có ảnh hưởng quan trọng đến giới nghiên cứu
văn hóa truyền thông là Clifford James Geertz (1926-2006), nhà nhân
học người Mỹ mà với những nghiên cứu thực địa ban đầu của ông
tại Indonesia, nơi ông đã xây dựng nên khái niệm Negara giúp giải thích toàn
bộ các hoạt động văn hóa và chính trị trong vùng Ðông Nam Á. Một trong
những công trình tiêu biểu của ông là cuốn The Interpretation of Cultures:
SelectedEssays (Tạm dịch là ‘Giải thích (học) về văn hóa - tuyển tập tiểu luận’
được xuất bản năm 1973. Với công trình này, ông được coi là người đã đóng
21. 14
góp lớn trong việc chuyển đổi tư duy trong các ngành xã hội và nhân văn, từ lối
suy nghĩ tìm qui luật nhân quả sang tư duy xã hội học diễn giải (interpretative),
đặt sự vật và hiện tượng trong hệ qui chiếu bản địa của ý thức địa phương.
Nhìn xã hội qua văn hóa, và đặc biệt là những biểu tượng (symbol) phổ
biến và đặc trưng trong nền văn hóa đó, Clifford cũng được coi là cha đẻ cho
ngành nhân học biểu tượng và văn hóa học. Văn hóa được định nghĩa là "một
hệ thống các khái niệm nối tiếp được diễn đạt thông qua các hình thức biểu
tượng với các phương tiện mà người ta dùng để liên lạc, ghi nhớ và phát triển
kiến thức và thái độ đối với cuộc sống".
Một trong những học giả nổi tiếng trong lĩnh vực nghiên cứu lý thuyết
liên quan đến lĩnh vực văn hóa truyền thông là Robert Stam Giáo sư tại Ðại
học New York University. Ông là chuyên gia nghiên cứu và giảng dạy về văn
học Pháp, văn học so sánh và về các vấn đề liên quan lý thuyết và lịch sử
phim ảnh. Những công trình quan trọng của ông có liên quan đến văn hóa
truyền thông là các cuốn Subversive Pleasures: Bakhtin, CulturalCriticism,
and Film, (tạm dịch là ''Người làm lật đổ thú vị: Bakhtin, phê bình văn hóa và
phim ảnh''), xuất bản năm 1989; và Unthinking Eurocentrism: Multiculturalism
andthe Media, (tạm dịch: Phản thuyết châu Âu là Trung tâm: Ða văn hóa và
truyền thông) viết chung với Ella Shohat, xuất bản năm 1999. Trong các công
trình này Robert dành sự quan tâm đặc biệt tới những vận động văn hóa gắn
liền với các hình thức truyền thông đại chúng có ảnh hưởng rộng rãi đến đời
sống tinh thần của công chúng hiện đại. Trong mấy chục năm trở lại đây, sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến văn hóa
truyền thông ngày càng tăng lên. Có thể bắt gặp rất nhiều những công trình
nghiên cứu tập trung vào chủ đề văn hóa truyền thông trên rất nhiều khía cạnh
và những cấp độ khác nhau.
Năm 1995, Giáo sư người Mỹ Douglas Kellner cho xuất bản cuốn Văn
hóa truyền thông (Media culture), trong đó tác giả đề cập đến những nội dung
22. 15
khác nhau liên quan đến các phương pháp tiếp cận mới về văn hóa, mối liên
hệ giữa văn hóa truyền thông và đời sống chính trị xã hội, những vấn đề về
chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại trong văn hóa, xã hội và truyền thông.
Trước đó, năm 1989, Giáo sư Vincent Porter công bố trên tạp chí Văn
hóa truyền thông và xã hội một bài viết nhan đề "Việc sắp đặt lại của truyền
hình: tính đa nguyên, tính hợp pháp và thị trường tự do ở Mỹ, Tây Ðức, Pháp
và Vương quốc Liên hiệp Anh" đã chỉ rõ những tác động mạnh mẽ của hệ
thống truyền thông (truyền hình) đối với toàn bộ đời sống văn hóa xã hội ở
Tây Âu trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ 20 (27). Liên tiếp trong những thập kỷ
80 và 90 của thế kỷ 20, nhiều công trình nghiên cứu tập trung về những vấn
đề rất đa dạng của văn hóa truyền thông.
Tác giả Ikegami Akira trong cuốn sách 心をつなぐニュース (tạm dịch
là Thông tin kết nối trái tim) xuất bản tháng 6 năm 2011 tại Tokyo là cảm xúc
của tác giả khi những bài báo, phóng sự truyền hình, phát thanh… đưa tin về
thảm họa sóng thần kép tại Nhật Bản tháng ba năm 2011. Từ những hình ảnh
truyền thông đưa tin, toàn thế giới hướng về Nhật Bản, kinh ngạc vì sức mạnh
tâm hồn của người Nhật Bản. Sức mạnh của truyền thông là sức mạnh của sự
gắn kết, trao truyền giá trị văn hóa của Nhật Bản đến với thế giới.
Chúng ta có thể kể một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu như:
R.Collins, Truyền thông, văn hóa và xã hội, London, Sage Publications, 1986;
Jostenim Gripsrud, Nghề làm báo và văn hóa đại chúng, London, Sage
Publications, 1992; và Hiểu biết về văn hóa truyền thông xuất bản năm
2002…là những tài liệu đáng tham khảo cho luận án.
So với hoạt động nghiên cứu ngoài nước, hoạt động nghiên cứu trong
nước liên quan đến đề tài phong phú hơn rất nhiều. Những tư liệu này chắc
chắn đây là những tiền đề để phát triển đề tài luận án một cách toàn diện dưới
nhiều góc độ khác nhau.
Gần đây, các nhà nghiên cứu trong nước đều thừa nhận rằng, ngoại giao
23. 16
văn hóa là sự tồn tại của các dòng thông tin và tư tưởng xuyên quốc gia, và do
đó đều gắn lĩnh vực này với truyền thông quốc tế. Tư duy đó đã mở ra hướng
nghiên cứu sâu sắc và toàn diện hơn về vai trò của truyền thông trong ngoại
giao văn hóa. Vậy để có thể văn hóa trở thành sức mạnh mềm thì chúng ta sẽ
có câu trả lời là: khi nó được lan tỏa rộng rãi và có sức cuốn hút các chủ thể
khác tự nguyện làm theo. Phạm Thái Việt với cuốn sách Ngoại giao văn hóa cơ
sở và lý luận, kinh nghiệm quốc tế và ứng dụng, Nxb Chính trị- Hành chính, Hà
Nội, 2012, đã phân tích rõ vai trò của truyền thông và thông tin trong chuyển
hóa văn hóa thành sức mạnh. Tác giả đã nhận định rằng, truyền thông sẽ thúc
đẩy quá trình di truyền văn hóa (xét trong nội bộ cộng đồng truyền thống) và
mô phỏng văn hóa (xét trong quan hệ giữa các cộng đồng với nhau).
Từ một góc nhìn khác, Lê Thanh Bình với Giáo trình quan hệ công
chúng chính phủ trong văn hóa đối ngoại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011 khẳng định quan hệ công chúng (public relations, viết tắt là PR) là hoạt
động rộng lớn, chuyên nghiệp lâu dài, áp dụng tất cả các kỹ thuật quan hệ
công chúng thông qua lĩnh vực văn hóa, tác động đến công chúng nước ngoài,
nhằm xây dựng khẳng định vị thế, hình ảnh đất nước, văn hóa quốc gia, phản
bác biểu hiện sai lệch từ công chúng nước ngoài. Bên cạnh đó, nhiều bài viết
của Hà Minh Đức, Đỗ Quang Hào, Hồ Sĩ Vịnh…làm rõ hơn về vai trò của
truyền thông trong giao lưu văn hóa.
