SlideShare a Scribd company logo
1 of 257
Download to read offline
iOÀNG
CK.0000068292
KIẾN TRÚC
NHÀ Ở
NHÀ XUẤT BẢN XÂY DỰNG
ĐẶNG THÁI HOÀNG
KIEN TRUC
NHÀ ở
(Tái bản)
NHÀ XUẤT BẢN XÂY DỤNG
HÀ N Ộ I -2014
LỜI ‘
X ti X ĩL ÌT m ữ i
Nhà ó luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi tâng láp
trong xã hội. Thiết kế và xăy dụng nhà ò nhu thế nao dề đáp
ứng dược nhu càu cuộc sống vật chát, tinh thăn và thúc dẩy
quá trình phát triền của xă hội ? Dó luôn là những ván d'ê dặt
ra cho các nhà kiến trúc, xăy dụng.
Đề đáp ứng được nhu càu v'ê tài liệu nghiên. CỊ'*.. Iham
khảo và học tập cho các kiến trúc su, kỹ sư xảy dụng, cùng
dông dào sinh viên các truòng dại học và những người quan
tăm uễ kiến trúc nhà à, N hà xuất bản Xăỵ dụng cho tái bàn
cuốn "Kiến trúc nhà ỏ" của PGS. KTS. Đặng Thái Hoàng.
Lân tái bàn thứ nhát này, ngoài việc chinh lý lại nội dung,
chuong mục, sách còn bổ sung thêm hình vẽ m inh họa và
phụ lục tham khảo bổ ích , phù họp vói yêu cảu phát triển
nhà à hiện nay. Mặc dù dã có nhiêu cố gáng, song chác chấn
không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi luôn mong nhận
dược những ý kiến dóng góp, phê bình của dông dào bạn dọc
dề cuốn sách được tốt han.
NHÀ XUẤT BẨN XÂY DỰNG
Chunng 1
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIEN
KIÊN TRÚC NHÀ ỏ
1.1. NHÀ Ở TRONG XÃ HỘI NGUYÊN THUỶ VÀ XÁ HỘI NÔ LỆ
Con người trước khi đi đến căn nhà ở và những ngôi nhà ở hiện đại ngày nay đã từng
có một nền vãn minh vẽ kiến trúc nhà à rất lâu đời.
Trong xã hội nguyên thuỳ do trình độ sàn xuất rất thấp kém và lạc hậu, nơi ở cúa
con người còn rát thô sơ. Ngày nay, chúng ta biết được những nơi ở đơn giàn ban đầu
của họ, nhờ khảo cổ học khai quật lên những công trinh từ xa xưa ; hoặc nhờ các công
trình nghiên cứu những bộ lạc nguyên thuỷ còn sống rải rác trên thế giới hiện nay.
Vào thời kỳ đổ đá cũ con người sống trong những hang động thiên nhiên, hoặc cao
hờn (hang động có gia công)... tiếp đến là dùng liếp che chấn thô sa, rồi đến nơi ở có
mặt bằng hình tròn xây dựng bàng đá hoặc kết bàng cành cây (xem hình 1.1).
Qua một số di tích cho thấy trong hang đá làm nơi ỏ : phía trong làm nơi thờ cúng,
phẩn phía ngoài làm không gian ỏ.
Liếp chán gió của người nguyên thuỷ làm bàng vật liệu nhẹ thường thấy ở những
vùng khí hậu ấm đã được Phorê tìm ra qua những di tích còn sót lại ỏ vùng Andắcxơ
(Pháp). Người ta thường quan niệm liếp chấn gió là một tấm liếp hình khum đan bằng
những mảnh thân cây với tâm là một bếp lửa. Loại liếp chắn gió phức tạp hơn là một
mái nghiêng tựa trên một hệ khung gỗ và trên lớp lát mái nghiêng có lợp cỏ (theo
A.R.Brao).
Trong khoảng 400 năm sau khi phát hiện ra châu Mỹ (từ thế kỷ XV trở đi) người ta
còn gập những bộ lạc sống từ thời kỳ đổ đá. Lơại lểu của họ có thể xây dựng bằng vỏ
cây hay bàng đất. Có loại nhà vòm cây dựng bằng đất có trổ cửa trên đỉnh mái để lấy
ánh sáng và kết hợp thoát khói.
Cách dựng lều tipi của thổ dân da đỏ (theo Oatecman) là bát đẩu dựng khung hình
chữ V ngược, buộc lại ở chỗ giao điểm, rổi dựng thêm một chiếc sào thứ ba làm thành
thế chân vạc, nhiễu sào phụ khác được dựng tiếp, dùng thừng chàng các cây sào lại với
nhau và cuối cùng mái lễu được buộc chặt vào khung và ghim chặt xuống đãt bàng cọc.
Loại lều thường thấy ở châu Mỹ là loại lễu làm bàng thân cây có lợp vỏ cây hoặc phủ'
bằng da của hươu tuấn lộc.
5
Điều kiện địa lý khác nhau nên lễu cũng khác nhau. Những người Exkimõ Bấc cực
ỏ những lều tròn xây dựng bàng băng, và băng càng mới nhà càng ẩm; trong khi đó
người ở vùng sông Amua dựng những lều hình yên ngựa ; còn léu của người dân du mục
vùng Bấc Phi có dạng hình chữ nhật phủ lá kè hoặc da thú.
Một ví dụ đáng chú ý là việc khai quật làng Xcara Brây ở Iếclăngđa. Đó là một nhóm
quấn cư từ thời tién sử đổ đá mới gốm những nhà tròn bàng đá xây dựng bằng đá tảng
xếp chổng lên nhau.
Khi cuộc sống du cư chuyển sang định cư, con người sống theo chế độ cống xã nguyên
thuỷ và cả thị tộc tham gia xây dựng nhà ở, bấy giò xuẫt hiện loại nhà dài cho một vài
gia đỉnh hay nhiều gia đình. Có nhà chứa chục người hay có nhà hàng trăm ngưòi. ở
gần Niu Oóc, người ta đã thấy những nhà dài 15 - 30m, giữa nhà có hành lang rộng
1,8 - 2,5m và có vách ngăn bàng gỗ cây, cứ bôn căn hộ lại có một bếp lò và toàn nhà
có 5 đến 7 bếp lò. Loại nhà dài này vẫn còn tìm thấy ở Liên Xô (cũ) hay ở Việt Nam:
ơ Liên Xô (cũ) nãm l938 người ta phát hiện thấy ỏ tỉnh Vôlônhegiơxkaia có nhà dài 34m
với 10 bếp lò ; còn à Tây Nguyên, những dân tộc ít người ở ta đã có những ngôi nhà
"dài như những tiếng chuông ngân".
Khi con người bước sang giai đoạn đổ đá mới, nông nghiệp và chăn nuôi phát triển thì
ngôi nhà ở của con người cũng đã phát triển cao hơn. Ăngghen trong cuốn "Nguồn gốc của
gia đình, cùa chế độ tư hữu và của Nhà nước" đã viết :''Lửa và riu đá đã tạo khả năng cho
việc chế tạo thuyền độc mộc, có nơi đã dùng gỗ và ván đê’ xây dựng nhà cửa'’.
Làng xóm bấy giờ ngoài chướng ngại vật bao xung quanh còn có thêm kho và chuồng
súc vật. 0 Ba Lan vùng Bixcupinxki gần Pôdơnan đã tìm thấy di chỉ một thôn xóm xã
hội nguyên thuỷ với những nhà dài từ 3 đến 12 gian, mói gian có 1 bếp lò, các nhà xếp
song song và cách nhau bởi những con đưòng có lát gỗ rộng từ 2,4 - 374m. Làng
Bixcupinxki nguyên thuỷ này rộng tới 2,5ha. Mỗi nhà trong làng có tường đất đáp và
mái nhà dốc (xem hình 1. 2).
Một thành tựu khác trong lãnh vực khảo cổ học là việc tìm ra và trùng tu cả một
làng nổi trên hổ Duy rích ỏ Thuỵ Sĩ. Bí mật này được phát hiện vào năm 1954 kht vét
bùn ở đáy hổ Duyrích để xây dựng đập nước. Trong một vùng 500 X 80m đã phát hiẹn
được tới bốn vạn chiếc cột gỗ sối, gỗ bạch dương hay gỗ thông, đấu cột được vót 'nhọn
bàng rìu đá (những vật liệu xây dựng đó còn bảo vệ được đến ngày nay là do có một lớp
bùn dày che chở) ; đống thời người ta cũng đã tìm thấy những rìu đá và sàn phẩm bàng
gốm có hoa văn đơn giản nên đã giúp cho người ta dựng lại được bức tranh sinh hoạt
của con người thời kỳ đồ đá, khi họ đã định canh định cư không còn sống cuộc sống du
mục nữa, đó là những ngôi nhà sàn hình tròn có mái hình nón đặt trên một mạt sàn
nổi trên mật nước nhờ một hệ thống cột. Lúc bấy giờ, con người cần phải sống trên hồ
hay gán sông để tiện lợi cho sinh hoạt và có thê’ chống lại được thú dữ hay bộ lạc kẻ
thù (xem hình 1.4).
Sang chế dộ nô lệ, nén vãn minh nhà ở đáng nghiên cứu thuộc vé những phấn đất
Ai Cập, Hy Lạp, La Mã và Ấn Độ.
ơ Ai Cập cổ đại, nhà ở thường làm bằng đất sét và lau sậy, gạch nung chỉ có đối với
nhà ở quý tộc.
6
Vào khoảng 4000 năm trước công nguyên (thời kỳ Vương quốc tiễn kỳ) ỏ Tây Bác
cách Cairô 40km đã phát hiện ra một điểm dân cứ lớn với hai loại nhà điển hình :
- Loại nhà khung gỗ, tường gỗ, trên khung tường bàng gỗ ken sậy, nhà có phong
cách nhẹ nhàng và chất lượng thẩm mỹ tương đối cao.
- Loại nhà có kết cấu gạch không nung, tường, móng làm bằng đá hộc, hình dáng
nặng nễ nhưng ổn định.
Trong quấn cư trên có 2 loại nhà người ta thường thấy có mái bàng là loại phổ biến
ở Ai Cập Thượng, còn ỏ Ai Cập Hạ thĩ nhà dùng gỗ và lau sậy là chính.
Loại nhà ỏ thời kỳ Cô’ Vương quốc (3000 năm trước công nguyên) là loại nhà hình
chữ nhật, mái dùng gỗ gác bằng để mùa hè nóng nực có thể làm nơi ngủ được.
Vào thời kỳ Trung Vương quốc (khoảng 2000 năm trước công nguyên), vua Sênuxe
II đã tập trung nhân công xây dựng thành phố. Việc khai quật thành phố này đã cho
thãy khá nhiễu những di tích nhà ở. Thành phố hình chữ nhật có kích thước 380X 260m
được chia làm hai khu vực : khu dân nghèo ở phía Tây có kích thước 260 X 105m gồm
250 ngôi nhà 2 - 3 gian xây dựng bầng lau sậy và đất sét (chiéu rộng nhà không quá
7-10m) ; phía Đông Bắc là khu nhà giấu với 10-11 trang viên, có nhà rộng tới 60 X 45m
với 70 phòng ; phía Đông Nam thành phố là khu vực dành cho lớp dân trung lưu.
Nhà ỏ bấy giờ đã phản ành rõ sự đối lập giầu nghèo. Mặt bàng nhà ở quý tộc Ai Cập
thời kỳ này có những đặc điểm sau : m ặt giáp phố không trổ cửa sổ, chi có cửa hẹp vào
sân trong, trong nhà có các phòng cho nam và nữ riêng, phòng lớn có độ cao lớn, phòng
nhỏ có độ cao bé hơn, phẩn chênh lệch vễ độ cao này làm cửa trời đê’ thông gió, từ sân
lên mái có cẩu thang được dùng để hóng mát.
Khoảng thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XI trước công nguyên (thời kỳ Tân Vương
quốc), nhà ở còn ghi lại dấu vết ở thành Tel el Amácna. Ở đây các loại nhà ở chính là :
- Nhà ỏ 3 gian (một gian làm bếp và cất lương thực, 2 gian khác làm phòng ở) vật
liệu xây dựng là lau sậy và đất sét, mái bàng.
- Nhà cho quan lại (70 X 70 mét) tường gạch cao, mở 3 cửa quay ra phố.
- Lâu đài : loại này có ao cá, vườn cây phía trước, các phòng của chủ nhân có nễn
cao, phòng dành cho nô lệ, các phòng phụ có nền thấp hơn một mét ; vật liệu dùng cột
gỗ, tường gạch, dẩm gỗ, mái bàng và trong nhà có tranh tường.
Thài kỳ Hy Lạp cổ dại, ỏ dưới chân thành Aten, nhà ở được xây dựng một cách tự
phát, họp lại thành từng phưòng tuỳ theo nghễ thủ công, các nhà hai tầng chen chúc
nhau bên những con đường hẹp. Dấn dấn kiểu xây dựng những phường gồm 4 đến 6
nhà trên những mành đất khoảng 30 X 40 mét trở nên phổ biến. Nhà ở phát triển quanh
Akrôpôn là khu thánh địa cùa thành phố.
Nhà ở La Mã cổ đại phàn ánh rõ rệt đời sống xã hội và mối quan hệ giữa các tẩng
lớp thời đó. Thời kỳ đáu (thế kỷ thứ IV trước công nguyên) nhà ở quý tộc rãt phát triển,
kiểu chù yếu là nhà ở quý tộc có sân trong, có bể nước ở giữa, ở đây còn dùng làm nơi
tiếp khách, trung tâm sinh hoạt của gia đình, làm cơm thờ cúng. Loại nhà phát triển
mạnh nhất là loại nhà tập thể cho thuê (nhà công ngụ) loại nhà này gồm những phòng
đơn điệu hướng ra một hành lang, xây dựng bầng vật liệu rẻ tiễn và có nhiéu tấng. Thòi
7
kỳ đáu 3 - 4 táng, đến thế kỷ thứ II sau công nguyên có nhà 5 - 6 táng và đến thế kỷ
thứ IV xuất hiện cà những "nhà chọc trời”có nhà đã cao tới 18m và 21m. Theo sử sách
ghi lại, có thời gian ỏ La Mã cô’ đại có tới 46.602 nhà ở kiểu này.
Loại nhà này có tên gọi chung là Inxunơ, dùng để phục vụ thợ thủ công, thuỷ thủ,
tiểu thương. Inxunơ (khai quật được vào năm 1935) là một ngôi nhà 5 táng ở Rôma dùng
tường gạch và sàn bê tông.
Dấu vết của nén văn minh cổ La Mã được sáng tỏ rát nhiễu qua việc phát quật cả
một thành phố đã từng nổi danh trong lịch sử : thành Pômpêi. Đó là một thành phố
phồn vinh một thời và bị chôn vùi sau một trận phun lửa dữ dội cùa núi lửa Vêduyvo
năm 79 sau công nguyên. Cà thành phô bị bao phủ bởi một lớp phún thạch dày tối 8 -
9m, cho đến tận thế kỷ 18 (năm 1763) người ta mới xác định được vị trí do tìm thấy
được biển đễ chữ "Thành phố Pômpêi"và thật sự vào khoảng 100 nãm sau, công tác khai
quật và đưa ra ánh sáng thành phố tới 20 - 30 nghìn dân này mới được tiến hành một
cách có hệ thống dưới sự lãnh đạo của nhà khảo cổ học nổi tiếng Dgiuzeppê Phiôrenli.
Thành phố được hiện lên với những nhà ở xây dựng từ thế kỷ thứ IV và thế kỷ thứ II
trước công nguyên rất đa dạng cũng như các công trinh công cộng, quàng trường càng
được xây dựng đẹp đẽ tráng lệ.
Những ngôi nhà ở Pômpêi được xây dựng khoảng 200 năm trước công nguyên có hình
thức rất duyên dáng : bốn m ặt tường phảng, m ặt trước có cửa vào và hai cửa sổ nhò
hai bên, mái dốc cấu tạo phức tạp do có sân trong nhò, chiếc sân trong này gọi là Atri,
thường có bể chứa nước mưa (mặt nước ngang mặt sân) theo đưòng ống dẫn từ mái
xuống và chạy ngầm dưới đất (xem hình 1.5).
Nhà à của nhà giấu, có tới 40 phòng, ngoài những sân trong nhỏ, còn có sân trong
lón (pêrixtil) ỏ đó có trang trí cây cảnh, thảm cỏ, bê’ nước, và các điêu khấc nhỏ v.v...
(xem hình 1.6). Loại nhà này mang tên kiểu Atripêrixtil. Có nhà có tới 2 Atri và 2
Pêrixtil. Trong những loại nhà này, hội hoạ và tranh tường rất được chú ý sừ dụng đề
tăng vẻ đẹp của kiển trúc.
Những ngôi nhà ở trên, không đại diện cho loại nhà ở thông thường của đa số dân
thành phố là thợ thủ công và buôn bán nhỏ hay những tầng lớp binh dân khác, chiếm
đa số trong thành phố. Nhà ở của họ thường hẹp và dài, có lối đi nhò từ ngoài vào trong,
bên cạnh có một xưởng thủ công nhò hay cửa hàng, tiếp đến là một Atri với bê’ nước,
sau là đến khu phòng ngủ và các phòng phụ đặt cạnh một sân hở nhỏ có bể nước, bốn
hoa (khu vệ sinh đật dưới gấm cẩu thang đi lên gác xép).
Phát triển gẫn như song song với cổ Ai Cập, ở châu Á, đất nước Ân Độ cũng đã có
một nén văn minh rất đáng chú ý.
Những thành phố cùa An Độ vào khoàng 3000 nám trước công nguyên được bố trí
uốn nán và phân chia bởi mạng lưới đường chính và phụ thảng táp Thế giới biết đến
người An Độ cô’ đại như những nhà quy hoạch đô thị tiền phong qua dấu vết của các
thành phố cổ Môhengiô Đarô và Sanhê Đarô (ỏ vùng Xinh) cũng như Harappa (ở Păng
- giáp), ở đây có những ngôi nhà gạch màu đỏ, mái bàng, có tường ngăn xây lửng để
thông gió. Trong thành phố còn có cả nhà hai tầng : tầng dưới là bếp, nhà tám, kho,
giếng; tầng trên là các phòng ngủ.
Hình 1.2 : Di ttch nlià ir vùng hò Bixcupmxki ớ Ba Lan
Hình 1.3 : Nhà ứ bằnịỉ đăl sét cùa một bộ lạc nguyên thủy cháu Phi
9
Hình 1.4 : Nhà sàn nguyên thúy irên hầ Duyrtch
10
1.2. KIẾN TRÚC NHÀ Ở CHÂU Â u THỜI KỲ TRƯNG
THẾ KỶ VÀ THỜI KỲ PHÔI THAI T ư BẨN CHỦ NGHÍA
Thời kỳ Trung thê' kỷ - từ th ế kỷ XII đến thê' kỷ XV - ở châu Âu đã nổi lên
một nén kiến trúc thế tục trong đó có kiến trúc nhà ở truyền thống khá nối tiếng.
Mácxim Goocki đã nhận xét : "Lịch sử văn hoá đã bảo cho chúng ta biết các đoàn thể
thủ công nghiệp Trung thế kỷ cùa các thợ đá, thợ mộc, thợ khấc hoa văn và thợ làm đổ
gốm rất thiện nghệ trong việc xây dựng nhà cửa và chế tạo nên những đổ dùng đẹp đẽ
lạ thưòng mà các nhà nghệ sĩ cá thê’ sánh không kịp ..." *■
*'. Ngay trong những dinh thự
cùa tầng lớp có tiền, đối lập với kiến trúc nhà ở dân gian, vẫn mang tính chất thế tục
rất lớn. Khi xét đến sự phát triền nhà ở của thời kỳ này, cẩn nghiên cứu kiến trúc nhà
ở cùa cả hai tấng lớp ở một số nước :
Ò Pháp, kiến trúc nhà ở dân gian của thị dân bấy giờ có phong cách rất hấp dẫn,
thể hiện tinh thẩn lạc quan.
Dán thành phố thường sống trong những nhà nhiễu tấng : tầng một là phường thủ
công hoặc quầy hàng, các tầng trên là phòng ngủ. Mặt đứng đấu hổi nhà (phía tháy mái
thu hổi) hướng ra đường phố hoặc quảng trường. Kết cấu của nhà khung gỗ là chủ yếu,
và hoàn toàn bộc lộ ra ngoài, loại nhà này thường gia công rất tinh xảo có sức lôi cuốn,
trên mặt đứng cửa sô’ được mở rất rộng.
Loại nhà này được sử dụng nhiễu ở thời kỳ Văn nghệ phục hưng mà đến tận ngày
nay vẫn được nhiéu người hâm mộ. Nhà ở lúc bấy giờ áp dụng cách trang trí gô tích và
yêu cáu thẩm mỹ cao. Loại nhà này không lớn, thưòng có sân trong, kèm theo nhà phụ
và vưòn nhỏ.
Loại dinh thự và trang viện của nhà giấu thời kỳ này cũng được phát triển mạnh.
Dinh thự xây bàng đá, và tường bên ngoài cũng xây đá dày bao quanh, bên trên nóc
nhà có bố trí nhiều tháp để trang trí, hình thức mặt đứng bưng bít kín đáo. Một số ví
dụ tuơng đối điển hình là dinh thự Giáccơ Cơ (1443), dinh thự Buốcthơrundơ (1475), và
dinh thự Kluynny (1485) ở Pari.
Những trang viện lớn thường có thành luỹ và hào nước bao quanh, trên thành có
vọng lâu và cửa vào có cẩu treo.
Bộ mặt bên ngoài của trang viện rất nậng nề nhưng nội thàt lại giấu tính trang trí.
Những trang viện Côngxipierơphông, Cacaxon được nhấc đến như những công trình tiêu
biểu của kiến trúc xã hội phong kiến lúc bấy giờ.
Ỏ Đức, trong khoảng mấy trăm năm của thời kỳ Trung thế kỷ, vật liệu xây dựng
chính là gạch và đá. Mái nhà dân gian Đức rất dốc, bên trong mái có tầng gác, hoặc
nhiễu tấng áp mái, thể hiện qua m ặt đứng bàng những cửa sổ ; và trên m ặt mái cũng
có lớp lớp cửa sổ.
« Bàn về vãn học.
11
Trên mặt tường gạch đá đơn giàn mà vủng chác, thường nhô ra những láu gác, hiên,
êke, cửa sổ (dùng kết cấu cõng xôn để tạo nên những không gian vươn ra ngoài mặt
đứng). Những hình thức kiến trúc này rất đẹp và tinh xảo. Những tiểu cành nhu chi
tiết vòi thoát nước ở chân tường hình đáu thú vật và bế nhò bằng đá chứa nước phía
dưới không những chi trang trí cho ngôi nhà mà còn làm đẹp thêm thành phô.
ở A nh, khi đó cũng tổn tại hai loại nhà chính : dinh thự có quy mô lớn, chẫt lượng
cao nhưng dáng vẻ bưng bít và lạnh lùng còn nhà ở thông thưòng thì lại có sức lôi cuốn,
hấp dẫn,
Vật liệu xây dựng nhà thông thường là đá hoặc gỗ. Hệ khung gỗ cùa nhà mầu sâm
được bộc lộ trên m ật tường tráng với kỹ thuât mộc rất khéo léo. Cửa sổ lớn nhô ra và
đẩu hối mái dốc được trang trí rất tinh vi.
ơ Anh thời kỳ này, hình thức bên ngoài nhà ở đã phản ánh đúng tô’ chức không gian
bên trong ; hỉnh dáng các phòng thường phức tạp, làm không gian kiến trúc đa dạng
phong phú và có cảm giác ăm cúng.
Ò Italia, kiến trúc nhà ỏ thời kỳ Trung thế kỷ đáng chú ý là những dinh thự. Các
công trình này được xây dựng bàng đá, với hai ba hoặc bốn tấng. Tầng dưới thườiĩg dùng
đá lớn và thô nhám, tạo càm giác vững chác và ổn định ; tầng trên xây bàng đá nhò và
phảng hơn, tạo ấn tượng nhẹ nhàng và tinh tế. Các tấng nhà đều được phân biệt bằng
các gờ ngang. Cửa sổ rất lớn, với hình thức tô’ hợp gô tích, dưới một cái cuốn có từ hai
đến ba cửa sổ. Đối với loại kiến trúc này, có những công trình tiêu biểu như Xpiri,
Phrexcôban, Tôlômây, Agôxtini. Hinh thức kiến trúc đá này vẫn còn thấy lại ở Italia
trong những thời kỳ tiếp theo.
Cũng vào thời kỳ Trung thế kỷ, người ta thấy ở những mién cực Đông châu Âu, như
ỏ Côcadơ, Nam Tư, Bungari, xuất hiện và tổn tại một loại nhà ỏ kiểu pháo đài. Loại
nhà này ra đời do yêu cầu an toàn của những người dân, nhằm phòng thủ chiến tranh
cũng như xung đột giữa các dòng họ.
Loại nhà này có m ặt đứng bưng bít, chi trô’ cửa sô’ ở tẩng trên cùng và trông như lỗ
châu mai. Những ngôi nhà loại này thường cao ba, bốn tấng. Nhà ở pháo đài ở Nam
Côcadơ tấng dưới thường cao 2m đê’ súc vật, những tầng trên để người ò thường cao
3m Tường xây bàng đá vàng xám phía dưới dấy trên một mét phía trên dẩy 90cm.
Nhà ở kiểu pháo đài này ỏ Bungari rất đa dạng, xây bàng đá rất công phu, những
hình thức cửa sô’ tầng trên cùng nhô ra ngoài tường bằng những ban công kín khiến cho
mặt nhà sinh động. Lúc đó, kiểu nhà này được xây dựng ở những điểm dân cư có tầm
chiến lược quan trọng (xem hinh 1.6).
Đến thời kỳ phôi th a i tư bản ch ủ nghĩa, nên kiến trúc phải kê’ đến đẩu tiên là
kiến trúc Italia thời kỳ Văn nghệ phục hưng (thế kỷ thứ XV và XVI).
Ở Italia lúc này lâu đài của tẩng lớp trên thường xây dựng bàng đá và mang tính
chất phòng thủ rõ rệt : tẩng dưới có ít cửa và dùng để cho ngưôi làm và thấn binh ở.
Nhà có sân trong và các phòng không có công năng rõ rệt. Tiêu biểu nhất là lâu đài
Mêđixi xây dựng trong khoảng 1430 - 1440. Một số khác đáng chú ý như toà nhà Xtrôxxi
(1489 - 1507) ở Phlorăngxơ, biệt thự Madam (1513 - 1520) do Raphaen thiết kế xây
12
dựng ở Rôma , biệt thự Pharnenxia (1509 - 1511) của Pêrudi xây dựng cũng ở Rôma
và biệt thự Capra (biệt thự viên sảnh 1552) của Palađiô thiết kế xây dựng ở Vơnidơ
ò Pháp, vào thời kỳ Văn nghệ phục hưng, khoảng giữa thế kỷ XVI, tồn tại hai loại
nhà ở thành phố chính :
- Loại nhà nhỏ chi có một lối vào phía trước.
- Loại nhà lớn hơn có sân sau và lối vào phíasau. Loại nhà có hai lối vào này, nhà
chính và nhà phụ nối liên bằng hành lang, ơ đây, chủ nhà là dân thủ công hoặc thương
nhân sống ở phía trước, thợ học việc ở phía sau.
Hình thức bên ngoài nhà vẫn như thời kỳ Trung t.hế kỷ, nhà có bóng dáng (xiluét)
rẵt phức tạp do mỗi bộ phận của phòng có 1 mái riêng rất dốc. Vật liệu xây dựng là đá,
gạch, và chù yếu là gỗ. Gạch và đá được xây hỗn hợp thành những tổ hợp rất đẹp. ơ
các góc nhà của dân thành phố thường có những đèn treo (ôriel) và tháp nhọn nhỏ
(tuyaret) làm tăng vẻ mỹ quan cho nhà và góp phẩn tô điểm cho bộ m ặt của thành phố.
Tác phẩm điển hỉnh của loại kiến trúc nhò này là toà nhà Côghiơ (1540).
Đến thời kỳ quân quyễn tập trung - đấu và giữa thế kỷ XVII (1630 - 1665) - kiến
trúc nhà ở thay đổi, nhà ở tư sàn và quý tộc xây dựng rất nhiéu ở Pari và các tinh. Các
phòng có chức năng nhất định như : phòng ăn, phòng khách... Tô’ hợp m ật đứng liên tục
và thông nhất hơn, các cửa sổ, cửa đi và trụ cột được đơn giản hoá. Nội thất được thiết
kế riêng.
Từ đẫu thế kỷ XVIII trở đi nhà ở trong thành phố của Pháp lại tiến lên một bước bố
trí hợp lý hơn, các phòng độc lập không ảnh hưởng đến nhau, vỉ nhà có tổ chức hành
lang trong. Sự liên hệ giữa bếp và phòng ăn, phòng ngủ và nhà tám thuận tiện hơn.
ỏ Đúc,vào thế kỳ thứ XVI - XVII, nhà ở dân gian truyền thống tiếp tục phát triển :
nhà mái dốc và nhiẽu tầng gác áp mái, tấng dưới là cửa hiệu, các táng trên là khu vực
ở, tường hổi nhà (nơi có hình tam giác của mái) được chú ý trang trí. Saú này, những
nét đơn giản và tinh tế đó vẫn được sử dụng lại. Ngôi nhà ở Đexxau một ngôi nhà ở
của tầng lớp trung lưu là một kiệt tác tiêu biểu cho kiến trúc nhà ở cùa Đức thời kỳ
này : nó đơn giàn, thân m ật và hấp dẫn...
0 Nga, song song với sự phát triển nhà ở của các nước Tây Âu, cũng phát triển một
kiểu kiến trúc nhà ỏ bàng gỗ rất đặc sắc. Nhà gỗ phát triển ò khắp nước Nga, còn ở
Biêlôruxxia và Ukren, với tên thường gọi là "Idơba”. Tuy ở thế kỷ XVII kết cấu gạch đá
đã nhiễu lên, nhưng kết cấu gỗ vẫn chiếm đa số, kể cả ở Matxcơva. Với bàn tay sáng
tạo của những người thợ giàu tài năng, ngôi nhà gỗ Nga gây một cảm giác thân mật,
ẫm cúng và vui mát. Phong cách nhà rất đa dạng : hai mái dốc hoặc bốn mái dốc, ba
hoặc năm cửa sô’ trên m ật đứng v.v...(xem hỉnh 1-7). Cùng với m ặt bàng (thường bao
gốm sành vào, phòng chính, phòng phụ, kho để lương thực, hình khối kiến trúc phong
phú và sinh động, cẩu thang, hiên nghỉ, cửa sổ và ban công có trang trí), kết cấu gỗ
trang trí rất đúng liều lượng, thường thấy ở khung cửa sổ, cửa đi, lan can, cột gỗ trong
nhà, hình thành một bút pháp rất độc đáo của điêu khắc kết hợp với kiến trúc. Tường
gỗ "Idơba", chỗ nối ỏ góc làm toàn bằng gỗ thanh tròn có thê’ liên kết "khấc" hay "mộng".
Nhà nghèo lợp mái rơm, nhà giấu lợp mái ván.
13
14
Nhà gỗ Ukren có khác biệt với nhà gỗ Nga. ỏ đây, tường ghép bằng ván có khi là
những tấm ván dài đặt đứng, nhà phụ tách khỏi nhà chính ò những nơi do khí hậu bớt
khác nghiệt hơn. Mái nhà Ukren đua ra khỏi tường nhà rất xa nên ngôi nhà giấu sức
biểu hiện.
Vào giai đoạn cuối cùa thòi kỳ lịch sử phát triển nhà ỏ này, mọi người thường chú ý
đến sự thay đổi của ngôi nhà ở thành phố của Pháp vào thời kỳ Cách mạng tư sản Pháp.
Do dân số thành phố tăng lên khiến cho m ật độ kiến trúc tăng lên đòi hỏi phải có một
số thay đổi : nhà phải xây hàng loạt kiểu ghép khối ra sát m ặt đường (xây một sổ nhà
cho đến hàng chục nhà một lúc) đê’ thay cho kiểu nhà cũ có sân vườn lớn, tốn đất.
Những người đẩu tư vốn xây dựng, cho "bộ mật" nhà ỏ của tầng lớp trung lưu, đã có
một số trang trí thích đáng. Những ngôi nhà trên đại lộ Phrãngxoa là ví dụ tiêu biếu
cho kiểu nhà này.
1.3. KIẾN TRÚC NHÀ Ở CÁC NƯÓC T ư BẨN CHỦ NGHĨA
Khi chủ nghĩa tu bàn bát đấu phát triển, cũng như giai đoạn tư bàn lũng đoạn trong
lĩnh vực kiến trúc, nhà ỏ luôn là một trong những vấn đễ đáng quan tâm.
Trong giai đoạn đầu cùa lịch sử kiến trúc cận đại tư bản chù nghĩa, nhà ở ở nước
Anh được phát triển mạnh nhất. Nhà ở tư sàn Anh cuối thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII
có hai loại chính : •
- Nhà có m ặt bàng hình chữ nhật giữa có sành và cầu thang, các phòng vây xung
quanh. Nhà xây dựng bàng gạch, ốp đá ở cửa và góc nhà.
- Nhà có m ật bàng hình chữ E và hình chữ H.
Nhà ở giai đoạn này vẫn là nhà ở kiểu phục hung cổ điển, chủ yếu là phục hưng La Mã.
Lúc bấy giô, nước Anh đứng đẩu vé sô' lượng và quy mô xây dựng nhà ở. Để đáp ứng
với nhu cẩu phát triển công nghiệp đã xuất hiện những nhà ở kiểu mới, có khi xây liễn
cả một loạt thành một đường phố, có lúc cả mười hay hàng trăm hộ thành một nhóm.
Ví dụ : Tiêu biểu nhất của hình thức xây dựng này là nhà ở trên đường phố Rigien
ở Luân Đôn, đó là một loạt nhà có hành lang chạy dài men theo đường, hình thành một
cảnh quan thống nhất, đó là mẫu mực của một phong cách xây dựng được gọi là "phong
cách thời kỳ nhiếp chính"; Đại lộ Rivôli ỏ Pari và tấng dưới nhà có hành lang cuốn hướng
ra công viên; Đại lộ công viên (Pác Avơnuy); đường phô số 5 ỏ Niu-Oóc.
Vào nửa sau của thế kỷ XIX, ở Anh xuất hiện xu hướng nhà ở gia đình lãng mạn chủ
nghĩa. Viliam Morin (một nhà xã hội học) đã tập hợp một số kiến trúc sư có tiếng như
Philip Vep, Risớt NoocmanSao và Voixây đề xướng nên phong trào "mỹ thuật và công
nghệ". Cơ sở của xu hướng lãng mạn chù nghĩa, hướng vễ phong cách gô tích trung thế
kỷ. Chủ nghĩa lãng mạn Anh bấy giờ rất có tiếng tãm, có thể công phá được sự thống
trị tuyệt đối của phái học viện cứng nhắc.
15
Dùng thủ pháp tương đối linh hoạt của kiến trúc Trung thế kỷ đáp ứng yêu cáu công
năng hiện tại, chủ nghỉa lãng mạn đã gây được một số ảnh hưởng nhất định. Hai tác
phẩm tiêu biểu của trào lưu này là Hổng ốc (Rết Haoxơ) - nhà ở cùa Morix do kiến trúc
