3. Chuyên Đề Thảo Luận
B.
Thực tế ở các
đô thị lớn ở
Việt Nam.
Hà Nội & TP HCM
A.
Nêu & phân
tích các chỉ
tiêu của mạng
lưới giao
thông?
Chuyên đề
4. A.Các chỉ tiêu của mạng lưới Giao Thông
1. Chiều dài mạng lưới
2. Hệ số gãy khúc
3. Mật độ diện tích đường
4. Mật độ diện tích trên
đầu người dân
5. I.Chiều dài mạng lưới
Được tính bằng km theo trục đường phố
Khi TP có 1 số loại phương tiện GT thì
chiều dài của mạng lưới được tính theo
trục của tất cả các đường phố có 1 hoặc 1
số tuyến GT đi qua
6. Chiều dài mạng lưới
Mật độ của mạng lưới được xác định theo
công thức: 𝜕 =
𝐿
𝐹
L: Chiều dài của mạng lưới giao thông (km)
F: Diện tích khu dân dụng của thành phố (km2)
Mật độ mạng lưới hợp lý: =2,2÷2,5 km/km2
7. Chiều dài mạng lưới
lớn:
• Mật độ dày, đông,
nhiều nên cản trở
xe
• Giảm thời gian đi
bộ đến các trạm đỗ
gt
• Tăng khoảng thời
gian giữa 2 xe
nhỏ:
• Mật độ giao thông
thưa thớt
• Tăng thời gian đi bộ
đến các trạm đỗ xe
• Gây tập trung dòng
hành khách, gây
quá tải 1 số hướng
GT
9. Chiều dài mạng lưới
Quy mô
dân số
(ngìnngười )
<50 100 250 500 100
1,5 1,6-1,7 2-2,5 2,8-3 3,2-3,5
Bảng 1.1 Mật độ đường chính theo quy mô đô thị
10. II.Hệ Số Gãy Khúc
Hệ số gãy được tính bằng tỷ số của tổng
chiều dài đường đi thực tế các điểm của
mạng lưới đường phố chia cho tổng
khoảng cách giữa chúng theo đường chim
bay.
11. Hệ Số Gãy Khúc
Hệ số gãy khúc Hợp Lý Trung bình Không Hợp Lý
HSG <1,15 1,15<HSG<1,25 >1,25
Bảng 2.1 : Chỉ tiêu HSG ở mạng lưới GTĐT
12. III. Mật độ diện tích đường (γ)
(γ)=
∑(LxB)
∑ 𝐹
L : Chiều dài đường từng đoạn;
B : Chiều rộng đường tương ứng;
F : Diện tích dùng đất của đô thị
Diện tích dùng đất dành cho đường bao gồm diện tích dùng đất cho
bến xe, quảng trường, đường các loại.
nội thành Hà Nội γ = 8%
(m2/km2) hoặc (km2/km2)
13. IV. Mật độ diện tích trên đầu người dân
λ =
∑(LxB)
𝑛
=
(γ)
𝑚
(m2/người)
L : Chiều dài đường (m);
B : Chiều rộng đường (m);
n : Số dân của đô thị;
γ : Mật độ diện tích đường (%);
m : Mật độ nhân khẩu (người/m2).
Ở Hà Nội, đường nội thành chỉ đạt λ= 3.38
m2/người.
14. B.Thực trạng ở các đô thị lớn ở Việt Nam
Có 4 loại hình mạng lưới giao thông
chính:
1. Đường bộ:Hệ thống đường bộ&đường sắt
2. Đường sông.
3. Đường bay.
Nước ta có 219 188km đường bộ bao gồm :
15. Sơ đồ mạng lưới đường bộ Hà Nội
• 7.365 km đường giao
thông
• trong đó 20% là trục
đường chính, 7 trục
hướng tâm và 3
tuyến vành đai.
16. Sơ đồ mạng lưới đường sắt Hà Nội
-Tuyến số 1 : nối Ngọc
Hồi và Yên Viên qua trung
tâm thành phố, dài
38,7km
-Tuyến số 2 là Nội Bài –
Trung tâm thành phố -
Thượng Đình, 33,7km.
- Tuyến số 3: Nhổn – Ga
Hà Nội – Hoàng Mai,
21km.
-Tuyến số 4 :Hà Nội – Hà
Đông, 14km.
-Tuyến số 5 : Nam Hồ Tây
– Ngọc Khánh – Láng –
Hòa Lạc. Tuyến đường
dài 34,5km
17. Đường sông & Hàng không.