Cuốn Văn hoá truyền thông trong thời kỳ hội nhập do Hội Nhà báo
Việt Nam, Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn và Nhà xuất bản
Thông tin Truyền thông phối hợp xuất bản năm 2013 dày 355 trang, nội dung
sách gồm 35 bài tham luận của các nhà báo, nhà khoa học và nhà quản lý báo
chí tại Hội thảo Khoa học Văn hoá truyền thông thời kỳ hội nhập do Hội Nhà
báo Việt Nam và Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn tổ chức. Với
nhiều bài viết tiêu biểu như: Văn hoá truyền thông trong thời kỳ hội nhập
(Nguyễn Văn Kim); Văn hoá truyền thông và truyền thông có văn hoá (Hà
24. 17
Minh Đức); Vài nét về sự định hình văn hoá truyền thông kỹ thuật số dưới góc
nhìn xã hội học (Tống Văn Chung); Thế nào là người làm báo có văn hoá?
(Nguyễn Công Đán); Văn hoá phỏng vấn (Trần Bá Dung); Phóng viên thời
hội nhập (Phạm Thị Mỵ); Văn hoá truyền thông trong môi trường Internet -
Vài điều qua kinh nghiệm của hoạt động VOV online (Nguyễn Thuý Hoa…).
Nhiều tham luận đã cho rằng: văn hoá và báo chí - truyền thông có mối
quan hệ khăng khít, biện chứng. Báo chí là bộ phận của văn hoá nhưng báo
chí cũng sáng tạo ra và phổ biến văn hoá, lưu truyền văn hoá…
Trong tham luận "Báo chí - truyền bá và sáng tạo văn hóa", Vũ Duy
Thông cho thấy khả năng truyền bá và sáng tạo văn hóa của báo chí. Tham
luận nhấn mạnh: Trước đòi hỏi của xã hội và nhu cầu của bạn đọc, bên cạnh
nhiệm vụ đáp ứng các yêu cầu chính trị, báo chí đã trở thành một phương tiện
truyền bá văn hóa ngày càng quan trọng, không thể thiếu được và tự thân nó
đã trở thành một lĩnh vực văn hóa. Ngày nay, với sự ra đời của truyền hình,
internet, có thể nói, không có lĩnh vực nào của văn hóa, báo chí không thể
truyền tải, quảng bá được. Cùng với khả năng truyền tải và do tác động của
khả năng truyền tải, đến lượt mình, báo chí đã trở thành chủ thể sáng tạo
những giá trị mới của văn hóa và là một bộ phận của văn hóa. Chưa nói đến
tác dụng kích thích sáng tạo văn hóa của báo chí đối với các chủ thể khác, chỉ
tính đến vai trò sáng tạo văn hóa của báo chí cũng có thể thấy, báo chí đóng
vai trò là cơ quan đưa ra sáng kiến, tổ chức, hỗ trợ các hoạt động, các sân chơi
văn hóa. Báo chí đã trở thành trường học công cộng để nâng cao trình độ dân
trí, trình độ văn hóa của công chúng, đồng thời định hướng dư luận.
Trong tham luận "Một số vấn đề truyền thông đại chúng, văn hóa đại
chúng và văn hóa truyền thông trong kỷ nguyên kỹ thuật số", Đặng Thị Thu
Hương khẳng định: Văn hóa truyền thông cần được xây dựng trên nền tảng
giá trị và tính liên tục lịch sử, khơi dậy các khả năng sáng tạo của công chúng
và phục vụ công chúng... Không thể đánh đồng văn hóa đại chúng với khuynh
25. 18
hướng thương mại hóa, tầm thường hóa và dung tục hóa nền văn hóa. Do vậy,
truyền thông đại chúng phải đóng vai trò then chốt trong việc phát triển ngành
công nghiệp văn hóa Việt Nam, nâng cao tính đề kháng cho nền văn hóa dân
tộc trước những ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hóa văn hóa, đồng thời hạn
chế tác động tiêu cực của xu hướng thương mại hóa văn hóa và thương mại
hóa báo chí.
Trong bài « Báo chí - loại hình ý thức xã hội đặc thù » của Nguyễn
Ánh Hồng (Học viện Báo chí và Tuyên truyền) cũng đã phân tích rõ vai trò
của báo chí trong quá trình hội nhập quốc tế. Theo tác giả, Báo chí là yếu tố
văn hóa ngoại sinh khi văn hóa Việt Nam cấu trúc lại chính mình trong giao
lưu tiếp biến với văn hóa phương Tây. Theo đó báo chí phải là động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế -xã hội, song song với sự vận hành của cuộc sống.
Nguyễn Ánh Hồng nhận định: Khi đi vào tác phẩm báo chí, biểu tượng văn
hoá lại phát sinh một đời sống riêng, bởi sản phẩm của hoạt động sáng tạo tác
phầm báo chí vừa tuân theo chuẩn mực của quy luật xã hội, vừa là dấu ấn cá
tính sáng tạo độc đáo tự do.
Nghiên cứu Một số vấn đề xung quanh khái niệm văn hóa truyền thông"
của Nguyễn Đức Hạnh in trong Kỷ yếu hội thảo: Văn hóa truyền thông trong
thời kỳ hội nhập do Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn - Đại học
Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2012 đã đưa ra cách tiếp cận mới về văn hóa
truyền thông. Tác giả xem truyền thông như một hoạt động văn hóa đặc thù. Nó
vừa là kết quả của một quá trình văn hóa vừa có sự liên hệ tác động qua lại đối
với các hiện tượng văn hóa khác. Tuy nhiên, hoạt động truyền thông lại tuân
theo những nguyên tắc riêng và mô hình riêng so với mọi lĩnh vực hoạt động
khác mặc dù bất cứ lĩnh vực hoạt động nào của con người cũng đề có quan hệ
với truyền thông (truyền thông là hoạt động phổ biến của xã hội loài người).
Tác giả dẫn ra phát hiện mới của các nhà nghiên cứu liên quan tới phân
tích năng lực truyền thông của con người, theo đó, các nhà nghiên cứu đã ưu
26. 19
tiên lựa chọn phương pháp được gọi là phân tích ngôn bản để phân tích năng
lực này. Phương pháp tiếp cận này thừa nhận quá trình truyền thông mang
tính hợp tác giữa hai hay nhiều người. Các phương pháp tiếp cận lấy ngôn bản
làm làm trung tâm không coi truyền thông là một hệ thống các cách truyền
thông điệp tách biệt từ người này sang người kia. Thay vào đó các phương
pháp này lại coi truyền thông là một quá trình nổi bật lên mà khi tiếp diễn nó
liên tục thay đổi hình thái và mục đích.
Nguyễn Đức Hạnh cũng dẫn quan điểm của nhà nhân loại học Edward
Sapir đưa ra một công thức chung nhất và sớm nhất về phương pháp tiếp cận
truyền thông bằng hành vi: Mỗi mô hình văn hóa và mỗi hành động đơn lẻ
trong hành vi xã hội đều liên quan đến truyền thông xét cả nghĩa đen hay
nghĩa bóng.
Cuốn Truyền thông giao lưu văn hóa với vấn đề bảo vệ lợi ích và an
ninh văn hóa quốc gia do Lê Thanh Bình và Vũ Trọng Lâm đồng chủ biên,
NXB Thông tin và Truyền thông xuất bản năm 2015, tập trung nghiên cứu và
phân tích cơ sở khoa học của truyền thông giao lưu văn hóa với vấn đề bảo vệ
lợi ích và an ninh văn hóa quốc gia.
Cuốn sách cũng tập trung nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia
trong lĩnh vực này.
Bảo vệ lợi ích và an ninh văn hóa quốc gia là một vấn đề đặc biệt quan
trọng đối với mọi quốc gia trên thế giới hiện nay. Sự đe dọa đến lợi ích và an
ninh văn hóa quốc gia sẽ đe dọa trực tiếp đến sự ổn định và phát triển của xã
hội, ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ chính trị.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự giao lưu văn hóa giữa các quốc gia
diễn ra ngày càng mạnh mẽ không chỉ theo chiều rộng mà cả theo chiều sâu,
các quốc gia có cơ hội và điều kiện thuận lợi tiếp thu những tinh hoa của văn
hóa nhân loại, nhưng cũng đứng trước thách thức to lớn trong việc ngăn chặn
và đấu tranh trước sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai, giữ vững bản sắc, giá
27. 20
trị văn hóa dân tộc, nhất là đối với những quốc gia đang phát triển, đẩy mạnh
hội nhập quốc tế như Việt Nam. Để thực hiện được điều đó, trước hết, phải có
nhận thức đầy đủ về lợi ích văn hóa quốc gia và an ninh văn hóa quốc gia thì
tiến hành truyền thông giao lưu văn hóa và có những bước đi phù hợp, bắt kịp
với sự chuyển vần của thời đại.