sư Vep thiết kế và ngôi nhà ỏ Rutlan do kiến trúc su Voixây thiết kế: Hóng óc xây dựng
năm 1859 là một ngòi nhà có mật bàng hình gẫy khúc các phòng được sáp xếp theo yêu
cấu sử dụng, liên hệ thuận tiện hỉnh dáng đơn giản với tường gạch đỏ và mái dốc lớn;
Còn ngôi nhà ở Rutlan, người ta thấy tác giả mong muốn biểu hiện không khí bình lặng
và thâm trám thời kỳ trung thế kỷ, kiên trì với mục đích kiến trúc biểu hiện cuộc sống,
tận dụng khả năng kiến trúc tiếp cận với thiên nhiên.
Nói chung, nhà ở lãng mạn chủ nghĩa Phục hưng gô tích thường có ba kiểu : phỏng
theo kiểu nhà thờ, phỏng theo kiểu thành luỹ và phỏng theo kiểu nông thôn. Tới cuối
thê' kỷ XIX, xu hướng này bị trào lưu chiết trung chủ nghĩa của tẫng lớp tư sản hãnh
tiến lãn át.
Đấu thế kỷ XX, ở Mỹ loại nhà ỏ "kiểu thảo nguyên” của Rait được phát triển với nội
dung tân kỳ, kết hợp kiến trúc vởi tự nhiên (thảo nguyên mênh mông của miền Tây nước
Mỹ) và coi kiến trúc là một tổng thế (vé bố cục không gian, nội thất cũng như kết cấu).
Một trong những vẩn đễ lớn của kiến trúc thời kỳ tư bản chủ nghĩa là nhà ở công
nhãn. Những ảnh chụp và vẽ thời đó cho thấy những khu nhà ở công nhân là nghèo
nàn, hỗn độn. Nhà được xây thành từng dẫy với khoảng cách tối thiểu hoặc xây lộn xộn
với đủ loại vật liệu chấp vá. Việc chọn vị trí khu đất, bố trí nhà ở cuối hướng gió đối
với khu công nghiệp gây ra ô nhiễm, việc bô' trí nhà ở môi trường sống vào khu đất tháp
thường xuyên bùn lẩy nước đọng cũng rất phô’ biến. Nửa cuối thê' kỷ XIX, các thị trấn
công nhân phát triển mạnh. Những nhà xây hàng loạt có ý nghỉa sơ khai vé mặt
quy hoạch.
Đầu thế kỷ XX, trong kiến trúc nhà ở xuẫt hiện nhiễu ván để mới và có sự phân ngành
sâu thêm như xuất hiện các kiến trúc sư nội thất. Hai ví dụ tiêu biểu đáng chú ý là :
- Nhà ở ở đường Tuyranh, Bruychxen (Bi) xây dựng nãm 1903 do kiến trúc sư Oócta
thiết kế với đặc điếm sử dụng kết cấu thép cho nên có khà năng tổ chức m ật bằng và
mặt đứng tự do, quy hoạch căn hộ linh hoạt.
- Ngôi nhà ở đường Phơrangcơlanh, Pari (Pháp) xây dựng năm 1903, do kiến trúc sư
Ôguyxtơ Pêrê thiết kế với đặc điểm dùng khung bê tông tạo ra m ặt bàng tự do. Trong
kiến trúc hiện đại, kiến trúc nhà ở dẩn có những thay đổi đáng kể. Việc xây dựng nhà
ở bước đẫu theo những yêu cầu vé sử dụng và quy hoạch đõ thị : đấu tiên kiến trúc nhà
ở được xây dựng sáp xếp theo kiểu ô vuông, sau đó tiến tới việc xây dựng nhà ở song
song rổi việc xây dựng xen kẽ vào các công trinh công cộng phục vụ cãp I đã bát đầu
hình thành như trong quần thể nhà ỏ Cácmáchốp ở Viên.
Sau Chiến tranh thế giới thứ I, do sự tàn phá nên nhà ở trở thành vấn đễ nghiêm
trọng : ở Pháp có 36 vạn căn nhà bị phá huỷ, 1 triệu 30 vạn căn nhà bị hư hỏng- ở Anh
thiếu 50 vạn căn hộ và cần sửa chữa gấp 1 triệu 50 vạn căn hộ; ở NiuOóc (Mỹ) 1 triệu
người phải sống trong nhà ổ chuột. Việc thiếu nhà ở không chỉ là công việc của các nước
16
tham chiến, chiến tháng hay chiến bại, mà theo Ãngghen là "Sản phẩm tất nhiên của sự
hình thành xã hội giai cẫp tư sàn". Tinh trạng cần nhà ở do chiến tranh gây ra cũng
nhu do phân bô' lại cư dân theo sự phát triền của công nghiệp, cảnh sống vạ vật của lớp
dân nghèo cũng đã dẫn đến sự báo động vẽ yêu cấu giải quyết nạn khủng hoảng nhà ờ.
Sau chiến tranh, đến tận năm 1923, cục diện kinh tế tương đối ổn định, thì hoạt động
xây dựng nhà ỏ mới bát đầu được chú ý.
Từ năm 1930 trở vé trước, loại nhà ỏ xây dựng hàng loạt khá phô’ biến; từ những
năm 30 trở vé sau các nước chú ý nhiễu hơn đến việc xây dựng loại nhà ở riêng biệt
(nhà biệt thự).
Sau chiến tranh thế giới lần thứ I, kiến trúc nhà ở phát triển theo những hướng sau đây :
1. Loại nhà ở xây dựng hàng loạt :
Sau chiến tranh, cuộc sống cùa các thành phố bị đào lộn và do nạn thiếu nhà ở dẩn
đến những cuộc đẫu tranh của công nhân, làm cho nhà đương cục các nước không thể
không nghĩ đến vấn đẽ xây dựng nhà ở hàng loạt.
Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, loại nhà này - thường từ 3 dến 5 tầng - có chất
lượng kém, không giải quyết được vấn đễ thông gió và chiếu sáng cũng như chất lượng xây
dựng. Dần dần một số nước như Hà Lan và Đức đã có một số hướng giải quyết. Đặc biệt
là ở Đức, trên cơ sở sản xuất công nghiệp và trình độ khoa học, lực lượng dân chủ (trước
khi chế độ Quốc xã lên cẩm quyển) đã áp dụng đê’ thay đổi điễu kiện sống cho công nhân.
Những loạt nhà ở mới này có tổ hợp không gian hợp lý, chú ý đến chiếu sáng và thông
gió nâng cao chất lượng thẩm mỹ thông qua cái đẹp tự thân.
Những kiến trúc sư nổi tiếng trong lĩnh vực nghiên cứu và thực tiễn nhà ở bấy giờ
là Vante Grôpiux (người lãnh đạo trường phái kiến trúc Bauhauxơ ở Đexxau), các kiến
trúc sư Macxtam và Ađônphơ Maye (ở Phrăngphuốc am Main) và kiến trúc sư thuộc
phái biểu hiện Erích Menđenxơn.
Những ví dụ tiêu biểu cùa lãnh vực nhà ở xây dựng ỏ Đức lúc bấy giờ là khu nhà ở
mối ở Phrăngphuốc do Maye thiết kế và nhà khu nhà ở Xi m enxtat (1924 - 1933) do
Vante Grôpiux thiết kế. Khu nhà ở Ximenxtát là tác phẩm mẫu mực cho những khu nhà
ở kiểu đơn nguyên hiện nay, ở đây tổ chức căn hộ hợp lý, các hộ độc lập không ảnh
hưởng lẫn nhau, liên hệ trong nội bộ căn hộ thuận tiện, có lôgia phục vụ cho sinh hoạt
chung của mỗi gia đình và làm phong phú thêm m ặt đứng. Khu nhà ở 4 tẩng, này được
coi là khu nhà ở tốt nhất châu Âu lúc bấy giờ.
2. Loại nhà ã kiểu biệt thự :
Sau những năm 30 của thế kỷ này, loại nhà ở kiểu biệt thự (nhà xây dựng riêng biệt)
khá phát triển. Xu hướng chung cùa loại nhà này là đơn giản hoá, hiện đại hoá về hình
khói, bỏ bớt những diện tích thừa như những tiên sảnh rộng lớn trong những ngôi nhà
tư nhân kiểu cũ vốn để phô trương thân thế của chủ nhân, giảm diện tích phòng ngủ,
tăng diện tích phòng sinh hoạt chung do nhu cấu vãn hoá tăng lên, giảm bớt diện tích bếp
17
và khối vệ sinh do thiết bị kỹ thuật ngày càng hoàn thiện. Ngoài ra, vấn đễ chiếu sáng
và thông gió, vấn đễ gán gũi tiếp cận với thiên nhiên cũng được chú ý. Loại nhà này có
hình thức đa dạng tuỳ thuộc vào khả năng kinh tế cũng như sỏ thích thẩm mỹ cùa chủ
nhãn. Tuy vậy, phương thức tổ hợp mặt bằng nhà một hay hai táng đều có mối liên hệ
giữa các nhóm phòng với nhau cũng như giũa kiến trúc với thiên nhiên hợp lý.
Tiêu biểu cho loại nhà xây dựng riêng biệt này là :
- Nhà ở của Vante Grôpiux do chính bản thân ông thiết kế ở Đexxau Đức (1926).
- Nhà ở ở Bulôxuyếc Xen, Pháp (1926) do Lơ Coocbuydiê thiết kế.
- Nhà ở Tughenhat ở Brơnô Tiệp Khắc (1930) do kiến trúc sư Mix Vanđe Rôê thiết kế.
- Biệt thự Kôpphơman (biệt thự trên thác) ở Mỹ (1936) do Rait thiết kế.
Tác già của bốn ngôi nhà này đống thời cũng là bốn kiến trúc sư nổi tiếng nhất trong
nhiễu lĩnh vực của nửa đấu thế kỷ XX và cả thời kỳ sau đó nữa.
Trong toà nhà ở của Vante Grôpiux, m ặt bằng gẩn như là chữ nhật đơn giàn, quy
mô tương đối nhỏ, phòng sinh hoạt chung và phòng ăn được cách ly không hoàn toàn
(dùng giài pháp không gian linh hoạt gây cảm giác rộng rãi). Khối này gần liên với bếp ;
hai phòng ngủ được ngăn cách bằng tù tường và bố trí cạnh khối vệ sinh.
Biệt thự của Lơ Coocbuydiê ở Bulôxuyếc Xen (Pháp) lại dùng không gian hoà nhập,
sử dụng sàn lửng để tạo phòng xuyên suốt hai tầng, gây không khí thoáng đãng, sáng
sủa. Đó cũng là ý đổ hay dùng của các tác giả. Vể sau, ý đố này được thấy lại trong đơn
vị nhà ở lớn Mác xây, một kiệt tác của kiến trúc hiện đại với cách xử lý lệch tẩng.
Biệt thự Tugenhát là một ngôi nhà hai tầng, phân chia công năng rất rõ rệt : tầng
trên là các phòng ngủ; tẩng dưới là không gian sinh hoạt chung, phòng ăn và chỗ làm
việc. Tất cà đễu được ngăn cách bàng tường di động nên nội thất rất linh hoạt.
Ớ biệt thư Kôpphơman ở trên thác Biarơn, kiến trúc sư Rait đã thiết kế ba tẩng :
tầng một bố trí gần m ặt nước gốm phòng sinh hoạt chung và khu phục vụ, tầng hai và
tầng ba là các phòng ngủ. Toàn bộ công trình xây dựng trên m ặt thác, gây ấn tượng
tương phản rất mạnh do những khối bàng đá và bê tông đan chéo nhau. Rait đã thành
công khi ông đưa vào nội thất toàn nhà cành rừng, tiếng suối, bóng cây và đem những
hình khối kiến trúc phàng trơn hay thô nhám kết hợp vào thiên nhiên hùng vĩ.
3. Nhà ở cao táng :
Sau những năm 1930, nhà ở cao tầng được phát triển mạnh. Dựa trên cơ sở vật chất
và sự tiến bộ kỹ thuật cùng với yêu cầu cùa xã hội đã thúc đẩy sự ra đòi và phát triển
của loại hình kiến trúc nhà ỏ cao tấng, đó là :
- Giá đất trong thành phố tăng lên.
- Sự tiến bộ cùa kỹ thuật xây dựng, việc sử dụng vật liệu mới và giải pháp kết cấu mới.
- Sự hoàn thiện cùa thiết bị kỹ thuật (thang máy, máy điêu hoà không khí, thiết bị
bếp gọn nhẹ, đổ gỗ có diện tích và khối tích tiết kiệm).
18
- Nhịp điệu sinh hoạt của xã hội tư bản ngày càng căng thảng, đòi hỏi rút ngán thời
gian và khoảng cách giữa các khu vực trong thành phố
- Sự hình thành các tiểu gia đình (xu hướng tất yếu của xã hội học) và sự đơn giàn
hoá các phương thức sinh hoạt.
Ngôi nhà ở đẩu tiên được xây dựng ở Rốttecđam (Hà Lan) vào nám 1930 đã phản
ánh những yếu tố trên (trước đó những đề nghị vẽ nhà cao táng ở Đức đã có vào những
năm 20 không được chấp nhận), tiếp đến là ngôi nhà ở tập thể Haipoãng ở Anh, rối đến
toà nhà Pơraixơ ở Mỹ. Sau đó nhà ở cao tấng có nhiễu thay đổi lớn.
Loại nhà này đã đóng góp về mặt mỹ quan, tiết kiệm đất xây dựng. Tuy vậy, nếu
xây dựng hàng loạt khối nhà cao tầng mà không chú ý đúng mức đến những yêu cấu vể
môi trường sống thì lại rất khó cài thiện điễu kiện sống.
Trong thiết kế nhà cao tầng vẫn đề tổn tại phổ biến là quy hoạch tổng thể, trang
thiết bị, chỗ để xe và ảnh hưởng của nó đến khu vực xung quanh.
Nhà cao tẩng, m ật bàng thường có dạng hỉnh vuông, hình chữ nhật, hình chữ thập,
hình sao ba cạnh ; đẩu mối giao thông, đường ống thường được bố trí vào giữa hoặc chỗ
cát nhau ò các cánh nhà.
Những nhà ỏ cao 50 - 100 táng - nhà chọc trời - trong một thòi gian dài đã được
gọi là "độc tố" hay là "những tên bạo chúa", vỉ điều kiện ở cùa nó cũng phi nhân bản
nhu những ngôi nhà ổ chuột mà thôi. Nhà chọc tròi không chi ảnh hưởng đến người sử
dụng, mà còn tác hại cả đến người qua đường, đường phố trỏ nên hẹp và sâu thẳm dưới
những ngôi nhà mà một thời được gọi là tiêu biểu cho "sự hùng vỉ" cùa thành phố tư
bản chủ nghĩa. Mấy chục năm gẩn đây, hình ảnh và công năng cùa nhà ỏ cao tẩng tư
bản chù nghĩa đã có nhiễu thay đổi, người ta đã quan tâm đến cả môi trưòng và tạo
thành những quẩn thể rất giàu sức biểu hiện.
ơ các nước phương Tây, từ sau Chiến tranh thế giới thứ II đã có những tìm tòi trong
lỉnh vực nhà ở. Những thành công này một phấn là do cố gấng của một sô' kiến trúc sư
có lương tâm nghễ nghiệp, có người xuất thân từ những trào lưu kiến trúc tiến bộ nên
đã xuất hiện chủ nghĩa công năng giữa hai cuộc đại chiến; m ặt khác là do sự phục hồi
vễ kinh tế của các nước (Tây Âu) sau chiến tranh, sự phát triển kinh tế của các nước
(Bắc Au) ít bị chiến tranh đụng chạm đến, cùng với việc đẩy mạnh việc sản xuất vật
liệu xây dựng hiện đại như thép, kính, bê tông.
Một số ví dụ tiêu biểu vé m ặt nhà ở cũng như quẩn thể kiến trúc nhà ở lớn, nhỏ
trong thời kỳ này là :
- Đơn vị nhà ở lớn ở Mácxây (Pháp) cùa kiến trúc sư Lơ Coocbuydiê (xem hình 1-8).
- Nhà ở bên hổ ỏ Sicagô (Mỹ) do kiến trúc sư Mix Van đe Rôê thiết kế.
- Khu nhà ở thấp tầng xây dựng hàng loạt ỏ Sôm, gần Côpenhaghen (Dan Mạch) của
kiến trúc sư Ấcnơ Giacốpxơn.
- Khu nhà ở Gơruênđal ở Xtôckhôm (Thuỵ Điển).
19
- Khu nhà ở ở Ham Côm Môn (Luân Đôn) của hai kiến trúc sư Giêm Xtiẽclinh và
Giêm Gôoan.
- Khu nhà ở Rốc Khemtơn Len ở Luân Đôn (Anh)
- Quấn thể nhà ở Rômêô và Giuyliét ở xtutgác.
Trong đó đáng chú ý nhất là toà nhà ở Mácxây, một tác phẩm có tấm cỡ thế kỷ của
kiến trúc sư nổi tiếng Lơ Coocbuydiê. Công trình này là kết tinh một phẩn những tư
tưỏng của chủ nghĩa công năng mà Lơ Coocbuydiê cho là cẩn coi trọng vai trò xã hội
của kiến trúc. Lơ Coocbuydiê nói "Tôi đã đặt ngôi nhà vào tâm cùa nhị thức cá nhân và
tập thể trong đó tự do cá nhân đã được bảo đàm, tôi đã tổ chức tất cả những cái mà
tập thể có thể mang lại cho con người". Tòa nhà ỏ lón này đã thống nhãt ở mức độ cao
phúc lợi công cộng và hoạt động cá nhân, được coi là một trong những dẫn chứng đấu
tiên vẽ hình thức tổ chức những quần thế nhà ở có trong thiết bị phục vụ công cộng
mà Ăng ghen đã phác hoạ ra từ thế kỷ trước.
Trong khối nhà ở lớn cao 15 táng này, ở phấn giữa tầng 7 và tẩng 8 tác giả đã bố trí
khu vực phục vụ công cộng với các cửa hàng thực phẩm rau quả, hiệu thuốc, cát tóc, bưu
điện, căng tin, ngân hàng ; ở tầng trên cùng có nhà trẻ, mẫu giáo, vưòn hoa và bê’ bơi.
Người thiết kế đã muốn nâng cao tiện nghi điều kiện sống cho con người bàng cách
tô’ chức thuận tiện các phương tiện phục vụ, rút ngắn khoảng cách và tiết kiệm thòi
gian đi lại cho con người, đưa phục vụ công cộng đến người sử dụng. Bênêvôlô đã nhận
xét : "Ý tưởng cùa đơn vị nhà ở Mác Xây có thê’ là một ý tưởng cách mạng nhất trong
toàn bộ nễn văn hoá quy hoạch đô thị hiện tại".
Trong xã hội tư bản, việc bố trí các loại cửa hàng, công trình thê’ thao và các hình
thức phục vụ khác trong cùng một khối với những ngưòi ở như vậy không phù hợp với
phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Sau này, phương án nhà ỏ ỏ Mácxây cũa Lơ
Coocbuydiẽ còn được xây dựng ỏ nhiễu nơi trong và ngoài nước Pháp (ở Nãngtơ Rơdê,
Briâyla Phorê, Berlin...) với một số thay đổi.
Một trong những ưu điểm của đon vị nhà ở lớn là có nhiễu loại căn hộ khác nhau, bảo
đảm phân phối linh hoạt cho các gia đình có thành phần khác nhau từ hộ độc thân cho đến
gia đỉnh 10 người. Lơ Coocbuydiê còn nhiểu phương án xây dựng các thành phố khác, nhưng
những ý định tốt đẹp của ông - trừ trường hợp quy hoạch thành phố Sãngdiga cho Ấn Độ
—không thực hiện được khi quyén sở hữu đẫt đai xây dựng còn chưa được công hữu hoá.
Như Ăngghen đã viết trong "Về vấn đé nhà ở" như sau : "Chí nhờ giải quyết vấn đé
xã hội, nhờ tiêu diệt phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới hình thành khả năng
giải quyết vấn đẽ nhà ỏ".
Bên cạnh nhũng loại nhà cùa ngưòi giàu ở Mỹ còn có một loại nhà khá kỳ lạ đó là
nhà ở ôtô. Ngưòi ta ở trong những rơ moóc thiết kế như những gian phòng giành cho
những loại công nhân làm thuê, có cuộc sống nay đây mai đó phụ thuộc vào thời vụ.
Nếu nhà này đặt trong các gara mà người ta dự tính xây dựng thì vé tâm lý sẽ rát bất
20
lợi cho người ở trong đó vì phài sống trong 2 lấn tường. Những người có tiền thường ở
trong những biệt thự chi một, hai tầng. Nhiều biệt thự có phòng khách rất lớn và gara
chứa được 2,3 ô tô.
Hiện nay, giá thuê nhà vẫn đè nặng lên thu nhập của người thuê nhà và quyển được
hưởng ánh sáng và không khí đầy đủ trong môi trường ỏ vẫn còn xa vời với lớp dân
nghèo trong xã hội tư bàn một số nước. Hai nước có sự nghiệp phát triển nhà ở tốt hơn
các nước phương Tây khác là Thuỵ Sỹ (cứ 2,8 người có một căn hộ) và Thuỵ Điển (với
căn 3 phòng rộng 78m2 và cãn 5 phòng rộng 117m2).
Còn ở Pháp chương trình xây dựng nhà ở ở Pari, Bộ thiết bị và nhà ở đã đưa ra cuộc
thi "Nhà ở" đê’ chọn những mẫu nhà. Những kiểu nhà này phải đáp ứng được những yêu
cẩu có tính chẫt nghịch lý là phài rè tiễn, đổng thời lại đáp ứng được điéu kiện sống năm
2000. Một số nhà 8 tầng với 4 căn hộ một đơn nguyên và nhà điểm 4 tấng 13 tẩng đă được
tuyển chọn. Những kiểu nhà này có mặt bằng chặt chẽ vì cầu thang và phòng phụ trong
điéu kiện khí hậu của Pháp có thể không cẵn chiếu sáng tự nhiên. Khu nhà ở ở Công viên
Rốccăngquơ m ật bàng cũng có đặc điểm như trên nhưng sức biểu hiện tập trung vào
hành lang có lan can mành vây quanh nhà nên trông kiến trúc nhẹ nhàng thanh thoát.
Kiến trúc nhà ở Pháp gấn đây đang tìm hướng thẩm mỹ mới nên xuất hiện những loại
nhà hình, khốitrụ và hình sao ba cánh cao tầng, hình hộp với nhiễu dạng khác nhau,
hình khối dáng dăp mới mẻ và mầu sác thu hút sức chú ý nhưng nhiễu khi phong cách
tách khỏi nénkiến trúc truyễn thống. Những ví dụ gần đây nhất có thể kể ra trong
thành tựu nhà ở ỏ Pháp là một sô' mẫu nhà ở được xây dựng ở Remx.
Khái niệm "Nhà ỏ xã hội" được nhấn mạnh, tiêu biểu là các ngôi nhà xã hội và nhóm
nhà ở xã hội ỏ Đức. v í dụ, ngôi nhà ở xã hội ở Ritơxtraxơ ở Beclin, Đức. Khu nhà ở đại
lộ Hôtơ Fooc ở Pari, Pháp cũng được nhác dến như một quẩn thể ở theo kiểu mới.
Tóm lại, nhà ở tư bản chủ nghĩa phát triển và đổi mói hơn so với xã hội phong kiến.
Tuy vậy, mâu thuẫn giai cấp và sự phân biệt xã hội cũng thể hiện sâu sắc hơn; sự cách
biệt vẽ điéu kiện ở giữa các giai tẩng lớn hơn và tỷ lệ tiền nhà trên tổng số thu nhập
của người dân khá cao.
21
to
to
Hình 1.8 : Dơn Vf nhà à lớ n ở Mác Xây (trên) và m ộ t cân h ộ "cua nó (d ư ớ i)
•••K ĨS : Lrr Coocbuydiê
có thể tràn vào trong nhà.
2- Cỏ thể làm vưòn hoa trên mái.
3 - Tưòng không chịu lực có thể linh hoạt
phân chia không gian bên trong
4- Cột có thể lùi vào bên trong, tường
ngoài bố trí cửa so tụ do.
5 - Tưòng ngoài có thể bố trí cùa sổ
hình băng liên tục theo chiéu ngang.
Hình 1.8 : Năm nguyên tắc trong kiến trúc nhà ở
của KTS : Lơ Coocbuydiê
23
MẶT BẰNG TẦNG 1
Hình 1.10 : Biệt thự Tutghenhat do Mix Vanđe Rôê thiết k ế ở Brơnô - Tiệp Khắc
24
b. Một góc công trình c. Mặt dứng công trình
25
Hình
1.
12
:
K
h
u
n
h
à
ứ
X
im
en
xla
t,
B
eclin
K
T
S
:
V
an
te
G
rôpirex
Hình
1.13
:
N
hà
ở
trên
thác
Biarôn
-
Mỹ
K
T
S
:
Frank
Lôi
Rail
KIÊU A
MĂt *»ẨNG tang trên
29
1.4. KIẾN TRÚC NHÀ Ở TẠI LIÊN x ô
VÀ MỘT SỐ NƯỚC XÁ HỘI CHỦ NGHÍA (CỦ)
Kiến trúc nhà ở ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghỉa mang tính chất kế hoạch
nhàm bảo đảm cho các tấng lớp nhân dân lao động có điễu kiện ở ngày một được cải
thiện tốt hon.
Ở Liên xô, ngay từ những năm đẩu sau Cách mạng, Nghị quyết của Đại hội Đảng
Cộng sản Nga lấn thứ 7 (1919) đã ghi rõ : "... Cấn cố gắng hết sức cải thiện điểu kiện
nhà ở của những người lao động, kết thúc tình trạng m ật độ cư trú quá lớn và thủ tiêu
những điều kiện phản vệ sinh trong những nhóm nhà cổ xưa và phá hủy những nhà ở
hư hòng, sửa chữa lại những nhà cũ, xây dựng những nhà mới phù hợp với điều kiện
đời sóng mới của quần chúng lao động, xây dựng nhà ỏ cho những người lao động một
cách hợp lý hơn” Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sàn Liên Xô (Bônsêvlch)
năm 1931 cũng đã ra quyết định một số vấn đễ quan trọng vé xây dựng thành phố, và
tới năm 1935 có thêm chỉ thị vé quy hoạch thù đô Matxcơva.
Những nghiên cứu đẩu tiên trong lĩnh vực xây dựng nhà ở đã biểu hiện cụ thể ở việc
đưa vào sử dụng một số quần thể nhà ở như quẩn thê’ nhà ở trên đại lộ Goócki (Matxcơva)
xây dựng năm 1938, quần thê’ nhà ở đường Tơráctorơnai (Lêningrat) xây dựng năm 1925
- 1926, các quẩn thể nhà ở tại các thành phổ Dapôrôgiê, Manhitôgoócxcơ, Goócki,
Kháccốp... Những hoạt động sáng tạo và lý thuyết kiến trúc để giải quyết những nhiệm
vụ cơ bản đã để ra, như xây dựng những nhóm nhà và những nhà ở có dịch vụ công
cộng vào thời kỳ đẩu đã có những tiếng vang nhất định, đó là những thành tựu của
anh em Vex-nin, Ghinxbuốc, anh em Gôlôtxốp, Krinxki v.v... Những vấn đễ hướng tới
một nén kiến trúc mới lúc đó đã được các kiến trúc sư nổi tiếng thế giới như Lơ
Coocbuydiê, Vante Grôpiux, Luyêcxa, Nimâye đánh giá cao từ sau chiến tranh. Nghệ
thuật và kỹ thuật Xô viết hiện đại đã đưa kiến trúc nhà ở đến một chân trời mới. Trong
giai đoạn đẩu những năm 1950, khi nhà ở láp ghép còn chiếm tỷ lệ thấp, còn những nét
đơn điệu, nhưng con đưòng tìm tòi những giải pháp hài hòa kết tinh được những quan
niệm vé kỹ thuật và sự tìm tòi biểu hiện mới đã mở ra rất đa dạng và năng động.
Hiện nay, mọi người đã thừa nhận tính truyén càm cũng như phong cách đa dạng
của một số tiểu khu nhà ở xây dựng bàng phương pháp công nghiệp hóa, do các nhóm
kiến trúc sư Bêlôpônxki, Paxôkhin, Pakrôpxki, xtam ô, Xpêranxki Trêkanaukaxxơ sáng
tạo, có những các tính độc đáo được đánh giá cao, tuy vậy cũng vẫn còn nhiễu khu nhà
ở có phong cách tương đối đơn điệu, cứng nhắc.
Danh từ "mỹ thuật tự do" trong kiến trúc không phải là người bạn đường khó tính
với xây dựng láp ghép, khi kiến trúc sư có tài nãng tìm tòi, suy nghĩ. Để có được hiệu
quả đó, con đường công nghiệp hóa xây dựng đã trải qua một quá trỉnh phát triển không
đơn giản đê’ ngày càng hoàn thiện :
1. Vảo những năm 30 và đẩu những năm 40 đã xây dựng những kiểu nhà tấm lớn
thay cho việc xây tay với từng viên gạch, lúc bẫy giờ thường dùng hai kiểu nhà : kiểu
nhà những tấm đặt ngang và kiểu nhà những tấm đặt đứng.
30
Đẩu những nãm 60, những kiểu nhà tưdng tự với những tấm tường đặt trên những
dám ngang (dầm ngang) được xây dựng ở nhiêu thành phố. Cách xây dựng này không
chi dùng cho nhà 5 tầng, mà còn sử dụng cho những nhà 9, 12, 14 hay 16 tấng. Những
kiểu nhà tấm lớn hay tấm nhỏ có thêm lô-gia làm tăng hiệu quả tạo dáng rất nhiéu.
2. Tiếp đến là thôi kỳ lắp ghép nhà panen tẫm lớn à nhiều thành phố khác nhau.
Phương pháp này làm cho việc chuẩn bị xây dựng được thực hiện trong nhà máy, những
liên hợp xây dựng nhà ở tăng lên và thời gian láp ghép tại hiện trường giảm đi. Nhà ở,
được lắp ghép bằng các tấm tường, tấm sàn, tấm vách lớn, còn khối vệ sinh là cà một
ca bin đúc sản. Những ngôi nhà kiểu này được xây dựng ở Kiép, Vơlađivốtstốc, Minxcơ
với 5, 9, 12, 16 tẩng... và cho đến năm 1969 cao tới 25 tầng xây dựng trên đại lộ Hòa
Bình, Matxcơva. Nhờ sử dụng Panen tấm lớn với nhiễu hình dáng khác nhau, từ hình
chữ nhật đơn giản đến phức tạp hơn như hình vòng cung nên đã làm tăng sức biểu hiện
cũng như cá tính của ngôi nhà.
3. Phương pháp xây dựng cả khối phòng - Nhà ở lúc này được xây dựng bằng những
khói phòng chung, khối phòng ngủ, khối phòng phụ với 80% công việc được chuẩn bị sẵn
trong nhà máy. Thời gian láp ghép trên cõng trường của loại nhà này giảm hơn 2 lấn
so với loại nhà panen lớn.
Xây dựng nhà ở bàng tấm lớn và khối phòng được coi là hưống phát triển chủ đạo
của kiến trúc nhà ỏ ở Liên Xô (cũ), nhờ phương pháp xây dựng này những người xây
dựng ở Matxcơva đã làm được 300 căn hộ mỗi ngày ; ở Lêningrát : 100 căn hộ mỗi ngày;
và ở Kiép : 80 căn hộ mỗi ngày (trong đó ỏ M anhattan (Mỹ) mỗi ngày chi đưa được vào
sử dụng 18 căn hộ).
Những hình ảnh mới vễ khu nhà ởhiệnđại không chỉ xuất hiện ở những thàn
lớn (ví dụ như ỏ Matxcơva với những khu nhà ở trên đại lộ Kalini, trung tâm của thủ
đô hay ở đại lộ Nôvôkihốp ở vẽ phía Đông Bấc thủ đô) mà còn mọc lên ở khắp mọi nơi
trên đất nước Xô viết.
Thành tựu nổi bật của sự nghiệp xây dựng nhà ở thê’ hiện rõ nét ở số lượng : mỗi kế
hoạch 5 nãm đưa vào sử dụng 500 - 550 triệu mét vuông nhà ở, cung cấp nhà mới cũng
như cải thiện điều kiện ở cho 50 - 55 triệu ngưôi. Thành tích trên rất đáng kể, vượt
rất xa cái di sản nhỏ nhoi của Sa hoàng để lại chi là 180 triệu mét vuông nhà ờ (theo
thóng kê năm 1913).
Bên cạnh đó các kiến trúc sư còn tập trung vào nâng cao chất lượng tiện nghi và
thẩm mỹ của các khu nhà ở từ thành phố cho tới nông thôn. Thí dụ khu nhà ở Bấc
Trerơtanôvô ở Matxcơva (xem hình 1.16), những khu nhà ở Giarơmunai và Ladơđinai ở
Vinniux, khu nhà ở mới cùa thành phố Verơtilisơki và làng Iucơnai Ariailitva. Khu nhà
ở Ladơđinai ở Viniux, nước Cộng hòa Litchuyani là một trong những quán thể nhà ở
được đánh giá cao, và các tác giả của nó - kiến trúc sư Trêkanankatxơ và những nguôi
khác đã được tặng giải thưởng Lênin (xem hình 1.17). Khu nhà ở Ladơđinai đạt chất
lượng sử dụng và mỹ quan cao, nhờ trong thiết kế đã chú trọng đến đặc thù cùa sinh
hoạt địa phương, đến sự đa dạng của phong cảnh, địa hình, cũng nhu những đòi hỏi của
điều kiện thiên nhiên, khí hậu. Qua đó cho thấy : Trong sự nghiệp xây dựng nhà ở nói
31
riêng cũng như kiến trúc nói chung, chúng ta không chí chú ý giải quyết nhưng vấn đé
xã hội, tâm sinh lý chung mà còn chú ý đến đặc điểm của từng địa phương nói riêng.
ở Liên Xô cũng như nhiễu nước xã hội chủ nghĩa (cũ) khác đã chú trọng giải quyết
sự cách biệt vé điễu kiện sống giữa thành phố và nông thôn.
Ở nước cộng hoà dân chủ nhân dân Hunggari, sự nghiệp xây dựng nhà ở cũng
phát triển nhanh chóng. Đến cuối năm 1975, Hunggari đã có 3,5 triệu căn hộ, số phòng
trung bình trong mỗi câri hộ là 2 - 4, gần một nửa dân số sống ỏ thành phố, hơn một
nửa dân số sống ở nông thôn, nhưng không có sự ngăn cách vé điéu kiện ở. Trong xây
dựng nhà ở, công nghiệp hóa đã thành phương thức chủ yếu - nhà ở láp ghép tấm lớn
chiếm tới 75%. Sàn lượng hàng năm của các nhà máy bêtông đúc sản đạt 30.000 căn hộ
trong một nâm. Tuy vậy, vật liệu xây dựng cổ truyền vẫn được tôn trọng và chiếm tý
lệ đáng kề. Nhà ở xây dựng bằng các tẫm nhỏ chiếm tỷ lệ vừa phài còn xây dựng bằng
bê tông toàn khối chiếm tỷ lệ ít nhất. Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, 80% nhà
ở đã được xây dựng theo thiết kế mới và nhà 16 tẩng đã nghiên cứu thí điểm.
Ví dụ tiêu biểu cùa thời kỳ mười năm sau khi thành lập Nhà nưốc xã hội chú nghỉa
là xây dựng thành phố Tixdapankônya phục vụ cho công nhân ở các cơ sở năng lượng