Đường sông
hệ thống sông ngòi khá lớn,
thuận lợi cho việc vận tải
bằng đường sông. Các sông
chảy qua địa bàn
Sông Hồng
Sông Đáy
Sông Đuống
Sông Cà Lồ
Sông Nhuệ
Sông Lừ
Sông Tô Lịch
Sông Kim Ngưu...
Hàng không
Hà Nội có hai sân bay: sân
bay Nội Bài (quốc tế và nội
địa) và sân bay Gia Lâm
Hà Nội còn có một sân bay
quân sự hiện đang không sử
dụng là sân bay Bạch Mai.
18. Mạng lưới giao thông tại TP HCM
Các tuyến đường bộ, đường sắt trong
mạng lưới giao thông TPHCM được xây
dựng dưới 2 hình thức:
Theo trục hướng tâm (lấy trung tâm thành
phố làm điểm bắt đầu và tỏa đi các hướng
xung quanh)
Theo các đường vành đai từ trong ra ngoài
19. Sơ đồ mạng lưới đường bộ TP HCM
-tổng chiều dài đường 3.666 km
với tổng số 3.584 tuyến đường
• giao thông đô thị : 1.151 km
đường
• quận huyện : 2.515 km
-Mạng lưới đường xá giao
thông đối ngoại
-Mạng lưới đường xá giao
thông đối nội
20. Sơ đồ mạng lưới đường sắt TP HCM
-Giao thông đường sắt của
thành phố gồm tuyến nội ô
và khu vực phụ cận - do Xí
nghiệp Liên hiệp đường sắt
3 quản lý
-hai nhà ga chính: Sóng
Thần và Sài Gòn
-một số nhà ga nhỏ như Dĩ
An, Thủ Đức, Bình Triệu,
Gò Vấp
21. Đường sông & Hàng không
Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu
mối giao thông quan trọng của Việt
Nam và khu vực Đông Nam Á
Vận tải thủy ở Thành phố Hồ Chí Minh
chiếm một tỷ lệ quan trọng
Thành phố Hồ Chí Minh có bốn cảng biển
chính: Sài Gòn, Bến Nghé, Nhà Bè, Tân
Cảng
22. Hàng Không
Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất là phi
trường lớn nhất Việt Nam về cả diện tích
và công suất nhà ga
Tính trong năm 2011 vận tải thành phố đã
vận chuyển tổng cộng 73.743 tấn hàng
hóa, 239 triệu lượt người và bốc xếp
44.341 tấn hàng,gấp đôi so với Hà Nội.
32. Diagram
1
ThemeGallery is a
Design Digital
Content & Contents
mall developed by
Guild Design Inc.
3
ThemeGallery is a
Design Digital
Content & Contents
mall developed by
Guild Design Inc.
2
ThemeGallery is a
Design Digital
Content & Contents
mall developed by
Guild Design Inc.
35. Block Diagram
Add Your Title
Add Your Title
Add Your Title
Title Click to add text Click to add text Click to add text
Title Click to add text Click to add text Click to add text
Title Click to add text Click to add text Click to add text
Title Click to add text Click to add text Click to add text
Title Click to add text Click to add text Click to add
Phân tích tổng chi phí thời gian (gồm thời gian đi bộ đến trạm đỗ xe và thời gian chờ xe) cho phép ta xác định được mật độ hợp lý của mạng lưới giao thông. Mật độ mạng lưới giao thông là hợp lý khi tổng chi phí thời gian đi bộ đến trạm đỗ xe và thời gian chở xe là nhỏ nhất.
Mật độ diện tích đường là tỷ số của tổng diện tích đất dành cho đường trên diện tích dùng đất của đô thị.
_hệ thống gt quốc gia có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển KT XH 1 > nhìn chung hệ thống đường bộ đã đc hình thành và phân bố khá hợp lý nhưng vẫn tồn tại một số vấn đề : 1>chưa có đường cao tốc,đường có tiêu chuẩn kĩ thuật cao 2>còn nhiều tuyến chưa đảm bảo đc tiêu chuẩn kt,nhiều tuyến chưa thông xe đc 4 mùa 3>hành lang bảo vệ an toàn gt chưa đảm bảo đúng tiêu chuẩn
Đường quốc lộ 15 520 km Đường tỉnh 18344km
Đường huyện 37974km Đường xã 134 465 km
Đường đô thị 5919km Đường chuyên dụng 5451km
Hà Nội là thủ đô của Việt Nam và cũng là một trong những thành phố có số dân và mật độ dân cư cao của cả nước nên giao thông Hà Nội có tầm quan trọng nhất định trong việc đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hành khách và hàng hóa ngày một tăng.
