Dự án Khu du lịch nghỉ dưỡng Cam Ly Măng Ling nằm ở trung tâm thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Dự án được xây dựng dựa trên nền tảng trên ý tưởng “Cam Ly Măng Ling - Thiên đường của rừng cây và suối nước”. Sau khi hoàn thiện, Cam Ly Măng Ling sẽ trở một trong những khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng hiện đại bậc nhất và thân thiện với môi trường trên cơ sở nghiên cứu hệ sinh thái, cảnh quan tự nhiên, khai thác tối đa các giá trị tài nguyên như phong thổ khí hậu vùng cao nguyên, các hồ nước, rừng cây, làng hoa,…
Dự án có tổng diện tích là 221ha, theo quy hoạch xây dựng Dự án được phân khu với 04 chủ đề chính: khu du lịch biệt lập; khu du lịch sinh thái; khu du lịch Slow and Lohas (khu du lịch trầm tưởng cảm nhận bốn mùa) và khu du lịch tổ chức sự kiện. Các khu vực chức năng gồm có: khách sạn 5 sao; khách sạn 3 sao; Boutique hotel; dinh thự; Villa; Bungalow; ngoài ra còn có sân tập golf; khu hội nghị; khu nhà kính hoa; các khu công viên, dịch vụ thương mại và vui chơi giải trí
Tổng giá trị đầu tư của Dự án là: 250 triệu USD.
Dự án được xây dựng và hòan thành trong thời gian bảy (07) năm kể từ ngày khởi công. Dự án được đầu tư theo hình thức cuốn chiếu, theo từng giai đoạn và đưa vào sử dụng từng hạng mục công trình bắt đầu từ năm 2012.
Trong năm 2010, LTG sẽ tiến hành hoàn thành khu tái định cư, giải phóng đến bù để di dời dân cư ra khỏi vùng dự án, phê duyệt thiết kế kỹ thuật để xây dựng. Đồng thời tiến hành hoàn thiện khu nhà mẫu và khu văn phòng làm việc.
Khu Du lịch nghỉ dưỡng sinh thái cao cấp Cầu Mây (Mercure Sapa Resort & Spa) ...Minh Nguyen Huy Hoang
Nằm ở độ cao 1600m so với mực nước biển, là một trong 10 điểm đến hấp dẫn nhất Việt nam, Sa pa được mệnh danh là nơi đất trời hội tụ. Khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, khí hậu trong lành, văn hóa đa dạng, đến với Sa Pa là tìm về với vùng đất bình yên của cảnh sắc hoang sơ, kỳ vĩ; đắm say, tình tứ trong sắc màu vùng cao thấm đẫm những câu chuyện tình mùa xuân
Dự án có quy mô 47,45ha là tổ hợp nhà phố và trung tâm thương mại kết hợp với khu nghỉ dưỡng, khách sạn, trung tâm biểu diễn nghệ thuật đáp ứng nhu cầu giải trí, nghỉ dưỡng, kinh doanh và sở hữu bất động sản.
Dự án Khu du lịch nghỉ dưỡng Cam Ly Măng Ling nằm ở trung tâm thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Dự án được xây dựng dựa trên nền tảng trên ý tưởng “Cam Ly Măng Ling - Thiên đường của rừng cây và suối nước”. Sau khi hoàn thiện, Cam Ly Măng Ling sẽ trở một trong những khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng hiện đại bậc nhất và thân thiện với môi trường trên cơ sở nghiên cứu hệ sinh thái, cảnh quan tự nhiên, khai thác tối đa các giá trị tài nguyên như phong thổ khí hậu vùng cao nguyên, các hồ nước, rừng cây, làng hoa,…
Dự án có tổng diện tích là 221ha, theo quy hoạch xây dựng Dự án được phân khu với 04 chủ đề chính: khu du lịch biệt lập; khu du lịch sinh thái; khu du lịch Slow and Lohas (khu du lịch trầm tưởng cảm nhận bốn mùa) và khu du lịch tổ chức sự kiện. Các khu vực chức năng gồm có: khách sạn 5 sao; khách sạn 3 sao; Boutique hotel; dinh thự; Villa; Bungalow; ngoài ra còn có sân tập golf; khu hội nghị; khu nhà kính hoa; các khu công viên, dịch vụ thương mại và vui chơi giải trí
Tổng giá trị đầu tư của Dự án là: 250 triệu USD.
