SlideShare a Scribd company logo
1 of 147
Download to read offline
Những Người Hạnh Phúc Nhất Trần Gian
Tác giả: John & Elizabeth Sherrill
Câu chuyện về cuộc đời Demos Shakarian dưới ngòi bút JOHN &
ELIZABETH SHERRILL
NHỮNG NGƯỜI HẠNH PHÚC NHẤT TRẦN GIAN là một câu chuyện
làm cho bạn cười, làm cho bạn khóc, làm cho đức tin bạn được gây dựng.
Bạn sẽ cùng đi với Demos.
Khi anh ta tán tỉnh cô Rose Gabrielian, theo cách của người Ạc-mê-ni.
Khi anh ta cân nhắc những lời tiên tri “không có ý nghĩa rõ ràng”
Khi anh ta và Rose đối diện với sự mất mát bi thương về đứa con gái nhỏ.
Khi anh ta đối phó với tiếng kêu khóc của công việc, khi anh khám phá một
căn bệnh truyền nhiễm ghê gớm trong các bầy bò sữa của mình, đương đầu
với sự chống đối của gia đình trong khi tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời
dành cho đời sống mình.
Câu chuyện về cuộc đời của Demos chia sẻ một bí quyết mạnh mẽ mà hết
thảy những người tin Chúa cần phải biết để sống còn qua những giờ phút
khó khăn. Để khám phá được cách trở thành những người hạnh phúc nhất
trên trần gian này.
Lời Nói Đầu
Vào một ngày u ám giữa tháng mười hai 1960, chúng tôi lái chiếc xe trung
của mình lùi vào cạnh chỗ đậu xe cuối cùng nằm phía trước khách sạn
President ở Thành phố Atlantic.
Vài giây sau một chiếc Cadillac du lịch sờn cũ mang biển số California quẹo
vào chỗ trống cạnh bên chúng tôi và một người đàn ông to lớn với chiếc nón
cao bồi rộng vành bước ra. Ông ta chìa bàn tay to, đầy sẹo vì lao động ra, và
nói.
“Tôi là Demos Shakarian”
Ông ta đi vòng qua phía bên kia xe và giữ cánh cửa cho một phụ nữ xinh xắn
có mái tóc màu sẫm bước ra “còn đây là vợ tôi, Rose”
Chúng tôi giải thích cho họ biết rằng chúng tôi là những phóng viên của tờ
báo Guidefosts được phân công để tìm hiểu việc nói tiếng lạ, chúng tôi cũng
lẹ làng nói cho họ biết rằng chúng tôi đến đây “chỉ để xem qua”.
Chúng tôi đã có một cuộc xem qua “ra trò”. Khách sạn President là hiện
trường của tuần lễ hội đồng giáo hạt của một tổ chức được gọi là Hội Thông
Công Trọn Vẹn Quốc Tế Của Các Doanh Nghiệp Cơ Đốc, (Full Gospel
Business Men’s Fellowship International) là tổ chức mà Demos là người
sáng lập và là chủ tịch.
Hàng ngàn người ở vùng bờ biển phía đông đã đến thành phố Atlantic, một
số thì để gặp gỡ con người xuất thân từ trang trại với màu da rám nắng trong
chiếc nón rộng vành, một số muốn trao đổi những câu chuyện về điều Đức
Thánh Linh đang làm việc trong đời sống họ, và một số người khác, cũng
như chúng tôi chỉ để xem qua, có một chút kính sợ nhưng với hoài nghi
nhiều hơn.
Hãy coi chừng chủ nghĩa cảm xúc, chúng tôi cảnh giác nhau việc kêu lớn
tiếng, đưa tay cao, những lời làm chứng cuồng nhiệt, là những kỹ thuật hao
tốn thời gian để đẩy một đám đông vào tình trạng kích động.
Chúng tôi đã theo dõi... Song chẳng có điều nào thuộc loại kích động ấy xảy
ra. Từ phía trước phòng khiêu vũ của khách sạn, ông Demos hướng dẫn buổi
nhóm với sự nhạy cảm im lặng của một người nghe được tiếng nói mà chúng
tôi không thể nghe. Thay vì những lần lộn lạo mà chúng tôi đã chờ đợi, một
sự vui mừng được kiềm chế và trật tự đang điều khiển buổi nhóm. Tự mình
bọc giáp lấy mình để phòng chống những loại kích động đã chẳng thấy xảy
đến, chúng tôi chẳng có lý do gì để chống lại tình yêu thương đã thật sự
chạm đến và làm mềm lòng chúng tôi, thế là cùng với hàng trăm người khác,
chúng tôi bắt đầu bước đi trong Thánh Linh. Trong vòng mười lăm năm kể
từ tháng mười hai năm ấy, chúng tôi đi theo phong trào Ngũ Tuần đã phát
triển ở nhiều nơi trên thế giới, bởi vì chúng tôi tìm thấy đây chính là những
câu chyện tốt đẹp, là những sự phấn khích, những đời sống được thay đổi rất
thực tế trong hội thánh ngày nay. Và chúng tôi bắt đầu chú ý một điều thú vị.
Bất cứ nơi nào chúng tôi trò chuyện với những người có đức tin sống động
như những người nam, người nữ, người trẻ tuổi hoặc lớn tuổi, người Thiên
Chúa Giáo La mã và hội Mennonite, từ giờ này sang giờ khác, câu chuyện
luôn luôn bắt đầu với nhóm các doanh nhân lạ thường này là một nông gia
nuôi bò sữa xuất thân từ Downey Bang California tên là Demos Shakarian.
Làm thế nào điều đó có được, chúng tôi tiếp tục tự hỏi, điều gì đã khiến cho
một người hay cả thẹn, diễn đạt không trôi chảy, với một nụ cười dịu dàng
từ tốn, một người đàn ông dường như chẳng khi nào vội vàng, dường như
ngày hôm nay chẳng bao giờ phải biết rằng ngày mai mình sẽ ở đâu, lại có
một ảnh hưởng trên hàng triệu người? Chúng tôi quyết định phỏng vấn con
người đó để tìm ra sự thật.
Nói dễ nhưng làm lại rất khó. Ông Demos có lẽ đang sống ở Boston,
Bangkok hoặc Bá Linh và ông thường không trả lời thư từ. Nhưng suốt bốn
năm qua chúng tôi đã thu xếp một số chuyến viếng thăm. Ông Demos và bà
Rose đã đến miền Đông để gặp gỡ chúng tôi, và về sau chúng tôi gặp nhau
trong căn nhà gỗ của một người bạn ở Thụy sĩ. Chúng tôi đã làm việc tại
Conaco và Palm Springs. Chúng tôi trò chuyện trong những xe hơi, ở những
sân bay và trong những nhà hàng Ạc-mê-ni. Thú vị nhất là thời gian chúng
tôi ở lại với ông Demos và bà Rose tại nhà của họ ở Downey, cũng chính là
ngôi nhà nhỏ mà họ đã xây năm 1934 khi đứa con đầu tiên của họ ra đời.
Ngôi nhà của thân phụ ông Demos kế bên, đã trống vắng từ khi cha ông qua
đời. Đó là căn nhà rộng lớn với nhiều phòng hơn, nhưng Demos và bà Rose
- vâng, chắc chắn đã có nhiều kỷ niệm trong ngôi nhà nhỏ này.
Dần dần chúng tôi đã bắt đầu hiểu rõ bí quyết của ông Demos.
Một phần trong ngôi nhà đó gia đình ông đã mang theo từ Ạc-mê-ni. Quốc
gia Cơ đốc giáo cổ nhất này, cũng là một đất nước đã chịu đau khổ nhiều
nhất vì niềm tin của mình. Và bởi cớ sự chịu đựng đau đớn họ đã hiểu biết
Chúa cách sâu xa.
Đó là một sự hiểu biết sâu xa hơn bất cứ một quốc gia hay dân tộc nào. Đó
là một bí quyết mà mỗi người trong chúng ta cần phải biết, bởi vì khi thực
hiện bí quyết đó, như lời ông Demos nói “dầu cho hoàn cảnh của thế giới
xung quanh chúng ta có ra sao, chúng ta vẫn sẽ là những người hạnh phúc
nhất trên trần gian này”
Tháng mười một , năm 1975
John và Elizabeth Sherrill
Tuyển tập Lilncoln , Virginia
Sứ Điệp Từ Bên Kia Dãy Núi
Một buổi sáng nọ, Rose và tôi đang trên đường lái xe xuyên qua thành phố
Los Angeles trở về nhà, bất chợt tôi có một khao khát muốn ra khỏi xa lộ và
chạy ngang qua nhà nơi nội tôi, ông Demos, đã sống khi ông đến Hoa kỳ lần
đầu tiên.
Sau bốn mươi hai năm chung sống, Rose đã quen với những ước muốn bất
chợt nầy, vì vậy dầu đã một giờ sáng, nàng vẫn không nói một lời khi tôi
quẹo xuống đoạn đường dốc và chạy vào khu vực thường được gọi là khu
chung cư Los Angeles. Căn nhà tô xi măng vuông vức nay không còn tọa lạc
ở số 919 đường Boston nữa. Ngồi một lát trong xe, chúng tôi nhìn ra chung
quanh ngôi chung cư mới đã thay thế hàng xóm xưa cũ. Đoạn tôi quay xe lại
và hướng thẳng ra xa lộ.
Nhưng những kỷ niệm miên man về ông nội đã theo tôi suốt buổi tối với
thời tiết nóng bức tại California. Tôi biết vì sao đêm nay tôi cần phải thực
hiện chyến đi vòng ấy. Chính vì một lời tiên tri mà Rose và tôi đã được nghe
trước đấy vào buổi chiều. Chúng tôi đã dự buổi nhóm của Hội Thương Gia
Phúc Âm Trọn Vẹn (Full Gospel Business Men) tại Beverlig Hills, nơi có
một người đã nói tiên tri, tuyên bố rằng đang nói ra chính những lời của Đức
Chúa Trời, cho biết một cơn bách hại lớn cho các Cơ đốc nhân chẳng bao
lâu sẽ xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới, kể cả Liên Bang Hoa kỳ.
Chúng ta hiểu thế nào về một lời tuyên bố như vậy? Gia đình tôi đã hiểu gì
về một sứ điệp tương tự cách đây một thế kỷ? Bởi vì lúc đó cũng từng có
một lời tiên tri như vậy, và kể từ đó mọi sự đã xảy ra trong cuộc đời của ông
nội tôi, cuộc đời của cha tôi và tôi đều là kết quả của việc đã coi trọng lời
tiên tri ấy.
Đã hai giờ sáng khi tôi rẽ vào lối đi trong sân nhà mình tại Downey, giờ
trăng sáng tỏa khắp thật thú vị cho giấc ngủ. Tôi là một người hay thức
khuya mà Rose không thể đợi nỗi.
Vì vậy nàng lên giường khi tôi kéo chiếc ghế cũ kỹ ở phòng khách lại gần
cửa sổ, và ngồi xuống đó trong đêm tối, thả tâm trí lang thang trở về quá
khứ.
Tôi chưa được biết ông nội Demos của mình, ông cụ đã qua đời trước khi tôi
được sinh ra, nhưng tôi đã từng nghe cả ngàn lần những câu chuyện về ông.
Tôi biết từng chi tiết tường tận đến nỗi khi đang ngồi đây nhìn ra những
chiếc lá của cành cam ẩn bạc dưới ánh trăng, dường như tôi nhìn thấy phong
cảnh ở một vùng đất khác, thật xa và thật xưa. Đối với một người Ạc-mê-ni
việc ấy không có gì là khó. Chúng tôi là những con người của Cựu ước, quá
khứ và hiện tại vì vậy dệt vào nhau đến nỗi điều đã diễn ra cách đây một
trăm năm hoặc một nghìn năm, hai nghìn năm vẫn thực hữu đối với chúng
tôi như những ngày tháng rõ ràng trên tờ lịch.
Tôi từng được nghe tả thường xuyên đến nỗi có thể thật sự tìm thấy ngôi
làng nhỏ bé thuộc vùng Kara kala nằm vững chắc ở vùng đồi thấp, dưới chân
ngọn Ararát là ngọn núi, mà Kinh Thánh cho chúng ta biết nơi chiếc tàu của
Nô-ê đã tấp vào đó. Nhắm mắt lại, tôi thấy những ngôi nhà bằng đá, các
chuồng gia súc, và những kho thóc, nhà trại một gian, nơi ông nội Demos
của tôi đã sống. Trong gian nhà đó, năm cô con gái của ông được sinh ra, mà
không có một cậu con trai nào cả, đó là nỗi ô nhục giữa vòng những người
Ạc-mê-ni cũng giống như nỗi ô nhục giữa ruộng đồng những người Ysơraên
kia.
Tôi hình dung ông nội đi bộ đến nhà thờ mỗi buổi sáng Chúa nhật cùng với
năm cô con gái nhỏ. Mặc dầu phần đông người Ạc-mê-ni đều theo Chánh
Thống Giáo, ông tôi và nhiều người khác ở tại Kara kala lại là những tín đồ
của giáo hội Trưởng lão. Tôi có thể thấy ông lúc đang băng qua làng để đến
nhà thờ nơi hội chúng đang nhóm lại trong ngày Chúa nhật đặc biệt đó, đầu
ngẩng cao mang nỗi sỉ nhục thinh lặng.
Chính vì nhu cầu lớn lao của ông mà tôi dường như luôn ngạc nhiên vì ông
cụ đã không thừa nhận ngay sứ điệp lạ lùng đang từ từ lan khắp vùng núi
gần năm mươi năm. Sứ điệp ấy được những người Nga mang đến, ông tôi
cũng khá ưa thích những người Nga, ông chỉ quá khôn ngoan để chấp nhận
những câu chuyện của họ về những phép lạ. Người Nga đến trong những
chiếc xe lưu động dài, với các toa có mui che. Họ ăn mặc cũng giống như
người dân chúng tôi, trong những chiếc áo cao cổ dài đến đầu gối, thắt lưng
bằng những dây gai có núm tua, những người đàn ông đã có gia đình trang
điểm bằng cách để râu rậm. Người Ạc-mê-ni nghe hiểu được họ không có gì
khó khăn, vì hầu hết người dân chúng tôi cũng nói tiếng Nga. Họ lắng nghe
những câu chuyện về điều mà người Nga gọi là “sự tuôn đổ của Đức Thánh
Linh” trên hàng trăm ngàn người Cơ đốc theo giáo hội Chánh Thống Nga.
Những người Nga đã đến như những người mang theo những tặng phẩm.
Tặng phẩm của Đức Thánh Linh, là điều họ muốn được chia xẻ. Tôi có thể
nghe ông bà nội tôi trò chuyện đến khuya sau một trong những chuyến viếng
thăm ấy, ông tôi chắc đã nói, người ta phải công nhận rằng mọi điều mà
người Nga đang nói đều là những điều thuộc về Thánh Linh.
“Tôi muốn nói sự chữa lành có trong Kinh Thánh, việc nói tiếng lạ cũng có,
lời tiên tri cũng vậy. Chỉ có điều là toàn thể sự việc nghe không có vẻ... Ạc-
mê-ni chút nào”. Bằng câu nói ấy hẳn ông muốn nói đến sự đáng tin cậy,
tính trung thực thực tế.
Và bà nội tôi, lòng lúc nào cũng nặng nề, hẳn đã nói “ông biết đấy khi ông
nói về các lời tiên tri và sự chữa lành là ông đang nói đến phép lạ”.
“Phải”
“Nếu có bao giờ chúng ta được nhận lãnh Thánh Linh theo cách ấy, thì ông
nghĩ rằng chúng ta có thể cầu xin một phép lạ chăng?”
“Bà muốn nói đến việc có một đứa con trai phải không?”
Thế rồi có lẽ bà tôi đã bật khóc. Tôi biết một điều, đó là vào một buổi sáng
nắng đẹp tháng năm năm 1891, bà nội tôi đã khóc nức nở.
Qua nhiều năm một số các gia đình sống tại Kara kala đã bắt đầu thừa nhận
sứ điệp của những người Nga theo Ngũ Tuần (Pentecostal) người em rể của
ông tôi là Magardich Mushegan, lúc bấy giờ là một trong số những người
ấy. Ông đã nhận báp tem bằng Thánh Linh và trong những chuyến thăm
viếng thường xuyên ở tại trang trại Shakarian, hẳn ông đã nói về niềm vui
mới mẽ trong đời sống mình, được đặt nền tảng trên Thánh Kinh.
Trong cái ngày đặc biệt đo, ngày 25 tháng 5 năm 1891. Bà nội tôi và các phụ
nữ khác đang may vá trong một góc phòng của gian nhà trại. Bà vẫn cố gắng
may, nhưng nước mắt cứ tiếp tục tuôn rơi trên mảnh vải đặt nơi lòng bà.
Bên kia gian phòng, kế bên cửa sổ, nơi có ánh sáng tốt, Magradich
Mushegan đang ngồi với quyển Kinh Thánh mở rộng trên gối.
Thình lình, Magardich đóng sầm quyển Kinh Thánh lại, ông đứng lên và
băng qua gian phòng. Ông đến đứng trước mặt bà tôi, hàm râu đen rậm động
đậy lên xuống vì sự kích động.
“Goolisar”, ông Magardich nói “Đức Chúa Trời vừa phán cùng tôi!”
Bà tôi ngồi thẳng lên “vâng, sao cơ, Magardich?”
“Ngài phán với tôi một sứ điệp dành cho chị”. Ông nói “Goolisar, đúng một
năm sau chị sẽ sanh một bé trai”
Khi ông nội tôi từ ngoài đồng trở về, bà tôi đón ông ở cửa với tin nóng bỏng
về lời tiên tri lạ lùng. Lòng vui mừng muốn tin nhưng vẫn còn hoài nghi,
ông tôi không nói gì cả, ông chỉ mỉm cười khẽ rùn vai, và đánh đấu những
ngày tháng trên tờ lịch.
Ngày tháng trôi qua bà tôi đã có thai. Đến lúc này mọi người ở Kara kala
đều đã biết lời tiên tri ấy. Cả làng hồi hộp chờ đợi. Thế rồi vào ngày 25
tháng năm, năm 1992, đúng một năm kể từ lúc lời tiên tri được ban ra, bà tôi
sinh một bé trai.
Lần đầu tiên gia đình tôi chạm trán với Thánh Linh theo cách riêng tư như
vậy. Mọi người ở tại Kara kala đều đồng ý rằng việc chọn tên cho cậu bé là
đúng hoàn toàn: Cậu sẽ được gọi là Ysác, bởi vì cậu cũng giống như đứa con
trai mong đợi lâu ngày của Ápraham, đứa trẻ của lời hứa.
Tôi quả quyết rằng ông tôi là một người đàn ông tự hào và hạnh phúc khi
dẫn bộ cả gia đình mình đến nhà thờ mỗi Chúa nhật sau khi Ysác được sanh
ra. Nhưng ông tôi vốn có tính cứng cỏi trong con người mình. Cũng như
những người Ạc-mê-ni ông tự xem mình là người có một tâm trí quá cứng
rắn để có thể dễ dàng chấp nhận rằng ông đã được chứng kiến một lời tiên tri
siêu nhiên thuộc loại đã được đề cập đến trong Kinh Thánh. Có thể lời tiên
tri của Magardich chỉ là một sự may mắn!
Và rồi tất cả chỉ trong vòng một ngày, những nỗi nghi ngờ của ông tôi đã
biến mất. Chỉ một lần đủ cả.
Vào năm 1990, khi Ysác lên tám và em gái cậu là Hamas, bốn tuổi, có tin
báo rằng một trăm Cơ đốc nhân người Nga từ bên kia núi đang trên đường
đến đây trong những toa xe ngựa có mui che. Mọi người đều vui thích. Tại
Karakala có tục lệ tổ chức tiệc mừng dành cho những Cơ đốc nhân mỗi khi
họ viếng thăm một nơi nào đó. Mặc dầu không đồng ý với “Tin Lành Toàn
Vẹn (Full Gospel) người Nga rao giảng, ông tôi vẫn coi những cuộc thăm
viếng của họ là những thời gian được biệt riêng cho Chúa, và nhất định buổi
tiệc đón mừng phải được tổ chức ở miếng đất rộng lớn bằng phẳng ngay
trước ngôi nhà của mình.
Bấy giờ, ông tôi rất tự hào về đàn gia súc béo tốt của mình, nghe tin đoàn
người Nga đang trên đường sắp đến nơi, ông đi ra ngoài bầy gia súc của
mình và xem xét kĩ từng con. Hẳn ông đã chọn một con bò đực tơ tốt nhất,
mập nhất cho bữa tiệc đặc biệt đó.
Thế nhưng rủi thay, con đực tơ mập nhất trong bầy lại có một khuyết tật khi
được kiểm tra. Con vật bị đui một mắt.
Làm thế nào bây giờ? Ông tôi biết lời Kinh Thánh rất rõ: Ông biết mình
không được dâng một con sinh có khuyết tật cho Đức Chúa Trời, há không
phải LeLv 22:20 có phán rằng “các ngươi chớ dâng một con vật nào có tì vít
, vì nó sẽ không được nhậm ” sao?
Thật là một tình thế khó xử! Không có con vật nào khác trong bầy lớn đủ để
cho một trăm người khách dùng. Ông tôi nhìn quanh. Không ai để ý cả. Có
lẽ ông đã tự tay giết con vật to béo ấy và chỉ việc giấu cái đầu có tì vít đi.
Phải, đó là điều ông đã làm! Ông tôi dẫn con thịt chột mắt vào kho chứa
rơm, tự mình mổ thịt nó và vội vàng bỏ cái đầu vào một cái bao rồi đem giấu
dưới đống lúa mì đã đập trong một xó tối.
Ông tôi kịp đúng giờ, vì khi vừa chuẩn bị xong con thịt, ông đã nghe thấy
tiếng rầm rầm của các toa xe ngựa tiến vào Kara kala. Thật là một cảnh
tượng thú vị! Những toa xe móc nhà lưu động dài quen thuộc đang tiến vào
con đường bụi đỏ, mỗi chiếc do bốn con ngựa đẫm mồ hôi kéo. Bên cạnh
người đánh ngựa của đoàn xe thứ nhất, là vị giáo trưởng với bộ râu trắng,
ngồi thật thẳng, oai vệ như bao giờ, ông ta là người lãnh đạo và là tiên tri của
đoàn khách. Ông nội tôi và cậu bé Ysác chạy lên đường để đón mừng các vị
khách của họ.
Khắp nơi, sự chuẩn bị cho bữa tiệc đều đã sẵn sàng. Chẳng bao lâu con thịt
lớn được quay bằng một cái xiên trên bếp lửa than khổng lồ. Chiều hôm đó
mọi người tụ tập lại quanh những chiếc bàn dài làm bằng các tấm ván, ai nấy
mong chờ và đều đói bụng. Tuy nhiên, trước khi bữa ăn bắt đầu, thức ăn
phải được chúc phước.
Những Cơ đốc nhân thời đó sẽ không dâng một lời cầu nguyện nào cả, dầu
là lời cầu nguyện cảm tạ ngắn trước mỗi bữa ăn, cho đến khi nào họ nhận
được điều mà họ gọi là sự xức dầu. Họ sẽ chờ đợi trước mặt Chúa cho đến
khi nào, theo lối nói của họ, Thánh Linh đổ trên thức ăn. Họ tuyên bố rằng,
(đó cũng là một điều khá ngộ nghĩnh đối với ông tôi) họ có thể thật sự cảm
nhận được sự hiện diện của Ngài. Khi việc đó xảy ra, họ sẽ đưa tay lên và
nhảy múa vui mừng.
Như thường lệ, trong dịp nầy, những người Nga chờ đợi sự xức dầu bằng
Thánh Linh. Khi không còn nghi ngờ gì nữa, theo như mọi người đã để ý, thì
người thứ nhất và người tiếp theo sẽ nhảy múa trong chỗ thích hợp. Mọi sự
diễn tiến như thường lệ. Chẳng bao lâu đến giờ chúc phước cho thức ăn, và
bữa tiệc được bắt đầu.
Nhưng thật bất ngờ đối với ông tôi, khi vị Giáo trưởng đột nhiên đưa tay lên,
không phải dấu hiệu của sự chúc phước mà là một cách ra dấu để bảo tất cả
phải dừng lại. Đưa mắt nhìn ông tôi bằng một cái nhìn xuyên suốt lạ lùng,
người đàn ông cao lớn râu tóc trắng bước ra khỏi bàn không nói một lời.
Đôi mắt của ông tôi theo dõi từng bước chân của vị giáo trưởng khi ông
băng qua khoảng sân và vào bên trong kho chứa rơm. Sau một hồi, ông xuất
hiện, trong tay ông giữ chiếc bao mà ông nội tôi đã giấu bên dưới đống lúa
mì.
Ông tôi bắt đầu run. Làm sao ông cụ biết được! Không ai nhìn thấy ông cơ
mà. Những người Nga thậm chí còn chưa giáp bờ làng khi ông giấu cái đầu
ấy. Bấy giờ vị giáo trưởng đặt chiếc túi biết nói ở trước mặt ông tôi và mở
rộng ra cho mọi người nhìn thấy cái đầu bò với một con mắt trắng bệt.
“Có điều gì cần xưng ra không, anh Demos?” vị giáo trưởng người Nga hỏi.
“Vâng, tôi có,” ông tôi trả lời, người vẫn còn run. “Nhưng làm thế nào mà
ông biết được?”
“Đức Chúa Trời đã nói cho tôi biết” ông nói thật đơn giản “anh vẫn không
tin rằng ngày nay Ngài cũng phán với dân sự Ngài như trong những ngày
trước. Đức Thánh Linh đã ban cho tôi lời hiểu biết ấy vì một lý do đặc biệt,
hầu cho anh và cả nhà anh hẳn sẽ tin. Anh vẫn đang chống lại quyền năng
của Thánh Linh. Hôm nay là ngày anh thôi chống cự nữa”
Trước mặt những người dân lân cận và các vị khách trong buổi chiều tối
hôm đó, ông tôi đã xưng ra mọi dối gạt mà ông đã cố làm. Với những giọt
nước mắt lăn xuống má hòa lẫn vào hàm râu lởm chởm, ông xin họ tha thứ.
Ông nói với nhà tiên tri: “Hãy chỉ cho tôi biết, làm thế nào để tôi cũng nhận
được Thánh Linh của Đức Chúa Trời.”
Ông tôi quỳ xuống và trưởng lão người Nga đặt đôi bàn tay xương xẩu vì lao
động lên đầu ông. Ngay lập tức, ông tôi bật lên lời cầu nguyện vui mừng
trong một ngôn ngữ mà cả ông lẫn những người đang có mặt không ai hiểu
được. Những người Nga gọi loại phát biểu bày tỏ trạng thái cực kỳ sung
sướng đó là “tiếng lạ” và coi đó như một dấu hiệu cho thấy Đức Thánh Linh
đang hiện diện với người phát biểu. Tối hôm đó, bà nội tôi cũng đã được
nhận “báp tem Thánh Linh”
Đó là khởi đầu của sự thay đổi lớn lao trong đời sống của gia đình chúng tôi,
và một trong những điều đầu tiên đó là sự thay đổi trong thái độ đối với một
công dân nổi tiếng nhất Kara kala. Nhân vật này nổi tiếng khắp cả vùng dưới
danh hiệu “cậu bé Tiên Tri” mặc dầu vào lúc sự việc cái đầu con thịt xảy ra
thì cậu bé Tiên Tri đã năm mươi tám tuổi rồi.
Tên thật của ông ta là Efim Gerasemovitch Klubniken gia đình ông ở giữa
vòng những người theo giáo phái Trưởng Lão đầu tiên vượt biên giới, đến
cư ngụ lâu dài tại Kara kala. Từ thuở thiếu thời, Efim đã cho thấy ông có ân
tứ cầu nguyện, thường xuyên tiếp tục những kỳ kiêng ăn kéo dài, cầu
nguyện suốt ngày đêm.
Như mọi người ở tại Kara kala đều biết, khi Efim lên mười một, cậu nghe
Chúa một lần nữa kêu gọi cậu bước vào một trong những kỳ cầu nguyện
thức canh. Lần này cậu đã kiên trì cầu nguyện trong suốt bảy ngày đêm, và
trong thời gian đó cậu đã nhận được một khải tượng.
Khải tượng này tự nó không có gì là phi thường. Quả thật, cũng như ông tôi
vẫn thường hay làu bàu, bất cứ ai hoặc không ăn uống hoặc không ngủ nghỉ
một thời gian lâu như vậy thì chắc chắn sẽ thấy một cái gì đó. Nhưng điều
cậu Efim có thể làm được suốt trong bảy ngày ấy thật không dễ để mà giải
thích.
Efim không hề biết đọc hoặc biết viết. Tuy nhiên, khi cậu ngồi trong căn nhà
nhỏ bằng đá tại Kara kala cậu đã nhìn thấy trước mặt mình một khải tượng
về các biểu đồ và một sứ điệp viết tay thật đẹp. Efim xin một cây bút và một
tờ giấy. Rồi trong suốt bảy ngày ngồi nơi chiếc bàn ván gồ ghề chỗ gia đình
ngồi ăn, cậu đã khó nhọc viết lại hình dáng của các chữ viết và các sơ đồ đã
hiện ra trước mặt cậu.
Khi hoàn tất, bản viết tay được giao cho những người biết đọc trong làng.
Hóa ra cậu bé mù chữ này đã viết ra một loạt những huấn thị và lời cảnh cáo
bằng tiếng Nga. Cậu bé đã viết rằng, vào một thời điểm nào đó không xác
định trong tương lai, mọi Cơ đốc nhân ở Kara kala sẽ phải gặp khó khăn
khủng khiếp. Cậu nói trước một thời kỳ bi thảm không tả xiết xảy ra cho cả
vùng, khi hàng trăm ngàn người nam, nữ và con trẻ sẽ bị tàn sát man rợ. Cậu
cảnh cáo thời kỳ sẽ đến khi mọi người trong vùng phải chạy trốn, họ phải đi
đến một vùng đất bên kia biển. Mặc dầu chưa bao giờ nhìn thấy một cuốn
sách về địa lý. Cậu bé Tiên Tri đã vẽ một bản đồ chỉ rõ chỗ mà những Cơ
đốc nhân chạy trốn phải đến đấy. Trước sự sửng sốt của những thanh niên,
khối nước được mô tả rất chính xác trong bản vẽ không phải là vùng biển
Đen bên cạnh, không phải biển Caspian, cũng không phải Địa Trung Hải xa
xôi mà là bờ biển Đại Tây Dương (Atlantic) xa tít mù mà không thể hình
dung ra được! Không còn nghi ngờ gì nữa, cả vùng đất nằm bên cũng được
nhận ra: Bức họa đồ đã chỉ rõ ràng vùng bờ biển phía đông của Hoa kỳ.
Nhưng những người tị nạn không định cư ở đó, lời tiên tri tiếp tục, họ phải
tiếp tục hành trình cho đến khi tiến đến tận miền Tây của vùng đất mới. Cậu
bé viết, tại đó Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho họ và làm cho họ được
thạnh vượng, và khiến cho dòng giống của họ trở thành một nguồn phước
cho các dân tộc.
Cách ít lâu sau, Efim cũng viết một lời tiên tri thứ hai, mà hết thảy mọi
người đều biết rằng lời tiên tri ấy có liên hệ đến khoảng thời gian trong
tương lai còn xa hơn nữa, là khi dân chúng một lần nữa sẽ phải chạy trốn.
Efim yêu cầu cha mẹ niêm phong lời tiên tri ấy trong một phong bì, và lập
lại những huấn thị mà cậu đã nhận được qua lời tiên tri đó. Cậu cũng được
báo cho biết trong khải tượng đến đó rằng chỉ có một vị Tiên Tri trong tương
lai, được Đức Chúa Trời chọn cho công tác nầy, mới được mở chiếc phong
bì đó mà đọc lời tiên tri cho hội thánh. Bất cứ ai mở chiếc phong bì trước
thời hạn phải chết.
Vâng, nhiều người ở tại Kara kala đã cười vào những điều mà người ta cho
rằng tưởng tượng của cậu bé. Chắc hẳn phải có một số những lời giải thích
nào đó về bản viết tay “kỳ lạ” của cậu bé. Người ta cho rằng có lẽ cậu đã bí
mật tự học, đọc và viết, chỉ nhằm để làm trò lừa bịp dân làng.
Tuy nhiên, những người khác đã bắt đầu gọi Efim là cậu bé Tiên Tri và
không dám cho rằng sứ điệp ấy không thật. Mỗi khi có những tin tức về
những sự lộn xộn chính trị mới lan đến vùng đồi núi yên tỉnh xung quanh
rặng núi Ararát, thì họ lại lôi những trang giấy lúc này đã vàng ố ra và đọc
lại. Những vụ rắc rối giữa những người Hồi giáo Thổ nhĩ kỳ với các Cơ đốc
nhân người Ạc-mê-ni dường như đang gia tăng kịch liệt. Vào tháng 8 năm
1896, bốn năm trước khi ông tôi làm thịt con vật bị mù mắt, há không phải
một đám đông hỗn tạp người Thổ nhĩ kỳ đã giết hại hơn sáu ngàn người Ạc-
mê-ni trên những đường phố Constantinople sao?
Nhưng Constantinople thì ở quá xa, và năm tháng đã trôi qua kể từ khi lời
tiên tri được ban bố. Thật ra những lời tiên tri trong Kinh Thánh thường đến
rất nhiều lần, thậm chí hàng trăm năm trước khi biến cố xảy ra. Nhưng hầu
hết dân chúng ở tại Karakala, ông tôi cũng ở trong số đó, đều tin rằng những
ân tứ về việc nói tiên tri đích thực đã chấm dứt kể từ khi Kinh Thánh đã
được hoàn tất.
Thế rồi không lâu sau những năm đầu thế kỷ, Efim loan báo rằng đã gần đến
thời điểm ứng nghiệm những lời mà ông đã viết cách đây gần năm mươi
năm. “Chúng ta phải lánh sang Hoa kỳ. Hết thảy những ai còn ở lại sẽ phải
bỏ mạng”
Đây đó ở tại Kara kala, những gia đình theo giáo phái Ngũ Tuần khăn gói
rời khỏi mãnh đất và nhà cửa đã từng một thời là tài sản của tổ tiên để lại.
Efim và gia đình ông ở vào số những người đầu tiên ra đi. Khi có một nhóm
người theo Ngũ Tuần nào rời bỏ Ạc-mê-ni, thì họ lại bị những người còn lại
chế nhạo. Những lớp người hoài nghi và không tin, kể cả nhiều Cơ đốc nhân
không chịu tin rằng Đức Chúa Trời có thể ban bố những huấn thị thật chính
xác cho con người hiện nay trong thời đại nầy.
Nhưng những huấn thị đó đã được chứng minh là đúng vào năm 1914, một
giai đoạn khủng khiếp không thể tưởng tượng nỗi đã xảy đến cho xứ sở Ạc-
mê-ni với một sức lực không thể suy giảm, người Thổ nhĩ kỳ bắt đầu tiến