Cho đến cuối năm 2011, Hà Nội hiện có 7.365 km đường giao thông, trong đó 20% là trục đường chính, 7 trục hướng tâm và 3 tuyến vành đai, cũng như đang quản lý hơn 4,3 triệu phương tiện giao thông các loại, trong đó riêng xe máy chiếm gần 4 triệu
Hà nội 2030 . Bên ngoài có 5 đường vành đai 3 trục đường dọc và hàng chục đường xuyên tâm trung tâm TP theo 4 phương 8 hướng ra bên ngoài. Trung tâm TP có 6tuyến đường sắt đô thị , có thêm đường trên cao, đường cảnh quan bên sông Hồng.
Đường sắt Hà Nội là hệ thống giao thông quan trọng trong vận chuyển hàng hóa và hành khách, được nối liền với hầu hết với mọi miền ở Việt Nam. Hà Nội là một đầu mút của đường sắt Thống Nhất Bắc Nam dài 1.726 km, nằm trong tổng chiều dài 2.600 km của hệ thống đường sắt Việt Nam, chủ yếu do Pháp xây dựng.
Ngoài ra, từ Hà Nội còn có các tuyến đường sắt nối với các tỉnh phía Bắc và đi ra cảng Hải Phòng.
- Tuyến số 1 phục vụ các khu vực ngoại thành phía Đông Bắc và phía Nam Hà Nội đi qua khu vực trung tâm thành phố;- Tuyến số 2 là xương sống cho khu vực đô thị hiện tại và tương lai. Tuyến số 2 nối sân bay Nội Bài và khu đô thị mới Đông Anh, Từ Liêm, khu phố cổ, khu phố kiến trúc Pháp, đi dọc hành lang quốc lộ 6 và tới Thượng Đình. Trong đó đoạn tuyến phía Bắc sông Hồng sẽ đi dọc hành lang của trục chính đô thị Nhật Tân - Vĩnh Ngọc - Nội Bài. Trong tuyến số 2 có đoạn đường sắt đô thị Hà Nội - Hà Đông (2A) dài 13,05km, hiện nay đang xây dựng, bắt đầu tại khu vực Cát Linh (giao với tuyến số 3), đi theo hành trình Cát Linh - Hào Nam - La Thành - Thái Hà - đường Láng - Ngã Tư Sở - quốc lộ 6 - Thượng Đình - Hà Đông - Ba La;- Tuyến số 3 nối khu vực phía Tây với trung tâm và khu vực phía Nam thành phố. Trong đó đoạn tuyến từ Nhổn đến ga Hà Nội hiện đang xây dựng;- Tuyến số 4 có dạng vòng tròn, kết nối với các tuyến còn lại và gắn kết với các dự án phát triển đô thị. Trước mắt xây dựng tuyến số 4 là tuyến xe buýt nhanh, trong tương lai sẽ phát triển thành tuyến đường sắt đô thị hoàn chỉnh;- Tuyến số 5 có chức năng kết nối trung tâm thành phố Hà Nội với các khu đô thị dọc theo hành lang Láng - Hòa Lạc. Tuyến này trong tương lai sẽ kết nối với Trung tâm công nghệ cao Hoà Lạc và các khu đô thị phía Tây thành phố.
Mạng lưới đường sá giao thông đối ngoại [22]
Thành phố Hồ Chí Minh nối với các tỉnh lân cận Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh, Long An chủ yếu bằng các tuyến quốc lộ. Ngoài ra từ thành phố cũng có thể đi đến các địa phương lân cận bằng một số tuyến tỉnh lộ. Điều kiện lưu thông trên mạng lưới đường này tương đối tốt.