Cuốn sách cũng đã đưa ra khái niệm truyền thông giao lưu văn hóa như
sau: "Truyền thông giao lưu văn hóa chính là quá trình tương tác, trao đổi các
hoạt động văn hóa, thúc đẩy quá trình giao lưu, tiếp biến các giá trị văn hóa,
quảng bá giá trị văn hóa và tiếp thu các giá trị văn hóa mới. Truyền thông
giao lưu văn hóa là cầu nối giữa các nền văn hóa, tạo điều kiện cho các nền
văn hóa tiếp xúc, trao đổi, hiểu biết nhau và tiếp biến, học hỏi các giá trị văn
hóa của nhau" [6; 21].
Một số sách của các tác giả khác nghiên cứu về truyền thông đại chúng
và ở những mức độ nhất định cũng đã đề cập đến những bình diện khác nhau
của văn hóa truyền thông. Có thể kể tên một số tác phẩm có nội dung liên
quan đến vấn đề này như: Vai trò của truyền thông đại chúng trong giáo dục
thẩm mĩ nước ta hiện nay của tác giả Trần Ngọc Tăng; Báo chí truyền thông
và kinh tế, văn hóa xã hội của tác giả Lê Thanh Bình; Cẩm nang học báo chí
do hai tác giả Tạ Ngọc Tấn và Ðinh Thị Thúy Hằng biên soạn…
1.1.3. Nhận xét chung và những vấn đề luận án tiếp tục cần nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài "Giao lưu văn hóa Việt
Nam - Nhật Bản trong hoạt động truyền thông VOV" đã có những thành tựu
chủ yếu sau:
- Các công trình này đã cung cấp một cái nhìn tổng quát về giao lưu
văn hóa Việt Nam-Nhật Bản qua các thời kỳ lịch sử cận đại và hiện đại, chỉ rõ
những tác động qua lại và đặc điểm của giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản
trong tình hình hiện nay. Đồng thời, đã có một số nghiên cứu cụ thể và truyền
thống về truyền thông trong giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản, nhấn mạnh
vai trò của truyền thông trong giao lưu văn hóa quốc tế và ngoại giao văn hóa
28. 21
hiện nay. Những công trình này đã cung cấp các tri thức cơ bản cho nghiên
cứu sinh về lĩnh vực giao lưu văn hóa, giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản,
truyền thông trong giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản để NCS tiếp thu và
sử dụng trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận án.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này mới dừng lại ở một số vấn đề
lý luận chung mà chưa đi sâu nghiên cứu vấn đề giao lưu văn hóa Việt Nam-
Nhật Bản trong hoạt động truyền thông của Đài tiếng nói Việt Nam (VOV)
như một công trình nghiên cứu chuyên biệt, có hệ thống. Những vấn đề tiếp
tục đặt ra để đi sâu nghiên cứu trong luận án này là:
- Làm rõ những vấn đề giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong bối
cảnh hai quốc gia đang tăng cường đẩy mạnh quan hệ hữu nghị và vai trò của
VOV với hoạt động đẩy mạnh giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản.
- Làm rõ thực trạng giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt
động truyền thông VOV hiện nay.
- Dự báo và khuyến nghị các giải pháp thúc đẩy giao lưu văn hóa Việt
Nam-Nhật Bản trong thời gian tới.
Những công trình nghiên cứu đã công bố của các nhà nghiên cứu trong
nước và quốc tế trên đây là những nguồn tài liệu tham khảo bổ ích và rất cần
thiết để NCS thực hiện luận án này.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.2.1. Cơ sở lý luận
1.2.1.1. Khái niệm giao lưu văn hóa
Thuật ngữ giao lưu văn hóa được sử dụng rộng rãi trong các ngành học
có đối tượng là văn hóa học như nhân học, xã hội học, văn hóa học, dân tộc
học… Tùy theo truyền thống khoa học của mỗi nước mà khái niệm giao lưu
văn hóa được diễn đạt bằng các thuật ngữ khác nhau. Các thuật ngữ này có
hàm lượng ngữ nghĩa chung, nhưng mỗi thuật ngữ đều mang sắc thái riêng về
nghĩa. Chẳng hạn, người Anh ưa dùng chữ "Cultural Change", có thể dịch là
trao đổi văn hóa ; người Tây Ban Nha dùng chữ "Transculturation", nghĩa là
29. 22
di chuyển văn hóa ; người Pháp có thuật ngữ "Interpénétration dé
vivilisations " nghĩa là sự giao nhập giữa các nền văn minh ; người Hoa Kỳ sử
dụng thuật ngữ "Acculturation" có thể dịch là giao lưu văn hóa. Trong tiếng
Nhật "文化交" nghĩa là hoạt động giao lưu văn hoá thông qua các hoạt động
như giới thiệu văn hoá ra nước ngoài, giáo dục ngôn ngữ và các hoạt động
trao đổi nghiên cứu lẫn nhau.
Giao lưu văn hóa là sự trao đổi qua lại những sản phẩm văn hóa giữa
các cộng đồng xã hội khác nhau, ở đây là giữa các cộng đồng dân tộc - quốc
gia với nhau. Sản phẩm văn hóa khởi đầu có thể là kinh nghiệm, tri thức, gọi
một cách khái quát là thông tin. Thông tin ấy được tích lũy từ quá khứ đến
hiện tại, kết tinh thành các giá trị và chuẩn mực xã hội, thị hiếu và sở thích,
thành truyền thống xã hội, gọi chung là hệ giá trị xã hội, quy định cách lựa
chọn tồn tại và gắn liền với nó là thế ứng xử của con người đối với thiên
nhiên, với xã hội và với bản thân. Có thể xem thế giới sản phẩm vật thể cùng
với hệ ứng xử của con người là hình thái ngoại hiện của văn hóa, thì hệ giá trị
xã hội sẽ là nội dung cơ bản của nó. Thừa nhận đơn vị cơ bản của văn hóa là
thông tin (dĩ nhiên là thông tin lan truyền theo các kênh xã hội, không bao
hàm thông tin di truyền theo con đường sinh học) thì sáng tạo văn hóa là sáng
tạo ra những thông tin mới, giao lưu văn hóa là trao đổi thông tin làm cho
lượng thông tin xã hội được nhân lên vô hạn, rồi kết tinh thành ký ức xã hội
và tích lũy trong mỗi con người. Phương Tây có câu : nếu trong hai người mà
mỗi người có một vật đem trao đổi cho nhau, thì mỗi người vẫn có một vật.
Còn mỗi người có một tin đem trao đổi với nhau, thì mỗi người sẽ có hai tin.
Giao lưu văn hóa với biểu hiện của nó là trao đổi thông tin diễn ra
thường xuyên, liên tục, tạo ra mạng lưới của những dòng kênh chuyển tin đi
khắp nơi. Giao lưu văn hóa gắn liền với phương tiện chuyển tải thông tin. Có
thể nhận thấy ba giai đoạn giao lưu văn hóa trong lịch sử loài người, gắn với
ba trình độ phát triển của phương tiện thông tin xã hội.
- Giai đoạn cổ sơ của xã hội nguyên thủy, lưu lượng thông tin còn ít,
30. 23
phạm vi giao lưu hạn hẹp trong một khu vực nhất định. Đó là giao lưu văn
hóa trong các xã hội tiền văn tự.