điện và công nghiệp hóa chất. Thành phố này đặt bên cạnh thành phố cũ Mixkôla, gồm
những tiểu khu nhà ở lán đấu tiên được xây dựng theo lý thuyết quy hoạch mới. Những
khu nhà ô mới ở ngoại vi Buđapét đã thu hút sự chú ý của mọi người, chảng hạn các
khu Kêlenphion, Duclô, Ôbuda v.v... vẻ đẹp của khu nhà ỏ Kêlenphion được biểu hiện
trong tổng thể, ở sự tương phản giữa những khối nhà ở cao tẩng với những khối nhà
công cộng phục vụ sinh hoạt thấp tầng phía dưới, vẻ đẹp này còn đạt được từ tự thân
nhũng công trình nhà ỏ với vẻ nhẹ nhàng sáng sủa của những dãy cửa sổ mở rộng hay
với tổ chức hợp lý những dãy ban công hay lô gia trên m ặt đứng. 0 các thành phố khác,
trong những khu vực mới xây dựng nhà ở cao tẩng cũng mang Ịại một sác thái độc đáo.
Khi giải quyết những cãn hộ điển hình, các nhà kiến trúc Hunggari đã chú ý đến mặt'
bàng với không gian linh hoạt : phòng ãn có thể kết hợp với phòng sinh hoạt chung khi
cần sử dụng không gian lớn (bàng cách di động các vách nhẹ), trong căn có lô gia sâu
dể làm chỗ ãn vào mùa hè v.v... ngoài ra chỗ đặt các thiết bị hiện đại dùng cho sinh
hoạt (máy giặt, tủ lạnh) cũng đều được suy tính sản. Các phòng ngủ được thiết kế thành
một khối độc lập, riêng rẽ để bảo đàm yên tĩnh. Cũng như nhiêu nước khác, để tạo thành
những không gian đô thị hoàn chỉnh, các nhà kiến trúc Hunggari cũng chú ý nhiễu đến
những hình thức kiến trúc nhỏ : tranh hoành tráng, cây xanh...
0 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Bungari : Mười năm sau ngày giải phóng, à
Xôphia đã bát đẩu xây dựng nhà à theo kiểu tiểu khu cách tân. Những khu nhà ở có
quy mô khác nhau lần lượt ra đời : khu nhà ở công viên phía Tây với 13.000 người I
khu nhà ở phương Đông cho 25.000 người và sau đó khu trường đua ngựa cho 1.200
ngưòi ; khu nhà ở lớn Kraxnôxelô cho 50.000 người, ở Plôpđip cũng có những khu nhà
ở rất hiện đại như khu nhà ỏ Trakia.
Theo thời gian, chất lượng sử dụng và thẩm mỹ ngày càng được nâng cao những vi
dụ tiêu biểu là những quẩn thê’ nhà ở cao tầng Dimitrblagôep ở X tara Dagora những
32
V
quẩn thế nhà ở B-5 và Mladôxt ỏ Xôphia cũng như khu nhà ờ ờ Vêlikôturnôvô, khu nhà
ờ "Hải Âu" ở Vácna
Một trong những tìm tòi của các kiến trúc sư Bungari là dùng không gian linh hoạt
réli vách ngăn nhẹ để thay đối chức năng và diện tích phòng trong căn hô khi tập quán
rà độ tuổi của gia đình thay đổi. Nhà ở nông thôn cũng là một lãnh vực quan trọng
trong hoạt động xây dựng, ngày nay đã có 14 vạn 3 ngàn ngôi nhà cho 40 vạn nông dân
tập thể. Từ cách giài quyết m ặt bàng linh hoạt cho nội bộ một căn, gấn đây các nhà
chuyên môn vé nhà ở Bungari đã nghiên cứu thành công cách ghép các kiểu căn hộ khác
nhau (coi các loại căn hộ như là các mô đun cơ sở) đê’ tạo thành các khối nhà có nhiễu
kiểu cãn khác nhau, đáp ứng được việc đơn nguyên có nhiễu cách tổ hợp (xem hình 1.18).
o Cộng hòa d ãn ch ủ Đức kiến trúc nhà ỏ có nhiễu đặc điểm đáng chú ý, ngoài
vấn đé công năng và tiện nghi, Đức là nước chiếm vị trí hàng đẩu trong việc công nghiệp
hóa nhà ở với 90% khối lượng nhà ở xây dựng theo phương pháp láp ghép. Kỹ thuật láp
ghép nhà ở tãm lớn ở Đức có trình độ cao, chẳng hạn như hệ thông kết cẫu nhà tấm
lớn WBS 70 được sử dụng rộng rãi ở Berlin. Nhìn lại thành quả xây dựng từ cuối những
năm 70, người ta thấy những khu nhà ở đã có chát lượng tốt và kháp nơi đã mọc lên
những khu nhà ở mới.
Mặt bàng căn hộ của các kiểu nhà ở ở Cộng hòa Dân chủ Đức được bố trí rất đa dạng
và chặt chẽ, từ những ngôi nhà dài kiểu đơn nguyên cao 10 tấng ở quẩn thê’ nhà ở Bắc
Mácđơbuốc với cãn hộ linh hoạt bô trí đú các kiểu 1, 2, 3, 4 phòng đến những ngôi nhà
kiểu ký túc cao 18 táng, hành lang giữa ở Halê Noistat giáu sức biểu hiện. Ở Cộng hòa
dân chủ Đức chi xây dựng nhà nhiéu tấng và nhà cao táng ở những thành phố lớn như
Berlin. Để công nghiệp hóa xây dựng, sô' phòng ở trong các nhà thường được triển khai
quanh khối bếp và tắm cũng như toàn nhà được triển khai quanh khối cẩu thang và
thang máy.
Các kiến trúc sư không những chi chú ý đến bản thân ngôi nhà mà còn chú ý đến
hiệu quả không gian kiến trúc với môi trường, đến những công trỉnh phục vụ, chỗ chơi
cùa trẻ em, nhầm tạo thành một môi trường sống hoàn chinh (xem hỉnh 1.19).
0 Tiệp K hắc việc xây dựng nhà ở, được thực hiện với mục tiêu "... những khu nhà
ở không phải chi là nơi đế cho nhân dãn lao động ở mà phài còn là nơi nghi ngơi và
giáo dục". Chỉ trong vòng 30 năm (1950 - 1980), 2 triệu 600 nghìn căn nhà ở đã được
đua vào sử dụng, riêng nãm 1980 có 127,8 nghìn cãn hộ mới. Từ năm 1976, với nhịp
độ xây dựng 8,5 căn hộ cho 1000 dân trong nám. đã đưa Nhà nước xã hội chủ nghĩa
này lên đứng hàng thứ 3 trong số 36 nước châu Âu vé nhà ỏ.
Những quẩn thể nhà ở mới được hình thành, không những ỏ thành phố mà cả ở nông
thôn, nhà ở với chất lượng thẩm mỹ độc đáo và trang thiết bị hiện đại. Tính đa dạng
của kiến trúc Tiệp Khác không phải chỉ thấy ỏ những khối nhà đổ sộ cùa Igiơni, Praha,
hay ở Trơtưrgi, khu nhà ở mới của thành phố Trexkẽ Buđâyôvixê mà còn có thể thấy ở
khu nhà độc lập một lãng chạy nghiêng theo triên dốc ở Brơnô Giabốpgiexki. Các kiến
trúc su Tiệp Khắc rất thành công trong giài quyết nhà ở ở những miên đổi dốc.
33
ở Tiệp Khấc phương pháp công nghiệp hóa xây dựng là chù yếu, tuy vậy phương pháp
xây dựng truyén thống ở một mức độ nhất định vẫn được sử dụng.
Ở Ba Lan, để giải quyết tỉnh trạng khó khăn thiếu thốn về nhà ở sau chiến tranh,
Nhà nước và nhân dân đă quan tâm nhiều đến vấn đé.nhà ở. Đến giữa những năm 60
nhịp độ xây dựng nhà ở đã đạt đến mức-7 căn hộ cho 1000 dân trong một nãm. Những
nãm đẩu, khối lượng xây dựng nhà ỏ tập trung phần lớn ở các thành phố công nghiệp lớn.
Sang đẩu những năm 1970, chương trình xây dựng nhà ở đã đề ra mục tiêu đến năm
1S35 đảm bảo cho mói gia đình có một căn hộ độc lập. Khối lượng xây dựng nhà ở tấm
lớn tăng từ 58% năm 1975 lên đến 61% năm 1985, trong đó bêtông toàn khối dự kiến
chiếm 25%.
Những khu nhà ỏ mới ở Vasava được chú ý đến nhiều, như :
- Khu nhà ở Xluxép II ;
- Khu nhà ở Urxinốp Bắc ;
- Khu nhà ở Urxinốp Nam.
ở đây hình thức kiến trúc đã hình thành tính nhịp điệu rõ rệt. Ngoài ra sự tương
phản đạt được do sự so sánh những không gian tự do, cành quan lớn đối lập với sân cỏ
và đường đi bộ nhỏ cũng dẫn đếntác dụng thẩm mỹđáng kể.Trong thiết kế, các nhà
thiết kế đã chú ý đến tạo hình cùa bancông cũng 'như xử lýđầu hổi nhà,làm cho mặt
nhà thêm phong phú.
Ớ K um ani : Cuối những năm 1950 cho đến đầu những năm 60, vốn đầu tu nhà ở
được đầu tư chủ yếu cho thủ đô Bucaret và thành phố ônesti. Bộ m ặt của thủ đô đuợc
cải tạo nhất là những khu trọng điểm, ví dụ ỏ quảng trường Cung Cộng hòa, quảng
trường nhà ga thành phố v.v... Cũng thời kỳ này, việc xây dụng nhà ở theo những đường
phố như trước đây không chiếm tỷ lệ đáng kê’ mà nhường bước cho việc xây dựng các
khu và tiểu khu nhà ở có trang thiết bị phục vụ công cộng. Các khu nhà ở Banta Anbơ,
Drummul Taberi và Titan ở Bucarét là những ví dụ tiêti biểu cho hướng phát triển này.
Thiết kế điển hình được nghiên cứu trên cơ sở đổng bộ gổm các khối đơn nguyên :
từ đơn nguyên giữa, đơn nguyên đầu hổi cho đến đơn nguyên góc, đơn nguyên uốn cong.
Việc thiết kế nhà ở hành lang giữa dùng cho hộ ít người (căn 1 phòng) cũng được
đẩy mạnh.
Những khu vực ký túc xá cùa các trường đại học cũng được thiết kế đẹp V» 'Sn nghi
ở nhiễu thành phố. Vào mùa hè, những khu vực này được giành cho khách ịch do
điéu kiện khí hậu ôn hòa, gẩn biển Hấc Hải, nên kiến trúc nhà ở ở đây có dáng dấp nhẹ
nhàng, phong phú.
ơ Cu Ba : Từ năm 1959 đến nãm 1963, Cu Ba đã xây dựng được 8 vạn rưởi căn hộ
và dẩn dẩn xóa bỏ những khu nhà "hũ nút" - sản phẩm của xã hội cũ. Đến nay, cùng
với sự phát triển chung, Cu Ba đã có kế hoạch dài hạn vể nhà ở đến năm 2000. Trong
những năm đẩu cùa kế hoạch nảy, chỉ trong năm 1976 - 1985 đã đạt 83 nghìn cãn hộ.
34
Việc xây dựng nhà ở với nhịp độ lớn 22.000 căn hộ trong 1 năm không chi là kế hoạch
mà thực tế đang vươn tới 32.000 căn hộ/1 năm. Trong những năm đấu cách mạng, vừa
thiết kế, xây dựng, vừa tỉm tòi nghiên cứu, quẩn thể nhà ở lớn đầu tiên cùa các kiến
trúc sư Cu Ba đã ra đời : khu nhà ở phía đông Habana.
Việc đưa một bộ phận của khu nhà ở phiá đóng Habana - tiểu khu số 1 (1959 -
1961) - vào sử dụng là một thể nghiệm lý thú vể phương thức tổ chức cuộc sống mới.
Ngăn cách bờ biển bằng một dải công viên, tiểu khu này bao gồm 7 nhóm nhà, tổng số
8000 người với trung tâm công cộng ở giữa. Mỗi nhóm nhà, được suy nghĩ chu đáo từ
tổ chức không gian đến đường đi lối lại, trung tâm là một nhà trẻ vối vườn chơi. Những
hệ thống đường cụt, bên cạnh các nhóm nhà với điểm kết thúc là những bãi để xe ngoài
trời, đã làm cho việc đi lại không cản trở đến sinh hoạt nội bộ. Những sân chơi cùa trẻ
em ở các lứa tuổi, những sân nghi yên tĩnh cho ngưồi lớn được tô điểm phong phú thêm
bằng những hỉnh thức kiến trúc nhỏ như đưỉmg rào, bể nước, ghế đá, bồn hoa và cây
xanh, thảm cỏ. Những hệ thống không gian hở, hài hòa và biến hóa, hướng tấm m át của
con người về phía biển hay trung tâm tiểu khu, được tạo thành bầng sự sáp xếp các
khối nhà cao thấp khác nhau : 4 tẩng và 11 tẩng, cũng như sự kết hợp giữa chúng với
các kiến trúc khác nhau của tiểu khu. Những sân sinh hoạt quây lại bằng những bức
tường thấp chuyển tiếp, những "phòng khách xanh" bố trí ngoài tròi cho các gia đình ở
tẩng dưới, một hệ thống lô gia, hiên nghi các tẩng trên và những mái bàng cò cây xanh...
là những gạch nối quan trọng gắn bó kiến trúc và thiên nhiên.
Những ví dụ tiêu biểu khác là : khu nhà ở ỏ quảng trường Cách mạng, Habana, khu
nhà ở Hôxêmacti ỏ Xăngchiegô (nhà ở kiểu đơn nguyên căn hộ 3 và 4 phòng), nhà ở
thành phố Malmiara, tỉnh Latvidat, nhà ở cao tấng ở trung tâm Habana v.v...
35
Hình 1.16 : Một số kiểu cân hộ nhà ở hiện đại ở Liên Xô (cũ)
H ìn h 1 .1 7 : M ó t ỊỊÓ
Ck h u n h à à L a d a d in a i
HintL 1.19 : Một kiểu nhà ờ à CỘHỊỊ hoà dân chủ Dức (cũ)
37
1.5. VÀI NÉT VỀ KIẾN TRÚC NHÀ Ở
DÂN GIAN MỘT s ố NƯỚC CHÂU Á
Trong kiến trúc nhà ở dân gian các nước châu Ấ, kiến trúc nhà ở vùng Đông Bắc 4,
(Nhật Bản) và Đông Nam Á (Lào, Inđônêxia ...) có những đặc điểm riêng đáng nghiên
cứu và đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà chuyên môn trên thế giới. Mặc dù đã trài qua
quá trinh phát triển chọn lọc nhà ỏ của các dân tộc này nói chung vẫn giữ được một
cách đáng kể những tinh tuý truyền thống của mình.
Kiến trú c n h à ỏ dân gian N h ật B ản : Hiện nay, ta chỉ còn thấy à những khu phó
cũ hoặc vùng nông thôn, đã được mọi người lưu ý ở cách bố cục không gian, tổ chức
mặt bằng linh hoạt, phương thức trang trí cũng như cách sử dụng vật liệu xây dựng.
Trong nhà ỏ dân gian Nhật Bàn, có mổi liên hệ chặt chẽ giữa ba yếu tô' : con người,
ngôi nhà và thiên nhiên. Frank Lôi Rait đã viết : "Chúng ta hãy học hỏi kiểu nhà
ỏ (dân gian) Nhật Bản, đó là bài học thực sự cho tất cà những cái mà chúng ta gọi là
phong cách nghề nghiệp".
Nhìn chung nhà ở dân gian Nhật Bản không giống các nơi khác trên thế giới (chi
đến thế kỷ XX do quá trinh công nghiệp hoá, kiểu nhà xây dựng theo phương thức sinh
hoạt của các nước khác mới được du nhập vào). Ngôi nhà ở Nhật Bản có 2 cửa : một
cửa hướng ra phố và một hướng ra vườn. Phần nhà hướng vé phía Nam - phía có mặt
’tròi chiếu sáng - được dùng cho sinh hoạt chung, tiếp khách ; phần dành cho sinh hoạt
gia đình thường ở hướng phía Bắc.
Kiến trúc gỗ Nhật Bàn cộ truyền thống lâu đời : tới 2000 năm,-và đến thế kỷ thứ IV
sau công nguyên đã trỏ nên rất điêu luyện." Việc đơn giản hoá m ặt bằng và tiêu chuẩn
hoá các cấu kiện xây dựng được áp dụng không chi với nhà ở mà còn đối vói cà lâu đài
và đễn chùa.
Vào thế kỷ XII, khi "tatami" (chiếu bện bằng rơm rạ : chiều dài gẩn 2 mét, chiêu rộng
bàng nửa chiểu dài) trở thành một đơn vị do điển hình thỉ nhiễu hình thức không gian
ỏ đã ra đời và m ặt bằng được tổ chức bàng cách ghép nhiễu hay ít "tatami". Vào thời
Sôgônan (bắt đầu từ thế kỷ XVII) việc tiêu chuẩn hoá này được áp dụng rộng rãi và
chặt chẽ hơn. Như vậy, "tatami'1trở thành mõ đun cơ sở.
Klch thước phòng được xác định bằng số "tatami”, mỗi phòng có thể có diện tích bằng
3 ; 4 ; 4,5 ; 6 ; 8 cho đến 10, 12 "tatami". Trong ngôi nhà N hật Bản rất thoáng đãng,
có rất ít đổ gỗ và nhiều tủ tường (chăn, nệm, gối ban ngày được cho vào tù tường).
Khi nhà được chia theo kiểu bàn cờ bàng những "tatami" và các phòng được ngăn
cách với nhau bầng những tấm tưòng có thê’ di động được thì ngưòi ta có thể gộp không
gian thành một phòng lớn hay chia nhỏ ra thành những phòng nhỏ một cách dễ dàng.
Một phòng cũng có thể sử dụng vào nhiều chức năng khác nhau (làm phòng khách,
phòng ăn, hay phòng ngủ). 0 khu phụ có bốn tấm bằng gỗ kiểu truyén thống.
Thật ra, khái niệm vễ tường ngoài theo cách hiểu bình thường ở đây không có mà
ngưòi ta dùng những "xốtgi" (những khjang nhẹ có nẹp dán giấy dầy) có thể di chuyển
38
theo các rãnh ở trần hay ở nễn nhà, khi không cần người ta có thể lấy những xốtgi ra
một cách nhẹ nhàng. Vào mùa đông tường ngoài ngôi nhà được bổ xung thêm những
tấm "amađô” bằng gỗ để chống lạnh, còn vách dán bằng bìa hoặc bằng giấy dầy hai phía.
Tường nhà Nhật Bản vê phía Bắc được dựng bàng một thứ hổ vữa đơn giản cộng với
hai lẩn ván kép. Mái nhà thường đưa ra khỏi xốtgi khoảng một mét đê’ khỏi bị ảnh hưởng
của mưa, náng (có thể làm bàng ngói hoặc rơm rạ), ở miễn Bác nước Nhật, mái nhà
làm bàng rơm rạ là chính, còn ở miễn Nam ngói lại được sử dụng phổ biến. Người Nhật
còn biết cách làm mái nhà rất xinh xán bằng ván gỗ nhò hay vỏ cây.
Nhà ở Nhật Bản thường dùng khung gỗ cho nhẹ có thể chống lại được động đất. Việc
xây dựng ngôi nhà dân gian thường được tiến hành rất nhanh. Người thợ mộc như là
một kiến trúc sư thực thụ. Được sự đổng ý cùa người cẩn xây nhà, họ dự kiến và lo liệu
vật liệu xây dựng trong một tháng, và sau dó dựng nhà chi m ất hai tuần.
Kiến trúc ở đây được gán bổ với thiên nhiên kê’ cà từ nội thất cho đến môi trường
xung quanh. Trong mỗi căn nhà thường có một ngăn nhỏ riêng "tôkônôma" để trang trí
hoa. Nghệ thuật trang trí này có tên gọi chung là Ikêbala. Phong cách trang trí này có
từ thế kỷ XI cho đến nay vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng đến nhiểu
nước trên thế giới. Cách bày biện hoa được phân biệt theo kiểu chậu cảnh loại Môribana
đặt trong chậu thấp và loại Hâyka đặt trong chậu cao, cách bầy biện hoa cũng được tiến
hành theo các mùa trong năm. Trong nhà, với những hàng cột để trấn không sơn, ván
trần với ván gỗ tự nhiên, cũng tạo cảm giác gần gũi với thiên nhiên.
Để đàm bảo mối liên hệ giữa trong và ngoài nhà, hệ thống hành lang và cửa sổ rộng
mở ra vưồn khá phát triển. Một sô nhà có vưồn cành ngoạn mục, có cầu bác qua những
dòng suối nhỏ, kết hạp với những cây cảnh, hoa hay những hình thức kiến trúc nhò xếp
bằng đá tảng ... đã làm cho ngôn ngữ của kiến trúc thêm đa dạng.
Ngày nay mặc dù có sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, những đổi mới vê trang
thiết bị trong nhà nhưng những đặc điểm chinh trong ngôi ở dân gian N hật Bản vẫn
đuợc tồn tại và mang phong cách độc đáo của nó.
Kiến trúc dân gian Lào : Với môi trường thiên nhiên rất trữ tình (đa dạng rừng,
núi, sông, suối), kiến trúc Lào cũng có một sác thái riêng, ít chịu ảnh hưởng ngoại lai.
Những bản làng Lào, có khi chỉ thưa thớt với vài chục ngôi nhả, cũng có khi đông
đúc tối 500 ngôi nhà, nằm men theo những sườn đổi, tiếp cận với những dòng sông con
suối để tiện lợi cho việc sinh hoạt.
Ngôi nhà sàn Lào có thể chia thành 3 loại :
1. Loại nhà đơn có hai mái dốc.
2. Loại nhà đơn có vẩy thêm một mái phụ.
3. Loại nhà kép gốm 2 nhà đật sát nhau (mỗi nhà có hai mái dốc tồng cộng có 4
mái dốc).
Đó là cách phân loại theo m ặt cất của Xôphi Sácpãngchiê và Pier Clêmãng (xem
hình 1-17).
3S
Nhà sàn ở Viên Chán và những vùng lân cận có chiéu ngang lớn, thuộc loại nhà kép
với hai vì kèo mái tam giác giáp nổi với nhau và ở chỗ nối hai hệ mái dùng máng kẽm
để thoát nước mưa. Sự phân chia công nâng trên m ặt bằng nhà rất rõ ràng : từ cầu
thang chính dẫn lên một hiên rộng (thuộc nhà thứ nhất), tiếp đó là phòng sinh hoạt
chung rồi đến phòng ngủ của bô mẹ và trẻ em (ở nếp nhà thứ hai), sau dó là khu vực
bếp, nước và một cầu thang phụ. Sự ngăn cách giữa khối sinh hoạt chung và khối phòng
ngủ được thực hiên bàng vách ngăn và rèm ; sự ngãn cách giữa các khu vực chính và
phụ, khu vực khô và ướt được thực hiện bàng sự chênh lệch độ cao sàn (sàn nhà chính
cao hơn sàn nhà phụ).
Nhà thường lợp mái ngói và có khi đẩu hồi được trang trí bàng những tấm gỗ ghép
đứng. Những tám đan che trên cấu thang chỉnh, những lan can đễu được làm một cách
khéo léo.
Nhã sàn người Lào vùng Xiẽng Khoảng là loại nhà đơn có vấy thêm máí phụ, mái
phụ này nối tiếp với mái chính đưa nước mưa xuống đát. Mặt bằng nhà gọn ghẽ, ngăn
náp, có phòng riêng cho con gái. Dẫu hồi nhà ở Xiêng Khoảng được trang trí thành
những tia mặt trời hoặc được vẩy thành những mái tròn khum một cách nhuán nhuyễn.
Nhà ở dân gian vùng cánh đổng Chum đơn giàn hơn những nơi khác, nhưng đổ dùng
trong nhà như ghế, giỏ đựng xôi v.v... thì được làm rất công phu.
Cột nhà có đường kính từ 15 - 40cm. Dưới chế độ cũ cột nhà to hay bé biểu hiện
chủ nhân giàu hay nghèo. Tuỳ từng vùng, nhà được đật trên cột đá, trụ bê tông hay
chôn thảng xuống đất.
Nhỉn chung, kiến trúc nhà ỏ dân gian Lào đáng chú ý ỏ những m ạt : sự phân chia
công năng trên m ặt bàng, cách láp dựng cũng như cách trang trí các chi tiết, các bộ
phận của kiến trúc.
C ăm puchia, đất nưốc có những kỳ tích kiến trúc nổi tiếng nhu Ảngco Vát và Ãngco
Thom Bayon. Kiến trúc nhà ở dân gian có nhiễu điểm đáng chú ý. Trái với kiến trúc
đễn đài xây dựng bàng đá là chính, nhà ỏ CămPuChia đa phẩn bầng vật liệu thào mộc
chủ yếu là gỗ và tre, lá.
Nhà ở Cămpuchia không cầu kỳ mà quan tâm nhiễu đến chức năng sử dụng, chú ý
tô’ hợp không gian, thông gió tự nhiên, nhà thường đặt theo hướng Đông-Tây để cho gió
nam và tây - nam thổi vào. Kiến trúc dân gian Cãmpuchia rãt chũ ý đến việc kết hợp
với địa hình, thường dùng kiểu nhà sàn là chính đê’ phù hợp vối đổi dốc, tránh nưốc
sông suối dâng lên và chống côn trùng ; sàn cao 2 đến 2,5 mét, dưới đê’ hóng mát, đế
súc vật và nông cụ. Kiến trúc dân gian Cămpuchia còn rất chú ý đến cảnh quan và cây
xanh đê’ cài thiện vi khí hậu. Nhà ở dân gian thành phố có loại làm toàn bàng gỗ và
ván, có hiên lãn, mái đua ra khỏi m ật tường và hiên có ván chán thấp xuống để chống
mưa nắng, kiến trúc gây được cảm giác rộng rãi và thoáng mát. Nhà ở nông thôn có
nơi dùng cột gỗ mái lá, tường phên hoặc nan kẹp lá, sức biểu hiện của ngôi nhà thể
hiện ở việc kết hợp các mái lá, độ chênh của sàn khác nhau và việc sử dụng các hàng
cột vững vàng.
40
Nhà ở dân gian Cãmpuchia còn có thể được phân loại theo hình thức mái, bao gồm
các loại : một nhà hai mái dốc, hai nhà liền nhau bốn mái dốc hay ba nhà liền nhau sáu
mái dốc.
Indônêxia : Một đất nước gốm 3000 hòn đảo lớn nhỏ với nhiễu dân tộc khác nhau.
Do đó, nhiều nhà nghiên cứu cũng thừa nhận rằng : muốn nghiên cứu một cách toàn
diện thi đòi hỏi phải rát nhiéu công sức và bước đẩu cũng chi nghiên cứu được một số
loại nhà ở thông thường vé các m ặt công năng, vật liệu và thẩm mỹ.
Loại nhà cùa bộ tộc Bađui là một loại nhà ở lâu đời, thường chỉ có một phòng, nếu
có hai phòng thi phòng thứ hai làm bếp kiêm phòng ăn và chỗ để những muông thú săn
được. Nhà chi có một cửa vào duy nhất (với loại nhà một mái hiên) hay hai cửa (đói với
loại hai mái hiên) mà không có cửa sổ hay chỗ thoát khói cho bếp lò (khói thoát ra ở
phấn tường giáp mái). Sàn nhà cách m ặt đất chi 40cm, làm chỗ để chứa gỗ, củi hay nuôi
gà. Loại nhà có mái võng xuống nhu hình yên ngựa này còn có thể thấy ở vùng Nam
Xumatơra.
Nhà ở Bađui có cách cáu tạo rất giống một loại nhà kho tên là "Lunbungpadi", xuất
hiện từ thế kỷ thứ IV trước công nguyên Những nhà kho này thường gộp lại thành từng
nhóm và đật cách xa làng do những người nguyên thuỷ nghỉ đến khả nãng phòng hoà.
"Lumbungpadi" được xây dựng phô’ biến từ Xumatơra đến đảo Phlorex. Nó là loại nhà
có bốn cột kê lên những tảng đá, tiếp sau hệ cột kê cao 1,2 mét này là m ặt sàn và bộ
sườn của nhà bảo đảm cho việc lắp tường bàng những tấm phên. Tường càng lên cao
càng nghiêng ra phía ngoài mà không thẳng đứng (có thể là để chống mưa hát). Nhà
có hai mái dốc với hai tấm phên tam giác đấu hồi và một trong hai tãm phên này có
thế được kéo lên xuống làm lối vào nhà.
Ba bộ tộc Batác (gổm những người Batác Tôba sống ở miễn Tây Xumatơra và người
Karô Batae sống ở vùng núi Xumatơra), bộ tộc Tôratgia (xêlêbex) và bộ tộc Minangkabau
(Tây Xumatơra) đã có những ngôi nhà ỏ quy mô lớn và giấu trang trí hơn bộ tộc
Bađui nhiêu.
Nhà gỗ : Khi dùng tấm gỗ để làm tường đã làm cho ngôi nhà Batác Tôba có độ bén
lâu hơn hản nhà Bađui tỷ lệ giữa chiểu cao mái và tường thường bàng 4/1. Những hình
thức trang trí điêu khác phong phú dùng để "doạ ma quỷ”, mẩu sác chí gổm hai mấu
đen và đỏ. Vì ở đây một phấn ba dân số theo đạo tin lành - do các nhà truyền đạo tuyên
truyén - nên tranh vẽ trên tường còn có chù để là các hình người và phong cành. Còn
nhà ở vùng Batáckarô có đặc điểm là tỷ lệ mái trên tường quá lớn (8 : 1), cột và tường
đễu thẵp (đây là một kiểu nhà dài).
Đối với nhà ở bộ lạc Tôrátgia ở đào Xêlêbex ngoài những điểm tương tự vê kết cáu
nhu loại nhà Tôba còn có những điểm khác sau đây :
- Mái cong hinh yên ngựa đến đoạn đấu hổi nhà vươn ra rất xa như một mũi tên, vì
độ vươn ra rất lởn nên phải có cột chống.
- Vật liệu lợp dùng tre, nứa chẻ đôi mà không dùng lá panđarux.
- Hai đáu hổi nhà có hiên.
41
An Huy
Cát Lâm-dân tộc Triẻu Tiên
/
Hà Bắc
Triết Giang
Triết Giang
Triết Giang
Nội Mông
Bắc Kinh
Tú Xuyên
Cam Túc
Tứ Xuyên
Tây Tạng
Vân N-am
Vân Nam
Hình 1.20 : Nhà ở dân gian các vùng ở Trung Quốc
42
Mặt đứng nhà sàn Lào
(Theo Sophie'C harpetier
và piere Clement)
ợ ị i
1 -------- ị-------1-
Mặt bằng tầng Irông m
Hình à.21 : Một kiểu rìhù sin ở Lào
43
Kinh 1.22 : - a, h) Kiến trúc nhà à dân ỊỊÌan Campuchia.
c, d) Một sã đề nghị cái liến ngói nhà nông thôn Campuchia (theo N.Gôíô và VÔkađa)
- Trang trí tường, cột chủ yếu là dùng những hoa van hình học chạm trổ các môtíp
người hoặc vật và ở các cột nhà và các m ặt nhà thường có tượng gỗ đẩu trâu nước.
- Việc trang trí nghệ thuật trong nhà càng nhiễu chứng tò vị trí của người chù càng
có địa vị trong xã hội.
Nhưng đỉnh cao của hoạt động nghệ thuật xây dựng nhà ở Inđônêxia mà có lẽ không
một dân tộc nào vượt được là thuộc vê bộ tộc Minãngkabau. Hỉnh thức mái cong vuốt
lẽn (tượng trưng cho những cái sừng trâu bò) là thành phấn đáng chú ý nhất của nhà
Minagkabau. Hình thức mái vươn lên theo một đường cong mém này là do yêu cẩu của
các phần mặt bàng bên dưới : một loạt các chái nối liễn nhau đã khiến cho nhà có một
loại mái hình yên ngựa có đẩu mái cong vút lên. Tường trang trí ở đây chủ yếu dùng
đé tài thực vật (hoa, nụ, hoa, cây leo) với các mầu đen, vàng và đò. Một số nhà nghiên
cứu cho rằng đây là ảnh hưởng của vãn hoá Ấn Độ. Những loại nhà này nay đã thay
vật liệu lợp thào mộc cũ bàng tôn để chống lại mục mọt.
Ngày nay, các hình tượng nhà ở cô’ truyền ở Xumatơra cũng như những đền chùa độc
đáo với 5-7 lốp mái ỏ Bali đang được các kiến trúc sư nghiên cứu, nâng cao để áp dụng
vào thực tế, góp phấn dựng nên một nén kiến trúc mởi mang tính chất dân tộc Inđônêxia
đậm né.t.
1.6. LƯỢC KHẤO QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KIẾN TRÚC NHÀ Ở THÀNH
PHỐ, NÔNG THÔN VÀ CÁC DÂN TỘC ÍT NGƯÒI VIỆT NAM
Lịch sử bốn nghìn năm văn hiến, kiến trúc của Việt Nam ta có nhiéu nét cán chú
ý nghiên cứu. Từ thời đại trống đóng nổi tiếng cho đến các triẽu đại phong kiến Lý,
Trán, Lê ... chúng ta đã có nhữ’ig công trình nghiên cứu. Trong khuôn khổ của chương
này, chúng tôi chỉ đễ cập đến kiến trúc nhà ở Việt Nam từ thế kỷ trước đến thế kỷ này,
với ba mảng chính là nhà ở thành phố, nhà ở nông thôn và nhà ở các dân tộc ít người
ở nước ta.
Kiến trúc nhà ở thành phô', nông thôn cũng như kiến trúc nhà ở cùa các dân tộc ít
người cùa nước ta đã thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu : từ các kiến trúc sư cho
đến các nhà xã hội học, dân tộc học.
Kiến trú c n h à ở th à n h phố, nhẫt là đối với các thành phố Hà Nội, một số thành
phó ở miễn Bác và thành phố Hổ Chí Minh là những đối tượng đáng được nghiên cứu.
Để nghiên cứu nhà ở ở Hà Nội trong hai thế kỷ gẩn đây, chúng ta có thể phân loại
và nghiên cứu đặc điểm theo 2 thời kỳ sau :
- Thời kỳ dău thế kỳ XIX đến năm 1945 (Hà Nội thòi nhà Nguyễn và thời Pháp
thuộc).
- Thài kỳ Hà Nội dưới chế dộ mói.
Cho đến cuối thế kỷ trước, nhà ỏ vùng Hà Nội cũ chủ yếu tập trung ở vùng chợ Đồng
Xuân, Hảng Đào, Hàng Ngang, Hàng Buổm, Hàng Bông và Cáu Gỗ, phía Bác quận Hoàn
Kiếm hiện nay).
45
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf
Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf

More Related Content

Similar to Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf

Nguồn gốc và quá trình phát triển của kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống n...
Nguồn gốc và quá trình phát triển của kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống n...Nguồn gốc và quá trình phát triển của kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống n...
Nguồn gốc và quá trình phát triển của kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống n...Nguyen Khuong
 
Cam Nang Chinh Phuc Thap Nhan Phu Yen Xuantien52hz
Cam Nang Chinh Phuc Thap Nhan Phu Yen Xuantien52hzCam Nang Chinh Phuc Thap Nhan Phu Yen Xuantien52hz
Cam Nang Chinh Phuc Thap Nhan Phu Yen Xuantien52hzXuân Tiến
 
Nnt gt lich_sunb_quyen137
Nnt gt lich_sunb_quyen137Nnt gt lich_sunb_quyen137
Nnt gt lich_sunb_quyen137Viet Nam
 
vgd No. 2 - Summer 2010
vgd No. 2 - Summer 2010vgd No. 2 - Summer 2010
vgd No. 2 - Summer 2010Tung Thai
 
GDĐP LOP 6 (ban day mau).pdf
GDĐP LOP 6 (ban day mau).pdfGDĐP LOP 6 (ban day mau).pdf
GDĐP LOP 6 (ban day mau).pdfhoangdungvms
 
Du lịch nhân văn trung quốc
Du lịch nhân văn trung quốcDu lịch nhân văn trung quốc
Du lịch nhân văn trung quốcRuby Phạm
 
NHÀ Ở TIÊU BIỂU CỦA MỘT SỐ DÂN TỘC NHÀ DÀI, NHÀ RÔNG, NHÀ SÀN (THÁI, MƯỜNG),...
NHÀ Ở TIÊU BIỂU CỦA MỘT SỐ DÂN TỘC  NHÀ DÀI, NHÀ RÔNG, NHÀ SÀN (THÁI, MƯỜNG),...NHÀ Ở TIÊU BIỂU CỦA MỘT SỐ DÂN TỘC  NHÀ DÀI, NHÀ RÔNG, NHÀ SÀN (THÁI, MƯỜNG),...
NHÀ Ở TIÊU BIỂU CỦA MỘT SỐ DÂN TỘC NHÀ DÀI, NHÀ RÔNG, NHÀ SÀN (THÁI, MƯỜNG),...Chau Duong
 
Đình làng Bắc Bộ Việt Nam - Kiến trúc Nhiệt đới
Đình làng Bắc Bộ Việt Nam - Kiến trúc Nhiệt đớiĐình làng Bắc Bộ Việt Nam - Kiến trúc Nhiệt đới
Đình làng Bắc Bộ Việt Nam - Kiến trúc Nhiệt đớiluongthuykhe
 
Cultural aspects of Vietnamese traditional architecture
Cultural aspects of Vietnamese traditional architectureCultural aspects of Vietnamese traditional architecture
Cultural aspects of Vietnamese traditional architecturengoctran432667
 
bctntlvn (22).pdf
bctntlvn (22).pdfbctntlvn (22).pdf
bctntlvn (22).pdfLuanvan84
 
Lịch sử Việt Nam Toàn Tập
Lịch sử Việt Nam Toàn Tập Lịch sử Việt Nam Toàn Tập
Lịch sử Việt Nam Toàn Tập Quân Phạm
 
Lich su viet nam tu khi hinh thanh den nay
Lich su viet nam tu khi hinh thanh den nayLich su viet nam tu khi hinh thanh den nay
Lich su viet nam tu khi hinh thanh den nayHoa Phượng
 
Top 9 danh lam thắng cảnh hùng vĩ tại hội an
Top 9 danh lam thắng cảnh hùng vĩ tại hội anTop 9 danh lam thắng cảnh hùng vĩ tại hội an
Top 9 danh lam thắng cảnh hùng vĩ tại hội annguyen dung
 
đồNg nai di tích lịch sử văn hóa
đồNg nai di tích lịch sử văn hóađồNg nai di tích lịch sử văn hóa
đồNg nai di tích lịch sử văn hóajackjohn45
 
Văn hóa Hàn Quốc
Văn hóa Hàn QuốcVăn hóa Hàn Quốc
Văn hóa Hàn QuốcLan Nguyen
 
Nhóm 4- Mạng lưới á âu phi
Nhóm 4- Mạng lưới á âu phiNhóm 4- Mạng lưới á âu phi
Nhóm 4- Mạng lưới á âu phiMrNguyenTienPhong
 

Similar to Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf (20)

Nguồn gốc và quá trình phát triển của kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống n...
Nguồn gốc và quá trình phát triển của kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống n...Nguồn gốc và quá trình phát triển của kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống n...
Nguồn gốc và quá trình phát triển của kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống n...
 
Cam Nang Chinh Phuc Thap Nhan Phu Yen Xuantien52hz
Cam Nang Chinh Phuc Thap Nhan Phu Yen Xuantien52hzCam Nang Chinh Phuc Thap Nhan Phu Yen Xuantien52hz
Cam Nang Chinh Phuc Thap Nhan Phu Yen Xuantien52hz
 
Dinh lang
Dinh langDinh lang
Dinh lang
 
Nnt gt lich_sunb_quyen137
Nnt gt lich_sunb_quyen137Nnt gt lich_sunb_quyen137
Nnt gt lich_sunb_quyen137
 
vgd No. 2 - Summer 2010
vgd No. 2 - Summer 2010vgd No. 2 - Summer 2010
vgd No. 2 - Summer 2010
 
GDĐP LOP 6 (ban day mau).pdf
GDĐP LOP 6 (ban day mau).pdfGDĐP LOP 6 (ban day mau).pdf
GDĐP LOP 6 (ban day mau).pdf
 
Csvhvn
CsvhvnCsvhvn
Csvhvn
 
Du lịch nhân văn trung quốc
Du lịch nhân văn trung quốcDu lịch nhân văn trung quốc
Du lịch nhân văn trung quốc
 
NHÀ Ở TIÊU BIỂU CỦA MỘT SỐ DÂN TỘC NHÀ DÀI, NHÀ RÔNG, NHÀ SÀN (THÁI, MƯỜNG),...
NHÀ Ở TIÊU BIỂU CỦA MỘT SỐ DÂN TỘC  NHÀ DÀI, NHÀ RÔNG, NHÀ SÀN (THÁI, MƯỜNG),...NHÀ Ở TIÊU BIỂU CỦA MỘT SỐ DÂN TỘC  NHÀ DÀI, NHÀ RÔNG, NHÀ SÀN (THÁI, MƯỜNG),...
NHÀ Ở TIÊU BIỂU CỦA MỘT SỐ DÂN TỘC NHÀ DÀI, NHÀ RÔNG, NHÀ SÀN (THÁI, MƯỜNG),...
 
