1. VĂN HÓA
Thủ quyển Trúc Lâm Đại Sĩ xuất sơn đồ:
Đôi điều khảo nghiệm NGUYỄN NAM
Lời tòa soạn: Thông tin về bức thư họa Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ mang lại niềm tự hào cho người Việt về một vị
danh nhân văn hóa của Việt Nam nhưng cũng có những ý kiến phân vân về tính xác thực của bức thư họa. Nhận
được bài viết do tác giả Nguyễn Nam từ nước ngoài gửi về cung cấp thêm một số chi tiết liên quan đến bức thư họa,
Ban Biên tập Văn Hóa Phật Giáo cũng đã dò tìm trên mạng internet để tải xuống nội dung bức tranh khi còn được
tàng trữ tại Liêu Ninh tỉnh Bác vật quán 辽宁省博物馆. Chúng tôi xin được giới thiệu với quý độc giả toàn văn bài
viết của Tiến sĩ Nguyễn Nam dưới đây để rộng đường dư luận.
T
ừ sau thông tin về cuộc đấu giá bản phục chế cuốn tròn lại, có thể đặt trên bàn, thuận chiều mở ra để
bằng kỹ thuật cao bức thư họa lịch sử Trúc xem. Về căn bản, thủ quyển bao gồm các phần chính là
Lâm Đại Sĩ xuất sơn đồ với giá vượt ngoài sức dẫn thủ (viết tiêu đề tác phẩm), họa tâm (phần tranh
tưởng tượng (1.8 triệu USD)1, công chúng chính) và đà vĩ (phần nối theo tranh, gồm các bài bình
trong nước đã có dịp tìm xem tác phẩm luận của văn nhân về nội dung - nghệ thuật của tranh).
nghệ thuật này trên mạng internet. Sau khi vui mừng Hai phần dẫn thủ và đà vĩ thường được viết với thư pháp
đón nhận hình ảnh Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258- rất đẹp, hợp với tranh thành chỉnh thể thư (pháp) - (hội)
1308), người xem không khỏi băn khoăn tự hỏi: tác họa. Cuộn thư - họa Trúc Lâm Đại Sĩ có tổng chiều dài
phẩm trước mắt có thể “nói” gì với người hôm nay về hơn 9m (trong đó, riêng phần tranh dài hơn 3m). Theo
những việc đã qua? Và những câu chuyện quá khứ ấy dòng chữ ở cuối tranh, tranh được Trần Giám Như vẽ
còn có giá trị gì trong hiện tại? năm 1363. Trần Giám Như là một họa sư sống ở Hàng
Trúc Lâm Đại Sĩ xuất sơn đồ được bảo tồn đến nay dưới Châu, nhưng nguyên quán của ông và duyên do sáng
hình thức thủ quyển. Đây là một thuật ngữ trong nghệ tác bức Trúc Lâm Đại sĩ hiện nay vẫn chưa rõ. Tuy nhiên,
thuật hội họa - thư pháp Trung Hoa, chỉ các tác phẩm qua các bài dẫn, ký, bình, tán trong phần đà vĩ, có thể
8 VÙN HOÁ A PHÊÅ T GIAÁ O 15 - 11 - 2012
2. khẳng định bức tranh được một (nhóm) người Việt tổ vĩ và cả các nhà sưu tập ở trên. Các triều Càn Long, Gia
chức vẽ vào cuối đời Nguyên. Khánh, Tuyên Thống nhà Thanh đều có ấn - tỷ đóng trên
“Đại Sĩ” là danh hiệu gọi chung các vị Bồ-tát, các bậc tranh. Tuy nhiên, việc các nhà sưu tập tư nhân và triều
Thanh văn, hay Phật. Bức tranh vẽ cảnh Đại Sĩ Trúc Lâm, đình nhà Thanh tu bồi tranh cũng đã có ảnh hưởng nhất
theo thỉnh cầu của con là vua Trần Anh Tông (1276-1320), định đến hình thức nguyên thủy của tác phẩm. Bị vua Phổ
xuống núi truyền tâm giới Bồ-tát cho nhà vua và triều thần Nghi tuồn ra khỏi hoàng cung cùng với các trân phẩm
năm 1304. Do được hoàn thành khá lâu sau khi sự kiện này khác, và bị bán đi trên đường tháo chạy của vị hoàng đế
xảy ra, tranh chắc hẳn được thực hiện theo lời bình nghị của cuối cùng này, đến năm 1964 cuộn thư - họa Trúc Lâm Đại
người Việt tổ chức vẽ, dựa trên suy tưởng của những người Sĩ xuất sơn đồ mới được thu mua lại và đưa vào lưu trữ tại
đời sau và thể hiện bằng nét bút ít nhiều mang tính ước lệ. Bảo tàng Liêu Ninh cho đến nay.