Dự án được xây dựng và hòan thành trong thời gian bảy (07) năm kể từ ngày khởi công. Dự án được đầu tư theo hình thức cuốn chiếu, theo từng giai đoạn và đưa vào sử dụng từng hạng mục công trình bắt đầu từ năm 2012.
Trong năm 2010, LTG sẽ tiến hành hoàn thành khu tái định cư, giải phóng đến bù để di dời dân cư ra khỏi vùng dự án, phê duyệt thiết kế kỹ thuật để xây dựng. Đồng thời tiến hành hoàn thiện khu nhà mẫu và khu văn phòng làm việc.
Khu Du lịch nghỉ dưỡng sinh thái cao cấp Cầu Mây (Mercure Sapa Resort & Spa) ...Minh Nguyen Huy Hoang
Nằm ở độ cao 1600m so với mực nước biển, là một trong 10 điểm đến hấp dẫn nhất Việt nam, Sa pa được mệnh danh là nơi đất trời hội tụ. Khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, khí hậu trong lành, văn hóa đa dạng, đến với Sa Pa là tìm về với vùng đất bình yên của cảnh sắc hoang sơ, kỳ vĩ; đắm say, tình tứ trong sắc màu vùng cao thấm đẫm những câu chuyện tình mùa xuân
Dự án có quy mô 47,45ha là tổ hợp nhà phố và trung tâm thương mại kết hợp với khu nghỉ dưỡng, khách sạn, trung tâm biểu diễn nghệ thuật đáp ứng nhu cầu giải trí, nghỉ dưỡng, kinh doanh và sở hữu bất động sản.
Cơ sở lý luận về Quá trình hình thành và phát triển trang sức của người Việt. Trang sức là một loại hình di vật đặc biệt ko chỉ có mục đích làm đẹp cho con người, mà còn biểu thị trình độ thẩm mỹ và kỹ thuật chế tác qua từng thời kỳ, qua đó người xem có thể hình dung được sự phát triển về tư duy của người Việt. Bên cạnh cuộc sống mưu sinh vất vả thường nhật của con người thời đó. Từ đó vẫn còn lóe lên được cuộc sống tinh thần, tức là họ biết làm đẹp, biết trau truốt cho bản thân họ, tự tôn bản thân mình, toát lên vẻ sang trọng của người sử dụng trong giới quý tộc.
Sách "Nguồn gốc người Việt-người Mường "của tác giả Tạ Đức công bố rừ năm 2014, được nhiều người khen, do không nghiên cứu sâu về vấn đề này, còn người phê phán là các nhà khoa học. Bởi nội dung sách không phải do Tạ Đức nghiên cứu mà truy cập qua mạng do các tác giả châu Âu...
Cơ sở lý luận về Quá trình hình thành và phát triển trang sức của người Việt. Trang sức là một loại hình di vật đặc biệt ko chỉ có mục đích làm đẹp cho con người, mà còn biểu thị trình độ thẩm mỹ và kỹ thuật chế tác qua từng thời kỳ, qua đó người xem có thể hình dung được sự phát triển về tư duy của người Việt. Bên cạnh cuộc sống mưu sinh vất vả thường nhật của con người thời đó. Từ đó vẫn còn lóe lên được cuộc sống tinh thần, tức là họ biết làm đẹp, biết trau truốt cho bản thân họ, tự tôn bản thân mình, toát lên vẻ sang trọng của người sử dụng trong giới quý tộc.
Sách "Nguồn gốc người Việt-người Mường "của tác giả Tạ Đức công bố rừ năm 2014, được nhiều người khen, do không nghiên cứu sâu về vấn đề này, còn người phê phán là các nhà khoa học. Bởi nội dung sách không phải do Tạ Đức nghiên cứu mà truy cập qua mạng do các tác giả châu Âu...