- Giao lưu văn hóa trong các xã hội có văn tự, thường là xã hội nông
nghiệp, đã xuất hiện các hình thái Nhà nước chiếm hữu nô lệ thời cổ đại. Nhờ
xuất hiện văn tự, các công việc dạy học, viết sách, in văn bản có điều kiện ra
đời. Giao lưu văn hóa có thể thực hiện trong phạm vi rộng lớn của các đế
quốc cổ đại như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Hoa, Hy Lạp, La Mã.
- Giao lưu văn hóa trong xã hội công nghiệp gắn với sự ra đời của các
phương tiện truyền thông đại chúng. Đó là đặc trưng cơ bản của xã hội hiện
đại ; giao lưu văn hóa phát triển theo xu hướng toàn cầu.
Văn hóa là sản phẩm sáng tạo của con người. Mỗi một nền văn hóa tồn
tại và phát triển là nhờ thường xuyên trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác, từ cộng đồng này sang cộng đồng khác. Hay nói cách khác, kế thừa và
giao lưu văn hóa là hai quy luật cơ bản chi phối, quyết định đến sự sinh tồn
của mỗi một nền văn hóa. Nếu quy luật kế thừa là sự khái quát hoá quá trình
phát triển văn hoá diễn ra theo trục thời gian thì giao lưu và tiếp biến văn hoá
nhìn nhận sự phát triển văn hoá trong mối quan hệ không gian với nhiều phạm
vi rộng hẹp khác nhau, tuỳ trình độ phát triển và đặc điểm riêng của mỗi dân
tộc. Nhờ sự tiếp xúc, trao đổi văn hóa giữa các tộc người, giữa các vùng, các
quốc gia mà văn hóa văn hóa vận động như một dòng chảy xuyên không gian
và thời gian. Giao lưu văn hóa được xem là dấu hiệu gắn với tiến bộ xã hội.
Một cộng đồng xã hội càng mở rộng sự giao lưu văn hóa với bên ngoài, hấp
thụ được nhiều tri thức mới lạ, làm cho quỹ thông tin xã hội tăng lên sẽ có
nhiều tiềm năng sáng tạo văn hóa. Ngược lại, cộng đồng sinh hoạt theo kiểu
khép kín, thu mình trong sự tự trị của những mối quan hệ nội giao sẽ làm
không kiệt tiềm năng sáng tạo, cuối cùng không tránh khỏi nguy cơ suy thoái.
Giao lưu văn hoá thực chất là sự gặp gỡ, đối thoại giữa các nền văn
hoá. Quá trình này đòi hỏi mỗi nền văn hoá phải biết dựa trên cái nội sinh để
lựa chọn tiếp nhận cái ngoại sinh, từng bước bản địa hoá nó để làm giàu, phát
31. 24
triển văn hoá dân tộc.Trong tiếp nhận các yếu tố văn hoá ngoại sinh, hệ giá trị
xã hội và tâm thức dân tộc có vai trò rất quan trọng. Nó là "màng lọc" để tiếp
nhận những yếu tố văn hoá của các dân tộc khác, giúp cho văn hoá dân tộc
phát triển mà vẫn giữ được sắc thái riêng của mình.
Cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về giao lưu văn hoá. Giao lưu văn
hoá, đó là hoạt động nhằm trao đổi, giới thiệu những sản phẩm, giá trị văn
hoá, đưa những sản phẩm, giá trị văn hoá đó vào đời sống văn hoá của nhau-
giữa dân tộc này với dân tộc khác, tạo ra cơ hội thực tế cho sự cảm nhận, cảm
thụ, lĩnh hội những đặc sắc văn hoá của nhau [3, tr.144].
Xuất phát từ cách tiếp cận trên, có thể quan niệm giao lưu văn hóa như
sau: Giao lưu văn hoá là qúa trình gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi lẫn nhau giữa nền
văn hoá này với một nền văn hoá khác, tạo nên sự biến đổi của một hoặc của tất
cả các nền văn hóa tham gia vào quá trình gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi đó.
Quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hoá thường diễn ra theo hai hình
thức: giao lưu văn hóa tự nguyện và giao lưu văn hóa cưỡng bức. Đối với
hình thức tự nguyện, thông qua các hoạt động như buôn bán, thăm hỏi, du
lịch, hôn nhân, quà tặng…mà văn hoá được trao đổi trên tinh thần tự nguyện.
Còn hình thức cưỡng bức giao lưu văn hóa thường gắn liền với các cuộc chiến
tranh xâm lược thôn tính đất đai và đồng hoá văn hoá của một quốc gia này
đối với một quốc gia khác. Tuy nhiên, trên thực tế, các hình thức này đôi khi
không thuần nhất. Có khi trong cái vẻ tự nguyện, có những yếu tố mang tính
cưỡng bức. Hoặc trong quá trình bị cưỡng bức văn hoá, vẫn có những yếu tố
tiếp nhận mang tính tự nguyện.
Trong quá trình phát triển của lịch sử và văn hoá, bên cạnh thuật
ngữ "giao lưu văn hóa" còn xuất hiện nhiều thuật ngữ như tiếp biến, tiếp xúc,
giao tiếp liên văn hoá, giao thoa văn hoá, đối thoại văn hoá... Nhưng xét cho
cùng bản chất của chúng là giống nhau, tuy nội dung và hình thức biểu hiện
của chúng lại khác nhau.
Tiếp biến văn hoá: Là quá trình mà trong đó các thành viên của nhóm
32. 25
văn hoá thông qua niềm tin và hành vi của nhóm khác, chuyển từ lối sống
riêng của mình để thích ứng.
Định nghĩa về "tiếp biến văn hoá" được đưa ra ở cuộc họp UNESCO
châu Á tại Téhéran 1978: Tiếp biến văn hoá đó là sự tiếp xúc giữa những
nhóm người khác nhau về hóa, do đó sinh ra những sự thay đổi về văn hoá
(ứng xử, giao tiếp, tư duy…) ở trong mỗi nhóm. Tiếp biến văn hoá là quá trình
một nhóm người hay một cá nhân qua tiếp xúc trực tiếp và liên tục với một
nhóm khác, tiếp thụ (tự nguyện hay bắt buộc, toàn bộ hay từng bộ phận) nền
văn hoá của nhóm này. Hiện nay, khái niệm tiếp biến văn hoá được quan
niệm được quan niệm đơn giản hơn:
Tiếp biến văn hoá là quá trình một cá nhân hay khi tiếp xúc trực tiếp và
liên tục với một cộng đồng hay một cá nhân khác (có hoặc không có ý thức)
hấp thụ nhiều hay ít nền văn hóa của cộng đồng hay các cá nhân này.
Điều đáng lưu ý là, giao lưu và tiếp biến văn hoá trong lịch sử nhân loại
về phương thức, đặc điểm và sự ảnh hưởng nó trong mỗi giai đoạn lịch sử,
không giống nhau. Có hiện tượng văn hoá của cộng đồng này lấn lướt văn hoá
của cộng đồng khác, nhất là trong một không gian và trong quan hệ kinh tế.
Trong một số trường hợp, tiếp biến văn hoá sẽ dẫn đến quá trình đồng hoá.
Tiếp biến văn hoá và đồng hoá văn hoá dẫn đến sự pha trộn, đồng nhất, sự
hoà tan văn hoá của nhóm nhỏ vào văn hoá của nhóm trội hơn.
Tiếp biến thể hiện trội hơn trong quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hoá sự
đấu tranh, chọn lọc khi tiếp thu tiếp nhận, tức thể hiện tính chủ động của chủ
thể trong quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hoá. Trong quá trình đó, giao lưu
văn hoá vừa tiếp xúc và trao đổi dẫn đến sự hỗn dung, sự cộng sinh và hệ quả
là sự tiếp biến. Không có giao lưu, tiếp xúc thì không có tiếp biến, tiếp biến
văn hoá là hệ quả của giao lưu, tiếp xúc văn hoá.
Tiếp xúc văn hoá, đó là sự tìm hiểu, làm quen, khởi đầu cho sự hiểu biết
lẫn nhau, tiến tới xác lập mối quan hệ giữa những chủ thể văn hoá với nhau.
