Cơ sở sản xuất Nhạc cụ Phong vân chuyên nhận đặt làm Đàn Đá Tây Nguyên biểu diễn
Đàn đá có 15 thanh đá lớn , mỗi thanh rộng khoảng 8 tới 10 cm
Chất lượng đá nhập tại các vùng Tây Nguyên
Thời gian hoàn thành 20 ngày
Hình ảnh sản phẩm:
co so lam da da dan da tay nguyen mua ban dan da dia chi ban dan da
Thông tin chi tiết về Đàn Đá:
Đàn đá (các dân tộc ở Tây Nguyên, Việt Nam gọi là goong lu, đọc là goòng lú, tức “đá kêu như tiếng cồng”) là một nhạc cụ gõ cổ nhất của Việt Nam và là một trong những loại nhạc cụ cổ sơ nhất của loài người[3]. Đàn được làm bằng các thanh đá với kích thước dài, ngắn, dày, mỏng khác nhau. Thanh đá dài, to, dày có âm vực trầm trong khi thanh đá ngắn, nhỏ, mỏng thì tiếng thanh. Người xưa sử dụng vài loại đá có sẵn ở vùng núi Nam Trung Bộvà Đông Nam Bộ để tạo ra nhạc cụ này. Đàn đá đã được UNESCO xếp vào danh sách các nhạc cụ trong Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên.
Lịch sử phát hiện
Năm 1949, những người phu làm đường phát hiện tại Ndut Liêng Krak, Đăk Lăk, Tây Nguyên một bộ 11 thanh đá xám có dấu hiệu ghè đẽo bởi bàn tay con người, kích thước từ to đến nhỏ trong đó thanh dài nhất 101,7 cm nặng 11,210 kg; thanh ngắn nhất 65,5 cm nặng 5,820 kg. Phát hiện này được báo cho Georges Condominas, một nhà khảo cổ người Pháp làm việc tại Viện Viễn Đông Bác Cổ. Tháng 6 năm 1950 giáo sư Georges Condominas đưa những thanh đá này về Paris và chúng được nghiên cứu bởi giáo sư âm nhạc André Schaeffner. Sau đó, Georges Condominas công bố kết quả nghiên cứu trên tạp chí Âm nhạc học (năm thứ 33 – bộ mới) số 97-98 tháng 7 năm 1951, khẳng định về loại đàn lithophone ở Ndut Liêng Krak, “”nó không giống bất cứ một nhạc cụ bằng đá nào mà khoa học đã biết”. Hiện bộ đàn đá này được trưng bày ở Bảo tàng Con Người Paris, Pháp.
Năm 1956, trong Chiến tranh Việt Nam bộ đàn đá thứ hai được phát hiện và một đại úy Mỹ mang về trưng bày ở New York.
Năm 1980, Georges Condominas lại phát hiện bộ đàn đá thứ ba có 6 thanh tại buôn Bù Đơ thuộc xã Lộc Bắc, huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Đây là bộ đàn do dòng họ Ksiêng (người Mạ) lưu giữ qua 7 đời.
Từ những năm 1979 vấn đề nghiên cứu, sưu tầm về đàn đá được giới khoa học Việt Nam khơi dậy và cho đến những năm đầu thập niên 1990, người ta tìm được khoảng 200 thanh đàn đá rải rác ở Đắc Lắc, Khánh Hòa,
ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ TRANG SỨC CỦA PHỤ NỮ VIỆT Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Dịch vụ hỗ trợ viết đề tài điểm cao luanvantrust.com .
Zalo / Tel: 0917.193.864
Cơ sở lý luận về Quá trình hình thành và phát triển trang sức của người Việt. Trang sức là một loại hình di vật đặc biệt ko chỉ có mục đích làm đẹp cho con người, mà còn biểu thị trình độ thẩm mỹ và kỹ thuật chế tác qua từng thời kỳ, qua đó người xem có thể hình dung được sự phát triển về tư duy của người Việt. Bên cạnh cuộc sống mưu sinh vất vả thường nhật của con người thời đó. Từ đó vẫn còn lóe lên được cuộc sống tinh thần, tức là họ biết làm đẹp, biết trau truốt cho bản thân họ, tự tôn bản thân mình, toát lên vẻ sang trọng của người sử dụng trong giới quý tộc.
