THEO DÕI TẢI LƯỢNG HIV THƯỜNG QUY Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ THUỐC KHÁNG VI RÚT BẬC MỘT TẠI KHU VỰC MIỀN BẮC VIỆT NAM.Việt Nam là một trong những quốc gia có dịch HIV/AIDS phát triển mạnh ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Theo số liệu Cục phòng, chống HIV/AIDS (VAAC) năm 2019, con số tích lũy người nhiễm HIV được phát hiện (còn sống) là 210.450 người, số bệnh nhân AIDS còn sống là 102.448 bệnh nhân, số nhiễm HIV đã tử vong luỹ tích là 93.990 trường hợp [12]. Năm 2019, số nhiễm HIV được phát hiện là 10.453 trường hợp, số bệnh nhân được điều trị ARV là 135.055 (chiếm 64% tổng số người hiện nhiễm HIV)
Vào những năm 2000, tại các quốc gia phát triển, theo dõi định kỳ tải lượng vi rút ở bệnh nhân HIV điều trị ARV được thực hiện thường quy, cùng với giám sát thường xuyên tế bào lympho T-CD4 để đánh giá hiệu quả điều trị và phát hiện sớm thất bại điều trị, ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh và giảm bệnh tật, tử vong của người nhiễm. Trong những năm gần đây, Tổ chức Y tế thế giới đã đưa ra khuyến cáo việc giám sát điều trị dựa vào lâm sàng và miễn dịch học còn nhiều hạn chế [77, 84, 152, 161], làm chậm việc chẩn đoán việc thất bại điều trị, dẫn đến nguy cơ tăng sự kháng thuốc và giảm cơ hội thành công khi chuyển sang điều trị thuốc kháng vi rút bậc hai [27, 116]. Ngoài ra, một số báo cáo trên thế giới đã chứng minh sử dụng xét nghiệm vi rút học để đánh gía thất bại điều trị có hiệu quả kinh tế hơn so với việc chỉ dựa trên đánh giá các tiêu chí lâm sàng và miễn dịch học trước khi thay đổi phác đồ điều trị ở các nước đang phát triển [21, 147, 153]. Hiện nay, xét nghiệm đo tải lượng vi rút cho bệnh nhân HIV/AIDS đã được thực hiện thường quy ở Việt Nam [52, 78]. Theo số liệu Cục phòng chống HIV/AIDS (VAAC) năm 2019, số bệnh nhân được làm xét nghiệm tải lượng vi rút là 81337 (chiếm 61% tổng số bệnh nhân được điều trị ARV), trong đó số bệnh nhân có tải lượng HIV dưới 1000 bản sao/ml là 77776 chiếm tỷ lệ 95% (77776/81337) trong số bệnh nhân được xét nghiệm tải lượng HIV, số bệnh nhân có kết quả dưới 200 bản bản sao/ml là 76074 chiếm tỷ lệ 93% (76074/81337)
https://luanvanyhoc.com/theo-doi-tai-luong-hiv-thuong-quy-o-benh-nhan-dieu-tri-thuoc-khang-vi-rut-bac-mot-tai-khu-vuc-mien-bac-viet-nam/
THEO DÕI TẢI LƯỢNG HIV THƯỜNG QUY Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ THUỐC KHÁNG VI RÚT BẬC MỘT
1. LUANVANYHOC.COM TẢI LUẬN VĂN, LUẬN ÁN TÀI LIỆU Y HỌC
THEO YÊU CẦU LIÊN HỆ 0927.007.596
THEO DÕI TẢI LƯỢNG HIV THƯỜNG QUY Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ
THUỐC KHÁNG VI RÚT BẬC MỘT TẠI KHU VỰC MIỀN BẮC VIỆT
NAM.Việt Nam là một trong những quốc gia có dịch HIV/AIDS phát triển mạnh ở
khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Theo số liệu Cục phòng, chống HIV/AIDS
(VAAC) năm 2019, con số tích lũy người nhiễm HIV được phát hiện (còn sống) là
210.450 người, số bệnh nhân AIDS còn sống là 102.448 bệnh nhân, số nhiễm HIV đã
tử vong luỹ tích là 93.990 trường hợp [12]. Năm 2019, số nhiễm HIV được phát hiện
là 10.453 trường hợp, số bệnh nhân được điều trị ARV là 135.055 (chiếm 64% tổng
số người hiện nhiễm HIV) [12].
MÃ TÀI LIỆU CAOHOC.2021.00105
Giá :
Liên Hệ 0927.007.596
Vào những năm 2000, tại các quốc gia phát triển, theo dõi định kỳ tải lượng vi rút ở
bệnh nhân HIV điều trị ARV được thực hiện thường quy, cùng với giám sát thường
xuyên tế bào lympho T-CD4 để đánh giá hiệu quả điều trị và phát hiện sớm thất bại
điều trị, ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh và giảm bệnh tật, tử vong của người nhiễm.
Trong những năm gần đây, Tổ chức Y tế thế giới đã đưa ra khuyến cáo việc giám sát
điều trị dựa vào lâm sàng và miễn dịch học còn nhiều hạn chế [77, 84, 152, 161], làm
chậm việc chẩn đoán việc thất bại điều trị, dẫn đến nguy cơ tăng sự kháng thuốc và
giảm cơ hội thành công khi chuyển sang điều trị thuốc kháng vi rút bậc hai [27, 116].