Giao tiếp liên văn hoá, chính là sự giao tiếp giữa các nền văn hoá, giữa
33. 26
các cộng đồng văn hoá khác nhau với những phương thức sống và thế giới
quan khác nhau [3, tr.17].
Trong công trình nghiên cứu về văn hoá của mình Duane Elmer cho
rằng: "Giao thoa văn hoá là một hình thức kết nối giữa các nền văn hoá, tạo ra
sự hoà quyện giữa các giá trị văn hoá bản địa và văn hoá nước ngoài" - Duane
Elmer: Cross- Cultural connections: Steping Out and Fitting in around the
world, Inter Varsity pressm, 2002, p.3. Nhưng quá trình giao thoa văn hoá
không thể để cho tự phát mà phải được định hướng, bởi vì không phải bất cứ
sự giao thoa nào cũng mang lại lợi ích.Giao thoa văn hoá là hiện tượng phổ
biến của lịch sử văn hoá nhân loại và nó có tính qui luật.
Đối thoại văn hoá là thực hiện qua sự tiếp xúc và trong giao lưu giữa
các dân tộc có những nền văn hoá khác nhau về trình độ phát triển, về hoàn
cảnh lịch sử, truyền thống, phong tục, tập quán... Trong đối thoại các nền văn
hoá có thể biểu hiện mình, nâng cao giá trị văn hoá, gây ảnh hưởng tới các
nền văn hoá khác. Đối thoại văn hoá là sự thuyết phục lẫn nhau, là tiếp nhận
những giá trị và bản sắc của nhau, là chấp nhận sự khác biệt ngoài mình với
năng lực và bản lĩnh văn hoá của chính mình bằng "bộ lọc" và hệ quy chiếu
của mình [3, tr.147].
Giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản được hiểu là quá trình gặp gỡ,
tương tác giữa các chủ thể văn hóa (nhân dân hai nước) và các yếu tố của hai
nền văn hóa. Giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản diễn ra trong bối cảnh
hòa bình, hợp tác. Đó là sự giao lưu mang tính chủ động, tự nguyện. Trong
luận án này, VOV được nghiên cứu với tư cách là phương tiện thúc đẩy giao
lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản. Một kênh chuyển tải thông tin và kết nối
giữa hai nền văn hóa.
1.2.1.2. Khái niệm truyền thông
Truyền thông là khái niệm được sử dụng khá phổ biến. Trong tiếng Anh
commuinicaton có nghĩa là sự thông tin hay là sự truyền đạt, giao thiệp, giao
34. 27
tiếp, mối quan hệ bạn bè. Tiếng La tinh communicare có nghĩa là chia sẻ, truyền
tải. Tiếng Nhật là 通信(Tsusin) - có nghĩa là ngôn ngữ truyền đạt thông tin.
Truyền thông là một hiện tượng xã hội phổ biến, ra đời, phát triển cùng
xã hội loài người, tác động đến và lên quan tới mọi cá thể xã hội [9, tr.11].
Tuy nhiên, truyền thông với tư cách là bộ phận đặc biệt của văn hóa, tham gia
tích cực vào sự phát triển văn hóa, truyền thông cũng có sự thay đổi về hình
thức biểu hiện. Từ hình thức biểu hiện đó cách hiểu về truyền thông vô cùng
phong phú.
Theo John R. Hober (1954), truyền thông là qua trình trao đổi tư duy
hoặc ý tưởng bằng lời.
Theo Frank Dance (1970), truyền thông là quá trình làm cho cái trước đây
là độc quyền của một vài người trở thành cái chung của hai hoặc nhiều người.
Cũng có quan niệm cho rằng: "Truyền thông là sự trao đổi thông điệp
giữa các thành viên hay nhóm người trong xã hội, nhằm đạt sự hiểu biết lẫn
nhau" [20, tr.8].
Nếu truyền thông với tư cách là kết quả của sự tác động lẫn nhau thì
việc mang lại những tính chung hoặc sự riêng biệt của thông tin thường rất ít.
Trong trường hợp ở Người, việc truyền tải trạng thái tâm lý của bản thân đến
người khác không chỉ là ở trạng thái động mà tùy thuộc vào thông tin mà
người khác tiếp nhận cũng sẽ bao gồm sự thấu hiểu trạng thái tâm lý của đối
tượng hay nói giản đơn hơn là sự thấu hiểu người khác.
Có thể hiểu: Truyền thông là một quá trình trao đổi thông tin giữa bên
truyền thông tin và tiếp nhận thông tin thông qua ngôn ngữ, chữ viết, hay sự
biểu hiện trạng thái tâm lý, biểu tượng...nhằm mục đích lý giải lẫn nhau, tác
động lẫn nhau trong qua trình biến đổi của xã hội.
Khi xã hội phát triển, con người càng tham gia nhiều vào các hoạt
động xã hội. Trong quá trình tham gia này, con người đòi hỏi sự giao tiếp
với những qui mô lớn hơn nhờ sự giúp đỡ của các phương tiện kỹ thuật
35. 28
thông tin - hay còn gọi là các phương tiện thông tin đại chúng (mass media).
Nghĩa là sự giao tiếp này ở mức độ rộng rãi, mang tính xã hội. Truyền thông
đại chúng là hoạt động giao tiếp xã hội rộng rãi, thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng.
Truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội đặc thù [44, tr.45], bao
gồm các yếu tố sau:
Hoạt động truyền thông (chẳng hạn như săn tin, quay phim, chụp ảnh...
rồi viết bài, biên tập, và cuối cùng là xuất bản hay phát sóng).
Các nhà truyền thông (nhà báo, kỹ thuật viên...của các loại hình báo
chí: Báo in, phát thanh, truyền hình, Internet).
Đại chúng (bao gồm các tầng lớp công chúng trong xã hội).
Trong lịch sử, không phải lúc nào cũng có đầy đủ các loại hình truyền
thông như bây giờ. Có thể nói đây là giai đoạn có đầy đủ các loại hình truyền
thông. Các loại hình truyền thông đại chúng bao gồm: Báo in, Phát thanh,
Truyền hình, Sách, Quảng cáo, Điện ảnh, Ảnh báo chí…Phát thanh (báo nói)
là một trong những loại hình của truyền thông đại chúng, là đối tượng, phạm
vi nghiên cứu của đề tài luận án mà NCS nghiên cứu.
Phát thanh tuy không phải là loại hình truyền thông ra đời sớm, nhưng
sự ra đời của nó đã đánh dấu bước phát triển của công nghệ mới. Vào cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX, A.X.Pôpốp đã phát minh ra vô tuyến điện, tạo ra một
loại hình truyền thông mới đó là phát thanh (Radio). Sự ra đời của Radio làm
bùng nổ truyền thông và nó trở thành công cụ thể hiện quyền lực chính trị vô
cùng lợi hại. Báo phát thanh dùng thế giới âm thanh sống động và vô cùng
phong phú (lời nói, âm nhạc, tiếng động…) thông qua các phương tiện kỹ
thuật để truyền tải thông tin.
Phát thanh là kênh truyền thông đại chúng sử dụng kỹ thuật sóng điện
từ và hệ thống truyền dẫn (Radio) truyền đi những âm tác động trực tiếp vào
thính giác người tiếp nhận [15, tr.179]. Tuy nhiên, do sự phát triển của công
nghệ thông tin, báo phát thanh Internet, Radion online… có những đặc trưng
khác nhau nên định nghĩa cũng khác nhau.