hành một công việc đẫm máu đó là đánh đuổi hai phần ba dân cư khỏi nơi
họ đang sống để đưa họ vào sa mạc Mêsôpôtami. Hơn một triệu người, cả
nam lẫn nữ và trẻ con đã chết trong những cuộc hành trình khủng khiếp đó,
kể cả mọi cư dân ở tại Kara kala. Nửa triệu người khác đã bị tàn sát tại các
làng mạc của họ trong một cuộc thảm sát, mà sau này cung cấp cho Hitler ý
đồ của ông ta nhằm hủy diệt người Do thái “Thế giới đã không hề can thiệp
khi người Thổ nhĩ kỳ xóa sạch người Ạc-mê-ni” ông ta đã nhắc nhở những
kẻ theo mình “ngày nay Thế giới cũng sẽ không can thiệp đâu”.
Một số ít những người Ạc-mê-ni trốn ra khỏi những khu vực bị bao vây đã
mang theo những câu chuyện về sự dũng cảm, anh hùng của những người
Ạc-mê-ni còn kẹt lại. Họ thuật lại rằng nhiều khi những người Thổ nhĩ kỳ đã
cho các Cơ đốc nhân một cơ hội để chối bỏ đức tin của mình hầu đổi lấy
mạng sống. Một tiến trình ưa chuộng nhất là nhốt tất cả các Cơ đốc nhân vào
một chuồng chứa gia súc hoặc chứa thóc và châm lửa đốt: “Nếu chúng mày
chịu nhận Môhamét thế cho Đấng Christ, chúng tao sẽ mở cửa”. Cứ như thế,
không biết bao nhiêu lần, những Cơ đốc nhân đã chọn cái chết, những bài
Thánh ca tôn ngợi Chúa được cất vang lên khi ngọn lửa phủ chìm họ.
Những người đã lưu tâm đến lời cảnh cáo của cậu bé Tiên Tri và tìm được
nơi ẩn náu ở tại Hoa kỳ đều choáng váng khi được tin.
Ông nội Demos của tôi thuộc trong vòng những người đã lánh thoát. Sau
kinh nghiệm xảy ra với vị Trưởng lão người Nga, ông tôi không còn dám coi
nhẹ giá trị pháp lý của lời tiên tri nữa. Vào năm 1905 ông đã bán đi nông trại
từng thuộc về gia đình từ nhiều đời, chấp nhận với bất cứ giá tiền nào ông có
thể có được. Đoạn, ông chọn những đồ vật mà gia đình có thể mang theo
trên lưng, kể cả tặng vật của riêng ông là chiếc ấm Samôva đồng đun bằng
củi. Thế rồi cùng với vợ và sáu cô con gái, Shushan, Esther, Siroon, Magga,
Yerchan, Hamas, và niềm tự hào của ông, cậu bé Ysác mười ba tuổi, lên
đường tìm đến đất Mỹ.
Cả gia đình đã đến Nữu ước bình yên, nhưng vì cớ lưu ý đến lời tiên tri, nên
đã không định cư tại đó. Để giữ đúng theo huấn thị đã được viết ra, họ tiếp
tục hành trình băng qua vùng đất mới rộng lớn hoang vu, cho đến khi đến
được Los Angeles, ở đó, thật vui mừng, họ tìm được một khu vực có người
Ạc-mê-ni, dầu nhỏ bé nhưng đang phát triển, là nơi có một số bạn hữu từ
Kara kala đến và hiện đang sinh sống.
Nhờ sự giúp đỡ của những người bạn nầy, ông tôi đã đi tìm nhà ở “khu
chung cư” là khu vực rẻ nhất ở Los Angeles, dầu vậy chính vì việc có thêm
hai gia đình khác mới đến mà ông phải dọn gia đình mình đến căn nhà hình
vuông có tô xi măng ở tại số 919 đường Boston.
Chuyến đi bằng tàu thủy, cuộc hành trình băng qua đất Mỹ, và việc chia xẻ
căn hộ mới đã làm hết sạch số tiền bán được nông trại ở quê nhà, vì thế ông
tôi lập tức tìm kiếm việc làm. Không thành công. Tình trạng suy thoái trầm
trọng vào những năm cuối thế kỷ 19 vẫn còn đè nặng trên California, là nơi
không tìm được việc làm, đặc biệt đối với những người mới đến, là người
không nói được chữ nào trong thứ tiếng nầy. Mỗi buổi sáng ông tôi thường
đi đến chỗ thuê người, để rồi mỗi chiều lại trở về, bước chân có phần nặng
nề hơn ngày hôm trước.
Nhưng có một thời giờ trong mỗi một tuần lễ, khi mà tất cả những nỗi lo
lắng đều được dẹp qua một bên, đó là buổi nhóm thờ phượng ngày Chúa
nhật. Căn nhà tại thành phố Boston có một phòng khách phía trước đã nhanh
chóng trở thành nơi nhóm chung. Buổi nhóm giữ theo các thói lệ của hội
thánh tư gia trước đây ở tại Kara kala. Ở giữa là một chiếc bàn rộng trên đó
để một quyển Kinh Thánh mở ra. Một bên phòng dành cho những người
nam, ngồi theo thứ tự tuổi tác, người lớn tuổi hơn ngồi gần nhất, tiếp theo là
những người trẻ hơn và cuối cùng là các cậu bé, bên kia phòng, luôn luôn
như vậy dành cho các người nữ, cũng xếp theo thứ tự tuổi tác. Những người
lớn tuổi vẫn tiếp tục để những bộ râu đen rậm, mặc dầu đôi khi một người
nam trẻ tuổi hơn cũng làm mọi người bực mình vì chỉ để râu mép. Trong hội
thánh vẫn bắt buộc những người nam phải mặc những chiếc áo dài đến gối
màu sáng, còn phụ nữ thì mặc váy dài có thêu và khăn trùm đầu đan móc
bằng tay, là loại y phục được truyền lại qua nhiều thế hệ. (Hầu như các ngày
còn lại trong tuần thì không bắt buộc như vậy)
Ông tôi hẳn đã nhận được một sự yên ủi đặc biệt khi nhờ cậy nơi sự nâng đỡ
về mặt thuộc linh từ tập thể Cơ đốc này. Họ có một sự khao khát từ khi biết
rằng Chúa có thể phán trực tiếp với họ qua Kinh Thánh. Với nhu cầu về
công việc làm luôn mang nặng trong tâm trí, ông tôi hẳn đã quỳ gối trên tấm
thảm đông phương đã được đem từ quê nhà để cầu xin “một lời phán”. Sau
đó toàn thể hội chúng hẳn sẽ bắt đầu cầu nguyện thầm thì, thường là trong
những thứ tiếng không ai hiểu, trong trạng thái vui sướng được gọi là tiếng
lạ. Cuối cùng, một trong những người lớn tuổi sẽ bước đến chỗ quyển Kinh
Thánh đặt tay mình vào phân đoạn Kinh Thánh nói đến sự cứu chuộc.
Những lời ấy dường như luôn phán thẳng vào nhu cầu. Có lẽ đó là những lời
nói về sự thành tín của Chúa hoặc về những ngày đượm sữa và mật như lời
cậu bé Tiên tri đã phán trước. Vâng, hội thánh nhỏ bé của người Ạc-mê-ni
đang chờ đợi những ngày đó xảy đến, nhưng ít nhất là trong khi chờ đợi, họ
cũng có những giờ phút thông công đẹp đẽ.
Ngày nọ có một sự khích lệ khác. Tình cờ ông tôi và người em rể,
Magardich Mushegan (là người đã nói tiên tri về việc Ysác được sanh ra)
đang đi bộ trên đường phố Sanpedro tại Los Angeles, tìm việc làm ở các
chuồng nuôi ngựa thuê. Khi đi qua một con đường phụ gọi là Azusa, họ đột
nhiên dừng lại. Cùng với mùi ngựa và mùi da để làm yên cương họ nghe
những âm thanh không thể nào lầm lẫn được của những con người đang
ngợi khen Đức Chúa Trời bằng tiếng lạ. Họ không hề hay rằng một nơi ở
Hoa lỳ lại có những người thờ phượng giống như họ vậy. Họ vội vàng tiến
về phía chuồng ngựa đã được cải tạo, từ nơi đó những âm thanh vang vọng
ra, ông tôi gõ cửa, lúc này ông đã thu thập được một ít từ Anh ngữ.
“Chúng tôi vào...được không?” ông hỏi.
“Được chứ!” Cánh cửa được mở tung ra. Có những cái ôm, những bàn tay
đưa lên cảm tạ ca hát và ngợi khen Chúa. Ông tôi và Magardich trở về phố
Boston với tin tức: Ngũ Tuần cũng đã đến với cả vùng đất xa xôi ở bên kia
đại dương. Lúc ấy không ai biết rằng phố Azusa sẽ trở thành một địa danh
nổi tiếng. Có một cuộc phấn hưng tiếp tục diễn ra trong khu chuồng nuôi
ngựa thuê, là nơi phát xuất một sự đổi mới có sức lôi cuốn ở nhiều nơi khác
nhau khắp cả địa cầu. Vào giây phút mà ông tôi nhìn thấy một tập thể các Cơ
đốc khác thì cũng đơn giản như một sự đón mừng sự xác nhận lời hứa của
Đức Chúa Trời rằng Ngài sẽ làm một điều gì đó mới mẻ và kỳ diệu tại
California.
Điều mới mẻ ấy là gì, ông tôi đã không còn sống để mà nhìn thấy, công việc
đều đặn mà ông chờ đợi từ lâu, cuối cùng đã đến, và cũng đã kết thúc trong
bi thảm.
Một ngày trong năm 1906, ông tôi trở về nhà với dáng đi nhẹ nhàng.
“Ông đã tìm được việc làm” bà tôi nói
“Phải, tôi có việc làm”
Cả gia đình xúm lại xung quanh trong khi ông tôi cho biết tin tức quan trọng.
Tận bên Nevada một tiểu bang khác, tiếp giáp với California, ngành đường
sắt đang thuê người.
Nụ cười biến mắt trên gương mặt bà. Bà đã từng nghe nói đến Nevada, đó là
vùng sa mạc, nơi nhiệt độ lên đến 49 độ C và người ta đã ngã chết khi cố
thực hiện công việc nặng nề là đặt đường ray dưới sức nóng ghê tởm đó.
“Mình quên rồi sao,” ông tôi phản công “tôi là một nông dân và tôi đã quen
làm việc ngoài đồng dưới ánh nắng. Hơn nữa Goolisar, mẹ thằng Ysác à,
chúng ta còn sự lựa chọn nào nữa đâu?”
Vì vậy ông tôi mời gọi các trưởng lão trong hội thánh đến và nhận sự chúc
phước theo truyền thống trước khi lên đường. Thế rồi với một bộ quần áo để
thay đổi cuộn trong một chiếc mền, ông hướng thẳng đến vùng sa mạc.
Chẳng bao lâu sau, người đưa thư cứ hàng tuần phát một lá thư chuyển tiền
cho căn hộ ở phố Boston.
Rồi một buổi chiều mùa hạ, bức điện tín mà bà nội tôi luôn sợ hãi đã đến.
Vào một ngày nắng nóng như thiêu như đốt, ông tôi đã ngã gục đang khi làm
việc trên tuyến đường. Thi thể ông có lẽ đã được đưa về bằng tàu hỏa.
Bởi cái chết của ông nội. Cha tôi, cậu bé Ysác đã phải bước vào công việc
khi cậu chưa sẵn sàng, mới mười bốn tuổi cậu phải đứng đầu gia đình.
Suốt nhiều tháng bố tôi phải đi bán báo ở một góc phố tại khu trung tâm Los
Angeles. Ông kiếm được gần mười mỹ kim một tháng, đó là một sự đóng
góp có giá trị lớn nếu ông nội còn sống, nhưng thật chật vật để đủ nuôi mẹ
và sáu chị em gái. Ngay cả những thời điểm trọng đại của ngành làm báo,
như trận động đất ở tại San Francisco năm 1906, khi ông bán được sáu
chồng báo Extras trong vòng một tiếng đồng hồ, thì cũng chỉ thêm được một
ít xị sữa trên bàn ăn mà thôi.
Cha tôi cũng không bao giờ lấy món tiền mà mình không khó nhọc để làm
ra. Trong những năm đầu thế kỷ, những đồng tiền vàng vẫn còn lưu hành, đó
là đồng tiền vàng Nam Mỹ có kích thước như đồng kên trị giá năm xu Mỹ.
Một ngày kia một khách hàng vội vã nhét một đồng tiền vào tay bố, nhận ba
xu thối lại và phóng nhanh ra đường, bố đã toan thả đồng tiền vào chiếc tạp
dề xanh của cậu bé bán báo có in hàng chữ LOS ANGELES TIMES ở phía
trước, nhưng khi chợt liếc xuống và nhìn thấy đồng “5xu” mà mình đang
cầm trong tay là đồng tiền vàng năm mỹ kim.
“Ông ơi!” Bố tôi kêu lên nhưng người ấy đã vượt xa một khối nhà rồi. Bố tôi
chặn chồng báo lại, và bắt đầu đuổi theo người đàn ông. Một chiếc xe điện
trờ tới. Không suy nghĩ đến lần thứ hai, bố tôi nhảy lên trả tiền tàu lấy trong
số tiền quý báu do chính mình kiếm được và lần theo người khách. Cuối
cùng, ông bắt kịp người khách, bố nhảy xuống khỏi xe điện.
“Thưa ông!” Người đàn ông bấy giờ mới quay lại “thưa ông, đây không phải
là đồng năm xu ạ?” Bố nói bằng tiếng Anh còn hơi ngập ngừng, ông xòe bàn
tay ra và đồng tiền vàng lấp lánh dưới ánh nắng.
Tôi vẫn hay nghĩ đến người khách hàng ấy, người đã nhận lại đồng tiền vàng
với một giọng nói ấm ức, biểu lộ sự vô tình nhỏ nhất để thừa nhận đồng tiền.
Tôi thích nghĩ rằng giá như ông ta nhìn thấy những khuôn mặt đói khổ chờ
đợi từng đêm ở cửa nhà số 919 Phố Boston, thì hẳn ông sẽ bảo cậu bé bán
báo hãy giữ cả đi.
Mười mỹ kim một tháng chẳng đủ thiếu gì cho một gia đình. Vào những
buổi chiều sau giờ làm việc, bố tôi bắt đầu dạo quanh những chỗ thuê người,
cũng như bố ông cũng đã từng trước kia. Nhưng nếu công việc dành cho đàn
ông đã hiếm hoi thì công việc dành cho những cậu bé lại càng khó hơn. Cuối
cùng cậu hay được rằng có một chỗ trống trong xưởng làm bộ yên cương.
Tiền lương thấp, chỉ mười lăm mỹ kim một tháng, nhưng dẫu sao cũng khá
hơn là bán báo, vì vậy, bố tôi nhận làm.
Một ngày vào năm 1908, khi bố đã mười sáu tuổi, ông từ xưởng thợ trở về
và nghe những lời rất ngạc nhiên của bà nội.
“Ysác, thật là một tin mừng!” Bà nội nói:
“Chúng ta thì có liên quan gì?”. Bố tôi trả lời qua chiếc khăn tay ông thường
giữ nơi miệng. Bụi lông mịn của da thuộc ở xưởng làm yên cương đã chui
vào hai lá phổi của ông và khiến ông ho liên tục.
“Mẹ đã tìm được một việc làm” bà nói
Bố tôi không tin là mình đã nghe đúng. Không có phụ nữ Ạc-mê-ni nào làm
việc để kiếm tiền. Trong xứ sở của ông trước kia, người đàn ông phải chu
cấp cho gia đình của họ, ông nhắc nhở bà tôi điều đó khi bà lau sạch lớp
lông bụi bám trên tóc ông lúc ở ngoài nhà bếp.
“Nhưng Ysác nầy, con không thấy việc mang gánh nặng của mình như vậy
là quá sức sao? Con thì ốm như cái xiên nướng thịt. Mẹ cũng đã nghe con
gắt gỏng với Hamas hôm qua”
Bố tôi đỏ mặt lên song vẫn giữ lập trường của mình “mẹ không được nhận
việc làm đâu”
“Mẹ nhận rồi. Một gia đình tốt bụng ở công viên Hollenbeck cần giặt ủi, chỉ
là việc quét dọn nhỏ thôi mà”
“Vậy thì con sẽ đi thu xếp” bố đáp nhẹ nhàng, rời bếp ông lên căn phòng
riêng của mình, bà tôi theo sau. Bà đứng ở bên cửa trong lúc ông cuộn một ít
áo quần vào bọc “có mẹ đi làm rồi con không cần ở đây nữa”
Ngày hôm sau bà tôi đành phải báo cho những người ở công viên
Hollenbeck, rốt cuộc bà không đến chỗ giặt ủi được.
Nhưng ở tại xưởng làm yên cương, bệnh ho của bố tôi lại càng trở nên tệ hại
hơn. Căn bệnh chẳng khá hơn ngay cả khi ông được bầu làm người đốc công
vào năm sau, mà nhiều lúc còn phải nằm liệt giường. Bà tôi thường kể rằng
bà thức giấc, nằm nghe tiếng bố ho suốt cả đêm. Cuối cùng bà đã thuyết
phục ông đi gặp bác sĩ, vị bác sĩ đã khẳng định điều mà mọi người trong gia
đình đều phải biết: Nếu bố tôi không bỏ xưởng làm yên da, ông sẽ không
sống hết tuổi thanh niên tức là dưới hai mươi tuổi.
Vấn đề bây giờ là: Ông có thể trợ giúp mẹ và các chị bằng cách nào khác
đây? Và như gia đình vẫn luôn ở trong những giây phút bối rối. Bố tôi tìm
đến hội thánh.
Những người Ạc-mê-ni Ngũ Tuần không còn thờ phượng tại phòng khách
của căn hộ ở Boston nữa. Khi những người nam đã tìm được những công
việc đây đó, thì điều đầu tiên họ làm đó là xây dựng một nhà thờ.
Đó là một công trình có hình dáng nhỏ thôi, nằm trên Phố Gless, khoảng hai
mươi thước chiều dài và mười thước chiều rộng, với những băng ghế không
có lưng tựa để có thể đẩy sát vào tường khi sự vui mừng của Chúa cảm động
hội chúng nhảy múa trong Thánh Linh. Ngay đầu phòng là bàn ăn theo
truyền thống.
Tôi có thể hình dung bố bước đến bên bàn như cha ông đã từng làm rất
nhiều lần. Ông quỳ gối trên tấm thảm nhỏ màu nâu sậm và nói lên nhu cầu
của mình, trong khi phía sau ông, những người đứng tuổi nhóm lại, có cả
Magardich và người con trai của Magardich là Aram Mushegan, là người
theo lời kể lại, mạnh đến nỗi có thể nhấc một chiếc xe ngựa lên khỏi mặt đất
để bạn sửa bánh xe. Chính Aram là người đã đã đặt ngón tay của ông lên
quyển Kinh Thánh lúc bấy giờ và đọc lớn những lời lạ lùng và đẹp đẽ này:
Ngươi sẽ được phước ở trong thành , và được phước ngoài đồng ruộng .
Bông trái của thân thể ngươi , hoa quả của đất ruộng ngươi , sản vật của sinh
súc ngươi , luôn với lứa đẻ của bò cái và chiên cái ngươi , đều sẽ được
phước ...
Đất ruộng ư? Cha tôi tự hỏi. Bầy súc vật ư? Những lời kỳ diệu trong Phục
Truyền Luật lệ ký đoạn 28 vẫn tiếp tục:
Đức Giêhôva sẽ khiến phước lành ở cùng ngươi tại trong kho lúa và trong
các công việc ngươi , Ngài sẽ ban phước cho ngươi trong xứ mà Giêhôva
Đức Chúa Trời ngươi đã ban cho ngươi .
Và khi lắng nghe, bố tôi nhận ra rằng chỉ có một điều trên thế gian nầy ông
thật muốn làm, điều mà ông suốt ngày mơ ước bên những máy cắt. Ông
muốn được làm việc với bầy bò cái và những thứ tươi tắn, xanh mởn mọc
lên ở ngoài đồng.
Nhưng phải có nhiều tiền mới mua được đất, ông tự nhắc mình mỗi khi suy
nghĩ đến đó. Bấy giờ, lời hứa trong Kinh Thánh vang vọng bên tai ông đã
đem đến một quyết định trong đầu. Bố đưa đơn xin nghỉ việc ở xưởng đóng
yên cương, và trong vòng hai tuần, không có một việc làm nào cả.
Và dường như ông đã lập tức chú ý đến một việc. Hoa quả và rau cải được
bày bán ở các cửa hàng chung quanh thành phố không những quá đắt để các
gia đình như gia đình ông có thể mua được, mà chúng còn thường nhỏ bé và
trông héo úa nữa, mặc dầu khi được hái, nó rất xanh tươi. Ông tự hỏi, nếu
như ông đi lấy các thứ rau cải thật tươi từ vùng nông thôn và đưa về Thành
phố để bán từ nhà này sang nhà kia thì sẽ thế nào nhỉ.
Vì vậy, chính ông đã dấn thân vào công việc do mình nghĩ ra. Phía đông và
nam của Thành phố Los Angeles có các nông trại nhỏ, phần nhiều trong số
đó do người Ạc-mê-ni làm chủ, là nơi sản xuất ra những loại hoa quả và rau
cải có chất lượng nhất trên thế giới. Cha tôi lấy một số tiền ông đã dành dụm
từ tháng này qua tháng kia để làm của hồi môn cho các chị em gái của mình,
và với số tiền đó, ông mua hai thứ. Một chiếc xe ngựa có thùng phẳng, và
một con ngựa hai tuổi, sắc nâu đỏ tên là Jack.
Ngày hôm sau, bố tôi đánh con Jack và chiếc toa trần ra chỗ ga đầu mối xe
lửa nhỏ gọi là Downey. Thời ấy chưa có khu phố ở ngoại ô, nhưng có một
thị trấn nhỏ cách đó mười lăm dặm trong vùng đồng quê. Mỗi chuyến đi mất
ba giờ đồng hồ, nhưng bố tôi yêu từng phút trong cuộc hành trình đó. Bầu
không khí trong sạch tươi mới, tràn ngập hai lá phổi đang bị đe dọa của ông
như đang được chữa lành.
Giấc mơ bắt đầu lớn lên trong tâm trí của bố tôi: Một ngày kia ông hẳn trở
thành một nông gia. Ông sẽ có những con bò của riêng mình, ông sẽ là một
người làm việc trong trại bò sữa. Là người chủ trại bò sữa hảo hạng trong
vùng.
Nhưng trong lúc này ông phải làm việc đã. Ngày hôm đó, tại Downey, bố tôi
đi từ nông trại này đến nông trại khác, thâu nhặt rau díp ở chỗ này, cam và
bưởi ở chỗ kia, cà rốt ở chỗ nọ, bất cứ những thứ trái cây hoặc loại rau cải
nào đang trong mùa. Thế là thùng xe chất đầy những sản phẩm ngon nhất
ông đánh xe về Los Angeles. Khi con Jack khua móng lóc cóc, lọc cọc trên
các ngã đường Thành phố, thì bố tôi rao mời các món hàng của mình: “Dâu
tây chín đây! Cam ngọt đây! Bó xôi mới hái đây!” Hàng của ông đều ngon,
giá lại vừa phải, và lần kế tiếp khi ông đến đã thấy các bà nội trợ đang mong
đợi ông.
Một năm nữa lại trôi qua. Bố tôi lúc này đã mười chín tuổi, hãnh diện để bộ
ria mép hợp thời, số tiền hồi môn đã được đặt lại chỗ cũ và còn thêm nhiều
hơn nữa. Với sức khỏe đã hồi phục và công việc làm ăn nay đã trôi chảy, bố
tôi bắt đầu nghĩ đến việc lập gia đình.
Ông đã chấm cô gái mà ông muốn sau này sẽ trở thành vợ mình rồi, một
thiếu nữ mắt đen, tóc đen mười lăm tuổi, tên là Zarouhi Yessayian, ông chưa
quen biết cô Zarouhi một cách cá nhân. Theo tục lệ của người Ạc-mê-ni,
không cô cậu nào được chuyện trò với nhau cho đến khi cha mẹ họ đã đồng
ý với nhau về việc hôn nhân. Bố chỉ biết rằng khi ông đi ngang qua căn nhà
của gia đình họ Yessayian ở số 6, Phố Gless thì tim ông đập rộn ràng trong
lồng ngực.
Bởi vì cha ông đã qua đời, nên một Trưởng lão ở hội thánh đã tiến hành thủ
tục cầu hôn Zarouhi cho bố tôi. Với những người nhà Yessayians, ông bày
tỏ triển vọng của bố: Ngay khi đã dành đủ tiền đặt cọc, bố sẽ làm lại công
việc bán rau trái và mua đất nuôi bò sữa. Sau đó người thanh niên quả quyết
rằng, không gì có thể ngăn trở anh thực hiện điều đó.
Thế là bố tôi lấy vợ. Chẳng bao lâu sau, ông và mẹ tôi đã mua được mười
mẫu Anh các cánh đồng ngô, trồng cây bạch đàn, và vùng đồng cỏ ở trung
tâm Downey, và tuyệt hơn cả là ba con bò sữa. Bằng chính tay mình, ông và
mẹ tôi đã xây dựng một ngôi nhà nhỏ bằng loại ván gỗ chưa thành phẩm. Mẹ
thường bảo đó là một căn nhà nhỏ dễ lau rửa. Bởi vì các tấm ván dưới bề
rộng 12 inches hở nhau đến nỗi nước cọ rửa sàn chỉ việc chảy qua các khe
hở thấm xuống nền đất bên dưới.
Với phần mở đầu, tôi nhận biết rằng đang khi ngồi hồi tưởng trong chiếc ghế
phòng khách cũ kĩ bầu trời đã ửng nhạt đàng sau những hàng cây cam. Dầu
vậy sự suy tưởng của tôi vẫn cứ vơ vẩn ở thời quá khứ ấy. Vào ngày 21
tháng bảy năm 1913, ngay trước khi bố mẹ tôi hoàn tất căn nhà nhỏ bằng
ván tại Downey, đứa con đầu lòng của họ đã ra đời. Không giống như ông
nội tôi, đã phải chờ đợi quá lâu để có một đứa con trai, đứa con đầu lòng của
bố mẹ tôi là đứa con trai. Bố mẹ gọi tôi là Demos.
Bên cạnh tôi, trên bàn là chiếc ấm đun trà to bằng đồng, chính là chiếc ấm
ông tôi đã mang trên lưng từ Kara kala, đang bắt lấy ánh sáng buổi sớm mai.
Tôi quay nhìn nó, các mặt được đánh bóng kĩ vàng rực trong ánh rạng đông,
và tôi tự hỏi không biết khi đặt tên tôi theo tên của ông nội, cha mẹ tôi có
đoán định rằng vai trò của lời tiên tri huyền nhiệm và dường như có ảnh
hưởng sâu rộng cũng sẽ phải xảy đến trong cuộc đời tôi chăng.
Đại Lộ Union Pacific
Dầu đã dời đến Downey khi tôi được tám tháng, bố mẹ tôi vẫn tiếp tục dự
nhóm ở ngôi nhà thờ nhỏ nằm trên đường Gless. Bố nói rằng chính từ hội
thánh mà những người Ạc-mê-ni đã tìm được sức mạnh. Bố đã dạy tôi hai
kỷ năng vào cùng một thời gian. Ngay khi đôi tay tôi đã lớn đủ, ông dạy tôi
cách vắt sữa. Và ngay khi tôi đủ cao để đứng trên một cái thùng đựng cam
mà với tới đầu con ngựa Jack thì ông đã chỉ cho tôi cách điều khiển nó. Một
trong số những kỷ niệm đầu tiên của tôi là việc buộc con Jack vào cỗ xe độc
mã và cùng gia đình, bấy giờ tôi đã có thêm hai cô em gái, Ruth và Lucy, lên
đường đến nhà thờ.
Chuyến đi vẫn phải mất hết ba tiếng đồng hồ mỗi lần, và buổi nhóm có cả
buổi ăn trưa kéo dài đến năm giờ. Tôi vui hưởng từng điều một. Tôi thích
nhìn xem những nông gia bắp thịt cuồn cuộn và những tá điền vung tay lên
không khi Thánh Linh tuôn đổ trên buổi nhóm, những khuôn mặt hướng lên
trời cho đến khi bộ râu đen dài của họ chỉa thẳng ra, song song với mặt bàn.
Tôi ưa thích được nghe những giọng nói trầm trầm ấm áp của họ khi hát
những bài Thánh ca Ạc-mê-ni cổ xưa.
Ngay cả những bài giảng cũng có sức mê hoặc, bởi vì lúc ấy quá khứ trở nên
sống động, trong ngôi nhà thờ nhỏ bé có khung gỗ ở Phố Gless. Người giảng
luận sẽ nhắc nhở cho chúng tôi rằng Ạc-mê-ni là quốc gia Cơ đốc cổ nhất
thế giới, và cũng là quốc gia chịu đau khổ nhiều nhất vì cớ niềm tin của
mình. Những cuộc thảm sát gần đây của người Thổ nhĩ kỳ chỉ là những cuộc
tàn sát mới nhất trong hồ sơ ghi chép về những nỗ lực man rợ của những kẻ
láng giềng nhằm tiêu diệt đất nước nhỏ bé song bướng bỉnh này, và với việc
không ngớt kể lại lịch sử dân tộc của chúng tôi, nó đã trở thành xương thịt
của đất nước chúng tôi.
“Chính vào năm 287” vị Mục sư bắt đầu giảng “một vị thánh trẻ tuổi là
Gregory tự hỏi liệu ông có dám trở về quê nhà yêu dấu ở Ạc-mê-ni không.
Gregory đã bị thất sủng đối với nhà vua và bị đày khỏi xứ sở, nhưng thời
gian bị lưu đày ấy ông đã nghe được sứ điệp Cơ đốc cuối cùng, dầu rất nguy
hiểm ông vẫn quyết định trở về rao giảng, chia xẻ Tin lành với những người
ở quê hương mình.
Chẳng bao lâu, nhà vua hay tin về việc chàng thanh niên trở về, đã bắt giữ
anh và tống vào căn hầm tù sâu nhất của tòa lâu đài để cho anh ta chết đói.
Nhưng con cái của đức vua vào những dịp không phải ở trước mặt vua đã
được nghe lời giảng của Gregory, và đã trở thành những Cơ đốc nhân. Vị
Mục sư đã vẽ ra một hình ảnh thật sống động về người phụ nữ trẻ lén lút
xuống những bậc thang bằng đá ẩm ướt để đến được hầm tù tăm tối, tanh
hôi, giấu trong mình một ổ bánh mì hoặc một bầu sữa dê bên dưới chiếc áo
choàng xếp li. Trong suốt mười bốn năm cô đã tiếp tục giữ cho vị Thánh ấy
còn sống.
Vào lúc ấy một chứng bệnh ghê gớm bắt lấy nhà vua, một chứng tâm thần
quái đản ném nhà vua xuống sàn và gầm gừ như một con vật. Trong những
lúc tỉnh táo ông van nài các danh y hãy chữa cho ông được khỏi, nhưng
không ai làm được.
“Người đàn ông tên Gregory có thể giúp cha” cô con gái ông đề xuất.
“Gregory đã chết từ nhiều năm rồi” nhà vua giận dữ nói. “Xương hắn ta đã
mục rửa dưới chính tòa lâu đài nầy”
“Ông ta vẫn còn sống” cô khẽ nói, và thuật lại mười bốn năm dài canh giữ.
Gregory được mang lên khỏi hầm tối, tóc ông ta trắng xóa như tuyết trên
đỉnh Ararát, nhưng tâm trí và tinh thần thì vẫn mạnh mẽ. Trong danh của
Đức Chúa Jesus Christ, ông quở Quỷ đã hành hạ nhà vua và lập tức, vua
được chữa lành. Năm 301, nhà Vua cùng Thánh Gregory khởi sự giành được
sự cải đạo cho toàn thể xứ sở Ạc-mê-ni.
Trên con đường dài trở về nhà, tôi hồi tưởng lại câu chuyện một lần nữa, suy
nghĩ về con người kiên trì tại ngục tối, bị nhốt kín từ năm này sang năm nọ,
vẫn không hề mất đức tin, cứ chờ đợi đến đúng thời điểm của Đức Chúa
Trời.
Khi người cuối cùng trong sáu cô con gái của mình đã lấy chồng, bà nội đến
ở với chúng tôi trong căn nhà ván nhỏ bé. Tôi còn nhớ rất rõ về bà, một bà
cụ nhỏ nhắn với mái tóc bạc trắng, đôi mắt sáng ngời niềm tự hào về người
con trai duy nhất của bà. Nỗi buồn duy nhất của bà, như bà vẫn thường nói,
là ông Demos đã không còn sống để nhìn thấy dòng họ nhà Shakarian một
lần nữa lại dựa trên miếng đất của chính mình. Bà Goolisar qua đời tại đó,
trong gian buồng nhỏ. Bà là một người phụ nữ hạnh phúc và toại nguyện.
Thế rồi khi tôi lên mười, công việc ở trại bò sữa phát triển. Ba con bò sữa đã
thành ra ba chục, rồi đến một trăm, và rồi lên đến năm trăm con, và mười
mẫu đất lúc đầu nay đã tăng lên hai trăm mẫu. Bây giờ, bố tôi mơ làm chủ
một trại bò sữa rộng lớn nhất và hoàn hảo nhất vùng California. Nếu sự lao
động sẽ dẫn đến niềm mơ ước đó, thì sẵn sàng làm việc, bởi vì bố biết cách
làm việc và cũng biết cách điều động những người còn lại trong chúng tôi
làm việc nữa.
Bây giờ còn có cả một gian nhà xây cho các công nhân làm việc ngủ lại, đầy
những người Mỹ gốc Mêxicô cùng làm việc bên cạnh chúng tôi trong các
nhà to, bố và tôi đã học nói tiếng Tây ban nha. Tôi không biết ai ưa thích
chuyện của ai hơn: Những câu chuyện của họ về Mêhicô hay là những kỷ
niệm của bố về đời sống ở tại Ạc-mê-ni. Họ thường không được nghe đầy
đủ về Efim, cậu bé Tiên Tri hoặc về chuyện Magardich Mushegan báo trước
việc bố ra đời. Mỗi lần có một người mới vào làm với chúng tôi là bố phải
kể tất cả các câu chuyện lại một lần nữa.
Về sau, ông cứ luôn phải thuật lại đám tang của Efim năm 1915, đó là một
tang lễ long trọng nhất mà khu chung cư Los Angeles từng được chứng kiến.
Ông Efim không dự nhóm với hội thánh ở Phố Gless (là nơi các buổi nhóm
đều nói tiếng Ạc-mê-ni) mà ông nhóm với hội thánh nói tiếng Nga ở cách đó
vài dãy phố. Trong ngày cử hành tang lễ vĩ đại đó, không những hai hội
chúng kể trên cùng nhau hiệp lại, mà cả những người Ạc-mê-ni và người
Nga theo Chính Thống giáo cũng đã bỏ qua những ý kiến chống đối trước
“sự tiếp tục phát triển của giáo phái Ngũ tuần tự do” và đã tham dự buổi
nhóm, vì rất nhiều người trong số họ cũng đã đến đất Mỹ vì cớ lời tiên tri ấy.
“Còn về lời tiên tri thứ hai thì thể nào? Những người Mỹ gốc Mêhicô sẽ hỏi.
“Là điều vẫn chưa xảy ra cơ mà?”
“Nó vẫn được giữ an toàn. Con trai Efim còn giữ nó”
“Và nếu mở nó bạn sẽ chết phải không”
“Trừ khi bạn là một tiên tri được Chúa chỉ định”
“Theo bạn nghĩ, ai sẽ là vị tiên tri đó”
