1. CHÍNH SÁCH VĨ MÔ CỦA VIỆT NAM
ĐỐI VỚI CÁC BẤT ỔN KINH TẾ TỪ
SAU GIAI ĐOẠN GIA NHẬP WTO
Việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007 được kỳ vọng sẽ tạo thêm nhiều cơ hội
để Việt Nam có thể đẩy nhanh quá trình cải cách và phát triển. Bằng việc gia nhập, Việt Nam đã tạo ra
lợi thế trong việc mở rộng ngoại giao với các quốc gia khác trên thế giới tạo điều kiện thuận lợi quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Nhìn lại 10 năm qua, Việt Nam đã tạo nên được nhiều cuộc bứt phá mạnh mẽ
tuy nhiên vẫn còn tồn tại hạn chế trong việc ban hành và thực thi các chính sách vĩ mô. Bằng việc phân
tích chính sách vĩ mô trong hai giai đoạn đỉnh lạm phát (2007 – 2008 và 2010 – 2011), tác giả đưa ra
nhận định về ưu và khuyết điểm trong việc điều chỉnh chính sách vĩ mô khi đối diện với các bất ổn về kinh
tế ở Việt Nam.
BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ VÀ THAY ĐỔI CHÍNH SÁCH TỪ CUỐI NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2008
Thành công trong việc gia nhập WTO, Việt Nam đã rất hứng khởi về một tương lai sáng cho nền
kinh tế nhưng chỉ sau một thời gian ngắn nền kinh tế vĩ mô chưa được chuẩn bị kĩ càng đã hứng
chịu nhiều thiệt hại.
Biểu đồ về tỷ lệ lạm phát mục tiêu và thực hiện ở Việt Nam giai đoạn 2004 – 2012
Trong thời điểm từ cuối năm 2007 đến quý III/2008, lạm phát thực tế tăng nhanh và đạt
đỉnh khác xa hẳn dự đoán mục tiêu đã đề ra. Nguyên nhân chính của bất ổn kinh tế vĩ mô
trong giai đoạn này đến từ kỳ vọng của các nhà đầu tư nước ngoài về tình hình kinh tế sáng sủa
của Việt Nam sau khi gia nhập WTO với các dự đoán khả quan các nhà đầu tư đã tăng cường
hiện diện và đổ vốn đầu tư vào Việt Nam. Luồng vốn khổng lồ chảy vào nền kinh tế buộc Việt
Nam phải tăng mạnh mua ngoại tệ. Do bất cập trong trung hòa hóa khiến cung tiền tăng quá cao
(cầu ngoại tệ đã tăng trên 49% năm 2007 và tín dụng vốn đã tăng khá nhanh trong các năm
trước, đạt mức tăng tới 54% năm 2007) đẩy thị trường tài chính tiền tệ đến những cú sốc, gây ra
quan ngại về rủi ro tài chính cao và méo mó trong phân bổ nguồn lực.
Mặc dù nằm ngoài dự đoán đề ra nhưng phản ứng chính sách vĩ mô khá toàn diện. Cụ thể lần đầu
tiên sau nhiều năm chính phủ đã có một gói các biện pháp đồng bộ nhằm kiểm soát lạm phát và
ổn định kinh tế vĩ mô. Thể hiện rõ mục tiêu được ưu tiên cao nhất trong việc ứng xử với mối
quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát là kiểm soát lạm phát.
2. Với mục tiêu và ưu tiên như trên chính phủ đã thực hiện thắt chặt chính sách tiền tệ thông qua
việc khống chế tăng trưởng tín dụng ở mức tối đa 30%. Ngoài ra liên quan đến chính sách tỷ giá,
biên độ dao động cho tỷ giá được nới rộng, song song với các biện pháp ngăn ngừa hoạt động
đầu cơ cụ thể như kiểm soát các hoạt động của thị trường tự do, cấm giao dịch USD qua một
đồng tiền thứ ba. Bên cạnh điều chính về chính sách tài khóa, chính phủ cũng đã giảm 10% chi
ngân sách và đầu tư công. Ngoài ra, các chính sách khác liên quan đến giảm thâm hụt thương
mại, kiểm soát giá và thực hiện các chính sách xã hội cũng được lưu tâm thực hiện.
Tuy vậy, việc thực thi và triển khai chính sách nhìn chung là chậm. Các dòng vốn đầu tư nước
ngoài gia tăng và lạm phát có xu hướng đi lên đáng kể từ cuối năm 2007 tuy nhiên mãi tới tháng
4/2008, các biện pháp đồng bộ mới được công bố và thực hiện. Việc thiếu một hệ thống thông tin
đầy đủ cũng như các công cụ dự báo ngắn hạn phù hợp, trong khi tư duy chính sách phần nào hứng
khởi quá mức sau khi Việt Nam gia nhập WTO, đã khiến bất ổn kinh tế vĩ mô chỉ được lưu tâm
sau khi đã hiện hữu một thời gian tương đối dài.
PHẢN ỨNG CHÍNH SÁCH VỚI BẤT ỔN KINH TẾ VĨ MÔ NĂM 2010 - 2011
Những giải pháp kiểm soát lạm phát trong giai đoạn cuối 2007 - 2008 còn mang nhiều hạn
chế điển hình là thiếu tính cấp thiết đã dẫn đến tình hình kinh tế vĩ mô xấu đi nhanh chóng
trong giai đoạn 2010 - 2011. Lạm phát lại một lần nữa tăng nhanh, thâm hụt thương mại lớn, hệ
thống tài chính đứng trước nguy cơ bất ổn cao.
Trước tình hình trên, Nghị quyết số 11/NQ-CP đã được Chính phủ ban hành ngày 24/2/2011.
Với việc đưa ra sáu nhóm giải pháp khác, bao gồm: (1) Thực thi chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận
trọng (giảm chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng xuống dưới 20%); (2) Thực hiện chính sách tài khóa
thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước (thâm hụt ngân sách nhỏ hơn
5% GDP); (3) Thúc đẩy sản xuất - kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu; (4)
Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo; (5) Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội;
(6) Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền.
Điểm nhấn ở đây là Chính phủ đã thể hiện ưu tiên chính sách cao nhất dành cho giảm bội chi
ngân sách nhà nước và sẵn sàng chấp nhận mức tăng trưởng thấp hơn. Đây là điểm khác biệt so
với năm 2010 và cả những năm trước đó, khi mà sự lúng túng trong việc lựa chọn ưu tiên giữa
tăng trưởng kinh tế và lạm phát khiến các giải pháp chính sách chưa được xử lý triệt để. Kết quả
được thể hiện qua việc tỉ lệ giảm phát đã được giảm rõ rệt vào các năm sau ( giai đoạn 2012 –
2017).
3. Nhìn chung về chính sách vĩ mô trong hai giai đoạn trên ta nhận thấy có các ưu điểm nổi bật như
chính phủ đã xác lập và thể hiện được mục tiêu cuối cùng ( như chọn lạm phát hay tăng trưởng),
linh động thay đổi tùy vào bối cảnh. Tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều khuyết điểm chưa giải quyết
được như việc cải cách các chính sách vẫn chưa được chú trọng, các chính sách vẫn chưa quan
tâm đúng mức đến việc ổn định nền kinh tế trước khi đề ra mục tiêu tăng trưởng. Từ những ưu
và khuyết trên tác giả nhận thấy cải thiện sự phối hợp giữa Bộ Tài Chính và Ngân Hàng nhà
nước sẽ giải quyết được các khuyết điểm nêu trên.