Cơ sở sản xuất Nhạc cụ Phong vân chuyên nhận đặt làm Đàn Đá Tây Nguyên biểu diễn
Đàn đá có 15 thanh đá lớn , mỗi thanh rộng khoảng 8 tới 10 cm
Chất lượng đá nhập tại các vùng Tây Nguyên
Thời gian hoàn thành 20 ngày
Hình ảnh sản phẩm:
co so lam da da dan da tay nguyen mua ban dan da dia chi ban dan da
Thông tin chi tiết về Đàn Đá:
Đàn đá (các dân tộc ở Tây Nguyên, Việt Nam gọi là goong lu, đọc là goòng lú, tức “đá kêu như tiếng cồng”) là một nhạc cụ gõ cổ nhất của Việt Nam và là một trong những loại nhạc cụ cổ sơ nhất của loài người[3]. Đàn được làm bằng các thanh đá với kích thước dài, ngắn, dày, mỏng khác nhau. Thanh đá dài, to, dày có âm vực trầm trong khi thanh đá ngắn, nhỏ, mỏng thì tiếng thanh. Người xưa sử dụng vài loại đá có sẵn ở vùng núi Nam Trung Bộvà Đông Nam Bộ để tạo ra nhạc cụ này. Đàn đá đã được UNESCO xếp vào danh sách các nhạc cụ trong Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên.
Lịch sử phát hiện
Năm 1949, những người phu làm đường phát hiện tại Ndut Liêng Krak, Đăk Lăk, Tây Nguyên một bộ 11 thanh đá xám có dấu hiệu ghè đẽo bởi bàn tay con người, kích thước từ to đến nhỏ trong đó thanh dài nhất 101,7 cm nặng 11,210 kg; thanh ngắn nhất 65,5 cm nặng 5,820 kg. Phát hiện này được báo cho Georges Condominas, một nhà khảo cổ người Pháp làm việc tại Viện Viễn Đông Bác Cổ. Tháng 6 năm 1950 giáo sư Georges Condominas đưa những thanh đá này về Paris và chúng được nghiên cứu bởi giáo sư âm nhạc André Schaeffner. Sau đó, Georges Condominas công bố kết quả nghiên cứu trên tạp chí Âm nhạc học (năm thứ 33 – bộ mới) số 97-98 tháng 7 năm 1951, khẳng định về loại đàn lithophone ở Ndut Liêng Krak, “”nó không giống bất cứ một nhạc cụ bằng đá nào mà khoa học đã biết”. Hiện bộ đàn đá này được trưng bày ở Bảo tàng Con Người Paris, Pháp.
Năm 1956, trong Chiến tranh Việt Nam bộ đàn đá thứ hai được phát hiện và một đại úy Mỹ mang về trưng bày ở New York.
Năm 1980, Georges Condominas lại phát hiện bộ đàn đá thứ ba có 6 thanh tại buôn Bù Đơ thuộc xã Lộc Bắc, huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Đây là bộ đàn do dòng họ Ksiêng (người Mạ) lưu giữ qua 7 đời.
Từ những năm 1979 vấn đề nghiên cứu, sưu tầm về đàn đá được giới khoa học Việt Nam khơi dậy và cho đến những năm đầu thập niên 1990, người ta tìm được khoảng 200 thanh đàn đá rải rác ở Đắc Lắc, Khánh Hòa,
ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ TRANG SỨC CỦA PHỤ NỮ VIỆT Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Dịch vụ hỗ trợ viết đề tài điểm cao luanvantrust.com .