Qua khảo sát, có thể thấy dấu ấn của hội họa đời Tống (đặc Nghệ nhân sản xuất mực đời Minh Trình Quân Phòng
biệt triều Nam Tống) và đời Nguyên trên tranh. Những tình nổi danh với việc chế tác ra những thỏi mực có chất lượng
tiết thể hiện trong tranh cho thấy nhận thức của người vẽ đặc biệt, đúc khắc với tiểu phẩm hội họa mang ý nghĩa triết
và người tổ chức vẽ về tinh thần dung hợp Tam giáo (Nho - học của các họa sư đương thời. Dựa trên tranh Trúc Lâm Đại
Phật - Đạo) của Phật hoàng qua hình tượng của nhà vua Anh Sĩ, Quân Phòng đã đúc nên thỏi mực hình nghiên mực độc
Tông và triều thần nghênh đón, qua hình ảnh tăng đồ tháp đáo, đúc khắc các họa cảnh từ trong tranh, mặt dưới khắc
tùng ngài và hạc tiên được chăn dắt đi cùng; về hòa hợp khu bài tán của Tăng Khải - một tác giả trong phần đà vĩ. Tác
vực với hình vẽ đạo sĩ Trung Hoa Lâm Thời Vũ cưỡi trâu theo phẩm nghệ thuật này của họ Trình về sau được mô phỏng,
sau; về nguồn gốc sâu xa của thiền phái Trúc Lâm qua hình đúc thành các nghiên mực Trúc Lâm Đại Sĩ bằng châu sa,
ảnh tăng nhân Tây Vực; và về tầm quan trọng của tâm từ bi bằng đồng, bằng đá. Sức sống của hình tượng Trúc Lâm
trong việc trị nước qua sự kiện truyền thụ tâm giới Bồ-tát. Đại Sĩ cứ như thế mà lan truyền ở Trung Nguyên.
Mùa xuân năm 1420, một người Việt học Phật quê ở Trúc Lâm Đại Sĩ xuất sơn đồ rõ ràng là một tác phẩm
vùng sông Lô tên là Trần Quang Chỉ mang bức tranh cùng nghệ thuật mang giá trị lịch sử đặc thù. Cuộn thư họa
với bài đề dẫn của mình đến Yên Kinh, yêu cầu các nhân kể lại cho đời sau sự kiện Đại Sĩ xuống núi truyền Bồ-tát
sĩ Trung Nguyên (bao gồm nho thần, cao tăng, và đạo sĩ; giới để vua và triều thần trị quốc. Phản ánh hiện thực
phần lớn khi ấy đang tham gia biên tập bộ Văn hiến đại này dựa trên suy tưởng, thể hiện bằng bút pháp tả thực
thành) viết tiêu đề và lời bình - tán cho bức tranh. Trong hai xen với ước lệ, bức họa nói lên không ít điều về cảm thức
năm 1420 và 1423, mỗi năm hai lần, Trần Quang Chỉ đến đời sau về Đại Sĩ và thời đại của ngài. Ẩn sau bức họa là
Yên Kinh giới thiệu tranh và yêu cầu viết lời bình phẩm. Dựa những vấn đề chính trị - văn hóa của xã hội Việt Nam
theo bài đề dẫn của Trần Quang Chỉ, các văn nhân Trung cuối đời Trần và quan hệ Việt - Trung dưới thời Minh
Hoa với căn bản tư tưởng Nho - Phật - Đạo không đồng xâm. Những bài bình tán của các tầng lớp nhân sĩ Trung,
nhất đã đề thơ, viết ký trên phần đà vĩ, và nay những gì họ Nhật là những lăng kính đa sắc quán chiếu Đại Sĩ Trúc
viết nối theo nhau hiện ra trước mắt người đọc như những Lâm, nhưng cũng qua những lăng kính này, có thể hiểu
đối thoại với những góc nhìn khác nhau về Trúc Lâm Đại Sĩ. thêm về những người quán chiếu nọ.