Ngoài ra, một số báo cáo trên thế giới đã chứng minh sử dụng xét nghiệm vi rút học
để đánh gía thất bại điều trị có hiệu quả kinh tế hơn so với việc chỉ dựa trên đánh giá
các tiêu chí lâm sàng và miễn dịch học trước khi thay đổi phác đồ điều trị ở các nước
đang phát triển [21, 147, 153]. Hiện nay, xét nghiệm đo tải lượng vi rút cho bệnh nhân
HIV/AIDS đã được thực hiện thường quy ở Việt Nam [52, 78]. Theo số liệu Cục
phòng chống HIV/AIDS (VAAC) năm 2019, số bệnh nhân được làm xét nghiệm tải
lượng vi rút là 81337 (chiếm 61% tổng số bệnh nhân được điều trị ARV), trong đó số
bệnh nhân có tải lượng HIV dưới 1000 bản sao/ml là 77776 chiếm tỷ lệ 95%
(77776/81337) trong số bệnh nhân được xét nghiệm tải lượng HIV, số bệnh nhân có
kết quả dưới 200 bản bản sao/ml là 76074 chiếm tỷ lệ 93% (76074/81337) [13].2
Phương pháp xét nghiệm TLVR huyết tương được coi là chuẩn vàng trong theo dõi
điều trị ARV ở người nhiễm HIV [38]. Tuy nhiên, triển khai TLVR huyết tương gặp
phải nhiều khó khăn ở các quốc gia có nguồn lực hạn chế như Việt Nam, bao gồm
việc thiếu kinh phí, cơ sở hạ tầng của các phòng xét nghiệm nghiệm hạn chế, thiếu
cán bộ xét nghiệm chuyên môn cao, đồng thời hệ thống vận chuyển bệnh phẩm yếu và
phản hồi kết quả chậm [68], [106]. Trong bối cảnh này, xét nghiệm TLVR bằng
phương pháp giọt máu khô (DBS) đang ngày càng được sử dụng phổ biến trong việc
mở rộng xét nghiệm TLVR HIV. Ưu điểm của DBS là dễ thu thập, thuận tiện trong
lưu trữ và vận chuyển hơn so với mẫu bệnh phẩm huyết tương [57]. Không đòi hỏi
2. LUANVANYHOC.COM TẢI LUẬN VĂN, LUẬN ÁN TÀI LIỆU Y HỌC
THEO YÊU CẦU LIÊN HỆ 0927.007.596
phải thực hiện quy trình ly tâm, vận chuyển bằng dây truyền lạnh hoặc nhân viên thực
hiện được đào tạo chuyên sâu, kỹ thuật xét nghiệm tải lượng HIV từ mẫu DBS có thể
đơn giản hóa rất nhiều việc lưu mẫu và vận chuyển đến phòng xét nghiệm tham chiếu
từ các địa điểm ở xa hoặc không có điều kiện thực hiện tại chỗ. Do đó, DBS có thể
khắc phục việc thiếu năng lực phòng thí nghiệm tại các cơ sở thiếu thốn trang thiết bị
hoặc có điều kiện về nhân lực hạn chế.
Bệnh viện Bạch Mai là một trong những cơ sở điều trị người bệnh HIV lớn nhất trên
cả nước với trên 2.000 người bệnh lũy tích và khoảng 1.800 hiện đang điều trị từ tất
cả các tỉnh/thành phố tại khu vực phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Bên cạnh đó, nhóm
người bệnh tại đây thường là nhóm nặng, có suy giảm miễn dịch nặng với tỉ lệ có HIV
tiến triển cao. Do đó, quản lý và theo dõi người bệnh hiệu quả là vấn đề rất được quan
tâm chú trọng nhằm giảm tỉ lệ tử vong cho người bệnh điều trị. Câu hỏi nghiên cứu
được đặt ra là tải lượng
HIV huyết tương theo dõi thường quy trên bệnh nhân điều trị thuốc ARV bậc một
được quản lý tại bệnh viện Bạch Mai có kết quả như thế nào? Tính khả thi của việc sử
dụng mẫu DBS trong xét nghiệm tải lượng virus? Và cuối3 cùng là trên bệnh nhân
thất bại điều trị phác đồ bậc 1 có những thay đổi gì về mặt virus học?
Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “THEO DÕI TẢI LƯỢNG HIV
THƯỜNG QUY Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ THUỐC
KHÁNG VI RÚT BẬC MỘT TẠI KHU VỰC MIỀN BẮC VIỆT NAM” với hai
mục tiêu sau:
1. Đánh giá kết quả theo dõi tải lượng HIV-1 huyết tương thường quy và mức độ khả
thi ban đầu của đo tải lượng vi rút bằng kỹ thuật xét nghiệm tải lượng HIV từ mẫu
DBS trên bệnh nhân điều trị thuốc ARV bậc một ở miền Bắc Việt Nam.
2. Mô tả đặc điểm vi rút học của bệnh nhân thất bại điều trị phác đồ bậc một tại bệnh
viện Bạch Mai