Đình làng Bắc Bộ Việt Nam - Kiến trúc Nhiệt đới
Đình làng Bắc Bộ Việt Nam - Kiến trúc Nhiệt đớiĐình làng Bắc Bộ Việt Nam - Kiến trúc Nhiệt đới
Đình làng Bắc Bộ Việt Nam - Kiến trúc Nhiệt đới
 
Cultural aspects of Vietnamese traditional architecture
Cultural aspects of Vietnamese traditional architectureCultural aspects of Vietnamese traditional architecture
Cultural aspects of Vietnamese traditional architecture
 
bctntlvn (22).pdf
bctntlvn (22).pdfbctntlvn (22).pdf
bctntlvn (22).pdf
 
Thong diep
Thong diepThong diep
Thong diep
 
Lịch sử Việt Nam Toàn Tập
Lịch sử Việt Nam Toàn Tập Lịch sử Việt Nam Toàn Tập
Lịch sử Việt Nam Toàn Tập
 
Lich su viet nam tu khi hinh thanh den nay
Lich su viet nam tu khi hinh thanh den nayLich su viet nam tu khi hinh thanh den nay
Lich su viet nam tu khi hinh thanh den nay
 
CSVHVN C.2 Bài 1
CSVHVN C.2 Bài 1CSVHVN C.2 Bài 1
CSVHVN C.2 Bài 1
 
Top 9 danh lam thắng cảnh hùng vĩ tại hội an
Top 9 danh lam thắng cảnh hùng vĩ tại hội anTop 9 danh lam thắng cảnh hùng vĩ tại hội an
Top 9 danh lam thắng cảnh hùng vĩ tại hội an
 
đồNg nai di tích lịch sử văn hóa
đồNg nai di tích lịch sử văn hóađồNg nai di tích lịch sử văn hóa
đồNg nai di tích lịch sử văn hóa
 
Văn hóa Hàn Quốc
Văn hóa Hàn QuốcVăn hóa Hàn Quốc
Văn hóa Hàn Quốc
 
Nhóm 4- Mạng lưới á âu phi
Nhóm 4- Mạng lưới á âu phiNhóm 4- Mạng lưới á âu phi
Nhóm 4- Mạng lưới á âu phi
 

More from style tshirt

Lich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-3.pdf
Lich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-3.pdfLich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-3.pdf
Lich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-3.pdfstyle tshirt
 
Lich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-2.pdf
Lich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-2.pdfLich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-2.pdf
Lich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-2.pdfstyle tshirt
 
Lich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-1.pdf
Lich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-1.pdfLich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-1.pdf
Lich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-1.pdfstyle tshirt
 
LS DANG BO LAI VUNG vuong quóc quyt hong
LS DANG BO LAI VUNG vuong quóc quyt hongLS DANG BO LAI VUNG vuong quóc quyt hong
LS DANG BO LAI VUNG vuong quóc quyt hongstyle tshirt
 
Tài liệu triển khai, hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ...
Tài liệu triển khai, hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ...Tài liệu triển khai, hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ...
Tài liệu triển khai, hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ...style tshirt
 
các chính sách-cam-nang-giam-ngheo-1 (1).pdf
các chính sách-cam-nang-giam-ngheo-1 (1).pdfcác chính sách-cam-nang-giam-ngheo-1 (1).pdf
các chính sách-cam-nang-giam-ngheo-1 (1).pdfstyle tshirt
 
scdi-tai-lieu-nghiep-vu-tro-giup-xa-hoi-2019_PGB2Omi.pdf
scdi-tai-lieu-nghiep-vu-tro-giup-xa-hoi-2019_PGB2Omi.pdfscdi-tai-lieu-nghiep-vu-tro-giup-xa-hoi-2019_PGB2Omi.pdf
scdi-tai-lieu-nghiep-vu-tro-giup-xa-hoi-2019_PGB2Omi.pdfstyle tshirt
 
Sile Báo cáo sơ kết giua ky giam ngheo.pptx
Sile Báo cáo sơ kết giua ky giam ngheo.pptxSile Báo cáo sơ kết giua ky giam ngheo.pptx
Sile Báo cáo sơ kết giua ky giam ngheo.pptxstyle tshirt
 
SỔ TAY LẠNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG ĐỒNG THÁP.
SỔ TAY LẠNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG ĐỒNG THÁP.SỔ TAY LẠNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG ĐỒNG THÁP.
SỔ TAY LẠNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG ĐỒNG THÁP.style tshirt
 
Bệnh học nam giới với sinh sản và tình dục.pdf
Bệnh học nam giới với sinh sản và tình dục.pdfBệnh học nam giới với sinh sản và tình dục.pdf
Bệnh học nam giới với sinh sản và tình dục.pdfstyle tshirt
 
Tìm hiểu về môn học Thống kê xã hội học.pdf
Tìm hiểu về môn học Thống kê xã hội học.pdfTìm hiểu về môn học Thống kê xã hội học.pdf
Tìm hiểu về môn học Thống kê xã hội học.pdfstyle tshirt
 
Hiểu biết về Tâm sinh lý phụ nữ giới.pdf
Hiểu biết về Tâm sinh lý phụ nữ giới.pdfHiểu biết về Tâm sinh lý phụ nữ giới.pdf
Hiểu biết về Tâm sinh lý phụ nữ giới.pdfstyle tshirt
 
nhasachmienphi-ban-thiet-ke-vi-dai tạo hóa.pdf
nhasachmienphi-ban-thiet-ke-vi-dai tạo hóa.pdfnhasachmienphi-ban-thiet-ke-vi-dai tạo hóa.pdf
nhasachmienphi-ban-thiet-ke-vi-dai tạo hóa.pdfstyle tshirt
 
nhasachmienphi-nhuc-bo-doan sách hay hâp[s đãn
nhasachmienphi-nhuc-bo-doan sách hay hâp[s đãnnhasachmienphi-nhuc-bo-doan sách hay hâp[s đãn
nhasachmienphi-nhuc-bo-doan sách hay hâp[s đãnstyle tshirt
 
nhasachmienphi-tinh-duc-hoc-dai-cuong.pdf
nhasachmienphi-tinh-duc-hoc-dai-cuong.pdfnhasachmienphi-tinh-duc-hoc-dai-cuong.pdf
nhasachmienphi-tinh-duc-hoc-dai-cuong.pdfstyle tshirt
 
nhasachmienphi-78-cau-hoi-ve-nha-lanh-dao.pdf
nhasachmienphi-78-cau-hoi-ve-nha-lanh-dao.pdfnhasachmienphi-78-cau-hoi-ve-nha-lanh-dao.pdf
nhasachmienphi-78-cau-hoi-ve-nha-lanh-dao.pdfstyle tshirt
 
nhasachmienphi-thien-dinh-va-tam-tri-dieu-ky.pdf
nhasachmienphi-thien-dinh-va-tam-tri-dieu-ky.pdfnhasachmienphi-thien-dinh-va-tam-tri-dieu-ky.pdf
nhasachmienphi-thien-dinh-va-tam-tri-dieu-ky.pdfstyle tshirt
 
nhasachmienphi-kheo-an-noi-se-co-duoc-thien-ha.pdf
nhasachmienphi-kheo-an-noi-se-co-duoc-thien-ha.pdfnhasachmienphi-kheo-an-noi-se-co-duoc-thien-ha.pdf
nhasachmienphi-kheo-an-noi-se-co-duoc-thien-ha.pdfstyle tshirt
 
Tìm hiểu nhasachmienphi-vo-nga-vo-uu.pdf
Tìm hiểu nhasachmienphi-vo-nga-vo-uu.pdfTìm hiểu nhasachmienphi-vo-nga-vo-uu.pdf
Tìm hiểu nhasachmienphi-vo-nga-vo-uu.pdfstyle tshirt
 
[downloadsachmienphi.com] Tuổi Mới Lớn Và Vấn Đề Tình Dục.pdf
[downloadsachmienphi.com] Tuổi Mới Lớn Và Vấn Đề Tình Dục.pdf[downloadsachmienphi.com] Tuổi Mới Lớn Và Vấn Đề Tình Dục.pdf
[downloadsachmienphi.com] Tuổi Mới Lớn Và Vấn Đề Tình Dục.pdfstyle tshirt
 

More from style tshirt (20)

Lich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-3.pdf
Lich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-3.pdfLich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-3.pdf
Lich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-3.pdf
 
Lich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-2.pdf
Lich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-2.pdfLich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-2.pdf
Lich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-2.pdf
 
Lich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-1.pdf
Lich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-1.pdfLich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-1.pdf
Lich-su-Dang-bo-tinh-Dong-Thap-tap-1.pdf
 
LS DANG BO LAI VUNG vuong quóc quyt hong
LS DANG BO LAI VUNG vuong quóc quyt hongLS DANG BO LAI VUNG vuong quóc quyt hong
LS DANG BO LAI VUNG vuong quóc quyt hong
 
Tài liệu triển khai, hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ...
Tài liệu triển khai, hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ...Tài liệu triển khai, hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ...
Tài liệu triển khai, hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ...
 
các chính sách-cam-nang-giam-ngheo-1 (1).pdf
các chính sách-cam-nang-giam-ngheo-1 (1).pdfcác chính sách-cam-nang-giam-ngheo-1 (1).pdf
các chính sách-cam-nang-giam-ngheo-1 (1).pdf
 
scdi-tai-lieu-nghiep-vu-tro-giup-xa-hoi-2019_PGB2Omi.pdf
scdi-tai-lieu-nghiep-vu-tro-giup-xa-hoi-2019_PGB2Omi.pdfscdi-tai-lieu-nghiep-vu-tro-giup-xa-hoi-2019_PGB2Omi.pdf
scdi-tai-lieu-nghiep-vu-tro-giup-xa-hoi-2019_PGB2Omi.pdf
 
Sile Báo cáo sơ kết giua ky giam ngheo.pptx
Sile Báo cáo sơ kết giua ky giam ngheo.pptxSile Báo cáo sơ kết giua ky giam ngheo.pptx
Sile Báo cáo sơ kết giua ky giam ngheo.pptx
 
SỔ TAY LẠNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG ĐỒNG THÁP.
SỔ TAY LẠNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG ĐỒNG THÁP.SỔ TAY LẠNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG ĐỒNG THÁP.
SỔ TAY LẠNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG ĐỒNG THÁP.
 
Bệnh học nam giới với sinh sản và tình dục.pdf
Bệnh học nam giới với sinh sản và tình dục.pdfBệnh học nam giới với sinh sản và tình dục.pdf
Bệnh học nam giới với sinh sản và tình dục.pdf
 
Tìm hiểu về môn học Thống kê xã hội học.pdf
Tìm hiểu về môn học Thống kê xã hội học.pdfTìm hiểu về môn học Thống kê xã hội học.pdf
Tìm hiểu về môn học Thống kê xã hội học.pdf
 
Hiểu biết về Tâm sinh lý phụ nữ giới.pdf
Hiểu biết về Tâm sinh lý phụ nữ giới.pdfHiểu biết về Tâm sinh lý phụ nữ giới.pdf
Hiểu biết về Tâm sinh lý phụ nữ giới.pdf
 
nhasachmienphi-ban-thiet-ke-vi-dai tạo hóa.pdf
nhasachmienphi-ban-thiet-ke-vi-dai tạo hóa.pdfnhasachmienphi-ban-thiet-ke-vi-dai tạo hóa.pdf
nhasachmienphi-ban-thiet-ke-vi-dai tạo hóa.pdf
 
nhasachmienphi-nhuc-bo-doan sách hay hâp[s đãn
nhasachmienphi-nhuc-bo-doan sách hay hâp[s đãnnhasachmienphi-nhuc-bo-doan sách hay hâp[s đãn
nhasachmienphi-nhuc-bo-doan sách hay hâp[s đãn
 
nhasachmienphi-tinh-duc-hoc-dai-cuong.pdf
nhasachmienphi-tinh-duc-hoc-dai-cuong.pdfnhasachmienphi-tinh-duc-hoc-dai-cuong.pdf
nhasachmienphi-tinh-duc-hoc-dai-cuong.pdf
 
nhasachmienphi-78-cau-hoi-ve-nha-lanh-dao.pdf
nhasachmienphi-78-cau-hoi-ve-nha-lanh-dao.pdfnhasachmienphi-78-cau-hoi-ve-nha-lanh-dao.pdf
nhasachmienphi-78-cau-hoi-ve-nha-lanh-dao.pdf
 
nhasachmienphi-thien-dinh-va-tam-tri-dieu-ky.pdf
nhasachmienphi-thien-dinh-va-tam-tri-dieu-ky.pdfnhasachmienphi-thien-dinh-va-tam-tri-dieu-ky.pdf
nhasachmienphi-thien-dinh-va-tam-tri-dieu-ky.pdf
 
nhasachmienphi-kheo-an-noi-se-co-duoc-thien-ha.pdf
nhasachmienphi-kheo-an-noi-se-co-duoc-thien-ha.pdfnhasachmienphi-kheo-an-noi-se-co-duoc-thien-ha.pdf
nhasachmienphi-kheo-an-noi-se-co-duoc-thien-ha.pdf
 
Tìm hiểu nhasachmienphi-vo-nga-vo-uu.pdf
Tìm hiểu nhasachmienphi-vo-nga-vo-uu.pdfTìm hiểu nhasachmienphi-vo-nga-vo-uu.pdf
Tìm hiểu nhasachmienphi-vo-nga-vo-uu.pdf
 
[downloadsachmienphi.com] Tuổi Mới Lớn Và Vấn Đề Tình Dục.pdf
[downloadsachmienphi.com] Tuổi Mới Lớn Và Vấn Đề Tình Dục.pdf[downloadsachmienphi.com] Tuổi Mới Lớn Và Vấn Đề Tình Dục.pdf
[downloadsachmienphi.com] Tuổi Mới Lớn Và Vấn Đề Tình Dục.pdf
 