Một vài chi tiết lịch sử thú vị cũng được hé lộ qua các bài Bản phục chế bằng kỹ thuật cao của bức thư họa đã
viết, ví như bức họa có thể đã được người dân Đại Việt khắc được bán đấu giá với giá “phi lý tính”, ngoài sức tưởng
lên chất liệu đá hay đồng để lưu truyền lâu dài. Đặc biệt, tượng, nhưng những thông điệp từ bức họa mà nay ta có
trong số những người viết có một vị cao tăng Nhật Bản, thể “đọc” được là trường tồn và vô giá. Được vẽ, giới thiệu,
khiến cho những “đối thoại” trên vượt ra ngoài phạm vi Việt và bình tán trong chiến tranh và tao loạn, bức họa như
- Trung, mở ra đến Đông Á. Theo Trần Quang Chỉ, việc giới muốn gửi đến mai sau lời nhắn: tâm từ bi, lòng nhân hậu
thiệu Trúc Lâm Đại Sĩ xuất sơn đồ là để công đức Đại Sĩ (cũng bao trùm vạn vật, thông hiểu tôn giáo, cảm thông chính trị,
là vua Trần Nhân Tông từng đánh bại quân Nguyên xâm bình đẳng - tôn trọng - bao dung, và tri thức không ngừng
lược) không bị mai một. Đáng lưu ý hơn là việc này diễn ra điều chỉnh, cập nhật là những gì con người hôm nay cần
ngay dưới triều Thành Tổ với chính sách bành trướng quân có để hòa hợp, hòa giải với nhau, và tránh được “xung đột
sự và đồng hóa văn hóa, và giữa lúc người nước Nam bất giữa các nền văn minh”, đem lại hòa bình cho thôn xóm
khuất chống Minh, quật khởi đấu tranh dưới cờ nghĩa Lam quốc gia và ngôi làng toàn cầu chung của nhân loại2.
Sơn để bảo tồn cương thổ và bản sắc dân tộc.
Cuộn thư - họa Trúc Lâm Đại Sĩ về sau đã lưu lạc vào bộ Chú thích:
sưu tập tư nhân của Mẫn Khoáng Trai, Hạng Nguyên Biện 1. Xem Nguyễn Nam, Đấu giá thư họa Trần Nhân Tông, Tuổi
đời Minh (có đến 17 dấu ấn chương khác nhau của họ Trẻ Chủ Nhật, 05/08/2012.
Hạng đóng trên tác phẩm). Đến năm 1790, tác phẩm này 2. Tất cả các vấn đề giới thiệu trong bài được thảo luận
được biên mục vào sách Bí điện châu lâm tục biên của vua chi tiết cùng với bản in toàn bộ cuộn thư họa trong chuyên
Càn Long với miêu tả chi tiết quy cách toàn bộ thủ quyển, luận Bóng hình để lại, tập san Suối Nguồn, số 7 (11/2012), sắp
liệt kê các dấu ấn chương của các tác giả trong phần đà phát hành.
15 - 11 - 2012 VÙN HOÁ A PHÊÅ T GIAÁ O 9