Cơ sở sản xuất Nhạc cụ Phong vân chuyên nhận đặt làm Đàn Đá Tây Nguyên biểu diễn
Đàn đá có 15 thanh đá lớn , mỗi thanh rộng khoảng 8 tới 10 cm
Chất lượng đá nhập tại các vùng Tây Nguyên
Thời gian hoàn thành 20 ngày
Hình ảnh sản phẩm:
co so lam da da dan da tay nguyen mua ban dan da dia chi ban dan da
Thông tin chi tiết về Đàn Đá:
Đàn đá (các dân tộc ở Tây Nguyên, Việt Nam gọi là goong lu, đọc là goòng lú, tức “đá kêu như tiếng cồng”) là một nhạc cụ gõ cổ nhất của Việt Nam và là một trong những loại nhạc cụ cổ sơ nhất của loài người[3]. Đàn được làm bằng các thanh đá với kích thước dài, ngắn, dày, mỏng khác nhau. Thanh đá dài, to, dày có âm vực trầm trong khi thanh đá ngắn, nhỏ, mỏng thì tiếng thanh. Người xưa sử dụng vài loại đá có sẵn ở vùng núi Nam Trung Bộvà Đông Nam Bộ để tạo ra nhạc cụ này. Đàn đá đã được UNESCO xếp vào danh sách các nhạc cụ trong Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên.
Lịch sử phát hiện
Năm 1949, những người phu làm đường phát hiện tại Ndut Liêng Krak, Đăk Lăk, Tây Nguyên một bộ 11 thanh đá xám có dấu hiệu ghè đẽo bởi bàn tay con người, kích thước từ to đến nhỏ trong đó thanh dài nhất 101,7 cm nặng 11,210 kg; thanh ngắn nhất 65,5 cm nặng 5,820 kg. Phát hiện này được báo cho Georges Condominas, một nhà khảo cổ người Pháp làm việc tại Viện Viễn Đông Bác Cổ. Tháng 6 năm 1950 giáo sư Georges Condominas đưa những thanh đá này về Paris và chúng được nghiên cứu bởi giáo sư âm nhạc André Schaeffner. Sau đó, Georges Condominas công bố kết quả nghiên cứu trên tạp chí Âm nhạc học (năm thứ 33 – bộ mới) số 97-98 tháng 7 năm 1951, khẳng định về loại đàn lithophone ở Ndut Liêng Krak, “”nó không giống bất cứ một nhạc cụ bằng đá nào mà khoa học đã biết”. Hiện bộ đàn đá này được trưng bày ở Bảo tàng Con Người Paris, Pháp.
Năm 1956, trong Chiến tranh Việt Nam bộ đàn đá thứ hai được phát hiện và một đại úy Mỹ mang về trưng bày ở New York.
Năm 1980, Georges Condominas lại phát hiện bộ đàn đá thứ ba có 6 thanh tại buôn Bù Đơ thuộc xã Lộc Bắc, huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Đây là bộ đàn do dòng họ Ksiêng (người Mạ) lưu giữ qua 7 đời.
Từ những năm 1979 vấn đề nghiên cứu, sưu tầm về đàn đá được giới khoa học Việt Nam khơi dậy và cho đến những năm đầu thập niên 1990, người ta tìm được khoảng 200 thanh đàn đá rải rác ở Đắc Lắc, Khánh Hòa,
ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ TRANG SỨC CỦA PHỤ NỮ VIỆT Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Dịch vụ hỗ trợ viết đề tài điểm cao luanvantrust.com .