Kiến trúc nhà ở xây dựng đẹp theo sở thích.pdf

  • 2.
  • 3. ĐẶNG THÁI HOÀNG KIEN TRUC NHÀ ở (Tái bản) NHÀ XUẤT BẢN XÂY DỤNG HÀ N Ộ I -2014
  • 4.
  • 5. LỜI ‘ X ti X ĩL ÌT m ữ i Nhà ó luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi tâng láp trong xã hội. Thiết kế và xăy dụng nhà ò nhu thế nao dề đáp ứng dược nhu càu cuộc sống vật chát, tinh thăn và thúc dẩy quá trình phát triền của xă hội ? Dó luôn là những ván d'ê dặt ra cho các nhà kiến trúc, xăy dụng. Đề đáp ứng được nhu càu v'ê tài liệu nghiên. CỊ'*.. Iham khảo và học tập cho các kiến trúc su, kỹ sư xảy dụng, cùng dông dào sinh viên các truòng dại học và những người quan tăm uễ kiến trúc nhà à, N hà xuất bản Xăỵ dụng cho tái bàn cuốn "Kiến trúc nhà ỏ" của PGS. KTS. Đặng Thái Hoàng. Lân tái bàn thứ nhát này, ngoài việc chinh lý lại nội dung, chuong mục, sách còn bổ sung thêm hình vẽ m inh họa và phụ lục tham khảo bổ ích , phù họp vói yêu cảu phát triển nhà à hiện nay. Mặc dù dã có nhiêu cố gáng, song chác chấn không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi luôn mong nhận dược những ý kiến dóng góp, phê bình của dông dào bạn dọc dề cuốn sách được tốt han. NHÀ XUẤT BẨN XÂY DỰNG
  • 6.
  • 7. Chunng 1 QUÁ TRÌNH PHÁT TRIEN KIÊN TRÚC NHÀ ỏ 1.1. NHÀ Ở TRONG XÃ HỘI NGUYÊN THUỶ VÀ XÁ HỘI NÔ LỆ Con người trước khi đi đến căn nhà ở và những ngôi nhà ở hiện đại ngày nay đã từng có một nền vãn minh vẽ kiến trúc nhà à rất lâu đời. Trong xã hội nguyên thuỳ do trình độ sàn xuất rất thấp kém và lạc hậu, nơi ở cúa con người còn rát thô sơ. Ngày nay, chúng ta biết được những nơi ở đơn giàn ban đầu của họ, nhờ khảo cổ học khai quật lên những công trinh từ xa xưa ; hoặc nhờ các công trình nghiên cứu những bộ lạc nguyên thuỷ còn sống rải rác trên thế giới hiện nay. Vào thời kỳ đổ đá cũ con người sống trong những hang động thiên nhiên, hoặc cao hờn (hang động có gia công)... tiếp đến là dùng liếp che chấn thô sa, rồi đến nơi ở có mặt bằng hình tròn xây dựng bàng đá hoặc kết bàng cành cây (xem hình 1.1). Qua một số di tích cho thấy trong hang đá làm nơi ỏ : phía trong làm nơi thờ cúng, phẩn phía ngoài làm không gian ỏ. Liếp chán gió của người nguyên thuỷ làm bàng vật liệu nhẹ thường thấy ở những vùng khí hậu ấm đã được Phorê tìm ra qua những di tích còn sót lại ỏ vùng Andắcxơ (Pháp). Người ta thường quan niệm liếp chấn gió là một tấm liếp hình khum đan bằng những mảnh thân cây với tâm là một bếp lửa. Loại liếp chắn gió phức tạp hơn là một mái nghiêng tựa trên một hệ khung gỗ và trên lớp lát mái nghiêng có lợp cỏ (theo A.R.Brao). Trong khoảng 400 năm sau khi phát hiện ra châu Mỹ (từ thế kỷ XV trở đi) người ta còn gập những bộ lạc sống từ thời kỳ đổ đá. Lơại lểu của họ có thể xây dựng bằng vỏ cây hay bàng đất. Có loại nhà vòm cây dựng bằng đất có trổ cửa trên đỉnh mái để lấy ánh sáng và kết hợp thoát khói. Cách dựng lều tipi của thổ dân da đỏ (theo Oatecman) là bát đẩu dựng khung hình chữ V ngược, buộc lại ở chỗ giao điểm, rổi dựng thêm một chiếc sào thứ ba làm thành thế chân vạc, nhiễu sào phụ khác được dựng tiếp, dùng thừng chàng các cây sào lại với nhau và cuối cùng mái lễu được buộc chặt vào khung và ghim chặt xuống đãt bàng cọc. Loại lều thường thấy ở châu Mỹ là loại lễu làm bàng thân cây có lợp vỏ cây hoặc phủ' bằng da của hươu tuấn lộc. 5
  • 8. Điều kiện địa lý khác nhau nên lễu cũng khác nhau. Những người Exkimõ Bấc cực ỏ những lều tròn xây dựng bàng băng, và băng càng mới nhà càng ẩm; trong khi đó người ở vùng sông Amua dựng những lều hình yên ngựa ; còn léu của người dân du mục vùng Bấc Phi có dạng hình chữ nhật phủ lá kè hoặc da thú. Một ví dụ đáng chú ý là việc khai quật làng Xcara Brây ở Iếclăngđa. Đó là một nhóm quấn cư từ thời tién sử đổ đá mới gốm những nhà tròn bàng đá xây dựng bằng đá tảng xếp chổng lên nhau. Khi cuộc sống du cư chuyển sang định cư, con người sống theo chế độ cống xã nguyên thuỷ và cả thị tộc tham gia xây dựng nhà ở, bấy giò xuẫt hiện loại nhà dài cho một vài gia đỉnh hay nhiều gia đình. Có nhà chứa chục người hay có nhà hàng trăm ngưòi. ở gần Niu Oóc, người ta đã thấy những nhà dài 15 - 30m, giữa nhà có hành lang rộng 1,8 - 2,5m và có vách ngăn bàng gỗ cây, cứ bôn căn hộ lại có một bếp lò và toàn nhà có 5 đến 7 bếp lò. Loại nhà dài này vẫn còn tìm thấy ở Liên Xô (cũ) hay ở Việt Nam: ơ Liên Xô (cũ) nãm l938 người ta phát hiện thấy ỏ tỉnh Vôlônhegiơxkaia có nhà dài 34m với 10 bếp lò ; còn à Tây Nguyên, những dân tộc ít người ở ta đã có những ngôi nhà "dài như những tiếng chuông ngân". Khi con người bước sang giai đoạn đổ đá mới, nông nghiệp và chăn nuôi phát triển thì ngôi nhà ở của con người cũng đã phát triển cao hơn. Ăngghen trong cuốn "Nguồn gốc của gia đình, cùa chế độ tư hữu và của Nhà nước" đã viết :''Lửa và riu đá đã tạo khả năng cho việc chế tạo thuyền độc mộc, có nơi đã dùng gỗ và ván đê’ xây dựng nhà cửa'’. Làng xóm bấy giờ ngoài chướng ngại vật bao xung quanh còn có thêm kho và chuồng súc vật. 0 Ba Lan vùng Bixcupinxki gần Pôdơnan đã tìm thấy di chỉ một thôn xóm xã hội nguyên thuỷ với những nhà dài từ 3 đến 12 gian, mói gian có 1 bếp lò, các nhà xếp song song và cách nhau bởi những con đưòng có lát gỗ rộng từ 2,4 - 374m. Làng Bixcupinxki nguyên thuỷ này rộng tới 2,5ha. Mỗi nhà trong làng có tường đất đáp và mái nhà dốc (xem hình 1. 2). Một thành tựu khác trong lãnh vực khảo cổ học là việc tìm ra và trùng tu cả một làng nổi trên hổ Duy rích ỏ Thuỵ Sĩ. Bí mật này được phát hiện vào năm 1954 kht vét bùn ở đáy hổ Duyrích để xây dựng đập nước. Trong một vùng 500 X 80m đã phát hiẹn được tới bốn vạn chiếc cột gỗ sối, gỗ bạch dương hay gỗ thông, đấu cột được vót 'nhọn bàng rìu đá (những vật liệu xây dựng đó còn bảo vệ được đến ngày nay là do có một lớp bùn dày che chở) ; đống thời người ta cũng đã tìm thấy những rìu đá và sàn phẩm bàng gốm có hoa văn đơn giản nên đã giúp cho người ta dựng lại được bức tranh sinh hoạt của con người thời kỳ đồ đá, khi họ đã định canh định cư không còn sống cuộc sống du mục nữa, đó là những ngôi nhà sàn hình tròn có mái hình nón đặt trên một mạt sàn nổi trên mật nước nhờ một hệ thống cột. Lúc bấy giờ, con người cần phải sống trên hồ hay gán sông để tiện lợi cho sinh hoạt và có thê’ chống lại được thú dữ hay bộ lạc kẻ thù (xem hình 1.4). Sang chế dộ nô lệ, nén vãn minh nhà ở đáng nghiên cứu thuộc vé những phấn đất Ai Cập, Hy Lạp, La Mã và Ấn Độ. ơ Ai Cập cổ đại, nhà ở thường làm bằng đất sét và lau sậy, gạch nung chỉ có đối với nhà ở quý tộc. 6
  • 9. Vào khoảng 4000 năm trước công nguyên (thời kỳ Vương quốc tiễn kỳ) ỏ Tây Bác cách Cairô 40km đã phát hiện ra một điểm dân cứ lớn với hai loại nhà điển hình : - Loại nhà khung gỗ, tường gỗ, trên khung tường bàng gỗ ken sậy, nhà có phong cách nhẹ nhàng và chất lượng thẩm mỹ tương đối cao. - Loại nhà có kết cấu gạch không nung, tường, móng làm bằng đá hộc, hình dáng nặng nễ nhưng ổn định. Trong quấn cư trên có 2 loại nhà người ta thường thấy có mái bàng là loại phổ biến ở Ai Cập Thượng, còn ỏ Ai Cập Hạ thĩ nhà dùng gỗ và lau sậy là chính. Loại nhà ỏ thời kỳ Cô’ Vương quốc (3000 năm trước công nguyên) là loại nhà hình chữ nhật, mái dùng gỗ gác bằng để mùa hè nóng nực có thể làm nơi ngủ được. Vào thời kỳ Trung Vương quốc (khoảng 2000 năm trước công nguyên), vua Sênuxe II đã tập trung nhân công xây dựng thành phố. Việc khai quật thành phố này đã cho thãy khá nhiễu những di tích nhà ở. Thành phố hình chữ nhật có kích thước 380X 260m được chia làm hai khu vực : khu dân nghèo ở phía Tây có kích thước 260 X 105m gồm 250 ngôi nhà 2 - 3 gian xây dựng bầng lau sậy và đất sét (chiéu rộng nhà không quá 7-10m) ; phía Đông Bắc là khu nhà giấu với 10-11 trang viên, có nhà rộng tới 60 X 45m với 70 phòng ; phía Đông Nam thành phố là khu vực dành cho lớp dân trung lưu. Nhà ỏ bấy giờ đã phản ành rõ sự đối lập giầu nghèo. Mặt bàng nhà ở quý tộc Ai Cập thời kỳ này có những đặc điểm sau : m ặt giáp phố không trổ cửa sổ, chi có cửa hẹp vào sân trong, trong nhà có các phòng cho nam và nữ riêng, phòng lớn có độ cao lớn, phòng nhỏ có độ cao bé hơn, phẩn chênh lệch vễ độ cao này làm cửa trời đê’ thông gió, từ sân lên mái có cẩu thang được dùng để hóng mát. Khoảng thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XI trước công nguyên (thời kỳ Tân Vương quốc), nhà ở còn ghi lại dấu vết ở thành Tel el Amácna. Ở đây các loại nhà ở chính là : - Nhà ỏ 3 gian (một gian làm bếp và cất lương thực, 2 gian khác làm phòng ở) vật liệu xây dựng là lau sậy và đất sét, mái bàng. - Nhà cho quan lại (70 X 70 mét) tường gạch cao, mở 3 cửa quay ra phố. - Lâu đài : loại này có ao cá, vườn cây phía trước, các phòng của chủ nhân có nễn cao, phòng dành cho nô lệ, các phòng phụ có nền thấp hơn một mét ; vật liệu dùng cột gỗ, tường gạch, dẩm gỗ, mái bàng và trong nhà có tranh tường. Thài kỳ Hy Lạp cổ dại, ỏ dưới chân thành Aten, nhà ở được xây dựng một cách tự phát, họp lại thành từng phưòng tuỳ theo nghễ thủ công, các nhà hai tầng chen chúc nhau bên những con đường hẹp. Dấn dấn kiểu xây dựng những phường gồm 4 đến 6 nhà trên những mành đất khoảng 30 X 40 mét trở nên phổ biến. Nhà ở phát triển quanh Akrôpôn là khu thánh địa cùa thành phố. Nhà ở La Mã cổ đại phàn ánh rõ rệt đời sống xã hội và mối quan hệ giữa các tẩng lớp thời đó. Thời kỳ đáu (thế kỷ thứ IV trước công nguyên) nhà ở quý tộc rãt phát triển, kiểu chù yếu là nhà ở quý tộc có sân trong, có bể nước ở giữa, ở đây còn dùng làm nơi tiếp khách, trung tâm sinh hoạt của gia đình, làm cơm thờ cúng. Loại nhà phát triển mạnh nhất là loại nhà tập thể cho thuê (nhà công ngụ) loại nhà này gồm những phòng đơn điệu hướng ra một hành lang, xây dựng bầng vật liệu rẻ tiễn và có nhiéu tấng. Thòi 7
  • 10. kỳ đáu 3 - 4 táng, đến thế kỷ thứ II sau công nguyên có nhà 5 - 6 táng và đến thế kỷ thứ IV xuất hiện cà những "nhà chọc trời”có nhà đã cao tới 18m và 21m. Theo sử sách ghi lại, có thời gian ỏ La Mã cô’ đại có tới 46.602 nhà ở kiểu này. Loại nhà này có tên gọi chung là Inxunơ, dùng để phục vụ thợ thủ công, thuỷ thủ, tiểu thương. Inxunơ (khai quật được vào năm 1935) là một ngôi nhà 5 táng ở Rôma dùng tường gạch và sàn bê tông. Dấu vết của nén văn minh cổ La Mã được sáng tỏ rát nhiễu qua việc phát quật cả một thành phố đã từng nổi danh trong lịch sử : thành Pômpêi. Đó là một thành phố phồn vinh một thời và bị chôn vùi sau một trận phun lửa dữ dội cùa núi lửa Vêduyvo năm 79 sau công nguyên. Cà thành phô bị bao phủ bởi một lớp phún thạch dày tối 8 - 9m, cho đến tận thế kỷ 18 (năm 1763) người ta mới xác định được vị trí do tìm thấy được biển đễ chữ "Thành phố Pômpêi"và thật sự vào khoảng 100 nãm sau, công tác khai quật và đưa ra ánh sáng thành phố tới 20 - 30 nghìn dân này mới được tiến hành một cách có hệ thống dưới sự lãnh đạo của nhà khảo cổ học nổi tiếng Dgiuzeppê Phiôrenli. Thành phố được hiện lên với những nhà ở xây dựng từ thế kỷ thứ IV và thế kỷ thứ II trước công nguyên rất đa dạng cũng như các công trinh công cộng, quàng trường càng được xây dựng đẹp đẽ tráng lệ. Những ngôi nhà ở Pômpêi được xây dựng khoảng 200 năm trước công nguyên có hình thức rất duyên dáng : bốn m ặt tường phảng, m ặt trước có cửa vào và hai cửa sổ nhò hai bên, mái dốc cấu tạo phức tạp do có sân trong nhò, chiếc sân trong này gọi là Atri, thường có bể chứa nước mưa (mặt nước ngang mặt sân) theo đưòng ống dẫn từ mái xuống và chạy ngầm dưới đất (xem hình 1.5). Nhà à của nhà giấu, có tới 40 phòng, ngoài những sân trong nhỏ, còn có sân trong lón (pêrixtil) ỏ đó có trang trí cây cảnh, thảm cỏ, bê’ nước, và các điêu khấc nhỏ v.v... (xem hình 1.6). Loại nhà này mang tên kiểu Atripêrixtil. Có nhà có tới 2 Atri và 2 Pêrixtil. Trong những loại nhà này, hội hoạ và tranh tường rất được chú ý sừ dụng đề tăng vẻ đẹp của kiển trúc. Những ngôi nhà ở trên, không đại diện cho loại nhà ở thông thường của đa số dân thành phố là thợ thủ công và buôn bán nhỏ hay những tầng lớp binh dân khác, chiếm đa số trong thành phố. Nhà ở của họ thường hẹp và dài, có lối đi nhò từ ngoài vào trong, bên cạnh có một xưởng thủ công nhò hay cửa hàng, tiếp đến là một Atri với bê’ nước, sau là đến khu phòng ngủ và các phòng phụ đặt cạnh một sân hở nhỏ có bể nước, bốn hoa (khu vệ sinh đật dưới gấm cẩu thang đi lên gác xép). Phát triển gẫn như song song với cổ Ai Cập, ở châu Á, đất nước Ân Độ cũng đã có một nén văn minh rất đáng chú ý. Những thành phố cùa An Độ vào khoàng 3000 nám trước công nguyên được bố trí uốn nán và phân chia bởi mạng lưới đường chính và phụ thảng táp Thế giới biết đến người An Độ cô’ đại như những nhà quy hoạch đô thị tiền phong qua dấu vết của các thành phố cổ Môhengiô Đarô và Sanhê Đarô (ỏ vùng Xinh) cũng như Harappa (ở Păng - giáp), ở đây có những ngôi nhà gạch màu đỏ, mái bàng, có tường ngăn xây lửng để thông gió. Trong thành phố còn có cả nhà hai tầng : tầng dưới là bếp, nhà tám, kho, giếng; tầng trên là các phòng ngủ.
  • 11. Hình 1.2 : Di ttch nlià ir vùng hò Bixcupmxki ớ Ba Lan Hình 1.3 : Nhà ứ bằnịỉ đăl sét cùa một bộ lạc nguyên thủy cháu Phi 9
  • 12. Hình 1.4 : Nhà sàn nguyên thúy irên hầ Duyrtch 10
  • 13. 1.2. KIẾN TRÚC NHÀ Ở CHÂU Â u THỜI KỲ TRƯNG THẾ KỶ VÀ THỜI KỲ PHÔI THAI T ư BẨN CHỦ NGHÍA Thời kỳ Trung thê' kỷ - từ th ế kỷ XII đến thê' kỷ XV - ở châu Âu đã nổi lên một nén kiến trúc thế tục trong đó có kiến trúc nhà ở truyền thống khá nối tiếng. Mácxim Goocki đã nhận xét : "Lịch sử văn hoá đã bảo cho chúng ta biết các đoàn thể thủ công nghiệp Trung thế kỷ cùa các thợ đá, thợ mộc, thợ khấc hoa văn và thợ làm đổ gốm rất thiện nghệ trong việc xây dựng nhà cửa và chế tạo nên những đổ dùng đẹp đẽ lạ thưòng mà các nhà nghệ sĩ cá thê’ sánh không kịp ..." *■ *'. Ngay trong những dinh thự cùa tầng lớp có tiền, đối lập với kiến trúc nhà ở dân gian, vẫn mang tính chất thế tục rất lớn. Khi xét đến sự phát triền nhà ở của thời kỳ này, cẩn nghiên cứu kiến trúc nhà ở cùa cả hai tấng lớp ở một số nước : Ò Pháp, kiến trúc nhà ở dân gian của thị dân bấy giờ có phong cách rất hấp dẫn, thể hiện tinh thẩn lạc quan. Dán thành phố thường sống trong những nhà nhiễu tấng : tầng một là phường thủ công hoặc quầy hàng, các tầng trên là phòng ngủ. Mặt đứng đấu hổi nhà (phía tháy mái thu hổi) hướng ra đường phố hoặc quảng trường. Kết cấu của nhà khung gỗ là chủ yếu, và hoàn toàn bộc lộ ra ngoài, loại nhà này thường gia công rất tinh xảo có sức lôi cuốn, trên mặt đứng cửa sô’ được mở rất rộng. Loại nhà này được sử dụng nhiễu ở thời kỳ Văn nghệ phục hưng mà đến tận ngày nay vẫn được nhiéu người hâm mộ. Nhà ở lúc bấy giờ áp dụng cách trang trí gô tích và yêu cáu thẩm mỹ cao. Loại nhà này không lớn, thưòng có sân trong, kèm theo nhà phụ và vưòn nhỏ. Loại dinh thự và trang viện của nhà giấu thời kỳ này cũng được phát triển mạnh. Dinh thự xây bàng đá, và tường bên ngoài cũng xây đá dày bao quanh, bên trên nóc nhà có bố trí nhiều tháp để trang trí, hình thức mặt đứng bưng bít kín đáo. Một số ví dụ tuơng đối điển hình là dinh thự Giáccơ Cơ (1443), dinh thự Buốcthơrundơ (1475), và dinh thự Kluynny (1485) ở Pari. Những trang viện lớn thường có thành luỹ và hào nước bao quanh, trên thành có vọng lâu và cửa vào có cẩu treo. Bộ mặt bên ngoài của trang viện rất nậng nề nhưng nội thàt lại giấu tính trang trí. Những trang viện Côngxipierơphông, Cacaxon được nhấc đến như những công trình tiêu biểu của kiến trúc xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Ỏ Đức, trong khoảng mấy trăm năm của thời kỳ Trung thế kỷ, vật liệu xây dựng chính là gạch và đá. Mái nhà dân gian Đức rất dốc, bên trong mái có tầng gác, hoặc nhiễu tấng áp mái, thể hiện qua m ặt đứng bàng những cửa sổ ; và trên m ặt mái cũng có lớp lớp cửa sổ. « Bàn về vãn học. 11
  • 14. Trên mặt tường gạch đá đơn giàn mà vủng chác, thường nhô ra những láu gác, hiên, êke, cửa sổ (dùng kết cấu cõng xôn để tạo nên những không gian vươn ra ngoài mặt đứng). Những hình thức kiến trúc này rất đẹp và tinh xảo. Những tiểu cành nhu chi tiết vòi thoát nước ở chân tường hình đáu thú vật và bế nhò bằng đá chứa nước phía dưới không những chi trang trí cho ngôi nhà mà còn làm đẹp thêm thành phô. ở A nh, khi đó cũng tổn tại hai loại nhà chính : dinh thự có quy mô lớn, chẫt lượng cao nhưng dáng vẻ bưng bít và lạnh lùng còn nhà ở thông thưòng thì lại có sức lôi cuốn, hấp dẫn, Vật liệu xây dựng nhà thông thường là đá hoặc gỗ. Hệ khung gỗ cùa nhà mầu sâm được bộc lộ trên m ật tường tráng với kỹ thuât mộc rất khéo léo. Cửa sổ lớn nhô ra và đẩu hối mái dốc được trang trí rất tinh vi. ơ Anh thời kỳ này, hình thức bên ngoài nhà ở đã phản ánh đúng tô’ chức không gian bên trong ; hỉnh dáng các phòng thường phức tạp, làm không gian kiến trúc đa dạng phong phú và có cảm giác ăm cúng. Ò Italia, kiến trúc nhà ỏ thời kỳ Trung thế kỷ đáng chú ý là những dinh thự. Các công trình này được xây dựng bàng đá, với hai ba hoặc bốn tấng. Tầng dưới thườiĩg dùng đá lớn và thô nhám, tạo càm giác vững chác và ổn định ; tầng trên xây bàng đá nhò và phảng hơn, tạo ấn tượng nhẹ nhàng và tinh tế. Các tấng nhà đều được phân biệt bằng các gờ ngang. Cửa sổ rất lớn, với hình thức tô’ hợp gô tích, dưới một cái cuốn có từ hai đến ba cửa sổ. Đối với loại kiến trúc này, có những công trình tiêu biểu như Xpiri, Phrexcôban, Tôlômây, Agôxtini. Hinh thức kiến trúc đá này vẫn còn thấy lại ở Italia trong những thời kỳ tiếp theo. Cũng vào thời kỳ Trung thế kỷ, người ta thấy ở những mién cực Đông châu Âu, như ỏ Côcadơ, Nam Tư, Bungari, xuất hiện và tổn tại một loại nhà ỏ kiểu pháo đài. Loại nhà này ra đời do yêu cầu an toàn của những người dân, nhằm phòng thủ chiến tranh cũng như xung đột giữa các dòng họ. Loại nhà này có m ặt đứng bưng bít, chi trô’ cửa sô’ ở tẩng trên cùng và trông như lỗ châu mai. Những ngôi nhà loại này thường cao ba, bốn tấng. Nhà ở pháo đài ở Nam Côcadơ tấng dưới thường cao 2m đê’ súc vật, những tầng trên để người ò thường cao 3m Tường xây bàng đá vàng xám phía dưới dấy trên một mét phía trên dẩy 90cm. Nhà ở kiểu pháo đài này ỏ Bungari rất đa dạng, xây bàng đá rất công phu, những hình thức cửa sô’ tầng trên cùng nhô ra ngoài tường bằng những ban công kín khiến cho mặt nhà sinh động. Lúc đó, kiểu nhà này được xây dựng ở những điểm dân cư có tầm chiến lược quan trọng (xem hinh 1.6). Đến thời kỳ phôi th a i tư bản ch ủ nghĩa, nên kiến trúc phải kê’ đến đẩu tiên là kiến trúc Italia thời kỳ Văn nghệ phục hưng (thế kỷ thứ XV và XVI). Ở Italia lúc này lâu đài của tẩng lớp trên thường xây dựng bàng đá và mang tính chất phòng thủ rõ rệt : tẩng dưới có ít cửa và dùng để cho ngưôi làm và thấn binh ở. Nhà có sân trong và các phòng không có công năng rõ rệt. Tiêu biểu nhất là lâu đài Mêđixi xây dựng trong khoảng 1430 - 1440. Một số khác đáng chú ý như toà nhà Xtrôxxi (1489 - 1507) ở Phlorăngxơ, biệt thự Madam (1513 - 1520) do Raphaen thiết kế xây 12
  • 15. dựng ở Rôma , biệt thự Pharnenxia (1509 - 1511) của Pêrudi xây dựng cũng ở Rôma và biệt thự Capra (biệt thự viên sảnh 1552) của Palađiô thiết kế xây dựng ở Vơnidơ ò Pháp, vào thời kỳ Văn nghệ phục hưng, khoảng giữa thế kỷ XVI, tồn tại hai loại nhà ở thành phố chính : - Loại nhà nhỏ chi có một lối vào phía trước. - Loại nhà lớn hơn có sân sau và lối vào phíasau. Loại nhà có hai lối vào này, nhà chính và nhà phụ nối liên bằng hành lang, ơ đây, chủ nhà là dân thủ công hoặc thương nhân sống ở phía trước, thợ học việc ở phía sau. Hình thức bên ngoài nhà vẫn như thời kỳ Trung t.hế kỷ, nhà có bóng dáng (xiluét) rẵt phức tạp do mỗi bộ phận của phòng có 1 mái riêng rất dốc. Vật liệu xây dựng là đá, gạch, và chù yếu là gỗ. Gạch và đá được xây hỗn hợp thành những tổ hợp rất đẹp. ơ các góc nhà của dân thành phố thường có những đèn treo (ôriel) và tháp nhọn nhỏ (tuyaret) làm tăng vẻ mỹ quan cho nhà và góp phẩn tô điểm cho bộ m ặt của thành phố. Tác phẩm điển hỉnh của loại kiến trúc nhò này là toà nhà Côghiơ (1540). Đến thời kỳ quân quyễn tập trung - đấu và giữa thế kỷ XVII (1630 - 1665) - kiến trúc nhà ở thay đổi, nhà ở tư sàn và quý tộc xây dựng rất nhiéu ở Pari và các tinh. Các phòng có chức năng nhất định như : phòng ăn, phòng khách... Tô’ hợp m ật đứng liên tục và thông nhất hơn, các cửa sổ, cửa đi và trụ cột được đơn giản hoá. Nội thất được thiết kế riêng. Từ đẫu thế kỷ XVIII trở đi nhà ở trong thành phố của Pháp lại tiến lên một bước bố trí hợp lý hơn, các phòng độc lập không ảnh hưởng đến nhau, vỉ nhà có tổ chức hành lang trong. Sự liên hệ giữa bếp và phòng ăn, phòng ngủ và nhà tám thuận tiện hơn. ỏ Đúc,vào thế kỳ thứ XVI - XVII, nhà ở dân gian truyền thống tiếp tục phát triển : nhà mái dốc và nhiẽu tầng gác áp mái, tấng dưới là cửa hiệu, các táng trên là khu vực ở, tường hổi nhà (nơi có hình tam giác của mái) được chú ý trang trí. Saú này, những nét đơn giản và tinh tế đó vẫn được sử dụng lại. Ngôi nhà ở Đexxau một ngôi nhà ở của tầng lớp trung lưu là một kiệt tác tiêu biểu cho kiến trúc nhà ở cùa Đức thời kỳ này : nó đơn giàn, thân m ật và hấp dẫn... 0 Nga, song song với sự phát triển nhà ở của các nước Tây Âu, cũng phát triển một kiểu kiến trúc nhà ỏ bàng gỗ rất đặc sắc. Nhà gỗ phát triển ò khắp nước Nga, còn ở Biêlôruxxia và Ukren, với tên thường gọi là "Idơba”. Tuy ở thế kỷ XVII kết cấu gạch đá đã nhiễu lên, nhưng kết cấu gỗ vẫn chiếm đa số, kể cả ở Matxcơva. Với bàn tay sáng tạo của những người thợ giàu tài năng, ngôi nhà gỗ Nga gây một cảm giác thân mật, ẫm cúng và vui mát. Phong cách nhà rất đa dạng : hai mái dốc hoặc bốn mái dốc, ba hoặc năm cửa sô’ trên m ật đứng v.v...(xem hỉnh 1-7). Cùng với m ặt bàng (thường bao gốm sành vào, phòng chính, phòng phụ, kho để lương thực, hình khối kiến trúc phong phú và sinh động, cẩu thang, hiên nghỉ, cửa sổ và ban công có trang trí), kết cấu gỗ trang trí rất đúng liều lượng, thường thấy ở khung cửa sổ, cửa đi, lan can, cột gỗ trong nhà, hình thành một bút pháp rất độc đáo của điêu khắc kết hợp với kiến trúc. Tường gỗ "Idơba", chỗ nối ỏ góc làm toàn bằng gỗ thanh tròn có thê’ liên kết "khấc" hay "mộng". Nhà nghèo lợp mái rơm, nhà giấu lợp mái ván. 13
  • 16. 14
  • 17. Nhà gỗ Ukren có khác biệt với nhà gỗ Nga. ỏ đây, tường ghép bằng ván có khi là những tấm ván dài đặt đứng, nhà phụ tách khỏi nhà chính ò những nơi do khí hậu bớt khác nghiệt hơn. Mái nhà Ukren đua ra khỏi tường nhà rất xa nên ngôi nhà giấu sức biểu hiện. Vào giai đoạn cuối cùa thòi kỳ lịch sử phát triển nhà ỏ này, mọi người thường chú ý đến sự thay đổi của ngôi nhà ở thành phố của Pháp vào thời kỳ Cách mạng tư sản Pháp. Do dân số thành phố tăng lên khiến cho m ật độ kiến trúc tăng lên đòi hỏi phải có một số thay đổi : nhà phải xây hàng loạt kiểu ghép khối ra sát m ặt đường (xây một sổ nhà cho đến hàng chục nhà một lúc) đê’ thay cho kiểu nhà cũ có sân vườn lớn, tốn đất. Những người đẩu tư vốn xây dựng, cho "bộ mật" nhà ỏ của tầng lớp trung lưu, đã có một số trang trí thích đáng. Những ngôi nhà trên đại lộ Phrãngxoa là ví dụ tiêu biếu cho kiểu nhà này. 1.3. KIẾN TRÚC NHÀ Ở CÁC NƯÓC T ư BẨN CHỦ NGHĨA Khi chủ nghĩa tu bàn bát đấu phát triển, cũng như giai đoạn tư bàn lũng đoạn trong lĩnh vực kiến trúc, nhà ỏ luôn là một trong những vấn đễ đáng quan tâm. Trong giai đoạn đầu cùa lịch sử kiến trúc cận đại tư bản chù nghĩa, nhà ở ở nước Anh được phát triển mạnh nhất. Nhà ở tư sàn Anh cuối thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII có hai loại chính : • - Nhà có m ặt bàng hình chữ nhật giữa có sành và cầu thang, các phòng vây xung quanh. Nhà xây dựng bàng gạch, ốp đá ở cửa và góc nhà. - Nhà có m ật bàng hình chữ E và hình chữ H. Nhà ở giai đoạn này vẫn là nhà ở kiểu phục hung cổ điển, chủ yếu là phục hưng La Mã. Lúc bấy giô, nước Anh đứng đẩu vé sô' lượng và quy mô xây dựng nhà ở. Để đáp ứng với nhu cẩu phát triển công nghiệp đã xuất hiện những nhà ở kiểu mới, có khi xây liễn cả một loạt thành một đường phố, có lúc cả mười hay hàng trăm hộ thành một nhóm. Ví dụ : Tiêu biểu nhất của hình thức xây dựng này là nhà ở trên đường phố Rigien ở Luân Đôn, đó là một loạt nhà có hành lang chạy dài men theo đường, hình thành một cảnh quan thống nhất, đó là mẫu mực của một phong cách xây dựng được gọi là "phong cách thời kỳ nhiếp chính"; Đại lộ Rivôli ỏ Pari và tấng dưới nhà có hành lang cuốn hướng ra công viên; Đại lộ công viên (Pác Avơnuy); đường phô số 5 ỏ Niu-Oóc. Vào nửa sau của thế kỷ XIX, ở Anh xuất hiện xu hướng nhà ở gia đình lãng mạn chủ nghĩa. Viliam Morin (một nhà xã hội học) đã tập hợp một số kiến trúc sư có tiếng như Philip Vep, Risớt NoocmanSao và Voixây đề xướng nên phong trào "mỹ thuật và công nghệ". Cơ sở của xu hướng lãng mạn chù nghĩa, hướng vễ phong cách gô tích trung thế kỷ. Chủ nghĩa lãng mạn Anh bấy giờ rất có tiếng tãm, có thể công phá được sự thống trị tuyệt đối của phái học viện cứng nhắc. 15