36. 29
Lois Baird, tác giả của cuốn "Hướng dẫn sản xuất chương trình phát
thanh", nhìn nhận rất khái quát về báo phát thanh như sau:
Radio là loại hình tạo ra hình ảnh, sự kiện trong tâm trí người nghe
Radio là thân mật, riêng tư (không loan báo)
Radio dễ tiếp cận, dễ mang theo
Radio là trực tiếp
Radio có ngôn ngữ riêng - nghiêng về cách nói đời thường
Radio gợi lên cảm xúc
Radio làm công việc thông tin giáo dục rất hiệu quả
Radio là âm nhạc
Tuy có những hạn chế riêng, nhưng phát thanh là sự thể hiện sự kết hợp
chặt chẽ giữa các nhà khoa học, kỹ sư chế tạo, nhà doanh nghiệp với công chúng
truyền thông. Ngày nay, do kỹ thuật số phát triển nên phát thanh có sức cạnh
tranh mạnh mẽ với các loại hình truyền thông khác. Trên thế giới, báo phát thanh
được ưa chuộng bởi sự nhanh nhạy của thông tin. Ở Thụy Sĩ, có những thời
điểm 70% dân số nghe Radio. Còn ở Mỹ, thì số lượng đầu thu Radio ở Mỹ đã
vượt quá dân số Mỹ. Đặc điểm nổi bật của công chúng là tính chuyên biệt cao,
và xu hướng tập trung tiêu dùng vào sóng FM. Chúng ta thử xem nhu cầu sử
dụng Radio của người Mỹ theo bảng 1.1 [57, tr.138].
Bảng 1.1: Nhu cầu sử dụng Radio của người Mỹ
Chương trình Độ tuổi Giới tính
Khu vực
(thành thị/nông thôn)
Người đương thời 24-54 Nữ Cả hai
Nhạc Rock 18-24 Nam Thành thị
Nhạc nhẹ 35+ Cả hai Cả hai
Nhạc mới 12-34 Cả hai Cả hai
Nhạc đồng quê 18-49 Cả hai Nông thôn
Chương trình phát cho lái xe 35 Cả hai Cả hai
Thời sự bình luận 25-34 Cả hai Thành thị
Tôn giáo 55+ Nữ Nông thôn
37. 30
Thành thị đương thời 12-34 Cả hai Thành thị
Nguồn: [57, tr.138].
Qua bảng thống kê trên, có thể thấy xu hướng tiêu dùng Radio hướng
đến mục tiêu giải trí cao hơn so với những loại hình khác, nhất là khi sóng
FM mang lại hiệu quả âm thanh không kém gì so với những bản ghi âm nhạc
theo kỹ thuật số, như đĩa CD, VCD…
Ở Việt Nam báo phát thanh (Đài Tiếng nói Việt Nam) đã có lịch sử 72
năm phát triển (thành lập ngày 7 tháng 9 năm 1945) với hệ thống phát thanh
toàn quốc, 63 đài phát thanh tỉnh, thành phố, 600 đài phát thanh huyện, phủ
sóng 98% dân số, đồng thời cũng là phương tiện duy nhất phủ sóng biển
Đông. Đài Tiếng nói Việt Nam là công cụ tuyên truyền quan trọng của Đảng
và Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực, vũ khí đấu tranh với những "diễn biến
hòa bình", "Cách mạng Cam"… nhằm xây dựng một quốc gia phát triển đóng
góp vào nền hòa bình, thịnh vượng chung của thế giới.
Bước sang thế kỷ XXI - được coi là thế kỷ của công nghệ thông tin,
một số loại hình truyền thông mới như Internet xuất hiện có thể làm giảm vai
trò của phát thanh ở góc độ nào đó, tuy nhiên trên thế giới phát thanh vẫn có
vị trí độc tôn của nó. Ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới, phát thanh
vẫn là loại hình truyền thông có tầm phủ sóng xa nhất, rộng nhất. Đặc biệt đối
với những vùng xa xôi, vùng núi… phát thanh vẫn đến và là nguồn cảm xúc
đầy đặn nhất của mọi người.
1.2.1.3. Vai trò của giao lưu văn hóa đối với sự phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội
Vai trò của giao lưu văn hoá thể hiện ở những nội dung sau đây:
Thứ nhất, tiếp thu chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ của các dân tộc khác
Theo Phan Ngọc thì không có văn hoá tự lực cánh sinh và cũng không
có văn hoá tự túc. Cũng theo ông có hai kiểu tiếp xúc văn hoá là tiếp xúc chạy
theo cái đồ vật, cái cặn bã của văn hoá người ta, và tiếp xúc là học tập người
38. 31
ta để nắm được chính cái tinh thần đã tạo nên được một văn hoá cao hơn
mình. Rõ ràng giao lưu văn hoá vừa là để phát huy truyền thống dân tộc, vừa
là để làm mạnh dân tộc. Cũng theo ông bản sắc văn hoá chính là nền tảng của
giao lưu văn hoá. Tuy nhiên bản sắc này trong quá trình giao lưu sẽ trở nên
phong phú hơn, đẹp đẽ hơn và toàn diện hơn [37, tr.137].
Đến nay, tại Việt Nam, những món ăn Nhật Bản như Tempura (món
tẩm bột rán), cá sống, cơm cuộn… đã trở thành những món ăn yêu thích của
người dân Việt Nam, và ngược lại tại Nhật Bản, mỗi khi nhắc đến Việt Nam
là người dân sẽ nói ngay tới món nem cuốn, bánh xèo, phở Việt Nam. Như
vậy, rõ ràng những yếu tố tinh túy của xã hội, con người thường được học hỏi
một cách nhanh chóng.
Thứ hai, thấu hiểu các nền văn hóa.
Mỗi một dân tộc, quốc gia tự thấu hiểu văn hóa tự thân, sau đó lại thấu
hiểu giá trị của các nền văn hoá khác. Từ đó loại trừ những cái không phù hợp để
giao lưu, loại bỏ những cái xấu. Tuy nhiên, có những trường hợp văn hóa độc
hại lại được lan nhanh trong xã hội hơn cả những cái tốt đẹp. Ở Nhật Bản coi
thấu hiểu văn hóa khác mình là một yếu tố cần thiết để phát triển chính mình.
Bản báo cáo Hành tinh đa văn hoá của Nhóm chuyên gia quốc tế thuộc
UNESCO đã chỉ rõ: Tương lai của nhân loại không thể được mô tả như là sự
thống nhất mà không có đa dạng hay đa dạng mà không có thống nhất. Thách
thức đối với tất cả những người đương thời là xây dựng một thế giới như vậy,
và trên tất cả là thách thức đối với những nền văn hoá làm cơ sở cho thế giới
quan và hệ giá trị của họ". Trong xu thế toàn cầu hoá thế giới ngày nay, điều
cần tránh là việc biến các nền văn minh đa dạng thành sự đồng quy về một
nền văn minh độc nhất và khiến cho các nền văn hoá trở nên thuần nhất.
Chúng ta nên duy trì sự đa dạng hiện tồn của các nền văn minh và văn hoá.
Mặt khác, điều cần thiết là thúc đẩy đối thoại giữa các nền văn minh khác
39. 32
nhau, gia tăng sự hiểu biết lẫn nhau, loại bỏ những hố sâu ngăn cách nào đó,
hoà giải những đối kháng, chống lại "xung đột giữa các nền văn minh", từ đó
hiện thực hoá sự thống nhất của các nền văn minh và văn hoá cũng như thực
hiện toàn cầu hoá về nhân tính dựa trên cả sự đa dạng và sự thống nhất của
các nền văn minh thế giới. Giao lưu liên văn hoá hợp lý chính là con đường
quan trọng để đạt được mục tiêu cao quý này.
Khổng Tử, triết gia Trung Quốc cổ đại, đã từng nói: "hài hoà trong đa
dạng". Điều đó có nghĩa là chúng ta nên tôn trọng những nét dị biệt và đa
dạng của mình, tìm kiếm sự chung sống hoà hợp thông qua giao lưu với người
khác để đáp ứng sự quan tâm và những lợi ích chung của con người. Văn
minh và văn hoá đều có những đặc điểm của sự đa dạng và sự đồng nhất.
Kiểu đồng nhất này là đồng nhất động, dựa trên sự đa dạng. Điều này có hai
nghĩa: Thứ nhất, đó là bản sắc của nền văn hoá dân tộc trong nền văn minh
nhất định; Thứ hai, những truyền thống khác nhau của các nền văn minh và
văn hoá thực hiện khả năng bù trừ xác định hay khả năng văn hoá tích cực
hướng đến những mục tiêu và giá trị của sự tiến bộ chung trong sự giao lưu
hợp lý của mình.