Zalo / Tel: 0917.193.864
Tạp chí Văn hóa Nghệ An đăng bài “12 luận điểm chính trong một cuốn sách mới về trống đồng Đông Sơn” của tác giả Tạ Đức, với lời của tác giả: hi vọng gợi ra những ý kiến trao đổi, phản biện. Nhưng không như sách Nguồn gốc người Việt –người Mường mà nói sai thì do lòng tự tôn dân tộc cho nên sách ấy bị nhiều người phản ứng. Còn sách nói về trống đồng này có thể nhiều người ủng hộ,
Bàn thên về “Nguồn gốc người Việt- người Mường” của Tạ Đức Pham Long
Sách Nguồn gốc người Việt-người Mường của Tạ Đức (N.x.b Trí thức-2014) cho rằng vùng đất này có tên Giao Chỉ là đất của người Dao- Tên đất là tên người. Còn Người Việt và người Mường xưa nay khác nhau, đều là sự tổng hòa của các nhóm di dân từ phương Bắc: Người Mường vốn là người Mon, Man đến trước, chủ nhân của văn hóa Phùng Nguyên, Người Việt vốn là người Lava, đến sau, chủ nhân của văn hóa Đông Sơn. Đó là một nhận thức sai trái, lỗi thời phản lại Lịch sử của dân tộc. Bài viết này Tác giả phản bác lại luận điểm sai trái của Tạ Đức, bằng việc dùng những di vật và hoa văn xuất hiện từ thời đồ đá cũ do Tổ Tiên chúng ta sáng tạo để lại trong lòng đất, do giới khảo cổ của ta khai quật trong các di chỉ ở lưu vực sông Hồng đem lại là cùng dòng tư tưởng với phong tục tập quán của xã hội người Kinh đương đại. Di vật và hoa văn là lời nói trung thực, khách quan nhất không thể chối cãi được.
NỀN TẢNG VĂN HÓA VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT NAM TS. BÙI QUANG ...Minh Chanh
Trong khi đó, một bộ phận dân Indonesien không muốn ở lại hợp chủng với các dòng du mục phương Bắc nên đã di chuyển dọc theo dãy Trường Sơn vào phía Nam, định cư lại ở vùng Tây nguyên và Trung bộ, đó là các dân tộc Bana, Êđê, Gia rai, Churu, Vân kiều... và dân tộc Chăm ngày nay. Như vậy, người Việt ngày nay đều có chung một nguồn gốc là chủng Indonesien nhưng lại đa dạng và sống rải rác khắp từ Bắc đến Nam.
Cách đây khoảng 4000 năm, các dân tộc Việt lùi xuống, hình thành quốc gia đầu tiên gọi là Văn Lang, đồng thời mở mang bờ cõi về phương Nam.
Download luận văn thạc sĩ ngành văn học Việt Nam với đề tài: Diện mạo và đặc điểm du ký biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, cho các bạn làm luận văn tham khảo
20301
1. ÐỒ ÐỒNG CỔ ÐÔNG SƠN
Năm 1924, một người nông dân làng Ðông Sơn đi câu cá ở hữu ngạn sông Mã trên cánh đồng đất
bãi chạy dài giữa sông Mã và giải núi đá vôi và phiến thạch, phát hiện một số công cụ và vũ khí cổ
bằng đồng. Ðịa điểm này thuộc làng Ðông Sơn huyện Ðông Sơn tỉnh Thanh Hóa, cách thị xã Thanh
Hóa 4,650m về phía Bắc - Ðông bắc. Sau đó các nhà nghiên cứu đã khai quật và sưu tầm hàng
trăm cổ vật thuộc nhiều loại hình hiện vật khác nhau: công cụ sản xuất, dụng cụ sinh hoạt, vũ khí,
nhạc khí, đồ trang trí và tượng mỹ thuật. Thuật ngữ Văn hóa Ðông Sơn xuất hiện và nổi tiếng từ
giai đoạn này. .
TG : Nguyễn Văn Huyên
.
.
Tuy nhiên, hai mươi năm phát hiện văn hóa Ðông Sơn, các nhà nghiên cứu người Pháp và
nước ngoài chỉ mới khai quật được vài địa điểm quanh khu vực Thanh Hóa và Quảng Bình.
Do tư liệu lúc đó còn hạn chế, cộng với quan điểm thiên di và vay mượn chi phối nên các nhà
nghiên cứu giai đoạn đầu thường cho rằng chủ nhân của văn hóa Ðông Sơn không phải là
cư dân bản địa mà là từ phương Bắc xuống hoặc từ phương Tây sang.
.
Những thập kỷ tiếp theo, hàng trăm địa điểm thuộc văn hóa này đã được khai quật nghiên
cứu; qua đó giúp ta hiểu được một quá trình phát triển liên tục, nội sinh qua bốn giai đoạn
phát triển:
Sơ kỳ đồ đồng - giai đoạn Phùng Nguyên, cách ngày nay khoảng 4000 năm.
2. .