  • 18. Dùng thủ pháp tương đối linh hoạt của kiến trúc Trung thế kỷ đáp ứng yêu cáu công năng hiện tại, chủ nghỉa lãng mạn đã gây được một số ảnh hưởng nhất định. Hai tác phẩm tiêu biểu của trào lưu này là Hổng ốc (Rết Haoxơ) - nhà ở cùa Morix do kiến trúc sư Vep thiết kế và ngôi nhà ỏ Rutlan do kiến trúc su Voixây thiết kế: Hóng óc xây dựng năm 1859 là một ngòi nhà có mật bàng hình gẫy khúc các phòng được sáp xếp theo yêu cấu sử dụng, liên hệ thuận tiện hỉnh dáng đơn giản với tường gạch đỏ và mái dốc lớn; Còn ngôi nhà ở Rutlan, người ta thấy tác giả mong muốn biểu hiện không khí bình lặng và thâm trám thời kỳ trung thế kỷ, kiên trì với mục đích kiến trúc biểu hiện cuộc sống, tận dụng khả năng kiến trúc tiếp cận với thiên nhiên. Nói chung, nhà ở lãng mạn chủ nghĩa Phục hưng gô tích thường có ba kiểu : phỏng theo kiểu nhà thờ, phỏng theo kiểu thành luỹ và phỏng theo kiểu nông thôn. Tới cuối thê' kỷ XIX, xu hướng này bị trào lưu chiết trung chủ nghĩa của tẫng lớp tư sản hãnh tiến lãn át. Đấu thế kỷ XX, ở Mỹ loại nhà ỏ "kiểu thảo nguyên” của Rait được phát triển với nội dung tân kỳ, kết hợp kiến trúc vởi tự nhiên (thảo nguyên mênh mông của miền Tây nước Mỹ) và coi kiến trúc là một tổng thế (vé bố cục không gian, nội thất cũng như kết cấu). Một trong những vẩn đễ lớn của kiến trúc thời kỳ tư bản chủ nghĩa là nhà ở công nhãn. Những ảnh chụp và vẽ thời đó cho thấy những khu nhà ở công nhân là nghèo nàn, hỗn độn. Nhà được xây thành từng dẫy với khoảng cách tối thiểu hoặc xây lộn xộn với đủ loại vật liệu chấp vá. Việc chọn vị trí khu đất, bố trí nhà ở cuối hướng gió đối với khu công nghiệp gây ra ô nhiễm, việc bô' trí nhà ở môi trường sống vào khu đất tháp thường xuyên bùn lẩy nước đọng cũng rất phô’ biến. Nửa cuối thê' kỷ XIX, các thị trấn công nhân phát triển mạnh. Những nhà xây hàng loạt có ý nghỉa sơ khai vé mặt quy hoạch. Đầu thế kỷ XX, trong kiến trúc nhà ở xuẫt hiện nhiễu ván để mới và có sự phân ngành sâu thêm như xuất hiện các kiến trúc sư nội thất. Hai ví dụ tiêu biểu đáng chú ý là : - Nhà ở ở đường Tuyranh, Bruychxen (Bi) xây dựng nãm 1903 do kiến trúc sư Oócta thiết kế với đặc điếm sử dụng kết cấu thép cho nên có khà năng tổ chức m ật bằng và mặt đứng tự do, quy hoạch căn hộ linh hoạt. - Ngôi nhà ở đường Phơrangcơlanh, Pari (Pháp) xây dựng năm 1903, do kiến trúc sư Ôguyxtơ Pêrê thiết kế với đặc điểm dùng khung bê tông tạo ra m ặt bàng tự do. Trong kiến trúc hiện đại, kiến trúc nhà ở dẩn có những thay đổi đáng kể. Việc xây dựng nhà ở bước đẫu theo những yêu cầu vé sử dụng và quy hoạch đõ thị : đấu tiên kiến trúc nhà ở được xây dựng sáp xếp theo kiểu ô vuông, sau đó tiến tới việc xây dựng nhà ở song song rổi việc xây dựng xen kẽ vào các công trinh công cộng phục vụ cãp I đã bát đầu hình thành như trong quần thể nhà ỏ Cácmáchốp ở Viên. Sau Chiến tranh thế giới thứ I, do sự tàn phá nên nhà ở trở thành vấn đễ nghiêm trọng : ở Pháp có 36 vạn căn nhà bị phá huỷ, 1 triệu 30 vạn căn nhà bị hư hỏng- ở Anh thiếu 50 vạn căn hộ và cần sửa chữa gấp 1 triệu 50 vạn căn hộ; ở NiuOóc (Mỹ) 1 triệu người phải sống trong nhà ổ chuột. Việc thiếu nhà ở không chỉ là công việc của các nước 16
  • 19. tham chiến, chiến tháng hay chiến bại, mà theo Ãngghen là "Sản phẩm tất nhiên của sự hình thành xã hội giai cẫp tư sàn". Tinh trạng cần nhà ở do chiến tranh gây ra cũng nhu do phân bô' lại cư dân theo sự phát triền của công nghiệp, cảnh sống vạ vật của lớp dân nghèo cũng đã dẫn đến sự báo động vẽ yêu cấu giải quyết nạn khủng hoảng nhà ờ. Sau chiến tranh, đến tận năm 1923, cục diện kinh tế tương đối ổn định, thì hoạt động xây dựng nhà ỏ mới bát đầu được chú ý. Từ năm 1930 trở vé trước, loại nhà ỏ xây dựng hàng loạt khá phô’ biến; từ những năm 30 trở vé sau các nước chú ý nhiễu hơn đến việc xây dựng loại nhà ở riêng biệt (nhà biệt thự). Sau chiến tranh thế giới lần thứ I, kiến trúc nhà ở phát triển theo những hướng sau đây : 1. Loại nhà ở xây dựng hàng loạt : Sau chiến tranh, cuộc sống cùa các thành phố bị đào lộn và do nạn thiếu nhà ở dẩn đến những cuộc đẫu tranh của công nhân, làm cho nhà đương cục các nước không thể không nghĩ đến vấn đẽ xây dựng nhà ở hàng loạt. Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, loại nhà này - thường từ 3 dến 5 tầng - có chất lượng kém, không giải quyết được vấn đễ thông gió và chiếu sáng cũng như chất lượng xây dựng. Dần dần một số nước như Hà Lan và Đức đã có một số hướng giải quyết. Đặc biệt là ở Đức, trên cơ sở sản xuất công nghiệp và trình độ khoa học, lực lượng dân chủ (trước khi chế độ Quốc xã lên cẩm quyển) đã áp dụng đê’ thay đổi điễu kiện sống cho công nhân. Những loạt nhà ở mới này có tổ hợp không gian hợp lý, chú ý đến chiếu sáng và thông gió nâng cao chất lượng thẩm mỹ thông qua cái đẹp tự thân. Những kiến trúc sư nổi tiếng trong lĩnh vực nghiên cứu và thực tiễn nhà ở bấy giờ là Vante Grôpiux (người lãnh đạo trường phái kiến trúc Bauhauxơ ở Đexxau), các kiến trúc sư Macxtam và Ađônphơ Maye (ở Phrăngphuốc am Main) và kiến trúc sư thuộc phái biểu hiện Erích Menđenxơn. Những ví dụ tiêu biểu cùa lãnh vực nhà ở xây dựng ỏ Đức lúc bấy giờ là khu nhà ở mối ở Phrăngphuốc do Maye thiết kế và nhà khu nhà ở Xi m enxtat (1924 - 1933) do Vante Grôpiux thiết kế. Khu nhà ở Ximenxtát là tác phẩm mẫu mực cho những khu nhà ở kiểu đơn nguyên hiện nay, ở đây tổ chức căn hộ hợp lý, các hộ độc lập không ảnh hưởng lẫn nhau, liên hệ trong nội bộ căn hộ thuận tiện, có lôgia phục vụ cho sinh hoạt chung của mỗi gia đình và làm phong phú thêm m ặt đứng. Khu nhà ở 4 tẩng, này được coi là khu nhà ở tốt nhất châu Âu lúc bấy giờ. 2. Loại nhà ã kiểu biệt thự : Sau những năm 30 của thế kỷ này, loại nhà ở kiểu biệt thự (nhà xây dựng riêng biệt) khá phát triển. Xu hướng chung cùa loại nhà này là đơn giản hoá, hiện đại hoá về hình khói, bỏ bớt những diện tích thừa như những tiên sảnh rộng lớn trong những ngôi nhà tư nhân kiểu cũ vốn để phô trương thân thế của chủ nhân, giảm diện tích phòng ngủ, tăng diện tích phòng sinh hoạt chung do nhu cấu vãn hoá tăng lên, giảm bớt diện tích bếp 17
  • 20. và khối vệ sinh do thiết bị kỹ thuật ngày càng hoàn thiện. Ngoài ra, vấn đễ chiếu sáng và thông gió, vấn đễ gán gũi tiếp cận với thiên nhiên cũng được chú ý. Loại nhà này có hình thức đa dạng tuỳ thuộc vào khả năng kinh tế cũng như sỏ thích thẩm mỹ cùa chủ nhãn. Tuy vậy, phương thức tổ hợp mặt bằng nhà một hay hai táng đều có mối liên hệ giữa các nhóm phòng với nhau cũng như giũa kiến trúc với thiên nhiên hợp lý. Tiêu biểu cho loại nhà xây dựng riêng biệt này là : - Nhà ở của Vante Grôpiux do chính bản thân ông thiết kế ở Đexxau Đức (1926). - Nhà ở ở Bulôxuyếc Xen, Pháp (1926) do Lơ Coocbuydiê thiết kế. - Nhà ở Tughenhat ở Brơnô Tiệp Khắc (1930) do kiến trúc sư Mix Vanđe Rôê thiết kế. - Biệt thự Kôpphơman (biệt thự trên thác) ở Mỹ (1936) do Rait thiết kế. Tác già của bốn ngôi nhà này đống thời cũng là bốn kiến trúc sư nổi tiếng nhất trong nhiễu lĩnh vực của nửa đấu thế kỷ XX và cả thời kỳ sau đó nữa. Trong toà nhà ở của Vante Grôpiux, m ặt bằng gẩn như là chữ nhật đơn giàn, quy mô tương đối nhỏ, phòng sinh hoạt chung và phòng ăn được cách ly không hoàn toàn (dùng giài pháp không gian linh hoạt gây cảm giác rộng rãi). Khối này gần liên với bếp ; hai phòng ngủ được ngăn cách bằng tù tường và bố trí cạnh khối vệ sinh. Biệt thự của Lơ Coocbuydiê ở Bulôxuyếc Xen (Pháp) lại dùng không gian hoà nhập, sử dụng sàn lửng để tạo phòng xuyên suốt hai tầng, gây không khí thoáng đãng, sáng sủa. Đó cũng là ý đổ hay dùng của các tác giả. Vể sau, ý đố này được thấy lại trong đơn vị nhà ở lớn Mác xây, một kiệt tác của kiến trúc hiện đại với cách xử lý lệch tẩng. Biệt thự Tugenhát là một ngôi nhà hai tầng, phân chia công năng rất rõ rệt : tầng trên là các phòng ngủ; tẩng dưới là không gian sinh hoạt chung, phòng ăn và chỗ làm việc. Tất cà đễu được ngăn cách bàng tường di động nên nội thất rất linh hoạt. Ớ biệt thư Kôpphơman ở trên thác Biarơn, kiến trúc sư Rait đã thiết kế ba tẩng : tầng một bố trí gần m ặt nước gốm phòng sinh hoạt chung và khu phục vụ, tầng hai và tầng ba là các phòng ngủ. Toàn bộ công trình xây dựng trên m ặt thác, gây ấn tượng tương phản rất mạnh do những khối bàng đá và bê tông đan chéo nhau. Rait đã thành công khi ông đưa vào nội thất toàn nhà cành rừng, tiếng suối, bóng cây và đem những hình khối kiến trúc phàng trơn hay thô nhám kết hợp vào thiên nhiên hùng vĩ. 3. Nhà ở cao táng : Sau những năm 1930, nhà ở cao tầng được phát triển mạnh. Dựa trên cơ sở vật chất và sự tiến bộ kỹ thuật cùng với yêu cầu cùa xã hội đã thúc đẩy sự ra đòi và phát triển của loại hình kiến trúc nhà ỏ cao tấng, đó là : - Giá đất trong thành phố tăng lên. - Sự tiến bộ cùa kỹ thuật xây dựng, việc sử dụng vật liệu mới và giải pháp kết cấu mới. - Sự hoàn thiện cùa thiết bị kỹ thuật (thang máy, máy điêu hoà không khí, thiết bị bếp gọn nhẹ, đổ gỗ có diện tích và khối tích tiết kiệm). 18
  • 21. - Nhịp điệu sinh hoạt của xã hội tư bản ngày càng căng thảng, đòi hỏi rút ngán thời gian và khoảng cách giữa các khu vực trong thành phố - Sự hình thành các tiểu gia đình (xu hướng tất yếu của xã hội học) và sự đơn giàn hoá các phương thức sinh hoạt. Ngôi nhà ở đẩu tiên được xây dựng ở Rốttecđam (Hà Lan) vào nám 1930 đã phản ánh những yếu tố trên (trước đó những đề nghị vẽ nhà cao táng ở Đức đã có vào những năm 20 không được chấp nhận), tiếp đến là ngôi nhà ở tập thể Haipoãng ở Anh, rối đến toà nhà Pơraixơ ở Mỹ. Sau đó nhà ở cao tấng có nhiễu thay đổi lớn. Loại nhà này đã đóng góp về mặt mỹ quan, tiết kiệm đất xây dựng. Tuy vậy, nếu xây dựng hàng loạt khối nhà cao tầng mà không chú ý đúng mức đến những yêu cấu vể môi trường sống thì lại rất khó cài thiện điễu kiện sống. Trong thiết kế nhà cao tầng vẫn đề tổn tại phổ biến là quy hoạch tổng thể, trang thiết bị, chỗ để xe và ảnh hưởng của nó đến khu vực xung quanh. Nhà cao tẩng, m ật bàng thường có dạng hỉnh vuông, hình chữ nhật, hình chữ thập, hình sao ba cạnh ; đẩu mối giao thông, đường ống thường được bố trí vào giữa hoặc chỗ cát nhau ò các cánh nhà. Những nhà ỏ cao 50 - 100 táng - nhà chọc trời - trong một thòi gian dài đã được gọi là "độc tố" hay là "những tên bạo chúa", vỉ điều kiện ở cùa nó cũng phi nhân bản nhu những ngôi nhà ổ chuột mà thôi. Nhà chọc tròi không chi ảnh hưởng đến người sử dụng, mà còn tác hại cả đến người qua đường, đường phố trỏ nên hẹp và sâu thẳm dưới những ngôi nhà mà một thời được gọi là tiêu biểu cho "sự hùng vỉ" cùa thành phố tư bản chủ nghĩa. Mấy chục năm gẩn đây, hình ảnh và công năng cùa nhà ỏ cao tẩng tư bản chù nghĩa đã có nhiễu thay đổi, người ta đã quan tâm đến cả môi trưòng và tạo thành những quẩn thể rất giàu sức biểu hiện. ơ các nước phương Tây, từ sau Chiến tranh thế giới thứ II đã có những tìm tòi trong lỉnh vực nhà ở. Những thành công này một phấn là do cố gấng của một sô' kiến trúc sư có lương tâm nghễ nghiệp, có người xuất thân từ những trào lưu kiến trúc tiến bộ nên đã xuất hiện chủ nghĩa công năng giữa hai cuộc đại chiến; m ặt khác là do sự phục hồi vễ kinh tế của các nước (Tây Âu) sau chiến tranh, sự phát triển kinh tế của các nước (Bắc Au) ít bị chiến tranh đụng chạm đến, cùng với việc đẩy mạnh việc sản xuất vật liệu xây dựng hiện đại như thép, kính, bê tông. Một số ví dụ tiêu biểu vé m ặt nhà ở cũng như quẩn thể kiến trúc nhà ở lớn, nhỏ trong thời kỳ này là : - Đơn vị nhà ở lớn ở Mácxây (Pháp) cùa kiến trúc sư Lơ Coocbuydiê (xem hình 1-8). - Nhà ở bên hổ ỏ Sicagô (Mỹ) do kiến trúc sư Mix Van đe Rôê thiết kế. - Khu nhà ở thấp tầng xây dựng hàng loạt ỏ Sôm, gần Côpenhaghen (Dan Mạch) của kiến trúc sư Ấcnơ Giacốpxơn. - Khu nhà ở Gơruênđal ở Xtôckhôm (Thuỵ Điển). 19
  • 22. - Khu nhà ở ở Ham Côm Môn (Luân Đôn) của hai kiến trúc sư Giêm Xtiẽclinh và Giêm Gôoan. - Khu nhà ở Rốc Khemtơn Len ở Luân Đôn (Anh) - Quấn thể nhà ở Rômêô và Giuyliét ở xtutgác. Trong đó đáng chú ý nhất là toà nhà ở Mácxây, một tác phẩm có tấm cỡ thế kỷ của kiến trúc sư nổi tiếng Lơ Coocbuydiê. Công trình này là kết tinh một phẩn những tư tưỏng của chủ nghĩa công năng mà Lơ Coocbuydiê cho là cẩn coi trọng vai trò xã hội của kiến trúc. Lơ Coocbuydiê nói "Tôi đã đặt ngôi nhà vào tâm cùa nhị thức cá nhân và tập thể trong đó tự do cá nhân đã được bảo đàm, tôi đã tổ chức tất cả những cái mà tập thể có thể mang lại cho con người". Tòa nhà ỏ lón này đã thống nhãt ở mức độ cao phúc lợi công cộng và hoạt động cá nhân, được coi là một trong những dẫn chứng đấu tiên vẽ hình thức tổ chức những quần thế nhà ở có trong thiết bị phục vụ công cộng mà Ăng ghen đã phác hoạ ra từ thế kỷ trước. Trong khối nhà ở lớn cao 15 táng này, ở phấn giữa tầng 7 và tẩng 8 tác giả đã bố trí khu vực phục vụ công cộng với các cửa hàng thực phẩm rau quả, hiệu thuốc, cát tóc, bưu điện, căng tin, ngân hàng ; ở tầng trên cùng có nhà trẻ, mẫu giáo, vưòn hoa và bê’ bơi. Người thiết kế đã muốn nâng cao tiện nghi điều kiện sống cho con người bàng cách tô’ chức thuận tiện các phương tiện phục vụ, rút ngắn khoảng cách và tiết kiệm thòi gian đi lại cho con người, đưa phục vụ công cộng đến người sử dụng. Bênêvôlô đã nhận xét : "Ý tưởng cùa đơn vị nhà ở Mác Xây có thê’ là một ý tưởng cách mạng nhất trong toàn bộ nễn văn hoá quy hoạch đô thị hiện tại". Trong xã hội tư bản, việc bố trí các loại cửa hàng, công trình thê’ thao và các hình thức phục vụ khác trong cùng một khối với những ngưòi ở như vậy không phù hợp với phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Sau này, phương án nhà ỏ ỏ Mácxây cũa Lơ Coocbuydiẽ còn được xây dựng ỏ nhiễu nơi trong và ngoài nước Pháp (ở Nãngtơ Rơdê, Briâyla Phorê, Berlin...) với một số thay đổi. Một trong những ưu điểm của đon vị nhà ở lớn là có nhiễu loại căn hộ khác nhau, bảo đảm phân phối linh hoạt cho các gia đình có thành phần khác nhau từ hộ độc thân cho đến gia đỉnh 10 người. Lơ Coocbuydiê còn nhiểu phương án xây dựng các thành phố khác, nhưng những ý định tốt đẹp của ông - trừ trường hợp quy hoạch thành phố Sãngdiga cho Ấn Độ —không thực hiện được khi quyén sở hữu đẫt đai xây dựng còn chưa được công hữu hoá. Như Ăngghen đã viết trong "Về vấn đé nhà ở" như sau : "Chí nhờ giải quyết vấn đé xã hội, nhờ tiêu diệt phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới hình thành khả năng giải quyết vấn đẽ nhà ỏ". Bên cạnh nhũng loại nhà cùa ngưòi giàu ở Mỹ còn có một loại nhà khá kỳ lạ đó là nhà ở ôtô. Ngưòi ta ở trong những rơ moóc thiết kế như những gian phòng giành cho những loại công nhân làm thuê, có cuộc sống nay đây mai đó phụ thuộc vào thời vụ. Nếu nhà này đặt trong các gara mà người ta dự tính xây dựng thì vé tâm lý sẽ rát bất 20
  • 23. lợi cho người ở trong đó vì phài sống trong 2 lấn tường. Những người có tiền thường ở trong những biệt thự chi một, hai tầng. Nhiều biệt thự có phòng khách rất lớn và gara chứa được 2,3 ô tô. Hiện nay, giá thuê nhà vẫn đè nặng lên thu nhập của người thuê nhà và quyển được hưởng ánh sáng và không khí đầy đủ trong môi trường ỏ vẫn còn xa vời với lớp dân nghèo trong xã hội tư bàn một số nước. Hai nước có sự nghiệp phát triển nhà ở tốt hơn các nước phương Tây khác là Thuỵ Sỹ (cứ 2,8 người có một căn hộ) và Thuỵ Điển (với căn 3 phòng rộng 78m2 và cãn 5 phòng rộng 117m2). Còn ở Pháp chương trình xây dựng nhà ở ở Pari, Bộ thiết bị và nhà ở đã đưa ra cuộc thi "Nhà ở" đê’ chọn những mẫu nhà. Những kiểu nhà này phải đáp ứng được những yêu cẩu có tính chẫt nghịch lý là phài rè tiễn, đổng thời lại đáp ứng được điéu kiện sống năm 2000. Một số nhà 8 tầng với 4 căn hộ một đơn nguyên và nhà điểm 4 tấng 13 tẩng đă được tuyển chọn. Những kiểu nhà này có mặt bằng chặt chẽ vì cầu thang và phòng phụ trong điéu kiện khí hậu của Pháp có thể không cẵn chiếu sáng tự nhiên. Khu nhà ở ở Công viên Rốccăngquơ m ật bàng cũng có đặc điểm như trên nhưng sức biểu hiện tập trung vào hành lang có lan can mành vây quanh nhà nên trông kiến trúc nhẹ nhàng thanh thoát. Kiến trúc nhà ở Pháp gấn đây đang tìm hướng thẩm mỹ mới nên xuất hiện những loại nhà hình, khốitrụ và hình sao ba cánh cao tầng, hình hộp với nhiễu dạng khác nhau, hình khối dáng dăp mới mẻ và mầu sác thu hút sức chú ý nhưng nhiễu khi phong cách tách khỏi nénkiến trúc truyễn thống. Những ví dụ gần đây nhất có thể kể ra trong thành tựu nhà ở ỏ Pháp là một sô' mẫu nhà ở được xây dựng ở Remx. Khái niệm "Nhà ỏ xã hội" được nhấn mạnh, tiêu biểu là các ngôi nhà xã hội và nhóm nhà ở xã hội ỏ Đức. v í dụ, ngôi nhà ở xã hội ở Ritơxtraxơ ở Beclin, Đức. Khu nhà ở đại lộ Hôtơ Fooc ở Pari, Pháp cũng được nhác dến như một quẩn thể ở theo kiểu mới. Tóm lại, nhà ở tư bản chủ nghĩa phát triển và đổi mói hơn so với xã hội phong kiến. Tuy vậy, mâu thuẫn giai cấp và sự phân biệt xã hội cũng thể hiện sâu sắc hơn; sự cách biệt vẽ điéu kiện ở giữa các giai tẩng lớn hơn và tỷ lệ tiền nhà trên tổng số thu nhập của người dân khá cao. 21
  • 24. to to Hình 1.8 : Dơn Vf nhà à lớ n ở Mác Xây (trên) và m ộ t cân h ộ "cua nó (d ư ớ i) •••K ĨS : Lrr Coocbuydiê
  • 25. có thể tràn vào trong nhà. 2- Cỏ thể làm vưòn hoa trên mái. 3 - Tưòng không chịu lực có thể linh hoạt phân chia không gian bên trong 4- Cột có thể lùi vào bên trong, tường ngoài bố trí cửa so tụ do. 5 - Tưòng ngoài có thể bố trí cùa sổ hình băng liên tục theo chiéu ngang. Hình 1.8 : Năm nguyên tắc trong kiến trúc nhà ở của KTS : Lơ Coocbuydiê 23
  • 26. MẶT BẰNG TẦNG 1 Hình 1.10 : Biệt thự Tutghenhat do Mix Vanđe Rôê thiết k ế ở Brơnô - Tiệp Khắc 24
  • 27. b. Một góc công trình c. Mặt dứng công trình 25
  • 30.
  • 31. KIÊU A MĂt *»ẨNG tang trên 29
  • 32. 1.4. KIẾN TRÚC NHÀ Ở TẠI LIÊN x ô VÀ MỘT SỐ NƯỚC XÁ HỘI CHỦ NGHÍA (CỦ) Kiến trúc nhà ở ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghỉa mang tính chất kế hoạch nhàm bảo đảm cho các tấng lớp nhân dân lao động có điễu kiện ở ngày một được cải thiện tốt hon. Ở Liên xô, ngay từ những năm đẩu sau Cách mạng, Nghị quyết của Đại hội Đảng Cộng sản Nga lấn thứ 7 (1919) đã ghi rõ : "... Cấn cố gắng hết sức cải thiện điểu kiện nhà ở của những người lao động, kết thúc tình trạng m ật độ cư trú quá lớn và thủ tiêu những điều kiện phản vệ sinh trong những nhóm nhà cổ xưa và phá hủy những nhà ở hư hòng, sửa chữa lại những nhà cũ, xây dựng những nhà mới phù hợp với điều kiện đời sóng mới của quần chúng lao động, xây dựng nhà ỏ cho những người lao động một cách hợp lý hơn” Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sàn Liên Xô (Bônsêvlch) năm 1931 cũng đã ra quyết định một số vấn đễ quan trọng vé xây dựng thành phố, và tới năm 1935 có thêm chỉ thị vé quy hoạch thù đô Matxcơva. Những nghiên cứu đẩu tiên trong lĩnh vực xây dựng nhà ở đã biểu hiện cụ thể ở việc đưa vào sử dụng một số quần thể nhà ở như quẩn thê’ nhà ở trên đại lộ Goócki (Matxcơva) xây dựng năm 1938, quần thê’ nhà ở đường Tơráctorơnai (Lêningrat) xây dựng năm 1925 - 1926, các quẩn thể nhà ở tại các thành phổ Dapôrôgiê, Manhitôgoócxcơ, Goócki, Kháccốp... Những hoạt động sáng tạo và lý thuyết kiến trúc để giải quyết những nhiệm vụ cơ bản đã để ra, như xây dựng những nhóm nhà và những nhà ở có dịch vụ công cộng vào thời kỳ đẩu đã có những tiếng vang nhất định, đó là những thành tựu của anh em Vex-nin, Ghinxbuốc, anh em Gôlôtxốp, Krinxki v.v... Những vấn đễ hướng tới một nén kiến trúc mới lúc đó đã được các kiến trúc sư nổi tiếng thế giới như Lơ Coocbuydiê, Vante Grôpiux, Luyêcxa, Nimâye đánh giá cao từ sau chiến tranh. Nghệ thuật và kỹ thuật Xô viết hiện đại đã đưa kiến trúc nhà ở đến một chân trời mới. Trong giai đoạn đẩu những năm 1950, khi nhà ở láp ghép còn chiếm tỷ lệ thấp, còn những nét đơn điệu, nhưng con đưòng tìm tòi những giải pháp hài hòa kết tinh được những quan niệm vé kỹ thuật và sự tìm tòi biểu hiện mới đã mở ra rất đa dạng và năng động. Hiện nay, mọi người đã thừa nhận tính truyén càm cũng như phong cách đa dạng của một số tiểu khu nhà ở xây dựng bàng phương pháp công nghiệp hóa, do các nhóm kiến trúc sư Bêlôpônxki, Paxôkhin, Pakrôpxki, xtam ô, Xpêranxki Trêkanaukaxxơ sáng tạo, có những các tính độc đáo được đánh giá cao, tuy vậy cũng vẫn còn nhiễu khu nhà ở có phong cách tương đối đơn điệu, cứng nhắc. Danh từ "mỹ thuật tự do" trong kiến trúc không phải là người bạn đường khó tính với xây dựng láp ghép, khi kiến trúc sư có tài nãng tìm tòi, suy nghĩ. Để có được hiệu quả đó, con đường công nghiệp hóa xây dựng đã trải qua một quá trỉnh phát triển không đơn giản đê’ ngày càng hoàn thiện : 1. Vảo những năm 30 và đẩu những năm 40 đã xây dựng những kiểu nhà tấm lớn thay cho việc xây tay với từng viên gạch, lúc bẫy giờ thường dùng hai kiểu nhà : kiểu nhà những tấm đặt ngang và kiểu nhà những tấm đặt đứng. 30
  • 33. Đẩu những nãm 60, những kiểu nhà tưdng tự với những tấm tường đặt trên những dám ngang (dầm ngang) được xây dựng ở nhiêu thành phố. Cách xây dựng này không chi dùng cho nhà 5 tầng, mà còn sử dụng cho những nhà 9, 12, 14 hay 16 tấng. Những kiểu nhà tấm lớn hay tấm nhỏ có thêm lô-gia làm tăng hiệu quả tạo dáng rất nhiéu. 2. Tiếp đến là thôi kỳ lắp ghép nhà panen tẫm lớn à nhiều thành phố khác nhau. Phương pháp này làm cho việc chuẩn bị xây dựng được thực hiện trong nhà máy, những liên hợp xây dựng nhà ở tăng lên và thời gian láp ghép tại hiện trường giảm đi. Nhà ở, được lắp ghép bằng các tấm tường, tấm sàn, tấm vách lớn, còn khối vệ sinh là cà một ca bin đúc sản. Những ngôi nhà kiểu này được xây dựng ở Kiép, Vơlađivốtstốc, Minxcơ với 5, 9, 12, 16 tẩng... và cho đến năm 1969 cao tới 25 tầng xây dựng trên đại lộ Hòa Bình, Matxcơva. Nhờ sử dụng Panen tấm lớn với nhiễu hình dáng khác nhau, từ hình chữ nhật đơn giản đến phức tạp hơn như hình vòng cung nên đã làm tăng sức biểu hiện cũng như cá tính của ngôi nhà. 3. Phương pháp xây dựng cả khối phòng - Nhà ở lúc này được xây dựng bằng những khói phòng chung, khối phòng ngủ, khối phòng phụ với 80% công việc được chuẩn bị sẵn trong nhà máy. Thời gian láp ghép trên cõng trường của loại nhà này giảm hơn 2 lấn so với loại nhà panen lớn. Xây dựng nhà ở bàng tấm lớn và khối phòng được coi là hưống phát triển chủ đạo của kiến trúc nhà ỏ ở Liên Xô (cũ), nhờ phương pháp xây dựng này những người xây dựng ở Matxcơva đã làm được 300 căn hộ mỗi ngày ; ở Lêningrát : 100 căn hộ mỗi ngày; và ở Kiép : 80 căn hộ mỗi ngày (trong đó ỏ M anhattan (Mỹ) mỗi ngày chi đưa được vào sử dụng 18 căn hộ). Những hình ảnh mới vễ khu nhà ởhiệnđại không chỉ xuất hiện ở những thàn lớn (ví dụ như ỏ Matxcơva với những khu nhà ở trên đại lộ Kalini, trung tâm của thủ đô hay ở đại lộ Nôvôkihốp ở vẽ phía Đông Bấc thủ đô) mà còn mọc lên ở khắp mọi nơi trên đất nước Xô viết. Thành tựu nổi bật của sự nghiệp xây dựng nhà ở thê’ hiện rõ nét ở số lượng : mỗi kế hoạch 5 nãm đưa vào sử dụng 500 - 550 triệu mét vuông nhà ở, cung cấp nhà mới cũng như cải thiện điều kiện ở cho 50 - 55 triệu ngưôi. Thành tích trên rất đáng kể, vượt rất xa cái di sản nhỏ nhoi của Sa hoàng để lại chi là 180 triệu mét vuông nhà ờ (theo thóng kê năm 1913). Bên cạnh đó các kiến trúc sư còn tập trung vào nâng cao chất lượng tiện nghi và thẩm mỹ của các khu nhà ở từ thành phố cho tới nông thôn. Thí dụ khu nhà ở Bấc Trerơtanôvô ở Matxcơva (xem hình 1.16), những khu nhà ở Giarơmunai và Ladơđinai ở Vinniux, khu nhà ở mới cùa thành phố Verơtilisơki và làng Iucơnai Ariailitva. Khu nhà ở Ladơđinai ở Viniux, nước Cộng hòa Litchuyani là một trong những quán thể nhà ở được đánh giá cao, và các tác giả của nó - kiến trúc sư Trêkanankatxơ và những nguôi khác đã được tặng giải thưởng Lênin (xem hình 1.17). Khu nhà ở Ladơđinai đạt chất lượng sử dụng và mỹ quan cao, nhờ trong thiết kế đã chú trọng đến đặc thù cùa sinh hoạt địa phương, đến sự đa dạng của phong cảnh, địa hình, cũng nhu những đòi hỏi của điều kiện thiên nhiên, khí hậu. Qua đó cho thấy : Trong sự nghiệp xây dựng nhà ở nói 31