Sự giao lưu liên văn hoá hợp lý phải là sự giao lưu song phương và dựa
trên sự thấu hiểu liên văn hoá lẫn nhau, trong đó có việc giải thích cho nhau
những "văn bản" trong các nền văn hoá khác nhau. Điều này có nghĩa là "văn
hoá bản địa" với tính cách là "cái bản ngã" và "văn hoá bên ngoài" với tính
cách là "cái khác" đều ý thức về đối tác như là cái "khác" xa lạ và siêu việt
khỏi cái "ngã", tiến vào cái "khác" để phản ánh nền văn hoá của chính mình trong
cái xa lạ. Cả cái "ngã" và cái "khác" đều hiển hiện ra trong sự tương phản lẫn nhau.
"Văn hoá bản địa" và "văn hoá bên ngoài" đều có thể trở nên kỳ vĩ trong sự lý giải
mới về mình. Trong hình thức giao lưu liên văn hoá biện chứng này, một sự "đồng
tâm chéo" nào đó, được hiểu như một dạng liên văn hoá tích cực, có thể trở thành
40. 33
hiện thực. Đó là một sự "đồng tâm" bao hàm khác biệt, một kiểu tương đồng trong
dị biệt, một sự đồng nhất động dựa trên tính đa dạng. "Văn hoá bản địa" và "văn
hoá bên ngoài" đều có thể siêu việt khỏi bản thân trong sự thấu hiểu lẫn nhau và
đạt được tri thức mới mang tính cách tân.
Bất kỳ nền văn hoá nào cũng không thể gạt bỏ truyền thống văn hoá đã
tiến hoá ở mức độ nhất định. Sự thấu hiểu liên văn hoá cũng bao hàm sự thấu
hiểu lẫn nhau giữa hai kiểu truyền thống văn hoá động là "văn hoá bản địa" và
"văn hoá bên ngoài". Chú giải học triết học của H.G.Gadamer khẳng định
rằng, truyền thống - với tính cách là hợp lưu của những định kiến được lưu
giữ bởi lịch sử - chính là tiền đề cho hành vi thấu hiểu mang tính người, đồng
thời con người cũng tham dự vào sự tiến hoá của truyền thống thông qua hoạt
động lý giải và thấu hiểu sáng tạo của họ. Chúng ta có thể áp dụng quan điểm
này để lý giải rằng, hai truyền thống khác nhau của "văn hóa bản địa" và "văn
hoá bên ngoài" đều đạt được sự hợp lưu và hoà hợp của hai tầm nhìn trong sự
thấu hiểu lẫn nhau của chúng, do đó thúc đẩy sự tiến hoá của chính mình
trong sự giao lưu liên văn hóa.
Tính liên văn hoá là một thuộc tính bản chất, là chức năng của thấu hiểu
liên văn hoá và cũng là kết quả của giao lưu liên văn hóa. Một mặt, nó biểu
thị một vai trò trung gian xuất hiện trong sự tương tác và lý giải đối với "văn
hoá bản địa" và "văn hoá bên ngoài", nó giống như quy tắc "trung dung" của
Nho giáo. Mặt khác, nó có nghĩa là hai nền văn hoá khác nhau tạo nên sự
"đồng tâm chéo" nào đó trong khi cùng lý giải, xây dựng lẫn nhau và thực
hiện sự đồng nhất trong đa dạng văn hoá. Giao lưu liên văn hoá làm cho các
quan hệ phức tạp của sự tương đồng và dị biệt đan xen vào nhau, biểu hiện
thành một số phương thức như tính bù trừ, tính cân xứng hay bất hoà và bất
cân xứng. Nếu không có giao lưu, sự bất hoà và bất cân xứng thái quá - những
cái tiêu biểu cho tính liên văn hoá tiêu cực - rất dễ dẫn đến xa cách, thậm chí
là xung đột giữa các nền văn hoá khác nhau. Việc tìm kiếm những tương đồng
41. 34
trong khi vẫn duy trì khác biệt, "hài hoà trong đa dạng", nói lên tính liên văn
hoá tích cực, hợp lý, được hiểu như là mục tiêu đích thực của giao lưu liên
văn hoá. Điều này cũng có nghĩa là thực hiện sự đồng nhất của các nền văn
minh đa dạng, thúc đẩy sự cộng tồn hài hoà và tiến bộ chung của các nền văn
minh thế giới.
Chúng ta hãy xem xét một thí dụ: những học thuyết triết học của Khổng
Tử và Xôcrát, vốn có ảnh hưởng sâu sắc đối với truyền thống văn minh Trung
Quốc và phương Tây, cho đến ngày nay có cả sự đồng nhất lẫn tính đặc thù.
Điều đó nói lên rằng, cả truyền thống triết học Trung Quốc lẫn truyền thống
triết học phương Tây trong hai nền văn minh đều có thể thấu hiểu, chuyên chở
lẫn nhau và đều thực hiện được tính liên văn hoá tích cực trong giao lưu liên
văn hoá.
Thứ ba, giới thiệu, quảng bá lịch sử, đất nước, con người, văn hoá của
dân tộc, quốc gia ra thế giới.
Các hoạt động giao lưu văn hóa cũng là cơ hội để mỗi quốc gia, khu
vực giới thiệu văn hóa tự thân ra bên ngoài. Thông qua đó, mỗi nền văn hóa
quốc gia, dân tộc đó sẽ được tiếp nhận, tăng cường hiểu biết lẫn nhau đóng
góp vào sự phát triển chung của xã hội sở tại và thế giới.
Điển hình ví dụ như Lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản sau 9 lần tổ chức
đến nay đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu đối với người Nhật
Bản và cộng đồng người Việt Nam tại Nhật Bản. Qua những Lễ hội như thế,
sự hiểu biết của người Nhật Bản về nền văn hóa Việt Nam sẽ dần được nâng
lên, và ngược lại, người Việt Nam cũng sẽ hiểu hơn về mối quan tâm của
người Nhật Bản là như thế nào.
Đẩy mạnh hoạt động ngoại giao văn hóa là "thời cơ vàng" để chúng ta
học hỏi được nhiều điều hay, tiếp thu được nhiều điều tốt, chọn lọc được
những tinh hoa văn hóa của các quốc gia, dân tộc trên thế giới để làm giàu và
phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt Nam, thực hiện đúng phương châm
42. 35
"Đưa văn hóa Việt Nam ra thế giới và đưa văn hóa thế giới đến Việt
Nam". Đối với nước ta hiện nay, tăng cường ngoại giao văn hóa là một trong
những việc làm thiết thực để góp phần thực hiện thắng lợi "Đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất
nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới". Mặt khác, thực hiện tốt các hoạt động ngoại giao
văn hóa còn tạo ra chất xúc tác thúc đẩy ngoại giao chính trị và ngoại giao
kinh tế không ngừng phát triển, xây dựng công cụ quảng bá mạnh mẽ nền văn
hóa Việt Nam, nhất là quảng bá các giá trị di sản văn hóa của dân tộc ta đến
với bạn bè quốc tế.
Thứ tư, giao lưu văn hoá thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển, thúc đẩy sự
sáng tạo của văn hoá.
Nói văn hóa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế là nói đến tính chất
chính trị của nền kinh tế, là nói nền kinh tế đó thuộc về ai và phục vụ cho ai.
Nền kinh tế lấy văn hóa và con người làm động lực và mục tiêu đòi hỏi phải
thường xuyên quan tâm đến hiệu quả xã hội của hoạt động kinh tế, coi phát
triển kinh tế là điều kiện để phát triển và hoàn thiện con người, phát triển và
hoàn thiện xã hội.
Nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới, trong chính sách phát triển của
mình đều gắn tăng cường giao lưu văn hóa với phát triển kinh tế xã hội, thúc
đẩy sự sáng tạo văn hóa.