Trung kỳ đồ đồng: giai đoạn Ðồng Ðậu, cách ngày nay khoảng 3300 năm đến 3500 năm.
.
Hậu kỳ đồ đồng: giai đoạn Gò Mun, cách ngày nay khoảng trên dưới 3000 năm.
Cuối cùng là giai đoạn Ðông Sơn thuộc sơ kỳ đồ sắt, cách ngày nay khoảng từ trên dưới
2000 năm đến 2800 năm.
3. .
Ðông Sơn là một nền nghệ thuật tạo hình đạt đến đỉnh cao về tạo dáng. Người cổ Ðông Sơn
đã tạo ra nhiều loại hình hiện vật phong phú, đa dạng từ công cụ, vũ khí, đồ gia dụng, đến
nhạc khí, đồ trang sức và tượng nghệ thuật.
.
5. Tẩu hút thuốc bằng đồng
.
Muổng và muôi bằng đồng
.
.
6. Đèn đồng Đông Sơn
.
.
Tính đa dạng này không phải chỉ mang ý nghĩa thực dụng gắn với từng loại công việc khác
nhau như lưỡi cày để xới đất, lưỡi hái và nhíp để gặt lúa, rìu để cuốc đất, chặt cây, đóng
thuyền, giũa để tu sửa khi rèn sắt, đúc đồng... mà còn biểu hiện ý đồ tạo dáng khác nhau phù
hợp với khiếu thẩm mỹ của từng địa phương. Chẳng hạn người Việt cổ vùng thấp thích chế
tạo trống đồng dáng cao, lưng thẳng; còn người vùng cao thích trống dáng lùn, chân thấp,
lưng choãi.
8. .
Người vùng đồng bằng Bắc Bộ ưa loại lưỡi cày dáng hình tim, tam giác, còn người lưu vực
sông Mã (Thanh Hóa) thích lưỡi cày hình cánh bướm. Người Ðông Sơn có khiếu thẩm mỹ rất
cao. Không chỉ những loại hiện vật có kích thước lớn, có công năng quan trọng như trống,
thạp, thố, bình... mà hầu hết cổ vật Ðông Sơn từ công cụ đến vũ khí, từ dụng cụ sinh hoạt
đến nhạc khí, tượng nghệ thuật... đều được trang trí nhiều loại hoa văn phong phú và tinh tế.
.
Thạp đồng
.
9. .
Hoa văn trang trí trên đồ đồng Ðông Sơn có thể phân ra thành hai loại cơ bản:
.
1/ Hoa văn người, vật dùng và động vật.
2/ Hoa văn hình học: phổ biến là hoa văn chấm nhỏ thẳng hàng, vạch chéo và vạch thẳng
song song, hình răng cưa, vòng tròn, hình chữ S.
10. Hoa văn trên bề mặt trống đồng Hoàng Hạ
.
Tùy theo cách chế tác và hình dáng cổ vật mà những hoa văn trên được sắp sếp hài hòa và
tinh tế. Thí dụ như vẫn các loại hoa văn chấm dải, răng cưa, gạch ngắn song song, vòng
tròn... nhưng người Ðông Sơn đã bố trí rất khéo trên mặt cong của tang, lưng trống, mặt
trống, lưng thạp, nắp thạp; hay ngay trên mặt một số cổ vật nhỏ như giáo, dao găm, rìu... hoa
văn cũng được bố trí rất hài hòa tùy theo hình dáng của thân, mũi khác nhau. Chẳng hạn như
trên chiếc rìu xéo: ở thân rìu có hình ba người trang sức lông chim đang múa, trên họng rìu
có đôi cá sấu đang giao cấu. Trang trí Ðông Sơn đã gắn bó giữa dáng, hoa văn và sự chuyên
môn hóa theo công năng của vật dùng.
11. Ðặc biệt trống đồng Ðông Sơn - một nhạc khí cổ - là đỉnh cao nghệ thuật trang trí của đồ
đồng thời đó. Trống Ðông Sơn là một kiệt tác nghệ thuật làm say mê nhiều nhà nghiên cứu,
sưu tầm trong nước và trên thế giới, là bức tranh toàn cảnh về tín ngưỡng, kiến trúc, sản
xuất, chiến đấu, lễ hội... của cư dân nông nghiệp lúa nước.