Zalo / Tel: 0917.193.864
Cơ sở lý luận về Quá trình hình thành và phát triển trang sức của người Việt. Trang sức là một loại hình di vật đặc biệt ko chỉ có mục đích làm đẹp cho con người, mà còn biểu thị trình độ thẩm mỹ và kỹ thuật chế tác qua từng thời kỳ, qua đó người xem có thể hình dung được sự phát triển về tư duy của người Việt. Bên cạnh cuộc sống mưu sinh vất vả thường nhật của con người thời đó. Từ đó vẫn còn lóe lên được cuộc sống tinh thần, tức là họ biết làm đẹp, biết trau truốt cho bản thân họ, tự tôn bản thân mình, toát lên vẻ sang trọng của người sử dụng trong giới quý tộc.
1. 32
tăng gia sinh sản.
2) Biết dùng đồ chứa bằng gốm (vò vại, nồi niêu) để nấu chín và dự trữ thức ăn.
3) Biết sử dụng dụng cụ đá mài. Đồ đá mài khác với đá đẽo là có thêm một đợt gia
công để trở nên tinh vi hơn. Do đó thời này còn được mệnh danh là thời đồ đá mới
(tân thạch khí).
Tuy nhiên, cần ghi nhớ một điều quan trọng là không vì thời kỳ văn hóa Jômon bắt đầu
mà người ta bỏ dụng cụ đá đẽo đi không dùng nữa. Nói cách khác, vào thời Jômon,
người ta vẫn dùng cả hai.
Trong ba đặc tính kể trên của văn hóa Jômon, nhờ việc sử dụng các đồ chứa làm bằng
đất mà tỷ lệ sinh tồn (survival) của con người cao lên một cách rõ rệt. Lý do là thay vì
ăn thịt sống, người ta biết nấu chín, nên giết hết vi trùng nên giữ thực phẩm được lâu.
Nhờ đó, họ cũng có thể loại bớt chất đắng chát trong các loại quả hạt như các thứ hạt dẻ
tochi (horse chestnust) hay donguri (acorn), làm chúng dễ ăn hơn
Thế nhưng khi thu thập thống kê về tuổi tác và tỷ suất tử vong của người thời Jômon thì
ta được biết rằng đối với dân số trên 15 tuổi, tuổi thọ của họ nằm giữa khoảng 35 đến 40.
Còn như kể cả trẻ em từ 15 tuổi trở xuống thì tuổi thọ của họ nói chung không tới 20.
Đem so tuổi thọ đó với tuổi thọ của thời đại chúng ta thì hãy còn cách nhau quá xa.
Trên mặt các thức đồ gốm thời này, vì muốn làm cho đều đặn những chỗ lồi lõm bất
nhất, người ta thường gắn vào đấy hoa văn giống như thừng quấn. Từ đó, đồ đất ấy mới
mang tên đồ đất Jômon (thằng văn = hoa văn hình dây thừng)17. Tuy nhiên cần chú ý là
lúc đó cũng thấy loại đồ đất trơn không có hoa văn nào cả.
Hoa văn dây thừng đã được gắn như thế nào thì mới chỉ được biết gần đây thôi. Nhà
khảo cổ Yamanouchi Sugao nhân dùng que bông gòn làm trục và thử lăn trên đất sét thì
thấy có thể khắc hình thù lên đó được, rồi khi ông dùng một giải dây và cùng làm một
động tác thì thấy tạo ra được hoa văn. Sau thí nghiệm của Yamanouchi, nhiều nhà khảo
cổ khác cũng làm thử với nhiều loại dây se theo kiểu khác nhau. Kết quả là họ đã giải
đáp được thắc mắc về cách thức gắn hoa văn của người xưa. Đồ gốm thời ấy còn có đặc
điểm nữa là nung dưới nhiệt độ thấp, vỏ khá dày và có màu nâu. Thời kỳ Jômon được
chia ra làm 6 giai đoạn: giai đoạn bắt đầu, giai đoạn sớm sủa, giai đoạn trước, giai đoạn
17 Đồ gốm Jômon cũng tìm thấy trên cả lục địa Phi Châu. Ở Nhật, di tích phân bố từ quần đảo
Chishima (gần bán đảo Kamchatka thuộc Nga) đến Okinawa.