  • 34. riêng cũng như kiến trúc nói chung, chúng ta không chí chú ý giải quyết nhưng vấn đé xã hội, tâm sinh lý chung mà còn chú ý đến đặc điểm của từng địa phương nói riêng. ở Liên Xô cũng như nhiễu nước xã hội chủ nghĩa (cũ) khác đã chú trọng giải quyết sự cách biệt vé điễu kiện sống giữa thành phố và nông thôn. Ở nước cộng hoà dân chủ nhân dân Hunggari, sự nghiệp xây dựng nhà ở cũng phát triển nhanh chóng. Đến cuối năm 1975, Hunggari đã có 3,5 triệu căn hộ, số phòng trung bình trong mỗi câri hộ là 2 - 4, gần một nửa dân số sống ỏ thành phố, hơn một nửa dân số sống ở nông thôn, nhưng không có sự ngăn cách vé điéu kiện ở. Trong xây dựng nhà ở, công nghiệp hóa đã thành phương thức chủ yếu - nhà ở láp ghép tấm lớn chiếm tới 75%. Sàn lượng hàng năm của các nhà máy bêtông đúc sản đạt 30.000 căn hộ trong một nâm. Tuy vậy, vật liệu xây dựng cổ truyền vẫn được tôn trọng và chiếm tý lệ đáng kề. Nhà ở xây dựng bằng các tẫm nhỏ chiếm tỷ lệ vừa phài còn xây dựng bằng bê tông toàn khối chiếm tỷ lệ ít nhất. Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, 80% nhà ở đã được xây dựng theo thiết kế mới và nhà 16 tẩng đã nghiên cứu thí điểm. Ví dụ tiêu biểu cùa thời kỳ mười năm sau khi thành lập Nhà nưốc xã hội chú nghỉa là xây dựng thành phố Tixdapankônya phục vụ cho công nhân ở các cơ sở năng lượng điện và công nghiệp hóa chất. Thành phố này đặt bên cạnh thành phố cũ Mixkôla, gồm những tiểu khu nhà ở lán đấu tiên được xây dựng theo lý thuyết quy hoạch mới. Những khu nhà ô mới ở ngoại vi Buđapét đã thu hút sự chú ý của mọi người, chảng hạn các khu Kêlenphion, Duclô, Ôbuda v.v... vẻ đẹp của khu nhà ỏ Kêlenphion được biểu hiện trong tổng thể, ở sự tương phản giữa những khối nhà ở cao tẩng với những khối nhà công cộng phục vụ sinh hoạt thấp tầng phía dưới, vẻ đẹp này còn đạt được từ tự thân nhũng công trình nhà ỏ với vẻ nhẹ nhàng sáng sủa của những dãy cửa sổ mở rộng hay với tổ chức hợp lý những dãy ban công hay lô gia trên m ặt đứng. 0 các thành phố khác, trong những khu vực mới xây dựng nhà ở cao tẩng cũng mang Ịại một sác thái độc đáo. Khi giải quyết những cãn hộ điển hình, các nhà kiến trúc Hunggari đã chú ý đến mặt' bàng với không gian linh hoạt : phòng ãn có thể kết hợp với phòng sinh hoạt chung khi cần sử dụng không gian lớn (bàng cách di động các vách nhẹ), trong căn có lô gia sâu dể làm chỗ ãn vào mùa hè v.v... ngoài ra chỗ đặt các thiết bị hiện đại dùng cho sinh hoạt (máy giặt, tủ lạnh) cũng đều được suy tính sản. Các phòng ngủ được thiết kế thành một khối độc lập, riêng rẽ để bảo đàm yên tĩnh. Cũng như nhiêu nước khác, để tạo thành những không gian đô thị hoàn chỉnh, các nhà kiến trúc Hunggari cũng chú ý nhiễu đến những hình thức kiến trúc nhỏ : tranh hoành tráng, cây xanh... 0 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Bungari : Mười năm sau ngày giải phóng, à Xôphia đã bát đẩu xây dựng nhà à theo kiểu tiểu khu cách tân. Những khu nhà ở có quy mô khác nhau lần lượt ra đời : khu nhà ở công viên phía Tây với 13.000 người I khu nhà ở phương Đông cho 25.000 người và sau đó khu trường đua ngựa cho 1.200 ngưòi ; khu nhà ở lớn Kraxnôxelô cho 50.000 người, ở Plôpđip cũng có những khu nhà ở rất hiện đại như khu nhà ỏ Trakia. Theo thời gian, chất lượng sử dụng và thẩm mỹ ngày càng được nâng cao những vi dụ tiêu biểu là những quẩn thê’ nhà ở cao tầng Dimitrblagôep ở X tara Dagora những 32
  • 35. V quẩn thế nhà ở B-5 và Mladôxt ỏ Xôphia cũng như khu nhà ờ ờ Vêlikôturnôvô, khu nhà ờ "Hải Âu" ở Vácna Một trong những tìm tòi của các kiến trúc sư Bungari là dùng không gian linh hoạt réli vách ngăn nhẹ để thay đối chức năng và diện tích phòng trong căn hô khi tập quán rà độ tuổi của gia đình thay đổi. Nhà ở nông thôn cũng là một lãnh vực quan trọng trong hoạt động xây dựng, ngày nay đã có 14 vạn 3 ngàn ngôi nhà cho 40 vạn nông dân tập thể. Từ cách giài quyết m ặt bàng linh hoạt cho nội bộ một căn, gấn đây các nhà chuyên môn vé nhà ở Bungari đã nghiên cứu thành công cách ghép các kiểu căn hộ khác nhau (coi các loại căn hộ như là các mô đun cơ sở) đê’ tạo thành các khối nhà có nhiễu kiểu cãn khác nhau, đáp ứng được việc đơn nguyên có nhiễu cách tổ hợp (xem hình 1.18). o Cộng hòa d ãn ch ủ Đức kiến trúc nhà ỏ có nhiễu đặc điểm đáng chú ý, ngoài vấn đé công năng và tiện nghi, Đức là nước chiếm vị trí hàng đẩu trong việc công nghiệp hóa nhà ở với 90% khối lượng nhà ở xây dựng theo phương pháp láp ghép. Kỹ thuật láp ghép nhà ở tãm lớn ở Đức có trình độ cao, chẳng hạn như hệ thông kết cẫu nhà tấm lớn WBS 70 được sử dụng rộng rãi ở Berlin. Nhìn lại thành quả xây dựng từ cuối những năm 70, người ta thấy những khu nhà ở đã có chát lượng tốt và kháp nơi đã mọc lên những khu nhà ở mới. Mặt bàng căn hộ của các kiểu nhà ở ở Cộng hòa Dân chủ Đức được bố trí rất đa dạng và chặt chẽ, từ những ngôi nhà dài kiểu đơn nguyên cao 10 tấng ở quẩn thê’ nhà ở Bắc Mácđơbuốc với cãn hộ linh hoạt bô trí đú các kiểu 1, 2, 3, 4 phòng đến những ngôi nhà kiểu ký túc cao 18 táng, hành lang giữa ở Halê Noistat giáu sức biểu hiện. Ở Cộng hòa dân chủ Đức chi xây dựng nhà nhiéu tấng và nhà cao táng ở những thành phố lớn như Berlin. Để công nghiệp hóa xây dựng, sô' phòng ở trong các nhà thường được triển khai quanh khối bếp và tắm cũng như toàn nhà được triển khai quanh khối cẩu thang và thang máy. Các kiến trúc sư không những chi chú ý đến bản thân ngôi nhà mà còn chú ý đến hiệu quả không gian kiến trúc với môi trường, đến những công trỉnh phục vụ, chỗ chơi cùa trẻ em, nhầm tạo thành một môi trường sống hoàn chinh (xem hỉnh 1.19). 0 Tiệp K hắc việc xây dựng nhà ở, được thực hiện với mục tiêu "... những khu nhà ở không phải chi là nơi đế cho nhân dãn lao động ở mà phài còn là nơi nghi ngơi và giáo dục". Chỉ trong vòng 30 năm (1950 - 1980), 2 triệu 600 nghìn căn nhà ở đã được đua vào sử dụng, riêng nãm 1980 có 127,8 nghìn cãn hộ mới. Từ năm 1976, với nhịp độ xây dựng 8,5 căn hộ cho 1000 dân trong nám. đã đưa Nhà nước xã hội chủ nghĩa này lên đứng hàng thứ 3 trong số 36 nước châu Âu vé nhà ỏ. Những quẩn thể nhà ở mới được hình thành, không những ỏ thành phố mà cả ở nông thôn, nhà ở với chất lượng thẩm mỹ độc đáo và trang thiết bị hiện đại. Tính đa dạng của kiến trúc Tiệp Khác không phải chỉ thấy ỏ những khối nhà đổ sộ cùa Igiơni, Praha, hay ở Trơtưrgi, khu nhà ở mới của thành phố Trexkẽ Buđâyôvixê mà còn có thể thấy ở khu nhà độc lập một lãng chạy nghiêng theo triên dốc ở Brơnô Giabốpgiexki. Các kiến trúc su Tiệp Khắc rất thành công trong giài quyết nhà ở ở những miên đổi dốc. 33
  • 36. ở Tiệp Khấc phương pháp công nghiệp hóa xây dựng là chù yếu, tuy vậy phương pháp xây dựng truyén thống ở một mức độ nhất định vẫn được sử dụng. Ở Ba Lan, để giải quyết tỉnh trạng khó khăn thiếu thốn về nhà ở sau chiến tranh, Nhà nước và nhân dân đă quan tâm nhiều đến vấn đé.nhà ở. Đến giữa những năm 60 nhịp độ xây dựng nhà ở đã đạt đến mức-7 căn hộ cho 1000 dân trong một nãm. Những nãm đẩu, khối lượng xây dựng nhà ỏ tập trung phần lớn ở các thành phố công nghiệp lớn. Sang đẩu những năm 1970, chương trình xây dựng nhà ở đã đề ra mục tiêu đến năm 1S35 đảm bảo cho mói gia đình có một căn hộ độc lập. Khối lượng xây dựng nhà ở tấm lớn tăng từ 58% năm 1975 lên đến 61% năm 1985, trong đó bêtông toàn khối dự kiến chiếm 25%. Những khu nhà ỏ mới ở Vasava được chú ý đến nhiều, như : - Khu nhà ở Xluxép II ; - Khu nhà ở Urxinốp Bắc ; - Khu nhà ở Urxinốp Nam. ở đây hình thức kiến trúc đã hình thành tính nhịp điệu rõ rệt. Ngoài ra sự tương phản đạt được do sự so sánh những không gian tự do, cành quan lớn đối lập với sân cỏ và đường đi bộ nhỏ cũng dẫn đếntác dụng thẩm mỹđáng kể.Trong thiết kế, các nhà thiết kế đã chú ý đến tạo hình cùa bancông cũng 'như xử lýđầu hổi nhà,làm cho mặt nhà thêm phong phú. Ớ K um ani : Cuối những năm 1950 cho đến đầu những năm 60, vốn đầu tu nhà ở được đầu tư chủ yếu cho thủ đô Bucaret và thành phố ônesti. Bộ m ặt của thủ đô đuợc cải tạo nhất là những khu trọng điểm, ví dụ ỏ quảng trường Cung Cộng hòa, quảng trường nhà ga thành phố v.v... Cũng thời kỳ này, việc xây dụng nhà ở theo những đường phố như trước đây không chiếm tỷ lệ đáng kê’ mà nhường bước cho việc xây dựng các khu và tiểu khu nhà ở có trang thiết bị phục vụ công cộng. Các khu nhà ở Banta Anbơ, Drummul Taberi và Titan ở Bucarét là những ví dụ tiêti biểu cho hướng phát triển này. Thiết kế điển hình được nghiên cứu trên cơ sở đổng bộ gổm các khối đơn nguyên : từ đơn nguyên giữa, đơn nguyên đầu hổi cho đến đơn nguyên góc, đơn nguyên uốn cong. Việc thiết kế nhà ở hành lang giữa dùng cho hộ ít người (căn 1 phòng) cũng được đẩy mạnh. Những khu vực ký túc xá cùa các trường đại học cũng được thiết kế đẹp V» 'Sn nghi ở nhiễu thành phố. Vào mùa hè, những khu vực này được giành cho khách ịch do điéu kiện khí hậu ôn hòa, gẩn biển Hấc Hải, nên kiến trúc nhà ở ở đây có dáng dấp nhẹ nhàng, phong phú. ơ Cu Ba : Từ năm 1959 đến nãm 1963, Cu Ba đã xây dựng được 8 vạn rưởi căn hộ và dẩn dẩn xóa bỏ những khu nhà "hũ nút" - sản phẩm của xã hội cũ. Đến nay, cùng với sự phát triển chung, Cu Ba đã có kế hoạch dài hạn vể nhà ở đến năm 2000. Trong những năm đẩu cùa kế hoạch nảy, chỉ trong năm 1976 - 1985 đã đạt 83 nghìn cãn hộ. 34
  • 37. Việc xây dựng nhà ở với nhịp độ lớn 22.000 căn hộ trong 1 năm không chi là kế hoạch mà thực tế đang vươn tới 32.000 căn hộ/1 năm. Trong những năm đấu cách mạng, vừa thiết kế, xây dựng, vừa tỉm tòi nghiên cứu, quẩn thể nhà ở lớn đầu tiên cùa các kiến trúc sư Cu Ba đã ra đời : khu nhà ở phía đông Habana. Việc đưa một bộ phận của khu nhà ở phiá đóng Habana - tiểu khu số 1 (1959 - 1961) - vào sử dụng là một thể nghiệm lý thú vể phương thức tổ chức cuộc sống mới. Ngăn cách bờ biển bằng một dải công viên, tiểu khu này bao gồm 7 nhóm nhà, tổng số 8000 người với trung tâm công cộng ở giữa. Mỗi nhóm nhà, được suy nghĩ chu đáo từ tổ chức không gian đến đường đi lối lại, trung tâm là một nhà trẻ vối vườn chơi. Những hệ thống đường cụt, bên cạnh các nhóm nhà với điểm kết thúc là những bãi để xe ngoài trời, đã làm cho việc đi lại không cản trở đến sinh hoạt nội bộ. Những sân chơi cùa trẻ em ở các lứa tuổi, những sân nghi yên tĩnh cho ngưồi lớn được tô điểm phong phú thêm bằng những hỉnh thức kiến trúc nhỏ như đưỉmg rào, bể nước, ghế đá, bồn hoa và cây xanh, thảm cỏ. Những hệ thống không gian hở, hài hòa và biến hóa, hướng tấm m át của con người về phía biển hay trung tâm tiểu khu, được tạo thành bầng sự sáp xếp các khối nhà cao thấp khác nhau : 4 tẩng và 11 tẩng, cũng như sự kết hợp giữa chúng với các kiến trúc khác nhau của tiểu khu. Những sân sinh hoạt quây lại bằng những bức tường thấp chuyển tiếp, những "phòng khách xanh" bố trí ngoài tròi cho các gia đình ở tẩng dưới, một hệ thống lô gia, hiên nghi các tẩng trên và những mái bàng cò cây xanh... là những gạch nối quan trọng gắn bó kiến trúc và thiên nhiên. Những ví dụ tiêu biểu khác là : khu nhà ở ỏ quảng trường Cách mạng, Habana, khu nhà ở Hôxêmacti ỏ Xăngchiegô (nhà ở kiểu đơn nguyên căn hộ 3 và 4 phòng), nhà ở thành phố Malmiara, tỉnh Latvidat, nhà ở cao tấng ở trung tâm Habana v.v... 35
  • 38. Hình 1.16 : Một số kiểu cân hộ nhà ở hiện đại ở Liên Xô (cũ) H ìn h 1 .1 7 : M ó t ỊỊÓ Ck h u n h à à L a d a d in a i
  • 39. HintL 1.19 : Một kiểu nhà ờ à CỘHỊỊ hoà dân chủ Dức (cũ) 37
  • 40. 1.5. VÀI NÉT VỀ KIẾN TRÚC NHÀ Ở DÂN GIAN MỘT s ố NƯỚC CHÂU Á Trong kiến trúc nhà ở dân gian các nước châu Ấ, kiến trúc nhà ở vùng Đông Bắc 4, (Nhật Bản) và Đông Nam Á (Lào, Inđônêxia ...) có những đặc điểm riêng đáng nghiên cứu và đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà chuyên môn trên thế giới. Mặc dù đã trài qua quá trinh phát triển chọn lọc nhà ỏ của các dân tộc này nói chung vẫn giữ được một cách đáng kể những tinh tuý truyền thống của mình. Kiến trú c n h à ỏ dân gian N h ật B ản : Hiện nay, ta chỉ còn thấy à những khu phó cũ hoặc vùng nông thôn, đã được mọi người lưu ý ở cách bố cục không gian, tổ chức mặt bằng linh hoạt, phương thức trang trí cũng như cách sử dụng vật liệu xây dựng. Trong nhà ỏ dân gian Nhật Bàn, có mổi liên hệ chặt chẽ giữa ba yếu tô' : con người, ngôi nhà và thiên nhiên. Frank Lôi Rait đã viết : "Chúng ta hãy học hỏi kiểu nhà ỏ (dân gian) Nhật Bản, đó là bài học thực sự cho tất cà những cái mà chúng ta gọi là phong cách nghề nghiệp". Nhìn chung nhà ở dân gian Nhật Bản không giống các nơi khác trên thế giới (chi đến thế kỷ XX do quá trinh công nghiệp hoá, kiểu nhà xây dựng theo phương thức sinh hoạt của các nước khác mới được du nhập vào). Ngôi nhà ở Nhật Bản có 2 cửa : một cửa hướng ra phố và một hướng ra vườn. Phần nhà hướng vé phía Nam - phía có mặt ’tròi chiếu sáng - được dùng cho sinh hoạt chung, tiếp khách ; phần dành cho sinh hoạt gia đình thường ở hướng phía Bắc. Kiến trúc gỗ Nhật Bàn cộ truyền thống lâu đời : tới 2000 năm,-và đến thế kỷ thứ IV sau công nguyên đã trỏ nên rất điêu luyện." Việc đơn giản hoá m ặt bằng và tiêu chuẩn hoá các cấu kiện xây dựng được áp dụng không chi với nhà ở mà còn đối vói cà lâu đài và đễn chùa. Vào thế kỷ XII, khi "tatami" (chiếu bện bằng rơm rạ : chiều dài gẩn 2 mét, chiêu rộng bàng nửa chiểu dài) trở thành một đơn vị do điển hình thỉ nhiễu hình thức không gian ỏ đã ra đời và m ặt bằng được tổ chức bàng cách ghép nhiễu hay ít "tatami". Vào thời Sôgônan (bắt đầu từ thế kỷ XVII) việc tiêu chuẩn hoá này được áp dụng rộng rãi và chặt chẽ hơn. Như vậy, "tatami'1trở thành mõ đun cơ sở. Klch thước phòng được xác định bằng số "tatami”, mỗi phòng có thể có diện tích bằng 3 ; 4 ; 4,5 ; 6 ; 8 cho đến 10, 12 "tatami". Trong ngôi nhà N hật Bản rất thoáng đãng, có rất ít đổ gỗ và nhiều tủ tường (chăn, nệm, gối ban ngày được cho vào tù tường). Khi nhà được chia theo kiểu bàn cờ bàng những "tatami" và các phòng được ngăn cách với nhau bầng những tấm tưòng có thê’ di động được thì ngưòi ta có thể gộp không gian thành một phòng lớn hay chia nhỏ ra thành những phòng nhỏ một cách dễ dàng. Một phòng cũng có thể sử dụng vào nhiều chức năng khác nhau (làm phòng khách, phòng ăn, hay phòng ngủ). 0 khu phụ có bốn tấm bằng gỗ kiểu truyén thống. Thật ra, khái niệm vễ tường ngoài theo cách hiểu bình thường ở đây không có mà ngưòi ta dùng những "xốtgi" (những khjang nhẹ có nẹp dán giấy dầy) có thể di chuyển 38
  • 41. theo các rãnh ở trần hay ở nễn nhà, khi không cần người ta có thể lấy những xốtgi ra một cách nhẹ nhàng. Vào mùa đông tường ngoài ngôi nhà được bổ xung thêm những tấm "amađô” bằng gỗ để chống lạnh, còn vách dán bằng bìa hoặc bằng giấy dầy hai phía. Tường nhà Nhật Bản vê phía Bắc được dựng bàng một thứ hổ vữa đơn giản cộng với hai lẩn ván kép. Mái nhà thường đưa ra khỏi xốtgi khoảng một mét đê’ khỏi bị ảnh hưởng của mưa, náng (có thể làm bàng ngói hoặc rơm rạ), ở miễn Bác nước Nhật, mái nhà làm bàng rơm rạ là chính, còn ở miễn Nam ngói lại được sử dụng phổ biến. Người Nhật còn biết cách làm mái nhà rất xinh xán bằng ván gỗ nhò hay vỏ cây. Nhà ở Nhật Bản thường dùng khung gỗ cho nhẹ có thể chống lại được động đất. Việc xây dựng ngôi nhà dân gian thường được tiến hành rất nhanh. Người thợ mộc như là một kiến trúc sư thực thụ. Được sự đổng ý cùa người cẩn xây nhà, họ dự kiến và lo liệu vật liệu xây dựng trong một tháng, và sau dó dựng nhà chi m ất hai tuần. Kiến trúc ở đây được gán bổ với thiên nhiên kê’ cà từ nội thất cho đến môi trường xung quanh. Trong mỗi căn nhà thường có một ngăn nhỏ riêng "tôkônôma" để trang trí hoa. Nghệ thuật trang trí này có tên gọi chung là Ikêbala. Phong cách trang trí này có từ thế kỷ XI cho đến nay vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng đến nhiểu nước trên thế giới. Cách bày biện hoa được phân biệt theo kiểu chậu cảnh loại Môribana đặt trong chậu thấp và loại Hâyka đặt trong chậu cao, cách bầy biện hoa cũng được tiến hành theo các mùa trong năm. Trong nhà, với những hàng cột để trấn không sơn, ván trần với ván gỗ tự nhiên, cũng tạo cảm giác gần gũi với thiên nhiên. Để đàm bảo mối liên hệ giữa trong và ngoài nhà, hệ thống hành lang và cửa sổ rộng mở ra vưồn khá phát triển. Một sô nhà có vưồn cành ngoạn mục, có cầu bác qua những dòng suối nhỏ, kết hạp với những cây cảnh, hoa hay những hình thức kiến trúc nhò xếp bằng đá tảng ... đã làm cho ngôn ngữ của kiến trúc thêm đa dạng. Ngày nay mặc dù có sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, những đổi mới vê trang thiết bị trong nhà nhưng những đặc điểm chinh trong ngôi ở dân gian N hật Bản vẫn đuợc tồn tại và mang phong cách độc đáo của nó. Kiến trúc dân gian Lào : Với môi trường thiên nhiên rất trữ tình (đa dạng rừng, núi, sông, suối), kiến trúc Lào cũng có một sác thái riêng, ít chịu ảnh hưởng ngoại lai. Những bản làng Lào, có khi chỉ thưa thớt với vài chục ngôi nhả, cũng có khi đông đúc tối 500 ngôi nhà, nằm men theo những sườn đổi, tiếp cận với những dòng sông con suối để tiện lợi cho việc sinh hoạt. Ngôi nhà sàn Lào có thể chia thành 3 loại : 1. Loại nhà đơn có hai mái dốc. 2. Loại nhà đơn có vẩy thêm một mái phụ. 3. Loại nhà kép gốm 2 nhà đật sát nhau (mỗi nhà có hai mái dốc tồng cộng có 4 mái dốc). Đó là cách phân loại theo m ặt cất của Xôphi Sácpãngchiê và Pier Clêmãng (xem hình 1-17). 3S
  • 42. Nhà sàn ở Viên Chán và những vùng lân cận có chiéu ngang lớn, thuộc loại nhà kép với hai vì kèo mái tam giác giáp nổi với nhau và ở chỗ nối hai hệ mái dùng máng kẽm để thoát nước mưa. Sự phân chia công nâng trên m ặt bằng nhà rất rõ ràng : từ cầu thang chính dẫn lên một hiên rộng (thuộc nhà thứ nhất), tiếp đó là phòng sinh hoạt chung rồi đến phòng ngủ của bô mẹ và trẻ em (ở nếp nhà thứ hai), sau dó là khu vực bếp, nước và một cầu thang phụ. Sự ngăn cách giữa khối sinh hoạt chung và khối phòng ngủ được thực hiên bàng vách ngăn và rèm ; sự ngãn cách giữa các khu vực chính và phụ, khu vực khô và ướt được thực hiện bàng sự chênh lệch độ cao sàn (sàn nhà chính cao hơn sàn nhà phụ). Nhà thường lợp mái ngói và có khi đẩu hồi được trang trí bàng những tấm gỗ ghép đứng. Những tám đan che trên cấu thang chỉnh, những lan can đễu được làm một cách khéo léo. Nhã sàn người Lào vùng Xiẽng Khoảng là loại nhà đơn có vấy thêm máí phụ, mái phụ này nối tiếp với mái chính đưa nước mưa xuống đát. Mặt bằng nhà gọn ghẽ, ngăn náp, có phòng riêng cho con gái. Dẫu hồi nhà ở Xiêng Khoảng được trang trí thành những tia mặt trời hoặc được vẩy thành những mái tròn khum một cách nhuán nhuyễn. Nhà ở dân gian vùng cánh đổng Chum đơn giàn hơn những nơi khác, nhưng đổ dùng trong nhà như ghế, giỏ đựng xôi v.v... thì được làm rất công phu. Cột nhà có đường kính từ 15 - 40cm. Dưới chế độ cũ cột nhà to hay bé biểu hiện chủ nhân giàu hay nghèo. Tuỳ từng vùng, nhà được đật trên cột đá, trụ bê tông hay chôn thảng xuống đất. Nhỉn chung, kiến trúc nhà ỏ dân gian Lào đáng chú ý ỏ những m ạt : sự phân chia công năng trên m ặt bàng, cách láp dựng cũng như cách trang trí các chi tiết, các bộ phận của kiến trúc. C ăm puchia, đất nưốc có những kỳ tích kiến trúc nổi tiếng nhu Ảngco Vát và Ãngco Thom Bayon. Kiến trúc nhà ở dân gian có nhiễu điểm đáng chú ý. Trái với kiến trúc đễn đài xây dựng bàng đá là chính, nhà ỏ CămPuChia đa phẩn bầng vật liệu thào mộc chủ yếu là gỗ và tre, lá. Nhà ở Cămpuchia không cầu kỳ mà quan tâm nhiễu đến chức năng sử dụng, chú ý tô’ hợp không gian, thông gió tự nhiên, nhà thường đặt theo hướng Đông-Tây để cho gió nam và tây - nam thổi vào. Kiến trúc dân gian Cãmpuchia rãt chũ ý đến việc kết hợp với địa hình, thường dùng kiểu nhà sàn là chính đê’ phù hợp vối đổi dốc, tránh nưốc sông suối dâng lên và chống côn trùng ; sàn cao 2 đến 2,5 mét, dưới đê’ hóng mát, đế súc vật và nông cụ. Kiến trúc dân gian Cămpuchia còn rất chú ý đến cảnh quan và cây xanh đê’ cài thiện vi khí hậu. Nhà ở dân gian thành phố có loại làm toàn bàng gỗ và ván, có hiên lãn, mái đua ra khỏi m ật tường và hiên có ván chán thấp xuống để chống mưa nắng, kiến trúc gây được cảm giác rộng rãi và thoáng mát. Nhà ở nông thôn có nơi dùng cột gỗ mái lá, tường phên hoặc nan kẹp lá, sức biểu hiện của ngôi nhà thể hiện ở việc kết hợp các mái lá, độ chênh của sàn khác nhau và việc sử dụng các hàng cột vững vàng. 40
  • 43. Nhà ở dân gian Cãmpuchia còn có thể được phân loại theo hình thức mái, bao gồm các loại : một nhà hai mái dốc, hai nhà liền nhau bốn mái dốc hay ba nhà liền nhau sáu mái dốc. Indônêxia : Một đất nước gốm 3000 hòn đảo lớn nhỏ với nhiễu dân tộc khác nhau. Do đó, nhiều nhà nghiên cứu cũng thừa nhận rằng : muốn nghiên cứu một cách toàn diện thi đòi hỏi phải rát nhiéu công sức và bước đẩu cũng chi nghiên cứu được một số loại nhà ở thông thường vé các m ặt công năng, vật liệu và thẩm mỹ. Loại nhà cùa bộ tộc Bađui là một loại nhà ở lâu đời, thường chỉ có một phòng, nếu có hai phòng thi phòng thứ hai làm bếp kiêm phòng ăn và chỗ để những muông thú săn được. Nhà chi có một cửa vào duy nhất (với loại nhà một mái hiên) hay hai cửa (đói với loại hai mái hiên) mà không có cửa sổ hay chỗ thoát khói cho bếp lò (khói thoát ra ở phấn tường giáp mái). Sàn nhà cách m ặt đất chi 40cm, làm chỗ để chứa gỗ, củi hay nuôi gà. Loại nhà có mái võng xuống nhu hình yên ngựa này còn có thể thấy ở vùng Nam Xumatơra. Nhà ở Bađui có cách cáu tạo rất giống một loại nhà kho tên là "Lunbungpadi", xuất hiện từ thế kỷ thứ IV trước công nguyên Những nhà kho này thường gộp lại thành từng nhóm và đật cách xa làng do những người nguyên thuỷ nghỉ đến khả nãng phòng hoà. "Lumbungpadi" được xây dựng phô’ biến từ Xumatơra đến đảo Phlorex. Nó là loại nhà có bốn cột kê lên những tảng đá, tiếp sau hệ cột kê cao 1,2 mét này là m ặt sàn và bộ sườn của nhà bảo đảm cho việc lắp tường bàng những tấm phên. Tường càng lên cao càng nghiêng ra phía ngoài mà không thẳng đứng (có thể là để chống mưa hát). Nhà có hai mái dốc với hai tấm phên tam giác đấu hồi và một trong hai tãm phên này có thế được kéo lên xuống làm lối vào nhà. Ba bộ tộc Batác (gổm những người Batác Tôba sống ở miễn Tây Xumatơra và người Karô Batae sống ở vùng núi Xumatơra), bộ tộc Tôratgia (xêlêbex) và bộ tộc Minangkabau (Tây Xumatơra) đã có những ngôi nhà ỏ quy mô lớn và giấu trang trí hơn bộ tộc Bađui nhiêu. Nhà gỗ : Khi dùng tấm gỗ để làm tường đã làm cho ngôi nhà Batác Tôba có độ bén lâu hơn hản nhà Bađui tỷ lệ giữa chiểu cao mái và tường thường bàng 4/1. Những hình thức trang trí điêu khác phong phú dùng để "doạ ma quỷ”, mẩu sác chí gổm hai mấu đen và đỏ. Vì ở đây một phấn ba dân số theo đạo tin lành - do các nhà truyền đạo tuyên truyén - nên tranh vẽ trên tường còn có chù để là các hình người và phong cành. Còn nhà ở vùng Batáckarô có đặc điểm là tỷ lệ mái trên tường quá lớn (8 : 1), cột và tường đễu thẵp (đây là một kiểu nhà dài). Đối với nhà ở bộ lạc Tôrátgia ở đào Xêlêbex ngoài những điểm tương tự vê kết cáu nhu loại nhà Tôba còn có những điểm khác sau đây : - Mái cong hinh yên ngựa đến đoạn đấu hổi nhà vươn ra rất xa như một mũi tên, vì độ vươn ra rất lởn nên phải có cột chống. - Vật liệu lợp dùng tre, nứa chẻ đôi mà không dùng lá panđarux. - Hai đáu hổi nhà có hiên. 41
  • 44. An Huy Cát Lâm-dân tộc Triẻu Tiên / Hà Bắc Triết Giang Triết Giang Triết Giang Nội Mông Bắc Kinh Tú Xuyên Cam Túc Tứ Xuyên Tây Tạng Vân N-am Vân Nam Hình 1.20 : Nhà ở dân gian các vùng ở Trung Quốc 42
  • 45. Mặt đứng nhà sàn Lào (Theo Sophie'C harpetier và piere Clement) ợ ị i 1 -------- ị-------1- Mặt bằng tầng Irông m Hình à.21 : Một kiểu rìhù sin ở Lào 43
  • 46. Kinh 1.22 : - a, h) Kiến trúc nhà à dân ỊỊÌan Campuchia. c, d) Một sã đề nghị cái liến ngói nhà nông thôn Campuchia (theo N.Gôíô và VÔkađa)
  • 47. - Trang trí tường, cột chủ yếu là dùng những hoa van hình học chạm trổ các môtíp người hoặc vật và ở các cột nhà và các m ặt nhà thường có tượng gỗ đẩu trâu nước. - Việc trang trí nghệ thuật trong nhà càng nhiễu chứng tò vị trí của người chù càng có địa vị trong xã hội. Nhưng đỉnh cao của hoạt động nghệ thuật xây dựng nhà ở Inđônêxia mà có lẽ không một dân tộc nào vượt được là thuộc vê bộ tộc Minãngkabau. Hỉnh thức mái cong vuốt lẽn (tượng trưng cho những cái sừng trâu bò) là thành phấn đáng chú ý nhất của nhà Minagkabau. Hình thức mái vươn lên theo một đường cong mém này là do yêu cẩu của các phần mặt bàng bên dưới : một loạt các chái nối liễn nhau đã khiến cho nhà có một loại mái hình yên ngựa có đẩu mái cong vút lên. Tường trang trí ở đây chủ yếu dùng đé tài thực vật (hoa, nụ, hoa, cây leo) với các mầu đen, vàng và đò. Một số nhà nghiên cứu cho rằng đây là ảnh hưởng của vãn hoá Ấn Độ. Những loại nhà này nay đã thay vật liệu lợp thào mộc cũ bàng tôn để chống lại mục mọt. Ngày nay, các hình tượng nhà ở cô’ truyền ở Xumatơra cũng như những đền chùa độc đáo với 5-7 lốp mái ỏ Bali đang được các kiến trúc sư nghiên cứu, nâng cao để áp dụng vào thực tế, góp phấn dựng nên một nén kiến trúc mởi mang tính chất dân tộc Inđônêxia đậm né.t. 1.6. LƯỢC KHẤO QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KIẾN TRÚC NHÀ Ở THÀNH PHỐ, NÔNG THÔN VÀ CÁC DÂN TỘC ÍT NGƯÒI VIỆT NAM Lịch sử bốn nghìn năm văn hiến, kiến trúc của Việt Nam ta có nhiéu nét cán chú ý nghiên cứu. Từ thời đại trống đóng nổi tiếng cho đến các triẽu đại phong kiến Lý, Trán, Lê ... chúng ta đã có nhữ’ig công trình nghiên cứu. Trong khuôn khổ của chương này, chúng tôi chỉ đễ cập đến kiến trúc nhà ở Việt Nam từ thế kỷ trước đến thế kỷ này, với ba mảng chính là nhà ở thành phố, nhà ở nông thôn và nhà ở các dân tộc ít người ở nước ta. Kiến trúc nhà ở thành phô', nông thôn cũng như kiến trúc nhà ở cùa các dân tộc ít người cùa nước ta đã thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu : từ các kiến trúc sư cho đến các nhà xã hội học, dân tộc học. Kiến trú c n h à ở th à n h phố, nhẫt là đối với các thành phố Hà Nội, một số thành phó ở miễn Bác và thành phố Hổ Chí Minh là những đối tượng đáng được nghiên cứu. Để nghiên cứu nhà ở ở Hà Nội trong hai thế kỷ gẩn đây, chúng ta có thể phân loại và nghiên cứu đặc điểm theo 2 thời kỳ sau : - Thời kỳ dău thế kỳ XIX đến năm 1945 (Hà Nội thòi nhà Nguyễn và thời Pháp thuộc). - Thài kỳ Hà Nội dưới chế dộ mói. Cho đến cuối thế kỷ trước, nhà ỏ vùng Hà Nội cũ chủ yếu tập trung ở vùng chợ Đồng Xuân, Hảng Đào, Hàng Ngang, Hàng Buổm, Hàng Bông và Cáu Gỗ, phía Bác quận Hoàn Kiếm hiện nay). 45