Dĩ nhiên là chẳng có ai biết được câu trả lời đó.
Vào khoảng thời gian cậu bé Tiên Tri qua đời, tôi bị một sự thương tật gây
cho tôi thật nhiều vấn đề.
Thậm chí tôi đã không hề biết làm thế nào mà tôi đã bị dập mũi. Một cậu bé
mười tuổi làm việc ở khắp chỗ trong trại thì hẳn va đầu sứt trán nhiều lần.
Dẫu sao, khi tôi bắt đầu nhận ra rằng mình không nghe rõ như những đứa trẻ
khác trong lớp năm, thì mẹ tôi liền đưa tôi đến bác sĩ.
Vị bác sĩ bảo “thưa bà Zarouhi, vấn đề thể nào thì tôi có thể cho bà biết,
nhưng phải làm cái gì thì không chắc. Cậu Demos đã bị dập mũi và khi lành
đã có sự cố. Cả lỗ mũi lẫn các ống tai đầu bị nghẽn. Chúng tôi có thể thử
làm phẫu thuật, nhưng thường không thành công lắm”.
Và họ cũng đã không thành công trong trường hợp của tôi, hầu như, cứ mỗi
năm, tôi lại phải đến bệnh viện để có một cuộc giải phẫu nữa, và cứ mỗi
năm, các ống tai lại càng khép chặt. Ở trường, tôi phải ngồi ngay dãy đầu để
nghe hết những gì thầy giáo nói.
Mặc dầu không lúc nào Chúa Jesus không là người bạn thân của tôi, song
trong những tháng này, khi chứng điếc của tôi trở nên tồi tệ hơn, thì dường
như Ngài lại càng gần gũi tôi hơn bao giờ hết. Tôi không còn được nhập bạn
với những cậu bé khác trong các trò chơi sau giờ học nữa (“đừng rủ thằng
Demos, nó chẳng nghe gì cả”) vì vậy tôi rất cô độc. Song tôi không quá
phiền muộn. Công việc mà tôi ưa thích trong trang trại là cuốc cỏ bắp, bởi vì
lúc đó tôi có thể đi xa mãi tận các cánh đồng và trò chuyện lớn tiếng với
Chúa. Hai mùa hè năm tôi lên mười hai và mười ba, đối với tôi dường như
các rãnh bắp là những lối đi dài đan lờ mờ giống như lối đi trong ngôi giáo
đường màu xanh lá cây có những cánh lá có gân lớn làm thành vòm khung ở
trên đầu. Ở đó tôi đưa hai tay lên làm như những người đàn ông đã làm tại
nhà thờ:
“Xin cho con nghe lại được, lạy Chúa Jesus! Xin đừng nghe vị bác sĩ nói con
sẽ không đỡ hơn”
Tôi còn nhớ từng chi tiết ngày Chúa nhật đó năm 1926, khi tôi đã mười ba
tuổi. Tôi còn nhớ đã thức dậy và thay quần áo trong phòng mình ở tận lầu
hai trong ngôi nhà mới của chúng tôi. Bấy giờ, bố tôi đã có một ngàn con bò
sữa, và đã xây một ngôi nhà hai tầng theo kiểu Tây Ban Nha với các bức
tường tô xi măng trắng và mái ngói đỏ.
Tôi cảm thấy vui vẻ khi thay đồ đi nhà thờ. Vui vẻ một cách dễ chịu như thể
toàn thân tôi đang ở trong một loại giai điệu tâm linh đặc biệt nào đó. Tôi đi
xuống cầu thang dài hình cong để hát trong bữa điểm tâm. Bố mẹ và các em
tôi đều đã sẵn sàng nơi bàn ăn. Lúc bấy giờ đã có ba cô em gái thêm vào gia
đình. Đứa bé nhất, Florence, vẫn còn là một em bé hai tuổi, còn bốn đứa lớn
hơn vẫn huyên thuyên sôi nổi về chuyến đi hàng tuần của chúng tôi lên phố.
Tôi cố nhập bọn nhưng chẳng bao lâu đã bỏ cuộc. Bạn làm thế nào để nói
chuyện với những người nói lí nhí, chẳng nghe được gì cả?
Jack, con ngựa già của chúng tôi, không còn kéo cỗ xe nhà độc mã đi mười
lăm dặm đến nhà thờ mỗi sáng Chúa nhật nữa. Năm ngoái khi nó được mười
sáu tuổi, bố tôi đã thả nó ra ngoài đồng cỏ để hưởng phần còn lại của đời nó
trong chế độ hưu thật xứng đáng. Thay chỗ của nó, bây giờ chúng tôi đã có
một chiếc xe du lịch dài màu đen Studebaker, trần bằng vải bạt và có một cái
thùng gồm các trục dự phòng nằm bên dưới chỗ ngồi sau dành cho những
con đường gồ ghề trong nông trại.
Ngày Chúa nhật hôm đó, ngôi nhà thờ nhỏ rầm rì với sự náo động. Không ai
trong phòng nhóm là không biết điều đã xảy ra vào tuần lễ trước, vì bà mẹ
của một phụ nữ trong hội chúng đã rời Ạc-mê-ni từ hai tháng trước để đến
với con gái của mình tại Hoa kỳ. Kể từ đó không hề có tin tức gì về bà, và
người con gái này đang lo lắng phát cuồng. Đang khi hội thánh bắt đầu cầu
nguyện cho hoàn cảnh ấy, thì chồng bác Esther, là ông George Stepania,
thình lình đứng lên và bước ra ngoài cửa. Ông đứng đó một hồi lâu chăm
chú nhìn ra đường phố như thể nhìn thấy tận chân trời xa. Cuối cùng, ông
nói “Mẹ cô mạnh khỏe, ba ngày nữa bà sẽ đến Los Angeles”.
Ba ngày sau, bà cụ đến nơi.
Và vì vậy, ngày hôm nay, trạng thái chờ đợi của mọi người đang dâng cao,
ai nấy đều tự hỏi không biết hình thức chúc phước kế tiếp của Chúa sẽ là
điều gì. Có thể có người sẽ được chữa lành. Có thể có người sẽ nhận được sự
hướng dẫn...
Ngay khi tôi đang suy nghĩ về điều đó, một việc lạ lùng đã bắt đầu xảy ra,
không với ai khác, mà là tôi. Đang khi ngồi ở dãy ghế ngoài cùng với những
cậu bé khác, tôi cảm thấy có cái gì giống như chiếc mền len nặng trĩu đặt lên
hai vai tôi. Tôi nhìn quanh hoảng hồn, nhưng không có ai chạm đến tôi cả.
Tôi thử cử động hai cánh tay, nhưng không được, y như tôi đang kéo chúng
ở trong nước.
Thình lình, hàm răng tôi đánh lộp cộp với nhau như đang run vì lạnh, mặc
dầu “chiếc mền” thì có cảm giác ấm. Các bắp thịt ở cổ sau bị thắt chặt. Tôi
có một nỗi khao khát bất chợt muốn nói với Chúa Jesus rằng tôi yêu Ngài,
nhưng khi tôi mở miệng để nói điều đó thì lại tuôn ra những lời mình không
thể hiểu. Tôi biết chúng không phải tiếng Ạc-mê-ni, tiếng Tây Ban Nha, hay
tiếng Anh, nhưng chúng xuất phát từ tôi như thể cả đời tôi đã nói thứ tiếng
ấy. Tôi quay sang cậu bé ngồi bên và cứ thấy nó nhe răng cười.
“Demos đã nhận được Thánh Linh” nó nói lớn tiếng và mọi người trong nhà
thờ đều quay lại. Có ai đó hỏi tôi một câu, và mặc dầu hoàn toàn hiểu, tôi chỉ
có thể trả lời bằng những âm thanh lặp bặp, bày tỏ sự vui mừng. Cả hội
chúng bắt đầu ca hát và ngợi khen Chúa trong sự vui mừng đang khi tôi thờ
phượng Ngài bằng thứ tiếng mới của mình.
Thậm chí vài giờ sau, trên đường đi về nhà, hễ ai nói chuyện với tôi cũng
đều được trả lời bằng tiếng lạ. Tôi lên lầu, vào phòng mình đóng cửa lại,
những âm tiết vui sướng không thể hiểu được vẫn tuôn tràn ra từ môi miệng
tôi. Tôi thay bộ đồ ngủ và tắt đèn. Ngay giây phút đó ý thức về sự hiện diện
của Đức Chúa Trời tràn ngập tôi mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Dường như sự
bao phủ vô hình đã ở trên hai vai tôi cả buổi chiều đã trở thành nặng nề
không thể chịu nỗi, mặc dầu không muốn làm vậy, tôi mọp xuống sàn và
nằm trên tấm thảm, hoàn toàn bất lực, không thể đứng dậy mà leo lên
giường nỗi. Đó không phải là một từng trải gây sợ hãi, song là một kinh
nghiệm bổ dưỡng và tươi mới, giống như giây phút đặc biệt ngay trước khi
bạn chìm vào một giấc ngủ say.
Khi tôi nằm trong phòng mình như vậy, thời gian bắt đầu mang một giá trị
đời đời và trong cõi đời đời đó tôi nghe một tiếng nói. Chính là tiếng nói mà
tôi thật sự nhận ra rất rõ, bởi vì tôi đã từng nghe tiếng phán ấy trong ngôi
giáo đường xanh lá cây của tôi ở ngoài cánh đồng ngô.
Demos, con ngồi lên được chăng?
Tôi cố thử, song vô hiệu. Có một sức mạnh nào đó, mạnh mẽ khác thường,
song êm dịu vô cùng giữ tôi lại ở đó. Tôi biết mình là một cậu bé khỏe mạnh
như Aram Mushegan, rất dai sức đúng với một cậu bé mười ba tuổi. Thế mà
các bắp thịt của tôi không còn sức lực, tệ hơn cả một con bê con mới đẻ.
Tiếng phán ấy lập lại một lần nữa. Demos, con có bao giờ nghi ngờ quyền
năng của ta chăng?
“Lạy Chúa, không ạ”
Câu hỏi ấy được lập lại ba lần. Cả ba lần tôi đều trả lời. Thế rồi lập tức tất cả
sức mạnh đang ở chung quanh tôi dường như cũng vào cả bên trong thân thể
tôi nữa. Tôi cảm thấy một năng lực siêu nhiên trào dâng. Làm như tôi có thể
bay bỗng ra khỏi nhà và lướt trên bầu trời bằng quyền năng của Đức Chúa
Trời. Tôi cảm thấy như thể mình có thể nhìn xuống trái đất từ cái nhìn của
Đức Chúa Trời, nhìn thấy mọi nhu cầu của con người theo lợi thế từ sự cung
ứng của Ngài. Và suốt thời gian đó Ngài thì thầm với lòng tôi: Demos,
quyền năng là quyền thừa kế tự nhiên của mỗi một Cơ đốc nhân. Demos,
con hãy nhận lấy quyền năng.
Và thình lình trời rạng đông. Tôi có thể nghe được tiếng chim nhại ở ngoài
cửa sổ.
Tôi ngồi dậy và bắt đầu nghe được. Tôi nghe được gì thế? Đã nhiều năm tôi
không nghe tiếng chim hót.
Tôi nhảy lên, cảm thấy hoàn toàn và sống động một cách kỳ diệu, và mặc
quần áo một cách khó khăn. Đã hơn năm giờ sáng, bố và tôi đều phải có mặt
ở nơi vắt sữa đúng 5g30. Khi tôi mở cửa phòng vào buổi sáng lạ thường ấy,
tôi đã nghe tiếng trứng chiên kêu xèo xèo ở trong bếp.
Tiếng lách cách của bát đĩa, tiếng chim hót, và tiếng lép kép của từng bước
chân khi tôi phóng xuống thang lầu lát gạch đỏ, đúng là những âm thanh nhỏ
nhặt mà tôi không nhận biết là mình đang thiếu mất. Tôi lao vào bếp “bố,
mẹ! Con nghe được rồi”
Sự chữa lành không bao giờ hoàn toàn. Khi mẹ và tôi trở lại với vị bác sĩ,
ông khám phá rằng 90 phần trăm đã nghe được bình thường. Vì sao 10 phần
trăm còn suy kém tôi không biết, và tôi cũng chẳng quan tâm đến. Tôi còn
nhớ, sau đó cũng vào buổi sáng thứ hai đó, khi công việc vắt sữa đã xong, đi
một mình đến nơi giáo đường màu xanh lá cây. Những cây bắp đã cao,
chuẩn bị thu hoạch. Tôi ngồi xuống giữa hai luống bắp, bẻ một trái, và nhâm
nhi những hạt bắp nhỏ vọt chất sữa ra. “Lạy Chúa” tôi nói “con biết khi Ngài
chữa lành cho người ta là bởi vì Ngài muốn giao công việc cho họ thực
hiện.”
“Chúa ơi, Ngài có tỏ cho con công việc mà Ngài dành cho con chăng?”
Thoạt đầu, cũng như những cậu bé khác trong lớp mới trở thành những ngôi
sao bóng rỗ, còn tôi, tôi mơ trở thành một nhà tiên tri. Lúc xảy ra biến cố ấy
tôi chỉ lớn hơn cậu bé Tiên Tri một chút khi cậu có khải tượng.
Nhưng năm tháng trôi qua, tôi không nhận được ân tứ kỳ diệu nầy. Lời tiên
tri sẽ đóng một vai trò quan trọng trong đời sống con, nhưng con sẽ không
trở thành nhà tiên tri. Dường như Chúa đang phán lời ấy.
Thế rồi một ngày kia tôi có được một kinh nghiệm khiến tôi tự hỏi không
biết có phải mình trở thành một người chữa bệnh hay không. Đứa em gái út
của tôi là Florence được sáu tuổi khi em ngã trúng ống trụ ở ngoài kho và bị
vỡ xương khuỷu tay phải. Ngay khi các nhà giải phẩu và vị chuyên gia về
xương đã hoàn tất công việc của họ, và đều tin rằng Florence vẫn sử dụng
được tay của mình. Nhưng khuỷu tay sẽ không bao giờ gập lại được và cứ
cứng nhắc. “Khi nào tháo băng bột, chúng tôi có thể bắt đầu điều trị. Với sự
kiên trì, cô bé có thể phục hồi hai mươi phần trăm hoạt động của khớp
xương nhưng đó là khả năng cao nhất mà chúng tôi có thể trông mong”
Một ngày Chúa nhật không lâu sau lời tường trình đó, tôi có lại cảm giác của
một chiếc mền ấm áp và nặng, đè lên hai vai mình. Tôi không cần thắc mắc
đấy là ai, cũng không phải hỏi mình phải làm gì: Tôi phải băng ngang phòng
nhóm để cầu nguyện chữa lành cho cánh tay của Florence.
Vì vậy, trong lúc mọi người đang hát Thánh ca thì tôi yên lặng đứng lên, rời
khỏi băng ghế mình và bước qua khu vực dành cho phụ nữ. Tôi cúi mình
xuống và nói với Florence, lúc này đang ngồi ở băng ghế sau cùng, cánh tay
phải của em được bó trong khuôn bột khổng lồ. Độ ấm của chiếc mền lan
truyền xuống hai cánh tay tôi và dẫn đến hai bàn tay.
“Florence” tôi khẽ nói “anh sẽ cầu nguyện cho khuỷu tay của em”
Đôi mắt to đen của em ngước nhìn tôi một cách trang trọng. Tôi đặt hai tay
mình lên khuôn bột. Thật sự, tôi thật khó mà cầu nguyện được gì, mà chỉ
đứng yên ở đó để cảm nhận một luồng lửa nóng chạy xuống hai cánh tay, hai
bàn tay dẫn đến chỗ bó bột bọc quanh khuỷu tay của Florence.
“Em thấy rồi” Florence thì thào “em thấy nóng” chỉ có thế thôi.
Đó là tất cả. Trong giây lát cảm nhận về sự bao phủ ở trên tôi và tôi trở về
chỗ mình. Tôi ngờ rằng có đến sáu, bảy người đã để ý chúng tôi.
Vài tuần sau em tôi đi tháo bột băng. Chiều hôm đó, tại bàn ăn, mẹ kể lại
cho chúng tôi thế nào vị chuyên gia đã đặt một tay vào chỗ làn da trắng ở
khuỷu tay Florence, tay kia ông giữ cổ tay em và thận trọng thử duỗi thẳng
cánh tay bị thương từng phân một. Khi cánh tay đã đưa hoàn toàn về vị trí
cũ, rồi đưa tới, đoạn quay được một vòng rộng quanh khuỷu tay, thì nét mặt
ông đột nhiên nở một nụ cười hoài nghi. “Tốt rồi...!” ông cứ bảo vậy “ôi!
Tốt hơn điều tôi mong đợi. Tốt hơn nhiều! Ôi tại sao mà nó...nó lại giống
như cánh tay chưa hề bị gãy thế này?”
Vì thế, mùa hè năm ấy ở tại cánh đồng ngô, tôi thấy mình đang hỏi Chúa
rằng có phải chữa lành là công việc của Ngài dành cho tôi chăng. Dường
như một lần nữa tôi lại nhận được câu trả lời: Tất nhiên. Ta muốn hết thảy
hội thánh Ta đều làm công việc đó. Con sẽ thấy nhiều sự chữa lành kỳ diệu,
một số bởi chính tay con. Nhưng Demos, đó cũng không phải là công việc
đặc biệt ta dành cho con.
Tôi đã mười bảy tuổi mà mới học lớp mười Trung học, đáng lẽ tôi đã lên lớp
mười hai của trường Trung học, nhưng tôi đã mất hai năm vì chứng điếc, khi
ấy bố tôi đã mua một nông trại thứ hai. Bấy giờ chúng tôi đã có chỗ để xây
cất những tháp cao chứa thức ăn cho gia súc, và đủ vốn để lắp đặt các hệ
thống máy vắt sữa tự động. Bố tôi cũng đang bắt đầu những công việc khác.
Một vấn đề gây đau đầu cho chúng tôi và những nông gia lân cận trong trại
bò sữa đó là chúng tôi phải luôn luôn đưa sữa từ nông trại đến nhà máy đóng
chai. Vì vậy bố tôi bắt đầu một công việc vận chuyển sữa. Sau đó, bố để ý
thấy giá thịt heo chà bông ở Los Angeles rất cao, nên ông cũng bắt đầu nuôi
lợn thịt để đóng hộp.
“Đức Giêhôva sẽ khiến phước lành ở cùng ngươi trong các công việc
ngươi”. Dường như đúng là mọi điều Ysác đứa con trai của lời hứa, đụng
vào, đều được định rằng sẽ thịnh vượng.
Sự thành công của ông hoàn toàn đáng chú ý hơn bởi vì lúc này là những
năm suy thoái trầm trọng của đầu thập kỷ ba mươi. Bấy giờ bố đã cho tôi
quản lý một bầy súc vật nhỏ, và tôi còn nhớ vị giáo sư giúp tôi lập sổ sách kế
toán đã báo cho tôi biết với một vẻ tiếc rẻ rằng với ba mươi con bò cái, tôi
có thể kiếm nhiều hơn tất cả các giáo sư ở tại Trường Trung Học Downey.
Gia đình tôi lúc bấy giờ đã thu hút sự chú ý của các nhà chính trị, những nhà
doanh thương và các vị lãnh đạo cộng đồng, mẹ tôi, từ một thiếu nữ e thẹn
nhập cư từ Ạc-mê-ni, nay trở thành bà chủ, tiếp đón và chiêu đãi các buổi dạ
tiệc hàng tuần cho những nhân vật có quyền thế hoặc lỗi lạc. Bà thật sự là
một người nấu ăn tuyệt vời và chẳng bao lâu những món ăn của bà như món
dolmas, kuftas và katahs đều đã nổi tiếng khắp miền Nam California.
Nhưng điều chủ yếu mà tôi còn nhớ được về việc nấu nướng của mẹ tôi đó
là dẫu người khách là ai bà vẫn quan tâm đến họ như nhau. Những kẻ lang
thang thất nghiệp là những vị khách ghé thăm thường xuyên trong những
ngày ấy; và họ cũng được đối xử như vị thị trưởng Downey: Chén bát sứ đẹp
nhất, các đĩa muỗng nĩa bằng bạc, khăn phủ bàn. Nếu bữa ăn nóng chưa sẵn
sàng, thì bà sẽ chuẩn bị cho họ một bữa với thịt, rau cải và bánh nướng làm
tại nhà và lúc nào cũng giục giã họ bằng thứ tiếng Anh còn hạn chế của
mình “ngồi, ăn đi đừng có vội vàng!”
Trong lúc ấy tôi thấy mình ngày càng thường xuyên bị kéo đến một địa chỉ
khác. Hễ khi nào công việc trang trại khiến tôi phải đến phía Đông Los
Angeles, thì tôi lại tìm một cái cớ để đi vớ vẩn qua ngôi nhà màu kem, có
những dây leo mọc dài ở số 4311 Đại lộ Union Pacific của dòng họ Sirakan
Gabriehian, với hy vọng rằng cô con gái của họ bất ngờ xuất hiện ở trong
sân. Không phải để được nói chuyện cùng nàng dầu cho nàng có đồng ý (bởi
vì những cuộc trò chuyện nam nữ, trừ khi hai người đã hứa hôn, vẫn không
nghe nói đến trong cộng đồng của những người Ạc-mê-ni). Song chỉ để biết
rằng cô ta đang ở gần và điều đó tràn ngập lòng tôi một niềm hạnh phúc khó
tả.
Và luôn luôn có những ngày Chúa nhật để mà trông ngóng. Chúa nhật là
ngày Rose Gabrielian sẽ ngồi với những cô gái khác bên dãy ghế dành cho
phụ nữ trong nhà thờ, nàng là cô bé xinh đẹp nhất phòng, là người mà tất cả
các chàng trai đều kín đáo dõi mắt theo.
Tên thánh của cha cô là Sirakan, có nghĩa là người yêu, theo tiếng Ạc-mê-ni,
tôi thích gọi tên đó. Giống như bố tôi, Sirakan đã bắt đầu từ chỗ không có gì
cả. Cuối cùng ông đã thâu góp được một trăm mỹ kim, và cũng như bố tôi,
đã mua một con ngựa và một thùng xe. Tuy nhiên, thay vì chuyên chở trái
cây và rau cải bằng phương tiện của mình, ông Sirakan bước vào công việc
thu gom phế phẩm. Đó là một dịch vụ rất cần thiết ở tại Los Angeles ngay
sau khi chuyển sang thế kỷ mới, và chẳng bao lâu sau ông đã mua được một
con ngựa và một cỗ xe thứ hai, rồi đến thứ ba.
Sirakan và gia đình ông đều là những người Ạc-mê-ni theo Chánh Thống
Giáo. Ông sống gần nhà thờ ở phố Gless. Tuy nhiên, khi nghe được những
âm thanh vui vẻ vang vọng ra từ những khung cửa sổ để ngỏ tuần này sang
tuần khác ông quyết định tìm hiểu sự thật. Sau một thời gian dài, ông đã gia
nhập hội thánh chúng tôi và vì cớ ấy mà suýt mất mạng. Đối với nhiều người
Ạmêni theo Chánh Thống Giáo, những người theo giáo phía Ngũ Tuần được
xem như là những người phản bội niềm tin cũ. Tìm thấy một người trong hội
mình gia nhập vào nhóm người đáng ghét này thì cũng giống như thấy người
đã chết.
Vì vậy họ quyết định chôn ông ta.
Một ngày kia khi Sirakan dừng xe ở bãi rác của Thành phố với đống phế thải
ngập xe, thì một nhóm những người theo Chánh Thống Giáo đã đợi ông ở
đấy. Họ trói tay chân của ông lại và khiêng ông đến một cái hố mà họ đã đào
sẵn chỗ bãi cát. Họ ném ông xuống đó và thật sự đã lấp mấy tấc đất lên trên,
rồi vào lúc đó có một chiếc xe do những người Ngũ tuần đánh ngựa chạy
đến, và giữa cuộc xô xát tiếp theo đó Sirakan chui ra một cách rất vất vả.
Tôi ưa nghe ông kể câu chuyện ấy. Tôi cũng thích nghe ông kể về chuyện
ông lấy vợ nữa. Khi Sirakan hai mươi mốt tuổi, cha ông quyết định quay về
Ạc-mê-ni để tìm một người vợ, mẹ Sirakan đã mất từ nhiều năm trước. Công
việc chở phế phẩm của Sirakan lúc bấy giờ cũng đang phát đạt, vì vậy ông
xin cha mình cũng hãy dẫn về cho ông một cô dâu nữa.
Cha Sirakan đã thành công trong cả hai cuộc tìm kiếm. Về phần con trai
mình, ông đã chọn được một cô gái xinh xắn mười ba tuổi tên là Tiroon
Marderosian. để thuận tiện cho việc nhập cư vào Hoa Kỳ, cô được kết hôn
theo sự ủy nhiệm ở tại Acmêni, sau đó lên đường trong cuộc hành trình dài
để về sống với người chồng mà cô chưa hề biết mặt. Về sau họ mới biết rằng
mình là những người may mắn thoát chết. Chỉ một vài tuần lễ sau đó, người
Thổ nhỉ kỳ tấn công vùng đất ấy và hai cô dâu là những người cuối cùng rời
khỏi làng mà còn sống.
Việc chào đón Tiroon đến Los Angeles hẳn phải là một chuyện lạ đời nhất
mà người vợ quá trẻ như cô từng được kinh nghiệm. Sirakan đã không nghĩ
rằng cha mình và hai người phụ nữ kia sẽ đến cho tới ngày hôm đó, ông trở
về, từ bãi rác Thành phố, bắt gặp một cô bé với cái nhìn khiếp sợ đang đứng
ở phòng khách. Anh giật mình nhận ra rằng cô ta hẳn phải là vợ mình, mà
anh thì đang đứng đấy từ đầu đến chân phủ đầy bụi bặm.
“Hãy đứng đấy” anh ta hét lên với cô. “Đứng yên đấy” như thể là cô gái
đáng thương ấy đang sắp chạy đi đâu đấy. Anh ta chạy ù ra sau nhà và nửa
giờ sau, tắm rửa sạch sẽ, đầu chải gọn gàng và cảm thấy như cô ấy có cái gì
đó rất gần gũi với cuộc đời mình, Sirakan, “người yêu Gabrielian bắt đầu nói
lời chào mừng chính thức với người thiếu nữ rất trẻ mà gương mặt lúc bấy
giờ đã dịu đi vẻ căng thẳng.
Họ chính là bố mẹ của Rose, là những người rồi đến một ngày kia sẽ chọn
một người chồng cho cô. Song tôi không bao giờ được tiếp xúc trực tiếp với
họ để cầu hôn con gái họ. Trong hoàn cảnh của tôi cũng như trong hoàn
cảnh của cô ấy, chính gia đình là người phải đứng ra lo liệu.
Tôi run làm sao trong buổi tối mà tôi phải mở miệng trình bày vấn đề của
mình. Vào một buổi chiều tháng sáu năm 1932, cả gia đình ngồi quanh bàn
ăn ở phòng khách, những cánh cửa hình vòng cung đều mở để đón gió.
“Thưa bố, con biết bây giờ con đã mười chín tuổi” tôi nói.
Bố tôi chùi hàm râu mép và cắt một miếng thịt bò khác.
“Và” tôi vội tiếp “con sắp tốt nghiệp Trung học. Và con cũng đang giúp cho
các trang trại được sinh lợi thưa bố, bố cũng mười chín tuổi khi bố cưới vợ
ạ”
Cả năm cô em gái tôi đều dừng ăn. Mẹ tôi đặt nĩa xuống bàn. Có phải là một
cô gái đặc biệt không? Mẹ hỏi. Vâng ạ. Cô ấy là người Ạc-mê-ni? Vâng ạ.
Thế cô ấy có phải là Cơ đốc nhân không? Ô, thưa mẹ vâng.
“Đó là” tôi mở miệng “Cô..cô ấy chính là Rose Gabrielian
“À a a... “ Mẹ tôi
“Thế...” Bố tôi
“Ố ô ồ... Tất cả các cô em gái tôi kêu lên một lượt và thế là bắt đầu chuẩn bị
cho một tiến trình cầu hôn với những chi tiết xưa cổ hàng thế kỷ thật cầu kỳ.
Trước hết, mặc dầu các gia đình thường xuyên gặp nhau hàng tuần ở tại nhà
thờ và đều là những bạn bè thân quen, vẫn phải sắp xếp một buổi “gặp gỡ”
chính thức.
Vấn đề tế nhị này luôn luôn được giao cho một người môi giới mà gia đình
đã lựa chọn một cách cẩn thận. Sau khi đã bàn bạc kĩ lưỡng với nhau, (dĩ
nhiên là tôi không được tham gia). Bố và mẹ đều đồng ý rằng nhân vật thích
hợp nhất dành cho các công tác hết sức tế nhị này là bác Raphael Janoian,
chồng của cô Siroon, chị bố tôi. Tôi nhủ thầm, một điềm tốt, bởi vì trong sáu
vị đã kết hôn với sáu người cô của tôi, bác Janoian là người tôi ưa thích nhất.
Bác có một bãi phế liệu lớn, là nơi khi tôi mười bốn tuổi, được bác cho lục
lọi tìm kiếm các bộ phận xe hơi cũ để lắp ráp chiếc xe máy đầu tiên của tôi.
Chính bãi phế liệu ấy đã khiến bác có mối liên hệ hàng ngày với công ty vận
tải phế liệu của nhà họ Gabrielian.
Tôi còn nhớ thế nào mình đã chạy ra đón mừng khi chiếc xe của bác quẹo
vào sân nhà, sau khi bác đã công khai chính thức đến thăm gia đình nhà
Sirakan Gabrielian. Nhưng bác Janoian không tiết lộ công việc được ủy thác
một cách khinh suất như vậy. Bác tiến vào phòng khách với một cung cách
hết sức trang trọng, nhận lấy tách trà đậm, ngọt và thong thả khuấy một cách
chậm rãi.
“Thế nào, anh Raphael” bố tôi giục.
“Thế này, Ysác à”. Bác Janoian báo cáo ngày hẹn đã được đồng ý. Nhà họ
Gabrielian sẽ rất vui sướng để nhận chuyến viếng thăm từ phía bên nhà họ
Shakarian vào ngày hai mươi tháng tới.
Cuộc viếng thăm đã được đồng ý! Như vậy, ít nhất họ cũng đã không từ chối
lời thỉnh cầu của tôi, và tất nhiên điều đó hẳn phải hàm ý rằng Rose dầu sao
cũng vui lòng để mà ngắm nghía tôi. Đầu óc tôi tràn ngập những suy nghĩ
mông lung.
Cuối cùng thì ngày 20 tháng 7 cũng đã đến. Tôi hoàn tất các công việc của
mình trong trang trại một cách kỷ lục và bắt đầu sửa soạn. Tôi tắm rửa, rồi
lại tắm trở lại một lần nữa. Tôi đánh răng cho đến khi mất hết cả men răng,
tôi dùng cả nước súc miệng Listerine lẫn Lavoris. Tôi kỳ cọ những móng tay
đầy cáu bẩn vì công việc nông trại cho đến khi bàn chải muốn rụng hết các
sợi cước.
Tôi nghe tiếng xe bố đang lui ra khỏi gara. Phóng lên lầu một lần chót nữa
để chùi một vết bẩn khỏi đôi giày và thấm nhẹ chất cầm máu vào chỗ chảy
máu mà tự tôi đã cứa phải khi cạo râu lần thứ ba.
“Demos!” Bố tôi gầm lên từ lối đi dưới sân “con đang làm cái gì nữa đấy, bộ
muốn đẹp hơn cả cô Rose nữa à?”
Bị nêm chặt giữa các cô em gái trong dãy sau, tôi thấy như mười bảy dặm
giữa Downey và Los Angeles chưa bao giờ lại dài đến thế. Cuối cùng chúng
tôi đã dừng lại ở số 4311 đường Union Pacific. Đoàn chúng tôi tiến vào lối
đi trãi sỏi, băng ngang những luống cỏ được chăm sóc sạch sẽ trồng các loại
rau húng quế, rau mùi tây và những loại rau thơm dược thảo. Cánh cửa trước
mở tung và tất cả đều đã đứng ở đấy: Ông Sirakan và bà Tiroon, người anh
lớn của Rose, Edward, các cậu, các bà dì, bà cô và các anh em họ hàng
không thể đếm hết, và sau cùng là Rose, trong chiếc áo mùa hè mang màu
tên nàng, màu hồng.
Tôi không dán mắt vào nàng lâu được, vì ngay lập tức, cuộc tụ họp bị tách ra
hai nhóm riêng biệt, theo kiểu của người Ạc-mê-ni, các ông một bên căn
phòng lớn, và các bà ở phía bên kia. Thỉnh thoảng tôi liếc qua chỗ Rose
đang ngồi với các cô em tôi và tự hỏi không biết các cô ấy đang bàn tán
những gì. Rose cùng tuổi với Lucy em tôi, tôi nghĩ có bao giờ mình được trò
chuyện với Rose một cách tự nhiên và dễ dàng nhu Lucy không nhỉ.
Tôi cũng chẳng được tham gia vào cuộc nói chuyện quan trọng đang tiếp tục
ở giữa hai chiếc ghế đặc biệt đã được kéo lại gần nhau của bố tôi và ông
Sirakan Gabrielian. Không biết đều gì đã được thông qua giữa họ, nhưng
trông cả hai đều có vẻ hài lòng, lúc tiễn cha tôi ra cửa, ông Gabrielian bảo
“tôi sẽ chuyển lại những điều ông nói cho Rose”
Và hai ngày sau, bác Janoian đã chuyển lại câu trả lời thật quan trọng.
Rose đã bằng lòng lấy tôi.
Giờ đến năm đêm truyền thống tổ chức ăn mừng ở tại nhà gái vì câu trả lời
đồng ý. Đó là những buổi tối tràn ngập niềm vui với việc ca hát, ăn uống,
đọc diễn văn, những lời chúc mừng nhau, bởi vì giữa vòng người Ạc-mê-ni,
đó không chỉ là việc hai người lấy nhau mà là hai gia đình kết hôn với nhau.
Có một buổi tối, Rose biểu diễn Pianô cho chúng tôi nghe, trong lòng tôi
trào lên một niềm kiêu hãnh khi chú ý các ngón tay mềm mại của nàng lướt
trên phím đàn. Tôi cũng từng học các bài Vi-ô-lông, nhưng đã kết thúc việc
học do sự đồng ý chung của giáo sư, của chính tôi, và của mọi người đã từng
được nghe tôi kéo. Florence được hưởng cả chiếc đàn Vi-ô-lông lẫn các bài
tập đàn, và cô cũng chơi đàn trong những buổi hội họp của các gia đình, lên
tám tuổi, cánh tay phải mềm dẻo uốn cong thật đáng yêu quanh cần đàn
bóng loáng.
Một tối nọ, đến mục trao vật làm “tin”, tặng vật theo phong tục của chàng
trai dành cho cô gái, tượng trưng cho mối quan hệ mới. Trong trường hợp
nầy, đấy là một chiếc đồng hồ đeo tay hột xoàn. Món quà đã được bố mẹ tôi
chọn đi chọn lại, còn đối với tôi, việc phải băng ngang qua gian phòng để đi
đến chỗ các bà các cô đang ngồi và đeo chiếc đồng hồ vào tay Rose thật là
một việc “chết người”. Trong sự im lặng đột ngột, với mọi cặp mắt đều đổ
dồn vào tôi, các ngón tay tôi tự nhiên cứng đờ như gỗ. Trước nhất tôi không
thể nào làm cho chiếc móc tí hon bung ra được, kế đến tôi không làm sao gài
lại được. Tôi nghĩ đến các chiếc máy kéo nặng nề ở nhà kho mà tôi thường
tháo rời các bộ phận máy móc và gắn lại không mất đến lần thứ hai. Cuối
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian
Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian

More Related Content

Viewers also liked

Quan binh doi song co doc
Quan binh doi song co docQuan binh doi song co doc
Quan binh doi song co docLong Do Hoang
 
Quyen nang cua su cam ta chua
Quyen nang cua su cam ta chuaQuyen nang cua su cam ta chua
Quyen nang cua su cam ta chuaLong Do Hoang
 
Nhung thac mac ve doi song
Nhung thac mac ve doi songNhung thac mac ve doi song
Nhung thac mac ve doi songLong Do Hoang
 
Nguoi xay dung hon nhan
Nguoi xay dung hon nhanNguoi xay dung hon nhan
Nguoi xay dung hon nhanLong Do Hoang
 
Nhung kham pha khoa hoc va niem tin
Nhung kham pha khoa hoc va niem tinNhung kham pha khoa hoc va niem tin
Nhung kham pha khoa hoc va niem tinLong Do Hoang
 

Viewers also liked (10)

Quan binh doi song co doc
Quan binh doi song co docQuan binh doi song co doc
Quan binh doi song co doc
 
Quyen nang cua su cam ta chua
Quyen nang cua su cam ta chuaQuyen nang cua su cam ta chua
Quyen nang cua su cam ta chua
 
Nhung thac mac ve doi song
Nhung thac mac ve doi songNhung thac mac ve doi song
Nhung thac mac ve doi song
 
Quan ly tien bac
Quan ly tien bacQuan ly tien bac
Quan ly tien bac
 
Nguoi xay dung hon nhan
Nguoi xay dung hon nhanNguoi xay dung hon nhan
Nguoi xay dung hon nhan
 
Sau dieu doi tra
Sau dieu doi traSau dieu doi tra
Sau dieu doi tra
 
Nhung kham pha khoa hoc va niem tin
Nhung kham pha khoa hoc va niem tinNhung kham pha khoa hoc va niem tin
Nhung kham pha khoa hoc va niem tin
 
Niem vui that
Niem vui thatNiem vui that
Niem vui that
 
Quy luat tien bac
Quy luat tien bacQuy luat tien bac
Quy luat tien bac
 
Y cha duoc nen
Y cha duoc nenY cha duoc nen
Y cha duoc nen
 

Similar to Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian

Dam song tren bo vuc
Dam song tren bo vucDam song tren bo vuc
Dam song tren bo vucLong Do Hoang
 
File doc thu cach bien 1000 usd thanh doanh nghiep ty do
File doc thu   cach bien 1000 usd thanh doanh nghiep ty doFile doc thu   cach bien 1000 usd thanh doanh nghiep ty do
File doc thu cach bien 1000 usd thanh doanh nghiep ty doAdam1906
 
Nguoi dan ba hanh phuc
Nguoi dan ba hanh phucNguoi dan ba hanh phuc
Nguoi dan ba hanh phucLong Do Hoang
 
Nguoi dan ba hanh phuc
Nguoi dan ba hanh phucNguoi dan ba hanh phuc
Nguoi dan ba hanh phucco_doc_nhan
 
Nguoi dan ba hanh phuc
Nguoi dan ba hanh phucNguoi dan ba hanh phuc
Nguoi dan ba hanh phucco_doc_nhan
 
Tam long cha tren troi
Tam long cha tren troiTam long cha tren troi
Tam long cha tren troiLong Do Hoang
 
Tam long cha tren troi
Tam long cha tren troiTam long cha tren troi
Tam long cha tren troico_doc_nhan
 
Hạt giống tâm hồn 10
Hạt giống tâm hồn 10Hạt giống tâm hồn 10
Hạt giống tâm hồn 10Cuong Pham
 
Hạt giống tâm hồn 10
Hạt giống tâm hồn 10Hạt giống tâm hồn 10
Hạt giống tâm hồn 10Son Nguyen
 
Thong diep tu kenneth copeland
Thong diep tu kenneth copelandThong diep tu kenneth copeland
Thong diep tu kenneth copelandLong Do Hoang
 
Thong diep tu kenneth copeland
Thong diep tu kenneth copelandThong diep tu kenneth copeland
Thong diep tu kenneth copelandco_doc_nhan
 
Bi mat cua phan thien an nguoi giau nhat the gioi
Bi mat cua phan thien an nguoi giau nhat the gioiBi mat cua phan thien an nguoi giau nhat the gioi
Bi mat cua phan thien an nguoi giau nhat the gioiSon Pham
 

Similar to Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian (20)

Dam song tren bo vuc
Dam song tren bo vucDam song tren bo vuc
Dam song tren bo vuc
 
File doc thu cach bien 1000 usd thanh doanh nghiep ty do
File doc thu   cach bien 1000 usd thanh doanh nghiep ty doFile doc thu   cach bien 1000 usd thanh doanh nghiep ty do
File doc thu cach bien 1000 usd thanh doanh nghiep ty do
 
Nguoi dan ba hanh phuc
Nguoi dan ba hanh phucNguoi dan ba hanh phuc
Nguoi dan ba hanh phuc
 
Nguoi dan ba hanh phuc
Nguoi dan ba hanh phucNguoi dan ba hanh phuc
Nguoi dan ba hanh phuc
 
Nguoi dan ba hanh phuc
Nguoi dan ba hanh phucNguoi dan ba hanh phuc
Nguoi dan ba hanh phuc
 
Tam long cha tren troi
Tam long cha tren troiTam long cha tren troi
Tam long cha tren troi
 
Tam long cha tren troi
Tam long cha tren troiTam long cha tren troi
Tam long cha tren troi
 
Ephata 635
Ephata 635Ephata 635
Ephata 635
 
Amazing grace vhn
Amazing grace vhnAmazing grace vhn
Amazing grace vhn
 
Hạt giống tâm hồn 10
Hạt giống tâm hồn 10Hạt giống tâm hồn 10
Hạt giống tâm hồn 10
 
Ephata 603
Ephata 603Ephata 603
Ephata 603
 
Ephata 626
Ephata 626Ephata 626
Ephata 626
 
Hạt giống tâm hồn 10
Hạt giống tâm hồn 10Hạt giống tâm hồn 10
Hạt giống tâm hồn 10
 
Nhung tia sang
Nhung tia sangNhung tia sang
Nhung tia sang
 
Diem tua cua niem tin 04
Diem tua cua niem tin 04Diem tua cua niem tin 04
Diem tua cua niem tin 04
 
Bi mat cua_phan_thien_an
Bi mat cua_phan_thien_anBi mat cua_phan_thien_an
Bi mat cua_phan_thien_an
 
Thong diep tu kenneth copeland
Thong diep tu kenneth copelandThong diep tu kenneth copeland
Thong diep tu kenneth copeland
 
Thong diep tu kenneth copeland
Thong diep tu kenneth copelandThong diep tu kenneth copeland
Thong diep tu kenneth copeland
 
Bi mat cua phan thien an nguoi giau nhat the gioi
Bi mat cua phan thien an nguoi giau nhat the gioiBi mat cua phan thien an nguoi giau nhat the gioi
Bi mat cua phan thien an nguoi giau nhat the gioi
 
Milarepa Con Người Siêu Việt
Milarepa Con Người Siêu ViệtMilarepa Con Người Siêu Việt
Milarepa Con Người Siêu Việt
 

More from Long Do Hoang

More from Long Do Hoang (18)

Vuong quoc quyen nang va vinh hien
Vuong quoc quyen nang va vinh hienVuong quoc quyen nang va vinh hien
Vuong quoc quyen nang va vinh hien
 
Ve dau
Ve dauVe dau
Ve dau
 
Tu ma thuat den dang christ
Tu ma thuat den dang christTu ma thuat den dang christ
Tu ma thuat den dang christ
 
Tro ve mai nha xua
Tro ve mai nha xuaTro ve mai nha xua
Tro ve mai nha xua
 
Trai tim bang gia
Trai tim bang giaTrai tim bang gia
Trai tim bang gia
 
Tong hop
Tong hopTong hop
Tong hop
 
Toi muon la co doc nhan
Toi muon la co doc nhanToi muon la co doc nhan
Toi muon la co doc nhan
 
Tinh yeu va hon nhan
Tinh yeu va hon nhanTinh yeu va hon nhan
Tinh yeu va hon nhan
 
