Nghiên cứu kiến thức, thái độ, thực hành bán kháng sinh của người bán thuốc tại cơ sở bán lẻ thuốc ở Việt Nam.Cơ sở bán lẻ thuốc (CSBLT) đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu tại cộng đồng. Ở nhiều nước có mức thu nhập thấp và trung bình, nhà thuốc là kênh chính để người dân mua thuốc và trao đổi thông tin khi có vấn đề về sức khỏe [60]. Tại Việt Nam, theo thống kê cho thấy khoảng 65%-80% người dân có vấn đề sức khỏe sẽ tìm đến CSBLT trước khi đến với dịch vụ y tế khác [33, 123]. Do đó, người bán lẻ thuốc (NBT) là người đầu tiên mà người dân dễ dàng tiếp cận nhất, thực hiện việc cung cấp, tư vấn sử dụng thuốc trong cộng đồng. Với mạng lưới các CSBLT đã và đang phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam, để có thể phát huy vai trò của CSBLT trong cung ứng và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, kiến thức, thái độ và thực hành của NBT có vai trò rất quan trọng. Nếu kiến thức, thái độ, thực hành của NBT không phù hợp có thể dẫn đến nhiều hệ lụy khác nhau, ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe, gia tăng gánh nặng chi phí điều trị và trầm trọng nhất có thể là tính mạng của người bệnh
https://luanvanyhoc.com/nghien-cuu-kien-thuc-thai-do-thuc-hanh-ban-khang-sinh-cua-nguoi-ban-thuoc-tai-co-so-ban-le-thuoc-o-viet-nam/
Nghiên cứu kiến thức, thái độ, thực hành bán kháng sinh của người bán thuốc tại cơ sở bán lẻ thuốc ở Việt Nam
1. LUANVANYHOC.COM TẢI LUẬN VĂN, LUẬN ÁN TÀI LIỆU Y HỌC
THEO YÊU CẦU LIÊN HỆ 0927.007.596
Nghiên cứu kiến thức, thái độ, thực hành bán kháng sinh của người bán
thuốc tại cơ sở bán lẻ thuốc ở Việt Nam.Cơ sở bán lẻ thuốc (CSBLT) đóng vai
trò quan trọng trong hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu tại cộng đồng. Ở nhiều
nước có mức thu nhập thấp và trung bình, nhà thuốc là kênh chính để người dân
mua thuốc và trao đổi thông tin khi có vấn đề về sức khỏe [60]. Tại Việt Nam,
theo thống kê cho thấy khoảng 65%-80% người dân có vấn đề sức khỏe sẽ tìm
đến CSBLT trước khi đến với dịch vụ y tế khác [33, 123]. Do đó, người bán lẻ
thuốc (NBT) là người đầu tiên mà người dân dễ dàng tiếp cận nhất, thực hiện
việc cung cấp, tư vấn sử dụng thuốc trong cộng đồng. Với mạng lưới các
CSBLT đã và đang phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam, để có thể phát huy vai trò
của CSBLT trong cung ứng và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, kiến thức, thái độ
và thực hành của NBT có vai trò rất quan trọng. Nếu kiến thức, thái độ, thực
hành của NBT không phù hợp có thể dẫn đến nhiều hệ lụy khác nhau, ảnh
hưởng trực tiếp tới sức khỏe, gia tăng gánh nặng chi phí điều trị và trầm trọng
nhất có thể là tính mạng của người bệnh [60].
MÃ TÀI LIỆU CAOHOC.2021.00095
Giá :
Liên Hệ 0927.007.596
Tuy nhiên, thực tế hoạt động của hệ thống này đang tồn tại một số vấn đề bất
cập đặc biệt là NBT bán kháng sinh mà không có đơn thuốc và CSBLT trở thành
địa điểmcung cấp kháng sinh bất hợp lý trong cộng đồng [98]. Trong khi kháng
sinh là nhóm thuốc có vai trò quan trọng trong điều trị và chăm sóc sức khỏe,
đặc biệt các nước đang phát triển như Việt Nam, kháng sinh cần được quản lý và
kiểm soát chặt chẽ nhằm giảm thiểu kháng kháng sinh. Theo Tổ chức Y tế thế
giới, tình trạng kháng kháng sinh đã trở nên nguy hiểm, cấp bách, đe dọa đến an
ninh y tế toàn cầu, vì vậy đòi hỏi phải có sự nỗ lực và phải có can thiệp mạnh
mẽ nhằm tránh khỏi việc nhân loại quay trở về thời kỳ hậu kháng sinh [135].
Việt Nam là quốc gia đang phải đối mặt với mức độ và tốc độ lan rộng các vi
khuẩn kháng với nhiều loại kháng sinh, xuất hiện vi khuẩn kháng đa thuốc cả ở
trong bệnh viện cũng như ở ngoài cộng đồng [11, 23].