Trong cuộc hội thảo "Intercultural Competence as a Cornerstone of
Innovation" (Tạm dịch: Mối giao thoa văn hóa là nền móng cho sự sáng tạo),
ông Mark A.Ashwill - Nhà sáng lập Công ty Capstone cho rằng: "Những
người có nhu cầu kết nối, giao thoa văn hóa sẽ có cơ hội sáng tạo, đột phá
43. 36
nhiều hơn".
Theo ông, để làm được điều đó, chúng ta nên tương tác và trao đổi kinh
nghiệm với những người khác, tăng cường học tập trong nhà trường, thúc đẩy
quá trình tự học, trau dồi ngoại ngữ, thường xuyên đi du lịch nước ngoài, du
học và làm việc ở các nước trên thế giới.
Chính sự cọ sát của chúng ta với một môi trường văn hóa khác nào đó
sẽ giúp chúng ta có sự so sánh, từ đó rút ra những ý tưởng mới cho sự phát
triển văn hóa.
Ở Việt Nam, phương châm "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội", đã
được thực hiện trong nhiều năm nay và đạt được những kết quả quan trọng.
Thứ năm, giao lưu văn hoá cũng có thể dẫn tới sự áp đặt, kìm hãm sự
phát triển văn hoá.
Trong lịch sử phát triển văn hoá của Việt Nam, chúng ta đã trải qua
những cuộc tiếp xúc văn hoá với bên ngoài. Có ba cuộc tiếp xúc văn hoá: Lần
thứ nhất là thời kỳ tiếp xúc văn hoá Đông Nam Á mà chủ yếu là từ Ấn Độ
sang, lần thứ hai là tiếp xúc với văn hóa Trung Quốc, và lần thứ ba là tiếp xúc
với nền văn hoá phương Tây. Ở cả ba thời kỳ này, thật tuyệt vời khi nền văn
hoá của chúng ta đã tiếp thu được những tinh hoa từ bên ngoài, làm giàu
thêm, phong phú thêm nền văn hoá dân tộc, và hoàn toàn không bị "lai căng".
Sau này khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, thì một lần
nữa nền văn hoá Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới, thời kỳ văn hoá
của độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Văn hoá lúc này là văn hoá của
sự giải phóng con người, văn hoá của thời kỳ hướng tới xây dựng đất nước
giàu mạnh, con người bình đẳng, xã hội tiến bộ. Và năm 1986 khi chúng ta
thực hiện công cuộc đổi mới bằng những việc cần làm ngay của NVL, thì văn
hoá của chúng ta gắn với sự nghiệp đổi mới. Nó đòi hỏi một tư duy mới đáp
ứng nhu cầu của công cuộc đổi mới đất nước. Và hiện tại khi toàn cầu hoá
44. 37
đang diễn ra mạnh mẽ và Việt Nam đang hộ nhập sâu rộng, thì giao lưu văn
hoá lại càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
1.2.1.4. Tác động của truyền thông đối với giao lưu văn hóa
Trong thời đại bùng nổ thông tin, kinh tế tri thức đóng vai trò quan
trọng đối với sự phát triển mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì lĩnh vực văn
hóa (Culture) có những thay đổi, liên quan nhiều đến khía cạnh truyền thông
(Communication) và tác động mạnh đến nền báo chí, quan hệ quốc tế đương
đại (kể cả hoạt động truyền thông đối ngoại) mọi quốc gia. Trên thế giới, nhất
là các cường quốc, người ta nhấn mạnh nghiên cứu tổng thể các hoạt động
truyền thông, các phương tiện truyền thông (Media), văn hóa, hiệu quả, hiệu
ứng xã hội ở các quy mô khác nhau.
Truyền thông có những tác động mạnh mẽ tới giao lưu văn hóa. Những
tác động thể hiện ở những điểm như; làm cho chủ thể hiểu mình là ai và muốn
gì, gắn với giao lưu văn hóa trong việc xây dựng quyết sách, triển khai hoạt
động giao lưu văn hóa [6, tr 134].
Hiểu mình là ai và muốn gì ?
Trong thế giới hiện nay, hình ảnh quốc gia của một đất nước luôn luôn
tỷ lệ thuận với sức ảnh hưởng và hấp dẫn văn hóa của quốc gia đó trên thế
giới. Sức ảnh hưởng, sức hấp dẫn lại tương đồng với khả năng cung cấp sản
phẩm văn hóa cho thế giới của quốc gia đó. Do đó yếu tố quyết định một quốc
gia có phải cường quốc văn hóa hay không, nhìn chung không phụ thuộc vào
lịch sử nước đó dài hay ngắn, tài nguyên văn hóa phong phú hay nghèo nàn,
cũng không phụ thuộc vào diện tích nước đó lớn hay nhỏ mà phụ thuộc vào
sức cống hiến về văn hóa cho thế giới của nước này. Hơn nữa, chính là sức
ảnh hưởng, sức hấp dẫn và sức cống hiến này quyết định hình ảnh quốc gia
nước đó, thậm chí là đị vị trên trường quốc tế của nước đó.
Một lợi ích hiện thực rõ rệt nhất của việc chế định chiến lược tổng thể
văn hóa quốc gia là: tập hợp sự đồng lòng và tính sáng tạo của toàn thể quốc
45. 38
dân ở mức độ lớn nhất, phấn đấu thực hiện mục tiêu tổng thể của quốc gia. Các
quốc gia mới phát triển cần học tập kinh nghiệm thành công của những nước đi
trước, xác lập chiến lược tổng thể quốc gia xây dựng nước có tầm vóc lớn về
văn hóa và hệ thống toàn bộ chiến lược văn hóa quốc gia, để từ đó trong thời
gian ngắn, trên các phương diện như năng lực sáng tạo văn hóa, sức mạnh mềm
văn hóa và năng lực quản lý quốc gia…ở vào vị trí nhất định trên các bậc thang
quốc tế, đặt cơ sở vững chắc chi việc xây dựng các cường quốc văn hóa.
- Tác động tinh tế, nhẹ nhàng, thân thiện.
Các nhà hoạch định chính sách truyền thông giao lưu văn hóa, thậm chí
đường lối tuyên truyền của những quốc gia trên thế giới, hiểu rất rõ rằng: bất
kỳ dân chúng của nước nào, từ tận đáy lòng, họ đều phản cảm với việc người
khác tỏ ra ngạo mạn, phê bình chỉ trích, dạy mình làm cái này, không được
cái kia, vì thế, thậm chí gắng sức tránh những cụm từ như tuyên truyền,
truyền thụ… mà thay vào đó là quan hệ công chúng PR. Họ không thích chính
phủ nước khác trực tiếp gây ảnh hưởng, mà lạu sẵn sàng tiếp tục sự giao lưu
song phương mang màu sắc văn hóa dân gian, màu sắc văn hóa tương đối
đậm đà, đại chúng, do đó rất nhiều chính phủ lựa chọn giải pháp thông qua
con đường giao lưu văn nghệ dân gian, giao lưu văn hóa lặng lẽ từ bên ngoài.
Phương pháp truyền thông giao lưu văn hóa nhằm mục đích chiến lược của
quốc gia hay chỉ tuyên truyền đối ngoại đều cần sự tinh tế, nhẹ nhàng, khôn
khéo. Đó cũng chính là biến tuyên truyền thô thiển, lộ liễu, hành chính, phong
trào thành truyền thông giao lưu văn hóa bài bản, đậm tính văn hóa, nhân văn,
thân thiện, hữu nghị mà vẫn kín đáo.
Đa số công chúng đều thích bàn luận, tranh cãi, dân chủ và không thích
sự dạy đời và rao giảng cứng nhắc và đó cũng là bản tính của mỗi con người.
Tương tự như vậy truyền thông trong giao lưu văn hóa dù vì lợi ích quốc gia,
dân tộc, nếu trong trường hợp vẫn phải nhỏ nhẹ một chút, hài hước hóm hỉnh
một chút, mềm mỏng với màu sắc văn hóa phong phú, bớt đi giọng điệu cứng