Tinh yeu nao
Tinh yeu naoTinh yeu nao
Tinh yeu nao
 
Thu quy
Thu quyThu quy
Thu quy
 
Thien dang thuot ve ai
Thien dang thuot ve aiThien dang thuot ve ai
Thien dang thuot ve ai
 
Theo dau chan chua
Theo dau chan chuaTheo dau chan chua
Theo dau chan chua
 
Thay doi dieu ky
Thay doi dieu kyThay doi dieu ky
Thay doi dieu ky
 
Su vui mung that
Su vui mung thatSu vui mung that
Su vui mung that
 
Su song du dat
Su song du datSu song du dat
Su song du dat
 
Su binh an that
Su binh an thatSu binh an that
Su binh an that
 
Song voi cam xuc
Song voi cam xucSong voi cam xuc
Song voi cam xuc
 
Sinh ra de huong phuoc hanh
Sinh ra de huong phuoc hanhSinh ra de huong phuoc hanh
Sinh ra de huong phuoc hanh
 

Recently uploaded

CATALOGUE ART-DNA 2023-2024-Orient Homes.pdf
CATALOGUE ART-DNA 2023-2024-Orient Homes.pdfCATALOGUE ART-DNA 2023-2024-Orient Homes.pdf
CATALOGUE ART-DNA 2023-2024-Orient Homes.pdfOrient Homes
 
CATALOG cáp cadivi_1.3.2024_compressed.pdf
CATALOG cáp cadivi_1.3.2024_compressed.pdfCATALOG cáp cadivi_1.3.2024_compressed.pdf
CATALOG cáp cadivi_1.3.2024_compressed.pdfOrient Homes
 
Tạp dề là gì? Tổng hợp các kiểu dáng tạp dề xu hướng
Tạp dề là gì? Tổng hợp các kiểu dáng tạp dề xu hướngTạp dề là gì? Tổng hợp các kiểu dáng tạp dề xu hướng
Tạp dề là gì? Tổng hợp các kiểu dáng tạp dề xu hướngMay Ong Vang
 
CATALOGUE Cáp điện Taya (FR, FPR) 2023.pdf
CATALOGUE Cáp điện Taya (FR, FPR) 2023.pdfCATALOGUE Cáp điện Taya (FR, FPR) 2023.pdf
CATALOGUE Cáp điện Taya (FR, FPR) 2023.pdfOrient Homes
 
Catalogue-thiet-bi-chieu-sang-DUHAL-2023.pdf
Catalogue-thiet-bi-chieu-sang-DUHAL-2023.pdfCatalogue-thiet-bi-chieu-sang-DUHAL-2023.pdf
Catalogue-thiet-bi-chieu-sang-DUHAL-2023.pdfOrient Homes
 
Catalog Dây cáp điện CADIVI ky thuat.pdf
Catalog Dây cáp điện CADIVI ky thuat.pdfCatalog Dây cáp điện CADIVI ky thuat.pdf
Catalog Dây cáp điện CADIVI ky thuat.pdfOrient Homes
 
Catalogue Cadisun CÁP HẠ THẾ (26-09-2020).pdf
Catalogue Cadisun CÁP HẠ THẾ (26-09-2020).pdfCatalogue Cadisun CÁP HẠ THẾ (26-09-2020).pdf
Catalogue Cadisun CÁP HẠ THẾ (26-09-2020).pdfOrient Homes
 
Dây cáp điện Trần Phú Eco - Catalogue 2023.pdf
Dây cáp điện Trần Phú Eco - Catalogue 2023.pdfDây cáp điện Trần Phú Eco - Catalogue 2023.pdf
Dây cáp điện Trần Phú Eco - Catalogue 2023.pdfOrient Homes
 
Catalog ống nước Europipe upvc-ppr2022.pdf
Catalog ống nước Europipe upvc-ppr2022.pdfCatalog ống nước Europipe upvc-ppr2022.pdf
Catalog ống nước Europipe upvc-ppr2022.pdfOrient Homes
 
catalogue-cap-trung-va-ha-the-ls-vina.pdf
catalogue-cap-trung-va-ha-the-ls-vina.pdfcatalogue-cap-trung-va-ha-the-ls-vina.pdf
catalogue-cap-trung-va-ha-the-ls-vina.pdfOrient Homes
 
CNXHKH-Chương-2.-Sứ-mệnh-lịch-sử-của-giai-cấp-công-nhân.pdf
CNXHKH-Chương-2.-Sứ-mệnh-lịch-sử-của-giai-cấp-công-nhân.pdfCNXHKH-Chương-2.-Sứ-mệnh-lịch-sử-của-giai-cấp-công-nhân.pdf
CNXHKH-Chương-2.-Sứ-mệnh-lịch-sử-của-giai-cấp-công-nhân.pdfThanhH487859
 
CATALOG Đèn, thiết bị điện ASIA LIGHTING 2023.pdf
CATALOG Đèn, thiết bị điện ASIA LIGHTING 2023.pdfCATALOG Đèn, thiết bị điện ASIA LIGHTING 2023.pdf
CATALOG Đèn, thiết bị điện ASIA LIGHTING 2023.pdfOrient Homes
 
Chương 7 Chủ nghĩa xã hội khoa học neu slide
Chương 7 Chủ nghĩa xã hội khoa học neu slideChương 7 Chủ nghĩa xã hội khoa học neu slide
Chương 7 Chủ nghĩa xã hội khoa học neu slideKiuTrang523831
 
Catalogue cáp điện GOLDCUP 2023(kỹ thuật).pdf
Catalogue cáp điện GOLDCUP 2023(kỹ thuật).pdfCatalogue cáp điện GOLDCUP 2023(kỹ thuật).pdf
Catalogue cáp điện GOLDCUP 2023(kỹ thuật).pdfOrient Homes
 
2020.Catalogue CÁP TR131321313UNG THẾ.pdf
2020.Catalogue CÁP TR131321313UNG THẾ.pdf2020.Catalogue CÁP TR131321313UNG THẾ.pdf
2020.Catalogue CÁP TR131321313UNG THẾ.pdfOrient Homes
 

Recently uploaded (15)

CATALOGUE ART-DNA 2023-2024-Orient Homes.pdf
CATALOGUE ART-DNA 2023-2024-Orient Homes.pdfCATALOGUE ART-DNA 2023-2024-Orient Homes.pdf
CATALOGUE ART-DNA 2023-2024-Orient Homes.pdf
 
CATALOG cáp cadivi_1.3.2024_compressed.pdf
CATALOG cáp cadivi_1.3.2024_compressed.pdfCATALOG cáp cadivi_1.3.2024_compressed.pdf
CATALOG cáp cadivi_1.3.2024_compressed.pdf
 
Tạp dề là gì? Tổng hợp các kiểu dáng tạp dề xu hướng
Tạp dề là gì? Tổng hợp các kiểu dáng tạp dề xu hướngTạp dề là gì? Tổng hợp các kiểu dáng tạp dề xu hướng
Tạp dề là gì? Tổng hợp các kiểu dáng tạp dề xu hướng
 
CATALOGUE Cáp điện Taya (FR, FPR) 2023.pdf
CATALOGUE Cáp điện Taya (FR, FPR) 2023.pdfCATALOGUE Cáp điện Taya (FR, FPR) 2023.pdf
CATALOGUE Cáp điện Taya (FR, FPR) 2023.pdf
 
Catalogue-thiet-bi-chieu-sang-DUHAL-2023.pdf
Catalogue-thiet-bi-chieu-sang-DUHAL-2023.pdfCatalogue-thiet-bi-chieu-sang-DUHAL-2023.pdf
Catalogue-thiet-bi-chieu-sang-DUHAL-2023.pdf
 
Catalog Dây cáp điện CADIVI ky thuat.pdf
Catalog Dây cáp điện CADIVI ky thuat.pdfCatalog Dây cáp điện CADIVI ky thuat.pdf
Catalog Dây cáp điện CADIVI ky thuat.pdf
 
Catalogue Cadisun CÁP HẠ THẾ (26-09-2020).pdf
Catalogue Cadisun CÁP HẠ THẾ (26-09-2020).pdfCatalogue Cadisun CÁP HẠ THẾ (26-09-2020).pdf
Catalogue Cadisun CÁP HẠ THẾ (26-09-2020).pdf
 
Dây cáp điện Trần Phú Eco - Catalogue 2023.pdf
Dây cáp điện Trần Phú Eco - Catalogue 2023.pdfDây cáp điện Trần Phú Eco - Catalogue 2023.pdf
Dây cáp điện Trần Phú Eco - Catalogue 2023.pdf
 
Catalog ống nước Europipe upvc-ppr2022.pdf
Catalog ống nước Europipe upvc-ppr2022.pdfCatalog ống nước Europipe upvc-ppr2022.pdf
Catalog ống nước Europipe upvc-ppr2022.pdf
 
catalogue-cap-trung-va-ha-the-ls-vina.pdf
catalogue-cap-trung-va-ha-the-ls-vina.pdfcatalogue-cap-trung-va-ha-the-ls-vina.pdf
catalogue-cap-trung-va-ha-the-ls-vina.pdf
 
CNXHKH-Chương-2.-Sứ-mệnh-lịch-sử-của-giai-cấp-công-nhân.pdf
CNXHKH-Chương-2.-Sứ-mệnh-lịch-sử-của-giai-cấp-công-nhân.pdfCNXHKH-Chương-2.-Sứ-mệnh-lịch-sử-của-giai-cấp-công-nhân.pdf
CNXHKH-Chương-2.-Sứ-mệnh-lịch-sử-của-giai-cấp-công-nhân.pdf
 
CATALOG Đèn, thiết bị điện ASIA LIGHTING 2023.pdf
CATALOG Đèn, thiết bị điện ASIA LIGHTING 2023.pdfCATALOG Đèn, thiết bị điện ASIA LIGHTING 2023.pdf
CATALOG Đèn, thiết bị điện ASIA LIGHTING 2023.pdf
 
Chương 7 Chủ nghĩa xã hội khoa học neu slide
Chương 7 Chủ nghĩa xã hội khoa học neu slideChương 7 Chủ nghĩa xã hội khoa học neu slide
Chương 7 Chủ nghĩa xã hội khoa học neu slide
 
Catalogue cáp điện GOLDCUP 2023(kỹ thuật).pdf
Catalogue cáp điện GOLDCUP 2023(kỹ thuật).pdfCatalogue cáp điện GOLDCUP 2023(kỹ thuật).pdf
Catalogue cáp điện GOLDCUP 2023(kỹ thuật).pdf
 
2020.Catalogue CÁP TR131321313UNG THẾ.pdf
2020.Catalogue CÁP TR131321313UNG THẾ.pdf2020.Catalogue CÁP TR131321313UNG THẾ.pdf
2020.Catalogue CÁP TR131321313UNG THẾ.pdf
 