Mạng lưới đường xá giao thông đối nội : phát triển mất cân đối và chưa đc phân cấp theo chức năng,trừ mợt số nơi đc quy hoạch cụ thể trước đa số đều phát triển 1 cách tùy tiện : kích thước ,khổ đường,lộ giới,vỉa hè ..rất khác nhau ở từng khu vực
tại các quận trung tâm thì mạng lưới dày đặc...các quận mới phát triển có rất ít các trục đường chính
Giao thông đường bộ, thành phố có 6 bến xe khách liên tỉnh được phân bố ở các cửa ngõ ra vào: Miền Đông, Văn Thánh, Miền Tây, Chợ Lớn, Tân Bình - Tây Ninh, Ký Thủ Ôn. Mạng lưới khả năng tiếp nhận trên 1.200 xe/ngày, vận chuyển gần 41.000 khách/ngày đi các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Cũng theo số liệu từ1994, tổng lượng hành khách liên tỉnh qua thành phố khoảng 106,4 triệu lượt người/năm, nhiều nhất qua quốc lộ 1A[62]
Giao thông trong nội ô, do tốc độ tăng dân số nhanh, quy hoạch yếu, hệ thống đường xá nhỏ... khiến thành phố luôn phải đối mặt với vấn đề ùn tắc. Thành phố có 239 cây cầu nhưng phần lớn chiều rộng nhỏ hơn chiều rộng của đường nên gây khó khăn cho các phương tiện giao thông. Không những thế, một phần các cây cầu có trọng tải thấp hay đang trong tình trạng xuống cấp. Tại các huyện ngoại thành, hệ thống đường vẫn phần nhiều là đường đất đá. Trong khi đó, hệ thống đường trải nhựa còn lại cũng trở nên quá tải, cần sửa chữa.[62]Để giải quyết vấn đề giao thông đô thị, Thành phố Hồ Chí Minh đang đầu tư cho hệ thốnggiao thông công cộng. Hiện nay thành phố có 3.250 xe buýt và 8.000 xe taxi, mỗi năm chỉ đáp ứng khoảng 6,2% nhu cầu đi lại.
Giao thông đường sắt của thành phố gồm tuyến nội ô và khu vực phụ cận - do Xí nghiệp Liên hiệp đường sắt 3 quản lý, tuyến Bắc - Nam và một vài đoạn đường chuyên dụng, hiện hầu như đã ngưng khai thác. Trong thành phố có hai nhà ga chính: Sóng Thần và Sài Gòn. Bên cạnh đó còn có một số nhà ga nhỏ như Dĩ An, Thủ Đức, Bình Triệu, Gò Vấp. Do mạng lưới đường sắt không được nối trực tiếp với các cảng, cơ sở đã cũ kỹ nên giao thông đường sắt Thành phố Hồ Chí Minh không phát triển, chỉ chiếm khoảng 6% khối lượng hàng hóa và 0,6% khối lượng hành khách[62].
ĐƯỜNG THỦY : Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Khác với Hà Nội, vận tải thủy ở Thành phố Hồ Chí Minh chiếm một tỷ lệ quan trọng. Tính riêng vận tải hàng hóa, đường biển chiếm khoảng 29% và đường sông khoảng chiếm 20% tổng khối lượng thông qua đầu mối thành phố. Đường bộ chỉ chiếm 44% vận tại hàng hóa nhưng chiếm tới 85,6% vận tải hành khách[62]
Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh có bốn cảng biển chính: Sài Gòn, Bến Nghé, Nhà Bè, Tân Cảng cùng các cảng sông Bình Đông, Tân Thuận, Tôn Thất Thuyết, Bình Lợi, Bình Phước... Ngoài ra còn có khoảng 50 bến đò phục vụ giao thông hành khách. Cảng Sài Gòn là một trong những cảng lớn nhất Việt Nam, chiếm 25% trong tổng khối lượng hàng hóa thông qua các cảng biển cả nước. Cảng Bến Nghé nằm phía hạ lưu sông Sài Gòn, rộng 32 ha, tổng chiều dài cầu cảng 528 m, có thể cho tàu có tải trọng từ 15.000 - 20.000 tấn cập bến. Tuy năng lực của các cảng của Thành phố Hồ Chí Minh lớn nhưng việc chuyển tiếp giữa giao thông đường bộ, đường biển và đường sông gặp khó khăn. Tại hầu hết các cảng đường sông, do thiết bị thiếu, vẫn phải bốc dỡ thủ công[62].
Về giao thông đường không, Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất là phi trường lớn nhất Việt Namvề cả diện tích và công suất nhà ga[63]. Năm 2006, vận tải thành phố đã vận chuyển tổng cộng 73.743 tấn hàng hóa, 239 triệu lượt người và bốc xếp 44.341 tấn hàng[64]. Toàn thành phố hiện nay có khoảng 340.000 xe hơi và 3,5 triệu xe máy, gần gấp đôi so với Hà Nội