.
12. .
( Xem thêm bài : Tìm hiểu ý nghĩa những hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ , quyển âm
lịch cổ và địa bàng chỉ phương hướng dùng trong nền văn minh Lạc Việt )
.
Nghiên cứu nghệ thuật Ðông Sơn đặc biệt là trống đồng, chúng ta thấy hai xu hướng phát
triển nghệ thuật tạo hình thời này: cách điệu hóa và đơn giãn hóa hoa văn, vạch ra mô hình
phát triển nghệ thuật Ðông Sơn từ xu hướng tả thực ở giai đoạn sớm, chuyển sang khuynh
hướng cách điệu biến hình phức tạp, bí ẩn ở giai đoạn muộn.
13. ...
.
Ðồ trang sức của người cổ Ðông Sơn được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau như vỏ sò,
gốm, xương thú, thủy tinh, mã não... nhưng một trong những loại thông dụng nhất là đồng.
Không thể thống kê kết các loại đồ trang sức vì chúng rất đa đạng. Người xưa thường trang
sức ở năm bộ phận cơ thể: tai, cổ, thắt lưng, tay và chân. Ở tai có vòng và khuyên; ở cổ có
chuỗi hạt; ở tay có vòng, nhẫn và bao tay; ở chân có vòng và bao chân; ở lưng là khóa thắt
14. lưng. Người Ðông Sơn không chỉ đeo vòng ở cổ tay mà còn đeo nhiều vòng từ cổ tay đến
cánh tay. Bất kể già trẻ, nam nữ đều thích làm đẹp bằng đồ trang sức; ở làng Vạc (Nghệ An)
các nhà nghiên cứu đã phát hiện những bao tay, bao chân, nhẫn đồng có gắn nhạc; chứng tỏ
trang sức đã gắn liền với âm nhạc và ca múa.
.
.
Khuyên tai bằng đá
.
Bao chân, bao tay bằng đồng.
15. .
Khoá thắt lưng bằng đồng, trang trí tượng rùa.
.
Tượng đồng nghệ thuật Ðông Sơn rất đa dạng gồm tượng người, tượng gia súc như trâu,
bò, lợn, gà, vịt, chó; các loài vật nhỏ như chim, cóc, nhái, rùa, rắn; các loài thú lớn như voi,
hươu, hổ, báo. Tượng Ðông Sơn đa số là tượng trang trí gắn trên hiện vật, còn tượng rời thì
ít. Tượng thường được gắn trên cán dao găm, cán muôi, vòi ấm, mặt trống, nắp thạp hoặc
dùng làm chân đèn...
.
16.
17. Nhìn chung tượng Ðông Sơn có kích thước nhỏ hoặc rất nhỏ dùng làm đồ chơi, vật thiêng
hoặc con giống. Tượng Ðông Sơn mang phong cách tả thực, hồn nhiên, biểu cảm; chẳng
hạn như tượng hai người cõng nhau nhảy múa, tượng người trên cán muôi Việt Khê đang
thổi khèn, tượng người trên cán dao găm... Về cách thể hiện, nghệ thuật tạc tượng cũng
mang tính chất nhịp điệu, đối xứng như trang trí hoa văn; thí dụ như cảnh hổ vồ mồi, cảnh
nam nữ yêu nhau trên nắp thạp Ðào Thịnh... đều được bố trí đối xứng qua tâm của nắp thạp,
mặt trống.
.
Nhìn lại chặng đường dài phát triển của nghệ thuật tạo hình Ðông Sơn, chúng ta rút ra mấy
nét tổng quát như sau:
.
18. Một là, thành tựu lớn nhất của giới nghiên cứu khảo cổ học và mỹ thuật cổ là đã khẳng định
được nghệ thuật Ðông Sơn là một nền nghệ thuật bản điạ thuần Việt ,phi Hoa, phi Ấn. Nền
nghệ thuật này không phải thiên di từ Trung Quốc xuống hay từ Bắc Ấn sang; nó được phát
triển liên tục suốt hơn ngàn năm. Tuy nhiên nền nghệ thuật Ðông Sơn này không hề đóng
kín, mà là nền Nghệ thuật mở, giao lưu nhiều với các nền nghệ thuật đồng đạo chẳng hạn
trống đồng Ðông Sơn đã giao lưu đến khu vực trống đồng ở Hoa Nam, Ðông Nam Á lục điạ
và Ðông Nam Á hải đảo.