Nhung nguoi hanh phuc nhat tran gian

  • 1. Những Người Hạnh Phúc Nhất Trần Gian Tác giả: John & Elizabeth Sherrill Câu chuyện về cuộc đời Demos Shakarian dưới ngòi bút JOHN & ELIZABETH SHERRILL NHỮNG NGƯỜI HẠNH PHÚC NHẤT TRẦN GIAN là một câu chuyện làm cho bạn cười, làm cho bạn khóc, làm cho đức tin bạn được gây dựng. Bạn sẽ cùng đi với Demos. Khi anh ta tán tỉnh cô Rose Gabrielian, theo cách của người Ạc-mê-ni. Khi anh ta cân nhắc những lời tiên tri “không có ý nghĩa rõ ràng” Khi anh ta và Rose đối diện với sự mất mát bi thương về đứa con gái nhỏ. Khi anh ta đối phó với tiếng kêu khóc của công việc, khi anh khám phá một căn bệnh truyền nhiễm ghê gớm trong các bầy bò sữa của mình, đương đầu với sự chống đối của gia đình trong khi tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời dành cho đời sống mình. Câu chuyện về cuộc đời của Demos chia sẻ một bí quyết mạnh mẽ mà hết thảy những người tin Chúa cần phải biết để sống còn qua những giờ phút khó khăn. Để khám phá được cách trở thành những người hạnh phúc nhất trên trần gian này. Lời Nói Đầu Vào một ngày u ám giữa tháng mười hai 1960, chúng tôi lái chiếc xe trung của mình lùi vào cạnh chỗ đậu xe cuối cùng nằm phía trước khách sạn President ở Thành phố Atlantic. Vài giây sau một chiếc Cadillac du lịch sờn cũ mang biển số California quẹo vào chỗ trống cạnh bên chúng tôi và một người đàn ông to lớn với chiếc nón cao bồi rộng vành bước ra. Ông ta chìa bàn tay to, đầy sẹo vì lao động ra, và nói. “Tôi là Demos Shakarian” Ông ta đi vòng qua phía bên kia xe và giữ cánh cửa cho một phụ nữ xinh xắn có mái tóc màu sẫm bước ra “còn đây là vợ tôi, Rose” Chúng tôi giải thích cho họ biết rằng chúng tôi là những phóng viên của tờ báo Guidefosts được phân công để tìm hiểu việc nói tiếng lạ, chúng tôi cũng lẹ làng nói cho họ biết rằng chúng tôi đến đây “chỉ để xem qua”. Chúng tôi đã có một cuộc xem qua “ra trò”. Khách sạn President là hiện trường của tuần lễ hội đồng giáo hạt của một tổ chức được gọi là Hội Thông Công Trọn Vẹn Quốc Tế Của Các Doanh Nghiệp Cơ Đốc, (Full Gospel
  • 2. Business Men’s Fellowship International) là tổ chức mà Demos là người sáng lập và là chủ tịch. Hàng ngàn người ở vùng bờ biển phía đông đã đến thành phố Atlantic, một số thì để gặp gỡ con người xuất thân từ trang trại với màu da rám nắng trong chiếc nón rộng vành, một số muốn trao đổi những câu chuyện về điều Đức Thánh Linh đang làm việc trong đời sống họ, và một số người khác, cũng như chúng tôi chỉ để xem qua, có một chút kính sợ nhưng với hoài nghi nhiều hơn. Hãy coi chừng chủ nghĩa cảm xúc, chúng tôi cảnh giác nhau việc kêu lớn tiếng, đưa tay cao, những lời làm chứng cuồng nhiệt, là những kỹ thuật hao tốn thời gian để đẩy một đám đông vào tình trạng kích động. Chúng tôi đã theo dõi... Song chẳng có điều nào thuộc loại kích động ấy xảy ra. Từ phía trước phòng khiêu vũ của khách sạn, ông Demos hướng dẫn buổi nhóm với sự nhạy cảm im lặng của một người nghe được tiếng nói mà chúng tôi không thể nghe. Thay vì những lần lộn lạo mà chúng tôi đã chờ đợi, một sự vui mừng được kiềm chế và trật tự đang điều khiển buổi nhóm. Tự mình bọc giáp lấy mình để phòng chống những loại kích động đã chẳng thấy xảy đến, chúng tôi chẳng có lý do gì để chống lại tình yêu thương đã thật sự chạm đến và làm mềm lòng chúng tôi, thế là cùng với hàng trăm người khác, chúng tôi bắt đầu bước đi trong Thánh Linh. Trong vòng mười lăm năm kể từ tháng mười hai năm ấy, chúng tôi đi theo phong trào Ngũ Tuần đã phát triển ở nhiều nơi trên thế giới, bởi vì chúng tôi tìm thấy đây chính là những câu chyện tốt đẹp, là những sự phấn khích, những đời sống được thay đổi rất thực tế trong hội thánh ngày nay. Và chúng tôi bắt đầu chú ý một điều thú vị. Bất cứ nơi nào chúng tôi trò chuyện với những người có đức tin sống động như những người nam, người nữ, người trẻ tuổi hoặc lớn tuổi, người Thiên Chúa Giáo La mã và hội Mennonite, từ giờ này sang giờ khác, câu chuyện luôn luôn bắt đầu với nhóm các doanh nhân lạ thường này là một nông gia nuôi bò sữa xuất thân từ Downey Bang California tên là Demos Shakarian. Làm thế nào điều đó có được, chúng tôi tiếp tục tự hỏi, điều gì đã khiến cho một người hay cả thẹn, diễn đạt không trôi chảy, với một nụ cười dịu dàng từ tốn, một người đàn ông dường như chẳng khi nào vội vàng, dường như ngày hôm nay chẳng bao giờ phải biết rằng ngày mai mình sẽ ở đâu, lại có một ảnh hưởng trên hàng triệu người? Chúng tôi quyết định phỏng vấn con người đó để tìm ra sự thật. Nói dễ nhưng làm lại rất khó. Ông Demos có lẽ đang sống ở Boston, Bangkok hoặc Bá Linh và ông thường không trả lời thư từ. Nhưng suốt bốn năm qua chúng tôi đã thu xếp một số chuyến viếng thăm. Ông Demos và bà Rose đã đến miền Đông để gặp gỡ chúng tôi, và về sau chúng tôi gặp nhau trong căn nhà gỗ của một người bạn ở Thụy sĩ. Chúng tôi đã làm việc tại
  • 3. Conaco và Palm Springs. Chúng tôi trò chuyện trong những xe hơi, ở những sân bay và trong những nhà hàng Ạc-mê-ni. Thú vị nhất là thời gian chúng tôi ở lại với ông Demos và bà Rose tại nhà của họ ở Downey, cũng chính là ngôi nhà nhỏ mà họ đã xây năm 1934 khi đứa con đầu tiên của họ ra đời. Ngôi nhà của thân phụ ông Demos kế bên, đã trống vắng từ khi cha ông qua đời. Đó là căn nhà rộng lớn với nhiều phòng hơn, nhưng Demos và bà Rose - vâng, chắc chắn đã có nhiều kỷ niệm trong ngôi nhà nhỏ này. Dần dần chúng tôi đã bắt đầu hiểu rõ bí quyết của ông Demos. Một phần trong ngôi nhà đó gia đình ông đã mang theo từ Ạc-mê-ni. Quốc gia Cơ đốc giáo cổ nhất này, cũng là một đất nước đã chịu đau khổ nhiều nhất vì niềm tin của mình. Và bởi cớ sự chịu đựng đau đớn họ đã hiểu biết Chúa cách sâu xa. Đó là một sự hiểu biết sâu xa hơn bất cứ một quốc gia hay dân tộc nào. Đó là một bí quyết mà mỗi người trong chúng ta cần phải biết, bởi vì khi thực hiện bí quyết đó, như lời ông Demos nói “dầu cho hoàn cảnh của thế giới xung quanh chúng ta có ra sao, chúng ta vẫn sẽ là những người hạnh phúc nhất trên trần gian này” Tháng mười một , năm 1975 John và Elizabeth Sherrill Tuyển tập Lilncoln , Virginia Sứ Điệp Từ Bên Kia Dãy Núi Một buổi sáng nọ, Rose và tôi đang trên đường lái xe xuyên qua thành phố Los Angeles trở về nhà, bất chợt tôi có một khao khát muốn ra khỏi xa lộ và chạy ngang qua nhà nơi nội tôi, ông Demos, đã sống khi ông đến Hoa kỳ lần đầu tiên. Sau bốn mươi hai năm chung sống, Rose đã quen với những ước muốn bất chợt nầy, vì vậy dầu đã một giờ sáng, nàng vẫn không nói một lời khi tôi quẹo xuống đoạn đường dốc và chạy vào khu vực thường được gọi là khu chung cư Los Angeles. Căn nhà tô xi măng vuông vức nay không còn tọa lạc ở số 919 đường Boston nữa. Ngồi một lát trong xe, chúng tôi nhìn ra chung quanh ngôi chung cư mới đã thay thế hàng xóm xưa cũ. Đoạn tôi quay xe lại và hướng thẳng ra xa lộ. Nhưng những kỷ niệm miên man về ông nội đã theo tôi suốt buổi tối với thời tiết nóng bức tại California. Tôi biết vì sao đêm nay tôi cần phải thực hiện chyến đi vòng ấy. Chính vì một lời tiên tri mà Rose và tôi đã được nghe trước đấy vào buổi chiều. Chúng tôi đã dự buổi nhóm của Hội Thương Gia
  • 4. Phúc Âm Trọn Vẹn (Full Gospel Business Men) tại Beverlig Hills, nơi có một người đã nói tiên tri, tuyên bố rằng đang nói ra chính những lời của Đức Chúa Trời, cho biết một cơn bách hại lớn cho các Cơ đốc nhân chẳng bao lâu sẽ xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới, kể cả Liên Bang Hoa kỳ. Chúng ta hiểu thế nào về một lời tuyên bố như vậy? Gia đình tôi đã hiểu gì về một sứ điệp tương tự cách đây một thế kỷ? Bởi vì lúc đó cũng từng có một lời tiên tri như vậy, và kể từ đó mọi sự đã xảy ra trong cuộc đời của ông nội tôi, cuộc đời của cha tôi và tôi đều là kết quả của việc đã coi trọng lời tiên tri ấy. Đã hai giờ sáng khi tôi rẽ vào lối đi trong sân nhà mình tại Downey, giờ trăng sáng tỏa khắp thật thú vị cho giấc ngủ. Tôi là một người hay thức khuya mà Rose không thể đợi nỗi. Vì vậy nàng lên giường khi tôi kéo chiếc ghế cũ kỹ ở phòng khách lại gần cửa sổ, và ngồi xuống đó trong đêm tối, thả tâm trí lang thang trở về quá khứ. Tôi chưa được biết ông nội Demos của mình, ông cụ đã qua đời trước khi tôi được sinh ra, nhưng tôi đã từng nghe cả ngàn lần những câu chuyện về ông. Tôi biết từng chi tiết tường tận đến nỗi khi đang ngồi đây nhìn ra những chiếc lá của cành cam ẩn bạc dưới ánh trăng, dường như tôi nhìn thấy phong cảnh ở một vùng đất khác, thật xa và thật xưa. Đối với một người Ạc-mê-ni việc ấy không có gì là khó. Chúng tôi là những con người của Cựu ước, quá khứ và hiện tại vì vậy dệt vào nhau đến nỗi điều đã diễn ra cách đây một trăm năm hoặc một nghìn năm, hai nghìn năm vẫn thực hữu đối với chúng tôi như những ngày tháng rõ ràng trên tờ lịch. Tôi từng được nghe tả thường xuyên đến nỗi có thể thật sự tìm thấy ngôi làng nhỏ bé thuộc vùng Kara kala nằm vững chắc ở vùng đồi thấp, dưới chân ngọn Ararát là ngọn núi, mà Kinh Thánh cho chúng ta biết nơi chiếc tàu của Nô-ê đã tấp vào đó. Nhắm mắt lại, tôi thấy những ngôi nhà bằng đá, các chuồng gia súc, và những kho thóc, nhà trại một gian, nơi ông nội Demos của tôi đã sống. Trong gian nhà đó, năm cô con gái của ông được sinh ra, mà không có một cậu con trai nào cả, đó là nỗi ô nhục giữa vòng những người Ạc-mê-ni cũng giống như nỗi ô nhục giữa ruộng đồng những người Ysơraên kia. Tôi hình dung ông nội đi bộ đến nhà thờ mỗi buổi sáng Chúa nhật cùng với năm cô con gái nhỏ. Mặc dầu phần đông người Ạc-mê-ni đều theo Chánh Thống Giáo, ông tôi và nhiều người khác ở tại Kara kala lại là những tín đồ của giáo hội Trưởng lão. Tôi có thể thấy ông lúc đang băng qua làng để đến nhà thờ nơi hội chúng đang nhóm lại trong ngày Chúa nhật đặc biệt đó, đầu ngẩng cao mang nỗi sỉ nhục thinh lặng. Chính vì nhu cầu lớn lao của ông mà tôi dường như luôn ngạc nhiên vì ông
  • 5. cụ đã không thừa nhận ngay sứ điệp lạ lùng đang từ từ lan khắp vùng núi gần năm mươi năm. Sứ điệp ấy được những người Nga mang đến, ông tôi cũng khá ưa thích những người Nga, ông chỉ quá khôn ngoan để chấp nhận những câu chuyện của họ về những phép lạ. Người Nga đến trong những chiếc xe lưu động dài, với các toa có mui che. Họ ăn mặc cũng giống như người dân chúng tôi, trong những chiếc áo cao cổ dài đến đầu gối, thắt lưng bằng những dây gai có núm tua, những người đàn ông đã có gia đình trang điểm bằng cách để râu rậm. Người Ạc-mê-ni nghe hiểu được họ không có gì khó khăn, vì hầu hết người dân chúng tôi cũng nói tiếng Nga. Họ lắng nghe những câu chuyện về điều mà người Nga gọi là “sự tuôn đổ của Đức Thánh Linh” trên hàng trăm ngàn người Cơ đốc theo giáo hội Chánh Thống Nga. Những người Nga đã đến như những người mang theo những tặng phẩm. Tặng phẩm của Đức Thánh Linh, là điều họ muốn được chia xẻ. Tôi có thể nghe ông bà nội tôi trò chuyện đến khuya sau một trong những chuyến viếng thăm ấy, ông tôi chắc đã nói, người ta phải công nhận rằng mọi điều mà người Nga đang nói đều là những điều thuộc về Thánh Linh. “Tôi muốn nói sự chữa lành có trong Kinh Thánh, việc nói tiếng lạ cũng có, lời tiên tri cũng vậy. Chỉ có điều là toàn thể sự việc nghe không có vẻ... Ạc- mê-ni chút nào”. Bằng câu nói ấy hẳn ông muốn nói đến sự đáng tin cậy, tính trung thực thực tế. Và bà nội tôi, lòng lúc nào cũng nặng nề, hẳn đã nói “ông biết đấy khi ông nói về các lời tiên tri và sự chữa lành là ông đang nói đến phép lạ”. “Phải” “Nếu có bao giờ chúng ta được nhận lãnh Thánh Linh theo cách ấy, thì ông nghĩ rằng chúng ta có thể cầu xin một phép lạ chăng?” “Bà muốn nói đến việc có một đứa con trai phải không?” Thế rồi có lẽ bà tôi đã bật khóc. Tôi biết một điều, đó là vào một buổi sáng nắng đẹp tháng năm năm 1891, bà nội tôi đã khóc nức nở. Qua nhiều năm một số các gia đình sống tại Kara kala đã bắt đầu thừa nhận sứ điệp của những người Nga theo Ngũ Tuần (Pentecostal) người em rể của ông tôi là Magardich Mushegan, lúc bấy giờ là một trong số những người ấy. Ông đã nhận báp tem bằng Thánh Linh và trong những chuyến thăm viếng thường xuyên ở tại trang trại Shakarian, hẳn ông đã nói về niềm vui mới mẽ trong đời sống mình, được đặt nền tảng trên Thánh Kinh. Trong cái ngày đặc biệt đo, ngày 25 tháng 5 năm 1891. Bà nội tôi và các phụ nữ khác đang may vá trong một góc phòng của gian nhà trại. Bà vẫn cố gắng may, nhưng nước mắt cứ tiếp tục tuôn rơi trên mảnh vải đặt nơi lòng bà. Bên kia gian phòng, kế bên cửa sổ, nơi có ánh sáng tốt, Magradich Mushegan đang ngồi với quyển Kinh Thánh mở rộng trên gối. Thình lình, Magardich đóng sầm quyển Kinh Thánh lại, ông đứng lên và
  • 6. băng qua gian phòng. Ông đến đứng trước mặt bà tôi, hàm râu đen rậm động đậy lên xuống vì sự kích động. “Goolisar”, ông Magardich nói “Đức Chúa Trời vừa phán cùng tôi!” Bà tôi ngồi thẳng lên “vâng, sao cơ, Magardich?” “Ngài phán với tôi một sứ điệp dành cho chị”. Ông nói “Goolisar, đúng một năm sau chị sẽ sanh một bé trai” Khi ông nội tôi từ ngoài đồng trở về, bà tôi đón ông ở cửa với tin nóng bỏng về lời tiên tri lạ lùng. Lòng vui mừng muốn tin nhưng vẫn còn hoài nghi, ông tôi không nói gì cả, ông chỉ mỉm cười khẽ rùn vai, và đánh đấu những ngày tháng trên tờ lịch. Ngày tháng trôi qua bà tôi đã có thai. Đến lúc này mọi người ở Kara kala đều đã biết lời tiên tri ấy. Cả làng hồi hộp chờ đợi. Thế rồi vào ngày 25 tháng năm, năm 1992, đúng một năm kể từ lúc lời tiên tri được ban ra, bà tôi sinh một bé trai. Lần đầu tiên gia đình tôi chạm trán với Thánh Linh theo cách riêng tư như vậy. Mọi người ở tại Kara kala đều đồng ý rằng việc chọn tên cho cậu bé là đúng hoàn toàn: Cậu sẽ được gọi là Ysác, bởi vì cậu cũng giống như đứa con trai mong đợi lâu ngày của Ápraham, đứa trẻ của lời hứa. Tôi quả quyết rằng ông tôi là một người đàn ông tự hào và hạnh phúc khi dẫn bộ cả gia đình mình đến nhà thờ mỗi Chúa nhật sau khi Ysác được sanh ra. Nhưng ông tôi vốn có tính cứng cỏi trong con người mình. Cũng như những người Ạc-mê-ni ông tự xem mình là người có một tâm trí quá cứng rắn để có thể dễ dàng chấp nhận rằng ông đã được chứng kiến một lời tiên tri siêu nhiên thuộc loại đã được đề cập đến trong Kinh Thánh. Có thể lời tiên tri của Magardich chỉ là một sự may mắn! Và rồi tất cả chỉ trong vòng một ngày, những nỗi nghi ngờ của ông tôi đã biến mất. Chỉ một lần đủ cả. Vào năm 1990, khi Ysác lên tám và em gái cậu là Hamas, bốn tuổi, có tin báo rằng một trăm Cơ đốc nhân người Nga từ bên kia núi đang trên đường đến đây trong những toa xe ngựa có mui che. Mọi người đều vui thích. Tại Karakala có tục lệ tổ chức tiệc mừng dành cho những Cơ đốc nhân mỗi khi họ viếng thăm một nơi nào đó. Mặc dầu không đồng ý với “Tin Lành Toàn Vẹn (Full Gospel) người Nga rao giảng, ông tôi vẫn coi những cuộc thăm viếng của họ là những thời gian được biệt riêng cho Chúa, và nhất định buổi tiệc đón mừng phải được tổ chức ở miếng đất rộng lớn bằng phẳng ngay trước ngôi nhà của mình. Bấy giờ, ông tôi rất tự hào về đàn gia súc béo tốt của mình, nghe tin đoàn người Nga đang trên đường sắp đến nơi, ông đi ra ngoài bầy gia súc của mình và xem xét kĩ từng con. Hẳn ông đã chọn một con bò đực tơ tốt nhất, mập nhất cho bữa tiệc đặc biệt đó.
  • 7. Thế nhưng rủi thay, con đực tơ mập nhất trong bầy lại có một khuyết tật khi được kiểm tra. Con vật bị đui một mắt. Làm thế nào bây giờ? Ông tôi biết lời Kinh Thánh rất rõ: Ông biết mình không được dâng một con sinh có khuyết tật cho Đức Chúa Trời, há không phải LeLv 22:20 có phán rằng “các ngươi chớ dâng một con vật nào có tì vít , vì nó sẽ không được nhậm ” sao? Thật là một tình thế khó xử! Không có con vật nào khác trong bầy lớn đủ để cho một trăm người khách dùng. Ông tôi nhìn quanh. Không ai để ý cả. Có lẽ ông đã tự tay giết con vật to béo ấy và chỉ việc giấu cái đầu có tì vít đi. Phải, đó là điều ông đã làm! Ông tôi dẫn con thịt chột mắt vào kho chứa rơm, tự mình mổ thịt nó và vội vàng bỏ cái đầu vào một cái bao rồi đem giấu dưới đống lúa mì đã đập trong một xó tối. Ông tôi kịp đúng giờ, vì khi vừa chuẩn bị xong con thịt, ông đã nghe thấy tiếng rầm rầm của các toa xe ngựa tiến vào Kara kala. Thật là một cảnh tượng thú vị! Những toa xe móc nhà lưu động dài quen thuộc đang tiến vào con đường bụi đỏ, mỗi chiếc do bốn con ngựa đẫm mồ hôi kéo. Bên cạnh người đánh ngựa của đoàn xe thứ nhất, là vị giáo trưởng với bộ râu trắng, ngồi thật thẳng, oai vệ như bao giờ, ông ta là người lãnh đạo và là tiên tri của đoàn khách. Ông nội tôi và cậu bé Ysác chạy lên đường để đón mừng các vị khách của họ. Khắp nơi, sự chuẩn bị cho bữa tiệc đều đã sẵn sàng. Chẳng bao lâu con thịt lớn được quay bằng một cái xiên trên bếp lửa than khổng lồ. Chiều hôm đó mọi người tụ tập lại quanh những chiếc bàn dài làm bằng các tấm ván, ai nấy mong chờ và đều đói bụng. Tuy nhiên, trước khi bữa ăn bắt đầu, thức ăn phải được chúc phước. Những Cơ đốc nhân thời đó sẽ không dâng một lời cầu nguyện nào cả, dầu là lời cầu nguyện cảm tạ ngắn trước mỗi bữa ăn, cho đến khi nào họ nhận được điều mà họ gọi là sự xức dầu. Họ sẽ chờ đợi trước mặt Chúa cho đến khi nào, theo lối nói của họ, Thánh Linh đổ trên thức ăn. Họ tuyên bố rằng, (đó cũng là một điều khá ngộ nghĩnh đối với ông tôi) họ có thể thật sự cảm nhận được sự hiện diện của Ngài. Khi việc đó xảy ra, họ sẽ đưa tay lên và nhảy múa vui mừng. Như thường lệ, trong dịp nầy, những người Nga chờ đợi sự xức dầu bằng Thánh Linh. Khi không còn nghi ngờ gì nữa, theo như mọi người đã để ý, thì người thứ nhất và người tiếp theo sẽ nhảy múa trong chỗ thích hợp. Mọi sự diễn tiến như thường lệ. Chẳng bao lâu đến giờ chúc phước cho thức ăn, và bữa tiệc được bắt đầu. Nhưng thật bất ngờ đối với ông tôi, khi vị Giáo trưởng đột nhiên đưa tay lên, không phải dấu hiệu của sự chúc phước mà là một cách ra dấu để bảo tất cả phải dừng lại. Đưa mắt nhìn ông tôi bằng một cái nhìn xuyên suốt lạ lùng,
  • 8. người đàn ông cao lớn râu tóc trắng bước ra khỏi bàn không nói một lời. Đôi mắt của ông tôi theo dõi từng bước chân của vị giáo trưởng khi ông băng qua khoảng sân và vào bên trong kho chứa rơm. Sau một hồi, ông xuất hiện, trong tay ông giữ chiếc bao mà ông nội tôi đã giấu bên dưới đống lúa mì. Ông tôi bắt đầu run. Làm sao ông cụ biết được! Không ai nhìn thấy ông cơ mà. Những người Nga thậm chí còn chưa giáp bờ làng khi ông giấu cái đầu ấy. Bấy giờ vị giáo trưởng đặt chiếc túi biết nói ở trước mặt ông tôi và mở rộng ra cho mọi người nhìn thấy cái đầu bò với một con mắt trắng bệt. “Có điều gì cần xưng ra không, anh Demos?” vị giáo trưởng người Nga hỏi. “Vâng, tôi có,” ông tôi trả lời, người vẫn còn run. “Nhưng làm thế nào mà ông biết được?” “Đức Chúa Trời đã nói cho tôi biết” ông nói thật đơn giản “anh vẫn không tin rằng ngày nay Ngài cũng phán với dân sự Ngài như trong những ngày trước. Đức Thánh Linh đã ban cho tôi lời hiểu biết ấy vì một lý do đặc biệt, hầu cho anh và cả nhà anh hẳn sẽ tin. Anh vẫn đang chống lại quyền năng của Thánh Linh. Hôm nay là ngày anh thôi chống cự nữa” Trước mặt những người dân lân cận và các vị khách trong buổi chiều tối hôm đó, ông tôi đã xưng ra mọi dối gạt mà ông đã cố làm. Với những giọt nước mắt lăn xuống má hòa lẫn vào hàm râu lởm chởm, ông xin họ tha thứ. Ông nói với nhà tiên tri: “Hãy chỉ cho tôi biết, làm thế nào để tôi cũng nhận được Thánh Linh của Đức Chúa Trời.” Ông tôi quỳ xuống và trưởng lão người Nga đặt đôi bàn tay xương xẩu vì lao động lên đầu ông. Ngay lập tức, ông tôi bật lên lời cầu nguyện vui mừng trong một ngôn ngữ mà cả ông lẫn những người đang có mặt không ai hiểu được. Những người Nga gọi loại phát biểu bày tỏ trạng thái cực kỳ sung sướng đó là “tiếng lạ” và coi đó như một dấu hiệu cho thấy Đức Thánh Linh đang hiện diện với người phát biểu. Tối hôm đó, bà nội tôi cũng đã được nhận “báp tem Thánh Linh” Đó là khởi đầu của sự thay đổi lớn lao trong đời sống của gia đình chúng tôi, và một trong những điều đầu tiên đó là sự thay đổi trong thái độ đối với một công dân nổi tiếng nhất Kara kala. Nhân vật này nổi tiếng khắp cả vùng dưới danh hiệu “cậu bé Tiên Tri” mặc dầu vào lúc sự việc cái đầu con thịt xảy ra thì cậu bé Tiên Tri đã năm mươi tám tuổi rồi. Tên thật của ông ta là Efim Gerasemovitch Klubniken gia đình ông ở giữa vòng những người theo giáo phái Trưởng Lão đầu tiên vượt biên giới, đến cư ngụ lâu dài tại Kara kala. Từ thuở thiếu thời, Efim đã cho thấy ông có ân tứ cầu nguyện, thường xuyên tiếp tục những kỳ kiêng ăn kéo dài, cầu nguyện suốt ngày đêm. Như mọi người ở tại Kara kala đều biết, khi Efim lên mười một, cậu nghe
  • 9. Chúa một lần nữa kêu gọi cậu bước vào một trong những kỳ cầu nguyện thức canh. Lần này cậu đã kiên trì cầu nguyện trong suốt bảy ngày đêm, và trong thời gian đó cậu đã nhận được một khải tượng. Khải tượng này tự nó không có gì là phi thường. Quả thật, cũng như ông tôi vẫn thường hay làu bàu, bất cứ ai hoặc không ăn uống hoặc không ngủ nghỉ một thời gian lâu như vậy thì chắc chắn sẽ thấy một cái gì đó. Nhưng điều cậu Efim có thể làm được suốt trong bảy ngày ấy thật không dễ để mà giải thích. Efim không hề biết đọc hoặc biết viết. Tuy nhiên, khi cậu ngồi trong căn nhà nhỏ bằng đá tại Kara kala cậu đã nhìn thấy trước mặt mình một khải tượng về các biểu đồ và một sứ điệp viết tay thật đẹp. Efim xin một cây bút và một tờ giấy. Rồi trong suốt bảy ngày ngồi nơi chiếc bàn ván gồ ghề chỗ gia đình ngồi ăn, cậu đã khó nhọc viết lại hình dáng của các chữ viết và các sơ đồ đã hiện ra trước mặt cậu. Khi hoàn tất, bản viết tay được giao cho những người biết đọc trong làng. Hóa ra cậu bé mù chữ này đã viết ra một loạt những huấn thị và lời cảnh cáo bằng tiếng Nga. Cậu bé đã viết rằng, vào một thời điểm nào đó không xác định trong tương lai, mọi Cơ đốc nhân ở Kara kala sẽ phải gặp khó khăn khủng khiếp. Cậu nói trước một thời kỳ bi thảm không tả xiết xảy ra cho cả vùng, khi hàng trăm ngàn người nam, nữ và con trẻ sẽ bị tàn sát man rợ. Cậu cảnh cáo thời kỳ sẽ đến khi mọi người trong vùng phải chạy trốn, họ phải đi đến một vùng đất bên kia biển. Mặc dầu chưa bao giờ nhìn thấy một cuốn sách về địa lý. Cậu bé Tiên Tri đã vẽ một bản đồ chỉ rõ chỗ mà những Cơ đốc nhân chạy trốn phải đến đấy. Trước sự sửng sốt của những thanh niên, khối nước được mô tả rất chính xác trong bản vẽ không phải là vùng biển Đen bên cạnh, không phải biển Caspian, cũng không phải Địa Trung Hải xa xôi mà là bờ biển Đại Tây Dương (Atlantic) xa tít mù mà không thể hình dung ra được! Không còn nghi ngờ gì nữa, cả vùng đất nằm bên cũng được nhận ra: Bức họa đồ đã chỉ rõ ràng vùng bờ biển phía đông của Hoa kỳ. Nhưng những người tị nạn không định cư ở đó, lời tiên tri tiếp tục, họ phải tiếp tục hành trình cho đến khi tiến đến tận miền Tây của vùng đất mới. Cậu bé viết, tại đó Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho họ và làm cho họ được thạnh vượng, và khiến cho dòng giống của họ trở thành một nguồn phước cho các dân tộc. Cách ít lâu sau, Efim cũng viết một lời tiên tri thứ hai, mà hết thảy mọi người đều biết rằng lời tiên tri ấy có liên hệ đến khoảng thời gian trong tương lai còn xa hơn nữa, là khi dân chúng một lần nữa sẽ phải chạy trốn. Efim yêu cầu cha mẹ niêm phong lời tiên tri ấy trong một phong bì, và lập lại những huấn thị mà cậu đã nhận được qua lời tiên tri đó. Cậu cũng được báo cho biết trong khải tượng đến đó rằng chỉ có một vị Tiên Tri trong tương
  • 10. lai, được Đức Chúa Trời chọn cho công tác nầy, mới được mở chiếc phong bì đó mà đọc lời tiên tri cho hội thánh. Bất cứ ai mở chiếc phong bì trước thời hạn phải chết. Vâng, nhiều người ở tại Kara kala đã cười vào những điều mà người ta cho rằng tưởng tượng của cậu bé. Chắc hẳn phải có một số những lời giải thích nào đó về bản viết tay “kỳ lạ” của cậu bé. Người ta cho rằng có lẽ cậu đã bí mật tự học, đọc và viết, chỉ nhằm để làm trò lừa bịp dân làng. Tuy nhiên, những người khác đã bắt đầu gọi Efim là cậu bé Tiên Tri và không dám cho rằng sứ điệp ấy không thật. Mỗi khi có những tin tức về những sự lộn xộn chính trị mới lan đến vùng đồi núi yên tỉnh xung quanh rặng núi Ararát, thì họ lại lôi những trang giấy lúc này đã vàng ố ra và đọc lại. Những vụ rắc rối giữa những người Hồi giáo Thổ nhĩ kỳ với các Cơ đốc nhân người Ạc-mê-ni dường như đang gia tăng kịch liệt. Vào tháng 8 năm 1896, bốn năm trước khi ông tôi làm thịt con vật bị mù mắt, há không phải một đám đông hỗn tạp người Thổ nhĩ kỳ đã giết hại hơn sáu ngàn người Ạc- mê-ni trên những đường phố Constantinople sao? Nhưng Constantinople thì ở quá xa, và năm tháng đã trôi qua kể từ khi lời tiên tri được ban bố. Thật ra những lời tiên tri trong Kinh Thánh thường đến rất nhiều lần, thậm chí hàng trăm năm trước khi biến cố xảy ra. Nhưng hầu hết dân chúng ở tại Karakala, ông tôi cũng ở trong số đó, đều tin rằng những ân tứ về việc nói tiên tri đích thực đã chấm dứt kể từ khi Kinh Thánh đã được hoàn tất. Thế rồi không lâu sau những năm đầu thế kỷ, Efim loan báo rằng đã gần đến thời điểm ứng nghiệm những lời mà ông đã viết cách đây gần năm mươi năm. “Chúng ta phải lánh sang Hoa kỳ. Hết thảy những ai còn ở lại sẽ phải bỏ mạng” Đây đó ở tại Kara kala, những gia đình theo giáo phái Ngũ Tuần khăn gói rời khỏi mãnh đất và nhà cửa đã từng một thời là tài sản của tổ tiên để lại. Efim và gia đình ông ở vào số những người đầu tiên ra đi. Khi có một nhóm người theo Ngũ Tuần nào rời bỏ Ạc-mê-ni, thì họ lại bị những người còn lại chế nhạo. Những lớp người hoài nghi và không tin, kể cả nhiều Cơ đốc nhân không chịu tin rằng Đức Chúa Trời có thể ban bố những huấn thị thật chính xác cho con người hiện nay trong thời đại nầy. Nhưng những huấn thị đó đã được chứng minh là đúng vào năm 1914, một giai đoạn khủng khiếp không thể tưởng tượng nỗi đã xảy đến cho xứ sở Ạc- mê-ni với một sức lực không thể suy giảm, người Thổ nhĩ kỳ bắt đầu tiến hành một công việc đẫm máu đó là đánh đuổi hai phần ba dân cư khỏi nơi họ đang sống để đưa họ vào sa mạc Mêsôpôtami. Hơn một triệu người, cả nam lẫn nữ và trẻ con đã chết trong những cuộc hành trình khủng khiếp đó, kể cả mọi cư dân ở tại Kara kala. Nửa triệu người khác đã bị tàn sát tại các