Đáng quan ngại hơn, mặc dù đã xây dựng nhiều chương trình và kế hoạch hành
động quốc gia về chống kháng thuốc (giai đoạn 2013-2020) nhằm giảm thiểu
tình trạng kháng kháng sinh [11], nhưng Việt Nam là một trong 3 quốc gia có
tốc độ gia tăng mức tiêu thụ kháng sinh cao nhất trên thế giới [56]. Tổ chức Y tế
thế giới xếp Việt Nam vào danh sách các quốc gia có tỷ lệ kháng thuốc kháng
sinh cao trên thế giới. Một trong những nhân tố quan trọng dẫn đến thực trạng
kháng kháng sinh ở Việt Nam là tình trạng2 lạm dụng kháng sinh trong cộng
đồng, tự sử dụng kháng sinh khi không có đơn của bác sỹ, người dân có thể tự ý
2. LUANVANYHOC.COM TẢI LUẬN VĂN, LUẬN ÁN TÀI LIỆU Y HỌC
THEO YÊU CẦU LIÊN HỆ 0927.007.596
mua kháng sinh không có đơn ở các nhà thuốc hoặc theo lời khuyên của NBT
[11, 23]. Nghiên cứu quan sát tại 30 nhà thuốc năm 2011 ở Hà Nội đã cho thấy
phần lớn kháng sinh được bán không đơn 88% (thành thị) và 91% (nông thôn)
[55]. Có lẽ điều này góp phần khiến Việt Nam đang rơi vào “vùng trũng” của
tình trạng kháng thuốc trên thế giới. Tuy nhiên, tại thời điểm nghiên cứu của
chúng tôi được tiến hành cho thấy cơ quan quản lý chưa có giải pháp riêng đối
với CSBLT nhằm giải quyết vấn đề bán kháng sinh không có đơn ở Việt Nam
[11].
Bên cạnh đó, rà soát y văn về các nghiên cứu liên quan kể từ khi Việt Nam hoàn
thành lộ trình áp dụng “Thực hành tốt cơ sở bán lẻ thuốc” cho thấy, hầu hết các
nghiên cứu mới dừng ở việc tập trung phản ánh thực trạng một số khía cạnh hoạt
động của loại hình nhà thuốc như cơ sở vật chất, trang thiết bị, hổ sơ, sổ sách,
hoạt động sắp xếp, bảo quản thuốc, kỹ năng thực hành bán thuốc, thực trạng bán
kháng sinh không đơn tại một địa phương đơn lẻ [20, 24, 31, 55] mà chưa đề cập
toàn diện các khía cạnh về kiến thức, thái độ của NBT về kháng sinh và chưa
phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc bán kháng sinh không đơn của NBT tại
CSBLT. Trong bối cảnh hiện nay, chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm trả lời
câu hỏi về thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành của NBT đối với hoạt động
bán kháng sinh tại nhà thuốc, quầy thuốc hiện nay ra sao? Yếu tố ảnh hưởng đến
thực hành bán kháng sinh không đơn của NBT tại nhà thuốc, quầy thuốc như thế
nào? Trên cơ sở đó đề xuất và triển khai các can thiệp phù hợp để cải thiện thực
trạng bán kháng sinh không đơn tại CSBLT. Dựa trên nền tảng và phát triển từ
đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ Y tế, luận án “Nghiên cứu kiến thức, thái
độ, thực hành bán kháng sinh của người bán thuốc tại cơ sở bán lẻ thuốc ở
Việt Nam” được thực hiện với mục tiêu như sau:
1. Đánh giá thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành của người bán thuốc đối với
hoạt động bán kháng sinh tại cơ sở bán lẻ thuốc trên địa bàn một số tỉnh, thành
phố ở Việt Nam giai đoạn 2017-2018.
2. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến thực hành bán kháng sinh không đơn
của người bán thuốc tại cơ sở bán lẻ thuốc trên địa bàn một số tỉnh, thành phố ở
Việt Nam.3
Kết quả nghiên cứu của luận án được kỳ vọng sẽ cung cấp được những bằng
chứng khoa học, toàn diện và hữu ích về kiến thức, thái độ, thực hành của NBT
tại CSBLT đối với hoạt động bán kháng sinh, mức độ ảnh hưởng của các yếu tố
đến hành vi bán kháng sinh không đơn. Từ đó, đề xuất được các giải pháp hữu
hiệu, phù hợp trong bối cảnh hiện nay, góp phần đảm bảo và tăng cường chất
lượng hành nghề và sử dụng kháng sinh hợp lý, an toàn, giảm tình trạng bán
kháng sinh không đơn ở Việt Nam