.
.
Ngược lại nghệ thuật tượng tròn của người Ðiền ở Vân Nam (Trung Quốc) đã ảnh hưởng
đến tượng tròn Ðông Sơn. Một số yếu tố của các nền nghệ thuật đương thời Ðông Nam Á
cũng ảnh hưởng đến nghệ thuật Ðông Sơn tùy mức độ đậm nhạt khác nhau (Trích từ Vài nét
về giao lưu văn hóa thời đaị kim khí trong bối cảnh lịch sử Ðông Nam Á của Trịnh Sinh - Tạp
chí khảo cổ học số 3-1979).
.
Hai là, đặc điểm nổi bật nhất của nghệ thuật tạo hình Ðông Sơn là hình tượng của con người
chiếm vị trí chủ đạo trong thế giới muôn loài. Con người luôn hài hòa với thiên nhiên, với mọi
vật nhưng luôn là trung tâm của thế giới. Con người đang lao động như đánh cá, săn bắn;
19. đang vui chơi giải trí như ca hát, nhảy múa, đánh trống, thổi khèn; đang chơi thể thao như
bơi lội hay đang cầm chắt vũ khí bảo vệ làng bản quê hương. Ðó là những con người bình dị,
thuần hậu, chất phát, hiền hòa chứa đựng tính nhân bản sâu sắc. Cảnh vật quanh người
cũng rất dể thương, dể mến như những nhà sàn mái cong đơn sơ, những con thuyền đang
lướt sóng, những con cò bay lả bay la, những đàn cá lội tung tăng, những cặp bò đực bò cái,
hươu đực hươu cái xen kẽ, những đôi chim trống chim mái, những đôi cá sấu đang giao cấu,
bên những cặp trai gái đang yêu nhau... phản ánh tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông
nghiệp lúa nước, ước mong cuộc sống hòa bình hạnh phúc.
.
20.
21. Các hình khắc trên bề mặt trống đồng Ngọc Lũ
.
Vũ khí Đông Sơn
Giáo đồng
.
25. Tên đồng Cổ Loa
.
Ba là, về thủ pháp nghệ thuật, người cổ Ðông Sơn miêu tả theo lối bổ nghiêng từ hình người
múa, hình chim, hươu, bò... đều vẻ từ cách nhìn một phía chứ không nhìn thẳng mặt. Thí dụ
như hình người múa trên mặt trống đồng được vẻ theo lối ngực nhìn thẳng, còn chân và đầu
thì theo lối nhìn nghiêng. Hình chim bay từ chân, cánh và đuôi nhìn từ trên xuống, còn đầu thì
theo lối nhìn nghiêng. Phong cách miêu tả này dường như là cách nhìn mọi vật từ nhiều phía
trong không gian mà ta thường gặp trong các nền nghệ thuật cổ đại Ai Cập, Lưỡng Hà... ở
đây thế giới được thể hiện như một không gian khép kín.
.
26. .
Người cổ Ðông Sơn còn dùng thủ pháp ước lệ: hình ngôi nhà sàn mái rủ sát đất trên mặt
trống đồng Ngọc Lũ, nhưng họ cũng không quên khắc cả những con người đang sinh hoạt
trong nhà theo trí tưởng tượng của họ.
27. Mái cong Làng Đình Bảng
.
Tóm lại, Ðông Sơn không những là một nền nghệ thuật tạo hình lâu đời, một nền nghệ thuật
bản địa có bản sắc riêng, khác với các nền nghệ thuật láng giềng đồng đạo mà còn là đỉnh
cao nghệ thuật làm say mê nhiều nhà nghiên cứu, sưu tầm trong nước và trên thế giới. Ðó là
niềm tự hào của chúng ta những con Lạc cháu Hồng.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyên
.
(Sưu tầm : Thanhlongcollection , được Doremon360 bổ sung hình ảnh)
.
.
Phụ lục : Một số hình ảnh các loại trống đồng Đông Sơn