  • 11. làng mạc của họ trong một cuộc thảm sát, mà sau này cung cấp cho Hitler ý đồ của ông ta nhằm hủy diệt người Do thái “Thế giới đã không hề can thiệp khi người Thổ nhĩ kỳ xóa sạch người Ạc-mê-ni” ông ta đã nhắc nhở những kẻ theo mình “ngày nay Thế giới cũng sẽ không can thiệp đâu”. Một số ít những người Ạc-mê-ni trốn ra khỏi những khu vực bị bao vây đã mang theo những câu chuyện về sự dũng cảm, anh hùng của những người Ạc-mê-ni còn kẹt lại. Họ thuật lại rằng nhiều khi những người Thổ nhĩ kỳ đã cho các Cơ đốc nhân một cơ hội để chối bỏ đức tin của mình hầu đổi lấy mạng sống. Một tiến trình ưa chuộng nhất là nhốt tất cả các Cơ đốc nhân vào một chuồng chứa gia súc hoặc chứa thóc và châm lửa đốt: “Nếu chúng mày chịu nhận Môhamét thế cho Đấng Christ, chúng tao sẽ mở cửa”. Cứ như thế, không biết bao nhiêu lần, những Cơ đốc nhân đã chọn cái chết, những bài Thánh ca tôn ngợi Chúa được cất vang lên khi ngọn lửa phủ chìm họ. Những người đã lưu tâm đến lời cảnh cáo của cậu bé Tiên Tri và tìm được nơi ẩn náu ở tại Hoa kỳ đều choáng váng khi được tin. Ông nội Demos của tôi thuộc trong vòng những người đã lánh thoát. Sau kinh nghiệm xảy ra với vị Trưởng lão người Nga, ông tôi không còn dám coi nhẹ giá trị pháp lý của lời tiên tri nữa. Vào năm 1905 ông đã bán đi nông trại từng thuộc về gia đình từ nhiều đời, chấp nhận với bất cứ giá tiền nào ông có thể có được. Đoạn, ông chọn những đồ vật mà gia đình có thể mang theo trên lưng, kể cả tặng vật của riêng ông là chiếc ấm Samôva đồng đun bằng củi. Thế rồi cùng với vợ và sáu cô con gái, Shushan, Esther, Siroon, Magga, Yerchan, Hamas, và niềm tự hào của ông, cậu bé Ysác mười ba tuổi, lên đường tìm đến đất Mỹ. Cả gia đình đã đến Nữu ước bình yên, nhưng vì cớ lưu ý đến lời tiên tri, nên đã không định cư tại đó. Để giữ đúng theo huấn thị đã được viết ra, họ tiếp tục hành trình băng qua vùng đất mới rộng lớn hoang vu, cho đến khi đến được Los Angeles, ở đó, thật vui mừng, họ tìm được một khu vực có người Ạc-mê-ni, dầu nhỏ bé nhưng đang phát triển, là nơi có một số bạn hữu từ Kara kala đến và hiện đang sinh sống. Nhờ sự giúp đỡ của những người bạn nầy, ông tôi đã đi tìm nhà ở “khu chung cư” là khu vực rẻ nhất ở Los Angeles, dầu vậy chính vì việc có thêm hai gia đình khác mới đến mà ông phải dọn gia đình mình đến căn nhà hình vuông có tô xi măng ở tại số 919 đường Boston. Chuyến đi bằng tàu thủy, cuộc hành trình băng qua đất Mỹ, và việc chia xẻ căn hộ mới đã làm hết sạch số tiền bán được nông trại ở quê nhà, vì thế ông tôi lập tức tìm kiếm việc làm. Không thành công. Tình trạng suy thoái trầm trọng vào những năm cuối thế kỷ 19 vẫn còn đè nặng trên California, là nơi không tìm được việc làm, đặc biệt đối với những người mới đến, là người không nói được chữ nào trong thứ tiếng nầy. Mỗi buổi sáng ông tôi thường
  • 12. đi đến chỗ thuê người, để rồi mỗi chiều lại trở về, bước chân có phần nặng nề hơn ngày hôm trước. Nhưng có một thời giờ trong mỗi một tuần lễ, khi mà tất cả những nỗi lo lắng đều được dẹp qua một bên, đó là buổi nhóm thờ phượng ngày Chúa nhật. Căn nhà tại thành phố Boston có một phòng khách phía trước đã nhanh chóng trở thành nơi nhóm chung. Buổi nhóm giữ theo các thói lệ của hội thánh tư gia trước đây ở tại Kara kala. Ở giữa là một chiếc bàn rộng trên đó để một quyển Kinh Thánh mở ra. Một bên phòng dành cho những người nam, ngồi theo thứ tự tuổi tác, người lớn tuổi hơn ngồi gần nhất, tiếp theo là những người trẻ hơn và cuối cùng là các cậu bé, bên kia phòng, luôn luôn như vậy dành cho các người nữ, cũng xếp theo thứ tự tuổi tác. Những người lớn tuổi vẫn tiếp tục để những bộ râu đen rậm, mặc dầu đôi khi một người nam trẻ tuổi hơn cũng làm mọi người bực mình vì chỉ để râu mép. Trong hội thánh vẫn bắt buộc những người nam phải mặc những chiếc áo dài đến gối màu sáng, còn phụ nữ thì mặc váy dài có thêu và khăn trùm đầu đan móc bằng tay, là loại y phục được truyền lại qua nhiều thế hệ. (Hầu như các ngày còn lại trong tuần thì không bắt buộc như vậy) Ông tôi hẳn đã nhận được một sự yên ủi đặc biệt khi nhờ cậy nơi sự nâng đỡ về mặt thuộc linh từ tập thể Cơ đốc này. Họ có một sự khao khát từ khi biết rằng Chúa có thể phán trực tiếp với họ qua Kinh Thánh. Với nhu cầu về công việc làm luôn mang nặng trong tâm trí, ông tôi hẳn đã quỳ gối trên tấm thảm đông phương đã được đem từ quê nhà để cầu xin “một lời phán”. Sau đó toàn thể hội chúng hẳn sẽ bắt đầu cầu nguyện thầm thì, thường là trong những thứ tiếng không ai hiểu, trong trạng thái vui sướng được gọi là tiếng lạ. Cuối cùng, một trong những người lớn tuổi sẽ bước đến chỗ quyển Kinh Thánh đặt tay mình vào phân đoạn Kinh Thánh nói đến sự cứu chuộc. Những lời ấy dường như luôn phán thẳng vào nhu cầu. Có lẽ đó là những lời nói về sự thành tín của Chúa hoặc về những ngày đượm sữa và mật như lời cậu bé Tiên tri đã phán trước. Vâng, hội thánh nhỏ bé của người Ạc-mê-ni đang chờ đợi những ngày đó xảy đến, nhưng ít nhất là trong khi chờ đợi, họ cũng có những giờ phút thông công đẹp đẽ. Ngày nọ có một sự khích lệ khác. Tình cờ ông tôi và người em rể, Magardich Mushegan (là người đã nói tiên tri về việc Ysác được sanh ra) đang đi bộ trên đường phố Sanpedro tại Los Angeles, tìm việc làm ở các chuồng nuôi ngựa thuê. Khi đi qua một con đường phụ gọi là Azusa, họ đột nhiên dừng lại. Cùng với mùi ngựa và mùi da để làm yên cương họ nghe những âm thanh không thể nào lầm lẫn được của những con người đang ngợi khen Đức Chúa Trời bằng tiếng lạ. Họ không hề hay rằng một nơi ở Hoa lỳ lại có những người thờ phượng giống như họ vậy. Họ vội vàng tiến về phía chuồng ngựa đã được cải tạo, từ nơi đó những âm thanh vang vọng
  • 13. ra, ông tôi gõ cửa, lúc này ông đã thu thập được một ít từ Anh ngữ. “Chúng tôi vào...được không?” ông hỏi. “Được chứ!” Cánh cửa được mở tung ra. Có những cái ôm, những bàn tay đưa lên cảm tạ ca hát và ngợi khen Chúa. Ông tôi và Magardich trở về phố Boston với tin tức: Ngũ Tuần cũng đã đến với cả vùng đất xa xôi ở bên kia đại dương. Lúc ấy không ai biết rằng phố Azusa sẽ trở thành một địa danh nổi tiếng. Có một cuộc phấn hưng tiếp tục diễn ra trong khu chuồng nuôi ngựa thuê, là nơi phát xuất một sự đổi mới có sức lôi cuốn ở nhiều nơi khác nhau khắp cả địa cầu. Vào giây phút mà ông tôi nhìn thấy một tập thể các Cơ đốc khác thì cũng đơn giản như một sự đón mừng sự xác nhận lời hứa của Đức Chúa Trời rằng Ngài sẽ làm một điều gì đó mới mẻ và kỳ diệu tại California. Điều mới mẻ ấy là gì, ông tôi đã không còn sống để mà nhìn thấy, công việc đều đặn mà ông chờ đợi từ lâu, cuối cùng đã đến, và cũng đã kết thúc trong bi thảm. Một ngày trong năm 1906, ông tôi trở về nhà với dáng đi nhẹ nhàng. “Ông đã tìm được việc làm” bà tôi nói “Phải, tôi có việc làm” Cả gia đình xúm lại xung quanh trong khi ông tôi cho biết tin tức quan trọng. Tận bên Nevada một tiểu bang khác, tiếp giáp với California, ngành đường sắt đang thuê người. Nụ cười biến mắt trên gương mặt bà. Bà đã từng nghe nói đến Nevada, đó là vùng sa mạc, nơi nhiệt độ lên đến 49 độ C và người ta đã ngã chết khi cố thực hiện công việc nặng nề là đặt đường ray dưới sức nóng ghê tởm đó. “Mình quên rồi sao,” ông tôi phản công “tôi là một nông dân và tôi đã quen làm việc ngoài đồng dưới ánh nắng. Hơn nữa Goolisar, mẹ thằng Ysác à, chúng ta còn sự lựa chọn nào nữa đâu?” Vì vậy ông tôi mời gọi các trưởng lão trong hội thánh đến và nhận sự chúc phước theo truyền thống trước khi lên đường. Thế rồi với một bộ quần áo để thay đổi cuộn trong một chiếc mền, ông hướng thẳng đến vùng sa mạc. Chẳng bao lâu sau, người đưa thư cứ hàng tuần phát một lá thư chuyển tiền cho căn hộ ở phố Boston. Rồi một buổi chiều mùa hạ, bức điện tín mà bà nội tôi luôn sợ hãi đã đến. Vào một ngày nắng nóng như thiêu như đốt, ông tôi đã ngã gục đang khi làm việc trên tuyến đường. Thi thể ông có lẽ đã được đưa về bằng tàu hỏa. Bởi cái chết của ông nội. Cha tôi, cậu bé Ysác đã phải bước vào công việc khi cậu chưa sẵn sàng, mới mười bốn tuổi cậu phải đứng đầu gia đình. Suốt nhiều tháng bố tôi phải đi bán báo ở một góc phố tại khu trung tâm Los Angeles. Ông kiếm được gần mười mỹ kim một tháng, đó là một sự đóng góp có giá trị lớn nếu ông nội còn sống, nhưng thật chật vật để đủ nuôi mẹ
  • 14. và sáu chị em gái. Ngay cả những thời điểm trọng đại của ngành làm báo, như trận động đất ở tại San Francisco năm 1906, khi ông bán được sáu chồng báo Extras trong vòng một tiếng đồng hồ, thì cũng chỉ thêm được một ít xị sữa trên bàn ăn mà thôi. Cha tôi cũng không bao giờ lấy món tiền mà mình không khó nhọc để làm ra. Trong những năm đầu thế kỷ, những đồng tiền vàng vẫn còn lưu hành, đó là đồng tiền vàng Nam Mỹ có kích thước như đồng kên trị giá năm xu Mỹ. Một ngày kia một khách hàng vội vã nhét một đồng tiền vào tay bố, nhận ba xu thối lại và phóng nhanh ra đường, bố đã toan thả đồng tiền vào chiếc tạp dề xanh của cậu bé bán báo có in hàng chữ LOS ANGELES TIMES ở phía trước, nhưng khi chợt liếc xuống và nhìn thấy đồng “5xu” mà mình đang cầm trong tay là đồng tiền vàng năm mỹ kim. “Ông ơi!” Bố tôi kêu lên nhưng người ấy đã vượt xa một khối nhà rồi. Bố tôi chặn chồng báo lại, và bắt đầu đuổi theo người đàn ông. Một chiếc xe điện trờ tới. Không suy nghĩ đến lần thứ hai, bố tôi nhảy lên trả tiền tàu lấy trong số tiền quý báu do chính mình kiếm được và lần theo người khách. Cuối cùng, ông bắt kịp người khách, bố nhảy xuống khỏi xe điện. “Thưa ông!” Người đàn ông bấy giờ mới quay lại “thưa ông, đây không phải là đồng năm xu ạ?” Bố nói bằng tiếng Anh còn hơi ngập ngừng, ông xòe bàn tay ra và đồng tiền vàng lấp lánh dưới ánh nắng. Tôi vẫn hay nghĩ đến người khách hàng ấy, người đã nhận lại đồng tiền vàng với một giọng nói ấm ức, biểu lộ sự vô tình nhỏ nhất để thừa nhận đồng tiền. Tôi thích nghĩ rằng giá như ông ta nhìn thấy những khuôn mặt đói khổ chờ đợi từng đêm ở cửa nhà số 919 Phố Boston, thì hẳn ông sẽ bảo cậu bé bán báo hãy giữ cả đi. Mười mỹ kim một tháng chẳng đủ thiếu gì cho một gia đình. Vào những buổi chiều sau giờ làm việc, bố tôi bắt đầu dạo quanh những chỗ thuê người, cũng như bố ông cũng đã từng trước kia. Nhưng nếu công việc dành cho đàn ông đã hiếm hoi thì công việc dành cho những cậu bé lại càng khó hơn. Cuối cùng cậu hay được rằng có một chỗ trống trong xưởng làm bộ yên cương. Tiền lương thấp, chỉ mười lăm mỹ kim một tháng, nhưng dẫu sao cũng khá hơn là bán báo, vì vậy, bố tôi nhận làm. Một ngày vào năm 1908, khi bố đã mười sáu tuổi, ông từ xưởng thợ trở về và nghe những lời rất ngạc nhiên của bà nội. “Ysác, thật là một tin mừng!” Bà nội nói: “Chúng ta thì có liên quan gì?”. Bố tôi trả lời qua chiếc khăn tay ông thường giữ nơi miệng. Bụi lông mịn của da thuộc ở xưởng làm yên cương đã chui vào hai lá phổi của ông và khiến ông ho liên tục. “Mẹ đã tìm được một việc làm” bà nói Bố tôi không tin là mình đã nghe đúng. Không có phụ nữ Ạc-mê-ni nào làm
  • 15. việc để kiếm tiền. Trong xứ sở của ông trước kia, người đàn ông phải chu cấp cho gia đình của họ, ông nhắc nhở bà tôi điều đó khi bà lau sạch lớp lông bụi bám trên tóc ông lúc ở ngoài nhà bếp. “Nhưng Ysác nầy, con không thấy việc mang gánh nặng của mình như vậy là quá sức sao? Con thì ốm như cái xiên nướng thịt. Mẹ cũng đã nghe con gắt gỏng với Hamas hôm qua” Bố tôi đỏ mặt lên song vẫn giữ lập trường của mình “mẹ không được nhận việc làm đâu” “Mẹ nhận rồi. Một gia đình tốt bụng ở công viên Hollenbeck cần giặt ủi, chỉ là việc quét dọn nhỏ thôi mà” “Vậy thì con sẽ đi thu xếp” bố đáp nhẹ nhàng, rời bếp ông lên căn phòng riêng của mình, bà tôi theo sau. Bà đứng ở bên cửa trong lúc ông cuộn một ít áo quần vào bọc “có mẹ đi làm rồi con không cần ở đây nữa” Ngày hôm sau bà tôi đành phải báo cho những người ở công viên Hollenbeck, rốt cuộc bà không đến chỗ giặt ủi được. Nhưng ở tại xưởng làm yên cương, bệnh ho của bố tôi lại càng trở nên tệ hại hơn. Căn bệnh chẳng khá hơn ngay cả khi ông được bầu làm người đốc công vào năm sau, mà nhiều lúc còn phải nằm liệt giường. Bà tôi thường kể rằng bà thức giấc, nằm nghe tiếng bố ho suốt cả đêm. Cuối cùng bà đã thuyết phục ông đi gặp bác sĩ, vị bác sĩ đã khẳng định điều mà mọi người trong gia đình đều phải biết: Nếu bố tôi không bỏ xưởng làm yên da, ông sẽ không sống hết tuổi thanh niên tức là dưới hai mươi tuổi. Vấn đề bây giờ là: Ông có thể trợ giúp mẹ và các chị bằng cách nào khác đây? Và như gia đình vẫn luôn ở trong những giây phút bối rối. Bố tôi tìm đến hội thánh. Những người Ạc-mê-ni Ngũ Tuần không còn thờ phượng tại phòng khách của căn hộ ở Boston nữa. Khi những người nam đã tìm được những công việc đây đó, thì điều đầu tiên họ làm đó là xây dựng một nhà thờ. Đó là một công trình có hình dáng nhỏ thôi, nằm trên Phố Gless, khoảng hai mươi thước chiều dài và mười thước chiều rộng, với những băng ghế không có lưng tựa để có thể đẩy sát vào tường khi sự vui mừng của Chúa cảm động hội chúng nhảy múa trong Thánh Linh. Ngay đầu phòng là bàn ăn theo truyền thống. Tôi có thể hình dung bố bước đến bên bàn như cha ông đã từng làm rất nhiều lần. Ông quỳ gối trên tấm thảm nhỏ màu nâu sậm và nói lên nhu cầu của mình, trong khi phía sau ông, những người đứng tuổi nhóm lại, có cả Magardich và người con trai của Magardich là Aram Mushegan, là người theo lời kể lại, mạnh đến nỗi có thể nhấc một chiếc xe ngựa lên khỏi mặt đất để bạn sửa bánh xe. Chính Aram là người đã đã đặt ngón tay của ông lên quyển Kinh Thánh lúc bấy giờ và đọc lớn những lời lạ lùng và đẹp đẽ này:
  • 16. Ngươi sẽ được phước ở trong thành , và được phước ngoài đồng ruộng . Bông trái của thân thể ngươi , hoa quả của đất ruộng ngươi , sản vật của sinh súc ngươi , luôn với lứa đẻ của bò cái và chiên cái ngươi , đều sẽ được phước ... Đất ruộng ư? Cha tôi tự hỏi. Bầy súc vật ư? Những lời kỳ diệu trong Phục Truyền Luật lệ ký đoạn 28 vẫn tiếp tục: Đức Giêhôva sẽ khiến phước lành ở cùng ngươi tại trong kho lúa và trong các công việc ngươi , Ngài sẽ ban phước cho ngươi trong xứ mà Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi đã ban cho ngươi . Và khi lắng nghe, bố tôi nhận ra rằng chỉ có một điều trên thế gian nầy ông thật muốn làm, điều mà ông suốt ngày mơ ước bên những máy cắt. Ông muốn được làm việc với bầy bò cái và những thứ tươi tắn, xanh mởn mọc lên ở ngoài đồng. Nhưng phải có nhiều tiền mới mua được đất, ông tự nhắc mình mỗi khi suy nghĩ đến đó. Bấy giờ, lời hứa trong Kinh Thánh vang vọng bên tai ông đã đem đến một quyết định trong đầu. Bố đưa đơn xin nghỉ việc ở xưởng đóng yên cương, và trong vòng hai tuần, không có một việc làm nào cả. Và dường như ông đã lập tức chú ý đến một việc. Hoa quả và rau cải được bày bán ở các cửa hàng chung quanh thành phố không những quá đắt để các gia đình như gia đình ông có thể mua được, mà chúng còn thường nhỏ bé và trông héo úa nữa, mặc dầu khi được hái, nó rất xanh tươi. Ông tự hỏi, nếu như ông đi lấy các thứ rau cải thật tươi từ vùng nông thôn và đưa về Thành phố để bán từ nhà này sang nhà kia thì sẽ thế nào nhỉ. Vì vậy, chính ông đã dấn thân vào công việc do mình nghĩ ra. Phía đông và nam của Thành phố Los Angeles có các nông trại nhỏ, phần nhiều trong số đó do người Ạc-mê-ni làm chủ, là nơi sản xuất ra những loại hoa quả và rau cải có chất lượng nhất trên thế giới. Cha tôi lấy một số tiền ông đã dành dụm từ tháng này qua tháng kia để làm của hồi môn cho các chị em gái của mình, và với số tiền đó, ông mua hai thứ. Một chiếc xe ngựa có thùng phẳng, và một con ngựa hai tuổi, sắc nâu đỏ tên là Jack. Ngày hôm sau, bố tôi đánh con Jack và chiếc toa trần ra chỗ ga đầu mối xe lửa nhỏ gọi là Downey. Thời ấy chưa có khu phố ở ngoại ô, nhưng có một thị trấn nhỏ cách đó mười lăm dặm trong vùng đồng quê. Mỗi chuyến đi mất ba giờ đồng hồ, nhưng bố tôi yêu từng phút trong cuộc hành trình đó. Bầu không khí trong sạch tươi mới, tràn ngập hai lá phổi đang bị đe dọa của ông như đang được chữa lành. Giấc mơ bắt đầu lớn lên trong tâm trí của bố tôi: Một ngày kia ông hẳn trở thành một nông gia. Ông sẽ có những con bò của riêng mình, ông sẽ là một người làm việc trong trại bò sữa. Là người chủ trại bò sữa hảo hạng trong vùng.
  • 17. Nhưng trong lúc này ông phải làm việc đã. Ngày hôm đó, tại Downey, bố tôi đi từ nông trại này đến nông trại khác, thâu nhặt rau díp ở chỗ này, cam và bưởi ở chỗ kia, cà rốt ở chỗ nọ, bất cứ những thứ trái cây hoặc loại rau cải nào đang trong mùa. Thế là thùng xe chất đầy những sản phẩm ngon nhất ông đánh xe về Los Angeles. Khi con Jack khua móng lóc cóc, lọc cọc trên các ngã đường Thành phố, thì bố tôi rao mời các món hàng của mình: “Dâu tây chín đây! Cam ngọt đây! Bó xôi mới hái đây!” Hàng của ông đều ngon, giá lại vừa phải, và lần kế tiếp khi ông đến đã thấy các bà nội trợ đang mong đợi ông. Một năm nữa lại trôi qua. Bố tôi lúc này đã mười chín tuổi, hãnh diện để bộ ria mép hợp thời, số tiền hồi môn đã được đặt lại chỗ cũ và còn thêm nhiều hơn nữa. Với sức khỏe đã hồi phục và công việc làm ăn nay đã trôi chảy, bố tôi bắt đầu nghĩ đến việc lập gia đình. Ông đã chấm cô gái mà ông muốn sau này sẽ trở thành vợ mình rồi, một thiếu nữ mắt đen, tóc đen mười lăm tuổi, tên là Zarouhi Yessayian, ông chưa quen biết cô Zarouhi một cách cá nhân. Theo tục lệ của người Ạc-mê-ni, không cô cậu nào được chuyện trò với nhau cho đến khi cha mẹ họ đã đồng ý với nhau về việc hôn nhân. Bố chỉ biết rằng khi ông đi ngang qua căn nhà của gia đình họ Yessayian ở số 6, Phố Gless thì tim ông đập rộn ràng trong lồng ngực. Bởi vì cha ông đã qua đời, nên một Trưởng lão ở hội thánh đã tiến hành thủ tục cầu hôn Zarouhi cho bố tôi. Với những người nhà Yessayians, ông bày tỏ triển vọng của bố: Ngay khi đã dành đủ tiền đặt cọc, bố sẽ làm lại công việc bán rau trái và mua đất nuôi bò sữa. Sau đó người thanh niên quả quyết rằng, không gì có thể ngăn trở anh thực hiện điều đó. Thế là bố tôi lấy vợ. Chẳng bao lâu sau, ông và mẹ tôi đã mua được mười mẫu Anh các cánh đồng ngô, trồng cây bạch đàn, và vùng đồng cỏ ở trung tâm Downey, và tuyệt hơn cả là ba con bò sữa. Bằng chính tay mình, ông và mẹ tôi đã xây dựng một ngôi nhà nhỏ bằng loại ván gỗ chưa thành phẩm. Mẹ thường bảo đó là một căn nhà nhỏ dễ lau rửa. Bởi vì các tấm ván dưới bề rộng 12 inches hở nhau đến nỗi nước cọ rửa sàn chỉ việc chảy qua các khe hở thấm xuống nền đất bên dưới. Với phần mở đầu, tôi nhận biết rằng đang khi ngồi hồi tưởng trong chiếc ghế phòng khách cũ kĩ bầu trời đã ửng nhạt đàng sau những hàng cây cam. Dầu vậy sự suy tưởng của tôi vẫn cứ vơ vẩn ở thời quá khứ ấy. Vào ngày 21 tháng bảy năm 1913, ngay trước khi bố mẹ tôi hoàn tất căn nhà nhỏ bằng ván tại Downey, đứa con đầu lòng của họ đã ra đời. Không giống như ông nội tôi, đã phải chờ đợi quá lâu để có một đứa con trai, đứa con đầu lòng của bố mẹ tôi là đứa con trai. Bố mẹ gọi tôi là Demos. Bên cạnh tôi, trên bàn là chiếc ấm đun trà to bằng đồng, chính là chiếc ấm
  • 18. ông tôi đã mang trên lưng từ Kara kala, đang bắt lấy ánh sáng buổi sớm mai. Tôi quay nhìn nó, các mặt được đánh bóng kĩ vàng rực trong ánh rạng đông, và tôi tự hỏi không biết khi đặt tên tôi theo tên của ông nội, cha mẹ tôi có đoán định rằng vai trò của lời tiên tri huyền nhiệm và dường như có ảnh hưởng sâu rộng cũng sẽ phải xảy đến trong cuộc đời tôi chăng. Đại Lộ Union Pacific Dầu đã dời đến Downey khi tôi được tám tháng, bố mẹ tôi vẫn tiếp tục dự nhóm ở ngôi nhà thờ nhỏ nằm trên đường Gless. Bố nói rằng chính từ hội thánh mà những người Ạc-mê-ni đã tìm được sức mạnh. Bố đã dạy tôi hai kỷ năng vào cùng một thời gian. Ngay khi đôi tay tôi đã lớn đủ, ông dạy tôi cách vắt sữa. Và ngay khi tôi đủ cao để đứng trên một cái thùng đựng cam mà với tới đầu con ngựa Jack thì ông đã chỉ cho tôi cách điều khiển nó. Một trong số những kỷ niệm đầu tiên của tôi là việc buộc con Jack vào cỗ xe độc mã và cùng gia đình, bấy giờ tôi đã có thêm hai cô em gái, Ruth và Lucy, lên đường đến nhà thờ. Chuyến đi vẫn phải mất hết ba tiếng đồng hồ mỗi lần, và buổi nhóm có cả buổi ăn trưa kéo dài đến năm giờ. Tôi vui hưởng từng điều một. Tôi thích nhìn xem những nông gia bắp thịt cuồn cuộn và những tá điền vung tay lên không khi Thánh Linh tuôn đổ trên buổi nhóm, những khuôn mặt hướng lên trời cho đến khi bộ râu đen dài của họ chỉa thẳng ra, song song với mặt bàn. Tôi ưa thích được nghe những giọng nói trầm trầm ấm áp của họ khi hát những bài Thánh ca Ạc-mê-ni cổ xưa. Ngay cả những bài giảng cũng có sức mê hoặc, bởi vì lúc ấy quá khứ trở nên sống động, trong ngôi nhà thờ nhỏ bé có khung gỗ ở Phố Gless. Người giảng luận sẽ nhắc nhở cho chúng tôi rằng Ạc-mê-ni là quốc gia Cơ đốc cổ nhất thế giới, và cũng là quốc gia chịu đau khổ nhiều nhất vì cớ niềm tin của mình. Những cuộc thảm sát gần đây của người Thổ nhĩ kỳ chỉ là những cuộc tàn sát mới nhất trong hồ sơ ghi chép về những nỗ lực man rợ của những kẻ láng giềng nhằm tiêu diệt đất nước nhỏ bé song bướng bỉnh này, và với việc không ngớt kể lại lịch sử dân tộc của chúng tôi, nó đã trở thành xương thịt của đất nước chúng tôi. “Chính vào năm 287” vị Mục sư bắt đầu giảng “một vị thánh trẻ tuổi là Gregory tự hỏi liệu ông có dám trở về quê nhà yêu dấu ở Ạc-mê-ni không. Gregory đã bị thất sủng đối với nhà vua và bị đày khỏi xứ sở, nhưng thời gian bị lưu đày ấy ông đã nghe được sứ điệp Cơ đốc cuối cùng, dầu rất nguy hiểm ông vẫn quyết định trở về rao giảng, chia xẻ Tin lành với những người ở quê hương mình. Chẳng bao lâu, nhà vua hay tin về việc chàng thanh niên trở về, đã bắt giữ
  • 19. anh và tống vào căn hầm tù sâu nhất của tòa lâu đài để cho anh ta chết đói. Nhưng con cái của đức vua vào những dịp không phải ở trước mặt vua đã được nghe lời giảng của Gregory, và đã trở thành những Cơ đốc nhân. Vị Mục sư đã vẽ ra một hình ảnh thật sống động về người phụ nữ trẻ lén lút xuống những bậc thang bằng đá ẩm ướt để đến được hầm tù tăm tối, tanh hôi, giấu trong mình một ổ bánh mì hoặc một bầu sữa dê bên dưới chiếc áo choàng xếp li. Trong suốt mười bốn năm cô đã tiếp tục giữ cho vị Thánh ấy còn sống. Vào lúc ấy một chứng bệnh ghê gớm bắt lấy nhà vua, một chứng tâm thần quái đản ném nhà vua xuống sàn và gầm gừ như một con vật. Trong những lúc tỉnh táo ông van nài các danh y hãy chữa cho ông được khỏi, nhưng không ai làm được. “Người đàn ông tên Gregory có thể giúp cha” cô con gái ông đề xuất. “Gregory đã chết từ nhiều năm rồi” nhà vua giận dữ nói. “Xương hắn ta đã mục rửa dưới chính tòa lâu đài nầy” “Ông ta vẫn còn sống” cô khẽ nói, và thuật lại mười bốn năm dài canh giữ. Gregory được mang lên khỏi hầm tối, tóc ông ta trắng xóa như tuyết trên đỉnh Ararát, nhưng tâm trí và tinh thần thì vẫn mạnh mẽ. Trong danh của Đức Chúa Jesus Christ, ông quở Quỷ đã hành hạ nhà vua và lập tức, vua được chữa lành. Năm 301, nhà Vua cùng Thánh Gregory khởi sự giành được sự cải đạo cho toàn thể xứ sở Ạc-mê-ni. Trên con đường dài trở về nhà, tôi hồi tưởng lại câu chuyện một lần nữa, suy nghĩ về con người kiên trì tại ngục tối, bị nhốt kín từ năm này sang năm nọ, vẫn không hề mất đức tin, cứ chờ đợi đến đúng thời điểm của Đức Chúa Trời. Khi người cuối cùng trong sáu cô con gái của mình đã lấy chồng, bà nội đến ở với chúng tôi trong căn nhà ván nhỏ bé. Tôi còn nhớ rất rõ về bà, một bà cụ nhỏ nhắn với mái tóc bạc trắng, đôi mắt sáng ngời niềm tự hào về người con trai duy nhất của bà. Nỗi buồn duy nhất của bà, như bà vẫn thường nói, là ông Demos đã không còn sống để nhìn thấy dòng họ nhà Shakarian một lần nữa lại dựa trên miếng đất của chính mình. Bà Goolisar qua đời tại đó, trong gian buồng nhỏ. Bà là một người phụ nữ hạnh phúc và toại nguyện. Thế rồi khi tôi lên mười, công việc ở trại bò sữa phát triển. Ba con bò sữa đã thành ra ba chục, rồi đến một trăm, và rồi lên đến năm trăm con, và mười mẫu đất lúc đầu nay đã tăng lên hai trăm mẫu. Bây giờ, bố tôi mơ làm chủ một trại bò sữa rộng lớn nhất và hoàn hảo nhất vùng California. Nếu sự lao động sẽ dẫn đến niềm mơ ước đó, thì sẵn sàng làm việc, bởi vì bố biết cách làm việc và cũng biết cách điều động những người còn lại trong chúng tôi làm việc nữa. Bây giờ còn có cả một gian nhà xây cho các công nhân làm việc ngủ lại, đầy
  • 20. những người Mỹ gốc Mêxicô cùng làm việc bên cạnh chúng tôi trong các nhà to, bố và tôi đã học nói tiếng Tây ban nha. Tôi không biết ai ưa thích chuyện của ai hơn: Những câu chuyện của họ về Mêhicô hay là những kỷ niệm của bố về đời sống ở tại Ạc-mê-ni. Họ thường không được nghe đầy đủ về Efim, cậu bé Tiên Tri hoặc về chuyện Magardich Mushegan báo trước việc bố ra đời. Mỗi lần có một người mới vào làm với chúng tôi là bố phải kể tất cả các câu chuyện lại một lần nữa. Về sau, ông cứ luôn phải thuật lại đám tang của Efim năm 1915, đó là một tang lễ long trọng nhất mà khu chung cư Los Angeles từng được chứng kiến. Ông Efim không dự nhóm với hội thánh ở Phố Gless (là nơi các buổi nhóm đều nói tiếng Ạc-mê-ni) mà ông nhóm với hội thánh nói tiếng Nga ở cách đó vài dãy phố. Trong ngày cử hành tang lễ vĩ đại đó, không những hai hội chúng kể trên cùng nhau hiệp lại, mà cả những người Ạc-mê-ni và người Nga theo Chính Thống giáo cũng đã bỏ qua những ý kiến chống đối trước “sự tiếp tục phát triển của giáo phái Ngũ tuần tự do” và đã tham dự buổi nhóm, vì rất nhiều người trong số họ cũng đã đến đất Mỹ vì cớ lời tiên tri ấy. “Còn về lời tiên tri thứ hai thì thể nào? Những người Mỹ gốc Mêhicô sẽ hỏi. “Là điều vẫn chưa xảy ra cơ mà?” “Nó vẫn được giữ an toàn. Con trai Efim còn giữ nó” “Và nếu mở nó bạn sẽ chết phải không” “Trừ khi bạn là một tiên tri được Chúa chỉ định” “Theo bạn nghĩ, ai sẽ là vị tiên tri đó” Dĩ nhiên là chẳng có ai biết được câu trả lời đó. Vào khoảng thời gian cậu bé Tiên Tri qua đời, tôi bị một sự thương tật gây cho tôi thật nhiều vấn đề. Thậm chí tôi đã không hề biết làm thế nào mà tôi đã bị dập mũi. Một cậu bé mười tuổi làm việc ở khắp chỗ trong trại thì hẳn va đầu sứt trán nhiều lần. Dẫu sao, khi tôi bắt đầu nhận ra rằng mình không nghe rõ như những đứa trẻ khác trong lớp năm, thì mẹ tôi liền đưa tôi đến bác sĩ. Vị bác sĩ bảo “thưa bà Zarouhi, vấn đề thể nào thì tôi có thể cho bà biết, nhưng phải làm cái gì thì không chắc. Cậu Demos đã bị dập mũi và khi lành đã có sự cố. Cả lỗ mũi lẫn các ống tai đầu bị nghẽn. Chúng tôi có thể thử làm phẫu thuật, nhưng thường không thành công lắm”. Và họ cũng đã không thành công trong trường hợp của tôi, hầu như, cứ mỗi năm, tôi lại phải đến bệnh viện để có một cuộc giải phẫu nữa, và cứ mỗi năm, các ống tai lại càng khép chặt. Ở trường, tôi phải ngồi ngay dãy đầu để nghe hết những gì thầy giáo nói. Mặc dầu không lúc nào Chúa Jesus không là người bạn thân của tôi, song trong những tháng này, khi chứng điếc của tôi trở nên tồi tệ hơn, thì dường như Ngài lại càng gần gũi tôi hơn bao giờ hết. Tôi không còn được nhập bạn
  • 21. với những cậu bé khác trong các trò chơi sau giờ học nữa (“đừng rủ thằng Demos, nó chẳng nghe gì cả”) vì vậy tôi rất cô độc. Song tôi không quá phiền muộn. Công việc mà tôi ưa thích trong trang trại là cuốc cỏ bắp, bởi vì lúc đó tôi có thể đi xa mãi tận các cánh đồng và trò chuyện lớn tiếng với Chúa. Hai mùa hè năm tôi lên mười hai và mười ba, đối với tôi dường như các rãnh bắp là những lối đi dài đan lờ mờ giống như lối đi trong ngôi giáo đường màu xanh lá cây có những cánh lá có gân lớn làm thành vòm khung ở trên đầu. Ở đó tôi đưa hai tay lên làm như những người đàn ông đã làm tại nhà thờ: “Xin cho con nghe lại được, lạy Chúa Jesus! Xin đừng nghe vị bác sĩ nói con sẽ không đỡ hơn” Tôi còn nhớ từng chi tiết ngày Chúa nhật đó năm 1926, khi tôi đã mười ba tuổi. Tôi còn nhớ đã thức dậy và thay quần áo trong phòng mình ở tận lầu hai trong ngôi nhà mới của chúng tôi. Bấy giờ, bố tôi đã có một ngàn con bò sữa, và đã xây một ngôi nhà hai tầng theo kiểu Tây Ban Nha với các bức tường tô xi măng trắng và mái ngói đỏ. Tôi cảm thấy vui vẻ khi thay đồ đi nhà thờ. Vui vẻ một cách dễ chịu như thể toàn thân tôi đang ở trong một loại giai điệu tâm linh đặc biệt nào đó. Tôi đi xuống cầu thang dài hình cong để hát trong bữa điểm tâm. Bố mẹ và các em tôi đều đã sẵn sàng nơi bàn ăn. Lúc bấy giờ đã có ba cô em gái thêm vào gia đình. Đứa bé nhất, Florence, vẫn còn là một em bé hai tuổi, còn bốn đứa lớn hơn vẫn huyên thuyên sôi nổi về chuyến đi hàng tuần của chúng tôi lên phố. Tôi cố nhập bọn nhưng chẳng bao lâu đã bỏ cuộc. Bạn làm thế nào để nói chuyện với những người nói lí nhí, chẳng nghe được gì cả? Jack, con ngựa già của chúng tôi, không còn kéo cỗ xe nhà độc mã đi mười lăm dặm đến nhà thờ mỗi sáng Chúa nhật nữa. Năm ngoái khi nó được mười sáu tuổi, bố tôi đã thả nó ra ngoài đồng cỏ để hưởng phần còn lại của đời nó trong chế độ hưu thật xứng đáng. Thay chỗ của nó, bây giờ chúng tôi đã có một chiếc xe du lịch dài màu đen Studebaker, trần bằng vải bạt và có một cái thùng gồm các trục dự phòng nằm bên dưới chỗ ngồi sau dành cho những con đường gồ ghề trong nông trại. Ngày Chúa nhật hôm đó, ngôi nhà thờ nhỏ rầm rì với sự náo động. Không ai trong phòng nhóm là không biết điều đã xảy ra vào tuần lễ trước, vì bà mẹ của một phụ nữ trong hội chúng đã rời Ạc-mê-ni từ hai tháng trước để đến với con gái của mình tại Hoa kỳ. Kể từ đó không hề có tin tức gì về bà, và người con gái này đang lo lắng phát cuồng. Đang khi hội thánh bắt đầu cầu nguyện cho hoàn cảnh ấy, thì chồng bác Esther, là ông George Stepania, thình lình đứng lên và bước ra ngoài cửa. Ông đứng đó một hồi lâu chăm chú nhìn ra đường phố như thể nhìn thấy tận chân trời xa. Cuối cùng, ông nói “Mẹ cô mạnh khỏe, ba ngày nữa bà sẽ đến Los Angeles”.
  • 22. Ba ngày sau, bà cụ đến nơi. Và vì vậy, ngày hôm nay, trạng thái chờ đợi của mọi người đang dâng cao, ai nấy đều tự hỏi không biết hình thức chúc phước kế tiếp của Chúa sẽ là điều gì. Có thể có người sẽ được chữa lành. Có thể có người sẽ nhận được sự hướng dẫn... Ngay khi tôi đang suy nghĩ về điều đó, một việc lạ lùng đã bắt đầu xảy ra, không với ai khác, mà là tôi. Đang khi ngồi ở dãy ghế ngoài cùng với những cậu bé khác, tôi cảm thấy có cái gì giống như chiếc mền len nặng trĩu đặt lên hai vai tôi. Tôi nhìn quanh hoảng hồn, nhưng không có ai chạm đến tôi cả. Tôi thử cử động hai cánh tay, nhưng không được, y như tôi đang kéo chúng ở trong nước. Thình lình, hàm răng tôi đánh lộp cộp với nhau như đang run vì lạnh, mặc dầu “chiếc mền” thì có cảm giác ấm. Các bắp thịt ở cổ sau bị thắt chặt. Tôi có một nỗi khao khát bất chợt muốn nói với Chúa Jesus rằng tôi yêu Ngài, nhưng khi tôi mở miệng để nói điều đó thì lại tuôn ra những lời mình không thể hiểu. Tôi biết chúng không phải tiếng Ạc-mê-ni, tiếng Tây Ban Nha, hay tiếng Anh, nhưng chúng xuất phát từ tôi như thể cả đời tôi đã nói thứ tiếng ấy. Tôi quay sang cậu bé ngồi bên và cứ thấy nó nhe răng cười. “Demos đã nhận được Thánh Linh” nó nói lớn tiếng và mọi người trong nhà thờ đều quay lại. Có ai đó hỏi tôi một câu, và mặc dầu hoàn toàn hiểu, tôi chỉ có thể trả lời bằng những âm thanh lặp bặp, bày tỏ sự vui mừng. Cả hội chúng bắt đầu ca hát và ngợi khen Chúa trong sự vui mừng đang khi tôi thờ phượng Ngài bằng thứ tiếng mới của mình. Thậm chí vài giờ sau, trên đường đi về nhà, hễ ai nói chuyện với tôi cũng đều được trả lời bằng tiếng lạ. Tôi lên lầu, vào phòng mình đóng cửa lại, những âm tiết vui sướng không thể hiểu được vẫn tuôn tràn ra từ môi miệng tôi. Tôi thay bộ đồ ngủ và tắt đèn. Ngay giây phút đó ý thức về sự hiện diện của Đức Chúa Trời tràn ngập tôi mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Dường như sự bao phủ vô hình đã ở trên hai vai tôi cả buổi chiều đã trở thành nặng nề không thể chịu nỗi, mặc dầu không muốn làm vậy, tôi mọp xuống sàn và nằm trên tấm thảm, hoàn toàn bất lực, không thể đứng dậy mà leo lên giường nỗi. Đó không phải là một từng trải gây sợ hãi, song là một kinh nghiệm bổ dưỡng và tươi mới, giống như giây phút đặc biệt ngay trước khi bạn chìm vào một giấc ngủ say. Khi tôi nằm trong phòng mình như vậy, thời gian bắt đầu mang một giá trị đời đời và trong cõi đời đời đó tôi nghe một tiếng nói. Chính là tiếng nói mà tôi thật sự nhận ra rất rõ, bởi vì tôi đã từng nghe tiếng phán ấy trong ngôi giáo đường xanh lá cây của tôi ở ngoài cánh đồng ngô. Demos, con ngồi lên được chăng? Tôi cố thử, song vô hiệu. Có một sức mạnh nào đó, mạnh mẽ khác thường,
  • 23. song êm dịu vô cùng giữ tôi lại ở đó. Tôi biết mình là một cậu bé khỏe mạnh như Aram Mushegan, rất dai sức đúng với một cậu bé mười ba tuổi. Thế mà các bắp thịt của tôi không còn sức lực, tệ hơn cả một con bê con mới đẻ. Tiếng phán ấy lập lại một lần nữa. Demos, con có bao giờ nghi ngờ quyền năng của ta chăng? “Lạy Chúa, không ạ” Câu hỏi ấy được lập lại ba lần. Cả ba lần tôi đều trả lời. Thế rồi lập tức tất cả sức mạnh đang ở chung quanh tôi dường như cũng vào cả bên trong thân thể tôi nữa. Tôi cảm thấy một năng lực siêu nhiên trào dâng. Làm như tôi có thể bay bỗng ra khỏi nhà và lướt trên bầu trời bằng quyền năng của Đức Chúa Trời. Tôi cảm thấy như thể mình có thể nhìn xuống trái đất từ cái nhìn của Đức Chúa Trời, nhìn thấy mọi nhu cầu của con người theo lợi thế từ sự cung ứng của Ngài. Và suốt thời gian đó Ngài thì thầm với lòng tôi: Demos, quyền năng là quyền thừa kế tự nhiên của mỗi một Cơ đốc nhân. Demos, con hãy nhận lấy quyền năng. Và thình lình trời rạng đông. Tôi có thể nghe được tiếng chim nhại ở ngoài cửa sổ. Tôi ngồi dậy và bắt đầu nghe được. Tôi nghe được gì thế? Đã nhiều năm tôi không nghe tiếng chim hót. Tôi nhảy lên, cảm thấy hoàn toàn và sống động một cách kỳ diệu, và mặc quần áo một cách khó khăn. Đã hơn năm giờ sáng, bố và tôi đều phải có mặt ở nơi vắt sữa đúng 5g30. Khi tôi mở cửa phòng vào buổi sáng lạ thường ấy, tôi đã nghe tiếng trứng chiên kêu xèo xèo ở trong bếp. Tiếng lách cách của bát đĩa, tiếng chim hót, và tiếng lép kép của từng bước chân khi tôi phóng xuống thang lầu lát gạch đỏ, đúng là những âm thanh nhỏ nhặt mà tôi không nhận biết là mình đang thiếu mất. Tôi lao vào bếp “bố, mẹ! Con nghe được rồi” Sự chữa lành không bao giờ hoàn toàn. Khi mẹ và tôi trở lại với vị bác sĩ, ông khám phá rằng 90 phần trăm đã nghe được bình thường. Vì sao 10 phần trăm còn suy kém tôi không biết, và tôi cũng chẳng quan tâm đến. Tôi còn nhớ, sau đó cũng vào buổi sáng thứ hai đó, khi công việc vắt sữa đã xong, đi một mình đến nơi giáo đường màu xanh lá cây. Những cây bắp đã cao, chuẩn bị thu hoạch. Tôi ngồi xuống giữa hai luống bắp, bẻ một trái, và nhâm nhi những hạt bắp nhỏ vọt chất sữa ra. “Lạy Chúa” tôi nói “con biết khi Ngài chữa lành cho người ta là bởi vì Ngài muốn giao công việc cho họ thực hiện.” “Chúa ơi, Ngài có tỏ cho con công việc mà Ngài dành cho con chăng?” Thoạt đầu, cũng như những cậu bé khác trong lớp mới trở thành những ngôi sao bóng rỗ, còn tôi, tôi mơ trở thành một nhà tiên tri. Lúc xảy ra biến cố ấy tôi chỉ lớn hơn cậu bé Tiên Tri một chút khi cậu có khải tượng.
  • 24. Nhưng năm tháng trôi qua, tôi không nhận được ân tứ kỳ diệu nầy. Lời tiên tri sẽ đóng một vai trò quan trọng trong đời sống con, nhưng con sẽ không trở thành nhà tiên tri. Dường như Chúa đang phán lời ấy. Thế rồi một ngày kia tôi có được một kinh nghiệm khiến tôi tự hỏi không biết có phải mình trở thành một người chữa bệnh hay không. Đứa em gái út của tôi là Florence được sáu tuổi khi em ngã trúng ống trụ ở ngoài kho và bị vỡ xương khuỷu tay phải. Ngay khi các nhà giải phẩu và vị chuyên gia về xương đã hoàn tất công việc của họ, và đều tin rằng Florence vẫn sử dụng được tay của mình. Nhưng khuỷu tay sẽ không bao giờ gập lại được và cứ cứng nhắc. “Khi nào tháo băng bột, chúng tôi có thể bắt đầu điều trị. Với sự kiên trì, cô bé có thể phục hồi hai mươi phần trăm hoạt động của khớp xương nhưng đó là khả năng cao nhất mà chúng tôi có thể trông mong” Một ngày Chúa nhật không lâu sau lời tường trình đó, tôi có lại cảm giác của một chiếc mền ấm áp và nặng, đè lên hai vai mình. Tôi không cần thắc mắc đấy là ai, cũng không phải hỏi mình phải làm gì: Tôi phải băng ngang phòng nhóm để cầu nguyện chữa lành cho cánh tay của Florence. Vì vậy, trong lúc mọi người đang hát Thánh ca thì tôi yên lặng đứng lên, rời khỏi băng ghế mình và bước qua khu vực dành cho phụ nữ. Tôi cúi mình xuống và nói với Florence, lúc này đang ngồi ở băng ghế sau cùng, cánh tay phải của em được bó trong khuôn bột khổng lồ. Độ ấm của chiếc mền lan truyền xuống hai cánh tay tôi và dẫn đến hai bàn tay. “Florence” tôi khẽ nói “anh sẽ cầu nguyện cho khuỷu tay của em” Đôi mắt to đen của em ngước nhìn tôi một cách trang trọng. Tôi đặt hai tay mình lên khuôn bột. Thật sự, tôi thật khó mà cầu nguyện được gì, mà chỉ đứng yên ở đó để cảm nhận một luồng lửa nóng chạy xuống hai cánh tay, hai bàn tay dẫn đến chỗ bó bột bọc quanh khuỷu tay của Florence. “Em thấy rồi” Florence thì thào “em thấy nóng” chỉ có thế thôi. Đó là tất cả. Trong giây lát cảm nhận về sự bao phủ ở trên tôi và tôi trở về chỗ mình. Tôi ngờ rằng có đến sáu, bảy người đã để ý chúng tôi. Vài tuần sau em tôi đi tháo bột băng. Chiều hôm đó, tại bàn ăn, mẹ kể lại cho chúng tôi thế nào vị chuyên gia đã đặt một tay vào chỗ làn da trắng ở khuỷu tay Florence, tay kia ông giữ cổ tay em và thận trọng thử duỗi thẳng cánh tay bị thương từng phân một. Khi cánh tay đã đưa hoàn toàn về vị trí cũ, rồi đưa tới, đoạn quay được một vòng rộng quanh khuỷu tay, thì nét mặt ông đột nhiên nở một nụ cười hoài nghi. “Tốt rồi...!” ông cứ bảo vậy “ôi! Tốt hơn điều tôi mong đợi. Tốt hơn nhiều! Ôi tại sao mà nó...nó lại giống như cánh tay chưa hề bị gãy thế này?” Vì thế, mùa hè năm ấy ở tại cánh đồng ngô, tôi thấy mình đang hỏi Chúa rằng có phải chữa lành là công việc của Ngài dành cho tôi chăng. Dường như một lần nữa tôi lại nhận được câu trả lời: Tất nhiên. Ta muốn hết thảy
  • 25. hội thánh Ta đều làm công việc đó. Con sẽ thấy nhiều sự chữa lành kỳ diệu, một số bởi chính tay con. Nhưng Demos, đó cũng không phải là công việc đặc biệt ta dành cho con. Tôi đã mười bảy tuổi mà mới học lớp mười Trung học, đáng lẽ tôi đã lên lớp mười hai của trường Trung học, nhưng tôi đã mất hai năm vì chứng điếc, khi ấy bố tôi đã mua một nông trại thứ hai. Bấy giờ chúng tôi đã có chỗ để xây cất những tháp cao chứa thức ăn cho gia súc, và đủ vốn để lắp đặt các hệ thống máy vắt sữa tự động. Bố tôi cũng đang bắt đầu những công việc khác. Một vấn đề gây đau đầu cho chúng tôi và những nông gia lân cận trong trại bò sữa đó là chúng tôi phải luôn luôn đưa sữa từ nông trại đến nhà máy đóng chai. Vì vậy bố tôi bắt đầu một công việc vận chuyển sữa. Sau đó, bố để ý thấy giá thịt heo chà bông ở Los Angeles rất cao, nên ông cũng bắt đầu nuôi lợn thịt để đóng hộp. “Đức Giêhôva sẽ khiến phước lành ở cùng ngươi trong các công việc ngươi”. Dường như đúng là mọi điều Ysác đứa con trai của lời hứa, đụng vào, đều được định rằng sẽ thịnh vượng. Sự thành công của ông hoàn toàn đáng chú ý hơn bởi vì lúc này là những năm suy thoái trầm trọng của đầu thập kỷ ba mươi. Bấy giờ bố đã cho tôi quản lý một bầy súc vật nhỏ, và tôi còn nhớ vị giáo sư giúp tôi lập sổ sách kế toán đã báo cho tôi biết với một vẻ tiếc rẻ rằng với ba mươi con bò cái, tôi có thể kiếm nhiều hơn tất cả các giáo sư ở tại Trường Trung Học Downey. Gia đình tôi lúc bấy giờ đã thu hút sự chú ý của các nhà chính trị, những nhà doanh thương và các vị lãnh đạo cộng đồng, mẹ tôi, từ một thiếu nữ e thẹn nhập cư từ Ạc-mê-ni, nay trở thành bà chủ, tiếp đón và chiêu đãi các buổi dạ tiệc hàng tuần cho những nhân vật có quyền thế hoặc lỗi lạc. Bà thật sự là một người nấu ăn tuyệt vời và chẳng bao lâu những món ăn của bà như món dolmas, kuftas và katahs đều đã nổi tiếng khắp miền Nam California. Nhưng điều chủ yếu mà tôi còn nhớ được về việc nấu nướng của mẹ tôi đó là dẫu người khách là ai bà vẫn quan tâm đến họ như nhau. Những kẻ lang thang thất nghiệp là những vị khách ghé thăm thường xuyên trong những ngày ấy; và họ cũng được đối xử như vị thị trưởng Downey: Chén bát sứ đẹp nhất, các đĩa muỗng nĩa bằng bạc, khăn phủ bàn. Nếu bữa ăn nóng chưa sẵn sàng, thì bà sẽ chuẩn bị cho họ một bữa với thịt, rau cải và bánh nướng làm tại nhà và lúc nào cũng giục giã họ bằng thứ tiếng Anh còn hạn chế của mình “ngồi, ăn đi đừng có vội vàng!” Trong lúc ấy tôi thấy mình ngày càng thường xuyên bị kéo đến một địa chỉ khác. Hễ khi nào công việc trang trại khiến tôi phải đến phía Đông Los Angeles, thì tôi lại tìm một cái cớ để đi vớ vẩn qua ngôi nhà màu kem, có những dây leo mọc dài ở số 4311 Đại lộ Union Pacific của dòng họ Sirakan Gabriehian, với hy vọng rằng cô con gái của họ bất ngờ xuất hiện ở trong
  • 26. sân. Không phải để được nói chuyện cùng nàng dầu cho nàng có đồng ý (bởi vì những cuộc trò chuyện nam nữ, trừ khi hai người đã hứa hôn, vẫn không nghe nói đến trong cộng đồng của những người Ạc-mê-ni). Song chỉ để biết rằng cô ta đang ở gần và điều đó tràn ngập lòng tôi một niềm hạnh phúc khó tả. Và luôn luôn có những ngày Chúa nhật để mà trông ngóng. Chúa nhật là ngày Rose Gabrielian sẽ ngồi với những cô gái khác bên dãy ghế dành cho phụ nữ trong nhà thờ, nàng là cô bé xinh đẹp nhất phòng, là người mà tất cả các chàng trai đều kín đáo dõi mắt theo. Tên thánh của cha cô là Sirakan, có nghĩa là người yêu, theo tiếng Ạc-mê-ni, tôi thích gọi tên đó. Giống như bố tôi, Sirakan đã bắt đầu từ chỗ không có gì cả. Cuối cùng ông đã thâu góp được một trăm mỹ kim, và cũng như bố tôi, đã mua một con ngựa và một thùng xe. Tuy nhiên, thay vì chuyên chở trái cây và rau cải bằng phương tiện của mình, ông Sirakan bước vào công việc thu gom phế phẩm. Đó là một dịch vụ rất cần thiết ở tại Los Angeles ngay sau khi chuyển sang thế kỷ mới, và chẳng bao lâu sau ông đã mua được một con ngựa và một cỗ xe thứ hai, rồi đến thứ ba. Sirakan và gia đình ông đều là những người Ạc-mê-ni theo Chánh Thống Giáo. Ông sống gần nhà thờ ở phố Gless. Tuy nhiên, khi nghe được những âm thanh vui vẻ vang vọng ra từ những khung cửa sổ để ngỏ tuần này sang tuần khác ông quyết định tìm hiểu sự thật. Sau một thời gian dài, ông đã gia nhập hội thánh chúng tôi và vì cớ ấy mà suýt mất mạng. Đối với nhiều người Ạmêni theo Chánh Thống Giáo, những người theo giáo phía Ngũ Tuần được xem như là những người phản bội niềm tin cũ. Tìm thấy một người trong hội mình gia nhập vào nhóm người đáng ghét này thì cũng giống như thấy người đã chết. Vì vậy họ quyết định chôn ông ta. Một ngày kia khi Sirakan dừng xe ở bãi rác của Thành phố với đống phế thải ngập xe, thì một nhóm những người theo Chánh Thống Giáo đã đợi ông ở đấy. Họ trói tay chân của ông lại và khiêng ông đến một cái hố mà họ đã đào sẵn chỗ bãi cát. Họ ném ông xuống đó và thật sự đã lấp mấy tấc đất lên trên, rồi vào lúc đó có một chiếc xe do những người Ngũ tuần đánh ngựa chạy đến, và giữa cuộc xô xát tiếp theo đó Sirakan chui ra một cách rất vất vả. Tôi ưa nghe ông kể câu chuyện ấy. Tôi cũng thích nghe ông kể về chuyện ông lấy vợ nữa. Khi Sirakan hai mươi mốt tuổi, cha ông quyết định quay về Ạc-mê-ni để tìm một người vợ, mẹ Sirakan đã mất từ nhiều năm trước. Công việc chở phế phẩm của Sirakan lúc bấy giờ cũng đang phát đạt, vì vậy ông xin cha mình cũng hãy dẫn về cho ông một cô dâu nữa. Cha Sirakan đã thành công trong cả hai cuộc tìm kiếm. Về phần con trai mình, ông đã chọn được một cô gái xinh xắn mười ba tuổi tên là Tiroon
  • 27. Marderosian. để thuận tiện cho việc nhập cư vào Hoa Kỳ, cô được kết hôn theo sự ủy nhiệm ở tại Acmêni, sau đó lên đường trong cuộc hành trình dài để về sống với người chồng mà cô chưa hề biết mặt. Về sau họ mới biết rằng mình là những người may mắn thoát chết. Chỉ một vài tuần lễ sau đó, người Thổ nhỉ kỳ tấn công vùng đất ấy và hai cô dâu là những người cuối cùng rời khỏi làng mà còn sống. Việc chào đón Tiroon đến Los Angeles hẳn phải là một chuyện lạ đời nhất mà người vợ quá trẻ như cô từng được kinh nghiệm. Sirakan đã không nghĩ rằng cha mình và hai người phụ nữ kia sẽ đến cho tới ngày hôm đó, ông trở về, từ bãi rác Thành phố, bắt gặp một cô bé với cái nhìn khiếp sợ đang đứng ở phòng khách. Anh giật mình nhận ra rằng cô ta hẳn phải là vợ mình, mà anh thì đang đứng đấy từ đầu đến chân phủ đầy bụi bặm. “Hãy đứng đấy” anh ta hét lên với cô. “Đứng yên đấy” như thể là cô gái đáng thương ấy đang sắp chạy đi đâu đấy. Anh ta chạy ù ra sau nhà và nửa giờ sau, tắm rửa sạch sẽ, đầu chải gọn gàng và cảm thấy như cô ấy có cái gì đó rất gần gũi với cuộc đời mình, Sirakan, “người yêu Gabrielian bắt đầu nói lời chào mừng chính thức với người thiếu nữ rất trẻ mà gương mặt lúc bấy giờ đã dịu đi vẻ căng thẳng. Họ chính là bố mẹ của Rose, là những người rồi đến một ngày kia sẽ chọn một người chồng cho cô. Song tôi không bao giờ được tiếp xúc trực tiếp với họ để cầu hôn con gái họ. Trong hoàn cảnh của tôi cũng như trong hoàn cảnh của cô ấy, chính gia đình là người phải đứng ra lo liệu. Tôi run làm sao trong buổi tối mà tôi phải mở miệng trình bày vấn đề của mình. Vào một buổi chiều tháng sáu năm 1932, cả gia đình ngồi quanh bàn ăn ở phòng khách, những cánh cửa hình vòng cung đều mở để đón gió. “Thưa bố, con biết bây giờ con đã mười chín tuổi” tôi nói. Bố tôi chùi hàm râu mép và cắt một miếng thịt bò khác. “Và” tôi vội tiếp “con sắp tốt nghiệp Trung học. Và con cũng đang giúp cho các trang trại được sinh lợi thưa bố, bố cũng mười chín tuổi khi bố cưới vợ ạ” Cả năm cô em gái tôi đều dừng ăn. Mẹ tôi đặt nĩa xuống bàn. Có phải là một cô gái đặc biệt không? Mẹ hỏi. Vâng ạ. Cô ấy là người Ạc-mê-ni? Vâng ạ. Thế cô ấy có phải là Cơ đốc nhân không? Ô, thưa mẹ vâng. “Đó là” tôi mở miệng “Cô..cô ấy chính là Rose Gabrielian “À a a... “ Mẹ tôi “Thế...” Bố tôi “Ố ô ồ... Tất cả các cô em gái tôi kêu lên một lượt và thế là bắt đầu chuẩn bị cho một tiến trình cầu hôn với những chi tiết xưa cổ hàng thế kỷ thật cầu kỳ. Trước hết, mặc dầu các gia đình thường xuyên gặp nhau hàng tuần ở tại nhà thờ và đều là những bạn bè thân quen, vẫn phải sắp xếp một buổi “gặp gỡ”
  • 28. chính thức. Vấn đề tế nhị này luôn luôn được giao cho một người môi giới mà gia đình đã lựa chọn một cách cẩn thận. Sau khi đã bàn bạc kĩ lưỡng với nhau, (dĩ nhiên là tôi không được tham gia). Bố và mẹ đều đồng ý rằng nhân vật thích hợp nhất dành cho các công tác hết sức tế nhị này là bác Raphael Janoian, chồng của cô Siroon, chị bố tôi. Tôi nhủ thầm, một điềm tốt, bởi vì trong sáu vị đã kết hôn với sáu người cô của tôi, bác Janoian là người tôi ưa thích nhất. Bác có một bãi phế liệu lớn, là nơi khi tôi mười bốn tuổi, được bác cho lục lọi tìm kiếm các bộ phận xe hơi cũ để lắp ráp chiếc xe máy đầu tiên của tôi. Chính bãi phế liệu ấy đã khiến bác có mối liên hệ hàng ngày với công ty vận tải phế liệu của nhà họ Gabrielian. Tôi còn nhớ thế nào mình đã chạy ra đón mừng khi chiếc xe của bác quẹo vào sân nhà, sau khi bác đã công khai chính thức đến thăm gia đình nhà Sirakan Gabrielian. Nhưng bác Janoian không tiết lộ công việc được ủy thác một cách khinh suất như vậy. Bác tiến vào phòng khách với một cung cách hết sức trang trọng, nhận lấy tách trà đậm, ngọt và thong thả khuấy một cách chậm rãi. “Thế nào, anh Raphael” bố tôi giục. “Thế này, Ysác à”. Bác Janoian báo cáo ngày hẹn đã được đồng ý. Nhà họ Gabrielian sẽ rất vui sướng để nhận chuyến viếng thăm từ phía bên nhà họ Shakarian vào ngày hai mươi tháng tới. Cuộc viếng thăm đã được đồng ý! Như vậy, ít nhất họ cũng đã không từ chối lời thỉnh cầu của tôi, và tất nhiên điều đó hẳn phải hàm ý rằng Rose dầu sao cũng vui lòng để mà ngắm nghía tôi. Đầu óc tôi tràn ngập những suy nghĩ mông lung. Cuối cùng thì ngày 20 tháng 7 cũng đã đến. Tôi hoàn tất các công việc của mình trong trang trại một cách kỷ lục và bắt đầu sửa soạn. Tôi tắm rửa, rồi lại tắm trở lại một lần nữa. Tôi đánh răng cho đến khi mất hết cả men răng, tôi dùng cả nước súc miệng Listerine lẫn Lavoris. Tôi kỳ cọ những móng tay đầy cáu bẩn vì công việc nông trại cho đến khi bàn chải muốn rụng hết các sợi cước. Tôi nghe tiếng xe bố đang lui ra khỏi gara. Phóng lên lầu một lần chót nữa để chùi một vết bẩn khỏi đôi giày và thấm nhẹ chất cầm máu vào chỗ chảy máu mà tự tôi đã cứa phải khi cạo râu lần thứ ba. “Demos!” Bố tôi gầm lên từ lối đi dưới sân “con đang làm cái gì nữa đấy, bộ muốn đẹp hơn cả cô Rose nữa à?” Bị nêm chặt giữa các cô em gái trong dãy sau, tôi thấy như mười bảy dặm giữa Downey và Los Angeles chưa bao giờ lại dài đến thế. Cuối cùng chúng tôi đã dừng lại ở số 4311 đường Union Pacific. Đoàn chúng tôi tiến vào lối đi trãi sỏi, băng ngang những luống cỏ được chăm sóc sạch sẽ trồng các loại
  • 29. rau húng quế, rau mùi tây và những loại rau thơm dược thảo. Cánh cửa trước mở tung và tất cả đều đã đứng ở đấy: Ông Sirakan và bà Tiroon, người anh lớn của Rose, Edward, các cậu, các bà dì, bà cô và các anh em họ hàng không thể đếm hết, và sau cùng là Rose, trong chiếc áo mùa hè mang màu tên nàng, màu hồng. Tôi không dán mắt vào nàng lâu được, vì ngay lập tức, cuộc tụ họp bị tách ra hai nhóm riêng biệt, theo kiểu của người Ạc-mê-ni, các ông một bên căn phòng lớn, và các bà ở phía bên kia. Thỉnh thoảng tôi liếc qua chỗ Rose đang ngồi với các cô em tôi và tự hỏi không biết các cô ấy đang bàn tán những gì. Rose cùng tuổi với Lucy em tôi, tôi nghĩ có bao giờ mình được trò chuyện với Rose một cách tự nhiên và dễ dàng nhu Lucy không nhỉ. Tôi cũng chẳng được tham gia vào cuộc nói chuyện quan trọng đang tiếp tục ở giữa hai chiếc ghế đặc biệt đã được kéo lại gần nhau của bố tôi và ông Sirakan Gabrielian. Không biết đều gì đã được thông qua giữa họ, nhưng trông cả hai đều có vẻ hài lòng, lúc tiễn cha tôi ra cửa, ông Gabrielian bảo “tôi sẽ chuyển lại những điều ông nói cho Rose” Và hai ngày sau, bác Janoian đã chuyển lại câu trả lời thật quan trọng. Rose đã bằng lòng lấy tôi. Giờ đến năm đêm truyền thống tổ chức ăn mừng ở tại nhà gái vì câu trả lời đồng ý. Đó là những buổi tối tràn ngập niềm vui với việc ca hát, ăn uống, đọc diễn văn, những lời chúc mừng nhau, bởi vì giữa vòng người Ạc-mê-ni, đó không chỉ là việc hai người lấy nhau mà là hai gia đình kết hôn với nhau. Có một buổi tối, Rose biểu diễn Pianô cho chúng tôi nghe, trong lòng tôi trào lên một niềm kiêu hãnh khi chú ý các ngón tay mềm mại của nàng lướt trên phím đàn. Tôi cũng từng học các bài Vi-ô-lông, nhưng đã kết thúc việc học do sự đồng ý chung của giáo sư, của chính tôi, và của mọi người đã từng được nghe tôi kéo. Florence được hưởng cả chiếc đàn Vi-ô-lông lẫn các bài tập đàn, và cô cũng chơi đàn trong những buổi hội họp của các gia đình, lên tám tuổi, cánh tay phải mềm dẻo uốn cong thật đáng yêu quanh cần đàn bóng loáng. Một tối nọ, đến mục trao vật làm “tin”, tặng vật theo phong tục của chàng trai dành cho cô gái, tượng trưng cho mối quan hệ mới. Trong trường hợp nầy, đấy là một chiếc đồng hồ đeo tay hột xoàn. Món quà đã được bố mẹ tôi chọn đi chọn lại, còn đối với tôi, việc phải băng ngang qua gian phòng để đi đến chỗ các bà các cô đang ngồi và đeo chiếc đồng hồ vào tay Rose thật là một việc “chết người”. Trong sự im lặng đột ngột, với mọi cặp mắt đều đổ dồn vào tôi, các ngón tay tôi tự nhiên cứng đờ như gỗ. Trước nhất tôi không thể nào làm cho chiếc móc tí hon bung ra được, kế đến tôi không làm sao gài lại được. Tôi nghĩ đến các chiếc máy kéo nặng nề ở nhà kho mà tôi thường tháo rời các bộ phận máy móc và gắn lại không mất đến lần thứ hai. Cuối